Giới thiệu
Phật ở nơi nao? Giữa chốn đồng không mông quạnh cỏ cây tàn tạ, một ngọn cỏ xanh non là Phật; giữa đêm tuyết im lìm không tiếng động, một chậu than hồng là Phật; giữa sông bể mênh mang vô bờ, một chiếc thuyền con là Phật; giữa sắc màu đan xen rối rắm, đơn sơ là Phật; giữa ngày tháng loạn lạc huyên náo, bình an là Phật. Gặp Phật khi nào? Trong năm tháng đợi chờ hoa nở, giữa phù hoa giữ sự đơn thuần, trong phồn tạp tĩnh tâm dưỡng tính, sẽ có thể gặp Phật.
Phật ở nơi nao? Giữa chốn đồng không mông quạnh cỏ cây tàn tạ, một ngọn cỏ xanh non là Phật; giữa đêm tuyết im lìm không tiếng động, một chậu than hồng là Phật; giữa sông bể mênh mang vô bờ, một chiếc thuyền con là Phật; giữa sắc màu đan xen rối rắm, đơn sơ là Phật; giữa ngày tháng loạn lạc huyên náo, bình an là Phật. Gặp Phật khi nào? Trong năm tháng đợi chờ hoa nở, giữa phù hoa giữ sự đơn thuần, trong phồn tạp tĩnh tâm dưỡng tính, sẽ có thể gặp Phật.
“Mỗi con người đếu có một
toà thành thuộc về chính mình, cho dù toà thành đó rộng lớn hay nhỏ hẹp, phồn
hoa hay lạnh lẽo. Chỉ cần trong thành có một người, một đoạn ký ức, một khoảng
không gian mà mình nhung nhớ, thì đều nguyện một đời ở lại nơi đó.”
“Trà, bắt nguồn từ tự nhiên, trải tinh hoa năm tháng, tắm thử thách xuân thu, từ đó mà có linh tính như phách hồn non nước. Trà có thể dùng để gột bỏ bụi trần, gạn lọc tâm tình, kết nối thiện duyên. Cho nên, người biết cách thưởng trà, cũng là một người tình nguyện để bản thân sống một cách giản đơn và thuần khiết.”
Lời nói đầu
Năm tháng tĩnh lặng, kiếp này bình yên.
Phong cảnh tươi đẹp dường như luôn ở phía xa. Thế nên, có bao người lựa chọn giữa mùa này an nhiên dạo bước ngắm cảnh hoa nở, lên thuyền thưởng ngoạn hồ nước sóng xuân? Dọc đường phong trần, để kịp ước hẹn với thời gian, có người sẽ gói ghém áng mây nhàn nhã vào tay nải, có người lại đặt nặng nơi đầu vai. Họ đều đang tìm kiếm chốn cố hương thuộc về tâm hồn đó, nhưng trong lúc vội vã, lại quên đi đường đến, lạc mất đường về.
Thưở niên thiếu ấy, một lòng chỉ muốn rời khỏi cây cầu đá của làng quê sông nước, từ đây làm một lữ khách dạo bước nơi góc bể chân trời. Sau này thực sự ra ngoài rồi, kinh qua gió mưa, lặn lội xuân thu, cũng đã ngắm hết núi sông tươi đẹp, thì trái tim non nớt thuở nào đã bị năm tháng mài mòn, cũng trải qua biết bao tình cảnh, bao tâm trạng thê lương. Có lẽ cũng từng nảy sinh tình cảm với non sông cây cỏ, ấp ủ dệt câu chuyện cùng vạn vật muôn loài, nhưng đến phút cuối cùng, rốt cuộc vẫn chỉ là những người lạ vô tình lướt qua nhau, người đến tôi đi, ai yên mệnh nấy…
Có một ngày, tôi chèo con thuyền mỏi mệt quay về, tự nói với chính mình, không cần giả bộ trẻ trung, chờ đợi một cuộc tương phùng lê hoa trắng tựa tuyết. Quên mất rất nhiều lời đã từng thề ước, nói với người đã từng nắm tay đồng hành rằng, cùng nhau an nhiên tự tại, chớ nên buồn bã sầu lo. Và sau đó, bình yên sống trong căn nhà cũ nhỏ xinh, ngồi dưới khung cửa sổ an nhàn, lấy nước xuân hãm một bình trà mới, ngâm hết thảy những thế sự tháng năm trong đó. Rồi sau lại tin rằng, uống cạn ly trà này, một cuộc sống mới sẽ lại bắt đầu từ đây.
Dưới ánh nắng mặt trời, cược sách [1] pha trà, ngồi lặng nghỉ ngơi. Thi thoảng có khách lữ hành đi ngang qua hiên nhà, chỉ để mượn cớ hỏi một câu: Hoa mai bên đường đã nở hay chưa? Dương liễu ven hồ còn xanh chứ? Dưới tường xanh ngói đỏ, cuộc gặp gỡ ngắn ngủi này lại trở thành một phong cảnh tao nhã. Thời gian có hạn, lại khiến tôi nhớ mãi sự tiêu diêu tự tại của một người khách qua đường. Khoảnh khắc quay người, vẫn có thể cảm nhận được sự luyến lưu thoảng qua trong ánh mắt của đôi bên.
[1] Nguyên văn “Đổ thư bát trà”: Vợ chồng Lý Thanh Chiểu và Triệu Minh Thành đều thích đọc sách sưu tầm sách, Lý Thanh Chiểu có trí nhớ hơn người, cho nên mỗi lần ăn cơm xong, cùng nhau đun trà, lại dùng phương thức thi đấu để quyết định ai là người uống trà trước, một người hỏi điển cố nào đó lấy từ trong sách nào, quyển mấy, trang mấy, dòng thứ mấy, đối phương đáp trúng thì được uống nước, nhưng người thắng luôn vì quá vui, làm rớt nước trà lên người. Vì thế trở thành một giai thoại đẹp, dùng để hình dung tình cảm vợ chồng hoà thuận, coi nhau như khách.
Sau này, cuối cùng tôi cũng hiểu, hoá ra tôi mãi cho rằng mình quay lại cố hương, nhưng không phải, thực tế đôi bàn chân này vẫn luôn hướng về phía trước. Điểm cuối của đời người, không phải là khi đi đến tận cùng non nước, cũng không phải sau khi kết thúc sinh mạng, mà là khoảnh khắc trút bỏ hành trang đó. Khi bạn thực sự trút bỏ rồi, cho dù một đời lênh đênh phiêu bạt, cũng có thể nhạt như gió lành, tự tại yên ổn. Nếu như trong tim có trăng sáng, hà cớ phải sợ ảo ảnh thế gian? Hồng trần khói lửa, vẫn có thể lặng nhìn hoa rơi, thành thơi ngắm mây trắng đấy thôi.
Dường như đã đi rất lâu, phong cách vốn xa xôi, giờ rõ ràng có thể chạm tay là tới, lại chần chừ cất bước. Chỉ bởi hẹn ước khó cất thành lời, bởi bất cứ sự chờ đợi nào đều thúc giục con người già đi, già đi nhanh hơn cả năm tháng. Những con người vội vã lướt qua nhau, đến như gió, đi như gió, vì vậy càng nên trân trọng. Thế gian phong cảnh muôn vàn, tôi chỉ nguyện, mỗi người đều có thể bước vào cuộc đời của chính mình. Một ngày nào đó, dù là người rẽ lối, dù là người không còn trong tầm mắt tôi, tôi chỉ mong rằng con đường đó luôn suôn sẻ.
Thời gian rất ngắn, chân trời rất xa. Mỗi non mỗi nước, mỗi sớm mỗi chiều về sau, hãy tự mình yên lặng đi hết. Nếu như không cẩn thận lạc đường, rơi xuống nước, cũng nên nhớ rằng, có một dòng chảy, gọi là trùng sinh. Thế gian này, bất cứ nơi nào, đều có sự sống, bất cứ điểm đến nào, đều có thể là chốn về.
Vậy thì, đừng đến tìm tôi, tôi cũng không đi tìm bạn. Giữ cho thời gian còn lại, năm tháng tĩnh lặng, kiếp này bình yên.
Bạch Lạc Mai
Thái Hồ, tháng Ba năm 2012
“Trà, bắt nguồn từ tự nhiên, trải tinh hoa năm tháng, tắm thử thách xuân thu, từ đó mà có linh tính như phách hồn non nước. Trà có thể dùng để gột bỏ bụi trần, gạn lọc tâm tình, kết nối thiện duyên. Cho nên, người biết cách thưởng trà, cũng là một người tình nguyện để bản thân sống một cách giản đơn và thuần khiết.”
Lời nói đầu
Năm tháng tĩnh lặng, kiếp này bình yên.
Phong cảnh tươi đẹp dường như luôn ở phía xa. Thế nên, có bao người lựa chọn giữa mùa này an nhiên dạo bước ngắm cảnh hoa nở, lên thuyền thưởng ngoạn hồ nước sóng xuân? Dọc đường phong trần, để kịp ước hẹn với thời gian, có người sẽ gói ghém áng mây nhàn nhã vào tay nải, có người lại đặt nặng nơi đầu vai. Họ đều đang tìm kiếm chốn cố hương thuộc về tâm hồn đó, nhưng trong lúc vội vã, lại quên đi đường đến, lạc mất đường về.
Thưở niên thiếu ấy, một lòng chỉ muốn rời khỏi cây cầu đá của làng quê sông nước, từ đây làm một lữ khách dạo bước nơi góc bể chân trời. Sau này thực sự ra ngoài rồi, kinh qua gió mưa, lặn lội xuân thu, cũng đã ngắm hết núi sông tươi đẹp, thì trái tim non nớt thuở nào đã bị năm tháng mài mòn, cũng trải qua biết bao tình cảnh, bao tâm trạng thê lương. Có lẽ cũng từng nảy sinh tình cảm với non sông cây cỏ, ấp ủ dệt câu chuyện cùng vạn vật muôn loài, nhưng đến phút cuối cùng, rốt cuộc vẫn chỉ là những người lạ vô tình lướt qua nhau, người đến tôi đi, ai yên mệnh nấy…
Có một ngày, tôi chèo con thuyền mỏi mệt quay về, tự nói với chính mình, không cần giả bộ trẻ trung, chờ đợi một cuộc tương phùng lê hoa trắng tựa tuyết. Quên mất rất nhiều lời đã từng thề ước, nói với người đã từng nắm tay đồng hành rằng, cùng nhau an nhiên tự tại, chớ nên buồn bã sầu lo. Và sau đó, bình yên sống trong căn nhà cũ nhỏ xinh, ngồi dưới khung cửa sổ an nhàn, lấy nước xuân hãm một bình trà mới, ngâm hết thảy những thế sự tháng năm trong đó. Rồi sau lại tin rằng, uống cạn ly trà này, một cuộc sống mới sẽ lại bắt đầu từ đây.
Dưới ánh nắng mặt trời, cược sách [1] pha trà, ngồi lặng nghỉ ngơi. Thi thoảng có khách lữ hành đi ngang qua hiên nhà, chỉ để mượn cớ hỏi một câu: Hoa mai bên đường đã nở hay chưa? Dương liễu ven hồ còn xanh chứ? Dưới tường xanh ngói đỏ, cuộc gặp gỡ ngắn ngủi này lại trở thành một phong cảnh tao nhã. Thời gian có hạn, lại khiến tôi nhớ mãi sự tiêu diêu tự tại của một người khách qua đường. Khoảnh khắc quay người, vẫn có thể cảm nhận được sự luyến lưu thoảng qua trong ánh mắt của đôi bên.
[1] Nguyên văn “Đổ thư bát trà”: Vợ chồng Lý Thanh Chiểu và Triệu Minh Thành đều thích đọc sách sưu tầm sách, Lý Thanh Chiểu có trí nhớ hơn người, cho nên mỗi lần ăn cơm xong, cùng nhau đun trà, lại dùng phương thức thi đấu để quyết định ai là người uống trà trước, một người hỏi điển cố nào đó lấy từ trong sách nào, quyển mấy, trang mấy, dòng thứ mấy, đối phương đáp trúng thì được uống nước, nhưng người thắng luôn vì quá vui, làm rớt nước trà lên người. Vì thế trở thành một giai thoại đẹp, dùng để hình dung tình cảm vợ chồng hoà thuận, coi nhau như khách.
Sau này, cuối cùng tôi cũng hiểu, hoá ra tôi mãi cho rằng mình quay lại cố hương, nhưng không phải, thực tế đôi bàn chân này vẫn luôn hướng về phía trước. Điểm cuối của đời người, không phải là khi đi đến tận cùng non nước, cũng không phải sau khi kết thúc sinh mạng, mà là khoảnh khắc trút bỏ hành trang đó. Khi bạn thực sự trút bỏ rồi, cho dù một đời lênh đênh phiêu bạt, cũng có thể nhạt như gió lành, tự tại yên ổn. Nếu như trong tim có trăng sáng, hà cớ phải sợ ảo ảnh thế gian? Hồng trần khói lửa, vẫn có thể lặng nhìn hoa rơi, thành thơi ngắm mây trắng đấy thôi.
Dường như đã đi rất lâu, phong cách vốn xa xôi, giờ rõ ràng có thể chạm tay là tới, lại chần chừ cất bước. Chỉ bởi hẹn ước khó cất thành lời, bởi bất cứ sự chờ đợi nào đều thúc giục con người già đi, già đi nhanh hơn cả năm tháng. Những con người vội vã lướt qua nhau, đến như gió, đi như gió, vì vậy càng nên trân trọng. Thế gian phong cảnh muôn vàn, tôi chỉ nguyện, mỗi người đều có thể bước vào cuộc đời của chính mình. Một ngày nào đó, dù là người rẽ lối, dù là người không còn trong tầm mắt tôi, tôi chỉ mong rằng con đường đó luôn suôn sẻ.
Thời gian rất ngắn, chân trời rất xa. Mỗi non mỗi nước, mỗi sớm mỗi chiều về sau, hãy tự mình yên lặng đi hết. Nếu như không cẩn thận lạc đường, rơi xuống nước, cũng nên nhớ rằng, có một dòng chảy, gọi là trùng sinh. Thế gian này, bất cứ nơi nào, đều có sự sống, bất cứ điểm đến nào, đều có thể là chốn về.
Vậy thì, đừng đến tìm tôi, tôi cũng không đi tìm bạn. Giữ cho thời gian còn lại, năm tháng tĩnh lặng, kiếp này bình yên.
Bạch Lạc Mai
Thái Hồ, tháng Ba năm 2012
Quyển thứ nhất: Hoa nở gặp Phật
Hoa nở gặp Phật. Phật ở nơi nao? Giữa chốn đồng không mông quạnh cỏ cây tàn tạ, một ngọn cỏ xanh non là Phật, giữa đêm tuyết im lìm không một tiếng động, một chậu than hồng là Phật; giữa sông bể mênh mang vô bờ, một chiếc thuyền con là Phật; giữa sắc màu đan xen rối rắm, đơn sơ là Phật; giữa tháng ngày loạn lạc huyên náo, bình an là Phật. Gặp Phật khi nào? Trong năm tháng đợi chờ hoa nở, giữa phù hoa giữ sự đơn thuần, trong phồn tạp tĩnh tâm dưỡng tính, sẽ có thể gặp Phật.
Nhân sinh như một bình thiền trà
Sau này mới biết, trong lòng chúng sinh, trà có mùi vị khác nhau. Thứ trà mới dùng nước tinh khiết đun sôi trong bình đó, quẩn quanh giữa răng và môi của trà khách, uống xong, có người cảm thấy đắng như sinh mệnh, cũng có người thấy nhạt như gió lành.
Trà có đậm có nhạt, có nóng có lạnh, có buồn cũng có vui. Dùng một trái tim trần tục để thưởng trà, khó tránh khỏi chỉ chăm chăm vào sắc, hương, vị, mà thiếu đi một phần thanh đạm và chất phác. Trà có ngàn vạn vị, thậm chí hoà lẫn với thế sự và cảm tình. Dùng một trái tim siêu thoát để thưởng trà, thì có thể ung dung tận hưởng sự tĩnh lặng tuyệt mỹ của mây bay ngang trời, của nước biếc không gợn sóng.
Trà, bắt nguồn từ tự nhiên, trải tinh hoa năm tháng, tắm thử thách xuân thu, từ đó mà có linh tính như phách hồn non nước. Trà có thể dùng để gột bỏ bụi trần, gạn lọc tâm tình, kết nối thiện duyên. Cho nên, người biết cách thưởng trà, cũng là một người tình nguyện để bản thân sống một cách giản đơn và thuần khiết. Hãy tin rằng, thiền là một cảnh ý, có những người dùng cả đời cũng không thể rũ bỏ chấp niệm, ngộ được bồ đề. Mà có những người chỉ dùng thời khắc của một ly trà, cũng có thể bước ra từ vạn điều hỗn tạp, trở nên tinh khiết như hoa sen.
Đời người có bảy nỗi khổ [1], chúng sinh lưu lạc trong nhân gian, nếm hết mọi đắng cay, đổi lấy vị ngọt ngào. Phồn hoa ba ngàn, nhưng cuối cùng đậu lại trần ai, giống như màn đêm trút bỏ lớp trang sức của ban ngày, trầm tĩnh mà yên ắng. Thời gian trôi qua như một cái búng tay, năm nào còn quan tâm được mất, tính toán bại thành, giờ đều đã thành khói mây qua mắt. Bất cứ khi nào, bờ bên kia đều chỉ cách một bước chân, lạc lối biết quay lại, trời sẽ quang đất lại rộng dưới chân mình.
[1] Bảy nỗi khổ của đời người theo quan niệm của nhà Phật là: Sinh, lão, bệnh, tử, oán hận mà phải ở cạnh nhau, yêu nhau mà phải ly biệt, cầu mà không được.
“Tâm kinh [2]” viết: “Vô quải ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng. Nhất thiết tuỳ duyên, nhất sinh tuỳ duyên, phương đắc tự tại.” (Tâm không uế chướng, nên không sợ hãi, vượt khỏi sai lầm. Tất cả tuỳ duyên, một đời tuỳ duyên, mới được tự tại) Một người ngoan cố níu giữ cả đời không buông, không thích hợp tu hành. Một người si mê nhân quả, cũng không thích hợp tu hành. Trà có Phật tính, giống như mây in bóng nước, vài chén trôi xuống ruột, đầu óc liền thảnh thơi. Cho nên người ta tu hành thường thích cả ngày chìm đắm trong trà, vứt bỏ tạp niệm, chứng ngộ tâm bồ đề.
[2] “Tâm kinh” tên đầy đủ là “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm kinh” hay còn gọi là “Bát Nhã Tâm kinh”, đây là kinh ngắn nhất chỉ có khoảng 260 chữ của Phật giáo Đại Thừa và Thiền tông.
Trời đất mênh mông, chúng ta như cọng cỏ. Không khiến bản thân kinh động thế giới, cũng không để thế giới kinh động bản thân. Khi con người chào đời, vốn chẳng có hành lý, cứ đi thêm một đoạn đường, lại mang thêm một tay nải. Mà chúng ta gói ghém thế tục thế nào, để có thể chuyển thành hành lý Thiền? Chỉ có dùng một trái tim thanh tịnh, nhìn ngàn vạn thế thái nhân tình, mới có thể xoá bỏ định kiến, vui vẻ an nhiên.
Trà có bốn đức, từ bi hỉ xả. Cái gọi là “Vân Thuỷ Thiền Tâm”, tức là trong một ly trà trong, thưởng được chân ý có sinh ắt có tử, có tụ ắt có tán, có tươi ắt có héo. Nên biết trong bi thương sẽ có hạnh phúc, trong mất ắt có được. Một người từ bi với chính mình, mới có thể từ bi với vạn vật.
Thời gian như nước, phẳng lặng là tươi đẹp. Ngày tháng như sen, bình dị là tao nhã. Thưởng trà cũng là tu Thiền, cho dù là hồng trần huyên náo hay núi non tĩnh lặng, đều có thể trở thành đạo trang tu hành. Khắc chế dục vọng, đánh đuổi phiền nhiễu, không bi quan, không trốn tránh, đó là một cách sống giản đơn. Tự tại an nhiên, cho dù là một trái tim chật hẹp, cũng có thể chuyên chở vạn vật khởi diệt [3].
[3] Khởi diệt: Thuật ngữ Phật giáo, chỉ nhân duyên hoà hợp mà sinh ra, và vì duyên hết mà tiêu diệt.
Tất cả tình duyên trên thế gian đều có số kiếp cả. Kẻ có tình chưa chắc có duyên, kẻ có duyên chưa chắc có tình. Tuỳ duyên là an, có thể ngộ đạo. Nước trà rửa tâm, tâm như gương sáng, một người chỉ cần nhìn rõ bản thân là có thể nhận biết thế giới vô thường. Khi ý loạn tình mê, đừng để đến lúc hoảng loạn. Tĩnh tâm ngồi Thiền, ngày mai sẽ như hẹn mà đến. Hoa xuân vẫn đẹp như xưa, trăng thu vẫn tròn như thế.
“Kinh Kim Cương [4]” viết: “Quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc.” (Tâm quá khứ không thể có, tâm hiện tại không thể có, tâm tương lai cũng không thể có) Chúng ta không nên vì một bi kịch định mệnh mà lựa chọn đau thương, nhưng cũng không thể vì sự việc viên mãn của tương lai mà bỏ việc tu hành. Thưởng trà, là để tu tâm, hiểu thấu thiền ý trong tịnh thuỷ không bụi trần để chúng ta không bị mê hoặc, tránh khỏi sự trôi dạt vô nghĩa kia, kịp thời đến bến bờ thanh tịnh.
[4] “Kinh Kim Cương”: tức “Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa kinh”, một bộ kinh quan trọng thuộc hệ Bát Nhã Ba La Mật Đa kinh, được lưu truyền rộng rãi ở vùng Đông Á.
Thưởng trà có thể khiến người ta tha thứ lỗi lầm, có được sự thanh thản trong mỗi ly trà. Đời người thực sự hoàn mỹ khi chừa lại khoảng trống, khoảng trống tức là “không minh” mà Phật gia nhắc tới. Nhân gian là một sân khấu thể hiện cái tôi tốt nhất, nếu như có một ngày kịch đến hồi kết, một khi đã siêu thoát, hãy buông bỏ tất cả, đừng như bị đẩy vào ngõ cụt. Phải tin rằng, khi không có lựa chon khác, sẽ có lựa chọn tốt nhất.
Vô pháp vô thường, duyên khởi tính không. Vạn vật vì duyên hoà hợp mà sinh, cũng vì duyên mà diệt. “Văn vân thu [5]” tức là lúc chim mỏi cánh quay về tổ. Phật nói bể khổ vô biên, quay đầu là bờ, mỗi một lần trở lại đều là quay đầu, mỗi một lần qua sông đều là chèo thuyền. Cho dù con đường phía trước có bao xa, xoá bỏ ngã chấp, sau đó ăn gió uống sương, biển trời mênh mông, đều là chốn về.
[5] Văn vân thu: Mây chiều ngưng lại.
Nước lặng chảy sâu, người đơn giản nội tâm thanh thản, càng dễ dàng thẩm thấu Thiền lý. Tu Phật cũng như thưởng trà, uống một ly trà từ đắng đến không có vị, đó là cảnh giới của Thiền. Đời người cũng nên bỏ phức tạp lấy giản đơn, nương theo thế sự, tâm trước sau như sen, yên tĩnh hé nở, lại giống như ngàn vạn khe suối, cuối cùng đều đổ về một dòng sông, róc rách trong vắt, giản dị yên bình.
Uống trà, cần một trái tim thanh đạm. Cho dù ở chốn phố chợ ngựa xe sầm uất cũng có thể cảm nhận được sự thanh nhã của gió xuân lướt qua tai, của nước thu gột bụi trần, của mây trôi ngoài cửa, của chim bay qua thềm. Hương khói xoay vòng, như có như không, giải nghĩa nhân sinh như hư như thực. Trên bàn, một chiếc mõ gỗ, vài quyển kinh thư nằm yên, còn có tràng hạt vương vãi, dưới ánh trăng nhàn nhạt, xa cách lạnh lẽo.
Mây gió thế gian biến ảo khôn lường. Phật gia chú trọng nhân quả luân hồi, cho dù là vật chuyển sao dời, cũng có một ngày đều khói tản mây tan, trở về cát bụi. Như trà, chất chứa tinh hồn của vạn vật, rót vào trong chén, trước sau một sắc, trong vắt thấu tỏ.
Siêu thoát không cần dũng khí và quyết tâm, mà cần thiện ý và thanh tĩnh. Ngày ngày những dòng chảy hối hả, vinh nhục phàm trần mà chúng ta nhìn thấy, kỳ thực đều chỉ là một vở kịch. Một nhà tu hành chỉ có đủ thiền định mới có thể bước ra khỏi con đường nhân sinh tù túng, ngắm mây tụ đồng xanh, nhạn đậu cát bằng.
Phật nói, buông bỏ chính là đạt được, tàn khuyết chính là viên mãn. Chúng ta thường dùng vô số thời gian mà vẫn không thể thuộc được kinh văn, đến khi ngộ đạo, lại có thể đọc lướt không quên. Rất nhiều người cho rằng Thiền tinh thâm uyên bác, kỳ thực nó tồn tại trong thời gian một lần đọc, trong mỗi ngày đi qua, trong mỗi giọt nước, trong mỗi đoá hoa, trong thế giới Ta Bà [6].
[6] Thế giới Ta Bà: Theo kinh điển Phật giáo thì các loài chúng sinh hữu tình hiện sinh luân hồi trong thế giới Ta Bà (Sa Bà, Samsara) hay còn gọi là Tam Giới: Cõi dục giới, Cõi sắc giới và Cõi vô sắc giới.
Thưởng trà, có thể dùng đồ gốm, tách sứ, chén ngọc, cũng có thể dùng chung tre, bát gỗ. Chúng sinh thưởng trà, đa phần là để xua đi thời gian rảnh rỗi, tịch liêu. Mùi vị hay sự nóng lạnh của trà dường như không quan trọng. Còn thiền trà mà tăng giả uống, cũng không cần lễ tiết, chỉ uống một cách thoải mái, mùi vị chính là vị Bát Nhã.
Thời gian lãng đãng, mây nước ngàn năm. Trà thành thói quen trong cuộc sống, thành một tri âm không thể thiếu của người tu hành, chỉ là bao nhiêu người có thể đem năm tháng sôi sục bất an, uống đến mức nước lặng không gợn sóng? Bao nhiêu người có thể đem thế tục vẩn đục u minh, uống đến trong vắt tinh khiết? Có lẽ chúng ta có thể lựa chọn một ngày bất kỳ, cho dù mưa nắng, không quản xuân thu, uống hết một bình thiền trà nhân sinh, quay về bản ngã, tìm lại chính mình thuở ban đầu.
Có lẽ sẽ có một ngày nào đó, tôi sẽ uống cạn một ly trà cuối cùng của hồng trần, rời bỏ ba ngàn thế giới, đổi lấy một đời bình an. Là lạc lối quay lại hay thiền định ngộ đạo cũng không quan trọng. Sau đó, núi lạnh đường mòn, cưỡi ngựa trắng mà đi, uống hết nước ngàn sông, thưởng Thiền trà ngắm mây gió nhẹ bay.
Mỗi bông hoa, mỗi chiếc lá đều liên quan đến Thiền
Cược sách pha trà, tựa lầu nghe mưa. Tháng ngày của Thiền luôn tĩnh lặng vô thanh như thế. Bên ngoài khung cửa gió chuyển mây vần, ngựa xe như nước, nội tâm lại an nhiên bình hoà, thanh khiết hư không. Đạm bạc như thế, không phải là xa cách trần thế, mà là giữa trần thế vẫn khiến bản thân thanh thản. Nhân sinh chính là một cuốn sách, chân lý được cất giấu trong mỗi sự việc bình thường. Trở về trạng thái ban đầu, tuỳ duyên mà an.
Hoa mai năm đó, không biết đã rụng dưới sân tường nhà ai, gạch xanh ngả màu, ngói đen đẫm ướt. Không biết từ khi nào, những người theo đuổi giấc mộng tuổi xuân, ngưỡng mộ gió Đường trăng Tống, bắt đầu cuộc sống chỉ cần một ấm trà, một quyển sách. Thời gian vẫn trôi như cũ, chỉ là người đi trong thời gian ấy, chần chừ không chịu sải bước. Những thế sự biến động chẳng yên đó, đã hoá thành nước trôi khói nhạt. Ngày hôm qua của trăng gió tình hoài, cũng chỉ là hào sảng trong giây lát.
Đối với thời gian, chúng ta không cần kinh sợ, nó đem đến sự sướng khổ cho chúng sinh, bản thân chúng ta cũng già đi trong sự vô tình. Trái tim của mỗi con người đều là một khung cửa sổ nho nhỏ, mở ra là tục thế khói lửa, đóng lại là mây nước Thiền Tâm. Có người có dũng khí thề nguyền cùng sinh cùng tử với hồng trần, có người lại quyết tĩnh toạ Thiền tâm không oán hận. Đi khắp vạn dặm non sông, bỗng nhiên quay đầu, chuyện ân thù hoan lạc trong giang hồ đã thành nhẹ như mây trôi gió thoảng.
Đã biết như thế, lại tranh giành thắng thua với thời gian một cách vô ích. Làm một người chất phác giản đơn, để cho tâm sáng thấu triệt. Phật nói: “Chớ làm điều ác, hãy làm điều lành, giữ tâm trong sạch, đây là lời chư Phật dạy.” Nhìn thì đơn giản, nhưng để làm một người lương thiện, một người thuần khiết, lại chính là tu vi lớn nhất của đời này. Bước đi trong hồng trần cuồn cuộn sóng gió, có được mấy người đạt cảnh giới tột cùng như thế? Thanh tịnh tâm ý, là Thiền ý cao thâm nhất. Sở dĩ phiền não của chúng sinh không dứt, là vì tâm bị phù vân vọng niệm che khuất, không thể sáng rõ. Làm thế nào để quét sạch trần ai, để tâm tinh khiết như hoa lê trong tuyết, sáng rõ như trăng tỏ giữa trời quang, thì lại phụ thuộc vào tu vi, vào mầm thiện trong mỗi người. Có lúc, chỉ một sát na [7], vọng niệm tiêu tan, giác ngộ thành Phật.
[7] Sát na là thuật ngữ nhà Phật hay sử dụng, chỉ đơn vị ngắn nhất của thời gian; hay nói cách khác, sát na chỉ thời gian chớp nhoáng của mỗi biến đổi. Một ngày hai mươi tư giờ được tính bằng sáu ngán bốn trăm tỷ, chín vạn, chín ngàn, chín trăm tám mươi sát na.
“Hán thư [8]” viết: “Nước trong quá thì không có cá, người xét nét quá sẽ chẳng có bạn bè.” Cái gọi là “vật cực tất phản”, mạnh mẽ quá sẽ chuốc nhục, cũng là như thế. Ngọc đẹp vẫn còn có vết, người há lại có kẻ hoàn mỹ sao? Chỉ cần lòng độ lượng bao dung, lòng kiên nhẫn, đó chính là phẩm chất tốt đẹp. Nhưng trên thế gian này có một dòng sông mang tên Thiền, cho dù qua bao nhiêu năm tháng, trước sau vẫn trong vắt đến mức nhìn thấy đáy, mà chúng sinh lại như tảng đá bắc qua sông, có thể yên ổn dưới lòng nước.
[8] “Hán thư”: còn gọi là “Tiền Hán thư”, do sứ gia thời Đông Hán là Ban Cổ biên soạn, là bộ sử đoạn đại thế kỳ truyện đầu tiên của Trung Quốc, một trong “nhị thập tứ sử”.
Hoan lạc chốn nhân gian như giấc mộng không dấu vết. Vì đã mệt mỏi vãng lai giữa phàm trần, cho nên càng nhiều người nguyện làm một loài cây bình thường, cho dù nhỏ nhoi, nhưng lại được sống cuộc sống giản đơn, chất phác hơn loài người. Chỉ muốn yên ổn, tĩnh lặng cho qua ngày, không để tâm đến duyên kiếp khi xưa hay quả báo sau này. Trong con mắt của Phật, một ngọn cỏ, một nhành cây đều có tình, một bông hoa, một phiến lá hết thảy đều liên quan đến Thiền niệm. Những nơi Phật đã đi qua, cho dù là nơi sơn cùng thuỷ tận, cỏ cây tuyệt diệt, nhưng vì có sự hiện diện của Phật mà đều có Thiền ý, đều có từ bi.
Có người hỏi, chặng đường tu Phật rốt cuộc xa đến nhường nào? Cần tiêu phí bao nhiêu thời gian? Phật Đà tu hành hằng trăm hằng nghìn năm, trải qua ngàn vạn kiếp số, ở bờ bên kia Phật quốc, vì chúng sinh trồng hoa sen khắp nơi. Mà chúng ta chỉ vì muốn rũ bỏ nghiệp chướng, sân si, tìm một con thuyền vượt sông, để có thể lên bờ. Phật độ người hữu duyên, quá trình này, có lẽ là một sát na, cũng có thể là cả một đời. Con thuyền vượt sông đó là gì? Là một con nhện trước thềm điện Phật, là một làn gió thơm ở hành lang tự viên, là một ngọn rong trên ao phóng sinh, hoặc là một hạt bụi thấp thoáng lưng trời.
Phật nói: “Nguyện giải thoát vô số chúng sinh, nguyện đoạn tuyệt vô số phiền não, nguyện tu học Phật pháp nhiều vô lượng, nguyện chứng đắc bồ đề vô thượng [9].” Con mắt thanh tịnh nhìn thấu cõi đời, gió cuộn mây vần, cá rồng lẫn lộn, duy chỉ có tâm linh là mảnh đất lành. Tâm yên sẽ không bị thế sự làm kinh hãi, quấy rầy. Phật để chúng sinh sống tạm nơi hồng trần mênh mang, hồng trần tức là đạo tràng, ở đây, chúng ta phải học được cách gặp sao vui vậy. Mù quáng chạy trốn sẽ chỉ đẩy chúng ta rơi vào cảnh khốn cùng hơn nữa mà thôi. Tâm loạn, dù mặc sức đi trên con đường lớn, cũng chỉ như đang đi giữa nơi chật hẹp bí bách. Tâm an, cho dù là nhà cũ giếng cạn, cũng vẫn như bay giữa trời cao vời vợi.
[9] Là bốn câu “Tứ hoằng thệ nguyện độ” – bốn lời thề nguyền của những người tu hành theo Bồ tát đạo thuộc về các tông phái Đại thừa, tuy nhiên ở phiên bản này có sự khác biệt ở câu thứ tư, là “Bồ đề vô thượng thệ nguyện chứng” thay vì “Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành” như thường thấy.
Hoa nở gặp Phật. Phật ở nơi nào? Giữa chốn đồng không mông quạnh cỏ cây tàn tạ, một ngọn cỏ xanh non là Phật; giữa đêm tuyết im lìm không tiếng động, một chậu than hồng là Phật; giữa sông bể mênh mang vô bờ, một chiếc thuyền con là Phật; giữa sắc màu đan xen rối rắm, đơn sơ là Phật; giữa ngày tháng loạn lạc huyên háo, bình an là Phật. Gặp Phật khi nào? Trong năm tháng đợi chờ hoa nở, giữa phù hoa giữ sự đơn thuần, trong phồn tạp tĩnh tâm dưỡng tính, sẽ có thể gặp Phật.
Phật luôn hiện hữu, độ hoá, quan tâm đến muôn vạn chúng sinh. Như mẹ hiền chong đèn vá áo, đau đáu, dõi theo những đứa con đi xa; như danh tướng dõi trông sắc trời, nhớ nhung hồng nhan nơi quê cũ; như thôn phụ tựa cánh cửa gỗ, đợi chờ tiều phu trở về. Mà những thế nhân say đắm trong hồng trần đó, có thể buông bỏ hay không? Đứa con đi xa liệu có thể buông bỏ phong cảnh non xanh nước biếc? Danh tướng có thể buông bỏ sự nghiệp non sông để trở về? Tiều phu có thể buông bỏ cuộc sống rau cháo sinh nhai hay không? Chỉ có buông bỏ, mới có thể thành Phật.
Thiền tông thời Tống chia tu hành thành ba cảnh giới. Cảnh giới thứ nhất là “Lạc diệp mãn không sơn, hà xứ tầm phương tích” (Lá rụng đầy núi vắng, nơi nào tìm dấu thơm); cảnh giới thứ hai là “Không sơn vô nhân, thuý lưu hoa khai” (Núi trống không người, nước trôi hoa nở); cảnh giới thứ ba là “Vạn cổ trường không, nhất triều phong nguyệt” (vạn năm đằng đẵng, trăng gió mau trôi). Có lẽ chúng ta không cần hiểu thâm ý bên trong, chỉ biết cho dù thời gian có trôi qua bao lâu, Phật pháp sẽ trường tồn cùng trời đất. Chúng ta chỉ là một sinh linh thuộc về chính mình giữa vũ trụ vạn vật, yên tĩnh sinh trưởng, bình an qua ngày. Còn tu hành, thì trong những tháng ngày luân chuyển xuân hạ thu đông, tự khắc sẽ nhận được quả báo.
Thời gian vẫn vậy, chỉ tăng không giảm, cỏ cây vẫn xanh tốt như xưa, chỉ là chúng ta không còn trẻ nữa. Tháng năm đằng đẵng, mỗi chặng đường chúng ta đi qua luôn có cảm giác như từng quen biết, đó là vì các mùa trở lại, câu chuyện tái diễn, mà đời người cuối cùng cũng như vậy, chẳng có gì khác biệt. Rồi một ngày, thời gian sẽ thổi bay tất cả, tất cả hoài nghi, tất cả mê lầm, và tất cả bất an đều ẩn mình, cho đến khi không vương mảy may bụi trần. Mà những vò rượu cất ủ tồn tại theo tháng năm cũng sẽ được mở ra vào lúc thích hợp, vào một ngày trăng thanh gió mát, để tửu khách bình thản thưởng thức.
Ngọc thô tự nhiên cần được thời gian mài giũa. Đời người hoa lệ, cần Thiền tâm nuôi dưỡng. Hãy đem hoà tấu rộn ràng gửi vào tiếng trúc tiếng tơ; dùng khói lửa phàm trần đổi lấy một chén băng tâm trong bình ngọc. Tại thế gian vô thường, đối diện với ngày mai không thể đoán định, những gì ngày hôm nay có thể làm được, chính là tĩnh tâm ngồi Thiền, nuôi dưỡng tính tình. Để bản thân từ từ bước ra khỏi trần ai loạn thế, trở nên trong sạch tinh khôi. “Lục Tố đàn kinh [10]” viết: “Hết thảy chúng sinh, hết thảy cây cỏ, có tình vô tình, đều là tối tăm, trăm sông cùng chảy, đổ về biển lớn, hợp thành một thể.” Trên đá tam sinh có khắc ghi nhân quả, mỗi nhành hoa mỗi phiến lá đều liên quan đến Thiền. Chúng ta không cầu trăng sáng trong tay, không cầu hoa thơm đẫm áo, chỉ nguyện năm tháng giản đơn hạnh phúc, bình lặng thanh tịnh. Sẽ có một ngày, Phật duyên tới, ấy chính là đích đến.
[10] “Lục Tố đàn kinh”: Tên đầy đủ là “Lục Tổ đại sư pháp bảo đản kinh”, hay còn gọi là “Pháp bảo đàn kinh”, “Đàn kinh”, do Lục Tổ Huệ Năng thuyết giảng vào đời Đường, đệ tử là Pháp Hải sưu tầm chép lại, ngài Tông Bảo hiệu đính và ấn hành vào đời Nguyên, được xếp vào “Đại Chính Tạng”, tập 48.
Một khúc Vân Thuỷ tỏ Thiền Tâm
Thời khắc đẹp như nước trôi, hâm một bình ánh trăng, trong sân nhỏ sâu khuất, gẩy một khúc “Vân Thuỷ Thiền Tâm”. Những trần ai phiêu lãng của ban ngày, lúc này đã tiêu tán hết, khói mây thu lại, lãng quên sự đời. Son phấn hồng trần đều hạ màn, chim tước về hết chốn sơn lâm. Nước chảy im lìm, một chiếc thuyền nhỏ chèo ngang, thế giới hư ảo đã chìm nơi sóng biếc, không thể tìm được bóng dáng của những chuyện đã qua.
Mây trôi hờ hững, nước róc rách chảy, tiếng đàn tinh tang vô tình, khiến ta quên đi nhân tình thế thái, chỉ nghĩ tới sự trong sạch vô trần chốn đài thiêng. Sự linh hoạt kỳ ảo và véo von của âm nhạc Giang Nam mang đến cho người ta một vẻ đẹp và sự dịu êm mông lung bất định. Những ngày tháng đi khắp giang hồ, tiêu cầm bầu bạn đó đã sớm lùi xa. Đi sau những tháng năm phong trần, tuế nguyệt không còn dịu dàng nữa, chẳng mấy chốc, khách lạ về cố hương, thanh xuân đổi sang đầu bạc.
Vân là gì? Mây tự nhiên tự tại bay trong vạn dặm không trung, không dấu không vết, không chốn đi về, cùng với cảnh trí bốn mùa, biến ảo khó lường, sớm chiều đổi khác. Lúc rực rỡ diễm lệ như cầu vồng, lúc trắng muốt như tuyết, lúc dày đặc như sương mù, lúc lại tàn mát như khói. Tên của nó là Vân, ngạo nghễ trên bầu trời, trăm ngàn tư thế, vạn phong tình. Tuỳ duyên mà tụ, tuỳ duyên mà tan, một đời sáng rỡ, không hề có vết tích. Đến cũng như đi, đều không mang theo thứ gì, ba nghìn ảo cảnh, đều là mơ hồ.
Thuỷ là gì? Hướng thiện như nước, tự tại chảy trôi. Một đời của nước đều khiêm nhường, sáng tạo chúng sinh, nuôi dưỡng vạn vật. Không thấy hình của nó, nhưng lại nghe được âm của nó, biết được cốt của nó. Nước tuy yếu ớt, nhưng lại có cái mạnh mẽ của giọt nước xuyên đá tảng. Suối chảy róc rách, nhưng lại có cái khí thế trăm sông hội tụ. Sóng trong biêng biếc, nhưng lại sâu thẳm khó lường. Sóng cả ào ạt, nhưng lại có cái tinh tế uyển chuyển. Đây chính là nước, có thể rửa trôi vui buồn, cũng có thể xoá mọi phù hoa. Nó chảy qua ngày tháng, trang nhã ung dung, yên lặng vui vẻ, không cầu không ước.
Thiền tâm là gì? Thiền tâm là một bình trà trong dưới nắng chiều, là một cây bồ đề trong đồng nội xanh non, là một luồng sáng trong những tháng năm như nước, là một khúc nhạc nền trong vở kịch nhân sinh. Thiền tâm là giữa núi rừng hoang vắng nhặt nhạnh hết những cành cây lạnh lẽo khẳng khiu, là buông câu giữa trời tuyết bên bờ sông trên chiếc thuyền nho nhỏ; cũng là vội vã qua qua lại lại trên con đường nhân sinh, là nỗi niềm vui sướng ân oán hận thù trong giang hồ mưa gió. Trong lúc bạn toạ Thiền, tâm để ngoài trần thế. Trong lúc bạn ở trần thế, tâm vẫn có thể nhập Thiền.
Mỗi người duy chỉ có mài giũa hết sự sắc nhọn của bản thân, mới có thể thực sự tự tại bình thản. Khi đó, càng hiểu được cách bình tĩnh đối đãi với sự tụ tan ly hợp của đời người, đón nhận khổ nạn và tang thương mà năm tháng mang đến. Đã từng có những năm tháng rực rỡ, đến nay nhìn tưởng tịch liêu thưa vắng, lại có vài phần phong cốt, tăng thêm ý vị. Duy chỉ có như thế, mới có thể có được Thiền Tâm tỉnh táo và sáng suốt, dù khói mây biến ảo, nước trôi ào ào, cũng không thay đổi sắc màu non sông.
“Lục Tố đàn kinh” viết: “Con người ta bản tính trong sạch thanh tịnh, vạn pháp đều sinh ra từ tự tính [11]; nghĩ đến hết thảy việc ác, thì sẽ làm chuyện ác; nghĩ đến hết thảy việc thiện, thì sẽ làm điều thiện. Chư pháp như thế, đều từ trong tự tính, như trời luôn trong xanh, mặt trăng mặt trời luôn toả sáng, vì mây nối che khuất, mà trên sáng dưới tối, bỗng có gió thổi mây tan, trên dưới đều sáng tỏ, vạn tượng đều hiện rõ”.
[11] Tự tính (sa. Svabhãva, ja. Jishõ) chỉ cái tính nằm sau mọi hiện tượng, cái ngã. Theo quan điểm Đại Thừa, tất cả mọi sự đều không có tự tính (sa. Svabhãva), vô ngã, tức là không có một cái gì chắc thật, riêng biệt đứng đằng sau các trình hiện. Điều đó không có nghĩa sự vật không có thật, chúng hiện diện nhưng chúng chỉ là dạng xuất hiện của tính Không, tự tính là tính Không. Đây là quan điểm trung tâm của tư tưởng Bát Nhã Ba La Mật Đa (sa. Prãnàparamitã) và Trung quán (sa. Madhyamaka). Tuy nhiên, trong Thiền tông và các tông phái của Đại Thừa tại Trung Quốc, danh từ “tự tính” được dùng để chỉ cho bản thể thật sự của chúng sinh, vạn vật, đồng nghĩa với Phật tính (sa. Buddhatã, ja. Busshõ) và nên phân biệt nó với cái tiểu ngã mà Phật đã bác bỏ.
Mỗi một con người khi sinh ra đều lương thiện, chỉ vì nhập thế quá lâu, trải qua quá nhiều chuyện, tiếp xúc với quá nhiều người, mới không còn từ bi nữa. Đây là một quá trình từ lạ lẫm đến quen thuộc, từ đơn giản đến phức tạp, cũng là con đường mà đời người buộc phải đi qua. Có những người, vòng qua mấy ngã rẽ, lại gặp lại bản thân lúc ban đầu, lại nhặt về sự giản đơn và trong sáng của quá khứ. Có những người, trăm chuyển nghìn hối mới có thể giác ngộ tự nhận thức. Có lẽ đợi đến ngày nào đó, thế sự như gió nhẹ mây nhàn, chúng ta sẽ không cần làm rõ ràng từng giấc mộng cũ. Mà toàn bộ quá trình, chúng ta đã từng có được có mất, đã từng trải qua biết bao hợp ly ly hợp, cũng đã từng có nhiều điều thiện ác, đều không cần tính toán nữa. Bởi vì trước sau chúng ta vẫn đánh mất bản ngã chân thực của chính mình, có thể sống bình thản, thoải mái trong đất trời bao la, thì đó chính là dũng sĩ của năm tháng. Có thể trong một đêm tĩnh mịch, ngắm vầng trăng sáng xa xôi lưng trời, chính là sự từ bi thực sự.
Mộng ảo phù sinh, đều là bèo bọt, như sương như sét, như mây như khói. Ngày hôm qua gió ẩm bồ đề xanh, đêm nay sương nhuộm lá phong đỏ. Sinh mệnh chính là một cuộc viễn hành của loài hồng hạc, đợi đến khi sóng xuân lui xuống, đến ngày gió thu nổi lên, mới hiểu được phải quay về. Khi đó, bước qua hết vạn dặm giang sơn, thăm thú hết mọi miền quê đường dịch, sao lại không biết, sự thanh thản thực sự chính là từ bỏ tất cả, gặp đâu vui đó.
Giấc mộng Nam Kha [12], núi trống rừng già. Chốn đào nguyên mà muôn ngàn chúng sinh lao tâm khổ tứ đi tìm, hoá ra không phải ở non cảnh tiên bồng, mà là nằm trong nhân gian sắc màu sặc sỡ. Ở đây, hoa rơi nước chảy không thành tiếng, sớm lạnh trong khói có lờ mờ; ở đây, giữa rừng trúc chim hót véo von, chốn sơn tự tiếng chuông bảng lảng. Ba canh gió tuyết, đã có thể khiến núi xanh bạc đầu; một bàn cờ thế, đã có thể định rõ Hán Sở thắng thua; một chiếc thuyền nan, cũng đủ để đến được bờ bên kia của Thiền.
[12] Giấc mộng Nam Kha: bắt nguồn từ tiểu thuyết “Tiểu sứ Nam Kha thái thú” của tác giả Lý Công Tá đời Đường, kể về Thuần Vu Phần, say rượu nằm dưới gốc hoè, trong mơ Thuần đến nước Đại Hoè, giành ngôi trạng nguyên, được làm phò mã, rồi được cử làm thái thú đất Nam Kha. Rồi mấy chục năm trôi qua, xảy ra biến cố, Thuần Vu Phần bị nhà vua truất quyền cách chức, trở lại làm thường dân. Tỉnh mộng, thấy dưới gốc cây hoè có một tổ kiến, Thuần hiểu ra nước Đại Hoè chính là tổ kiến ở cây hoè. Về sau giấc mộng Nam Kha được ví đời người như giấc mơ, vinh hoa phú quý đều như mộng ảo.
Thế sự biết bao sóng gió, chìm nổi chỉ trong khoảnh khắc, một suy nghĩ. Người đi nghìn non xa, đêm nay chung trăng sáng. Có một nơi như thế, cho dù chúng ta đi bao xa, lạc lối bao lâu, lún sâu dường nào, đều đợi chờ tôi và bạn. Khi đó chính là chim mỏi về tổ, giữ mái nhà xưa yên ổn. Không thổ lộ tâm sự ly biệt với ngọn gió xuân, chỉ từ khung cửa sổ cao cao, lặng lẽ ngắm nhìn hoa tàn hoa nở trong sân. Nơi này, chính là bồ đề của tâm linh.
Đào kép vào vai, không phân trên hay dưới sân khấu. Mà Thiền già nhập thế, cũng không chia trong hay ngoài trần thế. Bởi vì họ đều đã tu luyện đến một cảnh giới nhất định, sớm đã không chịu tác động của gió mây bên ngoài. Bất cứ lúc nào đều là vai chính, cũng đều không phải vai chính. Họ có đủ định lực, giữ được toà thành thuộc về mình, không cần hứa hẹn, không cần thề thốt, vẫn có thể trường tồn cùng trời đất.
Câu chuyện sinh diệt, tình cảm lên xuống của nhân thế, vốn tương thông với sự tươi tốt khô héo của thiên nhiên. Trong từ của Vương Quốc Duy có một câu như thế này: “Quân khán kim niên thụ thương hoa, bất thị khứ niên chi thượng đoá.” (Bông hoa chàng thấy năm nay, nào phải đoá cũ cành này năm xưa) Chúng ta cho rằng hoa đã tàn, sẽ lại nở tiếp. Mà không biết, hoa nở trăm ngàn lần, nhưng đều không phải đoá hoa trước kia. Giống như một đời của cây cỏ, giống như một kiếp của con người. Cây cối xuân tươi thu héo, mà con người, khi tuổi tráng niên đã qua, sẽ không thể nào trở lại được nữa.
Tất cả chấp nhất đều chỉ là vọng niệm nhất thời, bước qua được, ảo tưởng tiêu tan, vĩnh viễn không phục hồi. Không bước qua được, hãy coi là kiếp số, trên con đường hồng trần gặp phải một lần trắc trở. Chỉ có trồng một cây bồ đề trong tâm, tự tính tự ngộ, đốn ngộ đốn tu, coi vô thường là bình thường, coi hữu tưởng là vô thường, mới có thể được giải thoát thực sự, giống như mây tự do trôi ngang trời.
Không ai biết cảnh giới của Thiền rốt cuộc là gì, cũng không biết phải tu luyện bằng phương pháp gì. Mỗi một người, chỉ cần trong tâm có thiện niệm, bớt đi ham muốn, tự mình có thể giảm phiền nhiễu, tâm sáng tỏ tường. “Lục Tổ đàn kinh” viết: “Tự tính mà ngộ thì chúng sinh là Phật, tự tính mà mê thì Phật là chúng sinh. Tự tính mà bình đẳng thì chúng sinh là Phật. Tự tính mà ác hiểm thì Phật là chúng sinh.” Phật duyên đã đến, thì điều kiện chín muồi, nước chảy thành sông. Khi đó, cỏ cây là Phật, núi đá là Phật, phàm phu là Phật, tục tử là Phật, vạn vật chúng sinh đều là Phật.
Hoa rơi đạm bạc, nước chảy lặng thinh. Trong những ngày tháng trong trẻo giản đơn, khi nói về tâm tính, ngồi trong rừng trúc sâu hun hút, thưởng thức tịnh trà lóng lánh ánh dương. Nhìn người con gái áo trắng hơn tuyết đó, hàng mi thanh tú, không hề phấn son, gẩy một cây Thất Huyền Lục Y [13], hát một khúc Vân Thuỷ Thiền Tâm, mặc cho lá trúc xào xạc, mây trắng nhởn nhơ, đi đi đến đến, tụ tụ tan tan.
[13] Thất Huyền Lục Y: là cổ cầm, Lục Y cầm là một cây đàn của văn nhân nổi tiếng đời Hán Tư Mã Tương Như. Tương truyền, đàn Lục Y có thân màu đen, loáng thoáng sắc màu xanh thẫm, giống như dây leo bám trên cổ thụ, vì thế có tên là Lục Y.
Vân Thuỷ Thiền Tâm [14]
[14] Thời Bắc Tống, có một cổ khúc tên là “Vân Thuỷ Thiền Tâm”. Trong khung cảnh núi đá, có một thiếu nữ, tên là Thiền Tâm. Nàng có ngộ tính cao, bẩm sinh thông tuệ, không lâu sau, có một đạo sĩ từ phương xa tới, đạo hiệu gọi là “Vân Thuỷ chân nhân”. Nói là mượn nhà của Thiền Tâm để ở, nhưng ở liền hơn một năm mà không có ý trả nhà. Ngày ngày trau dồi cầm nghệ với Thiền Tâm, đêm đến lại cùng ngắm trăng sao. Lâu ngày, có người nói lời đàm tiếu, không còn cách nào khác, Vân Thuỳ chân nhân và Thiền Tâm phải từ biệt. Thiền Tâm đưa tiễn hơn mười cảnh dương liễu tặng, Vân Thuỷ gảy một khúc cáo từ. Trong khúc nhạc. ngoài tâm hồn trong sáng cao vời, tư tưởng Phật gia không gì chướng ngại ra, còn là tâm tình hai bên thấu tỏ lẫn nhau, tình ý thân thiết không nỡ từ biệt. Từ đây khúc nhạc có tên “Vân Thuỷ Thiền Tâm”. Truyền thuyết nói rằng, sau này Thiền Tâm u uất mà chết, tuổi trẻ kết thúc sớm. Lúc bệnh nguy cấp, trên cây đàn thất huyền, nàng đã gẩy âm phù đầu tiên của khúc này.
“Không sơn điểu ngữ hề, nhân dữ bạch vân thê. Sàn sàn thanh tuyền trạc ngã tâm, đàm thâm ngư nhi hí. Phong xuy sơn lâm hề, nguyệt chiếu hoa ảnh di. Hồng trần như mộng tụ hựu ly, đa tình đa bi thích. Vọng nhất phiến u minh hề, ngã dữ nguyệt tương tích. Phủ nhất khúc dao tương ký, nan chiết tương tư ý. Ngã tâm như yên vân, đương không vũ trường tụ. Nhân tại thiên lý, hồn mộng thường tương y. Hồng nhan không tự hứa. Nam Kha nhất mộng tỉnh, không lão sơn lâm. Thính na thanh tuyền đinh đông đinh đông tự vô ý, ánh ngã trường dạ thanh tịch. (Tạm dịch: Ký gữi Thiền Tâm vào mây nước.
Núi vắng chim véo von hề, người và mây trắng nương tựa lẫn nhau,
Suối trong róc rách tẩy sạch tâm ta, bầy cá nô đùa dưới đầm sâu.
Gió thổi núi rừng hề, trăng chiếu bóng hoa lay,
Hồng trần như mộng hợp lại tan, đa tình lắm đau thương.
Gẩy một khúc đàn tặng người đi xa, khó tỏ hết nỗi lòng nhung nhớ,
Người xa ngàn dặm, hồn vấn vương, trong cõi mộng.
Uổng công tự xưng hồng nhan,
Giấc mộng Nam Kha khó tính, núi trống rừng già.
Nghe tiếng suối trong réo rắt như vô tình, soi tỏ mình ta tịch mịch giữa đêm thâu.)
Tất cả hữu tình đều sẽ trôi qua
Rất nhiều năm về trước, từng tưởng rằng Phật là vô tình. Bởi vì người xuất gia phải từ bỏ chấp niệm, cắt đứt trần duyên, mới có thể ở nơi núi non hẻo lánh, chẳng màng thế sự. Họ không còn qua lại với thế giới bên ngoài, thi thoảng có khách dâng hương, cũng chỉ là kết mối Phật duyên nhàn nhạt. Thế nên, họ chỉ có thể hấp thu linh khí trời đất trong vạn vật tự nhiên, cảm nhận nhân gian ấm lạnh trong năm tháng đổi dời. Vậy là, họ coi cây tùng già trên vách đá cheo leo là tri kỷ, coi cỏ xanh trên giếng cổ là tâm giao, coi con kiến trên thềm đá là bạn vong niên.
Sau này mới hay, Phật là nặng tình, lấy thân thử kiếp, mới có được tịnh thổ liên hoa của Phật quốc Thuỷ Thiên [15]. Phật ban phát tình yêu cho khắp chúng sinh, để những kẻ rơi vào lưới trần như tôi và bạn, có thêm một lựa chọn lương thiện, được giải thoát một cách yên lặng giữa khổ đau. Còn Phật, chưa bao giờ tham luyến phồn hoa khói lửa, luôn thanh đạm tự chủ, tĩnh toạ trên đài mây, ôn hoà an lành.
[15] Thuỷ Thiên Phật quốc: Thuỷ Thiên là tên của thiên thần, tiếng Phạn là Varuna, là một trong mười hai thiên Mật giáo, một trong Tám thiên hộ thế. Tức thần trấn giữ phương Tây, Phật quốc vừa là đất Phật, vừa chỉ chung chùa chiền. Ở đây Thuỳ Thiên Phật Quốc được hiểu là xứ Phật.
Tại sao Phật có thể buông bỏ oán tình cá nhân, bác ái hồng trần, mà thế nhân lại đắm chìm trong ái tình cỏn con của mình, luôn rơi vào cảnh ngộ không cách nào giải thoát nổi, là vì tu vi không đủ, hay là số mệnh đã định phải trải hết trần kiếp, mới có thể tránh được vòng luân hồi nhân quả? Đời đời kiếp kiếp, dòng Vong Xuyên của năm tháng chưa từng dừng lại mà vẫn hối hả đến và đi.
Nhân sinh hữu tình, cho nên mới có vương vấn, mới có phiền não. Phật nói, ngoái đầu nhìn nhau năm trăm lần mới đổi được cái lướt qua nhau của kiếp này. Cái gọi là duyên định ba kiếp, một vài cuộc gặp gỡ dường như đã được sắp xếp từ kiếp trước, cho nên, kiếp này tình vương không dứt. Phật khiến chúng sinh hiểu được thương tiếc duyên phận, trân trọng tình cảm, nhưng cũng khuyên răn chúng ta không nên mù quáng mê đắm, trên con đường năm tháng vô bờ, đánh mất bản chất chân thực của mình.
“Kinh Nghiêm Hoa [16]” viết: “Hết thảy chúng sinh đều có trí tuệ và đức tướng giống Như Lai, nhưng vì vọng tưởng và chấp trước, cho nên không thể chứng ngộ.” Không thể ung dung tự tại, là vì không thể dứt tình. Vì vậy mới gọi là bể khổ vô biên, quay đầu là bờ. Có tình là bể khổ, vô tình là bờ. Đại Thiên thế giới, mọi thứ đều là khổ, mà người ở ngoài cõi thế, coi mọi nỗi khổ thành niềm vui; coi hữu tình thành vô tình. Cho nên chúng ta luôn có thể cầu được yên tĩnh giữa chốn huyên náo; đạt được vui sướng giữa mọi niềm đau.
[16] “Kinh Ngiêm Hoa”: Tên đầy đủ là “Đại Phương Quảng Phật Nghiêm Hoa Kinh”, là một bộ kinh Đại Thiền, lập giáo lý căn bản của Nghiêm Hoa tông.
Trước khi buông bỏ, đều có một quá trình cố chấp. Quá trình này, có lẽ không phải là phượng hoàng Niết Bàn [17], nhưng cũng phải kinh qua vô số lần bãi biển hoá nương dâu. Trước khi Phật Đà A Nan xuất gia, từng gặp gỡ một thiếu nữ xinh đẹp trên đường, chỉ một lần như thế, từ đó mà đem lòng ngưỡng mộ lưu luyến không nguôi. Phật Tổ hỏi người: “Con thích cô gái đó đến nhường nào?” A Nan đáp: “Nguyện hoá thành cây cầu đá, chịu năm trăm năm gió thốc, năm trăm năm nắng đổ, năm trăm năm mưa sa, chỉ mong người con gái đó đi qua cầu.”
[17] Theo truyền thuyết, khi phượng hoàng Niết bàn, tức là phượng hoàng nhảy vào lửa đỏ, rồi tái sinh từ tro tàn.
Nặng tình đến thế, bây giờ chỉ có thể coi là một thần thoại. Yêu đến nhường nào mới có thể chịu đựng được thời gian dài đằng đẵng? Đừng nói là năm trăm năm, cho dù là ba năm hay năm năm cũng khó mà giữ được. Khi yêu, cam tâm tình nguyện tồn tại vì một người. Đến ngày hết yêu, lại hy vọng xoá bỏ mọi ký ức liên quan, toàn thân thanh tịnh.
Có lẽ rất nhiều người đều muốn biết, sau khi A Nan quy y cửa Phật, có còn nhớ lời thề ước ban đầu hay không? Đợi đến khi thiếu nữ xinh đẹp đó thành một bà lão tóc trắng phau phau, người còn tình sâu không đổi như cũ chứ? Người có lẽ có thể hoá thành cầu đá vì nàng, hóa thành non xanh nước biếc, hoá thân ngàn vạn lần, người cũng có thể thanh tịnh không vướng bận gì. Nếu như A Nan và thiếu nữ ấy kết một đoạn nhân duyên, liệu có thế trải qua ngày tháng thanh đạm sớm chiều bên nhau, giữ cho tình sâu ý nặng như ban đầu hay không?
Không có nếu như, cũng như chúng ta không cách gì có được kết quả chính xác từ một lời dự báo. Trong những ngày đánh mất tình yêu, năm tháng vẫn yên ổn như xưa, tuế nguyệt tĩnh mịch như thuở ban đầu. Nhưng những chuyện cũ tưởng chừng có thể lãng quên đó, lại không thế quên nổi dù chỉ là một chuyện, nhưng không thể tính toán, đành thuận theo tự nhiên. Thế sự rối rắm, bạn coi một vở kịch là thật, vậy thì tất cả thành thật. Bạn coi cuộc sống là giả, vậy thì tất cả đúng là giả. Thái độ sống của mỗi người khác nhau, cách thức đối đãi với tình cảm cũng mỗi người một vẻ. Phật dạy con người không nên có quá nhiều chấp niệm đối với tình yêu, nhưng Phật lại ban phát càng nhiều tình yêu cho chúng sinh, mà không cầu bất cứ đền đáp nào. Trên thế gian này luôn có những người phải đợi ngàn cành buồm qua hết, mới nhận ra phải quay đầu, phải đợi đến lúc chia ly thất tán, mới bắt đầu hiểu được trân trọng, đợi đến lúc vật còn người mất, mới bắt đầu nhớ nhung.
Ở cung Potala (Bố Đạt La) xa xôi, từng có một vị tình tăng như thế, ngài tên gọi là Thương Ương Gia Thố, được vạn dân sùng bái. Cho dù Thiền Tâm thanh tịnh, thấu suốt, nhưng vì tình cảm mà không thể tự chủ. Năm đó ngài đã từng viết câu thơ khắc cốt ghi tâm: “Thế gian an đắc song toàn pháp, bất phụ Như Lai bất phụ khanh.” (tạm dịch: Thế gian sao thể vẹn đôi đường, không phụ Như Lai chẳng phụ nàng) Ngài chính là một vị Phật nghiêm trang tĩnh toạ trên đài sen, phổ độ chúng sinh, mà trong lòng không thể quên được cuộc sống lứa đôi hạnh phúc.
Ở Tây Tạng, nơi thần bí cao thâm vời vợi, truyền thuyết về ngài như một bản tình ca, truyền đi hết thảy những nơi có cỏ cây, hồ nước. Rất nhiều người băng núi vượt sông đi tìm, đi lễ bái, không chỉ vì tín ngưỡng, mà nguyên nhân sâu xa hơn là vị tình tăng lãng mạn này đã đem đến sự thần kỳ và tươi đẹp như mộng ảo, khiến thế nhân tin rằng. ở vùng đất thần bí đó, hoa tình mọc khắp nơi, mỗi dòng sông, mỗi ngọn núi, mỗi chú dê nơi đó, đều được siêu độ.
Sau này lại có một vị tình tăng, người là chú nhạn cô lẻ giữa hồng trần, phiêu lãng nửa đời, nếm hết tình vị. Vị tăng già được tiên đoán số mệnh này, tên là Tô Mạn Thù. Cuộc đời của người, mấy lần trốn vào cửa Phật, nhưng trước sau chẳng quên nổi trần duyên. Khi người rời khỏi nhân gian, để lại tám chữ: Hết thảy hữu tình, đều không vương vấn. Nhưng người thực sự đã đốn ngộ, đã từ bỏ được chưa? Khi còn sống, người đã phụ biết bao hồng nhan, mỗi lần gây ra hoạ, lại quay người bỏ trốn. Không phải người vô tình, mà là thực sự không thể gánh vác trách nhiệm.
Chắc chắn còn rất nhiều vị tình tăng chúng ta đã biết, và cả những người chúng ta chưa biết, họ có phẩm chất như hoa sen, là một hạt cải giống trước Phật, lại là một đoá hoa sóng trong biển tình. Những người này cho dù là ngồi thiền trước Phật, hay là bôn tẩu nơi trần thế, sự tu hành của họ, đều là chữ Tình. Quỳ trên nệm bồ đoàn, dùng thời gian trăm nghìn năm, luân hồi mấy kiếp, đổi lấy nhân duyên một đời, hay một lần tương phùng. Đợi đến một ngày được như ý nguyện, là có thể triệt để cắt bỏ chấp niệm, tâm như pha lê, trong vắt như nước.
Phật nói: “Các hành đều vô thường, tất cả đều là khổ. Các pháp đều vô ngã, tịch diệt tức là vui [18].”[19] Trong quá trình tu luyện, không phải một lòng cố chấp vạch rõ giới hạn giữa bản thân với thế sự phồn tạp, mà là thân ở giữa khói lửa xoay vòng, vẫn có thể trong sáng như tuyết trắng năm xưa. Đi khắp sơn hà mênh mang, vạn vật phồn thịnh, ai vui nhân duyên thiên tính của người đó, ai cũng không thể thay thế được ai. Những con đường đã qua, những người đã gặp, những chuyện đã xảy ra, giống như nước sông dào dạt, không thể ngược dòng.
[18] Cùng với “Tịch tĩnh Niết Bàn là Tam pháp ẩn trong Phật giáo.
[19] Tức là diện mạo, chân tướng vốn có.
Rốt cuộc bạn còn cố chấp điều gì? Đã biết rõ, mỗi người đều là hạt bụi nhỏ nhoi giữa đất trời, có một ngày không biết sẽ về đâu. Phật Đà A Nan dù hoá thân thành cây cầu đá, chịu trăm ngàn năm gió thốc nắng đổ, há chẳng biết người thiếu nữ ấy đã chịu luân hồi cũng năm tháng hay không? Có lẽ nàng đã hoá thân thành bụi trần ở một kiếp nào đó, tan thành tro bụi, không hồn không phách. Có lẽ nàng hoá thành hoa sen ở một kiếp nào đó, tu thành chính quả trước Phật, cũng không cần chuyển thế đầu thai nữa.
Hết thảy hữu tình đều sẽ trôi qua. Trên ngả đường mây khói nghìn trùng, lời nào cũng không cần nói. Khi cáo biệt, cũng không cần ngoái nhìn. Sát na quay người, xin hãy khắc ghi quãng thời gian chúng ta đã từng đi qua đó.
Hoa nở gặp Phật. Phật ở nơi nao? Giữa chốn đồng không mông quạnh cỏ cây tàn tạ, một ngọn cỏ xanh non là Phật, giữa đêm tuyết im lìm không một tiếng động, một chậu than hồng là Phật; giữa sông bể mênh mang vô bờ, một chiếc thuyền con là Phật; giữa sắc màu đan xen rối rắm, đơn sơ là Phật; giữa tháng ngày loạn lạc huyên náo, bình an là Phật. Gặp Phật khi nào? Trong năm tháng đợi chờ hoa nở, giữa phù hoa giữ sự đơn thuần, trong phồn tạp tĩnh tâm dưỡng tính, sẽ có thể gặp Phật.
Nhân sinh như một bình thiền trà
Sau này mới biết, trong lòng chúng sinh, trà có mùi vị khác nhau. Thứ trà mới dùng nước tinh khiết đun sôi trong bình đó, quẩn quanh giữa răng và môi của trà khách, uống xong, có người cảm thấy đắng như sinh mệnh, cũng có người thấy nhạt như gió lành.
Trà có đậm có nhạt, có nóng có lạnh, có buồn cũng có vui. Dùng một trái tim trần tục để thưởng trà, khó tránh khỏi chỉ chăm chăm vào sắc, hương, vị, mà thiếu đi một phần thanh đạm và chất phác. Trà có ngàn vạn vị, thậm chí hoà lẫn với thế sự và cảm tình. Dùng một trái tim siêu thoát để thưởng trà, thì có thể ung dung tận hưởng sự tĩnh lặng tuyệt mỹ của mây bay ngang trời, của nước biếc không gợn sóng.
Trà, bắt nguồn từ tự nhiên, trải tinh hoa năm tháng, tắm thử thách xuân thu, từ đó mà có linh tính như phách hồn non nước. Trà có thể dùng để gột bỏ bụi trần, gạn lọc tâm tình, kết nối thiện duyên. Cho nên, người biết cách thưởng trà, cũng là một người tình nguyện để bản thân sống một cách giản đơn và thuần khiết. Hãy tin rằng, thiền là một cảnh ý, có những người dùng cả đời cũng không thể rũ bỏ chấp niệm, ngộ được bồ đề. Mà có những người chỉ dùng thời khắc của một ly trà, cũng có thể bước ra từ vạn điều hỗn tạp, trở nên tinh khiết như hoa sen.
Đời người có bảy nỗi khổ [1], chúng sinh lưu lạc trong nhân gian, nếm hết mọi đắng cay, đổi lấy vị ngọt ngào. Phồn hoa ba ngàn, nhưng cuối cùng đậu lại trần ai, giống như màn đêm trút bỏ lớp trang sức của ban ngày, trầm tĩnh mà yên ắng. Thời gian trôi qua như một cái búng tay, năm nào còn quan tâm được mất, tính toán bại thành, giờ đều đã thành khói mây qua mắt. Bất cứ khi nào, bờ bên kia đều chỉ cách một bước chân, lạc lối biết quay lại, trời sẽ quang đất lại rộng dưới chân mình.
[1] Bảy nỗi khổ của đời người theo quan niệm của nhà Phật là: Sinh, lão, bệnh, tử, oán hận mà phải ở cạnh nhau, yêu nhau mà phải ly biệt, cầu mà không được.
“Tâm kinh [2]” viết: “Vô quải ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng. Nhất thiết tuỳ duyên, nhất sinh tuỳ duyên, phương đắc tự tại.” (Tâm không uế chướng, nên không sợ hãi, vượt khỏi sai lầm. Tất cả tuỳ duyên, một đời tuỳ duyên, mới được tự tại) Một người ngoan cố níu giữ cả đời không buông, không thích hợp tu hành. Một người si mê nhân quả, cũng không thích hợp tu hành. Trà có Phật tính, giống như mây in bóng nước, vài chén trôi xuống ruột, đầu óc liền thảnh thơi. Cho nên người ta tu hành thường thích cả ngày chìm đắm trong trà, vứt bỏ tạp niệm, chứng ngộ tâm bồ đề.
[2] “Tâm kinh” tên đầy đủ là “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm kinh” hay còn gọi là “Bát Nhã Tâm kinh”, đây là kinh ngắn nhất chỉ có khoảng 260 chữ của Phật giáo Đại Thừa và Thiền tông.
Trời đất mênh mông, chúng ta như cọng cỏ. Không khiến bản thân kinh động thế giới, cũng không để thế giới kinh động bản thân. Khi con người chào đời, vốn chẳng có hành lý, cứ đi thêm một đoạn đường, lại mang thêm một tay nải. Mà chúng ta gói ghém thế tục thế nào, để có thể chuyển thành hành lý Thiền? Chỉ có dùng một trái tim thanh tịnh, nhìn ngàn vạn thế thái nhân tình, mới có thể xoá bỏ định kiến, vui vẻ an nhiên.
Trà có bốn đức, từ bi hỉ xả. Cái gọi là “Vân Thuỷ Thiền Tâm”, tức là trong một ly trà trong, thưởng được chân ý có sinh ắt có tử, có tụ ắt có tán, có tươi ắt có héo. Nên biết trong bi thương sẽ có hạnh phúc, trong mất ắt có được. Một người từ bi với chính mình, mới có thể từ bi với vạn vật.
Thời gian như nước, phẳng lặng là tươi đẹp. Ngày tháng như sen, bình dị là tao nhã. Thưởng trà cũng là tu Thiền, cho dù là hồng trần huyên náo hay núi non tĩnh lặng, đều có thể trở thành đạo trang tu hành. Khắc chế dục vọng, đánh đuổi phiền nhiễu, không bi quan, không trốn tránh, đó là một cách sống giản đơn. Tự tại an nhiên, cho dù là một trái tim chật hẹp, cũng có thể chuyên chở vạn vật khởi diệt [3].
[3] Khởi diệt: Thuật ngữ Phật giáo, chỉ nhân duyên hoà hợp mà sinh ra, và vì duyên hết mà tiêu diệt.
Tất cả tình duyên trên thế gian đều có số kiếp cả. Kẻ có tình chưa chắc có duyên, kẻ có duyên chưa chắc có tình. Tuỳ duyên là an, có thể ngộ đạo. Nước trà rửa tâm, tâm như gương sáng, một người chỉ cần nhìn rõ bản thân là có thể nhận biết thế giới vô thường. Khi ý loạn tình mê, đừng để đến lúc hoảng loạn. Tĩnh tâm ngồi Thiền, ngày mai sẽ như hẹn mà đến. Hoa xuân vẫn đẹp như xưa, trăng thu vẫn tròn như thế.
“Kinh Kim Cương [4]” viết: “Quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc.” (Tâm quá khứ không thể có, tâm hiện tại không thể có, tâm tương lai cũng không thể có) Chúng ta không nên vì một bi kịch định mệnh mà lựa chọn đau thương, nhưng cũng không thể vì sự việc viên mãn của tương lai mà bỏ việc tu hành. Thưởng trà, là để tu tâm, hiểu thấu thiền ý trong tịnh thuỷ không bụi trần để chúng ta không bị mê hoặc, tránh khỏi sự trôi dạt vô nghĩa kia, kịp thời đến bến bờ thanh tịnh.
[4] “Kinh Kim Cương”: tức “Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa kinh”, một bộ kinh quan trọng thuộc hệ Bát Nhã Ba La Mật Đa kinh, được lưu truyền rộng rãi ở vùng Đông Á.
Thưởng trà có thể khiến người ta tha thứ lỗi lầm, có được sự thanh thản trong mỗi ly trà. Đời người thực sự hoàn mỹ khi chừa lại khoảng trống, khoảng trống tức là “không minh” mà Phật gia nhắc tới. Nhân gian là một sân khấu thể hiện cái tôi tốt nhất, nếu như có một ngày kịch đến hồi kết, một khi đã siêu thoát, hãy buông bỏ tất cả, đừng như bị đẩy vào ngõ cụt. Phải tin rằng, khi không có lựa chon khác, sẽ có lựa chọn tốt nhất.
Vô pháp vô thường, duyên khởi tính không. Vạn vật vì duyên hoà hợp mà sinh, cũng vì duyên mà diệt. “Văn vân thu [5]” tức là lúc chim mỏi cánh quay về tổ. Phật nói bể khổ vô biên, quay đầu là bờ, mỗi một lần trở lại đều là quay đầu, mỗi một lần qua sông đều là chèo thuyền. Cho dù con đường phía trước có bao xa, xoá bỏ ngã chấp, sau đó ăn gió uống sương, biển trời mênh mông, đều là chốn về.
[5] Văn vân thu: Mây chiều ngưng lại.
Nước lặng chảy sâu, người đơn giản nội tâm thanh thản, càng dễ dàng thẩm thấu Thiền lý. Tu Phật cũng như thưởng trà, uống một ly trà từ đắng đến không có vị, đó là cảnh giới của Thiền. Đời người cũng nên bỏ phức tạp lấy giản đơn, nương theo thế sự, tâm trước sau như sen, yên tĩnh hé nở, lại giống như ngàn vạn khe suối, cuối cùng đều đổ về một dòng sông, róc rách trong vắt, giản dị yên bình.
Uống trà, cần một trái tim thanh đạm. Cho dù ở chốn phố chợ ngựa xe sầm uất cũng có thể cảm nhận được sự thanh nhã của gió xuân lướt qua tai, của nước thu gột bụi trần, của mây trôi ngoài cửa, của chim bay qua thềm. Hương khói xoay vòng, như có như không, giải nghĩa nhân sinh như hư như thực. Trên bàn, một chiếc mõ gỗ, vài quyển kinh thư nằm yên, còn có tràng hạt vương vãi, dưới ánh trăng nhàn nhạt, xa cách lạnh lẽo.
Mây gió thế gian biến ảo khôn lường. Phật gia chú trọng nhân quả luân hồi, cho dù là vật chuyển sao dời, cũng có một ngày đều khói tản mây tan, trở về cát bụi. Như trà, chất chứa tinh hồn của vạn vật, rót vào trong chén, trước sau một sắc, trong vắt thấu tỏ.
Siêu thoát không cần dũng khí và quyết tâm, mà cần thiện ý và thanh tĩnh. Ngày ngày những dòng chảy hối hả, vinh nhục phàm trần mà chúng ta nhìn thấy, kỳ thực đều chỉ là một vở kịch. Một nhà tu hành chỉ có đủ thiền định mới có thể bước ra khỏi con đường nhân sinh tù túng, ngắm mây tụ đồng xanh, nhạn đậu cát bằng.
Phật nói, buông bỏ chính là đạt được, tàn khuyết chính là viên mãn. Chúng ta thường dùng vô số thời gian mà vẫn không thể thuộc được kinh văn, đến khi ngộ đạo, lại có thể đọc lướt không quên. Rất nhiều người cho rằng Thiền tinh thâm uyên bác, kỳ thực nó tồn tại trong thời gian một lần đọc, trong mỗi ngày đi qua, trong mỗi giọt nước, trong mỗi đoá hoa, trong thế giới Ta Bà [6].
[6] Thế giới Ta Bà: Theo kinh điển Phật giáo thì các loài chúng sinh hữu tình hiện sinh luân hồi trong thế giới Ta Bà (Sa Bà, Samsara) hay còn gọi là Tam Giới: Cõi dục giới, Cõi sắc giới và Cõi vô sắc giới.
Thưởng trà, có thể dùng đồ gốm, tách sứ, chén ngọc, cũng có thể dùng chung tre, bát gỗ. Chúng sinh thưởng trà, đa phần là để xua đi thời gian rảnh rỗi, tịch liêu. Mùi vị hay sự nóng lạnh của trà dường như không quan trọng. Còn thiền trà mà tăng giả uống, cũng không cần lễ tiết, chỉ uống một cách thoải mái, mùi vị chính là vị Bát Nhã.
Thời gian lãng đãng, mây nước ngàn năm. Trà thành thói quen trong cuộc sống, thành một tri âm không thể thiếu của người tu hành, chỉ là bao nhiêu người có thể đem năm tháng sôi sục bất an, uống đến mức nước lặng không gợn sóng? Bao nhiêu người có thể đem thế tục vẩn đục u minh, uống đến trong vắt tinh khiết? Có lẽ chúng ta có thể lựa chọn một ngày bất kỳ, cho dù mưa nắng, không quản xuân thu, uống hết một bình thiền trà nhân sinh, quay về bản ngã, tìm lại chính mình thuở ban đầu.
Có lẽ sẽ có một ngày nào đó, tôi sẽ uống cạn một ly trà cuối cùng của hồng trần, rời bỏ ba ngàn thế giới, đổi lấy một đời bình an. Là lạc lối quay lại hay thiền định ngộ đạo cũng không quan trọng. Sau đó, núi lạnh đường mòn, cưỡi ngựa trắng mà đi, uống hết nước ngàn sông, thưởng Thiền trà ngắm mây gió nhẹ bay.
Mỗi bông hoa, mỗi chiếc lá đều liên quan đến Thiền
Cược sách pha trà, tựa lầu nghe mưa. Tháng ngày của Thiền luôn tĩnh lặng vô thanh như thế. Bên ngoài khung cửa gió chuyển mây vần, ngựa xe như nước, nội tâm lại an nhiên bình hoà, thanh khiết hư không. Đạm bạc như thế, không phải là xa cách trần thế, mà là giữa trần thế vẫn khiến bản thân thanh thản. Nhân sinh chính là một cuốn sách, chân lý được cất giấu trong mỗi sự việc bình thường. Trở về trạng thái ban đầu, tuỳ duyên mà an.
Hoa mai năm đó, không biết đã rụng dưới sân tường nhà ai, gạch xanh ngả màu, ngói đen đẫm ướt. Không biết từ khi nào, những người theo đuổi giấc mộng tuổi xuân, ngưỡng mộ gió Đường trăng Tống, bắt đầu cuộc sống chỉ cần một ấm trà, một quyển sách. Thời gian vẫn trôi như cũ, chỉ là người đi trong thời gian ấy, chần chừ không chịu sải bước. Những thế sự biến động chẳng yên đó, đã hoá thành nước trôi khói nhạt. Ngày hôm qua của trăng gió tình hoài, cũng chỉ là hào sảng trong giây lát.
Đối với thời gian, chúng ta không cần kinh sợ, nó đem đến sự sướng khổ cho chúng sinh, bản thân chúng ta cũng già đi trong sự vô tình. Trái tim của mỗi con người đều là một khung cửa sổ nho nhỏ, mở ra là tục thế khói lửa, đóng lại là mây nước Thiền Tâm. Có người có dũng khí thề nguyền cùng sinh cùng tử với hồng trần, có người lại quyết tĩnh toạ Thiền tâm không oán hận. Đi khắp vạn dặm non sông, bỗng nhiên quay đầu, chuyện ân thù hoan lạc trong giang hồ đã thành nhẹ như mây trôi gió thoảng.
Đã biết như thế, lại tranh giành thắng thua với thời gian một cách vô ích. Làm một người chất phác giản đơn, để cho tâm sáng thấu triệt. Phật nói: “Chớ làm điều ác, hãy làm điều lành, giữ tâm trong sạch, đây là lời chư Phật dạy.” Nhìn thì đơn giản, nhưng để làm một người lương thiện, một người thuần khiết, lại chính là tu vi lớn nhất của đời này. Bước đi trong hồng trần cuồn cuộn sóng gió, có được mấy người đạt cảnh giới tột cùng như thế? Thanh tịnh tâm ý, là Thiền ý cao thâm nhất. Sở dĩ phiền não của chúng sinh không dứt, là vì tâm bị phù vân vọng niệm che khuất, không thể sáng rõ. Làm thế nào để quét sạch trần ai, để tâm tinh khiết như hoa lê trong tuyết, sáng rõ như trăng tỏ giữa trời quang, thì lại phụ thuộc vào tu vi, vào mầm thiện trong mỗi người. Có lúc, chỉ một sát na [7], vọng niệm tiêu tan, giác ngộ thành Phật.
[7] Sát na là thuật ngữ nhà Phật hay sử dụng, chỉ đơn vị ngắn nhất của thời gian; hay nói cách khác, sát na chỉ thời gian chớp nhoáng của mỗi biến đổi. Một ngày hai mươi tư giờ được tính bằng sáu ngán bốn trăm tỷ, chín vạn, chín ngàn, chín trăm tám mươi sát na.
“Hán thư [8]” viết: “Nước trong quá thì không có cá, người xét nét quá sẽ chẳng có bạn bè.” Cái gọi là “vật cực tất phản”, mạnh mẽ quá sẽ chuốc nhục, cũng là như thế. Ngọc đẹp vẫn còn có vết, người há lại có kẻ hoàn mỹ sao? Chỉ cần lòng độ lượng bao dung, lòng kiên nhẫn, đó chính là phẩm chất tốt đẹp. Nhưng trên thế gian này có một dòng sông mang tên Thiền, cho dù qua bao nhiêu năm tháng, trước sau vẫn trong vắt đến mức nhìn thấy đáy, mà chúng sinh lại như tảng đá bắc qua sông, có thể yên ổn dưới lòng nước.
[8] “Hán thư”: còn gọi là “Tiền Hán thư”, do sứ gia thời Đông Hán là Ban Cổ biên soạn, là bộ sử đoạn đại thế kỳ truyện đầu tiên của Trung Quốc, một trong “nhị thập tứ sử”.
Hoan lạc chốn nhân gian như giấc mộng không dấu vết. Vì đã mệt mỏi vãng lai giữa phàm trần, cho nên càng nhiều người nguyện làm một loài cây bình thường, cho dù nhỏ nhoi, nhưng lại được sống cuộc sống giản đơn, chất phác hơn loài người. Chỉ muốn yên ổn, tĩnh lặng cho qua ngày, không để tâm đến duyên kiếp khi xưa hay quả báo sau này. Trong con mắt của Phật, một ngọn cỏ, một nhành cây đều có tình, một bông hoa, một phiến lá hết thảy đều liên quan đến Thiền niệm. Những nơi Phật đã đi qua, cho dù là nơi sơn cùng thuỷ tận, cỏ cây tuyệt diệt, nhưng vì có sự hiện diện của Phật mà đều có Thiền ý, đều có từ bi.
Có người hỏi, chặng đường tu Phật rốt cuộc xa đến nhường nào? Cần tiêu phí bao nhiêu thời gian? Phật Đà tu hành hằng trăm hằng nghìn năm, trải qua ngàn vạn kiếp số, ở bờ bên kia Phật quốc, vì chúng sinh trồng hoa sen khắp nơi. Mà chúng ta chỉ vì muốn rũ bỏ nghiệp chướng, sân si, tìm một con thuyền vượt sông, để có thể lên bờ. Phật độ người hữu duyên, quá trình này, có lẽ là một sát na, cũng có thể là cả một đời. Con thuyền vượt sông đó là gì? Là một con nhện trước thềm điện Phật, là một làn gió thơm ở hành lang tự viên, là một ngọn rong trên ao phóng sinh, hoặc là một hạt bụi thấp thoáng lưng trời.
Phật nói: “Nguyện giải thoát vô số chúng sinh, nguyện đoạn tuyệt vô số phiền não, nguyện tu học Phật pháp nhiều vô lượng, nguyện chứng đắc bồ đề vô thượng [9].” Con mắt thanh tịnh nhìn thấu cõi đời, gió cuộn mây vần, cá rồng lẫn lộn, duy chỉ có tâm linh là mảnh đất lành. Tâm yên sẽ không bị thế sự làm kinh hãi, quấy rầy. Phật để chúng sinh sống tạm nơi hồng trần mênh mang, hồng trần tức là đạo tràng, ở đây, chúng ta phải học được cách gặp sao vui vậy. Mù quáng chạy trốn sẽ chỉ đẩy chúng ta rơi vào cảnh khốn cùng hơn nữa mà thôi. Tâm loạn, dù mặc sức đi trên con đường lớn, cũng chỉ như đang đi giữa nơi chật hẹp bí bách. Tâm an, cho dù là nhà cũ giếng cạn, cũng vẫn như bay giữa trời cao vời vợi.
[9] Là bốn câu “Tứ hoằng thệ nguyện độ” – bốn lời thề nguyền của những người tu hành theo Bồ tát đạo thuộc về các tông phái Đại thừa, tuy nhiên ở phiên bản này có sự khác biệt ở câu thứ tư, là “Bồ đề vô thượng thệ nguyện chứng” thay vì “Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành” như thường thấy.
Hoa nở gặp Phật. Phật ở nơi nào? Giữa chốn đồng không mông quạnh cỏ cây tàn tạ, một ngọn cỏ xanh non là Phật; giữa đêm tuyết im lìm không tiếng động, một chậu than hồng là Phật; giữa sông bể mênh mang vô bờ, một chiếc thuyền con là Phật; giữa sắc màu đan xen rối rắm, đơn sơ là Phật; giữa ngày tháng loạn lạc huyên háo, bình an là Phật. Gặp Phật khi nào? Trong năm tháng đợi chờ hoa nở, giữa phù hoa giữ sự đơn thuần, trong phồn tạp tĩnh tâm dưỡng tính, sẽ có thể gặp Phật.
Phật luôn hiện hữu, độ hoá, quan tâm đến muôn vạn chúng sinh. Như mẹ hiền chong đèn vá áo, đau đáu, dõi theo những đứa con đi xa; như danh tướng dõi trông sắc trời, nhớ nhung hồng nhan nơi quê cũ; như thôn phụ tựa cánh cửa gỗ, đợi chờ tiều phu trở về. Mà những thế nhân say đắm trong hồng trần đó, có thể buông bỏ hay không? Đứa con đi xa liệu có thể buông bỏ phong cảnh non xanh nước biếc? Danh tướng có thể buông bỏ sự nghiệp non sông để trở về? Tiều phu có thể buông bỏ cuộc sống rau cháo sinh nhai hay không? Chỉ có buông bỏ, mới có thể thành Phật.
Thiền tông thời Tống chia tu hành thành ba cảnh giới. Cảnh giới thứ nhất là “Lạc diệp mãn không sơn, hà xứ tầm phương tích” (Lá rụng đầy núi vắng, nơi nào tìm dấu thơm); cảnh giới thứ hai là “Không sơn vô nhân, thuý lưu hoa khai” (Núi trống không người, nước trôi hoa nở); cảnh giới thứ ba là “Vạn cổ trường không, nhất triều phong nguyệt” (vạn năm đằng đẵng, trăng gió mau trôi). Có lẽ chúng ta không cần hiểu thâm ý bên trong, chỉ biết cho dù thời gian có trôi qua bao lâu, Phật pháp sẽ trường tồn cùng trời đất. Chúng ta chỉ là một sinh linh thuộc về chính mình giữa vũ trụ vạn vật, yên tĩnh sinh trưởng, bình an qua ngày. Còn tu hành, thì trong những tháng ngày luân chuyển xuân hạ thu đông, tự khắc sẽ nhận được quả báo.
Thời gian vẫn vậy, chỉ tăng không giảm, cỏ cây vẫn xanh tốt như xưa, chỉ là chúng ta không còn trẻ nữa. Tháng năm đằng đẵng, mỗi chặng đường chúng ta đi qua luôn có cảm giác như từng quen biết, đó là vì các mùa trở lại, câu chuyện tái diễn, mà đời người cuối cùng cũng như vậy, chẳng có gì khác biệt. Rồi một ngày, thời gian sẽ thổi bay tất cả, tất cả hoài nghi, tất cả mê lầm, và tất cả bất an đều ẩn mình, cho đến khi không vương mảy may bụi trần. Mà những vò rượu cất ủ tồn tại theo tháng năm cũng sẽ được mở ra vào lúc thích hợp, vào một ngày trăng thanh gió mát, để tửu khách bình thản thưởng thức.
Ngọc thô tự nhiên cần được thời gian mài giũa. Đời người hoa lệ, cần Thiền tâm nuôi dưỡng. Hãy đem hoà tấu rộn ràng gửi vào tiếng trúc tiếng tơ; dùng khói lửa phàm trần đổi lấy một chén băng tâm trong bình ngọc. Tại thế gian vô thường, đối diện với ngày mai không thể đoán định, những gì ngày hôm nay có thể làm được, chính là tĩnh tâm ngồi Thiền, nuôi dưỡng tính tình. Để bản thân từ từ bước ra khỏi trần ai loạn thế, trở nên trong sạch tinh khôi. “Lục Tố đàn kinh [10]” viết: “Hết thảy chúng sinh, hết thảy cây cỏ, có tình vô tình, đều là tối tăm, trăm sông cùng chảy, đổ về biển lớn, hợp thành một thể.” Trên đá tam sinh có khắc ghi nhân quả, mỗi nhành hoa mỗi phiến lá đều liên quan đến Thiền. Chúng ta không cầu trăng sáng trong tay, không cầu hoa thơm đẫm áo, chỉ nguyện năm tháng giản đơn hạnh phúc, bình lặng thanh tịnh. Sẽ có một ngày, Phật duyên tới, ấy chính là đích đến.
[10] “Lục Tố đàn kinh”: Tên đầy đủ là “Lục Tổ đại sư pháp bảo đản kinh”, hay còn gọi là “Pháp bảo đàn kinh”, “Đàn kinh”, do Lục Tổ Huệ Năng thuyết giảng vào đời Đường, đệ tử là Pháp Hải sưu tầm chép lại, ngài Tông Bảo hiệu đính và ấn hành vào đời Nguyên, được xếp vào “Đại Chính Tạng”, tập 48.
Một khúc Vân Thuỷ tỏ Thiền Tâm
Thời khắc đẹp như nước trôi, hâm một bình ánh trăng, trong sân nhỏ sâu khuất, gẩy một khúc “Vân Thuỷ Thiền Tâm”. Những trần ai phiêu lãng của ban ngày, lúc này đã tiêu tán hết, khói mây thu lại, lãng quên sự đời. Son phấn hồng trần đều hạ màn, chim tước về hết chốn sơn lâm. Nước chảy im lìm, một chiếc thuyền nhỏ chèo ngang, thế giới hư ảo đã chìm nơi sóng biếc, không thể tìm được bóng dáng của những chuyện đã qua.
Mây trôi hờ hững, nước róc rách chảy, tiếng đàn tinh tang vô tình, khiến ta quên đi nhân tình thế thái, chỉ nghĩ tới sự trong sạch vô trần chốn đài thiêng. Sự linh hoạt kỳ ảo và véo von của âm nhạc Giang Nam mang đến cho người ta một vẻ đẹp và sự dịu êm mông lung bất định. Những ngày tháng đi khắp giang hồ, tiêu cầm bầu bạn đó đã sớm lùi xa. Đi sau những tháng năm phong trần, tuế nguyệt không còn dịu dàng nữa, chẳng mấy chốc, khách lạ về cố hương, thanh xuân đổi sang đầu bạc.
Vân là gì? Mây tự nhiên tự tại bay trong vạn dặm không trung, không dấu không vết, không chốn đi về, cùng với cảnh trí bốn mùa, biến ảo khó lường, sớm chiều đổi khác. Lúc rực rỡ diễm lệ như cầu vồng, lúc trắng muốt như tuyết, lúc dày đặc như sương mù, lúc lại tàn mát như khói. Tên của nó là Vân, ngạo nghễ trên bầu trời, trăm ngàn tư thế, vạn phong tình. Tuỳ duyên mà tụ, tuỳ duyên mà tan, một đời sáng rỡ, không hề có vết tích. Đến cũng như đi, đều không mang theo thứ gì, ba nghìn ảo cảnh, đều là mơ hồ.
Thuỷ là gì? Hướng thiện như nước, tự tại chảy trôi. Một đời của nước đều khiêm nhường, sáng tạo chúng sinh, nuôi dưỡng vạn vật. Không thấy hình của nó, nhưng lại nghe được âm của nó, biết được cốt của nó. Nước tuy yếu ớt, nhưng lại có cái mạnh mẽ của giọt nước xuyên đá tảng. Suối chảy róc rách, nhưng lại có cái khí thế trăm sông hội tụ. Sóng trong biêng biếc, nhưng lại sâu thẳm khó lường. Sóng cả ào ạt, nhưng lại có cái tinh tế uyển chuyển. Đây chính là nước, có thể rửa trôi vui buồn, cũng có thể xoá mọi phù hoa. Nó chảy qua ngày tháng, trang nhã ung dung, yên lặng vui vẻ, không cầu không ước.
Thiền tâm là gì? Thiền tâm là một bình trà trong dưới nắng chiều, là một cây bồ đề trong đồng nội xanh non, là một luồng sáng trong những tháng năm như nước, là một khúc nhạc nền trong vở kịch nhân sinh. Thiền tâm là giữa núi rừng hoang vắng nhặt nhạnh hết những cành cây lạnh lẽo khẳng khiu, là buông câu giữa trời tuyết bên bờ sông trên chiếc thuyền nho nhỏ; cũng là vội vã qua qua lại lại trên con đường nhân sinh, là nỗi niềm vui sướng ân oán hận thù trong giang hồ mưa gió. Trong lúc bạn toạ Thiền, tâm để ngoài trần thế. Trong lúc bạn ở trần thế, tâm vẫn có thể nhập Thiền.
Mỗi người duy chỉ có mài giũa hết sự sắc nhọn của bản thân, mới có thể thực sự tự tại bình thản. Khi đó, càng hiểu được cách bình tĩnh đối đãi với sự tụ tan ly hợp của đời người, đón nhận khổ nạn và tang thương mà năm tháng mang đến. Đã từng có những năm tháng rực rỡ, đến nay nhìn tưởng tịch liêu thưa vắng, lại có vài phần phong cốt, tăng thêm ý vị. Duy chỉ có như thế, mới có thể có được Thiền Tâm tỉnh táo và sáng suốt, dù khói mây biến ảo, nước trôi ào ào, cũng không thay đổi sắc màu non sông.
“Lục Tố đàn kinh” viết: “Con người ta bản tính trong sạch thanh tịnh, vạn pháp đều sinh ra từ tự tính [11]; nghĩ đến hết thảy việc ác, thì sẽ làm chuyện ác; nghĩ đến hết thảy việc thiện, thì sẽ làm điều thiện. Chư pháp như thế, đều từ trong tự tính, như trời luôn trong xanh, mặt trăng mặt trời luôn toả sáng, vì mây nối che khuất, mà trên sáng dưới tối, bỗng có gió thổi mây tan, trên dưới đều sáng tỏ, vạn tượng đều hiện rõ”.
[11] Tự tính (sa. Svabhãva, ja. Jishõ) chỉ cái tính nằm sau mọi hiện tượng, cái ngã. Theo quan điểm Đại Thừa, tất cả mọi sự đều không có tự tính (sa. Svabhãva), vô ngã, tức là không có một cái gì chắc thật, riêng biệt đứng đằng sau các trình hiện. Điều đó không có nghĩa sự vật không có thật, chúng hiện diện nhưng chúng chỉ là dạng xuất hiện của tính Không, tự tính là tính Không. Đây là quan điểm trung tâm của tư tưởng Bát Nhã Ba La Mật Đa (sa. Prãnàparamitã) và Trung quán (sa. Madhyamaka). Tuy nhiên, trong Thiền tông và các tông phái của Đại Thừa tại Trung Quốc, danh từ “tự tính” được dùng để chỉ cho bản thể thật sự của chúng sinh, vạn vật, đồng nghĩa với Phật tính (sa. Buddhatã, ja. Busshõ) và nên phân biệt nó với cái tiểu ngã mà Phật đã bác bỏ.
Mỗi một con người khi sinh ra đều lương thiện, chỉ vì nhập thế quá lâu, trải qua quá nhiều chuyện, tiếp xúc với quá nhiều người, mới không còn từ bi nữa. Đây là một quá trình từ lạ lẫm đến quen thuộc, từ đơn giản đến phức tạp, cũng là con đường mà đời người buộc phải đi qua. Có những người, vòng qua mấy ngã rẽ, lại gặp lại bản thân lúc ban đầu, lại nhặt về sự giản đơn và trong sáng của quá khứ. Có những người, trăm chuyển nghìn hối mới có thể giác ngộ tự nhận thức. Có lẽ đợi đến ngày nào đó, thế sự như gió nhẹ mây nhàn, chúng ta sẽ không cần làm rõ ràng từng giấc mộng cũ. Mà toàn bộ quá trình, chúng ta đã từng có được có mất, đã từng trải qua biết bao hợp ly ly hợp, cũng đã từng có nhiều điều thiện ác, đều không cần tính toán nữa. Bởi vì trước sau chúng ta vẫn đánh mất bản ngã chân thực của chính mình, có thể sống bình thản, thoải mái trong đất trời bao la, thì đó chính là dũng sĩ của năm tháng. Có thể trong một đêm tĩnh mịch, ngắm vầng trăng sáng xa xôi lưng trời, chính là sự từ bi thực sự.
Mộng ảo phù sinh, đều là bèo bọt, như sương như sét, như mây như khói. Ngày hôm qua gió ẩm bồ đề xanh, đêm nay sương nhuộm lá phong đỏ. Sinh mệnh chính là một cuộc viễn hành của loài hồng hạc, đợi đến khi sóng xuân lui xuống, đến ngày gió thu nổi lên, mới hiểu được phải quay về. Khi đó, bước qua hết vạn dặm giang sơn, thăm thú hết mọi miền quê đường dịch, sao lại không biết, sự thanh thản thực sự chính là từ bỏ tất cả, gặp đâu vui đó.
Giấc mộng Nam Kha [12], núi trống rừng già. Chốn đào nguyên mà muôn ngàn chúng sinh lao tâm khổ tứ đi tìm, hoá ra không phải ở non cảnh tiên bồng, mà là nằm trong nhân gian sắc màu sặc sỡ. Ở đây, hoa rơi nước chảy không thành tiếng, sớm lạnh trong khói có lờ mờ; ở đây, giữa rừng trúc chim hót véo von, chốn sơn tự tiếng chuông bảng lảng. Ba canh gió tuyết, đã có thể khiến núi xanh bạc đầu; một bàn cờ thế, đã có thể định rõ Hán Sở thắng thua; một chiếc thuyền nan, cũng đủ để đến được bờ bên kia của Thiền.
[12] Giấc mộng Nam Kha: bắt nguồn từ tiểu thuyết “Tiểu sứ Nam Kha thái thú” của tác giả Lý Công Tá đời Đường, kể về Thuần Vu Phần, say rượu nằm dưới gốc hoè, trong mơ Thuần đến nước Đại Hoè, giành ngôi trạng nguyên, được làm phò mã, rồi được cử làm thái thú đất Nam Kha. Rồi mấy chục năm trôi qua, xảy ra biến cố, Thuần Vu Phần bị nhà vua truất quyền cách chức, trở lại làm thường dân. Tỉnh mộng, thấy dưới gốc cây hoè có một tổ kiến, Thuần hiểu ra nước Đại Hoè chính là tổ kiến ở cây hoè. Về sau giấc mộng Nam Kha được ví đời người như giấc mơ, vinh hoa phú quý đều như mộng ảo.
Thế sự biết bao sóng gió, chìm nổi chỉ trong khoảnh khắc, một suy nghĩ. Người đi nghìn non xa, đêm nay chung trăng sáng. Có một nơi như thế, cho dù chúng ta đi bao xa, lạc lối bao lâu, lún sâu dường nào, đều đợi chờ tôi và bạn. Khi đó chính là chim mỏi về tổ, giữ mái nhà xưa yên ổn. Không thổ lộ tâm sự ly biệt với ngọn gió xuân, chỉ từ khung cửa sổ cao cao, lặng lẽ ngắm nhìn hoa tàn hoa nở trong sân. Nơi này, chính là bồ đề của tâm linh.
Đào kép vào vai, không phân trên hay dưới sân khấu. Mà Thiền già nhập thế, cũng không chia trong hay ngoài trần thế. Bởi vì họ đều đã tu luyện đến một cảnh giới nhất định, sớm đã không chịu tác động của gió mây bên ngoài. Bất cứ lúc nào đều là vai chính, cũng đều không phải vai chính. Họ có đủ định lực, giữ được toà thành thuộc về mình, không cần hứa hẹn, không cần thề thốt, vẫn có thể trường tồn cùng trời đất.
Câu chuyện sinh diệt, tình cảm lên xuống của nhân thế, vốn tương thông với sự tươi tốt khô héo của thiên nhiên. Trong từ của Vương Quốc Duy có một câu như thế này: “Quân khán kim niên thụ thương hoa, bất thị khứ niên chi thượng đoá.” (Bông hoa chàng thấy năm nay, nào phải đoá cũ cành này năm xưa) Chúng ta cho rằng hoa đã tàn, sẽ lại nở tiếp. Mà không biết, hoa nở trăm ngàn lần, nhưng đều không phải đoá hoa trước kia. Giống như một đời của cây cỏ, giống như một kiếp của con người. Cây cối xuân tươi thu héo, mà con người, khi tuổi tráng niên đã qua, sẽ không thể nào trở lại được nữa.
Tất cả chấp nhất đều chỉ là vọng niệm nhất thời, bước qua được, ảo tưởng tiêu tan, vĩnh viễn không phục hồi. Không bước qua được, hãy coi là kiếp số, trên con đường hồng trần gặp phải một lần trắc trở. Chỉ có trồng một cây bồ đề trong tâm, tự tính tự ngộ, đốn ngộ đốn tu, coi vô thường là bình thường, coi hữu tưởng là vô thường, mới có thể được giải thoát thực sự, giống như mây tự do trôi ngang trời.
Không ai biết cảnh giới của Thiền rốt cuộc là gì, cũng không biết phải tu luyện bằng phương pháp gì. Mỗi một người, chỉ cần trong tâm có thiện niệm, bớt đi ham muốn, tự mình có thể giảm phiền nhiễu, tâm sáng tỏ tường. “Lục Tổ đàn kinh” viết: “Tự tính mà ngộ thì chúng sinh là Phật, tự tính mà mê thì Phật là chúng sinh. Tự tính mà bình đẳng thì chúng sinh là Phật. Tự tính mà ác hiểm thì Phật là chúng sinh.” Phật duyên đã đến, thì điều kiện chín muồi, nước chảy thành sông. Khi đó, cỏ cây là Phật, núi đá là Phật, phàm phu là Phật, tục tử là Phật, vạn vật chúng sinh đều là Phật.
Hoa rơi đạm bạc, nước chảy lặng thinh. Trong những ngày tháng trong trẻo giản đơn, khi nói về tâm tính, ngồi trong rừng trúc sâu hun hút, thưởng thức tịnh trà lóng lánh ánh dương. Nhìn người con gái áo trắng hơn tuyết đó, hàng mi thanh tú, không hề phấn son, gẩy một cây Thất Huyền Lục Y [13], hát một khúc Vân Thuỷ Thiền Tâm, mặc cho lá trúc xào xạc, mây trắng nhởn nhơ, đi đi đến đến, tụ tụ tan tan.
[13] Thất Huyền Lục Y: là cổ cầm, Lục Y cầm là một cây đàn của văn nhân nổi tiếng đời Hán Tư Mã Tương Như. Tương truyền, đàn Lục Y có thân màu đen, loáng thoáng sắc màu xanh thẫm, giống như dây leo bám trên cổ thụ, vì thế có tên là Lục Y.
Vân Thuỷ Thiền Tâm [14]
[14] Thời Bắc Tống, có một cổ khúc tên là “Vân Thuỷ Thiền Tâm”. Trong khung cảnh núi đá, có một thiếu nữ, tên là Thiền Tâm. Nàng có ngộ tính cao, bẩm sinh thông tuệ, không lâu sau, có một đạo sĩ từ phương xa tới, đạo hiệu gọi là “Vân Thuỷ chân nhân”. Nói là mượn nhà của Thiền Tâm để ở, nhưng ở liền hơn một năm mà không có ý trả nhà. Ngày ngày trau dồi cầm nghệ với Thiền Tâm, đêm đến lại cùng ngắm trăng sao. Lâu ngày, có người nói lời đàm tiếu, không còn cách nào khác, Vân Thuỳ chân nhân và Thiền Tâm phải từ biệt. Thiền Tâm đưa tiễn hơn mười cảnh dương liễu tặng, Vân Thuỷ gảy một khúc cáo từ. Trong khúc nhạc. ngoài tâm hồn trong sáng cao vời, tư tưởng Phật gia không gì chướng ngại ra, còn là tâm tình hai bên thấu tỏ lẫn nhau, tình ý thân thiết không nỡ từ biệt. Từ đây khúc nhạc có tên “Vân Thuỷ Thiền Tâm”. Truyền thuyết nói rằng, sau này Thiền Tâm u uất mà chết, tuổi trẻ kết thúc sớm. Lúc bệnh nguy cấp, trên cây đàn thất huyền, nàng đã gẩy âm phù đầu tiên của khúc này.
“Không sơn điểu ngữ hề, nhân dữ bạch vân thê. Sàn sàn thanh tuyền trạc ngã tâm, đàm thâm ngư nhi hí. Phong xuy sơn lâm hề, nguyệt chiếu hoa ảnh di. Hồng trần như mộng tụ hựu ly, đa tình đa bi thích. Vọng nhất phiến u minh hề, ngã dữ nguyệt tương tích. Phủ nhất khúc dao tương ký, nan chiết tương tư ý. Ngã tâm như yên vân, đương không vũ trường tụ. Nhân tại thiên lý, hồn mộng thường tương y. Hồng nhan không tự hứa. Nam Kha nhất mộng tỉnh, không lão sơn lâm. Thính na thanh tuyền đinh đông đinh đông tự vô ý, ánh ngã trường dạ thanh tịch. (Tạm dịch: Ký gữi Thiền Tâm vào mây nước.
Núi vắng chim véo von hề, người và mây trắng nương tựa lẫn nhau,
Suối trong róc rách tẩy sạch tâm ta, bầy cá nô đùa dưới đầm sâu.
Gió thổi núi rừng hề, trăng chiếu bóng hoa lay,
Hồng trần như mộng hợp lại tan, đa tình lắm đau thương.
Gẩy một khúc đàn tặng người đi xa, khó tỏ hết nỗi lòng nhung nhớ,
Người xa ngàn dặm, hồn vấn vương, trong cõi mộng.
Uổng công tự xưng hồng nhan,
Giấc mộng Nam Kha khó tính, núi trống rừng già.
Nghe tiếng suối trong réo rắt như vô tình, soi tỏ mình ta tịch mịch giữa đêm thâu.)
Tất cả hữu tình đều sẽ trôi qua
Rất nhiều năm về trước, từng tưởng rằng Phật là vô tình. Bởi vì người xuất gia phải từ bỏ chấp niệm, cắt đứt trần duyên, mới có thể ở nơi núi non hẻo lánh, chẳng màng thế sự. Họ không còn qua lại với thế giới bên ngoài, thi thoảng có khách dâng hương, cũng chỉ là kết mối Phật duyên nhàn nhạt. Thế nên, họ chỉ có thể hấp thu linh khí trời đất trong vạn vật tự nhiên, cảm nhận nhân gian ấm lạnh trong năm tháng đổi dời. Vậy là, họ coi cây tùng già trên vách đá cheo leo là tri kỷ, coi cỏ xanh trên giếng cổ là tâm giao, coi con kiến trên thềm đá là bạn vong niên.
Sau này mới hay, Phật là nặng tình, lấy thân thử kiếp, mới có được tịnh thổ liên hoa của Phật quốc Thuỷ Thiên [15]. Phật ban phát tình yêu cho khắp chúng sinh, để những kẻ rơi vào lưới trần như tôi và bạn, có thêm một lựa chọn lương thiện, được giải thoát một cách yên lặng giữa khổ đau. Còn Phật, chưa bao giờ tham luyến phồn hoa khói lửa, luôn thanh đạm tự chủ, tĩnh toạ trên đài mây, ôn hoà an lành.
[15] Thuỷ Thiên Phật quốc: Thuỷ Thiên là tên của thiên thần, tiếng Phạn là Varuna, là một trong mười hai thiên Mật giáo, một trong Tám thiên hộ thế. Tức thần trấn giữ phương Tây, Phật quốc vừa là đất Phật, vừa chỉ chung chùa chiền. Ở đây Thuỳ Thiên Phật Quốc được hiểu là xứ Phật.
Tại sao Phật có thể buông bỏ oán tình cá nhân, bác ái hồng trần, mà thế nhân lại đắm chìm trong ái tình cỏn con của mình, luôn rơi vào cảnh ngộ không cách nào giải thoát nổi, là vì tu vi không đủ, hay là số mệnh đã định phải trải hết trần kiếp, mới có thể tránh được vòng luân hồi nhân quả? Đời đời kiếp kiếp, dòng Vong Xuyên của năm tháng chưa từng dừng lại mà vẫn hối hả đến và đi.
Nhân sinh hữu tình, cho nên mới có vương vấn, mới có phiền não. Phật nói, ngoái đầu nhìn nhau năm trăm lần mới đổi được cái lướt qua nhau của kiếp này. Cái gọi là duyên định ba kiếp, một vài cuộc gặp gỡ dường như đã được sắp xếp từ kiếp trước, cho nên, kiếp này tình vương không dứt. Phật khiến chúng sinh hiểu được thương tiếc duyên phận, trân trọng tình cảm, nhưng cũng khuyên răn chúng ta không nên mù quáng mê đắm, trên con đường năm tháng vô bờ, đánh mất bản chất chân thực của mình.
“Kinh Nghiêm Hoa [16]” viết: “Hết thảy chúng sinh đều có trí tuệ và đức tướng giống Như Lai, nhưng vì vọng tưởng và chấp trước, cho nên không thể chứng ngộ.” Không thể ung dung tự tại, là vì không thể dứt tình. Vì vậy mới gọi là bể khổ vô biên, quay đầu là bờ. Có tình là bể khổ, vô tình là bờ. Đại Thiên thế giới, mọi thứ đều là khổ, mà người ở ngoài cõi thế, coi mọi nỗi khổ thành niềm vui; coi hữu tình thành vô tình. Cho nên chúng ta luôn có thể cầu được yên tĩnh giữa chốn huyên náo; đạt được vui sướng giữa mọi niềm đau.
[16] “Kinh Ngiêm Hoa”: Tên đầy đủ là “Đại Phương Quảng Phật Nghiêm Hoa Kinh”, là một bộ kinh Đại Thiền, lập giáo lý căn bản của Nghiêm Hoa tông.
Trước khi buông bỏ, đều có một quá trình cố chấp. Quá trình này, có lẽ không phải là phượng hoàng Niết Bàn [17], nhưng cũng phải kinh qua vô số lần bãi biển hoá nương dâu. Trước khi Phật Đà A Nan xuất gia, từng gặp gỡ một thiếu nữ xinh đẹp trên đường, chỉ một lần như thế, từ đó mà đem lòng ngưỡng mộ lưu luyến không nguôi. Phật Tổ hỏi người: “Con thích cô gái đó đến nhường nào?” A Nan đáp: “Nguyện hoá thành cây cầu đá, chịu năm trăm năm gió thốc, năm trăm năm nắng đổ, năm trăm năm mưa sa, chỉ mong người con gái đó đi qua cầu.”
[17] Theo truyền thuyết, khi phượng hoàng Niết bàn, tức là phượng hoàng nhảy vào lửa đỏ, rồi tái sinh từ tro tàn.
Nặng tình đến thế, bây giờ chỉ có thể coi là một thần thoại. Yêu đến nhường nào mới có thể chịu đựng được thời gian dài đằng đẵng? Đừng nói là năm trăm năm, cho dù là ba năm hay năm năm cũng khó mà giữ được. Khi yêu, cam tâm tình nguyện tồn tại vì một người. Đến ngày hết yêu, lại hy vọng xoá bỏ mọi ký ức liên quan, toàn thân thanh tịnh.
Có lẽ rất nhiều người đều muốn biết, sau khi A Nan quy y cửa Phật, có còn nhớ lời thề ước ban đầu hay không? Đợi đến khi thiếu nữ xinh đẹp đó thành một bà lão tóc trắng phau phau, người còn tình sâu không đổi như cũ chứ? Người có lẽ có thể hoá thành cầu đá vì nàng, hóa thành non xanh nước biếc, hoá thân ngàn vạn lần, người cũng có thể thanh tịnh không vướng bận gì. Nếu như A Nan và thiếu nữ ấy kết một đoạn nhân duyên, liệu có thế trải qua ngày tháng thanh đạm sớm chiều bên nhau, giữ cho tình sâu ý nặng như ban đầu hay không?
Không có nếu như, cũng như chúng ta không cách gì có được kết quả chính xác từ một lời dự báo. Trong những ngày đánh mất tình yêu, năm tháng vẫn yên ổn như xưa, tuế nguyệt tĩnh mịch như thuở ban đầu. Nhưng những chuyện cũ tưởng chừng có thể lãng quên đó, lại không thế quên nổi dù chỉ là một chuyện, nhưng không thể tính toán, đành thuận theo tự nhiên. Thế sự rối rắm, bạn coi một vở kịch là thật, vậy thì tất cả thành thật. Bạn coi cuộc sống là giả, vậy thì tất cả đúng là giả. Thái độ sống của mỗi người khác nhau, cách thức đối đãi với tình cảm cũng mỗi người một vẻ. Phật dạy con người không nên có quá nhiều chấp niệm đối với tình yêu, nhưng Phật lại ban phát càng nhiều tình yêu cho chúng sinh, mà không cầu bất cứ đền đáp nào. Trên thế gian này luôn có những người phải đợi ngàn cành buồm qua hết, mới nhận ra phải quay đầu, phải đợi đến lúc chia ly thất tán, mới bắt đầu hiểu được trân trọng, đợi đến lúc vật còn người mất, mới bắt đầu nhớ nhung.
Ở cung Potala (Bố Đạt La) xa xôi, từng có một vị tình tăng như thế, ngài tên gọi là Thương Ương Gia Thố, được vạn dân sùng bái. Cho dù Thiền Tâm thanh tịnh, thấu suốt, nhưng vì tình cảm mà không thể tự chủ. Năm đó ngài đã từng viết câu thơ khắc cốt ghi tâm: “Thế gian an đắc song toàn pháp, bất phụ Như Lai bất phụ khanh.” (tạm dịch: Thế gian sao thể vẹn đôi đường, không phụ Như Lai chẳng phụ nàng) Ngài chính là một vị Phật nghiêm trang tĩnh toạ trên đài sen, phổ độ chúng sinh, mà trong lòng không thể quên được cuộc sống lứa đôi hạnh phúc.
Ở Tây Tạng, nơi thần bí cao thâm vời vợi, truyền thuyết về ngài như một bản tình ca, truyền đi hết thảy những nơi có cỏ cây, hồ nước. Rất nhiều người băng núi vượt sông đi tìm, đi lễ bái, không chỉ vì tín ngưỡng, mà nguyên nhân sâu xa hơn là vị tình tăng lãng mạn này đã đem đến sự thần kỳ và tươi đẹp như mộng ảo, khiến thế nhân tin rằng. ở vùng đất thần bí đó, hoa tình mọc khắp nơi, mỗi dòng sông, mỗi ngọn núi, mỗi chú dê nơi đó, đều được siêu độ.
Sau này lại có một vị tình tăng, người là chú nhạn cô lẻ giữa hồng trần, phiêu lãng nửa đời, nếm hết tình vị. Vị tăng già được tiên đoán số mệnh này, tên là Tô Mạn Thù. Cuộc đời của người, mấy lần trốn vào cửa Phật, nhưng trước sau chẳng quên nổi trần duyên. Khi người rời khỏi nhân gian, để lại tám chữ: Hết thảy hữu tình, đều không vương vấn. Nhưng người thực sự đã đốn ngộ, đã từ bỏ được chưa? Khi còn sống, người đã phụ biết bao hồng nhan, mỗi lần gây ra hoạ, lại quay người bỏ trốn. Không phải người vô tình, mà là thực sự không thể gánh vác trách nhiệm.
Chắc chắn còn rất nhiều vị tình tăng chúng ta đã biết, và cả những người chúng ta chưa biết, họ có phẩm chất như hoa sen, là một hạt cải giống trước Phật, lại là một đoá hoa sóng trong biển tình. Những người này cho dù là ngồi thiền trước Phật, hay là bôn tẩu nơi trần thế, sự tu hành của họ, đều là chữ Tình. Quỳ trên nệm bồ đoàn, dùng thời gian trăm nghìn năm, luân hồi mấy kiếp, đổi lấy nhân duyên một đời, hay một lần tương phùng. Đợi đến một ngày được như ý nguyện, là có thể triệt để cắt bỏ chấp niệm, tâm như pha lê, trong vắt như nước.
Phật nói: “Các hành đều vô thường, tất cả đều là khổ. Các pháp đều vô ngã, tịch diệt tức là vui [18].”[19] Trong quá trình tu luyện, không phải một lòng cố chấp vạch rõ giới hạn giữa bản thân với thế sự phồn tạp, mà là thân ở giữa khói lửa xoay vòng, vẫn có thể trong sáng như tuyết trắng năm xưa. Đi khắp sơn hà mênh mang, vạn vật phồn thịnh, ai vui nhân duyên thiên tính của người đó, ai cũng không thể thay thế được ai. Những con đường đã qua, những người đã gặp, những chuyện đã xảy ra, giống như nước sông dào dạt, không thể ngược dòng.
[18] Cùng với “Tịch tĩnh Niết Bàn là Tam pháp ẩn trong Phật giáo.
[19] Tức là diện mạo, chân tướng vốn có.
Rốt cuộc bạn còn cố chấp điều gì? Đã biết rõ, mỗi người đều là hạt bụi nhỏ nhoi giữa đất trời, có một ngày không biết sẽ về đâu. Phật Đà A Nan dù hoá thân thành cây cầu đá, chịu trăm ngàn năm gió thốc nắng đổ, há chẳng biết người thiếu nữ ấy đã chịu luân hồi cũng năm tháng hay không? Có lẽ nàng đã hoá thân thành bụi trần ở một kiếp nào đó, tan thành tro bụi, không hồn không phách. Có lẽ nàng hoá thành hoa sen ở một kiếp nào đó, tu thành chính quả trước Phật, cũng không cần chuyển thế đầu thai nữa.
Hết thảy hữu tình đều sẽ trôi qua. Trên ngả đường mây khói nghìn trùng, lời nào cũng không cần nói. Khi cáo biệt, cũng không cần ngoái nhìn. Sát na quay người, xin hãy khắc ghi quãng thời gian chúng ta đã từng đi qua đó.
Bồ đề hoa nở hoa lại rụng
Đều nói nhân gian là sân khấu, những chúng sinh đi xuyên qua hồng trần, mỗi ngày đều bận rộn diễn một vở kịch gọi là cuộc sống, đi qua biết bao cây cầu, nhìn qua vô số mây bay, kinh qua trăm ngàn lần tụ tán, rồi một ngày, liệu có cần gỡ bỏ trang sức đời người, trở lại với bản ngã thuần khiết thanh tịnh hay không? Dưới gốc bồ đề bình thản tu hành, ngắm núi xanh che mặt trời, nước biếc không gợn sóng.
Bốn mùa luân chuyển, những vách đá có cây đã trải qua ngàn vạn năm đó, cũng chẳng tránh nổi vòng luân hồi tháng năm. Kỳ thực, tất cả con người đều có lựa chọn của riêng mình, mỗi một bến đỗ đều là bản thân cam tâm tình nguyện dừng lại, nhân quả chưa từng nợ chúng ta điều gì, chúng ta cũng không có lý do gì để oán trách. Tu hành là một vị thuốc, vị thuốc này có thể biến kẻ ngu muội thành người thông tuệ, khiến kẻ say sưa thành người tỉnh táo, khiến kẻ cuồng si sớm được giác ngộ. Vì vậy chúng sinh nên lập tức cắt bỏ trần duyên, đoạn tuyệt nợ nần, mang hành trang gọn nhẹ lên đường, đi tìm hoa bồ đề nở đã từng thấy trong giấc mộng.
Tất cả của ngày hôm qua đều là chuyện cũ xa xưa, trút bỏ mớ trang sức thời gian, ung dung bước ra khỏi thế giới phù hoa, tâm hồn trong vắt như nước. Từ đó về sau, thuyền chài xướng hoạ, thưởng trăng buông cần, mặc kệ hoa lau như tuyết, mây khói bao trùm. Dưới gốc cây bồ đề, cỏ bồ vẫn như xưa, đây là một đạo tràng từ bi, vạn vật sinh linh trên thế gian đều có thể tu hành tại đây, chẳng hề phân biệt. Những câu chuyện đã từng mơ hồ, nay bắt đầu sáng tỏ, những tình cảm đã từng mông lung vô định, nay cũng đã chấp nhận bỏ qua.
Tu hành là một sự siêu thoát tự do mà thanh cao. Cái gọi là đi đến nơi sơn cùng thuỷ tận, ngồi ngắm mây bay, chính là cảnh giới của tu Thiền. Cũng có nghĩa là tìm được vẻ đẹp giản đơn giữa thiên nhiên non nước trong lộ trình nhân sinh vốn quanh co gập ghềnh. Chứng ngộ thực sự, không chỉ là có được sự yên ổn giữa lúc nóng vội, cũng có được sự giải thoát từ trong nỗi cô đơn; không chỉ là phóng thích sự nhiệt tình, mà còn làm bình ổn sự lạnh lùng. Điều chúng ta cần, không phải là khiến bản thân chuyên tâm tu luyện, lĩnh hội sâu sắc như thế nào, mà là phải loại bỏ phồn tạp giữ lại giản đơn, ung dung tự tại.
Năm đó Lục Tổ Huệ Năng từng có bài kệ rằng: “Bồ đề vốn không cây, gương sáng chẳng phải đài. Vốn không phải một vật, chỗ nào bám bụi bặm?” Lục Tổ đang điểm hoá chúng sinh, tất cả sự vật trên thế gian đều là hư ảo. Có người nói, tu hành như thế nào mới có thể quên sạch mọi thứ của kiếp trước, thanh thản sống ở kiếp này. Vừa không phải tiêu cực trốn tránh, vừa không phải khó khăn chọn lựa, là đã có thể xoá sạch quá khứ rồi.
Uống một chén canh Mạnh Bà, như thế có thực sự xoá bỏ được mọi ký ức, lãng quên mọi yêu hận vui buồn hay không? Có lẽ bản nghĩa của canh Mạnh Bà không phải là khiến mỗi con người dứt khoát đoạn tuyệt với quá khứ, mà là hy vọng mỗi con người có thể tẩy rửa hành trang phù phiếm trên mình. Từ đây cáo biệt hoa cỏ tầm thường của hồng trần, được phục sinh dưới gốc cây bồ đề. Vậy hãy qua đò như Thế Âmà đi, rời khỏi cây cầu đơn sóng nhỏ, mây biếc liễu xanh, ở bờ bên kia của mặt sông soi bóng bầu trời bao la, tìm được đoá hoa bồ đề thuần khiết.
Những điều đã nói đó, những người đồng sinh cộng tử chốn nhân gian đó, cuối cùng chỉ còn lại một nụ cười cáo biệt nhau, cùng lãng quên nhau trên chốn giang hồ. Có lẽ một ngày nào đó trên con đường cầu Phật, sẽ lần nữa trùng phùng, nhưng những lời thề non hẹn biển của ngày hôm qua đã sớm bị lãng quên, ai vui chuyện người nấy. Dưới gốc cây bồ đề, biết bao sinh mệnh ngu ngơ chậm chạp đều có thể được đốn ngộ. Họ bắt đầu tôn trọng mỗi loại sinh linh, bắt đầu tin rằng hết thảy mọi thứ trên đời đều là tự nhiên, không một chút cưỡng cầu.
Lưng đeo hành trang Thiền là bước ra khỏi nơi phàm trần sâu thẳm nhất, núi xanh làm màn, nước chảy làm giường. Một mình buông câu trên sông Tuyết là ta, chặt củi ở núi Nam là ta, dạo bước trong mây là ta, gối đầu lên đá tảng cũng là ta. Chỉ có đồng hành cùng tự nhiên, mới có thể không bận tâm đến năm năm tháng tháng, để mặc bóng câu qua cửa, nội tâm như giếng cổ không gợn sóng. Nếu như lạc lối chốn đồng hoang hay say ngã trước rừng phong, chỉ cần tìm được một gốc bồ đề là tìm được chốn về. Giữ một khoảng trời tinh khiết, cảm nhận tự nhiên, ngắm nhìn vầng dương lặn, ngọn gió mát lành, núi sông tĩnh mịch.
Độ lấy nước là đường, sen là thuyền. Những người cùng bạn chung thuyền vượt sông năm đó, không ai có thể đi với bạn đến điểm cuối cùng. Một số người giữa đường từ biệt, một số người đi lướt qua nhau, một số người vô tình tụt lại. Nhưng chúng ta nên tin rằng, cho dù con đường có xa xôi bao nhiêu, chúng ta đều có thể tìm được một bến bờ thuộc về riêng mình. Cho nên, đừng bao giờ nghi ngờ sự thiện lương trong một con người, bởi vì đối diện với khốn cảnh, chúng sinh sớm đã học được lòng khoan dung và tha thứ.
Tất cả duyên phận trên thế gian vốn đều tầm thường và nhạt nhẽo. Vì có những câu chuyện lưu chuyển đến nghìn năm, có những sự đợi chờ xoay vần đến vạn kiếp, mới khiến người ta cảm thấy sự gặp gỡ của kiếp này không dễ gì có được. Những hạnh phúc và đau thương mà chúng ta chứng kiến cùng trôi dạt trên một dòng chảy, đến cuối cùng đều không tách bạch nổi ý nghĩa của hai bên. Tháng năm trôi qua trong câm lặng, những người những việc đã từng gặp, dần dần xa vời rồi trở nên nhạt nhoà. Chỉ có đoá hoa bồ đề vẫn vĩnh viễn còn đó, năm tháng không thể mài mòn. Vẫn tu luyện trong hồng trần, vẫn trong sáng thanh tịnh, vẫn an ổn vui vầy, bình yên hiền hoà như cũ.
Phật nói: “Đời người sống trên trần thế như sống giữa bụi gai, tâm không động, người cũng không làm bừa, không động thì không bị thương; nếu tâm động thì người sẽ làm bừa, tổn thương thân thể, đau đớn cốt tủy, thế nên lĩnh hội đủ mọi đau khổ trên thế gian.” Bất cứ lúc nào đều phải làm một bản ngã đơn giản, trong sạch, đối đãi một cách khoan dung với cuộc sống, trân trọng bản thân và mỗi người xung quanh mình. Chỉ có như thế, mới có thể có một trái tim sạch sẽ trong sáng như pha lê. Cho dù vô tình bị bụi bặm của thời gian che phủ, cũng trong đục rõ ràng. Ba ngàn thế giới, bóng hình thoáng qua, cái chúng ta nhìn thấy được chỉ là một hạt bụi nhỏ nhoi, một làn nước thu, một mảnh trăng khuyết.
Mơ một giấc mơ thanh khiết như nước, trong mộng không biết bồ đề đã mấy độ nở hoa. Giữa xứ Phật mênh mông vạn Phật, nghìn năm cũng chẳng qua là một sát na, mà sát na lại là vĩnh viễn. Luôn ngỡ rằng trên đời này không có ân oán nào là không thể xoá tan, không có lòng người nào là không thể lay động, những chuyện trăng gió cũ, những món nợ tiền duyên, qua thời gian đều có thể khuây khoả.
Đều nói đời người là một màn kịch vĩnh viễn không kết thúc, cho nên dù giang sơn đổi chủ, bãi bể nương dâu, đều chỉ là quy luật tự nhiên. Lá rụng núi vắng, đường nhỏ xanh râu, dù cho đã từng cáo biệt thì vẫn sẽ không hẹn mà gặp. Đợi đến khi bụi bặm của tháng năm đều được gạn lọc, hãy coi mỗi ngày đều là một ngày đẹp, hãy coi mỗi người đều là lần đầu gặp gỡ trong cuộc đời, hãy đổi mỗi đoá hoa thành muôn hồng ngàn tía.
Sau này mới biết một bài hát tên là “Hoa bồ đề”. Thanh âm trong trẻo uyển chuyển cất lên kể hết sự tình ngàn năm, khiến người ta quên mất tu hành, không kìm được mà nảy sinh trần niệm. Nhưng cũng chỉ là sự tập trung tinh thần trong thời gian ngắn ngủi, sau khi giai điệu rung động lòng người kết thúc, chúng ta đều phải từ bỏ. Bất cứ lưu luyến nào đều bị đẩy vào vòng luân hồi của thời gian, tu luyện nhiều năm cũng sẽ uổng hết công lao. Cảnh giới của tu Thiền, không phải nước lặng chảy sâu, chỉ là tuỳ duyên mà an. Hoa bồ đề
Ta là hoa bồ đề trên cây bồ đề, lạnh lùng nhìn bụi trần ngàn năm chốn nhân thế.
Chàng lưu luyến dưới gốc cây, khoảnh khắc ngoái đầu nhìn nhau đó, khắp đất trời chỉ còn lại hàng mi như tranh vẽ của chàng.
Mặt hồ in bóng chiếc áo trắng tựa tuyết của chàng bên cạnh hoa sen, trần niệm nổi lên, hồng đậu vì ai mà nở.
Mặt hồ in ánh mắt như trăng soi bóng nước của chàng, từ đây khắc cốt ghi tâm, một đời vương vấn.
Ta quên mất sự tu hành nghìn năm, luân hồi thành người phàm trần.
Chỉ để tìm một người trong hồng trần, cùng đi đến chân trời góc bể.
Nhớ đến khi thêu rèm cửa sổ, bóng dáng thanh tú tĩnh lặng chìm khuất, ai người tiếp đón.
Giữa biển người mênh mông, nương dâu biến ảo, lại một mùa hạ trôi qua, bước chân ta đã loạng choạng, tóc bạc trắng như tơ.
Năm xưa dưới gốc cây bồ đề, ai đang uổng công than thở, trên mặt hồ thấp thoáng một đoá hoa bồ đề.
Ta là hoa bồ đề trên cây bồ đề, lạnh lùng nhìn bụi trần ngàn năm chốn nhân thế.
Chàng lưu luyến dưới gốc cây, khoảng khắc ngoái nhìn nhau đó, khắp đất trời chỉ còn lại hàng mi như tranh vẽ của chàng.
Trường đình mười dặm nhớ áo choàng của chàng tung bay đón ráng bình mình, rượu trong một chén cơn say gẩy tì bà.
Trường đình mười dặm nhớ áo mỏng của chàng buông trên tuấn mã, mưa dầm một trận biết bao lời tương tư.
Ta đã quên mất tu hành ngàn năm, để đi tìm chàng.
Có biết bao nam thanh nữ tú tình sâu như biển, lại trở thành kẻ xa lạ giữa nhân gian. Biết bao nhiêu lời hẹn ước dài lâu như trời đất, lại trở thành tơ lả tả bay trong gió. Tất cả đều không quan trọng nữa, trước đức Phật từ bi, những chuyện vụn vặt hồng trần ấy đã sớm không là gì. Ngày sau còn dài, nếu như có duyên, nguyện cho thế gian, cho bạn cho tôi, đều có thể tụ hội dưới gốc cây bồ đề, uống vài chén Thiền trà, đọc vài chương kinh văn, ngắm hoa bồ đề rụng rồi lại nở.
Làm một đoá sen xanh trước Phật
Có lẽ chúng ta đều biết, trong vạn vật, thứ được chúng sinh coi là có Phật tính nhất, đó là hoa sen xanh trước Phật. Làm một đoá sen xanh trước Phật, mọc lên từ giữa dòng tịnh thuỷ, không chỉ là mơ ước của tín đồ, mà còn là tâm nguyện của chúng sinh.
Dường như bất cứ ai vào bất cứ lúc nào, chỉ cần làm một đoá sen xanh trước Phật, là có thể cất giữ mọi quá khứ trong toà thành tên gọi là kiếp trước. Bất luận đã từng nếm biết bao khói lửa nhân gian, đều có thể trở về thuần khiết chỉ trong sát na. Chúng sinh mê đắm phong cốt của hoa sen, yêu sự thanh tĩnh, mát lành, độc lập của nó.
Nhiều năm trước, Phật và hoa sen đã có tình cảm thắm thiết. Thắng cảnh Linh Sơn, vạn Phật ngồi nghiêm trên đài sen, chúng sinh cúi lạy. Chư Phật ban phát yêu thương, không khước từ những người thấp hèn, giảm nỗi khổ bị giày vò cho chúng sinh, tránh những luân hồi không cần thiết. Từng có lúc, Phật cũng đã du lịch chốn trần ai xa thẳm của nhân gian, đã từng trải qua buồn vui tan hợp. Nhờ độ hoá cho loài sinh vật nào đó trở nên lương thiện, mới từ bỏ vọng tưởng và chấp trước, có được sự bình thản và an nhàn như ngày nay.
Làm một đoá sen xanh trong nước, ở yên một góc trước Phật, mỗi ngày nghe tiếng gió vi vu khe khẽ thổi qua nơi góc thềm, nhìn ngắm bóng trăng mơ hồ thưa thớt. Cho dù ngày tháng bên ngoài lan can trôi qua chậm chạp bao lâu, hoặc là đi nhanh bao nhiêu, sen vẫn luôn như thế. Những người từ hồng trần đến trước Phật gỡ mọi hành trang thế tục xuống, trở về với bản nguyên, cùng một đoá sen bắt đầu cuộc đối thoại bằng tâm hồn, vừa kéo dài vừa thanh tịnh.
Sen dùng từ bi để thanh tỉnh tự chủ, nghe quen tiếng trống chiều chuông sớm, đọc kỹ kinh kệ thi văn, sớm đã tịnh hoá thành vật thuần khiết, có linh tính. Sen trồng trong “nước Nhược ba ngàn [20]”, một đời thanh bạch, khiến sinh linh ly tán trong nhân gian không còn âm thầm đau thương nữa. Cây sen xanh đó cũng không biết mình đã tu luyện bao nhiêu năm trước Phật, ngâm sâu trong nước, đâm thẳng lên cao, từ đây luân hồi cũng thành tươi đẹp.
[20] Nước Nhược ba ngàn: Thời cổ có rất nhiều dòng sông nước nông mà chảy xiết, không thể dùng thuyền mà phải dùng bè để vượt qua, người cổ cho rằng vì nước sông quá yếu nên không chở nổi thuyền, vì thế gọi là Nhược Thuỷ. Dần dần, trong văn học cổ dùng Nhược Thuỷ để chỉ những dòng nước xiết mà xa xôi, trong “Hồng lâu mộng” lại dùng để ví với tình yêu sâu tựa biển.
Khi một người đối diện với trần thế bận rộn không cách nào thoát ra được, so với thoả hiệp để mình ngã sâu vào bể nhuộm, chẳng thà thấu hiểu mà buông tay. Giữa bốn mùa luân chuyển, ngắm nhìn mây phiêu du bên trời, trăng treo trên ngọn cây, một cành mai xanh như có như không ngả vào sân vắng. nếu như phàm trần thực sự có biết bao điều không nỡ từ bỏ như thế, có thể lựa chọn ở lại, chỉ cần không khăng khăng chuyện được mất. Từ đó về sau, mấy quyển kinh thư, một ly trà trong, tháng năm bình dị, đạm bạc, giản đơn tĩnh lặng qua ngày, không cầu gì khác.
Bắt đầu từ lúc nào, chúng sinh ngưỡng mộ sen xanh trước Phật, tuy ngâm mình giữa bùn, mà cách xa khói lửa, thanh khiết như băng như ngọc. Có lẽ trong những ngày tháng núi cao trăng khuất đó, sen cũng sẽ cô đơn, nhưng trước sau vẫn giữ mình tỉnh táo tự chủ, không kinh sợ, không phiền não. Khi cô đơn thì tựa vào lan can, ngắm chim én bay về phương Nam tìm tổ ẩm, hoặc quỳ trên nệm bồ đoàn, nghe Phật Đà giảng chuyện bồ đề năm xưa.
Bờ bên kia lửa đèn sáng rực, bờ bên này gió mát trăng thanh. Xưa nay hồng trần và cõi Phật đều chỉ cách nhau một bước chân, đành trông vào Phật duyên và tạo hoá của chúng sinh. Người giác ngộ sớm đã vượt sông lên bờ, dừng lại bên hoa sen mà sống. Còn kẻ u mê vẫn trôi nổi giữa dòng, không nơi neo đậu. Có người nói, đợi đến khi đoá hoa cuối cùng rơi rụng, ly trà cuối cùng lạnh ngắt, mối tình cuối cùng đứt đoạn, là siêu thoát. Nhưng sự chờ đợi ấy khiến tóc xanh biến thành tơ trắng. Thời gian trôi mãi trôi mãi, Phật duyên kiếp này cũng không trở lại. Tuy nói siêu thoát càng sớm càng tốt nhưng vạn sự trong nhân gian rốt cuộc vẫn coi trọng duyên pháp. Không phải vào trong đền miếu là có thể tâm tĩnh vô trần, dứt bỏ lo âu. Cũng không phải rơi vào lưới trần là vẩn đục nhiễm tục, không thể giải thoát. Chúng sinh bình đẳng, hoa sen trước Phật, hoa sen của hồng trần, không hề phân chia cao quý hay thấp hèn. Ai giác ngộ trước người đó có thể ra khỏi bờ bến nhân gian trước, đến cửa Niết Bàn, từ đó về sau không đến không đi, không buồn không vui.
“Kinh Nghiêm Hoa” viết: “Hết thảy chúng sinh đều có trí tuệ đức tướng của Như Lai, nhưng đều vì vọng tưởng chấp trước, nên không thể chứng ngộ.” Cùng là sen xanh, cùng nghe Phật Tổ giảng pháp, có đoá chỉ nghe một lần là giác ngộ, có đoá lại nghe ngàn vạn lần mà vẫn không thấu hiểu. Vì không chịu được sự tịch liêu lẻ bóng, hay vì tham luyến khói lửa phàm trần, mọi loại tiền duyên đều tự mình gánh vác. Thiền là gương sáng, có thể soi thấu ảo tượng mơ hồ của nhân gian, khiến cho cái gì nên ở lại thì ở lại, cái gì nên đi thì sẽ đi.
Siêu thoát, không cần nhét thêm hành lý, mà là bỏ tay nải xuống, gột tẩy tâm linh, bỏ qua tất cả. Siêu thoát là bước ra khỏi hoa rơi, không hỏi tới chuyện hồng trần, làm người đứng ngoài thế tục. Giác ngộ triệt để là không còn mê hoặc vì thế thái, bất cứ lúc nào cũng bộc lộ bản ngã chân thực. Cảnh giới của Thiền, quý giá nhất không gì hơn tự nhiên thấu tỏ. Cho dù bất đắc dĩ không thể siêu thoát, rơi vào giữa phố chợ cũng sẽ đứng ngoài cuộc, Thiền tâm như nước lặng.
Tâm như sen nở, từng lá từng hoa đều là Thiền. Mọi chúng sinh yêu hoa sen chính vì sự tự tại thản nhiên một nửa nhập trần, một nửa thoát tục của nó. Hoa sen chưa bao giờ cho chúng sinh bất cứ lời hứa nào, không định bất cứ ước hẹn nào, bởi vì tất cả chờ đợi hư vô đều là vô tội. Có lẽ bởi vì hoa sen có Phật tính và sự thanh khiết đặc biệt, khiến chúng sinh vừa nhìn đã say mê, cho nên họ cầu nguyện, đời này có thể làm một đoá sen xanh trước Phật, cô độc đếm những ngày tháng tĩnh lặng tuyệt mỹ, trăng khuyết rồi trăng lại tròn.
Có lẽ chúng sinh không hiểu, tại sao cây sen xanh đó kinh qua bao bãi bể hoá nương dâu, vẫn có thể không hẹn mà gặp ở mùa hoa, hơn nữa vĩnh viễn gió nhạt mây nhàn như thế, không hề bận tâm. Người tu hành giống như hoa sen, rũ bỏ hết phù hoa, an nhiên mà nở, tự tại mà rụng. Ngồi trên nệm bồ đoàn, độ cho hết thảy những người có thể độ.
Lý Cao đời Đường viết một bài thơ hỏi về đạo [21] rằng: “Luyện đắc thân hình tự hạc hình, thiên chu tùng hạ lưỡng hàm kinh. Ngã lai vấn đạo vô dư thuyết, vân tại thanh thiên thuỷ tại bình.” (Luyện được hình như thân hạc, dưới ngàn gốc tùng hai hòm kinh. Tôi đến hỏi đạo ngài chỉ nói, mây ở trời xanh nước ở hình). Sự tồn tại của Thiền, chính là tự nhiên như thế, như mây trắng trên trời, như tịnh thuỷ trong bình, rõ ràng trong sáng, giản đơn thuần phác. Vạn vật nhân gian luôn hướng tới Thiền, người tư thiền, chẳng chia sang hèn, chẳng màng thâm sâu, chỉ cần có một trái tim thuần khiết hướng đạo.
[21] Bài “Tặng Dược sơn cao tăng Duy Nghiễm”, bài số một.
Vầng trăng bồ đề treo ngoài cửa sổ, đoá sen diệu tâm tĩnh lặng trong nước. Năm tháng như tuyết, đun trên lửa lò, hết thảy bi hoan đều bị bốc hơi, chừa lại thứ nước tinh khiết trong vắt cho chúng sinh thưởng thức. Thiền có thể trị thương, có thể giải độc, có thể mang ngọn gió đến cho người ao ước sự mát lành, đem ánh nắng đến cho người chờ đợi sự ấm áp. Vĩnh viễn không cần thiền tâm của một người hoài nghi, cũng vĩnh viễn không cần hỏi nên tu thiền như thế nào, bởi vì thiền là nước chảy mây trôi, là tự tại an nhiên.
Phật nói, cực lạc của kiếp này chính là hoá sinh thành liên hoa trong Thất bảo trì [22]. Mỗi một người là một đoá tịnh liên, nếu tư chất tốt, sẽ nở sớm một chút, nếu ngộ tính kém cỏi, sẽ nở muộn một chút. Cùng trên con đường tu hành, cho dù là Thiền định sóng cả chẳng kinh, hay là khổ hạnh dầm sương dãi gió, chốn về, cũng đều giống nhau. Dù hoá thần vạn triệu lần, cũng chìm đắm trong Công Đức thuỷ [23] đợi một lần gặp duyên mà bừng nở.
[22] Thất Bảo trì: Thuật ngữ Phật giáo, chỉ đầm hoa sen do bảy bảo vật tạo thành ở tịnh thổ Tây phương, những người đầu sinh nơi tịnh thổ sẽ được hoá thành hoa sen trong đầm này.
[23] Công Đức Thuỷ: Tức bát nước Công Đức. Trong thế giới Tây phương cực lạc của Phật giáo, nơi nơi đều có Thất Diệu Bảo trì, Bát Công Đức thuỷ chày đầy trong đó. Nước này tinh khiết, lạnh buốt, ngọt lịm, mềm dịu, trơn nhuận, an hoà, khi uống ngoài giải khát, còn có thể tăng thêm thiện lương.
“Kinh Kim Cương” viết: “Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng, kiến chư tướng phi tướng, tắc kiến Như Lai.” ( Phàm là cái gì có tướng, đều là hư dối, thấy mọi thứ có tướng mà lại không phải tướng, tức là thấy Phật). Có nghĩa là cảnh giới của Thiền, cho dù quá trình như thế nào, non nước trùng lặp hay là ngàn vách đá vạn khe sâu, đến cuối cùng, vạn dòng đồng tôn, vạn pháp quy nhất. Cho nên, trong mỗi một ngày tu hành, không cần trèo đèo lội suối, chỉ cần hiện tại an ổn, an nhiên nhìn mưa phùn gió nhẹ, mây đến mây đi bên ngoài cửa sổ mà thôi.
Xuyên qua rừng cây nhân sinh gai góc dày đặc, phía trước đã là đồng bằng thẳng cánh, trời cao bể rộng. Buông bỏ chấp ngã, tuỳ duyên tự tại. Kiếp sau nguyện hoá thành đài sen, ngồi dưới thân Di Đà nghe kinh. Dùng tâm từ bi bồ đề, độ chúng sinh như hoa sen.
Đều nói nhân gian là sân khấu, những chúng sinh đi xuyên qua hồng trần, mỗi ngày đều bận rộn diễn một vở kịch gọi là cuộc sống, đi qua biết bao cây cầu, nhìn qua vô số mây bay, kinh qua trăm ngàn lần tụ tán, rồi một ngày, liệu có cần gỡ bỏ trang sức đời người, trở lại với bản ngã thuần khiết thanh tịnh hay không? Dưới gốc bồ đề bình thản tu hành, ngắm núi xanh che mặt trời, nước biếc không gợn sóng.
Bốn mùa luân chuyển, những vách đá có cây đã trải qua ngàn vạn năm đó, cũng chẳng tránh nổi vòng luân hồi tháng năm. Kỳ thực, tất cả con người đều có lựa chọn của riêng mình, mỗi một bến đỗ đều là bản thân cam tâm tình nguyện dừng lại, nhân quả chưa từng nợ chúng ta điều gì, chúng ta cũng không có lý do gì để oán trách. Tu hành là một vị thuốc, vị thuốc này có thể biến kẻ ngu muội thành người thông tuệ, khiến kẻ say sưa thành người tỉnh táo, khiến kẻ cuồng si sớm được giác ngộ. Vì vậy chúng sinh nên lập tức cắt bỏ trần duyên, đoạn tuyệt nợ nần, mang hành trang gọn nhẹ lên đường, đi tìm hoa bồ đề nở đã từng thấy trong giấc mộng.
Tất cả của ngày hôm qua đều là chuyện cũ xa xưa, trút bỏ mớ trang sức thời gian, ung dung bước ra khỏi thế giới phù hoa, tâm hồn trong vắt như nước. Từ đó về sau, thuyền chài xướng hoạ, thưởng trăng buông cần, mặc kệ hoa lau như tuyết, mây khói bao trùm. Dưới gốc cây bồ đề, cỏ bồ vẫn như xưa, đây là một đạo tràng từ bi, vạn vật sinh linh trên thế gian đều có thể tu hành tại đây, chẳng hề phân biệt. Những câu chuyện đã từng mơ hồ, nay bắt đầu sáng tỏ, những tình cảm đã từng mông lung vô định, nay cũng đã chấp nhận bỏ qua.
Tu hành là một sự siêu thoát tự do mà thanh cao. Cái gọi là đi đến nơi sơn cùng thuỷ tận, ngồi ngắm mây bay, chính là cảnh giới của tu Thiền. Cũng có nghĩa là tìm được vẻ đẹp giản đơn giữa thiên nhiên non nước trong lộ trình nhân sinh vốn quanh co gập ghềnh. Chứng ngộ thực sự, không chỉ là có được sự yên ổn giữa lúc nóng vội, cũng có được sự giải thoát từ trong nỗi cô đơn; không chỉ là phóng thích sự nhiệt tình, mà còn làm bình ổn sự lạnh lùng. Điều chúng ta cần, không phải là khiến bản thân chuyên tâm tu luyện, lĩnh hội sâu sắc như thế nào, mà là phải loại bỏ phồn tạp giữ lại giản đơn, ung dung tự tại.
Năm đó Lục Tổ Huệ Năng từng có bài kệ rằng: “Bồ đề vốn không cây, gương sáng chẳng phải đài. Vốn không phải một vật, chỗ nào bám bụi bặm?” Lục Tổ đang điểm hoá chúng sinh, tất cả sự vật trên thế gian đều là hư ảo. Có người nói, tu hành như thế nào mới có thể quên sạch mọi thứ của kiếp trước, thanh thản sống ở kiếp này. Vừa không phải tiêu cực trốn tránh, vừa không phải khó khăn chọn lựa, là đã có thể xoá sạch quá khứ rồi.
Uống một chén canh Mạnh Bà, như thế có thực sự xoá bỏ được mọi ký ức, lãng quên mọi yêu hận vui buồn hay không? Có lẽ bản nghĩa của canh Mạnh Bà không phải là khiến mỗi con người dứt khoát đoạn tuyệt với quá khứ, mà là hy vọng mỗi con người có thể tẩy rửa hành trang phù phiếm trên mình. Từ đây cáo biệt hoa cỏ tầm thường của hồng trần, được phục sinh dưới gốc cây bồ đề. Vậy hãy qua đò như Thế Âmà đi, rời khỏi cây cầu đơn sóng nhỏ, mây biếc liễu xanh, ở bờ bên kia của mặt sông soi bóng bầu trời bao la, tìm được đoá hoa bồ đề thuần khiết.
Những điều đã nói đó, những người đồng sinh cộng tử chốn nhân gian đó, cuối cùng chỉ còn lại một nụ cười cáo biệt nhau, cùng lãng quên nhau trên chốn giang hồ. Có lẽ một ngày nào đó trên con đường cầu Phật, sẽ lần nữa trùng phùng, nhưng những lời thề non hẹn biển của ngày hôm qua đã sớm bị lãng quên, ai vui chuyện người nấy. Dưới gốc cây bồ đề, biết bao sinh mệnh ngu ngơ chậm chạp đều có thể được đốn ngộ. Họ bắt đầu tôn trọng mỗi loại sinh linh, bắt đầu tin rằng hết thảy mọi thứ trên đời đều là tự nhiên, không một chút cưỡng cầu.
Lưng đeo hành trang Thiền là bước ra khỏi nơi phàm trần sâu thẳm nhất, núi xanh làm màn, nước chảy làm giường. Một mình buông câu trên sông Tuyết là ta, chặt củi ở núi Nam là ta, dạo bước trong mây là ta, gối đầu lên đá tảng cũng là ta. Chỉ có đồng hành cùng tự nhiên, mới có thể không bận tâm đến năm năm tháng tháng, để mặc bóng câu qua cửa, nội tâm như giếng cổ không gợn sóng. Nếu như lạc lối chốn đồng hoang hay say ngã trước rừng phong, chỉ cần tìm được một gốc bồ đề là tìm được chốn về. Giữ một khoảng trời tinh khiết, cảm nhận tự nhiên, ngắm nhìn vầng dương lặn, ngọn gió mát lành, núi sông tĩnh mịch.
Độ lấy nước là đường, sen là thuyền. Những người cùng bạn chung thuyền vượt sông năm đó, không ai có thể đi với bạn đến điểm cuối cùng. Một số người giữa đường từ biệt, một số người đi lướt qua nhau, một số người vô tình tụt lại. Nhưng chúng ta nên tin rằng, cho dù con đường có xa xôi bao nhiêu, chúng ta đều có thể tìm được một bến bờ thuộc về riêng mình. Cho nên, đừng bao giờ nghi ngờ sự thiện lương trong một con người, bởi vì đối diện với khốn cảnh, chúng sinh sớm đã học được lòng khoan dung và tha thứ.
Tất cả duyên phận trên thế gian vốn đều tầm thường và nhạt nhẽo. Vì có những câu chuyện lưu chuyển đến nghìn năm, có những sự đợi chờ xoay vần đến vạn kiếp, mới khiến người ta cảm thấy sự gặp gỡ của kiếp này không dễ gì có được. Những hạnh phúc và đau thương mà chúng ta chứng kiến cùng trôi dạt trên một dòng chảy, đến cuối cùng đều không tách bạch nổi ý nghĩa của hai bên. Tháng năm trôi qua trong câm lặng, những người những việc đã từng gặp, dần dần xa vời rồi trở nên nhạt nhoà. Chỉ có đoá hoa bồ đề vẫn vĩnh viễn còn đó, năm tháng không thể mài mòn. Vẫn tu luyện trong hồng trần, vẫn trong sáng thanh tịnh, vẫn an ổn vui vầy, bình yên hiền hoà như cũ.
Phật nói: “Đời người sống trên trần thế như sống giữa bụi gai, tâm không động, người cũng không làm bừa, không động thì không bị thương; nếu tâm động thì người sẽ làm bừa, tổn thương thân thể, đau đớn cốt tủy, thế nên lĩnh hội đủ mọi đau khổ trên thế gian.” Bất cứ lúc nào đều phải làm một bản ngã đơn giản, trong sạch, đối đãi một cách khoan dung với cuộc sống, trân trọng bản thân và mỗi người xung quanh mình. Chỉ có như thế, mới có thể có một trái tim sạch sẽ trong sáng như pha lê. Cho dù vô tình bị bụi bặm của thời gian che phủ, cũng trong đục rõ ràng. Ba ngàn thế giới, bóng hình thoáng qua, cái chúng ta nhìn thấy được chỉ là một hạt bụi nhỏ nhoi, một làn nước thu, một mảnh trăng khuyết.
Mơ một giấc mơ thanh khiết như nước, trong mộng không biết bồ đề đã mấy độ nở hoa. Giữa xứ Phật mênh mông vạn Phật, nghìn năm cũng chẳng qua là một sát na, mà sát na lại là vĩnh viễn. Luôn ngỡ rằng trên đời này không có ân oán nào là không thể xoá tan, không có lòng người nào là không thể lay động, những chuyện trăng gió cũ, những món nợ tiền duyên, qua thời gian đều có thể khuây khoả.
Đều nói đời người là một màn kịch vĩnh viễn không kết thúc, cho nên dù giang sơn đổi chủ, bãi bể nương dâu, đều chỉ là quy luật tự nhiên. Lá rụng núi vắng, đường nhỏ xanh râu, dù cho đã từng cáo biệt thì vẫn sẽ không hẹn mà gặp. Đợi đến khi bụi bặm của tháng năm đều được gạn lọc, hãy coi mỗi ngày đều là một ngày đẹp, hãy coi mỗi người đều là lần đầu gặp gỡ trong cuộc đời, hãy đổi mỗi đoá hoa thành muôn hồng ngàn tía.
Sau này mới biết một bài hát tên là “Hoa bồ đề”. Thanh âm trong trẻo uyển chuyển cất lên kể hết sự tình ngàn năm, khiến người ta quên mất tu hành, không kìm được mà nảy sinh trần niệm. Nhưng cũng chỉ là sự tập trung tinh thần trong thời gian ngắn ngủi, sau khi giai điệu rung động lòng người kết thúc, chúng ta đều phải từ bỏ. Bất cứ lưu luyến nào đều bị đẩy vào vòng luân hồi của thời gian, tu luyện nhiều năm cũng sẽ uổng hết công lao. Cảnh giới của tu Thiền, không phải nước lặng chảy sâu, chỉ là tuỳ duyên mà an. Hoa bồ đề
Ta là hoa bồ đề trên cây bồ đề, lạnh lùng nhìn bụi trần ngàn năm chốn nhân thế.
Chàng lưu luyến dưới gốc cây, khoảnh khắc ngoái đầu nhìn nhau đó, khắp đất trời chỉ còn lại hàng mi như tranh vẽ của chàng.
Mặt hồ in bóng chiếc áo trắng tựa tuyết của chàng bên cạnh hoa sen, trần niệm nổi lên, hồng đậu vì ai mà nở.
Mặt hồ in ánh mắt như trăng soi bóng nước của chàng, từ đây khắc cốt ghi tâm, một đời vương vấn.
Ta quên mất sự tu hành nghìn năm, luân hồi thành người phàm trần.
Chỉ để tìm một người trong hồng trần, cùng đi đến chân trời góc bể.
Nhớ đến khi thêu rèm cửa sổ, bóng dáng thanh tú tĩnh lặng chìm khuất, ai người tiếp đón.
Giữa biển người mênh mông, nương dâu biến ảo, lại một mùa hạ trôi qua, bước chân ta đã loạng choạng, tóc bạc trắng như tơ.
Năm xưa dưới gốc cây bồ đề, ai đang uổng công than thở, trên mặt hồ thấp thoáng một đoá hoa bồ đề.
Ta là hoa bồ đề trên cây bồ đề, lạnh lùng nhìn bụi trần ngàn năm chốn nhân thế.
Chàng lưu luyến dưới gốc cây, khoảng khắc ngoái nhìn nhau đó, khắp đất trời chỉ còn lại hàng mi như tranh vẽ của chàng.
Trường đình mười dặm nhớ áo choàng của chàng tung bay đón ráng bình mình, rượu trong một chén cơn say gẩy tì bà.
Trường đình mười dặm nhớ áo mỏng của chàng buông trên tuấn mã, mưa dầm một trận biết bao lời tương tư.
Ta đã quên mất tu hành ngàn năm, để đi tìm chàng.
Có biết bao nam thanh nữ tú tình sâu như biển, lại trở thành kẻ xa lạ giữa nhân gian. Biết bao nhiêu lời hẹn ước dài lâu như trời đất, lại trở thành tơ lả tả bay trong gió. Tất cả đều không quan trọng nữa, trước đức Phật từ bi, những chuyện vụn vặt hồng trần ấy đã sớm không là gì. Ngày sau còn dài, nếu như có duyên, nguyện cho thế gian, cho bạn cho tôi, đều có thể tụ hội dưới gốc cây bồ đề, uống vài chén Thiền trà, đọc vài chương kinh văn, ngắm hoa bồ đề rụng rồi lại nở.
Làm một đoá sen xanh trước Phật
Có lẽ chúng ta đều biết, trong vạn vật, thứ được chúng sinh coi là có Phật tính nhất, đó là hoa sen xanh trước Phật. Làm một đoá sen xanh trước Phật, mọc lên từ giữa dòng tịnh thuỷ, không chỉ là mơ ước của tín đồ, mà còn là tâm nguyện của chúng sinh.
Dường như bất cứ ai vào bất cứ lúc nào, chỉ cần làm một đoá sen xanh trước Phật, là có thể cất giữ mọi quá khứ trong toà thành tên gọi là kiếp trước. Bất luận đã từng nếm biết bao khói lửa nhân gian, đều có thể trở về thuần khiết chỉ trong sát na. Chúng sinh mê đắm phong cốt của hoa sen, yêu sự thanh tĩnh, mát lành, độc lập của nó.
Nhiều năm trước, Phật và hoa sen đã có tình cảm thắm thiết. Thắng cảnh Linh Sơn, vạn Phật ngồi nghiêm trên đài sen, chúng sinh cúi lạy. Chư Phật ban phát yêu thương, không khước từ những người thấp hèn, giảm nỗi khổ bị giày vò cho chúng sinh, tránh những luân hồi không cần thiết. Từng có lúc, Phật cũng đã du lịch chốn trần ai xa thẳm của nhân gian, đã từng trải qua buồn vui tan hợp. Nhờ độ hoá cho loài sinh vật nào đó trở nên lương thiện, mới từ bỏ vọng tưởng và chấp trước, có được sự bình thản và an nhàn như ngày nay.
Làm một đoá sen xanh trong nước, ở yên một góc trước Phật, mỗi ngày nghe tiếng gió vi vu khe khẽ thổi qua nơi góc thềm, nhìn ngắm bóng trăng mơ hồ thưa thớt. Cho dù ngày tháng bên ngoài lan can trôi qua chậm chạp bao lâu, hoặc là đi nhanh bao nhiêu, sen vẫn luôn như thế. Những người từ hồng trần đến trước Phật gỡ mọi hành trang thế tục xuống, trở về với bản nguyên, cùng một đoá sen bắt đầu cuộc đối thoại bằng tâm hồn, vừa kéo dài vừa thanh tịnh.
Sen dùng từ bi để thanh tỉnh tự chủ, nghe quen tiếng trống chiều chuông sớm, đọc kỹ kinh kệ thi văn, sớm đã tịnh hoá thành vật thuần khiết, có linh tính. Sen trồng trong “nước Nhược ba ngàn [20]”, một đời thanh bạch, khiến sinh linh ly tán trong nhân gian không còn âm thầm đau thương nữa. Cây sen xanh đó cũng không biết mình đã tu luyện bao nhiêu năm trước Phật, ngâm sâu trong nước, đâm thẳng lên cao, từ đây luân hồi cũng thành tươi đẹp.
[20] Nước Nhược ba ngàn: Thời cổ có rất nhiều dòng sông nước nông mà chảy xiết, không thể dùng thuyền mà phải dùng bè để vượt qua, người cổ cho rằng vì nước sông quá yếu nên không chở nổi thuyền, vì thế gọi là Nhược Thuỷ. Dần dần, trong văn học cổ dùng Nhược Thuỷ để chỉ những dòng nước xiết mà xa xôi, trong “Hồng lâu mộng” lại dùng để ví với tình yêu sâu tựa biển.
Khi một người đối diện với trần thế bận rộn không cách nào thoát ra được, so với thoả hiệp để mình ngã sâu vào bể nhuộm, chẳng thà thấu hiểu mà buông tay. Giữa bốn mùa luân chuyển, ngắm nhìn mây phiêu du bên trời, trăng treo trên ngọn cây, một cành mai xanh như có như không ngả vào sân vắng. nếu như phàm trần thực sự có biết bao điều không nỡ từ bỏ như thế, có thể lựa chọn ở lại, chỉ cần không khăng khăng chuyện được mất. Từ đó về sau, mấy quyển kinh thư, một ly trà trong, tháng năm bình dị, đạm bạc, giản đơn tĩnh lặng qua ngày, không cầu gì khác.
Bắt đầu từ lúc nào, chúng sinh ngưỡng mộ sen xanh trước Phật, tuy ngâm mình giữa bùn, mà cách xa khói lửa, thanh khiết như băng như ngọc. Có lẽ trong những ngày tháng núi cao trăng khuất đó, sen cũng sẽ cô đơn, nhưng trước sau vẫn giữ mình tỉnh táo tự chủ, không kinh sợ, không phiền não. Khi cô đơn thì tựa vào lan can, ngắm chim én bay về phương Nam tìm tổ ẩm, hoặc quỳ trên nệm bồ đoàn, nghe Phật Đà giảng chuyện bồ đề năm xưa.
Bờ bên kia lửa đèn sáng rực, bờ bên này gió mát trăng thanh. Xưa nay hồng trần và cõi Phật đều chỉ cách nhau một bước chân, đành trông vào Phật duyên và tạo hoá của chúng sinh. Người giác ngộ sớm đã vượt sông lên bờ, dừng lại bên hoa sen mà sống. Còn kẻ u mê vẫn trôi nổi giữa dòng, không nơi neo đậu. Có người nói, đợi đến khi đoá hoa cuối cùng rơi rụng, ly trà cuối cùng lạnh ngắt, mối tình cuối cùng đứt đoạn, là siêu thoát. Nhưng sự chờ đợi ấy khiến tóc xanh biến thành tơ trắng. Thời gian trôi mãi trôi mãi, Phật duyên kiếp này cũng không trở lại. Tuy nói siêu thoát càng sớm càng tốt nhưng vạn sự trong nhân gian rốt cuộc vẫn coi trọng duyên pháp. Không phải vào trong đền miếu là có thể tâm tĩnh vô trần, dứt bỏ lo âu. Cũng không phải rơi vào lưới trần là vẩn đục nhiễm tục, không thể giải thoát. Chúng sinh bình đẳng, hoa sen trước Phật, hoa sen của hồng trần, không hề phân chia cao quý hay thấp hèn. Ai giác ngộ trước người đó có thể ra khỏi bờ bến nhân gian trước, đến cửa Niết Bàn, từ đó về sau không đến không đi, không buồn không vui.
“Kinh Nghiêm Hoa” viết: “Hết thảy chúng sinh đều có trí tuệ đức tướng của Như Lai, nhưng đều vì vọng tưởng chấp trước, nên không thể chứng ngộ.” Cùng là sen xanh, cùng nghe Phật Tổ giảng pháp, có đoá chỉ nghe một lần là giác ngộ, có đoá lại nghe ngàn vạn lần mà vẫn không thấu hiểu. Vì không chịu được sự tịch liêu lẻ bóng, hay vì tham luyến khói lửa phàm trần, mọi loại tiền duyên đều tự mình gánh vác. Thiền là gương sáng, có thể soi thấu ảo tượng mơ hồ của nhân gian, khiến cho cái gì nên ở lại thì ở lại, cái gì nên đi thì sẽ đi.
Siêu thoát, không cần nhét thêm hành lý, mà là bỏ tay nải xuống, gột tẩy tâm linh, bỏ qua tất cả. Siêu thoát là bước ra khỏi hoa rơi, không hỏi tới chuyện hồng trần, làm người đứng ngoài thế tục. Giác ngộ triệt để là không còn mê hoặc vì thế thái, bất cứ lúc nào cũng bộc lộ bản ngã chân thực. Cảnh giới của Thiền, quý giá nhất không gì hơn tự nhiên thấu tỏ. Cho dù bất đắc dĩ không thể siêu thoát, rơi vào giữa phố chợ cũng sẽ đứng ngoài cuộc, Thiền tâm như nước lặng.
Tâm như sen nở, từng lá từng hoa đều là Thiền. Mọi chúng sinh yêu hoa sen chính vì sự tự tại thản nhiên một nửa nhập trần, một nửa thoát tục của nó. Hoa sen chưa bao giờ cho chúng sinh bất cứ lời hứa nào, không định bất cứ ước hẹn nào, bởi vì tất cả chờ đợi hư vô đều là vô tội. Có lẽ bởi vì hoa sen có Phật tính và sự thanh khiết đặc biệt, khiến chúng sinh vừa nhìn đã say mê, cho nên họ cầu nguyện, đời này có thể làm một đoá sen xanh trước Phật, cô độc đếm những ngày tháng tĩnh lặng tuyệt mỹ, trăng khuyết rồi trăng lại tròn.
Có lẽ chúng sinh không hiểu, tại sao cây sen xanh đó kinh qua bao bãi bể hoá nương dâu, vẫn có thể không hẹn mà gặp ở mùa hoa, hơn nữa vĩnh viễn gió nhạt mây nhàn như thế, không hề bận tâm. Người tu hành giống như hoa sen, rũ bỏ hết phù hoa, an nhiên mà nở, tự tại mà rụng. Ngồi trên nệm bồ đoàn, độ cho hết thảy những người có thể độ.
Lý Cao đời Đường viết một bài thơ hỏi về đạo [21] rằng: “Luyện đắc thân hình tự hạc hình, thiên chu tùng hạ lưỡng hàm kinh. Ngã lai vấn đạo vô dư thuyết, vân tại thanh thiên thuỷ tại bình.” (Luyện được hình như thân hạc, dưới ngàn gốc tùng hai hòm kinh. Tôi đến hỏi đạo ngài chỉ nói, mây ở trời xanh nước ở hình). Sự tồn tại của Thiền, chính là tự nhiên như thế, như mây trắng trên trời, như tịnh thuỷ trong bình, rõ ràng trong sáng, giản đơn thuần phác. Vạn vật nhân gian luôn hướng tới Thiền, người tư thiền, chẳng chia sang hèn, chẳng màng thâm sâu, chỉ cần có một trái tim thuần khiết hướng đạo.
[21] Bài “Tặng Dược sơn cao tăng Duy Nghiễm”, bài số một.
Vầng trăng bồ đề treo ngoài cửa sổ, đoá sen diệu tâm tĩnh lặng trong nước. Năm tháng như tuyết, đun trên lửa lò, hết thảy bi hoan đều bị bốc hơi, chừa lại thứ nước tinh khiết trong vắt cho chúng sinh thưởng thức. Thiền có thể trị thương, có thể giải độc, có thể mang ngọn gió đến cho người ao ước sự mát lành, đem ánh nắng đến cho người chờ đợi sự ấm áp. Vĩnh viễn không cần thiền tâm của một người hoài nghi, cũng vĩnh viễn không cần hỏi nên tu thiền như thế nào, bởi vì thiền là nước chảy mây trôi, là tự tại an nhiên.
Phật nói, cực lạc của kiếp này chính là hoá sinh thành liên hoa trong Thất bảo trì [22]. Mỗi một người là một đoá tịnh liên, nếu tư chất tốt, sẽ nở sớm một chút, nếu ngộ tính kém cỏi, sẽ nở muộn một chút. Cùng trên con đường tu hành, cho dù là Thiền định sóng cả chẳng kinh, hay là khổ hạnh dầm sương dãi gió, chốn về, cũng đều giống nhau. Dù hoá thần vạn triệu lần, cũng chìm đắm trong Công Đức thuỷ [23] đợi một lần gặp duyên mà bừng nở.
[22] Thất Bảo trì: Thuật ngữ Phật giáo, chỉ đầm hoa sen do bảy bảo vật tạo thành ở tịnh thổ Tây phương, những người đầu sinh nơi tịnh thổ sẽ được hoá thành hoa sen trong đầm này.
[23] Công Đức Thuỷ: Tức bát nước Công Đức. Trong thế giới Tây phương cực lạc của Phật giáo, nơi nơi đều có Thất Diệu Bảo trì, Bát Công Đức thuỷ chày đầy trong đó. Nước này tinh khiết, lạnh buốt, ngọt lịm, mềm dịu, trơn nhuận, an hoà, khi uống ngoài giải khát, còn có thể tăng thêm thiện lương.
“Kinh Kim Cương” viết: “Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng, kiến chư tướng phi tướng, tắc kiến Như Lai.” ( Phàm là cái gì có tướng, đều là hư dối, thấy mọi thứ có tướng mà lại không phải tướng, tức là thấy Phật). Có nghĩa là cảnh giới của Thiền, cho dù quá trình như thế nào, non nước trùng lặp hay là ngàn vách đá vạn khe sâu, đến cuối cùng, vạn dòng đồng tôn, vạn pháp quy nhất. Cho nên, trong mỗi một ngày tu hành, không cần trèo đèo lội suối, chỉ cần hiện tại an ổn, an nhiên nhìn mưa phùn gió nhẹ, mây đến mây đi bên ngoài cửa sổ mà thôi.
Xuyên qua rừng cây nhân sinh gai góc dày đặc, phía trước đã là đồng bằng thẳng cánh, trời cao bể rộng. Buông bỏ chấp ngã, tuỳ duyên tự tại. Kiếp sau nguyện hoá thành đài sen, ngồi dưới thân Di Đà nghe kinh. Dùng tâm từ bi bồ đề, độ chúng sinh như hoa sen.
Lướt qua nhau giữa hồng trần
Đời người có rất nhiều cuộc gặp gỡ, cho dù bạn lựa chọn đi trên con đường nào, đều có những người đi đường lướt qua nhau. Hồng trần như thế, đạo tràng bồ đề cũng như thế. Trong sự tụ tán ly hợp tất nhiên đó, những người này sẽ có một ngày bỏ bạn mà đi. Duyên sâu duyên mỏng, năm dài tháng ngắn, cũng chỉ giữa sự qua lại lại qua.
Nhân duyên lưu chuyển, khởi diệt đều không thể dự đoán. Thế gian này không ai có thể thực sự đi cùng bạn đến phút cuối của cuộc đời, vạn cổ bất biến, chỉ có non xanh nước biếc. Những sinh linh đã thấu hiểu Phật tính, trên chặng đường xa xôi chắc chắn sẽ không mê lạc, không cô đơn. Dòng người đi lướt qua nhau, có rất nhiều cơ duyên nhầm lẫn, mất mát đều trở thành thu hoạch. Bởi vì, cho dù chỉ còn lại một chiếc giường lạnh, một chiếc áo cũ, một bát cháo trắng, chúng ta vẫn có thể dựa vào chính mình.
Mỗi người đều là hòn đá bắc qua sông, đều là ngọn đèn soi sáng cho chúng ta hướng về. Gặp gỡ là mây tụ, ly biệt là mây tan, đều sẽ không ảnh hưởng đến vẻ đẹp của bầu trời. Chầm chậm thả bước trên đường nhỏ giao nhau giữa hồng trần, đi cùng ai cũng không quan trọng. Quan trọng là bản thân tìm thấy con đường sáng tỏ, thông suốt, sau đó, nước biếc bờ mây, trời cao đất rộng, nhàn nhã vô cùng.
Tuỳ duyên tự tại, tự tại tuỳ duyên. Một hạt bụi chứa vạn tượng, một ý niệm chứa ba ngàn. Người đời luôn thích coi gặp gỡ là kiếp số, coi danh lợi là lưới trần không thể thoát khỏi. Nhưng lại không biết, một cái tâm thiền định có thể gánh vác được phong vân biến đổi, sóng cuộn dâng trào của hết thảy nhân gian. Những con người đã từng gặp nhau đường hẹp đó đi về đâu, vốn đã không cần câu trả lời nữa.
“Kinh Viên Giác [24]” viết: “Nhất thiết chúng sinh chủng chủng huyễn hoá, giai sinh Như Lai viên giác diệu tâm, do như không hoa, tòng không nhi hữu. Huyễn hoá tuy diệt, không tính bất bại, chúng sinh huyễn tâm, hoàn y huyễn diệt, chư huyễn tận diệt, giác tâm bất động,” (Tạm dịch: Tất cả chúng sinh và mọi vật huyễn hoá, đều sinh từ Viên giác diệu tâm Như Lai, ví như hoa ảo trong hư không, từ hư không mà có. Hoa ảo tuy diệt mà tính hư không không hoại, tâm ảo của chúng sinh lại y nơi pháp ảo mà diệt, pháp ảo tâm ảo diệt hết thì tính giác bất động) Đời người như ảo mộng, một người lướt qua, một người quay đầu, liền thành vật nay còn đó người đã khác xưa. Đối với quá khứ, chớ nên ngoái nhìn lưu luyến, mà hãy để nó sạch trơn như gió mát, thong thả như mây trôi.
[24] “Kinh Viên Giác”, tên đầy đủ là “Đại Phương Viên Giác Tu Đa La Liễu Nghĩa Kinh”, còn gọi là “Đại Phương Quảng Viên Giác kinh”, “Viên Giác Tu Đa La Liễu Nghĩa kinh”, “Viên Giác Liễu Nghĩa kinh”, là một trong những kinh điển Phật giáo Đại Thừa.
Người tu hành, hết thảy pháp, đều là Phật pháp; hết thảy tâm, đều là Thiền tâm. Dùng đôi mắt Bát Nhã nhìn thế gian Ta Bà, mỗi một hạt bụi đều có định lực, mỗi một cọng cỏ đều là thuốc lành, mỗi một tấc đất đều nở rộ hoa sen. Nhân gian là đạo tràng tu hành hoàn mỹ nhất, trong khói lửa vẩn đục có thể tìm thấy một chiếc gương trong sáng, thấy chân tính mà thành Phật [25]. Từ đó trăng thanh gió mát, vui vẻ bình an, trời nước một màu, sơn hà tự tại.
[25] Nguyên văn “kiến tính thành Phật”, trích trong bài kệ 4 câu, tương truyền là của Bồ Đề Đạt Ma, vị tổ đầu tiên của dòng thiền Trung Quốc. Bài kệ này là kim chỉ nam của Thiền tông Đại thừa: Bất lập văn tự/ Giáo ngoại biệt truyền/ Trực chỉ chân tâm/ Kiến tính thành Phật (dịch nghĩa: Không lập chữ nghĩa/ Truyền giáo pháp ngoài kinh điển/ Chỉ thẳng tâm thật/ Thấy tính thành Phật.)
Phật du hành giữa nhân gian, chúng sinh đều có cơ duyên gặp Phật. Có thể tại một ngõ mưa, đá xanh nào đó, một bến đò ly biệt nào đó, hoặc là một con đường núi lá rụng đầy nào đó. Lại hoặc là cùng uống một ấm trà, cùng hái một nhành hoa, ngồi cùng một tấm nệm. Những nơi Phật đi qua đều là quốc thổ thanh tịnh. Những nơi Phật đã ban phát tình yêu, đều là thế giới bồ đề.
Đối với Thiền giả, tất cả nhân duyên, tất cả vui buồn, đều có thể được hong khô dưới ánh nắng mặt trời. Một bậc Thiền giả, cái người đó truy cầu không phải là nội tâm sâu sắc thế nào, mà là làm thế nào để tâm trong như nước. Dù bước đi trên rừng đao núi kiếm, vẫn có thể ung dung kiên định; lạc giữa biển khói mây mù, vẫn có thể sáng lòng thấy được chân tính.
Hoa nở là hữu tình, hoa rơi là vô ý. Người đến là duyên khởi, người đi là duyên tàn. Ba ngàn thế giới, mỗi một ngày đều sẽ có lướt qua, mỗi một ngày đều sẽ có trùng phùng. Tu Thiền không cần dốc lòng, rất nhiều người vì một mối tình duyên, cam tâm quay ngược lại con đường luân hồi, cho dù phải trải qua đợi chờ hàng ngàn năm, đổi lại chỉ được một cái quay đầu ngắn ngủi, cũng không oán không hận. Nhưng có lẽ chính trong khoảnh khắc quay đầu đó, trong thời gian năm tháng, bỗng nhiên đốn ngộ. Bất cứ chấp ngã nào cũng đều là phiền não, duy chỉ có từ bỏ, mới có thể tự tại.
Duyên phận giữa người và người, tuy có thuyết định mệnh, nhưng trong cuộc đời, có rất nhiều sự an bài hoàn toàn là ngoài ý muốn, chúng ta không cần vì một vài điều ngoài ý muốn mà cố giữ gió trăng. Tu Thiền cũng vậy, không cần dốc lòng, mà cốt quý ở tự nhiên. Vạn vật đều có Phật tính, tức là giữa một ngày rất đỗi bình thường, bạn làm thế nào để tìm được một phong cảnh thuộc về bản thân mình.
Những quá khứ đã trôi đi thật xa đó không phải là để quay đầu luyến tiếc, cũng không phải là để quên lãng, chỉ coi nó là sự tồn tại đơn giản, coi nó là dòng suối cần phải băng qua khi muốn lên bờ. Không để tâm ai đã từng tới, ai đã từng đi, lướt qua nhau tuy chỉ khoảnh khắc, dừng lại cũng chẳng thể một đời. Thế sự mênh mang, giấc mộng năm xưa đã sớm hoá thành vô số hoa rơi. Chúng ta không cần thiết đi nhặt lại ngày hôm qua đã mất.
Thuyền buông sông hồ, gặp sóng cả hồng trần, không cần sợ hãi. Chỉ cần không bị tình cảm và danh lợi trói buộc, bất cứ lúc nào cũng có thể rẽ nước mà xuôi, cưỡi gió mà chạy. Hồng trần như chuyến đi ngược chiều, chúng ta đều là người đi đường, là khách vãng lai. Từ điểm xuất phát của sinh mệnh, dọc đường lặn lội, nếm hết phong trần, trong hành lý mang trên vai đều là quá khứ nhiều năm. Mà đường về, cuối cùng nằm ở đâu? Người trong thế tục cho rằng bỏ hành lý trên vai xuống là tìm được về cố hương của đời mình. Nhưng người tu hành, chỉ cần tâm như tịnh thuỷ, là có thể ngộ đạo.
Chúng sinh quay về, cho dù gặp phải kiếp số ra sao, bất cứ cuộc du hành nhân gian nào đều sẽ đột ngột dừng lại. Ngày ấy, thế sự như nước rút đá bày, sóng xô phẳng lặng. Người đời đi khắp vạn nước ngàn non, những gió sớm ngày tan, hoa thắm liễu xanh đó, trở thành phong cảnh dù có quay người cũng khó quên. Mà Phật Đà chỉ cần ngồi thiền dưới gốc bồ đề, không dựa vào ngoại vật, là có thể nhận biết tự nhiên, thu được chứng ngộ.
“Kinh Kim Cương” viết: “Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh, như lộ diệc như điện, ứng tác như thị quán.” (Tạm dịch: Tất cả pháp hữu vi. Như mộng, huyễn, bọt, bóng. Như sương, như điện chớp. Nên quán tưởng như thế) Đời người như giấc mộng, hết thảy phàm trần đều là hư ảnh. Dùng tâm bồ đề dung nạp mọi nỗi khổ của chúng sinh, vạn vật đều thuần tuý hoá thiện.
Thiền là mộc mạc, không cần trang sức mỹ lệ sinh động. Thiền cũng là tầm thường, không phải thần thoại xa xôi, huyền ảo. Thiền trong cuộc sống bình thường của chúng ta, trong mỗi khoảnh khắc của một cái lướt qua. Chỉ cần nội tâm sáng suốt bình hoà, mặc cho gió mây cuốn sạch, sao tàn mộng khuyết, cũng có thể hoa thắm trăng tròn. Châm một ly trà ngồi tĩnh lặng, thế sự non sông đều rơi trọn trong chén, khói lửa loạn thế đều trở thành thanh tịnh, tựa trăng sáng vằng vặc. Đây chính là cảnh giới của Thiền, là sen nở đẹp nhất ở bờ bên kia. Có câu nói như thế này: “Kiếp sau, cho dù là yêu hay không yêu, đều sẽ không gặp lại.” Có những người thừa nhận câu nói này, cho nên học cách quý trọng nhân duyên. Cũng có người cho rằng tình yêu có sự qua lại, cho nên trên con đường tình cảm tiếp tục đi thật xa. Tình duyên trên thế gian trôi nổi bất định, đã từng tương phùng sâu sắc, đến phút cuối cùng chẳng qua lại chỉ là một khách đi bộ hành đi lướt qua nhau.
“Tâm kinh” viết: “Chư pháp không tướng. Bất sinh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm.” (Tạm dịch: Các pháp không tướng, không sinh không diệt, không bẩn không sạch, không tăng không giảm) Tâm không uế chướng, tinh khiết thuần nhất. Trên con đường tu Phật, không cần nắm tay bên nhau, bất cứ khi nào đều có thể cùng làm bạn trăng thanh gió mát. Những con người đã từng đi lướt qua nhau trên con đường hồng trần đó, có một ngày cuối cùng đã gặp nhau, khi ấy, chỉ cần dùng một trái tim lương thiện bình thường đối đãi nhau là được rồi.
Đời này chỉ là kiếp cuối cùng
Dựa vào một khung cửa sổ nho nhỏ, ngắm vài cổ vật bình thường, nhàn nhã nơi đình viện. Trên bàn, ngọn gió mát lật giở trang sách, dấu chữ chẳng nhận ra nổi là của triều đại nào. Thời gian cứ thế trôi đi, trôi đi. Đến nay mới hiểu, gió mây của thế giới bên ngoài chỉ là nhất thời, những sự vật đơn giản thuần khiết mà linh thiêng đó trải qua biến chuyển của năm tháng, trước sau trầm tĩnh, không bị quấy rầy.
Hết thảy chúng sinh hữu tình đều có Phật tính. Có thể thấy những cảnh, vật nhỏ nhoi trong ngày thường đó, tu hành trong một xó xỉnh chẳng ai hỏi tới. Chỉ vì thiếu đi sự mài sắc đao quang kiếm ảnh của thế tục, thiếu đi sự nung nấu nước sôi lửa bỏng của hồng trần, cho nên không bộc lộ quá sắc sảo, ngược lại càng thấy từ tâm. Kiếp sau, những vật có linh tính sẽ hoá thành hoa sen, chắc chắn là cực phẩm. Mà tôi, bản thân ở giữa phàm trần bận bịu, lại phải tu luyện thêm vài kiếp, mới có thể công đức viên mãn.
Ngẫu nhiên đọc được một câu như thế này: “Đời này nên là kiếp cuối. Khi trở lại, chân bước trên hoa sen.” Người nói câu này là ai đã không thể biết được, nhưng có thể thấy rằng người đó đạo tâm kiên định, thề đoạn tuyệt qua lại với cõi trần. Trên con đường dưới ánh nắng ngột ngạt, chúng sinh đều sợ hãi phải chịu luân hồi vô thường, không muốn đi theo vết xe đổ. Chúng sinh vô số, có một ngày đều phải tan biến trong biển người mênh mông, họ thực sự có thể tuỳ theo tâm nguyện lựa chọn chốn về của mình hay không?
Thời gian càng dài, lòng người càng nhạt. Từng nói người cùng sống chết, đến cuối cùng già chết đi, không còn qua lại. Năm tháng là kẻ cướp, luôn vô tình đánh cắp rất nhiều dung nhan xinh đẹp, tình cảm chân thành và cuộc sống hạnh phúc. Có lẽ chúng ta không có cách nào để coi như không thấy, nhưng cũng không cần đối địch với nhau. Rốt cuộc ai cũng đều đã có những tháng năm như hoa tươi trăng tròn, khi đó nên chuẩn bị sẵn sàng, bởi sẽ có một ngày bị cướp sạch sành sanh.
Cuộc đời mỗi người đều có vài lần kiếp số, duy chỉ có trải hết trần kiếp, mới có thể rời xa Đại Thiên thế giới [26], tránh khỏi nỗi khổ trầm luân. Sinh mệnh là một hành trình không thể đoán định, cho dù tôi và bạn đi đến cảnh ngộ không thể thay đổi thì cũng nên bình tĩnh ung dung. Mỗi một lần không như ý, mỗi một việc trái với tâm nguyện, kỳ thực đều có kết cục không thể dự đoán. Gió cuốn theo mây, liễu tối hoa sáng [27], chính là như thế.
[26] Đại Thiên thế giới: Thuật ngữ nhà Phật, gấp một nghìn lần thế giới là Tiểu Thiên thế giới, gấp một nghìn lần Tiểu Thiên thế giới là Trung Thiên thế giới, gấp một nghìn lần Trung Thiên thế giới là Đại Thiên thế giới. Sau dùng chỉ thế gian rộng lớn vô bờ.
[27] Gió cuốn theo mây, liễu tối hoa sáng: So sánh với một việc trong khó khăn tìm được cơ hội xoay chuyển.
Hồng tụ thiêm hương [28], tình sâu chẳng bền. Sớm biết thế này, nhưng vẫn có kẻ trước người sau tiếp tục lũ lượt lao xuống biển tình cuồn cuộn, không hỏi về đâu. Là chúng ta muốn quá nhiều thứ, hay trong sinh mệnh mỗi người đều có một đoạn hoặc vài đoạn hành trình cần phải đi qua như thế? Nhìn quen trăng thu gió xuân, sao có thể để tâm chuyện đổi thay của tự nhiên hỗn tạp. Nếm tận buồn vui ly hợp, sao có thể dễ dàng bị tình cảm nào đó làm lung lay.
[28] Hồng tụ thiêm hương: Chỉ việc thư sinh đọc sách có mỹ nữ bên cạnh.
Nhân sinh trăm vị, thế sự sâu xa. Kinh Phật dạy: “Giác tri đa dục bi khổ. Sinh tử bì lao, tòng tham dục khởi, thiểu dục vô vi, thân tâm tự tại.” (Tạm dịch: Biết được nhiều ham muốn là khổ. Sinh tử mệt mỏi, ham muốn trỗi dậy cùng với lòng tham, bớt ham muốn vô vi, thì thân và tâm đều tự tại) Thân ở thế tục phồn hoa, quá nhiều mê hoặc khiến con người khó cự tuyệt. Có bao nhiêu người có thể vứt bỏ lụa là gấm vóc để mặc áo trắng vải thô; có thể vứt bỏ gạo ngọc rau vàng mà uống trà trong ăn cơm nhạt. Cùng đi giữa thế gian, có những người phải nếm hết khói lửa phố chợ mới chịu thôi, có những người lòng đã sớm quay về chốn sơn lâm, nguyện vui cùng non nước.
Cổ nhân nói: “Nhân đáo vô cầu phẩm tự cao.” Vô cầu tức là không ham muốn, nếu con người mà có thể không ham muốn, nhân phẩm tự nhiên sẽ cao thượng, mà khổ não cũng sẽ tự tiêu tan. Nhưng có thể làm được một người “không ham không muốn”, há phải kẻ tầm thường sao? Tu luyện giữa nhân gian đầy gió bụi bao phủ, có người mê đắm phong cảnh hoa lệ tuyệt mỹ, có người chỉ yêu vật cổ như đã từng quen biết. Trái tim rộng lớn như bể, nên dùng gì để lấp đầy, những vật chất tầm thường hay là tinh thần, liệu có đủ không?
Phải nói, phiền não tức là bồ đề, sinh tử tức Niết Bàn. Mỗi con người đều có một hòn đá Tam Sinh thuộc về chính mình, ở đó có thể nhìn rõ đời này kiếp trước của mình. Những con người đã từng bôn tẩu trên con đường hồng trần vì Thế Âmà tỉnh ngộ, quyết ý tin vào nhân quả, không còn tranh danh đoạt lợi nữa. Họ nguyện ý hoá thành một thân cây, lặng lẽ tồn tại giữa núi sông ngàn kiếp, từ đó im hơi lặng tiếng. Bắt đầu từ bây giờ, cùng tu luyện với sinh linh vạn vật. Cho dù quá trình dài đến bao lâu, cho dù thời gian có nhạt nhẽo vô vị hay không, đều kiên định giữ gìn, hững hờ trước buồn vui, trân trùng sinh mệnh, cảm tạ chúng sinh. Phật pháp không có nông sâu, nông sâu chính là lòng người. Phật Đà không có yêu hận, yêu hận chính là phàm nhân. Trang nghiêm xuất thế, tự nhiên lánh trần. Bất cứ tham niệm và nông nổi nào đều do tu vi của bản thân chưa đủ.
Quá trình là gì? Quá trình là uống hết nước của ngàn con sông, nếm đủ trăng sáng của vạn cổ. Đọc một cuốn sách ẩm hơi nước, ôn lại mấy câu chuyện xưa cũ, diễn dịch một hồi ly hợp định mệnh. Hành trình đơn sơ, đi giữa thế gian, ngắm cò trắng làm kinh động cành cây, hoa rơi đầy mình, duy có Linh Sơn là đường về. Một người khai ngộ không phải vì có gia sản giàu có, không phải vì có tư tưởng sâu sắc, cũng không phải vì có tài năng xuất chúng, mà vì có cơ duyên huyền diệu, có thiền tâm chất phác. Một người nhận biết tự nhiên, trân trùng sinh mệnh, tất sẽ được chứng ngộ trước tiên.
Vừa đi vừa ngâm vịnh non nước, một giấc tới tận ngàn năm. Từng ngắm muôn hồng ngàn tía, oanh liệng én chao, lại thấy gió trúc luồn sân, sen xanh thơm ngát; từng ngắm chiều buông cò lẻ bóng, nước thu sắc trời, lại thấy tuyết trắng tung bay, hàn mai cao ngạo. Trong đó có không ít khung cảnh thanh vắng cô quạnh, cũng không hiếm khoảnh khắc thân mật ấm nồng. Thời gian cứ già đi, già đi như thế. Tôi và bạn khi đó đã gạn lọc hết phù hoa, chỉ giữ lại một khung cửa sổ nho nhỏ, ngắm đình viện cũ xưa, mưa bay hoa rụng. Ngoài xa, tiếng chuông bảng lảng, quanh năm lánh đời.
Phật nói: “Dục đắc tịnh thổ, đương tịnh kỳ tâm, tuỳ kỳ tâm tịnh, tức Phật thổ tịnh, Thánh nhân cầu tâm bất cầu Phật, ngu nhân cầu Phật bất cầu tâm; trí già điều tâm bất điều thân, ngu già điều thân bất điều tâm.” (Tạm dịch: Muốn được tịnh thổ, phải tịnh tâm mình, tâm mình tịnh rồi, đó là Phật thổ tịnh. Thành nhân cầu tâm chẳng cầu Phật, người ngu cầu Phật chẳng cầu tâm; người trí điều hoà tâm chẳng điều chỉnh thân, kẻ ngu điều chỉnh thân chẳng điều hoà tâm). Có thể thấy chỉ cần có một Thiền tâm bình hoà yên tĩnh, là có thể quét sạch hết thảy gió mây vần vũ, chìm nổi lận đận của thế gian. Có thể thấu tỏ hết thảy sự vật nhạy bén, cho dù thân ở giữa nơi đồng hoang mênh mang cũng không lầm vào đường rẽ, rơi vào mê hoặc. Khi chẳng có gì, chỉ giữ cho tâm của mình, tự vui vẻ bình an.
Thiền là cam lộ, nuôi dưỡng chúng sinh; là diệu dược, phổ độ vạn vật.
Vạn sự trong nhân gian đều là tầm thường, cũng đều là vô thường, chỉ có bỏ qua, mới có thể ung dung tự tại, mới có thể thể nghiệm huyền có mộng ảo như bong bóng. Năm tháng tựa sương, vầng dương như bay, nhìn núi xa đường đá, đom đóm loé sáng lập loè. Lúc trùng phùng, đã là lá rụng núi trống, hạc về tăm không, nhân sinh đã buổi xế chiều.
Một ly trà trong, uống đến khi nguội. Vở kịch một khi đã diễn, sẽ xem tận đến lúc hạ màn. Bài học cần tu cả đời, cũng sẽ viết nên kết cục, vào một thời khắc kết thúc nào đó. Phật tin: Không nói được[29]. Mây nước vô bờ, nhân gian an vui, trên thế gian đáng quý này, bạn đến, ở nơi này, bạn đi, vẫn ở nơi này. Sự tồn tại đó thật giản đơn, vạn vật hoá cát bụi, vui vẻ mà ngợi khen.
[29] Nguyên văn “bất khả thuyết” hay còn gọi là “bất khả ngôn thuyết”. hoặc “bất thuyết”; tiếng Phạn là “anabhila^pya”, tiếng Tạng là “brjod-du-med-pa”, nghĩa là chân lý có thể chứng ngộ, chứ không thể nói thành lời, là một thuật ngữ của Phật giáo.
Kiếp này, cho dù phía trước là bụi vàng lướt bay, hay là nước lặng yên sóng, thì vẫn cứ đi tiếp như thế. Kiếp sau, hẹn gặp trên đài hoa sen. Bạn rực rỡ vàng son, từ bi hiền hoà; tôi toàn thân trắng muốt, trang nghiêm tĩnh lặng.
Đời người có rất nhiều cuộc gặp gỡ, cho dù bạn lựa chọn đi trên con đường nào, đều có những người đi đường lướt qua nhau. Hồng trần như thế, đạo tràng bồ đề cũng như thế. Trong sự tụ tán ly hợp tất nhiên đó, những người này sẽ có một ngày bỏ bạn mà đi. Duyên sâu duyên mỏng, năm dài tháng ngắn, cũng chỉ giữa sự qua lại lại qua.
Nhân duyên lưu chuyển, khởi diệt đều không thể dự đoán. Thế gian này không ai có thể thực sự đi cùng bạn đến phút cuối của cuộc đời, vạn cổ bất biến, chỉ có non xanh nước biếc. Những sinh linh đã thấu hiểu Phật tính, trên chặng đường xa xôi chắc chắn sẽ không mê lạc, không cô đơn. Dòng người đi lướt qua nhau, có rất nhiều cơ duyên nhầm lẫn, mất mát đều trở thành thu hoạch. Bởi vì, cho dù chỉ còn lại một chiếc giường lạnh, một chiếc áo cũ, một bát cháo trắng, chúng ta vẫn có thể dựa vào chính mình.
Mỗi người đều là hòn đá bắc qua sông, đều là ngọn đèn soi sáng cho chúng ta hướng về. Gặp gỡ là mây tụ, ly biệt là mây tan, đều sẽ không ảnh hưởng đến vẻ đẹp của bầu trời. Chầm chậm thả bước trên đường nhỏ giao nhau giữa hồng trần, đi cùng ai cũng không quan trọng. Quan trọng là bản thân tìm thấy con đường sáng tỏ, thông suốt, sau đó, nước biếc bờ mây, trời cao đất rộng, nhàn nhã vô cùng.
Tuỳ duyên tự tại, tự tại tuỳ duyên. Một hạt bụi chứa vạn tượng, một ý niệm chứa ba ngàn. Người đời luôn thích coi gặp gỡ là kiếp số, coi danh lợi là lưới trần không thể thoát khỏi. Nhưng lại không biết, một cái tâm thiền định có thể gánh vác được phong vân biến đổi, sóng cuộn dâng trào của hết thảy nhân gian. Những con người đã từng gặp nhau đường hẹp đó đi về đâu, vốn đã không cần câu trả lời nữa.
“Kinh Viên Giác [24]” viết: “Nhất thiết chúng sinh chủng chủng huyễn hoá, giai sinh Như Lai viên giác diệu tâm, do như không hoa, tòng không nhi hữu. Huyễn hoá tuy diệt, không tính bất bại, chúng sinh huyễn tâm, hoàn y huyễn diệt, chư huyễn tận diệt, giác tâm bất động,” (Tạm dịch: Tất cả chúng sinh và mọi vật huyễn hoá, đều sinh từ Viên giác diệu tâm Như Lai, ví như hoa ảo trong hư không, từ hư không mà có. Hoa ảo tuy diệt mà tính hư không không hoại, tâm ảo của chúng sinh lại y nơi pháp ảo mà diệt, pháp ảo tâm ảo diệt hết thì tính giác bất động) Đời người như ảo mộng, một người lướt qua, một người quay đầu, liền thành vật nay còn đó người đã khác xưa. Đối với quá khứ, chớ nên ngoái nhìn lưu luyến, mà hãy để nó sạch trơn như gió mát, thong thả như mây trôi.
[24] “Kinh Viên Giác”, tên đầy đủ là “Đại Phương Viên Giác Tu Đa La Liễu Nghĩa Kinh”, còn gọi là “Đại Phương Quảng Viên Giác kinh”, “Viên Giác Tu Đa La Liễu Nghĩa kinh”, “Viên Giác Liễu Nghĩa kinh”, là một trong những kinh điển Phật giáo Đại Thừa.
Người tu hành, hết thảy pháp, đều là Phật pháp; hết thảy tâm, đều là Thiền tâm. Dùng đôi mắt Bát Nhã nhìn thế gian Ta Bà, mỗi một hạt bụi đều có định lực, mỗi một cọng cỏ đều là thuốc lành, mỗi một tấc đất đều nở rộ hoa sen. Nhân gian là đạo tràng tu hành hoàn mỹ nhất, trong khói lửa vẩn đục có thể tìm thấy một chiếc gương trong sáng, thấy chân tính mà thành Phật [25]. Từ đó trăng thanh gió mát, vui vẻ bình an, trời nước một màu, sơn hà tự tại.
[25] Nguyên văn “kiến tính thành Phật”, trích trong bài kệ 4 câu, tương truyền là của Bồ Đề Đạt Ma, vị tổ đầu tiên của dòng thiền Trung Quốc. Bài kệ này là kim chỉ nam của Thiền tông Đại thừa: Bất lập văn tự/ Giáo ngoại biệt truyền/ Trực chỉ chân tâm/ Kiến tính thành Phật (dịch nghĩa: Không lập chữ nghĩa/ Truyền giáo pháp ngoài kinh điển/ Chỉ thẳng tâm thật/ Thấy tính thành Phật.)
Phật du hành giữa nhân gian, chúng sinh đều có cơ duyên gặp Phật. Có thể tại một ngõ mưa, đá xanh nào đó, một bến đò ly biệt nào đó, hoặc là một con đường núi lá rụng đầy nào đó. Lại hoặc là cùng uống một ấm trà, cùng hái một nhành hoa, ngồi cùng một tấm nệm. Những nơi Phật đi qua đều là quốc thổ thanh tịnh. Những nơi Phật đã ban phát tình yêu, đều là thế giới bồ đề.
Đối với Thiền giả, tất cả nhân duyên, tất cả vui buồn, đều có thể được hong khô dưới ánh nắng mặt trời. Một bậc Thiền giả, cái người đó truy cầu không phải là nội tâm sâu sắc thế nào, mà là làm thế nào để tâm trong như nước. Dù bước đi trên rừng đao núi kiếm, vẫn có thể ung dung kiên định; lạc giữa biển khói mây mù, vẫn có thể sáng lòng thấy được chân tính.
Hoa nở là hữu tình, hoa rơi là vô ý. Người đến là duyên khởi, người đi là duyên tàn. Ba ngàn thế giới, mỗi một ngày đều sẽ có lướt qua, mỗi một ngày đều sẽ có trùng phùng. Tu Thiền không cần dốc lòng, rất nhiều người vì một mối tình duyên, cam tâm quay ngược lại con đường luân hồi, cho dù phải trải qua đợi chờ hàng ngàn năm, đổi lại chỉ được một cái quay đầu ngắn ngủi, cũng không oán không hận. Nhưng có lẽ chính trong khoảnh khắc quay đầu đó, trong thời gian năm tháng, bỗng nhiên đốn ngộ. Bất cứ chấp ngã nào cũng đều là phiền não, duy chỉ có từ bỏ, mới có thể tự tại.
Duyên phận giữa người và người, tuy có thuyết định mệnh, nhưng trong cuộc đời, có rất nhiều sự an bài hoàn toàn là ngoài ý muốn, chúng ta không cần vì một vài điều ngoài ý muốn mà cố giữ gió trăng. Tu Thiền cũng vậy, không cần dốc lòng, mà cốt quý ở tự nhiên. Vạn vật đều có Phật tính, tức là giữa một ngày rất đỗi bình thường, bạn làm thế nào để tìm được một phong cảnh thuộc về bản thân mình.
Những quá khứ đã trôi đi thật xa đó không phải là để quay đầu luyến tiếc, cũng không phải là để quên lãng, chỉ coi nó là sự tồn tại đơn giản, coi nó là dòng suối cần phải băng qua khi muốn lên bờ. Không để tâm ai đã từng tới, ai đã từng đi, lướt qua nhau tuy chỉ khoảnh khắc, dừng lại cũng chẳng thể một đời. Thế sự mênh mang, giấc mộng năm xưa đã sớm hoá thành vô số hoa rơi. Chúng ta không cần thiết đi nhặt lại ngày hôm qua đã mất.
Thuyền buông sông hồ, gặp sóng cả hồng trần, không cần sợ hãi. Chỉ cần không bị tình cảm và danh lợi trói buộc, bất cứ lúc nào cũng có thể rẽ nước mà xuôi, cưỡi gió mà chạy. Hồng trần như chuyến đi ngược chiều, chúng ta đều là người đi đường, là khách vãng lai. Từ điểm xuất phát của sinh mệnh, dọc đường lặn lội, nếm hết phong trần, trong hành lý mang trên vai đều là quá khứ nhiều năm. Mà đường về, cuối cùng nằm ở đâu? Người trong thế tục cho rằng bỏ hành lý trên vai xuống là tìm được về cố hương của đời mình. Nhưng người tu hành, chỉ cần tâm như tịnh thuỷ, là có thể ngộ đạo.
Chúng sinh quay về, cho dù gặp phải kiếp số ra sao, bất cứ cuộc du hành nhân gian nào đều sẽ đột ngột dừng lại. Ngày ấy, thế sự như nước rút đá bày, sóng xô phẳng lặng. Người đời đi khắp vạn nước ngàn non, những gió sớm ngày tan, hoa thắm liễu xanh đó, trở thành phong cảnh dù có quay người cũng khó quên. Mà Phật Đà chỉ cần ngồi thiền dưới gốc bồ đề, không dựa vào ngoại vật, là có thể nhận biết tự nhiên, thu được chứng ngộ.
“Kinh Kim Cương” viết: “Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh, như lộ diệc như điện, ứng tác như thị quán.” (Tạm dịch: Tất cả pháp hữu vi. Như mộng, huyễn, bọt, bóng. Như sương, như điện chớp. Nên quán tưởng như thế) Đời người như giấc mộng, hết thảy phàm trần đều là hư ảnh. Dùng tâm bồ đề dung nạp mọi nỗi khổ của chúng sinh, vạn vật đều thuần tuý hoá thiện.
Thiền là mộc mạc, không cần trang sức mỹ lệ sinh động. Thiền cũng là tầm thường, không phải thần thoại xa xôi, huyền ảo. Thiền trong cuộc sống bình thường của chúng ta, trong mỗi khoảnh khắc của một cái lướt qua. Chỉ cần nội tâm sáng suốt bình hoà, mặc cho gió mây cuốn sạch, sao tàn mộng khuyết, cũng có thể hoa thắm trăng tròn. Châm một ly trà ngồi tĩnh lặng, thế sự non sông đều rơi trọn trong chén, khói lửa loạn thế đều trở thành thanh tịnh, tựa trăng sáng vằng vặc. Đây chính là cảnh giới của Thiền, là sen nở đẹp nhất ở bờ bên kia. Có câu nói như thế này: “Kiếp sau, cho dù là yêu hay không yêu, đều sẽ không gặp lại.” Có những người thừa nhận câu nói này, cho nên học cách quý trọng nhân duyên. Cũng có người cho rằng tình yêu có sự qua lại, cho nên trên con đường tình cảm tiếp tục đi thật xa. Tình duyên trên thế gian trôi nổi bất định, đã từng tương phùng sâu sắc, đến phút cuối cùng chẳng qua lại chỉ là một khách đi bộ hành đi lướt qua nhau.
“Tâm kinh” viết: “Chư pháp không tướng. Bất sinh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm.” (Tạm dịch: Các pháp không tướng, không sinh không diệt, không bẩn không sạch, không tăng không giảm) Tâm không uế chướng, tinh khiết thuần nhất. Trên con đường tu Phật, không cần nắm tay bên nhau, bất cứ khi nào đều có thể cùng làm bạn trăng thanh gió mát. Những con người đã từng đi lướt qua nhau trên con đường hồng trần đó, có một ngày cuối cùng đã gặp nhau, khi ấy, chỉ cần dùng một trái tim lương thiện bình thường đối đãi nhau là được rồi.
Đời này chỉ là kiếp cuối cùng
Dựa vào một khung cửa sổ nho nhỏ, ngắm vài cổ vật bình thường, nhàn nhã nơi đình viện. Trên bàn, ngọn gió mát lật giở trang sách, dấu chữ chẳng nhận ra nổi là của triều đại nào. Thời gian cứ thế trôi đi, trôi đi. Đến nay mới hiểu, gió mây của thế giới bên ngoài chỉ là nhất thời, những sự vật đơn giản thuần khiết mà linh thiêng đó trải qua biến chuyển của năm tháng, trước sau trầm tĩnh, không bị quấy rầy.
Hết thảy chúng sinh hữu tình đều có Phật tính. Có thể thấy những cảnh, vật nhỏ nhoi trong ngày thường đó, tu hành trong một xó xỉnh chẳng ai hỏi tới. Chỉ vì thiếu đi sự mài sắc đao quang kiếm ảnh của thế tục, thiếu đi sự nung nấu nước sôi lửa bỏng của hồng trần, cho nên không bộc lộ quá sắc sảo, ngược lại càng thấy từ tâm. Kiếp sau, những vật có linh tính sẽ hoá thành hoa sen, chắc chắn là cực phẩm. Mà tôi, bản thân ở giữa phàm trần bận bịu, lại phải tu luyện thêm vài kiếp, mới có thể công đức viên mãn.
Ngẫu nhiên đọc được một câu như thế này: “Đời này nên là kiếp cuối. Khi trở lại, chân bước trên hoa sen.” Người nói câu này là ai đã không thể biết được, nhưng có thể thấy rằng người đó đạo tâm kiên định, thề đoạn tuyệt qua lại với cõi trần. Trên con đường dưới ánh nắng ngột ngạt, chúng sinh đều sợ hãi phải chịu luân hồi vô thường, không muốn đi theo vết xe đổ. Chúng sinh vô số, có một ngày đều phải tan biến trong biển người mênh mông, họ thực sự có thể tuỳ theo tâm nguyện lựa chọn chốn về của mình hay không?
Thời gian càng dài, lòng người càng nhạt. Từng nói người cùng sống chết, đến cuối cùng già chết đi, không còn qua lại. Năm tháng là kẻ cướp, luôn vô tình đánh cắp rất nhiều dung nhan xinh đẹp, tình cảm chân thành và cuộc sống hạnh phúc. Có lẽ chúng ta không có cách nào để coi như không thấy, nhưng cũng không cần đối địch với nhau. Rốt cuộc ai cũng đều đã có những tháng năm như hoa tươi trăng tròn, khi đó nên chuẩn bị sẵn sàng, bởi sẽ có một ngày bị cướp sạch sành sanh.
Cuộc đời mỗi người đều có vài lần kiếp số, duy chỉ có trải hết trần kiếp, mới có thể rời xa Đại Thiên thế giới [26], tránh khỏi nỗi khổ trầm luân. Sinh mệnh là một hành trình không thể đoán định, cho dù tôi và bạn đi đến cảnh ngộ không thể thay đổi thì cũng nên bình tĩnh ung dung. Mỗi một lần không như ý, mỗi một việc trái với tâm nguyện, kỳ thực đều có kết cục không thể dự đoán. Gió cuốn theo mây, liễu tối hoa sáng [27], chính là như thế.
[26] Đại Thiên thế giới: Thuật ngữ nhà Phật, gấp một nghìn lần thế giới là Tiểu Thiên thế giới, gấp một nghìn lần Tiểu Thiên thế giới là Trung Thiên thế giới, gấp một nghìn lần Trung Thiên thế giới là Đại Thiên thế giới. Sau dùng chỉ thế gian rộng lớn vô bờ.
[27] Gió cuốn theo mây, liễu tối hoa sáng: So sánh với một việc trong khó khăn tìm được cơ hội xoay chuyển.
Hồng tụ thiêm hương [28], tình sâu chẳng bền. Sớm biết thế này, nhưng vẫn có kẻ trước người sau tiếp tục lũ lượt lao xuống biển tình cuồn cuộn, không hỏi về đâu. Là chúng ta muốn quá nhiều thứ, hay trong sinh mệnh mỗi người đều có một đoạn hoặc vài đoạn hành trình cần phải đi qua như thế? Nhìn quen trăng thu gió xuân, sao có thể để tâm chuyện đổi thay của tự nhiên hỗn tạp. Nếm tận buồn vui ly hợp, sao có thể dễ dàng bị tình cảm nào đó làm lung lay.
[28] Hồng tụ thiêm hương: Chỉ việc thư sinh đọc sách có mỹ nữ bên cạnh.
Nhân sinh trăm vị, thế sự sâu xa. Kinh Phật dạy: “Giác tri đa dục bi khổ. Sinh tử bì lao, tòng tham dục khởi, thiểu dục vô vi, thân tâm tự tại.” (Tạm dịch: Biết được nhiều ham muốn là khổ. Sinh tử mệt mỏi, ham muốn trỗi dậy cùng với lòng tham, bớt ham muốn vô vi, thì thân và tâm đều tự tại) Thân ở thế tục phồn hoa, quá nhiều mê hoặc khiến con người khó cự tuyệt. Có bao nhiêu người có thể vứt bỏ lụa là gấm vóc để mặc áo trắng vải thô; có thể vứt bỏ gạo ngọc rau vàng mà uống trà trong ăn cơm nhạt. Cùng đi giữa thế gian, có những người phải nếm hết khói lửa phố chợ mới chịu thôi, có những người lòng đã sớm quay về chốn sơn lâm, nguyện vui cùng non nước.
Cổ nhân nói: “Nhân đáo vô cầu phẩm tự cao.” Vô cầu tức là không ham muốn, nếu con người mà có thể không ham muốn, nhân phẩm tự nhiên sẽ cao thượng, mà khổ não cũng sẽ tự tiêu tan. Nhưng có thể làm được một người “không ham không muốn”, há phải kẻ tầm thường sao? Tu luyện giữa nhân gian đầy gió bụi bao phủ, có người mê đắm phong cảnh hoa lệ tuyệt mỹ, có người chỉ yêu vật cổ như đã từng quen biết. Trái tim rộng lớn như bể, nên dùng gì để lấp đầy, những vật chất tầm thường hay là tinh thần, liệu có đủ không?
Phải nói, phiền não tức là bồ đề, sinh tử tức Niết Bàn. Mỗi con người đều có một hòn đá Tam Sinh thuộc về chính mình, ở đó có thể nhìn rõ đời này kiếp trước của mình. Những con người đã từng bôn tẩu trên con đường hồng trần vì Thế Âmà tỉnh ngộ, quyết ý tin vào nhân quả, không còn tranh danh đoạt lợi nữa. Họ nguyện ý hoá thành một thân cây, lặng lẽ tồn tại giữa núi sông ngàn kiếp, từ đó im hơi lặng tiếng. Bắt đầu từ bây giờ, cùng tu luyện với sinh linh vạn vật. Cho dù quá trình dài đến bao lâu, cho dù thời gian có nhạt nhẽo vô vị hay không, đều kiên định giữ gìn, hững hờ trước buồn vui, trân trùng sinh mệnh, cảm tạ chúng sinh. Phật pháp không có nông sâu, nông sâu chính là lòng người. Phật Đà không có yêu hận, yêu hận chính là phàm nhân. Trang nghiêm xuất thế, tự nhiên lánh trần. Bất cứ tham niệm và nông nổi nào đều do tu vi của bản thân chưa đủ.
Quá trình là gì? Quá trình là uống hết nước của ngàn con sông, nếm đủ trăng sáng của vạn cổ. Đọc một cuốn sách ẩm hơi nước, ôn lại mấy câu chuyện xưa cũ, diễn dịch một hồi ly hợp định mệnh. Hành trình đơn sơ, đi giữa thế gian, ngắm cò trắng làm kinh động cành cây, hoa rơi đầy mình, duy có Linh Sơn là đường về. Một người khai ngộ không phải vì có gia sản giàu có, không phải vì có tư tưởng sâu sắc, cũng không phải vì có tài năng xuất chúng, mà vì có cơ duyên huyền diệu, có thiền tâm chất phác. Một người nhận biết tự nhiên, trân trùng sinh mệnh, tất sẽ được chứng ngộ trước tiên.
Vừa đi vừa ngâm vịnh non nước, một giấc tới tận ngàn năm. Từng ngắm muôn hồng ngàn tía, oanh liệng én chao, lại thấy gió trúc luồn sân, sen xanh thơm ngát; từng ngắm chiều buông cò lẻ bóng, nước thu sắc trời, lại thấy tuyết trắng tung bay, hàn mai cao ngạo. Trong đó có không ít khung cảnh thanh vắng cô quạnh, cũng không hiếm khoảnh khắc thân mật ấm nồng. Thời gian cứ già đi, già đi như thế. Tôi và bạn khi đó đã gạn lọc hết phù hoa, chỉ giữ lại một khung cửa sổ nho nhỏ, ngắm đình viện cũ xưa, mưa bay hoa rụng. Ngoài xa, tiếng chuông bảng lảng, quanh năm lánh đời.
Phật nói: “Dục đắc tịnh thổ, đương tịnh kỳ tâm, tuỳ kỳ tâm tịnh, tức Phật thổ tịnh, Thánh nhân cầu tâm bất cầu Phật, ngu nhân cầu Phật bất cầu tâm; trí già điều tâm bất điều thân, ngu già điều thân bất điều tâm.” (Tạm dịch: Muốn được tịnh thổ, phải tịnh tâm mình, tâm mình tịnh rồi, đó là Phật thổ tịnh. Thành nhân cầu tâm chẳng cầu Phật, người ngu cầu Phật chẳng cầu tâm; người trí điều hoà tâm chẳng điều chỉnh thân, kẻ ngu điều chỉnh thân chẳng điều hoà tâm). Có thể thấy chỉ cần có một Thiền tâm bình hoà yên tĩnh, là có thể quét sạch hết thảy gió mây vần vũ, chìm nổi lận đận của thế gian. Có thể thấu tỏ hết thảy sự vật nhạy bén, cho dù thân ở giữa nơi đồng hoang mênh mang cũng không lầm vào đường rẽ, rơi vào mê hoặc. Khi chẳng có gì, chỉ giữ cho tâm của mình, tự vui vẻ bình an.
Thiền là cam lộ, nuôi dưỡng chúng sinh; là diệu dược, phổ độ vạn vật.
Vạn sự trong nhân gian đều là tầm thường, cũng đều là vô thường, chỉ có bỏ qua, mới có thể ung dung tự tại, mới có thể thể nghiệm huyền có mộng ảo như bong bóng. Năm tháng tựa sương, vầng dương như bay, nhìn núi xa đường đá, đom đóm loé sáng lập loè. Lúc trùng phùng, đã là lá rụng núi trống, hạc về tăm không, nhân sinh đã buổi xế chiều.
Một ly trà trong, uống đến khi nguội. Vở kịch một khi đã diễn, sẽ xem tận đến lúc hạ màn. Bài học cần tu cả đời, cũng sẽ viết nên kết cục, vào một thời khắc kết thúc nào đó. Phật tin: Không nói được[29]. Mây nước vô bờ, nhân gian an vui, trên thế gian đáng quý này, bạn đến, ở nơi này, bạn đi, vẫn ở nơi này. Sự tồn tại đó thật giản đơn, vạn vật hoá cát bụi, vui vẻ mà ngợi khen.
[29] Nguyên văn “bất khả thuyết” hay còn gọi là “bất khả ngôn thuyết”. hoặc “bất thuyết”; tiếng Phạn là “anabhila^pya”, tiếng Tạng là “brjod-du-med-pa”, nghĩa là chân lý có thể chứng ngộ, chứ không thể nói thành lời, là một thuật ngữ của Phật giáo.
Kiếp này, cho dù phía trước là bụi vàng lướt bay, hay là nước lặng yên sóng, thì vẫn cứ đi tiếp như thế. Kiếp sau, hẹn gặp trên đài hoa sen. Bạn rực rỡ vàng son, từ bi hiền hoà; tôi toàn thân trắng muốt, trang nghiêm tĩnh lặng.
Quyển thứ hai: Phong tình cổ
trấn
Có lẽ chúng ta đều là những người tin vào tiền duyên, cho nên, thân sống giữa phồn hoa, vẫn không quên kiếm tìm những tháng ngày xưa cũ đó. Chuyện xưa trôi qua như mây khói tản mát, giữa bóng đêm của năm tháng âm thầm đổi thay, vừa ban nãy vẫn còn phong trần cuộn sóng, bây giờ đã không còn lại dấu vết gì. Năm tháng không biết đã đổi dung nhan bao lần, chỉ có cổ trấn là vẫn giữ lời thề ước năm xưa, không dám thay đổi dáng vẻ ban đầu. Tường viện xanh rêu âm ẩm, ngõ nhỏ sâu dài hun hút, lầu gỗ cổ kính, hành lang quanh co, sân khấu loang lổ, tuy đã phủ đầy bụi bặm của dĩ vãng, nhưng vẫn là mối tâm tình trong giấc mộng. Đẩy cánh cửa bị thời gian khép hờ, những tình cảm cảnh cũ người xưa còn lưu giữ nơi cổ trấn đó, vẫn bình yên êm ả như thế…
Tây Đường như mộng
Cho dù là người đã từng hay chưa từng đến Tây Đường đều sẽ cảm thấy, Tây Đường là một giấc mộng, một giấc mộng thuộc về Giang Nam. Nó nên thơ cổ kính, thuần phác tĩnh lặng, đã từng bị người đời quên lãng, đến nay lại được người ta tìm kiếm. Tôi luôn cho rằng những người đến Tây Đường là những người không từ bỏ được quá khứ hữu tình. Bởi vì mỗi phong cảnh nơi đây đều có thể dễ dàng, nhẹ nhàng lay động sự mềm yếu trong bạn. Giữa phong cảnh sự vật yên tĩnh của Tây Đường, có thể mơ một giấc mơ dài, khi tỉnh lại, cũng sẽ có những tháng ngày không lưu giữ được.
Trước khi đến Tây Đường, tôi cũng chỉ là một khách bộ hành ngẫu nhiên, mà không biết rằng từ ngàn năm trước đó, mình đã từng có duyên phận với nó. Thời Xuân Thu, Ngũ Tử Tư của nước Ngô đã khơi thông thủy lợi, vận hành chuyển muối, khai vét Ngũ Tử đường, dẫn nước từ phía Bắc núi Tư chảy về trong vùng, vì thế từ đó Tây Đường cũng được gọi là Tư Đường. Cũng chính là một chữ “Tư” này, khiến tôi cho rằng, mình và Tây Đường có nhân quả định mệnh [1]. Cho dù chỉ là cảm xúc đơn phương, nhưng vì trong lòng chất chứa cảm xúc này, nên trước mỗi cảnh mỗi vật ở Tây Đường, tôi đều không kìm được xiết bao lưu luyến.
[1] Tác giả Bạch Lạc Mai tên thật là Tư Trí Tuệ.
Tháng năm yên tĩnh, khe khẽ dập dềnh giữa sóng nước. Dưới ngói xanh tường xám, dường như chớp mắt đã có thể nhìn thấy lịch sử xa xăm của Tây Đường. Thực ra Tây Đường không có một chiều dài lịch sử lớn lao thâm trầm, cũng không có nhiều nhân vật hô mưa gọi gió. Năm tháng cũng như dòng sông nơi đây, cứ từ từ chảy miết, không có sóng to gió lớn hãi hùng, chỉ bình dị yên ổn. Tòa cổ trấn ngàn năm này, từ khi bắt đầu đã có dáng vẻ cổ kính, đơn sơ như thế. Ung dung bước qua bốn mùa thay đổi, ung dung nhìn hợp hợp tan tan của đời người, cũng ung dung tiếp nhận những khách qua đường vãng lai và những tình cảm khác nhau mà họ đem tới.
Tây Đường ven sông, tựa như luôn có một làn sương mỏng như lụa bao bọc, chỉ cần như vậy đã có thể làm nổi bật được phong vận của miền sông nước Giang Nam. Nước chảy reo ca, khỏa chèo nhẩm hát, những nhà dân cổ kính hai bên bờ là cảnh tượng nguyên sơ mà chân thực của tiểu trấn. Biết bao năm, con người nơi đây cũng đã kinh qua bao lần đổi thay, chỉ là lại thêm một lần luân hồi, chứ không thể làm thay đổi ký ức xanh thẳm đó. Dưới bầu trời bao la, không nhìn thấy được lầu cao thành thị, chỉ có những ngôi nhà cũ điểm tô năm qua năm tới kể lại những câu chuyện na ná như nhau.
Lầu gỗ đơn sơ có mấy cánh cửa trên mái hiên đang hé mở, khiến tôi quên hết mệt mỏi của chuyến đi, thậm chí còn tự tưởng tượng rằng, có một cánh cửa đã mở vì mình, có một người đang đợi mình. Mà tôi không biết phong cảnh Tây Đường xưa nay không dễ dàng bị người ta làm kinh động. Đây là miền sông nước trong mộng của rất nhiều người, bạn có thể cảm nhận được hơi thở của nó từ rất xa, nhưng chẳng mấy người có thể lưu lại mãi mãi. Chỉ là có được trong khoảnh khắc, để đổi lấy nhớ nhung một đời, Tây Đường cũng không phụ lòng bất cứ người nào đi ngang qua cuộc đời nó.
Những người đã từng đến Tây Đường nhất định sẽ không quên hành lang nghìn mét dài hun hút đó. Ở Giang Nam, những hành lang ven nước này đâu đâu cũng thấy, nhưng chỉ có hành lang ở Tây Đường mới khiến bạn cả đời khó quên. Bởi vì độ dài ấy như thể đi đến tận kiếp sau mới hết. Bạn có thể thoải mái mơ một giấc mơ ở nơi này, không cần lo lắng bị bất cứ cảnh tượng hiện thực nào đánh thức. Chỉ lắng lòng cảm nhận ngọn gió đang quét qua hành lang dài, lướt qua làm đáy lòng se se lạnh, mà bức tranh Giang Nam, câu chuyện đời người, cứ thế từ từ mở ra.
Có người nói với tôi, con phố dài dằng dặc này có những ngọn nguồn tươi đẹp. Mà tôi lại không muốn biết căn nguyên của những chuyện xưa đó, chỉ muốn bình an có được cuộc gặp gỡ này - cuộc gặp gỡ với Tây Đường trên hành lang sinh mệnh. Sau khi quay người, dù nó sẽ lãng quên tôi, tôi cũng sẽ hết sức trân trọng mối lưu luyến chẳng thể cắt rời này.
Tôi như một khách qua đường, đến bến đò Tây Đường, tôi đợi một chiếc thuyền, sắp xếp cuộc gặp gỡ trong cuộc đời. Ngay khoảnh khắc tương phùng này đã dự kiến một màn ly biệt, chỉ là cuộc đời của mỗi con người, đều vì quá trình này mà hối hả đuổi theo. Trong nhân quả đã định, không ai còn mải mê tính toán được mất. Xuôi theo dòng nước, thử quên đi hành lý nặng nề trên vai, giữa dòng chảy cứ gặp đâu vui đấy. Cây cầu cổ ở Tây Đường giống như một cây cổ cầm bắc ngang sông nước, cùng một dây đàn nhưng mỗi người lại có thể gảy nên tiếng nhạc và thanh điệu khác nhau.
Ký ức liên quan đến những cây cầu luôn khiến người ta nhớ đến bài “Đoạn chương” của thi nhân Biện Chi Lâm: “Em đứng trên cầu ngắm phong cảnh. Người ngắm phong cảnh trên lầu ngắm em. Trăng sáng tô điểm khung cửa của em. Em tô điểm cho giấc mộng người khác.” Còn tôi luôn cho rằng, người đứng trên cầu chưa chắc biết mình đã trở thành phong cảnh của người khác, người ngồi trên thuyền, cũng không biết anh ta đã tô điểm cho giấc mộng của kẻ nào!
Kỳ thực, cuộc tương phùng xa lạ giữa người và người, đa phần chỉ là lướt qua nhau, cái họ có thể ghi nhớ là cây cầu kinh qua ngàn năm không đổi, chứ không phải là phong cảnh nơi họ đã dạo chân qua. Lại có lẽ, đa tình chỉ là những vị khách qua đường, vì mỗi cây cầu hàng ngày đưa tiễn biết bao vị khách, chúng chẳng có lòng nào lưu ý đến những phù hoa đó. Nước chảy róc rách chẳng ngừng, chở tôi đi về bờ bên kia, chỉ có cây cầu Tây Đường và những mái nhà miền sông nước lẳng lặng nhìn nhau mãi chẳng muộn phiền.
Ở Tây Đường, còn một nơi có thể cất giữ linh hồn, đó là Thạch Bì lộng [2] được mệnh danh là “Giang Nam đệ nhất lộng [3]”. Trong một góc nhỏ khuất tầm mắt, viết ba chữ giản dị “Thạch Bì lộng”. Một ngõ nhỏ cũ kỹ chật hẹp, giống như một chuyện cũ lạc trong góc khuất của thời gian, giữa ẩn ẩn hiện hiện, tựa như không có điểm tận cùng. Người đến Tây Đường đều sẽ không từ bỏ cuộc tương phùng này, cho dù Thạch Bì lộng xưa nay chưa từng dành cho bất cứ người nào một lời hứa dù là giản đơn. Nhưng sự chất phác mang theo vẻ thần bí lại khiến người ta có thể thấy được quá khứ chân thực.
[2] Thạch Bì lộng: Là một ngõ nhỏ hình thành giữa hai phủ đệ của con cháu Vương gia, được lát bằng 168 viên đá, dài 68 mét, rộng 0,8 mét.
[3] Lộng, lộng đường tức là ngõ, ngách.
Những bức tường cũ kỹ ghi đầy dấu vết tháng năm bị thời gian đẽo từng mảng, từng mảng một. Những ký ức rơi rụng này đã gom góp lại những lênh đênh sông nước tự cổ chí kim. Trên con đường lát đá mỏng, bước chân một số người âm thầm lại gần, bước chân một số người đã vội vã đi xa, chỉ có thời gian trầm mặc là còn lưu lại nơi đây, chưa từng hỏi nhân quả.
Theo dòng suy tư mênh mang, hoàng hôn càng lúc càng xa, Tây Đường mới thấp thoáng đèn hoa lại mang một vẻ đẹp khác. Hành lang dài ven sông treo một hàng đèn lồng đỏ, ánh đèn dịu mắt tựa như tơ lụa Giang Nam, mang theo biết bao đa tình và thương mến. Đêm Tây Đường rất tĩnh lặng, tĩnh lặng đến mức có thể nhìn thấy chiếc bóng trong giọt nước đậu trên hai bờ ngói xanh. Đêm Tây Đường, dưới ánh đèn mờ tối có một vẻ hoa lệ không thể che mờ. Sân khấu nổi trên mặt nước là khung cảnh sinh động nhất trong màn đêm Tây Đường. Hý khúc Giang Nam truyền thống, khẽ hát tiếng Ngô uyển chuyển [4], tựa như một ly rượu nhàn nhạt dưới trăng thanh gió mát, chuốc say cả người trên, kẻ dưới sân khấu. Biết bao tháng năm đã bị sông nước nồng hậu nơi đây tưới ướt đẫm, mà họ cam tâm tình nguyện nhảy xuống nỗi ưu thương của nước, chỉ vì một nỗi xúc động dịu dàng trong tim. Mỗi người đều chất chứa trong mình một tình cảm tinh tế mà đẹp đẽ, trong phàm trần khói lửa, họ không dễ dàng bộc lộ bản thân. Là Tây Đường đã khiến họ dũng cảm bộc bạch, hơn nữa trong cuộc đời đầy gò bó, có thể có được niềm vui không thể nào quên như thế.
[4] Nguyên văn “Ngô nông nhuyễn ngữ”, tức chỉ giọng địa phương vùng Giang Nam ngữ điệu uyển chuyển dễ nghe.
Ở một quán trà nào đó của Tây Đường, gọi một bình trà, lặng lẽ nhìn người đi qua lại, giữa hơi nước mờ mịt, lòng người bình thản hiền hòa. Tôi đem tất cả ký ức về Tây Đường ngâm trong bình trà này, đến khi trà nhạt, tôi liền rời đi. Hai bên chưa từng hứa hẹn, cho nên cũng không cần lưu lại dấu tích vấn vương. Ở Tây Đường, tôi chỉ là một hạt bụi bay qua tháng năm như nước chảy, có lẽ quay người, nó sẽ quên mất tôi là ai. Nhưng tôi, trước sau sẽ lưu lại đôi mắt tâm hồn, cố giữ vẻ đẹp cổ kính của nó.
Tây Đường đẹp như một giấc mộng, nhưng thực sự không phải là mộng. Có lẽ vào một ngày nào đó của nhiều năm sau, tôi sẽ đội gió vượt mưa trở về, hai bên đều đã nhạt nhoà dung nhan theo năm tháng, nhưng nó vẫn là nó, tôi vẫn là tôi.
Vụ Nguyên sắc màu
Nhiều khi chúng ta có thể đến một nơi mà không cần bất cứ lý do nào. Sau khi đến hãy nguyện tin vào cái gọi là duyên phận. Như thế có thể dễ dàng vượt qua lịch sử xuân thu, ngắm nhìn phong cảnh đủ khiến bạn cả đời nhung nhớ. Vụ Nguyên được mệnh danh là “làng quê đẹp nhất Trung Quốc”, khoảnh khắc tương phùng, tôi và bạn rũ bỏ lớp áo hoa lệ của thành thị, sóng bước cùng cuộc sống chất phác nơi này. Cho dù rất nhiều người vừa gặp đã say Vụ Nguyên, nhưng không ai nghĩ phải cùng nó định lời thề ước nào đó, mà chỉ muốn dừng chân lại chốn non nước bình lặng này, cảm ơn cuộc gặp gỡ ấm áp, cùng chung hạnh phúc bình dị.
Giữa thẳm sâu mây trắng, những thôn làng tường trắng ngói đen đó nằm hiền hòa giữa những ngọn núi, yên ả tĩnh lặng biết bao, không đua tranh với đời. Như một bức tranh thủy mặc đã định hình, khói mây trong tranh sẽ không tan biến, thời gian trong tranh sẽ không lưu chuyển. Mà những người mến tiếng xưa nay sẽ không kìm được suy ngẫm, ở một nơi cách xa tiếng ngựa xe huyên náo này, có phải cũng ẩn chứa những câu chuyện bình dị nhất nhân gian? Vậy mà, chính ở nơi không vướng bụi trần này lại chứa đựng nhiều mây khói đời thường, cất giữ nhiều dân tình chất phác, cũng là nơi bậc đại Nho như Chu Hy đời Tống cư trú.
Từ xưa tới nay, vì sự yên ổn này, biết bao tao nhân mặc khách đã cam tâm tình nguyện vứt bỏ danh lợi, rời xa đô thành, cưỡi một chú ngựa còm, ẩn cư điền viên. Giữ cánh cửa đơn sơ, sửa mấy cành rào giậu, ngắm đôi hàng đào mận đua sắc đơm bông. Hoặc ngồi im lặng dưới ánh mặt trời, pha một bình trà nhạt, nghe chim én trên xà nhà lách chách gọi nhau. Hoặc là trồng sen giữa ruộng, dắt một chú bò vàng, tha thẩn ngắm ráng chiều nơi chân trời. Sự yên bình của thôn xóm là an bài của thượng đế, tựa như một cái cây, một viên ngói xanh, một con kiến nhỏ, đều có số mệnh kỳ diệu của nó.
Nhất là mỗi độ tháng Tư, đầu thôn Vụ Nguyên tràn ngập sắc hoa cải dầu vàng rực. Những cành hoa nở bung, không hề giấu giếm giữa ngày xuân, không khiếp sợ thiều hoa [5] ngắn ngủi, đem sinh mệnh giao cho ánh nắng mùa xuân đơn sơ giữa thôn xóm. Mỗi vị khách từ xa đến đều phải vòng qua biển hoa thơm ngát này mới có thể vào được thôn trang trong mộng.
[5] Thiều hoa, hay thiều quang chỉ ngày xuân, mùa xuân.
Rất nhiều thân long não cổ thụ mọc thẳng tắp ở đầu thôn và cạnh tường sân, có lẽ chúng có thể quên đi tuổi đời của mình, nhưng lại không thể quên được mỗi cuộc gặp gỡ giữa khách qua đường với Vụ Nguyên, không thể quên được mỗi một câu chuyện như câu chuyện cũ bình hoa mai và cơn gió mát. Con đường dịch [6] lát đá xanh, biết bao người đã đi lướt qua nhau, ai cũng không thể nhớ nổi dung nhan của ai. Chỉ đứng giữa khói lửa của thế tục, để ngày tháng trôi qua nhàn nhạt như trà trong. Mùa ẩm ướt, giữa khe hở của đá mọc xanh rêu, tựa như cố ý cất giữ những phần không nên đánh mất. Có những tảng đá khắc chữ, giữ lại năm tháng mênh mông vô bờ của thôn trang, lặng lẽ kể lại chuyện trước đây của mưa gió Vụ Nguyên.
[6] Đường dịch: Đường chuyển công văn, thư ngày xưa.
Thôn xóm Vụ Nguyên có thế đội sơn đạp thủy, trước thôn hầu hết đều là những bến nước cổ. Bến nước bị cổ thụ, trúc xanh che khuất, toát lên sự tĩnh lặng và trầm mặc của tháng năm, nhưng không một ai ghi nhớ nổi lịch sử của chúng. Chỉ là năm này qua năm khác, chúng vẫn đậu lại nơi đầu thôn trang, bình thản mà trầm mặc ngắm nhìn khách đến khách đi. Nước sông vẫn trong vắt như xưa, y như con người Vụ Nguyên, ngày tháng giản đơn, sóng gió chẳng kinh sợ. Những chiếc bè tre đậu ngay ngắn, những chiếc ghế tre đơn sơ, những người lái đò đầu đội mũ rơm, dùng một cây sào dài chống xuống nước sông xanh biêng biếc, giữa dòng chảy khói mây bao phủ đi tìm một bến đò. Những cô gái hái chè lưng đeo gùi tre, hát vang mấy khúc sơn ca, trên cổ tay đeo những chiếc vòng bạc mà bà nội để lại, vẻ đẹp độc đáo của chúng bồng bềnh dưới ánh mặt trời.
Người trong thôn trang chèo bè tre đi lao động, đi họp chợ, giản dị đi ra ngoài, lại giản dị quay về. Nhưng sơn trang mộc mạc này không thay đổi dáng vẻ ban đầu, mấy mẫu ruộng ao, mấy thửa hoa màu, mấy ô giếng cổ, mấy gian nhà cũ, mấy làn khói bếp, tựa như một cuốn sách cổ ngàn năm, gió thổi khô dấu mực, gửi lại cho người đời sau tìm đọc. Bến nước không phải là nơi định mệnh ép con người ta phải quay về, mà chỉ là trạm nghỉ của linh hồn, cho dù tôi hay bạn đi qua mấy chặng sông nước, nó vẫn im hơi lặng tiếng. Cầu mái ngói [7] ván gỗ cũng là một phong cảnh không thể thiếu ở Vụ Nguyên, biết bao năm tháng, nó dùng chiếc xà chiếc cột đã già nua của mình vắt ngang giữa non xanh nước biếc, không oán không hận. Nói đến cầu mái ngói, không thể quên được giấc mộng xưa trên cầu mái ngói ấy, thứ mà cầu mái ngói Vụ Nguyên cất giữ chính là giấc mộng bình thường giản dị của người Vụ Nguyên. Cầu mái ngói gửi gắm những tâm nguyện tốt đẹp của họ, cho nên mỗi một cây cầu đều có một cái tên đẹp. “Lưỡng thủy giáp minh kính, song kiều lạc thái hồng” (Hai dòng nước sáng gương soi. Cầu cây mống đỏ rực ngời trên sông [8]) là hai câu thơ nói đến cầu Thái Hồng (cầu Cầu Vồng) của trấn Thanh Hoa, cây cầu được tôn vinh là “Cầu mái ngói đẹp nhất Trung Quốc”.
[7] Một loại cầu có mái ở trên để che chắn, bảo vệ thân cầu, là chỗ nghỉ ngơi, gặp gỡ của khách bộ hành.
[8] Hai câu thơ trong bài “Thu đăng Tuyên Thanh Tạ Dữu bắc lâu” của Lý Bạch (đời Đường), bản dịch Nhã Uyên.
Cầu mái ngói thân bằng gỗ, tạo hình tuyệt đẹp, phong cách cổ xưa mộc mạc, dài tít tắp như khiến người ta nhìn thấy thời Nam Tống xa xôi. Lịch sử tám trăm năm, vô số người đã dừng chân nghỉ ngơi ở đây, xây đắp nên những câu chuyện. Mưa gió tám trăm năm, từ kiếp trước đến đời này, cầu Thái Hồng vẫn như năm nào, trấn tĩnh bình thản, chỉ già nua đi đôi chút. Ngồi nghỉ ngơi trên cầu, ngắm nhìn thôn xóm trong tranh, non xanh nước biếc. Một bè gỗ lững lờ trôi qua, bám vào đời người, cứ như thế, không hỏi đường về, không nói trở lại.
Chính ở miền quê đẹp nhất này, còn lưu giữ những kiến trúc Huy phái mộc mạc, trang nhã. Tường trắng ngói đen, mái cong góc lượn, nhà ở Vụ Nguyên đều có chung một bố cục này, tọa lạc trong sơn thôn sâu thẳm, đời đời nối truyền. Giống như một tòa nhà cổ bị năm tháng bỏ quên, thu hút vô số người đến gõ cánh cửa nặng nề nơi đình viện sâu hun hút, xem lại một quãng chuyện cũ của Vụ Nguyên. Điêu khắc gỗ, điêu khắc đá tinh xảo, những hiên cửa sổ chạm trổ hoa, tuy kinh qua xuân thu năm tháng, nhưng vẫn giữ được hoàn chỉnh vẹn toàn. Trên cửa còn treo chiếc gương đồng kiểu cũ, trên mặt bàn bày những bình hoa sứ men xanh, còn có chiếc đồng hồ quả lắc đang gõ nhịp, cho dù thời gian trôi qua bao lâu, chúng đều trầm tĩnh như thuở ban đầu.
Người dân trong núi thuần phác, sống cuộc đời bình thường nhất trong những ngôi nhà giản đơn. Muối một vại dưa chua, ủ vài vò rượu gạo, phơi mấy cân trà xuân, trong nhà mùi cơm thơm ngát, mùi thơm ngậy của thịt săn bốc lên. Tháng năm trôi qua như bóng câu, đời người như một vở kịch trên sân khấu cũ kỹ, từ khi bắt đầu đến khi hạ màn, có viên mãn và cũng có nuối tiếc. Vụ Nguyên, là nơi trú ngụ của sinh mệnh, chốn về của linh hồn, dù số phận an bài thế nào, họ cũng cam tâm tình nguyện chìm sâu ở đó, cả đời không hối hận.
Đi xuyên qua ngõ phố quanh co tĩnh mịch, không hẹn mà gặp một tòa từ đường nào đó. Ở Vụ Nguyên, từ đường là một bức tranh cổ phơi giữa thôn trang, toát lên mùi thơm nồng của lịch sử. Từ đường cũng là gốc rễ của người Vụ Nguyên, cho dù họ có đi đến đâu cũng biết, có một nơi đại diện cho nguồn cội của mình là từ đường ở cố hương, hết năm này qua tháng khác đang đợi chờ họ. Từ đường đối với những thương nhân Huy Châu xa quê đi làm ăn là một mảnh trăng sáng, treo ở nơi hút mắt nhất trong trái tim, khẽ chạm vào nó, liền cảm động đến mức lập tức rớt nước mắt.
Thôn Uông Khẩu có một tòa từ đường của họ Du, được mệnh danh là “Nghệ thuật điện đường”, được dựng từ giữa những năm Càn Long thời Thanh với khí thế hùng vĩ, kỹ thuật tinh xảo, bố cục hoàn mỹ và phong cách độc đáo, đã làm rung động tâm hồn của ngàn vạn người ghé thăm. Môn lầu, xà cột, góc hiên đều dùng thủ pháp nông sâu đậm nhạt, hư thực tương ứng, điêu khắc những hình vẽ tinh xảo như long phượng kỳ lân, nhân vật truyện kịch, chim bay thú chạy, hoa nở cỏ thơm… Từ đường nơi đây không chỉ là gốc rễ của người dân Vụ Nguyên, mà còn lắng kết văn hóa phong tục tập quán thâm hậu của chốn này. Đi xa tới tận chân trời, cuối cùng sẽ có một ngày phải quay về làng cũ, về từ đường, tưởng nhớ đức độ cha ông, ca ngợi công lao tổ tông.
Ở miền quê đẹp nhất Trung Quốc này có rất nhiều khung cảnh khiến người ta lưu luyến. Có thể chọn đến thác cao đệ nhất Hoa Hạ – thác Đại Chướng Sơn, để dòng chảy trong vắt xả trôi, tẩy rửa chút phù hoa cuối cùng trong tâm tưởng. Cũng có thể đến hồ Uyên Ương lớn nhất thế giới, ngắm uyên ương thành đôi thành cặp đang quấn quýt đùa vui giữa đồng xanh bèo nước, dùng tháng năm đổi lấy nét dịu dàng. Còn có thể ở vườn nhà trò chuyện với đại nhạn, ngậm làn khói bếp của thôn xóm, nằm mộng mà bay.
Thôn trang có tên gọi “làng sách”, “làng trà” này, giống như một thân cổ thụ, năm này qua năm khác, dùng mãi một tư thế để đợi chờ ở đây. Chẳng ai để ý đến tuổi tác của nó, cũng không so đo sao nó mãi không thay đổi, người đến đây đều nguyện ý trao bản thân cho ánh sáng giản dị nơi này.
Giống như đã từng nhuộm mây trắng gió lành của Vụ Nguyên, cho dù đời người trăm ngàn hồi chuyển cũng không thể xóa được đoạn duyên phận này. Vậy thì, rời đi trước khi trà nguội, cắt một chút ký ức ấm áp khôn xiết bỏ vào hành lý, hoặc là mua một nghiên mực cổ hình vuông đem về, vào một ngày hoài niệm chuyện cũ nào đó, viết nên câu chuyện sắc màu Vụ Nguyên. Non nước nhàn nhạt sắc màu, trong những nét chấm phá vẽ thôn trang, có một bóng hình, đó là chính chúng ta.
Có lẽ chúng ta đều là những người tin vào tiền duyên, cho nên, thân sống giữa phồn hoa, vẫn không quên kiếm tìm những tháng ngày xưa cũ đó. Chuyện xưa trôi qua như mây khói tản mát, giữa bóng đêm của năm tháng âm thầm đổi thay, vừa ban nãy vẫn còn phong trần cuộn sóng, bây giờ đã không còn lại dấu vết gì. Năm tháng không biết đã đổi dung nhan bao lần, chỉ có cổ trấn là vẫn giữ lời thề ước năm xưa, không dám thay đổi dáng vẻ ban đầu. Tường viện xanh rêu âm ẩm, ngõ nhỏ sâu dài hun hút, lầu gỗ cổ kính, hành lang quanh co, sân khấu loang lổ, tuy đã phủ đầy bụi bặm của dĩ vãng, nhưng vẫn là mối tâm tình trong giấc mộng. Đẩy cánh cửa bị thời gian khép hờ, những tình cảm cảnh cũ người xưa còn lưu giữ nơi cổ trấn đó, vẫn bình yên êm ả như thế…
Tây Đường như mộng
Cho dù là người đã từng hay chưa từng đến Tây Đường đều sẽ cảm thấy, Tây Đường là một giấc mộng, một giấc mộng thuộc về Giang Nam. Nó nên thơ cổ kính, thuần phác tĩnh lặng, đã từng bị người đời quên lãng, đến nay lại được người ta tìm kiếm. Tôi luôn cho rằng những người đến Tây Đường là những người không từ bỏ được quá khứ hữu tình. Bởi vì mỗi phong cảnh nơi đây đều có thể dễ dàng, nhẹ nhàng lay động sự mềm yếu trong bạn. Giữa phong cảnh sự vật yên tĩnh của Tây Đường, có thể mơ một giấc mơ dài, khi tỉnh lại, cũng sẽ có những tháng ngày không lưu giữ được.
Trước khi đến Tây Đường, tôi cũng chỉ là một khách bộ hành ngẫu nhiên, mà không biết rằng từ ngàn năm trước đó, mình đã từng có duyên phận với nó. Thời Xuân Thu, Ngũ Tử Tư của nước Ngô đã khơi thông thủy lợi, vận hành chuyển muối, khai vét Ngũ Tử đường, dẫn nước từ phía Bắc núi Tư chảy về trong vùng, vì thế từ đó Tây Đường cũng được gọi là Tư Đường. Cũng chính là một chữ “Tư” này, khiến tôi cho rằng, mình và Tây Đường có nhân quả định mệnh [1]. Cho dù chỉ là cảm xúc đơn phương, nhưng vì trong lòng chất chứa cảm xúc này, nên trước mỗi cảnh mỗi vật ở Tây Đường, tôi đều không kìm được xiết bao lưu luyến.
[1] Tác giả Bạch Lạc Mai tên thật là Tư Trí Tuệ.
Tháng năm yên tĩnh, khe khẽ dập dềnh giữa sóng nước. Dưới ngói xanh tường xám, dường như chớp mắt đã có thể nhìn thấy lịch sử xa xăm của Tây Đường. Thực ra Tây Đường không có một chiều dài lịch sử lớn lao thâm trầm, cũng không có nhiều nhân vật hô mưa gọi gió. Năm tháng cũng như dòng sông nơi đây, cứ từ từ chảy miết, không có sóng to gió lớn hãi hùng, chỉ bình dị yên ổn. Tòa cổ trấn ngàn năm này, từ khi bắt đầu đã có dáng vẻ cổ kính, đơn sơ như thế. Ung dung bước qua bốn mùa thay đổi, ung dung nhìn hợp hợp tan tan của đời người, cũng ung dung tiếp nhận những khách qua đường vãng lai và những tình cảm khác nhau mà họ đem tới.
Tây Đường ven sông, tựa như luôn có một làn sương mỏng như lụa bao bọc, chỉ cần như vậy đã có thể làm nổi bật được phong vận của miền sông nước Giang Nam. Nước chảy reo ca, khỏa chèo nhẩm hát, những nhà dân cổ kính hai bên bờ là cảnh tượng nguyên sơ mà chân thực của tiểu trấn. Biết bao năm, con người nơi đây cũng đã kinh qua bao lần đổi thay, chỉ là lại thêm một lần luân hồi, chứ không thể làm thay đổi ký ức xanh thẳm đó. Dưới bầu trời bao la, không nhìn thấy được lầu cao thành thị, chỉ có những ngôi nhà cũ điểm tô năm qua năm tới kể lại những câu chuyện na ná như nhau.
Lầu gỗ đơn sơ có mấy cánh cửa trên mái hiên đang hé mở, khiến tôi quên hết mệt mỏi của chuyến đi, thậm chí còn tự tưởng tượng rằng, có một cánh cửa đã mở vì mình, có một người đang đợi mình. Mà tôi không biết phong cảnh Tây Đường xưa nay không dễ dàng bị người ta làm kinh động. Đây là miền sông nước trong mộng của rất nhiều người, bạn có thể cảm nhận được hơi thở của nó từ rất xa, nhưng chẳng mấy người có thể lưu lại mãi mãi. Chỉ là có được trong khoảnh khắc, để đổi lấy nhớ nhung một đời, Tây Đường cũng không phụ lòng bất cứ người nào đi ngang qua cuộc đời nó.
Những người đã từng đến Tây Đường nhất định sẽ không quên hành lang nghìn mét dài hun hút đó. Ở Giang Nam, những hành lang ven nước này đâu đâu cũng thấy, nhưng chỉ có hành lang ở Tây Đường mới khiến bạn cả đời khó quên. Bởi vì độ dài ấy như thể đi đến tận kiếp sau mới hết. Bạn có thể thoải mái mơ một giấc mơ ở nơi này, không cần lo lắng bị bất cứ cảnh tượng hiện thực nào đánh thức. Chỉ lắng lòng cảm nhận ngọn gió đang quét qua hành lang dài, lướt qua làm đáy lòng se se lạnh, mà bức tranh Giang Nam, câu chuyện đời người, cứ thế từ từ mở ra.
Có người nói với tôi, con phố dài dằng dặc này có những ngọn nguồn tươi đẹp. Mà tôi lại không muốn biết căn nguyên của những chuyện xưa đó, chỉ muốn bình an có được cuộc gặp gỡ này - cuộc gặp gỡ với Tây Đường trên hành lang sinh mệnh. Sau khi quay người, dù nó sẽ lãng quên tôi, tôi cũng sẽ hết sức trân trọng mối lưu luyến chẳng thể cắt rời này.
Tôi như một khách qua đường, đến bến đò Tây Đường, tôi đợi một chiếc thuyền, sắp xếp cuộc gặp gỡ trong cuộc đời. Ngay khoảnh khắc tương phùng này đã dự kiến một màn ly biệt, chỉ là cuộc đời của mỗi con người, đều vì quá trình này mà hối hả đuổi theo. Trong nhân quả đã định, không ai còn mải mê tính toán được mất. Xuôi theo dòng nước, thử quên đi hành lý nặng nề trên vai, giữa dòng chảy cứ gặp đâu vui đấy. Cây cầu cổ ở Tây Đường giống như một cây cổ cầm bắc ngang sông nước, cùng một dây đàn nhưng mỗi người lại có thể gảy nên tiếng nhạc và thanh điệu khác nhau.
Ký ức liên quan đến những cây cầu luôn khiến người ta nhớ đến bài “Đoạn chương” của thi nhân Biện Chi Lâm: “Em đứng trên cầu ngắm phong cảnh. Người ngắm phong cảnh trên lầu ngắm em. Trăng sáng tô điểm khung cửa của em. Em tô điểm cho giấc mộng người khác.” Còn tôi luôn cho rằng, người đứng trên cầu chưa chắc biết mình đã trở thành phong cảnh của người khác, người ngồi trên thuyền, cũng không biết anh ta đã tô điểm cho giấc mộng của kẻ nào!
Kỳ thực, cuộc tương phùng xa lạ giữa người và người, đa phần chỉ là lướt qua nhau, cái họ có thể ghi nhớ là cây cầu kinh qua ngàn năm không đổi, chứ không phải là phong cảnh nơi họ đã dạo chân qua. Lại có lẽ, đa tình chỉ là những vị khách qua đường, vì mỗi cây cầu hàng ngày đưa tiễn biết bao vị khách, chúng chẳng có lòng nào lưu ý đến những phù hoa đó. Nước chảy róc rách chẳng ngừng, chở tôi đi về bờ bên kia, chỉ có cây cầu Tây Đường và những mái nhà miền sông nước lẳng lặng nhìn nhau mãi chẳng muộn phiền.
Ở Tây Đường, còn một nơi có thể cất giữ linh hồn, đó là Thạch Bì lộng [2] được mệnh danh là “Giang Nam đệ nhất lộng [3]”. Trong một góc nhỏ khuất tầm mắt, viết ba chữ giản dị “Thạch Bì lộng”. Một ngõ nhỏ cũ kỹ chật hẹp, giống như một chuyện cũ lạc trong góc khuất của thời gian, giữa ẩn ẩn hiện hiện, tựa như không có điểm tận cùng. Người đến Tây Đường đều sẽ không từ bỏ cuộc tương phùng này, cho dù Thạch Bì lộng xưa nay chưa từng dành cho bất cứ người nào một lời hứa dù là giản đơn. Nhưng sự chất phác mang theo vẻ thần bí lại khiến người ta có thể thấy được quá khứ chân thực.
[2] Thạch Bì lộng: Là một ngõ nhỏ hình thành giữa hai phủ đệ của con cháu Vương gia, được lát bằng 168 viên đá, dài 68 mét, rộng 0,8 mét.
[3] Lộng, lộng đường tức là ngõ, ngách.
Những bức tường cũ kỹ ghi đầy dấu vết tháng năm bị thời gian đẽo từng mảng, từng mảng một. Những ký ức rơi rụng này đã gom góp lại những lênh đênh sông nước tự cổ chí kim. Trên con đường lát đá mỏng, bước chân một số người âm thầm lại gần, bước chân một số người đã vội vã đi xa, chỉ có thời gian trầm mặc là còn lưu lại nơi đây, chưa từng hỏi nhân quả.
Theo dòng suy tư mênh mang, hoàng hôn càng lúc càng xa, Tây Đường mới thấp thoáng đèn hoa lại mang một vẻ đẹp khác. Hành lang dài ven sông treo một hàng đèn lồng đỏ, ánh đèn dịu mắt tựa như tơ lụa Giang Nam, mang theo biết bao đa tình và thương mến. Đêm Tây Đường rất tĩnh lặng, tĩnh lặng đến mức có thể nhìn thấy chiếc bóng trong giọt nước đậu trên hai bờ ngói xanh. Đêm Tây Đường, dưới ánh đèn mờ tối có một vẻ hoa lệ không thể che mờ. Sân khấu nổi trên mặt nước là khung cảnh sinh động nhất trong màn đêm Tây Đường. Hý khúc Giang Nam truyền thống, khẽ hát tiếng Ngô uyển chuyển [4], tựa như một ly rượu nhàn nhạt dưới trăng thanh gió mát, chuốc say cả người trên, kẻ dưới sân khấu. Biết bao tháng năm đã bị sông nước nồng hậu nơi đây tưới ướt đẫm, mà họ cam tâm tình nguyện nhảy xuống nỗi ưu thương của nước, chỉ vì một nỗi xúc động dịu dàng trong tim. Mỗi người đều chất chứa trong mình một tình cảm tinh tế mà đẹp đẽ, trong phàm trần khói lửa, họ không dễ dàng bộc lộ bản thân. Là Tây Đường đã khiến họ dũng cảm bộc bạch, hơn nữa trong cuộc đời đầy gò bó, có thể có được niềm vui không thể nào quên như thế.
[4] Nguyên văn “Ngô nông nhuyễn ngữ”, tức chỉ giọng địa phương vùng Giang Nam ngữ điệu uyển chuyển dễ nghe.
Ở một quán trà nào đó của Tây Đường, gọi một bình trà, lặng lẽ nhìn người đi qua lại, giữa hơi nước mờ mịt, lòng người bình thản hiền hòa. Tôi đem tất cả ký ức về Tây Đường ngâm trong bình trà này, đến khi trà nhạt, tôi liền rời đi. Hai bên chưa từng hứa hẹn, cho nên cũng không cần lưu lại dấu tích vấn vương. Ở Tây Đường, tôi chỉ là một hạt bụi bay qua tháng năm như nước chảy, có lẽ quay người, nó sẽ quên mất tôi là ai. Nhưng tôi, trước sau sẽ lưu lại đôi mắt tâm hồn, cố giữ vẻ đẹp cổ kính của nó.
Tây Đường đẹp như một giấc mộng, nhưng thực sự không phải là mộng. Có lẽ vào một ngày nào đó của nhiều năm sau, tôi sẽ đội gió vượt mưa trở về, hai bên đều đã nhạt nhoà dung nhan theo năm tháng, nhưng nó vẫn là nó, tôi vẫn là tôi.
Vụ Nguyên sắc màu
Nhiều khi chúng ta có thể đến một nơi mà không cần bất cứ lý do nào. Sau khi đến hãy nguyện tin vào cái gọi là duyên phận. Như thế có thể dễ dàng vượt qua lịch sử xuân thu, ngắm nhìn phong cảnh đủ khiến bạn cả đời nhung nhớ. Vụ Nguyên được mệnh danh là “làng quê đẹp nhất Trung Quốc”, khoảnh khắc tương phùng, tôi và bạn rũ bỏ lớp áo hoa lệ của thành thị, sóng bước cùng cuộc sống chất phác nơi này. Cho dù rất nhiều người vừa gặp đã say Vụ Nguyên, nhưng không ai nghĩ phải cùng nó định lời thề ước nào đó, mà chỉ muốn dừng chân lại chốn non nước bình lặng này, cảm ơn cuộc gặp gỡ ấm áp, cùng chung hạnh phúc bình dị.
Giữa thẳm sâu mây trắng, những thôn làng tường trắng ngói đen đó nằm hiền hòa giữa những ngọn núi, yên ả tĩnh lặng biết bao, không đua tranh với đời. Như một bức tranh thủy mặc đã định hình, khói mây trong tranh sẽ không tan biến, thời gian trong tranh sẽ không lưu chuyển. Mà những người mến tiếng xưa nay sẽ không kìm được suy ngẫm, ở một nơi cách xa tiếng ngựa xe huyên náo này, có phải cũng ẩn chứa những câu chuyện bình dị nhất nhân gian? Vậy mà, chính ở nơi không vướng bụi trần này lại chứa đựng nhiều mây khói đời thường, cất giữ nhiều dân tình chất phác, cũng là nơi bậc đại Nho như Chu Hy đời Tống cư trú.
Từ xưa tới nay, vì sự yên ổn này, biết bao tao nhân mặc khách đã cam tâm tình nguyện vứt bỏ danh lợi, rời xa đô thành, cưỡi một chú ngựa còm, ẩn cư điền viên. Giữ cánh cửa đơn sơ, sửa mấy cành rào giậu, ngắm đôi hàng đào mận đua sắc đơm bông. Hoặc ngồi im lặng dưới ánh mặt trời, pha một bình trà nhạt, nghe chim én trên xà nhà lách chách gọi nhau. Hoặc là trồng sen giữa ruộng, dắt một chú bò vàng, tha thẩn ngắm ráng chiều nơi chân trời. Sự yên bình của thôn xóm là an bài của thượng đế, tựa như một cái cây, một viên ngói xanh, một con kiến nhỏ, đều có số mệnh kỳ diệu của nó.
Nhất là mỗi độ tháng Tư, đầu thôn Vụ Nguyên tràn ngập sắc hoa cải dầu vàng rực. Những cành hoa nở bung, không hề giấu giếm giữa ngày xuân, không khiếp sợ thiều hoa [5] ngắn ngủi, đem sinh mệnh giao cho ánh nắng mùa xuân đơn sơ giữa thôn xóm. Mỗi vị khách từ xa đến đều phải vòng qua biển hoa thơm ngát này mới có thể vào được thôn trang trong mộng.
[5] Thiều hoa, hay thiều quang chỉ ngày xuân, mùa xuân.
Rất nhiều thân long não cổ thụ mọc thẳng tắp ở đầu thôn và cạnh tường sân, có lẽ chúng có thể quên đi tuổi đời của mình, nhưng lại không thể quên được mỗi cuộc gặp gỡ giữa khách qua đường với Vụ Nguyên, không thể quên được mỗi một câu chuyện như câu chuyện cũ bình hoa mai và cơn gió mát. Con đường dịch [6] lát đá xanh, biết bao người đã đi lướt qua nhau, ai cũng không thể nhớ nổi dung nhan của ai. Chỉ đứng giữa khói lửa của thế tục, để ngày tháng trôi qua nhàn nhạt như trà trong. Mùa ẩm ướt, giữa khe hở của đá mọc xanh rêu, tựa như cố ý cất giữ những phần không nên đánh mất. Có những tảng đá khắc chữ, giữ lại năm tháng mênh mông vô bờ của thôn trang, lặng lẽ kể lại chuyện trước đây của mưa gió Vụ Nguyên.
[6] Đường dịch: Đường chuyển công văn, thư ngày xưa.
Thôn xóm Vụ Nguyên có thế đội sơn đạp thủy, trước thôn hầu hết đều là những bến nước cổ. Bến nước bị cổ thụ, trúc xanh che khuất, toát lên sự tĩnh lặng và trầm mặc của tháng năm, nhưng không một ai ghi nhớ nổi lịch sử của chúng. Chỉ là năm này qua năm khác, chúng vẫn đậu lại nơi đầu thôn trang, bình thản mà trầm mặc ngắm nhìn khách đến khách đi. Nước sông vẫn trong vắt như xưa, y như con người Vụ Nguyên, ngày tháng giản đơn, sóng gió chẳng kinh sợ. Những chiếc bè tre đậu ngay ngắn, những chiếc ghế tre đơn sơ, những người lái đò đầu đội mũ rơm, dùng một cây sào dài chống xuống nước sông xanh biêng biếc, giữa dòng chảy khói mây bao phủ đi tìm một bến đò. Những cô gái hái chè lưng đeo gùi tre, hát vang mấy khúc sơn ca, trên cổ tay đeo những chiếc vòng bạc mà bà nội để lại, vẻ đẹp độc đáo của chúng bồng bềnh dưới ánh mặt trời.
Người trong thôn trang chèo bè tre đi lao động, đi họp chợ, giản dị đi ra ngoài, lại giản dị quay về. Nhưng sơn trang mộc mạc này không thay đổi dáng vẻ ban đầu, mấy mẫu ruộng ao, mấy thửa hoa màu, mấy ô giếng cổ, mấy gian nhà cũ, mấy làn khói bếp, tựa như một cuốn sách cổ ngàn năm, gió thổi khô dấu mực, gửi lại cho người đời sau tìm đọc. Bến nước không phải là nơi định mệnh ép con người ta phải quay về, mà chỉ là trạm nghỉ của linh hồn, cho dù tôi hay bạn đi qua mấy chặng sông nước, nó vẫn im hơi lặng tiếng. Cầu mái ngói [7] ván gỗ cũng là một phong cảnh không thể thiếu ở Vụ Nguyên, biết bao năm tháng, nó dùng chiếc xà chiếc cột đã già nua của mình vắt ngang giữa non xanh nước biếc, không oán không hận. Nói đến cầu mái ngói, không thể quên được giấc mộng xưa trên cầu mái ngói ấy, thứ mà cầu mái ngói Vụ Nguyên cất giữ chính là giấc mộng bình thường giản dị của người Vụ Nguyên. Cầu mái ngói gửi gắm những tâm nguyện tốt đẹp của họ, cho nên mỗi một cây cầu đều có một cái tên đẹp. “Lưỡng thủy giáp minh kính, song kiều lạc thái hồng” (Hai dòng nước sáng gương soi. Cầu cây mống đỏ rực ngời trên sông [8]) là hai câu thơ nói đến cầu Thái Hồng (cầu Cầu Vồng) của trấn Thanh Hoa, cây cầu được tôn vinh là “Cầu mái ngói đẹp nhất Trung Quốc”.
[7] Một loại cầu có mái ở trên để che chắn, bảo vệ thân cầu, là chỗ nghỉ ngơi, gặp gỡ của khách bộ hành.
[8] Hai câu thơ trong bài “Thu đăng Tuyên Thanh Tạ Dữu bắc lâu” của Lý Bạch (đời Đường), bản dịch Nhã Uyên.
Cầu mái ngói thân bằng gỗ, tạo hình tuyệt đẹp, phong cách cổ xưa mộc mạc, dài tít tắp như khiến người ta nhìn thấy thời Nam Tống xa xôi. Lịch sử tám trăm năm, vô số người đã dừng chân nghỉ ngơi ở đây, xây đắp nên những câu chuyện. Mưa gió tám trăm năm, từ kiếp trước đến đời này, cầu Thái Hồng vẫn như năm nào, trấn tĩnh bình thản, chỉ già nua đi đôi chút. Ngồi nghỉ ngơi trên cầu, ngắm nhìn thôn xóm trong tranh, non xanh nước biếc. Một bè gỗ lững lờ trôi qua, bám vào đời người, cứ như thế, không hỏi đường về, không nói trở lại.
Chính ở miền quê đẹp nhất này, còn lưu giữ những kiến trúc Huy phái mộc mạc, trang nhã. Tường trắng ngói đen, mái cong góc lượn, nhà ở Vụ Nguyên đều có chung một bố cục này, tọa lạc trong sơn thôn sâu thẳm, đời đời nối truyền. Giống như một tòa nhà cổ bị năm tháng bỏ quên, thu hút vô số người đến gõ cánh cửa nặng nề nơi đình viện sâu hun hút, xem lại một quãng chuyện cũ của Vụ Nguyên. Điêu khắc gỗ, điêu khắc đá tinh xảo, những hiên cửa sổ chạm trổ hoa, tuy kinh qua xuân thu năm tháng, nhưng vẫn giữ được hoàn chỉnh vẹn toàn. Trên cửa còn treo chiếc gương đồng kiểu cũ, trên mặt bàn bày những bình hoa sứ men xanh, còn có chiếc đồng hồ quả lắc đang gõ nhịp, cho dù thời gian trôi qua bao lâu, chúng đều trầm tĩnh như thuở ban đầu.
Người dân trong núi thuần phác, sống cuộc đời bình thường nhất trong những ngôi nhà giản đơn. Muối một vại dưa chua, ủ vài vò rượu gạo, phơi mấy cân trà xuân, trong nhà mùi cơm thơm ngát, mùi thơm ngậy của thịt săn bốc lên. Tháng năm trôi qua như bóng câu, đời người như một vở kịch trên sân khấu cũ kỹ, từ khi bắt đầu đến khi hạ màn, có viên mãn và cũng có nuối tiếc. Vụ Nguyên, là nơi trú ngụ của sinh mệnh, chốn về của linh hồn, dù số phận an bài thế nào, họ cũng cam tâm tình nguyện chìm sâu ở đó, cả đời không hối hận.
Đi xuyên qua ngõ phố quanh co tĩnh mịch, không hẹn mà gặp một tòa từ đường nào đó. Ở Vụ Nguyên, từ đường là một bức tranh cổ phơi giữa thôn trang, toát lên mùi thơm nồng của lịch sử. Từ đường cũng là gốc rễ của người Vụ Nguyên, cho dù họ có đi đến đâu cũng biết, có một nơi đại diện cho nguồn cội của mình là từ đường ở cố hương, hết năm này qua tháng khác đang đợi chờ họ. Từ đường đối với những thương nhân Huy Châu xa quê đi làm ăn là một mảnh trăng sáng, treo ở nơi hút mắt nhất trong trái tim, khẽ chạm vào nó, liền cảm động đến mức lập tức rớt nước mắt.
Thôn Uông Khẩu có một tòa từ đường của họ Du, được mệnh danh là “Nghệ thuật điện đường”, được dựng từ giữa những năm Càn Long thời Thanh với khí thế hùng vĩ, kỹ thuật tinh xảo, bố cục hoàn mỹ và phong cách độc đáo, đã làm rung động tâm hồn của ngàn vạn người ghé thăm. Môn lầu, xà cột, góc hiên đều dùng thủ pháp nông sâu đậm nhạt, hư thực tương ứng, điêu khắc những hình vẽ tinh xảo như long phượng kỳ lân, nhân vật truyện kịch, chim bay thú chạy, hoa nở cỏ thơm… Từ đường nơi đây không chỉ là gốc rễ của người dân Vụ Nguyên, mà còn lắng kết văn hóa phong tục tập quán thâm hậu của chốn này. Đi xa tới tận chân trời, cuối cùng sẽ có một ngày phải quay về làng cũ, về từ đường, tưởng nhớ đức độ cha ông, ca ngợi công lao tổ tông.
Ở miền quê đẹp nhất Trung Quốc này có rất nhiều khung cảnh khiến người ta lưu luyến. Có thể chọn đến thác cao đệ nhất Hoa Hạ – thác Đại Chướng Sơn, để dòng chảy trong vắt xả trôi, tẩy rửa chút phù hoa cuối cùng trong tâm tưởng. Cũng có thể đến hồ Uyên Ương lớn nhất thế giới, ngắm uyên ương thành đôi thành cặp đang quấn quýt đùa vui giữa đồng xanh bèo nước, dùng tháng năm đổi lấy nét dịu dàng. Còn có thể ở vườn nhà trò chuyện với đại nhạn, ngậm làn khói bếp của thôn xóm, nằm mộng mà bay.
Thôn trang có tên gọi “làng sách”, “làng trà” này, giống như một thân cổ thụ, năm này qua năm khác, dùng mãi một tư thế để đợi chờ ở đây. Chẳng ai để ý đến tuổi tác của nó, cũng không so đo sao nó mãi không thay đổi, người đến đây đều nguyện ý trao bản thân cho ánh sáng giản dị nơi này.
Giống như đã từng nhuộm mây trắng gió lành của Vụ Nguyên, cho dù đời người trăm ngàn hồi chuyển cũng không thể xóa được đoạn duyên phận này. Vậy thì, rời đi trước khi trà nguội, cắt một chút ký ức ấm áp khôn xiết bỏ vào hành lý, hoặc là mua một nghiên mực cổ hình vuông đem về, vào một ngày hoài niệm chuyện cũ nào đó, viết nên câu chuyện sắc màu Vụ Nguyên. Non nước nhàn nhạt sắc màu, trong những nét chấm phá vẽ thôn trang, có một bóng hình, đó là chính chúng ta.
Thủy mặc Huy Châu
Không có quá khứ nào lặp lại, chưa từng có tương lai nào được báo trước, lần đầu tiên bước tới Huy Châu, như có một hơi hướm hoài cổ phả thẳng vào tâm hồn. Trong lúc mơ màng, ta luôn cảm thấy đã từng đến đây, mà dường như nơi đây lại cũng rất xa xôi. Dưới ánh nắng nhàn nhạt, khơi gợi ký ức lịch sử, gạn lọc bụi trần tháng năm, nhởn nhơ trong khung cảnh thi vị hiền hòa của Huy Châu. Những hàng dương liễu xinh đẹp thướt tha chia cắt đôi bờ, một bên là ngày hôm qua úa vàng, một bên là ngày hôm nay tươi sáng. Huy Châu lúc này như một chiếc nghiên cổ trầm mặc, bị thời gian mài mòn, lại từ từ loang ra trong nước, làm sống động cả một vùng Giang Nam.
Thời gian đuổi theo những bước chân vội vã kiếm tìm, men theo những hành lang vẽ tranh sơn thủy của Huy Châu cổ, bóc tách những bí mật chôn giấu trong nơi sâu thẳm của vòng quay năm tháng. Từng chiếc cổng tam quan khí thế khoáng đạt sừng sững giữa trời xanh biêng biếc, trầm lặng dưới khói tỏa bóng chiều. Những di tích mộc mạc cổ xưa của tiền triều giống như những đồ đồng thau, đồ gốm được khai quật, tích tụ sắc loang lổ lại tràn ngập hương vị cũ kỹ của lịch sử. Có nơi tú mỹ nguy nga, vẫn đứng đơn độc giữa trời xanh mây trắng; có nơi quanh co một dải, hợp thành quần thể, tự tại phô diễn chốn hoang sơ.
Kiến trúc cổng tam quan của Huy Châu bắt đầu được xây dựng vào những thời đại khác nhau, những điêu khắc tinh tế tuyệt luân và những hoa văn mang âm hưởng cổ điển tự nhiên thể hiện rõ rệt sự khí phái và huy hoàng mà nó đã từng có. Cổng tam quan tượng trưng cho nội hàm nhân văn Trung, Hiếu, Tiết, Nghĩa, kể lại quá khứ đã lưu lại nơi đây, cũng cất giữ những câu chuyện qua từng năm tháng. Ánh dương chói lọi mạ sáng lịch sử đã xa xôi, tẩy sạch nền văn minh đã bị hoen gỉ, từng cánh cổng tam quan thấm đẫm sự uy nghiêm, phản chiếu vinh quang, ẩn chứa tình cảm, kể với người đời sự tang thương mưa gió hàng trăm nghìn năm qua.
Đến nay, chỉ có thể tìm thấy bóng dáng thấp thoáng của những trung thần hiếu tử và liệt nữ tiết phụ đương thời trong những hiện vật còn lưu lại, lần giở những câu chuyện lay động lòng người về họ trong ký ức mơ hồ. Lội ngược dòng lịch sử, thả cho dòng suy tưởng bay cao đến tận tầng mây, mượn tháng năm làm bút, lấy phong cảnh làm mực, những cổng tam quan cổ kính đã chép lại một bộ sử Huy Châu dài lâu liên tiếp, rộng lớn sâu xa.
Ánh mắt xuyên qua những hàng dương liễu buông rủ thướt tha trong gió, mạch suy nghĩ ngổn ngang ngưng đọng trong khoảnh khắc. Những tòa nhà cổ chìm đắm dưới ánh tịch dương mang một vẻ say đắm mông lung, giống như thủy mặc, quẩn quanh vương vít trong làn khói mãi không tan. Hai màu đen trắng là linh hồn chất phác của những tòa nhà dân ở Huy Châu, một vùng quần thể kiến trúc cổ đó không tô vẽ lộng lẫy, mà đen đến lạnh lùng, trắng đến mức thấu triệt, dùng vẻ đẹp mộc mạc và thái độ ôn hòa, phảng phất phong thái tự nhiên, hòa tan vào trong ngàn vạn sắc thái của cuộc sống, lặng lẽ nằm giữa non nước tú mỹ linh thiêng tao nhã như tranh.
Vào hai triều đại Thanh, Minh, nền kinh tế hàng hóa của Giang Nam phát triển cực thịnh, rất nhiều thương gia Huy Châu giàu có lừng lẫy một phương. Bọn họ áo gấm về làng, xây dựng nhà cửa, mang nét văn hóa đặc sắc của Huy Châu vào kiến trúc đình viện. Mỗi một bức tường đều có một sứ mệnh khó có thể vượt qua, chúng dõi nhìn cảnh tượng mênh mông mờ mịt phía xa, kiên trì giữ gìn quê nhà đã già cỗi.
Đẩy cánh cửa gỗ dày nặng trịch, bước vào sảnh đường, không khí cổ kính bao trùm trước sảnh nhà khiến trái tim của người từ ngoài vào dần dần chìm lắng. Từng bức ngói khắc, đá khắc, gỗ khắc phác họa những hình thù hoa chim trùng cá, những nhân vật, những chuyện kể, một lần nữa hội tụ đầy đủ lịch sử văn hóa của những triều đại khác nhau. Điều khiến bạn kinh ngạc là một căn nhà nho nhỏ lại có thể chứa đựng vạn vật trong đất trời, bao gồm toàn bộ tinh túy dân tộc cổ xưa. Phút quay người rời đi, một chiếc bình hoa kiểu cũ bám đầy bụi đã đủ gợi cho bạn một đoạn hồi ức như có như không.
Luôn luôn có một tâm tình sâu nặng trong con tim không thể xóa nhòa, như nước suối nguồn không thể cạn khô, mối tâm tình ấy âm thầm chảy liên miên không dứt trong suốt cuộc đời. Người Huy Châu sống quần tụ bên những miệng giếng khơi, chỉ cần những nơi có giếng nước là có khói bếp lam chiều, có muôn vàn sắc thái huyên náo sôi động. Dòng suối trong văn vắt đó chảy tràn qua mối tình quê trong suốt và cuộc sống ngọt ngào, từng giọt từng giọt đều thấm vào tận huyết mạch của người Huy Châu. Dưới ánh nắng mặt trời, mỗi miệng giếng cổ đều hồi tưởng lại công đức của những người đào giếng tạo phúc cho muôn dân, dùng phương thức đơn giản nhất để thể hiện nội hàm sinh dưỡng của cả một dân tộc. Rêu xanh thành giếng cũng chính là rêu xanh của đời người, tích lũy biết bao gió sương, càng lâu ngày lại càng dày lên thành lớp.
Cho đến ngày nay, cạnh một số giếng cổ vẫn còn bảo tồn những văn tự liên quan đến việc đào giếng và dùng nước năm nào, nội dung khắc trên đá đã bị bào mòn cùng với gió mưa năm tháng. Thế nhưng, từ những dấu tích xa xưa đã xuyên qua thời gian, vẫn còn nghe thấy thanh âm huyên náo nơi phố chợ, những câu từ dung dị ấy cứ xoay vòng bên miệng giếng, đi cùng mỗi sớm sớm chiều chiều. Hàng trăm năm, nghìn năm trôi qua, có rất nhiều thương gia Huy Châu về quê uống một ly rượu sinh mệnh máu hòa lẫn rượu, tưởng nhớ ân tình của nước, nghĩa lớn của nước. Họ từng rũ bỏ một phần lớn thời gian ở quê nhà, nên phải tìm lại trong dòng nước mát của giếng xưa.
Những hạt bụi lướt qua ánh nắng mặt trời, khe khẽ rớt xuống, lại lần nữa khiến dòng suy tưởng lắng đọng đến mức trong vắt. Từ đường ở Huy Châu là thánh điện của tông tộc, nối liền tình quê khó dứt của người Huy Châu với những quy ước làng xã trang nghiêm. Tòa kiến trúc thần thánh đó cất giấu lịch sử gia tộc của người Huy Châu, bảo tồn những lời dạy của thánh hiền đi trước. Nó cũng từng già nua trong lặng lẽ, nhưng mỗi một thịnh suy đã qua đều xứng đáng để trăm đời hậu thế học hỏi.
Ngước trông mái hiên chót vót cứng cỏi của từ đường, dường như ở đó chứa đựng một sức mạnh to lớn xiên thẳng tận trời cao, đo lường sự lâu dài và sức nặng của văn hóa gia tộc Huy Châu bằng một phương thức trầm lặng. Bước qua bậc cửa gỗ cao cao đó, va phải những môn thần uy vũ, khiến người ta không khỏi nghiêm trang kính cẩn. Những vòng khoen trên cánh cửa bị năm tháng làm hoen rỉ, dường như đang khóa chặt nhân quả của ai trong vô hình. Đứng giữa sảnh đường tĩnh mịch, nhìn người đời này và người xưa đối diện nhìn nhau, nghe những lời đối thoại bằng tâm linh của họ. Khoảnh khắc đó bạn mới hiểu rằng, người xưa và người nay không hề có khoảng cách, cho dù thời gian đã qua lâu nhưng vẫn để lại dấu ấn, mà người Huy Châu lại phỏng theo những dấu ấn này để bảo tồn những phong tục tập quán cho đến ngày nay. Họ dùng các phương thức mộc mạc như giấy dán màu, bộ đèn đục lỗ, xiếc chồng người, múa rồng… để cúng tế tổ tiên, giữ một lòng tôn kính với thánh hiền, một tình yêu nhiệt thành với gia tộc, tiễn đưa buổi tịch dương của thời viễn cổ, chào đón ánh bình minh của thời đại ngày nay.
Đi trên những con đường lát đá xanh nhỏ hẹp, ánh mặt trời rơi rớt trên góc thềm đã mài sáng những ký ức mơ hồ. Một sân khấu kịch nằm vắt qua làn khói xanh lượn lờ, lặng lẽ nói cho người đi đường biết nó đã từng hoa lệ ra sao. Đây là sân khấu kịch Huy Châu, sinh trưởng trong dân gian, lưu truyền trong dân gian, cũng tỏa sáng trong dân gian. Sân khấu của người Huy Châu được dựng lên vào dịp hội hè, dâng rượu lên thần linh, cúng tế và một số ngày lễ tết đặc biệt.
Kiến trúc của sân khấu đa phần đơn giản, khán đài làm bằng gỗ, ván sàn cũng bằng gỗ, thêm vài hình vẽ màu, gửi gắm sự đơn sơ giản dị của văn hóa Huy Châu. Chiêng trống và nhị hồ vang lên mở màn dạo đầu trang nhã đưa tình, trên sân khấu tiếng ca khe khẽ, điệu múa chầm chậm, dưới sân khấu biển người sục sôi. Những nghệ nhân đó mỗi khi lên sân khấu sắm vai công hầu khanh tướng đều tô vẽ kỹ lưỡng, diễn những màn bi hoan ly hợp của người khác. Mà khán giả dưới sân khấu cũng chăm chú tập trung, thưởng thức những buồn vui mừng giận của người đời.
Chẳng ai là vai chính, họ chỉ là nhân vật làm nền cho một hí khúc, bày tỏ nỗi lòng thương cảm và hạnh phúc mà thôi. Và ai cũng đều là vai chính, trên sân khấu đời người hỗn tạp, diễn trăm vị cuộc sống, nhân tình ấm lạnh. Huy kịch chất phác mà tròn trịa mang theo hương thơm của bùn đất núi sông, bằng nghệ thuật dân gian và phong tục thú vị độc đáo, hát trên khắp các cao lâu sơn thủy của Giang Nam, cũng diễn xướng trên mọi ngóc ngách đường phố của Huy Châu. Rất nhiều giai đoạn của đời người đều bắt đầu trong một màn kịch này và kết thúc trong một màn kịch khác.
Giữa tháng năm âm thầm mải miết trôi, không hay là ai đã làm đổ nghiên mực cổ, nhuộm cả một vùng Huy Châu rộng lớn, khiến non nước như thêu như gấm thấm đẫm trong thủy mặc ẩm ướt. Men theo dòng chảy, ngược lại dòng lịch sử lâu đời của Huy Châu cổ kính, còn có vô vàn phong tục dân gian phong phú sắc màu của nơi đây, khiến ta thu hoạch được một niềm vui thực thụ trong cuộc đời rộng lớn này.
Khi dòng suy tưởng sáng suốt xuyên suốt lãnh địa tinh thần, bước chân của người khai phá càng lúc càng đến gần, Huy Châu cổ kính không còn là một bức tranh thủy mặc treo trên bức tường Giang Nam nữa. Nó phô bày phong thái thuần hậu tự nhiên với toàn thế giới bằng sự phồn vinh thịnh vượng của một dân tộc, để lại những gợn sóng lăn tăn mỹ lệ trong lòng muôn vàn chúng sinh.
Năm tháng Ô Trấn
Dường như có một khoảng thanh xuân ẩm ướt đã lãng quên ở Ô Trấn của Giang Nam, còn có những dĩ vãng đã qua cần dịu dàng nhớ lại. Thế là sẽ nhớ đến Giang Nam trong hoa hạnh mưa khói, nhớ đến miền sông nước xanh biêng biếc trong gió xuân. Nhiều năm về trước đã từng thong thả đợi chờ, nhiều năm về sau vẫn bình thản kiếm tìm. Chỉ một cái quay người vô tình, cô gái tay cầm chiếc ô giấy dầu, lòng nặng nỗi u sầu, nhẹ nhàng bước đi trên con ngõ nhỏ, đi đến cây cầu mơ mộng, bước vào trong câu chuyện của tháng năm trôi chảy, không biết có thể thoát ra hay không?
Sinh hoạt một ngày ở Ô Trấn bắt đầu trong tiếng mái chèo khỏa sóng ì oạp, một cây sào trúc thật dài như trêu ghẹo thời gian tĩnh lặng ngưng đọng, nước sông trong veo lấp lánh thấm ướt những nhớ nhung dễ rung động đó. Còn có một chiếc thuyền đậu bên bờ, âm thầm bảo vệ những giấc mộng say nồng trong tiểu trấn. Chúng chăm chú nhìn cái bóng đen trắng của những căn nhà cổ xưa đó, suy ngẫm về tang thương ngàn năm chìm trong con nước.
Nước sông trầm lặng, nó cùng Ô Trấn lặng lẽ tiễn đưa xuân thu, lại vội vàng đón xuân hạ, từ khi hoa nở đến khi hoa tàn, từ khi duyên khởi đến khi duyên diệt. Rất nhiều năm sau, tất cả đều giống như trước, chỉ là hết thảy chuyện cũ theo định mệnh trôi đi, đã trở thành hồi ức. Những kiếp người bị ướt đẫm nước sông, mang theo nét yểu điệu của Giang Nam, xen lẫn phong vận của miền sông nước, giữa năm tháng mơ màng lại một lần nhớ nhung như ngàn ngọn buồm lướt qua. Ô Trấn như xưa, dòng sông nhỏ vẫn như xưa, khi gió xuân hây hẩy đi vào giấc mộng, trăng sáng vằng vặc rót vào trong chén, ai người còn bồi hồi nơi phương xa?
Xuyên qua phong cảnh thanh nhã và kín đáo, giữa ý thơ cảm nhận được cái mênh mang của thời gian, mà ánh nắng ấm áp đã chứng thực sự chân thực của sinh mệnh. Cầu đôi Phùng Nguyên [9] đậu hờ hững giữa hiện thực và mộng cảnh, mang theo hơi thở hiện đại, lại hàm chứa ý vị truyền thống, khiến khắp Ô Trấn phồn hoa mà không xô bồ, lạc giữa hồng trần mà không già cỗi.
[9] Một cây cầu cổ ở Ô Trấn, tương truyền có tục nam đi bên cầu trái, nữ đi bên cầu phải.
Cây cầu cổ cũng mang nặng ký ức, nó vẫn nhớ đã từng có sự gặp gỡ trong trẻo thế nào, lại nhớ đã từng bỏ lỡ những đẹp đẽ ra sao. Nó cũng nhặt lại rất nhiều buồn đau tuổi trẻ, cũng cất giữ biết bao mộng tưởng thanh xuân. Nó lặng lẽ bắc ngang dòng nước, đợi chờ người có duyên đi đến ào ào như gió, rồi rũ bỏ tất cả.
Nơi này lưu giữ dấu chân của Văn và Anh [10], lưu giữ dấu chân của hàng nghìn hàng vạn khách đi đường, họ tay nắm tay đứng trên cầu, dựa vào lan can im lặng ngắm cảnh quan của tiểu trấn, chỉ cảm thấy năm tháng đã qua thành hư ảo, chỉ còn lại một nháy mắt, nhưng nhớ nhung lại là cả đời. [10] Tên hai nhân vật chính trong bộ phim truyền hình “Năm tháng như nước” (Tự thủy niên hoa), do Hoàng Lỗi và Lưu Nhược Anh thủ vai chính, một phần bối cảnh là Ô Trấn.
Hơi hướm cổ kính toát ra từ trên ván cửa khô mục, từ trong bức tường loang lổ, từ những khe hở của đá xanh, lôi kéo vô số người đi xa dõi về. Dường như chỉ cần hễ sơ sểnh, là sẽ lạc vào trong một khung cảnh quen thuộc, khiến bạn mãi lâu sau mới có thể thoát ra. Dạo bước với tâm tình nhàn tản, chẳng màng đến lịch sử lâu đời ra sao, chẳng hỏi đến tang thương dấu tích, chỉ nhớ lại những nhung nhớ khó tả thành lời. Cho dù là phường rượu cũ kỹ hay là phường vải sáng ngời, đều có thể kích thích bạn tưởng tượng đến vô hạn.
Dưới làn nắng mỏng manh, hâm một bình rượu hoa hạnh, hưởng thụ cái nhàn nhã của tháng ngày thơ và rượu. Nhìn những mảnh chăn in hoa màu lam phơi trên những cây sào cao cao đang phấp phới trong làn gió, ngày xuân ý vị bao phủ thời gian, mà dường như thanh xuân chưa từng rời khỏi. Chìm đắm trong những cổ vật cũ kỹ và cảm xúc nhớ nhung đó, không sức mạnh thế tục nào có thể quấy rầy bạn, vì khi bạn còn đang mơ màng, Ô Trấn đã âm thầm lặn sâu trong trái tim bạn, từ đó tâm tư sâu lắng, khắc cốt ghi tâm.
Con ngõ nhỏ dài hun hút như khóc như than trong làn khói mù, cô gái mặc chiếc áo vải in hoa lam đó có thể là con gái Lâm gia [11] dưới ngòi bút của Mao Thuẫn [12], nàng từ trang bìa sách ẩm ướt khoan thai bước tới, từ trong cửa hàng Lâm gia cũ kỹ bước tới, bước vào nhà cũ của Mao Thuẫn, bước vào đình viện thâm sâu. Trong sảnh đường, Mao Thuẫn tiên sinh đang cầm bút trầm tư, ánh mắt chăm chú nhìn về phương xa đó, mang một vẻ tỉnh táo và khoáng đạt. Chính giữa thời đại đầy mây gió thét gào đó, ông đã gieo một tư tưởng tiến bộ, thắp một ngọn lửa tinh thần hừng hực, sinh động trong từng câu chữ, lưu lại giữa Ô Trấn.
[11] Một nhân vật trong truyện “Cửa hàng nhà họ Lâm” của nhà văn Mao Thuẫn, miêu tả đời sống của người Trung Quốc (ở đây là gia đình nhà họ Lâm) đã có nhiều thay đổi khi cuộc kháng chiến chống Nhật nổ ra.
[12] Mao Thuẫn (1896 – 1981): Nhà văn nổi tiếng Trung Quốc, người Gia Hưng, Chiết Giang, ông là nhà văn có nhiều cống hiến trong nền văn học cách mạng Trung Quốc. Hiện có giải thưởng văn học Mao Thuẫn, là một giải thưởng văn học cao quý.
Trong không gian thoang thoảng một mùi thơm thanh khiết của hoa mai từ trong sân thoảng tới, giữa cơn mơ màng chuyện xưa như diễn lại, ngày hôm nay giống như ngày hôm qua. Rất nhiều hiện thực còn xa vời hơn mộng tưởng, giống như rất nhiều huyên náo còn cô độc hơn yên tĩnh. Đứng dưới ánh mặt trời, nhìn hoa mai nở trong cô đơn, cánh hoa thơm tinh khiết khoáng đạt xuất chúng, cao ngạo lạnh lùng hơn bất cứ đóa hoa nào.
Ánh nắng ban chiều có một vẻ đẹp uể oải và buồn ngủ, làm đôi mắt díp lại mơ màng, cứ thế say giấc nồng trong một quán trà cổ kính. Đun một bình hoa cúc, nấu tâm sự thành hương thơm trang nhã. Dựa vào bậu cửa sổ, lắng nghe tiếng đàn sáo réo rắt, gẩy lên giai điệu Giang Nam. Bình đàn [13] của Giang Nam đã tỏa sáng rạng rỡ ở Ô Trấn – vùng sông nước đầy văn hóa này, giọng Ngô mềm mại, thú vị vô cùng, những câu chuyện quen thuộc đó lại càng ý vị sâu xa hơn qua tiếng hát, lời kể uyển chuyển của nghệ nhân.
[13] Bình đàn: Một loại hình văn nghệ dân gian, lưu hành ở vùng Giang Tô, Chiết Giang, Trung Quốc.
Tiếng tơ tiếng trúc khi vút lên như vạn ngựa băng băng, khi bình lặng như trăng thanh gió mát, khi phiêu diêu như suối ngọc róc rách, khi trầm tĩnh như nước thu sắc trời. Khoảnh khắc này, chính ở Ô Trấn cổ kính mộc mạc, chính ở quán trà nhớ chuyện cũ người xưa, uống một bình trà trong, nghe một khúc bình đàn, vứt bỏ hết ngày tháng, làm một con người thanh thản tự tại. Có câu rằng người nhạt như cúc, mà thế sự cũng nhạt như cúc chăng? Khi những ký ức sống động nay tan biến trong cuộc đời ngắn ngủi, ai còn nhớ đến một quãng thời gian ấm nồng trong dĩ vãng?
Con ngõ nhỏ dài hun hút trong khói sương, bị thời gian hoài niệm nhuộm màu; câu chuyện cô lẻ đằng sau cánh cửa gỗ, bị năm tháng ố vàng phủ bụi mờ. Rất nhiều người đã lướt qua những người bên cạnh, giữa hai người đời này kiếp này cũng không nhớ đã từng có lúc tương phùng đẹp đẽ nhường ấy. Từng tương phùng nơi cổ trấn Giang Nam, từng in lồng dấu chân nhau, thậm chí đã từng trao nhau ánh mắt.
Đến khi tháng năm già cỗi, nhớ lại dĩ vãng đã nhạt nhòa trước kia, chẳng ai hay biết ai, bởi vì cả hai đều là khách qua đường, là khách qua đường ở Giang Nam, là khách qua đường ở Ô Trấn. Cuộc gặp gỡ ấy như một vở rối bóng, bắt đầu và kết thúc trong hoa lệ và hư ảo. Ngồi trong hành lang tĩnh mịch, đợi một vở rối bóng mở màn, rồi dưới ánh đèn dìu dịu, đắm mình vào câu chuyện tuyệt mỹ trong vở rối.
Nữ: Hoa dại đón gió rung rinh, dường như đang lắng nghe tâm sự. Cỏ xanh nhè nhẹ lay động, lưu luyến triền miên vô tận. Cành liễu chớm xanh, la đà trên làn nước biêng biếc, khuấy động tấm lòng thiếu nữ dập dềnh như sóng nước. Tại sao mùa xuân mỗi năm đều đến đúng hẹn, còn phu quân đi xa của ta năm này qua năm khác lại bặt tin?
Nam: Xa nhà rời nước, chẵn tròn ba năm, chỉ vì Trường An huy hoàng lộng lẫy trong mộng tưởng. Nơi đô thị đầy rẫy những hiểm nguy thần kỳ, thỏa mãn tâm nguyện hùng tráng của một đấng nam nhi. Giờ đây rốt cuộc đã áo gấm về làng, lại gặp tiết trời xuân chốn cũ, nhìn nơi này dòng nước xuân xanh, hoa đào ngập suối, nhìn núi xanh như mày ngài, hết thảy đều chẳng đổi thay, cũng không biết nương tử – tân nương một đêm đã ly biệt liệu có còn xuân sắc như xưa không? Người bước đến là con gái nhà ai, dung nhan rạng rỡ, mỹ lệ phi phàm. Vị cô nương này, xin hãy dừng gót ngọc, nàng có biết mình đã phạm phải lỗi gì không?
Nữ: Vị tướng quân này, rõ ràng vó ngựa của chàng đã hất đổ làn trúc của ta, chàng nhìn xem con đường này rộng tít tắp tới tận trời xanh, cớ sao chàng lại khiến con ngựa đáng ghét này vẩy bùn lên người ta, còn trách ngược, đổ lỗi lầm cho ta? Nam: Lỗi của nàng chính là đẹp tựa tiên nữ, nàng thướt tha yểu điệu khiến tay ta chẳng nghe lời, lông bờm xổ tung của con ngựa đã che lấp mắt ta, không nhìn thấy đường sá núi sông, chỉ thấy đen sẫm một màu. Gương mặt kiều diễm của nàng khiến con ngựa dưới thân ta lảo đảo, quên mất rằng chủ nhân của nó uy phong nhường nào.
Một đoạn đối thoại khiến lòng người ngả nghiêng như ngọn cờ trước gió, khiến ánh nắng Ô Trấn cũng lóng lánh ánh lên thân tình thắm thiết. Trong tiết xuân muôn hồng nghìn tía gặp gỡ thiếu nữ như hoa, lại cảm thán tháng năm như nước chảy. Cô nương tay xách chiếc làn trúc đó là con gái Lâm gia trong cửa hàng nhà họ Lâm, hay là Mặc Mặc trong “Tháng năm như nước”, hoặc là con gái nhà nông nào ở Ô Trấn? Họ ôm ấp niềm vui đơn thuần, nâng niu hương thơm xanh ngát, bước đi dưới sóng liễu trên con đường cổ kính. Họ là phong cảnh của Ô Trấn, đợi người bước vào giấc mộng, mà Ô Trấn lại là phong cảnh người qua đường, tô điểm cho giấc mộng của người khác. Giữa những ngày thi ý nhàn tản, đôi bên lưu lại nhân quả không tên, chỉ nhớ rằng đã từng tương phùng khi ngoái nhìn, còn có ly biệt phút quay người.
Ô Trấn trong sắc hoàng hôn, giống như một cụ già bình thường, cất giữ hết thảy những câu chuyện có thể cất giữ, lại quên đi hết thảy những người cần phải lãng quên. Bước đi trên con đường hồng trần, giữa giấc mộng thời gian, mây khói chuyện xưa, mơ xanh quá khứ trong lịch trình nhớ lại kiếp người, tất đều đượm vẻ ấm nồng và thanh nhã tựa như ngọc cổ.
Ô Trấn cũng là một viên ngọc cổ đã nhuộm sắc hoa xuân trăng thu, để những người qua lại quý trọng bằng cả tâm hồn. Tới với giấc mộng trong vắt, rời xa giấc mộng chưa tàn. Chỉ là ngày tháng bình thường, chỉ là ký ức bình dị đã trôi đi trong ánh nắng lấp lánh lay động. Những năm về sau, thấy hoa rơi lại hoài niệm Giang Nam trải bao xuân thu tươi đẹp, nhớ lại Ô Trấn một thời năm tháng như nước chảy triền miên.
Không có quá khứ nào lặp lại, chưa từng có tương lai nào được báo trước, lần đầu tiên bước tới Huy Châu, như có một hơi hướm hoài cổ phả thẳng vào tâm hồn. Trong lúc mơ màng, ta luôn cảm thấy đã từng đến đây, mà dường như nơi đây lại cũng rất xa xôi. Dưới ánh nắng nhàn nhạt, khơi gợi ký ức lịch sử, gạn lọc bụi trần tháng năm, nhởn nhơ trong khung cảnh thi vị hiền hòa của Huy Châu. Những hàng dương liễu xinh đẹp thướt tha chia cắt đôi bờ, một bên là ngày hôm qua úa vàng, một bên là ngày hôm nay tươi sáng. Huy Châu lúc này như một chiếc nghiên cổ trầm mặc, bị thời gian mài mòn, lại từ từ loang ra trong nước, làm sống động cả một vùng Giang Nam.
Thời gian đuổi theo những bước chân vội vã kiếm tìm, men theo những hành lang vẽ tranh sơn thủy của Huy Châu cổ, bóc tách những bí mật chôn giấu trong nơi sâu thẳm của vòng quay năm tháng. Từng chiếc cổng tam quan khí thế khoáng đạt sừng sững giữa trời xanh biêng biếc, trầm lặng dưới khói tỏa bóng chiều. Những di tích mộc mạc cổ xưa của tiền triều giống như những đồ đồng thau, đồ gốm được khai quật, tích tụ sắc loang lổ lại tràn ngập hương vị cũ kỹ của lịch sử. Có nơi tú mỹ nguy nga, vẫn đứng đơn độc giữa trời xanh mây trắng; có nơi quanh co một dải, hợp thành quần thể, tự tại phô diễn chốn hoang sơ.
Kiến trúc cổng tam quan của Huy Châu bắt đầu được xây dựng vào những thời đại khác nhau, những điêu khắc tinh tế tuyệt luân và những hoa văn mang âm hưởng cổ điển tự nhiên thể hiện rõ rệt sự khí phái và huy hoàng mà nó đã từng có. Cổng tam quan tượng trưng cho nội hàm nhân văn Trung, Hiếu, Tiết, Nghĩa, kể lại quá khứ đã lưu lại nơi đây, cũng cất giữ những câu chuyện qua từng năm tháng. Ánh dương chói lọi mạ sáng lịch sử đã xa xôi, tẩy sạch nền văn minh đã bị hoen gỉ, từng cánh cổng tam quan thấm đẫm sự uy nghiêm, phản chiếu vinh quang, ẩn chứa tình cảm, kể với người đời sự tang thương mưa gió hàng trăm nghìn năm qua.
Đến nay, chỉ có thể tìm thấy bóng dáng thấp thoáng của những trung thần hiếu tử và liệt nữ tiết phụ đương thời trong những hiện vật còn lưu lại, lần giở những câu chuyện lay động lòng người về họ trong ký ức mơ hồ. Lội ngược dòng lịch sử, thả cho dòng suy tưởng bay cao đến tận tầng mây, mượn tháng năm làm bút, lấy phong cảnh làm mực, những cổng tam quan cổ kính đã chép lại một bộ sử Huy Châu dài lâu liên tiếp, rộng lớn sâu xa.
Ánh mắt xuyên qua những hàng dương liễu buông rủ thướt tha trong gió, mạch suy nghĩ ngổn ngang ngưng đọng trong khoảnh khắc. Những tòa nhà cổ chìm đắm dưới ánh tịch dương mang một vẻ say đắm mông lung, giống như thủy mặc, quẩn quanh vương vít trong làn khói mãi không tan. Hai màu đen trắng là linh hồn chất phác của những tòa nhà dân ở Huy Châu, một vùng quần thể kiến trúc cổ đó không tô vẽ lộng lẫy, mà đen đến lạnh lùng, trắng đến mức thấu triệt, dùng vẻ đẹp mộc mạc và thái độ ôn hòa, phảng phất phong thái tự nhiên, hòa tan vào trong ngàn vạn sắc thái của cuộc sống, lặng lẽ nằm giữa non nước tú mỹ linh thiêng tao nhã như tranh.
Vào hai triều đại Thanh, Minh, nền kinh tế hàng hóa của Giang Nam phát triển cực thịnh, rất nhiều thương gia Huy Châu giàu có lừng lẫy một phương. Bọn họ áo gấm về làng, xây dựng nhà cửa, mang nét văn hóa đặc sắc của Huy Châu vào kiến trúc đình viện. Mỗi một bức tường đều có một sứ mệnh khó có thể vượt qua, chúng dõi nhìn cảnh tượng mênh mông mờ mịt phía xa, kiên trì giữ gìn quê nhà đã già cỗi.
Đẩy cánh cửa gỗ dày nặng trịch, bước vào sảnh đường, không khí cổ kính bao trùm trước sảnh nhà khiến trái tim của người từ ngoài vào dần dần chìm lắng. Từng bức ngói khắc, đá khắc, gỗ khắc phác họa những hình thù hoa chim trùng cá, những nhân vật, những chuyện kể, một lần nữa hội tụ đầy đủ lịch sử văn hóa của những triều đại khác nhau. Điều khiến bạn kinh ngạc là một căn nhà nho nhỏ lại có thể chứa đựng vạn vật trong đất trời, bao gồm toàn bộ tinh túy dân tộc cổ xưa. Phút quay người rời đi, một chiếc bình hoa kiểu cũ bám đầy bụi đã đủ gợi cho bạn một đoạn hồi ức như có như không.
Luôn luôn có một tâm tình sâu nặng trong con tim không thể xóa nhòa, như nước suối nguồn không thể cạn khô, mối tâm tình ấy âm thầm chảy liên miên không dứt trong suốt cuộc đời. Người Huy Châu sống quần tụ bên những miệng giếng khơi, chỉ cần những nơi có giếng nước là có khói bếp lam chiều, có muôn vàn sắc thái huyên náo sôi động. Dòng suối trong văn vắt đó chảy tràn qua mối tình quê trong suốt và cuộc sống ngọt ngào, từng giọt từng giọt đều thấm vào tận huyết mạch của người Huy Châu. Dưới ánh nắng mặt trời, mỗi miệng giếng cổ đều hồi tưởng lại công đức của những người đào giếng tạo phúc cho muôn dân, dùng phương thức đơn giản nhất để thể hiện nội hàm sinh dưỡng của cả một dân tộc. Rêu xanh thành giếng cũng chính là rêu xanh của đời người, tích lũy biết bao gió sương, càng lâu ngày lại càng dày lên thành lớp.
Cho đến ngày nay, cạnh một số giếng cổ vẫn còn bảo tồn những văn tự liên quan đến việc đào giếng và dùng nước năm nào, nội dung khắc trên đá đã bị bào mòn cùng với gió mưa năm tháng. Thế nhưng, từ những dấu tích xa xưa đã xuyên qua thời gian, vẫn còn nghe thấy thanh âm huyên náo nơi phố chợ, những câu từ dung dị ấy cứ xoay vòng bên miệng giếng, đi cùng mỗi sớm sớm chiều chiều. Hàng trăm năm, nghìn năm trôi qua, có rất nhiều thương gia Huy Châu về quê uống một ly rượu sinh mệnh máu hòa lẫn rượu, tưởng nhớ ân tình của nước, nghĩa lớn của nước. Họ từng rũ bỏ một phần lớn thời gian ở quê nhà, nên phải tìm lại trong dòng nước mát của giếng xưa.
Những hạt bụi lướt qua ánh nắng mặt trời, khe khẽ rớt xuống, lại lần nữa khiến dòng suy tưởng lắng đọng đến mức trong vắt. Từ đường ở Huy Châu là thánh điện của tông tộc, nối liền tình quê khó dứt của người Huy Châu với những quy ước làng xã trang nghiêm. Tòa kiến trúc thần thánh đó cất giấu lịch sử gia tộc của người Huy Châu, bảo tồn những lời dạy của thánh hiền đi trước. Nó cũng từng già nua trong lặng lẽ, nhưng mỗi một thịnh suy đã qua đều xứng đáng để trăm đời hậu thế học hỏi.
Ngước trông mái hiên chót vót cứng cỏi của từ đường, dường như ở đó chứa đựng một sức mạnh to lớn xiên thẳng tận trời cao, đo lường sự lâu dài và sức nặng của văn hóa gia tộc Huy Châu bằng một phương thức trầm lặng. Bước qua bậc cửa gỗ cao cao đó, va phải những môn thần uy vũ, khiến người ta không khỏi nghiêm trang kính cẩn. Những vòng khoen trên cánh cửa bị năm tháng làm hoen rỉ, dường như đang khóa chặt nhân quả của ai trong vô hình. Đứng giữa sảnh đường tĩnh mịch, nhìn người đời này và người xưa đối diện nhìn nhau, nghe những lời đối thoại bằng tâm linh của họ. Khoảnh khắc đó bạn mới hiểu rằng, người xưa và người nay không hề có khoảng cách, cho dù thời gian đã qua lâu nhưng vẫn để lại dấu ấn, mà người Huy Châu lại phỏng theo những dấu ấn này để bảo tồn những phong tục tập quán cho đến ngày nay. Họ dùng các phương thức mộc mạc như giấy dán màu, bộ đèn đục lỗ, xiếc chồng người, múa rồng… để cúng tế tổ tiên, giữ một lòng tôn kính với thánh hiền, một tình yêu nhiệt thành với gia tộc, tiễn đưa buổi tịch dương của thời viễn cổ, chào đón ánh bình minh của thời đại ngày nay.
Đi trên những con đường lát đá xanh nhỏ hẹp, ánh mặt trời rơi rớt trên góc thềm đã mài sáng những ký ức mơ hồ. Một sân khấu kịch nằm vắt qua làn khói xanh lượn lờ, lặng lẽ nói cho người đi đường biết nó đã từng hoa lệ ra sao. Đây là sân khấu kịch Huy Châu, sinh trưởng trong dân gian, lưu truyền trong dân gian, cũng tỏa sáng trong dân gian. Sân khấu của người Huy Châu được dựng lên vào dịp hội hè, dâng rượu lên thần linh, cúng tế và một số ngày lễ tết đặc biệt.
Kiến trúc của sân khấu đa phần đơn giản, khán đài làm bằng gỗ, ván sàn cũng bằng gỗ, thêm vài hình vẽ màu, gửi gắm sự đơn sơ giản dị của văn hóa Huy Châu. Chiêng trống và nhị hồ vang lên mở màn dạo đầu trang nhã đưa tình, trên sân khấu tiếng ca khe khẽ, điệu múa chầm chậm, dưới sân khấu biển người sục sôi. Những nghệ nhân đó mỗi khi lên sân khấu sắm vai công hầu khanh tướng đều tô vẽ kỹ lưỡng, diễn những màn bi hoan ly hợp của người khác. Mà khán giả dưới sân khấu cũng chăm chú tập trung, thưởng thức những buồn vui mừng giận của người đời.
Chẳng ai là vai chính, họ chỉ là nhân vật làm nền cho một hí khúc, bày tỏ nỗi lòng thương cảm và hạnh phúc mà thôi. Và ai cũng đều là vai chính, trên sân khấu đời người hỗn tạp, diễn trăm vị cuộc sống, nhân tình ấm lạnh. Huy kịch chất phác mà tròn trịa mang theo hương thơm của bùn đất núi sông, bằng nghệ thuật dân gian và phong tục thú vị độc đáo, hát trên khắp các cao lâu sơn thủy của Giang Nam, cũng diễn xướng trên mọi ngóc ngách đường phố của Huy Châu. Rất nhiều giai đoạn của đời người đều bắt đầu trong một màn kịch này và kết thúc trong một màn kịch khác.
Giữa tháng năm âm thầm mải miết trôi, không hay là ai đã làm đổ nghiên mực cổ, nhuộm cả một vùng Huy Châu rộng lớn, khiến non nước như thêu như gấm thấm đẫm trong thủy mặc ẩm ướt. Men theo dòng chảy, ngược lại dòng lịch sử lâu đời của Huy Châu cổ kính, còn có vô vàn phong tục dân gian phong phú sắc màu của nơi đây, khiến ta thu hoạch được một niềm vui thực thụ trong cuộc đời rộng lớn này.
Khi dòng suy tưởng sáng suốt xuyên suốt lãnh địa tinh thần, bước chân của người khai phá càng lúc càng đến gần, Huy Châu cổ kính không còn là một bức tranh thủy mặc treo trên bức tường Giang Nam nữa. Nó phô bày phong thái thuần hậu tự nhiên với toàn thế giới bằng sự phồn vinh thịnh vượng của một dân tộc, để lại những gợn sóng lăn tăn mỹ lệ trong lòng muôn vàn chúng sinh.
Năm tháng Ô Trấn
Dường như có một khoảng thanh xuân ẩm ướt đã lãng quên ở Ô Trấn của Giang Nam, còn có những dĩ vãng đã qua cần dịu dàng nhớ lại. Thế là sẽ nhớ đến Giang Nam trong hoa hạnh mưa khói, nhớ đến miền sông nước xanh biêng biếc trong gió xuân. Nhiều năm về trước đã từng thong thả đợi chờ, nhiều năm về sau vẫn bình thản kiếm tìm. Chỉ một cái quay người vô tình, cô gái tay cầm chiếc ô giấy dầu, lòng nặng nỗi u sầu, nhẹ nhàng bước đi trên con ngõ nhỏ, đi đến cây cầu mơ mộng, bước vào trong câu chuyện của tháng năm trôi chảy, không biết có thể thoát ra hay không?
Sinh hoạt một ngày ở Ô Trấn bắt đầu trong tiếng mái chèo khỏa sóng ì oạp, một cây sào trúc thật dài như trêu ghẹo thời gian tĩnh lặng ngưng đọng, nước sông trong veo lấp lánh thấm ướt những nhớ nhung dễ rung động đó. Còn có một chiếc thuyền đậu bên bờ, âm thầm bảo vệ những giấc mộng say nồng trong tiểu trấn. Chúng chăm chú nhìn cái bóng đen trắng của những căn nhà cổ xưa đó, suy ngẫm về tang thương ngàn năm chìm trong con nước.
Nước sông trầm lặng, nó cùng Ô Trấn lặng lẽ tiễn đưa xuân thu, lại vội vàng đón xuân hạ, từ khi hoa nở đến khi hoa tàn, từ khi duyên khởi đến khi duyên diệt. Rất nhiều năm sau, tất cả đều giống như trước, chỉ là hết thảy chuyện cũ theo định mệnh trôi đi, đã trở thành hồi ức. Những kiếp người bị ướt đẫm nước sông, mang theo nét yểu điệu của Giang Nam, xen lẫn phong vận của miền sông nước, giữa năm tháng mơ màng lại một lần nhớ nhung như ngàn ngọn buồm lướt qua. Ô Trấn như xưa, dòng sông nhỏ vẫn như xưa, khi gió xuân hây hẩy đi vào giấc mộng, trăng sáng vằng vặc rót vào trong chén, ai người còn bồi hồi nơi phương xa?
Xuyên qua phong cảnh thanh nhã và kín đáo, giữa ý thơ cảm nhận được cái mênh mang của thời gian, mà ánh nắng ấm áp đã chứng thực sự chân thực của sinh mệnh. Cầu đôi Phùng Nguyên [9] đậu hờ hững giữa hiện thực và mộng cảnh, mang theo hơi thở hiện đại, lại hàm chứa ý vị truyền thống, khiến khắp Ô Trấn phồn hoa mà không xô bồ, lạc giữa hồng trần mà không già cỗi.
[9] Một cây cầu cổ ở Ô Trấn, tương truyền có tục nam đi bên cầu trái, nữ đi bên cầu phải.
Cây cầu cổ cũng mang nặng ký ức, nó vẫn nhớ đã từng có sự gặp gỡ trong trẻo thế nào, lại nhớ đã từng bỏ lỡ những đẹp đẽ ra sao. Nó cũng nhặt lại rất nhiều buồn đau tuổi trẻ, cũng cất giữ biết bao mộng tưởng thanh xuân. Nó lặng lẽ bắc ngang dòng nước, đợi chờ người có duyên đi đến ào ào như gió, rồi rũ bỏ tất cả.
Nơi này lưu giữ dấu chân của Văn và Anh [10], lưu giữ dấu chân của hàng nghìn hàng vạn khách đi đường, họ tay nắm tay đứng trên cầu, dựa vào lan can im lặng ngắm cảnh quan của tiểu trấn, chỉ cảm thấy năm tháng đã qua thành hư ảo, chỉ còn lại một nháy mắt, nhưng nhớ nhung lại là cả đời. [10] Tên hai nhân vật chính trong bộ phim truyền hình “Năm tháng như nước” (Tự thủy niên hoa), do Hoàng Lỗi và Lưu Nhược Anh thủ vai chính, một phần bối cảnh là Ô Trấn.
Hơi hướm cổ kính toát ra từ trên ván cửa khô mục, từ trong bức tường loang lổ, từ những khe hở của đá xanh, lôi kéo vô số người đi xa dõi về. Dường như chỉ cần hễ sơ sểnh, là sẽ lạc vào trong một khung cảnh quen thuộc, khiến bạn mãi lâu sau mới có thể thoát ra. Dạo bước với tâm tình nhàn tản, chẳng màng đến lịch sử lâu đời ra sao, chẳng hỏi đến tang thương dấu tích, chỉ nhớ lại những nhung nhớ khó tả thành lời. Cho dù là phường rượu cũ kỹ hay là phường vải sáng ngời, đều có thể kích thích bạn tưởng tượng đến vô hạn.
Dưới làn nắng mỏng manh, hâm một bình rượu hoa hạnh, hưởng thụ cái nhàn nhã của tháng ngày thơ và rượu. Nhìn những mảnh chăn in hoa màu lam phơi trên những cây sào cao cao đang phấp phới trong làn gió, ngày xuân ý vị bao phủ thời gian, mà dường như thanh xuân chưa từng rời khỏi. Chìm đắm trong những cổ vật cũ kỹ và cảm xúc nhớ nhung đó, không sức mạnh thế tục nào có thể quấy rầy bạn, vì khi bạn còn đang mơ màng, Ô Trấn đã âm thầm lặn sâu trong trái tim bạn, từ đó tâm tư sâu lắng, khắc cốt ghi tâm.
Con ngõ nhỏ dài hun hút như khóc như than trong làn khói mù, cô gái mặc chiếc áo vải in hoa lam đó có thể là con gái Lâm gia [11] dưới ngòi bút của Mao Thuẫn [12], nàng từ trang bìa sách ẩm ướt khoan thai bước tới, từ trong cửa hàng Lâm gia cũ kỹ bước tới, bước vào nhà cũ của Mao Thuẫn, bước vào đình viện thâm sâu. Trong sảnh đường, Mao Thuẫn tiên sinh đang cầm bút trầm tư, ánh mắt chăm chú nhìn về phương xa đó, mang một vẻ tỉnh táo và khoáng đạt. Chính giữa thời đại đầy mây gió thét gào đó, ông đã gieo một tư tưởng tiến bộ, thắp một ngọn lửa tinh thần hừng hực, sinh động trong từng câu chữ, lưu lại giữa Ô Trấn.
[11] Một nhân vật trong truyện “Cửa hàng nhà họ Lâm” của nhà văn Mao Thuẫn, miêu tả đời sống của người Trung Quốc (ở đây là gia đình nhà họ Lâm) đã có nhiều thay đổi khi cuộc kháng chiến chống Nhật nổ ra.
[12] Mao Thuẫn (1896 – 1981): Nhà văn nổi tiếng Trung Quốc, người Gia Hưng, Chiết Giang, ông là nhà văn có nhiều cống hiến trong nền văn học cách mạng Trung Quốc. Hiện có giải thưởng văn học Mao Thuẫn, là một giải thưởng văn học cao quý.
Trong không gian thoang thoảng một mùi thơm thanh khiết của hoa mai từ trong sân thoảng tới, giữa cơn mơ màng chuyện xưa như diễn lại, ngày hôm nay giống như ngày hôm qua. Rất nhiều hiện thực còn xa vời hơn mộng tưởng, giống như rất nhiều huyên náo còn cô độc hơn yên tĩnh. Đứng dưới ánh mặt trời, nhìn hoa mai nở trong cô đơn, cánh hoa thơm tinh khiết khoáng đạt xuất chúng, cao ngạo lạnh lùng hơn bất cứ đóa hoa nào.
Ánh nắng ban chiều có một vẻ đẹp uể oải và buồn ngủ, làm đôi mắt díp lại mơ màng, cứ thế say giấc nồng trong một quán trà cổ kính. Đun một bình hoa cúc, nấu tâm sự thành hương thơm trang nhã. Dựa vào bậu cửa sổ, lắng nghe tiếng đàn sáo réo rắt, gẩy lên giai điệu Giang Nam. Bình đàn [13] của Giang Nam đã tỏa sáng rạng rỡ ở Ô Trấn – vùng sông nước đầy văn hóa này, giọng Ngô mềm mại, thú vị vô cùng, những câu chuyện quen thuộc đó lại càng ý vị sâu xa hơn qua tiếng hát, lời kể uyển chuyển của nghệ nhân.
[13] Bình đàn: Một loại hình văn nghệ dân gian, lưu hành ở vùng Giang Tô, Chiết Giang, Trung Quốc.
Tiếng tơ tiếng trúc khi vút lên như vạn ngựa băng băng, khi bình lặng như trăng thanh gió mát, khi phiêu diêu như suối ngọc róc rách, khi trầm tĩnh như nước thu sắc trời. Khoảnh khắc này, chính ở Ô Trấn cổ kính mộc mạc, chính ở quán trà nhớ chuyện cũ người xưa, uống một bình trà trong, nghe một khúc bình đàn, vứt bỏ hết ngày tháng, làm một con người thanh thản tự tại. Có câu rằng người nhạt như cúc, mà thế sự cũng nhạt như cúc chăng? Khi những ký ức sống động nay tan biến trong cuộc đời ngắn ngủi, ai còn nhớ đến một quãng thời gian ấm nồng trong dĩ vãng?
Con ngõ nhỏ dài hun hút trong khói sương, bị thời gian hoài niệm nhuộm màu; câu chuyện cô lẻ đằng sau cánh cửa gỗ, bị năm tháng ố vàng phủ bụi mờ. Rất nhiều người đã lướt qua những người bên cạnh, giữa hai người đời này kiếp này cũng không nhớ đã từng có lúc tương phùng đẹp đẽ nhường ấy. Từng tương phùng nơi cổ trấn Giang Nam, từng in lồng dấu chân nhau, thậm chí đã từng trao nhau ánh mắt.
Đến khi tháng năm già cỗi, nhớ lại dĩ vãng đã nhạt nhòa trước kia, chẳng ai hay biết ai, bởi vì cả hai đều là khách qua đường, là khách qua đường ở Giang Nam, là khách qua đường ở Ô Trấn. Cuộc gặp gỡ ấy như một vở rối bóng, bắt đầu và kết thúc trong hoa lệ và hư ảo. Ngồi trong hành lang tĩnh mịch, đợi một vở rối bóng mở màn, rồi dưới ánh đèn dìu dịu, đắm mình vào câu chuyện tuyệt mỹ trong vở rối.
Nữ: Hoa dại đón gió rung rinh, dường như đang lắng nghe tâm sự. Cỏ xanh nhè nhẹ lay động, lưu luyến triền miên vô tận. Cành liễu chớm xanh, la đà trên làn nước biêng biếc, khuấy động tấm lòng thiếu nữ dập dềnh như sóng nước. Tại sao mùa xuân mỗi năm đều đến đúng hẹn, còn phu quân đi xa của ta năm này qua năm khác lại bặt tin?
Nam: Xa nhà rời nước, chẵn tròn ba năm, chỉ vì Trường An huy hoàng lộng lẫy trong mộng tưởng. Nơi đô thị đầy rẫy những hiểm nguy thần kỳ, thỏa mãn tâm nguyện hùng tráng của một đấng nam nhi. Giờ đây rốt cuộc đã áo gấm về làng, lại gặp tiết trời xuân chốn cũ, nhìn nơi này dòng nước xuân xanh, hoa đào ngập suối, nhìn núi xanh như mày ngài, hết thảy đều chẳng đổi thay, cũng không biết nương tử – tân nương một đêm đã ly biệt liệu có còn xuân sắc như xưa không? Người bước đến là con gái nhà ai, dung nhan rạng rỡ, mỹ lệ phi phàm. Vị cô nương này, xin hãy dừng gót ngọc, nàng có biết mình đã phạm phải lỗi gì không?
Nữ: Vị tướng quân này, rõ ràng vó ngựa của chàng đã hất đổ làn trúc của ta, chàng nhìn xem con đường này rộng tít tắp tới tận trời xanh, cớ sao chàng lại khiến con ngựa đáng ghét này vẩy bùn lên người ta, còn trách ngược, đổ lỗi lầm cho ta? Nam: Lỗi của nàng chính là đẹp tựa tiên nữ, nàng thướt tha yểu điệu khiến tay ta chẳng nghe lời, lông bờm xổ tung của con ngựa đã che lấp mắt ta, không nhìn thấy đường sá núi sông, chỉ thấy đen sẫm một màu. Gương mặt kiều diễm của nàng khiến con ngựa dưới thân ta lảo đảo, quên mất rằng chủ nhân của nó uy phong nhường nào.
Một đoạn đối thoại khiến lòng người ngả nghiêng như ngọn cờ trước gió, khiến ánh nắng Ô Trấn cũng lóng lánh ánh lên thân tình thắm thiết. Trong tiết xuân muôn hồng nghìn tía gặp gỡ thiếu nữ như hoa, lại cảm thán tháng năm như nước chảy. Cô nương tay xách chiếc làn trúc đó là con gái Lâm gia trong cửa hàng nhà họ Lâm, hay là Mặc Mặc trong “Tháng năm như nước”, hoặc là con gái nhà nông nào ở Ô Trấn? Họ ôm ấp niềm vui đơn thuần, nâng niu hương thơm xanh ngát, bước đi dưới sóng liễu trên con đường cổ kính. Họ là phong cảnh của Ô Trấn, đợi người bước vào giấc mộng, mà Ô Trấn lại là phong cảnh người qua đường, tô điểm cho giấc mộng của người khác. Giữa những ngày thi ý nhàn tản, đôi bên lưu lại nhân quả không tên, chỉ nhớ rằng đã từng tương phùng khi ngoái nhìn, còn có ly biệt phút quay người.
Ô Trấn trong sắc hoàng hôn, giống như một cụ già bình thường, cất giữ hết thảy những câu chuyện có thể cất giữ, lại quên đi hết thảy những người cần phải lãng quên. Bước đi trên con đường hồng trần, giữa giấc mộng thời gian, mây khói chuyện xưa, mơ xanh quá khứ trong lịch trình nhớ lại kiếp người, tất đều đượm vẻ ấm nồng và thanh nhã tựa như ngọc cổ.
Ô Trấn cũng là một viên ngọc cổ đã nhuộm sắc hoa xuân trăng thu, để những người qua lại quý trọng bằng cả tâm hồn. Tới với giấc mộng trong vắt, rời xa giấc mộng chưa tàn. Chỉ là ngày tháng bình thường, chỉ là ký ức bình dị đã trôi đi trong ánh nắng lấp lánh lay động. Những năm về sau, thấy hoa rơi lại hoài niệm Giang Nam trải bao xuân thu tươi đẹp, nhớ lại Ô Trấn một thời năm tháng như nước chảy triền miên.
Tương phùng Huệ Sơn
Khi đến, đã biết số phận định là cô độc. Không có dáng vẻ vội vã, không có tâm tình buồn vui, trong ban mai của buổi chớm thu, chỉ bình thản đi lại như thế. Là duyên phận dẫn dắt, hay là số mệnh an bài, đều không quan trọng. Đến Huệ Sơn, sẽ tìm kiếm những gì? Là bóng dáng dần nhạt nhòa của vương triều thời cổ, thiên hạ đệ nhị tuyền nức danh trong trường đình biệt viện, cổ sát Giang Nam giữa chốn non xanh thâm u, hay là vườn cảnh cổ xưa quanh co lắt léo? Non nước tú lệ của vùng Huệ Sơn Vô Tích có thể nói cho chúng ta những điều gì?
(1) Thiên hạ đệ nhị tuyền
Cơn gió thuở chớm thu đã se sắt hơi lạnh, thỉnh thoảng lá rụng lác đác bay lả tả, người đi chầm chậm thả bước trên đường, nhưng không hề cảm thấy tiêu điều.
Một tia nắng đã khiến tâm tình dễ chịu hơn, thử đi tìm một nơi có nước chảy, đi tìm tiên sinh mù kéo nhị hồ A Bỉnh [14] năm xưa.
[14] A Bỉnh tiên sinh: tên thật là Hoa Ngạn Quân, nhạc sĩ dân gian, đồng thời là đạo sĩ. Vì mắc bệnh nên mắt bị mù, ông khổ công nghiên cứu âm nhạc Đạo giáo, không ngừng nâng cao, và hấp thu rộng rãi các làn điệu âm nhạc dân gian, cả đời tổng cộng sáng tác và diễn tấu hơn 270 khúc nhạc dân gian. Hiện còn bảo tồn được sáu bài, gồm: “Nhị Tuyền ánh nguyệt”, “Thính tùng”, “Xuân hàn phong khúc” (nhị hồ) và “Đại Lãng đào sa”, “Long thuyền”, “Chiêu Quân xuất tái” (tì bà).
Nhị Tuyền, dường như mọi thứ ở nơi đây đều liên quan đến suối mát trong lành.
Con đường nhỏ lát đá xanh, cho dù đã in dấu chân của biết bao người đi, vẫn cổ kính rêu xanh. Sàn đá nơi này dường như vĩnh viễn mang dấu ấn ẩm ướt, những quá khứ không thể xóa nhòa đó vẫn trong trẻo như xưa giữa dòng năm tháng già nua.
Hành lang dài quanh co tọa lạc giữa đầm, một cơn gió nhè nhẹ thổi qua. Dựa lan can ngắm hoa sen, những cánh hoa tàn tạ, đài sen căng đầy nuôi những hạt sen non, khiến người ta cảm nhận được một niềm vui sướng của sự thu hoạch. Nhà thơ thời Đường Lý Thương Ấn có thơ rằng: “Lưu đắc tàn hà thính vũ thanh.” (Giữ được sen tàn nghe tiếng mưa) Cỏ cây chốn nhân gian, khô héo là chuyện thường. Ngàn vạn sự vật nơi thế gian đều là phong cảnh, chỉ là tâm trạng khi ngắm cảnh khác nhau mà thôi.
Hai cánh cửa lớn màu vàng sẫm mở ra chào du khách, dường như vô tình nhắc nhở người ta, nơi đây đã từng phồn hoa và đầy thi vị. Khẽ chạm vào khóa đồng trên khoen cửa, mong sao có thể trùng với dấu tay của một văn nhân hoặc một trí giả thời cổ nào đó. Có lẽ như Thế Âmới có thể xuyên qua thời gian không gian mưa gió, cùng người ấy có một mối tâm ý tương thông thoảng qua.
Bước vào bậu cửa, lọt vào tầm mắt là năm chữ lớn: Thiên Hạ Đệ Nhị Tuyền. Trắng đen đan xen hút mắt, những điêu khắc im lìm trên vách đá, cho thấy danh hiệu đẹp hết sức đặc sắc của chúng. Mái hiên trên tường đá dây leo phủ kín, một vài cành cây xanh mướt tự do vươn dài ra những hướng khác nhau, cho đến nơi mà chúng muốn dừng lại – chốn về của đời người.
Trường đình cách đó không xa vang lên khúc cổ cầm dìu dặt réo rắt, ở đó có một cụ già diễn tấu bản “Nhị Tuyền ánh nguyệt” cho người khác nghe. Một thân áo dài màu xanh, đôi tay đầy nếp nhăn, khung cảnh mơ hồ, luôn khiến người ta ngộ nhận rằng ông chính là tiên sinh A Bỉnh năm nào. Mà những ngày trăng sáng sao thưa của năm xưa đó, khi A Bỉnh đến nơi non xanh suối biếc diễn tấu nhị hồ, liệu có diễn ra một cuộc tương phùng rượu trắng một bầu hay không?
Tháng năm như nước, vẫn luôn tham luyến cuộc vui. Những câu chuyện được cất giấu nơi sâu thẳm của thời gian, hoặc phồn hoa, hoặc lạnh lẽo, đến nay đều không còn tồn tại. Mà người đời sau đi xuyên qua những hành lang thông tới qua khứ, rốt cuộc có thể tìm được những gì?
Khi chúng ta cúi xuống nhìn Nhị Tuyền danh chấn thiên hạ đó, trong lòng khó tránh nảy sinh cảm giác hụt hẫng khôn xiết. Hàng lan can sắt ngăn du khách ở bên ngoài giếng cổ, năm đó mạch suối có hai nguồn chảy sống động biết bao, đến nay đã thành dòng nước chết. Không còn nhìn thấy nước trong văn vắt chảy róc rách sủi bọt trắng, còn đâu thảm rêu xanh rì ẩm ướt ven bờ. Chiếc giếng cổ có thành giếng bằng xi măng bị hàng rào bao quanh, trở thành một phong cảnh cho du khách thưởng lãm.
Năm ấy, đặc sứ từ kinh thành tới, đường dài rong ruổi chỉ vì muốn lấy nước Nhị Tuyền, đem dâng cho đế vương đun trà nấu nước. Nhưng nước suối đã khô cạn, niên đại tinh tế phong nhã ấy đã dần dần lùi xa. Một ly trà thơm, vài quyển thi thư, ngày tháng mộng sâu thăm thẳm bên ô cửa sổ nhỏ không biết đã đi về đâu, mà lịch sử thì chưa từng kể lại.
Đi men theo con đường lát đá có mấy phường trà cổ kính, trang nhã mở gần hành lang, dăm du khách ngồi xuống nghỉ chân thưởng trà. Cho dù nước không phải là nước của Nhị Tuyền, trà cũng không pha ra được mùi vị năm xưa, chỉ là thân ở chốn cổ tích non ngàn, đã tự nhiên có một tâm tình nhàn tản khác biệt rồi.
Gió lười biếng thổi, mây trôi tự tại. Ngồi trên ghế trúc, uống một bình nhàn trà, từ khi vị đặc đến khi vị nhạt, từ ấm sang nguội. Trà của Nhị Tuyền thích hợp cho những người hoài cổ thưởng thức; trăng của Nhị Tuyền thích hợp cho những người ưa nằm mộng ngắm trông.
Thiều quang đến đi lặng lẽ, cũng như rất nhiều duyên phận không thể nói thành lời, khởi diệt bất định. Rời Thiên hạ đệ nhị tuyền, những người đó lại vội vã bước đi, và sẽ đến một cuộc hẹn chưa từng gặp gỡ khác.
(2) Huệ Sơn cổ sát [15]
[15] Cổ sát: chữ Phạn, “sát sắc” là chùa Phật, “cổ sát” là cảnh chùa xưa.
Chùa miếu còn chưa thấy, đã nghe thấy tiếng chuông vang vẳng thinh không, dường như đang chiêu gọi những linh hồn tìm kiếm thắng cảnh chốn thâm u. Giang Nam có rất nhiều chùa cổ, chùa Huệ Sơn chỉ là một trong hàng vạn số đó. Gặp gỡ nơi này, chính là túc duyên mà Phật nói tới.
Men theo bậc thang đi lên trên, đi qua mấy tầng cửa cổ, xuyên qua cổ thụ um tùm. Ngước mắt nhìn bốn chữ khiến người ta chăm chú dán mắt: Bất Nhị Pháp Môn [16]. Đây có phải là tượng trưng cho một loại chấp trước hay không? Có lẽ người bước vào cửa Phật, tin nghe nhân quả, là thực sự không còn nảy sinh trần niệm. Có người nói, đây là một loại lánh đời, cũng có người nói, đây là tu hành. Tóm lại, tại bồ đề đạo tràng này, nghe chuông trống Phạn âm là có thể trải qua cuộc sống thanh tịnh vô cầu một bát thiền trà, một chiếc mõ như thế.
[16] Bất Nhị Pháp Môn: Còn gọi là Pháp Không Hai, là một pháp môn trong đạo Phật, dành cho các hành giả ở cõi Ta Bà đi khỏi lạc đường. Cốt yếu của pháp môn này là để chứng minh rằng: “Những sự vật, sự việc ở cõi Ta Bà này là có thật”, cốt để đưa chúng sinh thoát khỏi chấp trước, trở về với chân như, Phật tính.
Trong đại điện, các tăng nhân đang làm pháp sự, họ đọc tiếng Phạn, khiến khách dâng hương thoát ly phàm trần, bước vào thiền cảnh xa xăm. Rất nhiều người không thể thực sự thấu hiểu Thiền ý, không hiểu bồ đề nở hoa, nhưng lại cam tâm tình nguyện giam mình trong một quyển kinh thư, tự tại đến đi trong biển Phật mênh mông. Còn đức Phật vẫn dùng đôi mắt từ bi hiền hòa như cũ cúi nhìn chúng sinh mờ mịt, độ cho hết thảy những người có thể độ trên thế gian.
Đi qua Bất Nhị Pháp Môn lại là một thắng cảnh khác. Trên thềm đá là một tòa điện đường cổ kính tọa lạc, tên gọi là Đại Bi. Mà đằng sau của Đại Bi các chính là Huệ Sơn ẩn hiện. Ngước mắt dõi trông, trên tường đá còn khắc bốn chữ lớn “Tây Trúc Lưu Ngân”. (Tây Trúc lưu dấu) Nó đã dẫn chúng sinh đến Thủy Thiên Phật quốc xa xôi chỉ trong một sát na ngắn ngủi. Đứng sững dưới trời xanh mây trắng, ngắm nhìn vách núi miếu đài, ta thấy sinh mệnh nhỏ nhoi mà mênh mang biết mấy.
Sáng sủa sạch sẽ, tự viện dường như vĩnh viễn không vương bụi trần, đến mái ngói xanh cũng sạch lau sáng bóng. Mái hiên cong cong, cô độc ngạo nghễ dõi nhìn phương xa, không phải chờ đợi ai, cũng không phải tiễn biệt ai. Từng cánh cửa sổ cũ kỹ hoặc đóng hoặc mở, trên đó chạm trổ những hoa văn muôn hình vạn trạng, tinh xảo đẹp mắt, mà cũng không kém phần trang nhã thanh tịnh. Những người đến nơi này đều không kiềm lòng mà mơ một giấc mộng về Giang Nam.
Buổi hoàng hôn mưa gõ nhịp trên lá chuối, các tăng giả đẩy cửa nghe mưa với tâm trạng gì? Trong đêm trăng sáng như sương, họ đứng trước cửa sổ ngắm trúc với tâm thái gì? Những cảnh tượng phong nhã trữ tình ấy luôn luôn tồn tại và kéo dài cho đến ngày hôm nay. Thời gian vô tình, sẽ tước bỏ rất nhiều ký ức tươi đẹp; thời gian cũng hữu tình, sẽ lưu lại rất nhiều quá vãng sáng trong.
Phật nói, quay đầu là bờ, không biết có phải tất cả trường hợp quay đầu đều có thuyền bè đợi chờ, chuyên chở chúng sinh sang bờ bên kia sen nở hay không? Lần tìm theo con đường cũ, lại qua một tầng cửa đá nữa. Một cây ngân hạnh cổ thụ có niên đại hơn sáu trăm năm tọa lạc trước miếu, kể cho khách đến chuyện cũ tang thương của nó. Nghe nói năm xưa, được một tiểu sa di trong chùa trồng, tên của người ấy đã bị xóa nhòa theo năm tháng thời gian, không ai hay biết. Mà cây ngân hạnh này lại trường tồn ngàn năm, lá vàng rụng xuống lá xanh mọc chồi, không màng đến ngày hôm qua.
Trên thế gian thực sự có cuộc sống vĩnh hằng không? Thế nhân biến chuyển, sớm đã thay đổi hoàn toàn, nhưng núi đá cỏ cây dường như vẫn giữ nguyên hiện trạng. Thế sự vô thường, không biết tòa cổ sát nghìn năm này có thể gánh được sương gió của bao nhiêu năm? Phật nói, tùy duyên tự tại, cho dù có một ngày trùng phùng hay không, đều không quan trọng.
Một tấm ngự bi [17] cao chót vót, trên đó khắc câu thơ năm xưa Càn Long ngâm vịnh khi du ngoạn chùa Huệ Sơn. Vị hoàng đế nhàn nhã đa tình này đã từng nhiều lần xuống Giang Nam, quyến luyến vùng bảo địa non nước linh thiêng này, không nỡ rời xa. Bỗng nhiên, tựa như nhìn thấy bóng dáng của vị đế vương ung dung tài hoa tôn quý này. Tài tử áo gầm xòe quạt, phong lưu phóng khoáng ấy là Càn Long sao? Ngài ra khỏi cung điện dát vàng khảm ngọc, tới Giang Nam, đây có phải giấc mộng mà ngài lạc mất hay không?
[17] Ngự bi: Bia đá do hoàng đế ban tặng.
Chúng sinh bình đẳng trước Phật, cho dù là đế vương khanh tướng hay là bình dân phố chợ, ly hoan bi hợp đều như nhau. Có một ngày, nguyện cho chúng sinh đều có thể hóa thân thành hoa sen, ngồi dưới núi Tu Di [18], nghe thiền đọc kinh, bình hòa yên ổn.
[5] Tu Di là tên của một ngọn núi trong truyền thuyết cổ Ấn Độ, còn gọi là Tu Di Lâu, Mạn Đà La. Theo quan niệm Phật giáo, núi Tu Di là vua của các ngọn núi, là trung tâm của thế giới, là vũ trụ quan của Phật giáo.
Khi đến, đã biết số phận định là cô độc. Không có dáng vẻ vội vã, không có tâm tình buồn vui, trong ban mai của buổi chớm thu, chỉ bình thản đi lại như thế. Là duyên phận dẫn dắt, hay là số mệnh an bài, đều không quan trọng. Đến Huệ Sơn, sẽ tìm kiếm những gì? Là bóng dáng dần nhạt nhòa của vương triều thời cổ, thiên hạ đệ nhị tuyền nức danh trong trường đình biệt viện, cổ sát Giang Nam giữa chốn non xanh thâm u, hay là vườn cảnh cổ xưa quanh co lắt léo? Non nước tú lệ của vùng Huệ Sơn Vô Tích có thể nói cho chúng ta những điều gì?
(1) Thiên hạ đệ nhị tuyền
Cơn gió thuở chớm thu đã se sắt hơi lạnh, thỉnh thoảng lá rụng lác đác bay lả tả, người đi chầm chậm thả bước trên đường, nhưng không hề cảm thấy tiêu điều.
Một tia nắng đã khiến tâm tình dễ chịu hơn, thử đi tìm một nơi có nước chảy, đi tìm tiên sinh mù kéo nhị hồ A Bỉnh [14] năm xưa.
[14] A Bỉnh tiên sinh: tên thật là Hoa Ngạn Quân, nhạc sĩ dân gian, đồng thời là đạo sĩ. Vì mắc bệnh nên mắt bị mù, ông khổ công nghiên cứu âm nhạc Đạo giáo, không ngừng nâng cao, và hấp thu rộng rãi các làn điệu âm nhạc dân gian, cả đời tổng cộng sáng tác và diễn tấu hơn 270 khúc nhạc dân gian. Hiện còn bảo tồn được sáu bài, gồm: “Nhị Tuyền ánh nguyệt”, “Thính tùng”, “Xuân hàn phong khúc” (nhị hồ) và “Đại Lãng đào sa”, “Long thuyền”, “Chiêu Quân xuất tái” (tì bà).
Nhị Tuyền, dường như mọi thứ ở nơi đây đều liên quan đến suối mát trong lành.
Con đường nhỏ lát đá xanh, cho dù đã in dấu chân của biết bao người đi, vẫn cổ kính rêu xanh. Sàn đá nơi này dường như vĩnh viễn mang dấu ấn ẩm ướt, những quá khứ không thể xóa nhòa đó vẫn trong trẻo như xưa giữa dòng năm tháng già nua.
Hành lang dài quanh co tọa lạc giữa đầm, một cơn gió nhè nhẹ thổi qua. Dựa lan can ngắm hoa sen, những cánh hoa tàn tạ, đài sen căng đầy nuôi những hạt sen non, khiến người ta cảm nhận được một niềm vui sướng của sự thu hoạch. Nhà thơ thời Đường Lý Thương Ấn có thơ rằng: “Lưu đắc tàn hà thính vũ thanh.” (Giữ được sen tàn nghe tiếng mưa) Cỏ cây chốn nhân gian, khô héo là chuyện thường. Ngàn vạn sự vật nơi thế gian đều là phong cảnh, chỉ là tâm trạng khi ngắm cảnh khác nhau mà thôi.
Hai cánh cửa lớn màu vàng sẫm mở ra chào du khách, dường như vô tình nhắc nhở người ta, nơi đây đã từng phồn hoa và đầy thi vị. Khẽ chạm vào khóa đồng trên khoen cửa, mong sao có thể trùng với dấu tay của một văn nhân hoặc một trí giả thời cổ nào đó. Có lẽ như Thế Âmới có thể xuyên qua thời gian không gian mưa gió, cùng người ấy có một mối tâm ý tương thông thoảng qua.
Bước vào bậu cửa, lọt vào tầm mắt là năm chữ lớn: Thiên Hạ Đệ Nhị Tuyền. Trắng đen đan xen hút mắt, những điêu khắc im lìm trên vách đá, cho thấy danh hiệu đẹp hết sức đặc sắc của chúng. Mái hiên trên tường đá dây leo phủ kín, một vài cành cây xanh mướt tự do vươn dài ra những hướng khác nhau, cho đến nơi mà chúng muốn dừng lại – chốn về của đời người.
Trường đình cách đó không xa vang lên khúc cổ cầm dìu dặt réo rắt, ở đó có một cụ già diễn tấu bản “Nhị Tuyền ánh nguyệt” cho người khác nghe. Một thân áo dài màu xanh, đôi tay đầy nếp nhăn, khung cảnh mơ hồ, luôn khiến người ta ngộ nhận rằng ông chính là tiên sinh A Bỉnh năm nào. Mà những ngày trăng sáng sao thưa của năm xưa đó, khi A Bỉnh đến nơi non xanh suối biếc diễn tấu nhị hồ, liệu có diễn ra một cuộc tương phùng rượu trắng một bầu hay không?
Tháng năm như nước, vẫn luôn tham luyến cuộc vui. Những câu chuyện được cất giấu nơi sâu thẳm của thời gian, hoặc phồn hoa, hoặc lạnh lẽo, đến nay đều không còn tồn tại. Mà người đời sau đi xuyên qua những hành lang thông tới qua khứ, rốt cuộc có thể tìm được những gì?
Khi chúng ta cúi xuống nhìn Nhị Tuyền danh chấn thiên hạ đó, trong lòng khó tránh nảy sinh cảm giác hụt hẫng khôn xiết. Hàng lan can sắt ngăn du khách ở bên ngoài giếng cổ, năm đó mạch suối có hai nguồn chảy sống động biết bao, đến nay đã thành dòng nước chết. Không còn nhìn thấy nước trong văn vắt chảy róc rách sủi bọt trắng, còn đâu thảm rêu xanh rì ẩm ướt ven bờ. Chiếc giếng cổ có thành giếng bằng xi măng bị hàng rào bao quanh, trở thành một phong cảnh cho du khách thưởng lãm.
Năm ấy, đặc sứ từ kinh thành tới, đường dài rong ruổi chỉ vì muốn lấy nước Nhị Tuyền, đem dâng cho đế vương đun trà nấu nước. Nhưng nước suối đã khô cạn, niên đại tinh tế phong nhã ấy đã dần dần lùi xa. Một ly trà thơm, vài quyển thi thư, ngày tháng mộng sâu thăm thẳm bên ô cửa sổ nhỏ không biết đã đi về đâu, mà lịch sử thì chưa từng kể lại.
Đi men theo con đường lát đá có mấy phường trà cổ kính, trang nhã mở gần hành lang, dăm du khách ngồi xuống nghỉ chân thưởng trà. Cho dù nước không phải là nước của Nhị Tuyền, trà cũng không pha ra được mùi vị năm xưa, chỉ là thân ở chốn cổ tích non ngàn, đã tự nhiên có một tâm tình nhàn tản khác biệt rồi.
Gió lười biếng thổi, mây trôi tự tại. Ngồi trên ghế trúc, uống một bình nhàn trà, từ khi vị đặc đến khi vị nhạt, từ ấm sang nguội. Trà của Nhị Tuyền thích hợp cho những người hoài cổ thưởng thức; trăng của Nhị Tuyền thích hợp cho những người ưa nằm mộng ngắm trông.
Thiều quang đến đi lặng lẽ, cũng như rất nhiều duyên phận không thể nói thành lời, khởi diệt bất định. Rời Thiên hạ đệ nhị tuyền, những người đó lại vội vã bước đi, và sẽ đến một cuộc hẹn chưa từng gặp gỡ khác.
(2) Huệ Sơn cổ sát [15]
[15] Cổ sát: chữ Phạn, “sát sắc” là chùa Phật, “cổ sát” là cảnh chùa xưa.
Chùa miếu còn chưa thấy, đã nghe thấy tiếng chuông vang vẳng thinh không, dường như đang chiêu gọi những linh hồn tìm kiếm thắng cảnh chốn thâm u. Giang Nam có rất nhiều chùa cổ, chùa Huệ Sơn chỉ là một trong hàng vạn số đó. Gặp gỡ nơi này, chính là túc duyên mà Phật nói tới.
Men theo bậc thang đi lên trên, đi qua mấy tầng cửa cổ, xuyên qua cổ thụ um tùm. Ngước mắt nhìn bốn chữ khiến người ta chăm chú dán mắt: Bất Nhị Pháp Môn [16]. Đây có phải là tượng trưng cho một loại chấp trước hay không? Có lẽ người bước vào cửa Phật, tin nghe nhân quả, là thực sự không còn nảy sinh trần niệm. Có người nói, đây là một loại lánh đời, cũng có người nói, đây là tu hành. Tóm lại, tại bồ đề đạo tràng này, nghe chuông trống Phạn âm là có thể trải qua cuộc sống thanh tịnh vô cầu một bát thiền trà, một chiếc mõ như thế.
[16] Bất Nhị Pháp Môn: Còn gọi là Pháp Không Hai, là một pháp môn trong đạo Phật, dành cho các hành giả ở cõi Ta Bà đi khỏi lạc đường. Cốt yếu của pháp môn này là để chứng minh rằng: “Những sự vật, sự việc ở cõi Ta Bà này là có thật”, cốt để đưa chúng sinh thoát khỏi chấp trước, trở về với chân như, Phật tính.
Trong đại điện, các tăng nhân đang làm pháp sự, họ đọc tiếng Phạn, khiến khách dâng hương thoát ly phàm trần, bước vào thiền cảnh xa xăm. Rất nhiều người không thể thực sự thấu hiểu Thiền ý, không hiểu bồ đề nở hoa, nhưng lại cam tâm tình nguyện giam mình trong một quyển kinh thư, tự tại đến đi trong biển Phật mênh mông. Còn đức Phật vẫn dùng đôi mắt từ bi hiền hòa như cũ cúi nhìn chúng sinh mờ mịt, độ cho hết thảy những người có thể độ trên thế gian.
Đi qua Bất Nhị Pháp Môn lại là một thắng cảnh khác. Trên thềm đá là một tòa điện đường cổ kính tọa lạc, tên gọi là Đại Bi. Mà đằng sau của Đại Bi các chính là Huệ Sơn ẩn hiện. Ngước mắt dõi trông, trên tường đá còn khắc bốn chữ lớn “Tây Trúc Lưu Ngân”. (Tây Trúc lưu dấu) Nó đã dẫn chúng sinh đến Thủy Thiên Phật quốc xa xôi chỉ trong một sát na ngắn ngủi. Đứng sững dưới trời xanh mây trắng, ngắm nhìn vách núi miếu đài, ta thấy sinh mệnh nhỏ nhoi mà mênh mang biết mấy.
Sáng sủa sạch sẽ, tự viện dường như vĩnh viễn không vương bụi trần, đến mái ngói xanh cũng sạch lau sáng bóng. Mái hiên cong cong, cô độc ngạo nghễ dõi nhìn phương xa, không phải chờ đợi ai, cũng không phải tiễn biệt ai. Từng cánh cửa sổ cũ kỹ hoặc đóng hoặc mở, trên đó chạm trổ những hoa văn muôn hình vạn trạng, tinh xảo đẹp mắt, mà cũng không kém phần trang nhã thanh tịnh. Những người đến nơi này đều không kiềm lòng mà mơ một giấc mộng về Giang Nam.
Buổi hoàng hôn mưa gõ nhịp trên lá chuối, các tăng giả đẩy cửa nghe mưa với tâm trạng gì? Trong đêm trăng sáng như sương, họ đứng trước cửa sổ ngắm trúc với tâm thái gì? Những cảnh tượng phong nhã trữ tình ấy luôn luôn tồn tại và kéo dài cho đến ngày hôm nay. Thời gian vô tình, sẽ tước bỏ rất nhiều ký ức tươi đẹp; thời gian cũng hữu tình, sẽ lưu lại rất nhiều quá vãng sáng trong.
Phật nói, quay đầu là bờ, không biết có phải tất cả trường hợp quay đầu đều có thuyền bè đợi chờ, chuyên chở chúng sinh sang bờ bên kia sen nở hay không? Lần tìm theo con đường cũ, lại qua một tầng cửa đá nữa. Một cây ngân hạnh cổ thụ có niên đại hơn sáu trăm năm tọa lạc trước miếu, kể cho khách đến chuyện cũ tang thương của nó. Nghe nói năm xưa, được một tiểu sa di trong chùa trồng, tên của người ấy đã bị xóa nhòa theo năm tháng thời gian, không ai hay biết. Mà cây ngân hạnh này lại trường tồn ngàn năm, lá vàng rụng xuống lá xanh mọc chồi, không màng đến ngày hôm qua.
Trên thế gian thực sự có cuộc sống vĩnh hằng không? Thế nhân biến chuyển, sớm đã thay đổi hoàn toàn, nhưng núi đá cỏ cây dường như vẫn giữ nguyên hiện trạng. Thế sự vô thường, không biết tòa cổ sát nghìn năm này có thể gánh được sương gió của bao nhiêu năm? Phật nói, tùy duyên tự tại, cho dù có một ngày trùng phùng hay không, đều không quan trọng.
Một tấm ngự bi [17] cao chót vót, trên đó khắc câu thơ năm xưa Càn Long ngâm vịnh khi du ngoạn chùa Huệ Sơn. Vị hoàng đế nhàn nhã đa tình này đã từng nhiều lần xuống Giang Nam, quyến luyến vùng bảo địa non nước linh thiêng này, không nỡ rời xa. Bỗng nhiên, tựa như nhìn thấy bóng dáng của vị đế vương ung dung tài hoa tôn quý này. Tài tử áo gầm xòe quạt, phong lưu phóng khoáng ấy là Càn Long sao? Ngài ra khỏi cung điện dát vàng khảm ngọc, tới Giang Nam, đây có phải giấc mộng mà ngài lạc mất hay không?
[17] Ngự bi: Bia đá do hoàng đế ban tặng.
Chúng sinh bình đẳng trước Phật, cho dù là đế vương khanh tướng hay là bình dân phố chợ, ly hoan bi hợp đều như nhau. Có một ngày, nguyện cho chúng sinh đều có thể hóa thân thành hoa sen, ngồi dưới núi Tu Di [18], nghe thiền đọc kinh, bình hòa yên ổn.
[5] Tu Di là tên của một ngọn núi trong truyền thuyết cổ Ấn Độ, còn gọi là Tu Di Lâu, Mạn Đà La. Theo quan niệm Phật giáo, núi Tu Di là vua của các ngọn núi, là trung tâm của thế giới, là vũ trụ quan của Phật giáo.
(3) Ký Sướng viên
Lại là một tầng cửa, đời người phải chăng có một tầng cửa như thế này, bước vào trong là không thể đi ra? Có cách nghĩ như thế thì vẫn chưa thể buông bỏ chấp niệm. Thế sự non sông chìm nổi bất định, đợi đến khi sinh mệnh kết thúc, tất cả đều hạ màn, quay về với tự nhiên.
Ký Sướng viên vốn là gia viên của họ Tần, chủ khu vườn này chắc chắn phải có một gia tài đồ sộ, mới có thể gửi gắm tình cảm một cách khoáng đạt sảng khoái vào non nước nơi đây. Phong cách của khu vườn cảnh này thuộc thời đại Minh, Thanh, tuy đã trải qua mưa gió mấy trăm năm nhưng vẫn bảo tồn được nguyên vẹn hiện trạng. Thủy tạ ca đài, lầu khắc thuyền hoa, vẫn là cảnh trí Giang Nam thuở nào.
Hành lang quanh co, gió mát thông thoáng, chầm chậm dạo bước, không có mục đích. Hai bên hành lang trồng đầy trúc xanh, ánh nắng xuyên qua ngói xanh, chiếu những vệt nắng loang lổ trên con đường đá, không ai có thể giẫm lên chiếc bóng của chính mình.
Mấy gian thư viện nho nhỏ, trên tường treo vài bức cổ họa tả ý. Cảnh trí trong tranh đều là sông nước Giang Nam, những dãy nhà dân trùng trùng điệp điệp, xây bên dòng nước, dựng bao quanh núi. Vài cây cầu nhỏ như ẩn như hiện, trải dài về phía vùng đất không rõ tên. Mấy chiếc thuyền chèo xuôi dòng, không biết sẽ đi về hướng nào, và sẽ cập bến nơi đâu?
Cổ tháp tọa lạc trên đỉnh Tích Sơn, im lặng cúi nhìn dòng kênh chảy suốt nghìn năm đó và khung cảnh phồn hoa của thành cổ Vô Tích. Nhìn thỏi mực quý của tiền nhân để lại, dạo chơi giữa ranh giới xưa và nay, những dấu ấn của nền văn minh xa xưa đó nay đã thương tích chất chồng, dường như tất cả trước mắt đều là sự bình tĩnh đã được ngụy trang. Nhưng chúng ta không có cách nào xé bỏ cảnh tượng này, để cho sự phi thường của năm tháng được phơi bày ra trước mặt.
Tiếp tục đi về phía trước theo tiếng nước chảy, bạn sẽ thấy những bức tường đá chất tầng tầng lớp lớp thành muôn hình vạn trạng. Những bức tường đá này không biết là do tự nhiên tạo thành, hay là do con người cố ý tu chỉnh? Tuy cái đẹp của sinh mệnh bắt nguồn từ tự nhiên, nhưng nếu không trải qua sự nhào nặn của năm tháng, tự nhiên cũng sẽ biến thành đơn điệu và vô vị. Duy chỉ có dùng cái tâm thuần túy để thưởng thức, mới có thể phát hiện được chân ý của cái đẹp.
Chọn một chiếc ghế đá sạch mát để ngồi, ngắm đàn cá lượn lờ đùa trong nước. Chúng luôn được hưởng thụ những đồ ăn ngon của du khách cho, không cần lo lắng bị bắt bởi lưới của người đời. Chỉ là có lẽ chúng sẽ thấy chán chường vùng tịnh thổ nhỏ bé này, thà vẫy vùng trong sông hồ biển lớn, sống cuộc sống bình thường nhất từ xưa tới nay còn hơn. Cá đã như thế, huống chi là người, vạn vật trên thế gian đều phải tuân theo quy luật của tự nhiên mới có thể lâu dài vĩnh viễn.
Đường nhỏ vòng vèo, trên tường đá khắc rất nhiều bức thư pháp của danh gia thời cổ, những thể chữ khác nhau ngụ chứa tâm tính khác nhau của họ. Những vết khắc sâu có nông có đó không che giấu nổi cuộc đời chìm nổi và cả vận mệnh phóng khoáng của họ. Mỗi một hàng văn tự dường như đều có thể cho thấy hình bóng thu nhỏ của cuộc đời những con người ấy. Có lẽ người xưa cũng chưa từng nghĩ rằng, sau vài năm, ở nơi này sẽ lại có một lần tụ hội.
Cổ thụ um tùm, nơi sâu nhất của khu vườn cảnh lại càng thanh vắng. Đi qua hành lang, đi qua cầu đá, trên mặt đầm có mấy chiếc lá đỏ rụng, trôi dập dềnh trên mặt nước. Lá đỏ dường như luôn có mối liên quan đến mùa thu, giữa cái se se lạnh của mùa thu luôn mang theo chút buồn man mác. Mà những người dạo chơi trong khu vườn không biết là sẽ làm kinh động giấc mộng của ai.
Lòng vòng quanh hang núi suối khe, khi đi ra, lại về con đường lúc mới đến. Đời người tựa như một vòng luân hồi, bốn mùa luân chuyển, triều đại đổi thay, cho dù phong vân biến ảo như thế nào, đến một ngày nào đó, đều quay trở về phẳng lặng. Ký Sướng viên cũng như vậy, trải qua phồn thịnh và suy thoái, kế đó lại được những người của các triều đại khác nhau tu sửa và phá hỏng, làm sao còn có thể như lúc ban đầu? Khi chúng ta nhìn thấy những kiến trúc cổ được tân trang đó, rất nhiều thợ thuyền đương nhiệt tình ra sức tu sửa trang trí. Vài năm sau, gạch xanh ngói đen dần dần thay đổi, lại không nhìn ra nổi những vật cũ của năm nào. Những người đến tìm mộng năm đó, còn có thể tìm được những gì?
Đường đến là đường về, có lẽ Ký Sướng viên vẫn còn rất nhiều phong cảnh, đợi chúng ta đến khám phá; và còn có rất nhiều câu chuyện, chờ được chúng ta phát giác. Nhưng đời người khó tránh khỏi lầm lỡ, chúng ta không cần phải cố ý kiếm tìm.
Đều là khách qua đường, nên chẳng thể là người trở về của chốn này, cũng không cần quyến luyến với cây cỏ nơi đây. Cho dù tương lai có thể trùng phùng hay không, chỉ cần lưu giữ lại ký ức về non nước lầu gác, ung dung qua ngày, thưởng thức niềm vui của đời người là tốt rồi.
Đi ra khỏi khu vườn Giang Nam, trong con ngõ nhỏ lát đá xanh kéo dài tít tắp là những ngôi nhà vùng sông nước. Ở cửa ra vào bày những chiếc ghế tre cao thấp khác nhau, các cụ già túm tụm uống trà trò chuyện. Không biết trên chiếc sào phơi áo vắt trên cửa sổ gỗ kia treo chiếc váy hoa của nhà ai, đang phất phơ bay bay trong làn gió nhẹ. Không hay những người khách qua đường lưng đeo tay nải ấy, bến tiếp theo sẽ đi về đâu?
Tháng năm như nước, sẽ có một ngày chúng ta đặt hành trang của thế tục xuống, trở về thị trấn nhỏ có ngói đen tường trắng này. Khi ấy, uống một ly trà nhàn nhã từ sớm hôm tới hoàng hôn, cùng bầy én bay về hồi tưởng lại đoạn quá khứ mây nước đó.
Thành cổ Đại Lý
Mỗi con người đều có một tòa thành thuộc về chính mình, cho dù tòa thành đó rộng rãi hay nhỏ hẹp, phồn hoa hay lạnh lẽo. Chỉ cần trong thành có một người, một ký ức, một phong cảnh mà mình nhung nhớ, thì đều nguyện một đời ở lại nơi đó. Đại Lý, từng là một tòa hoàng thành, và cũng là một tòa Phật quốc, đã từng có phong hoa tuyết nguyệt, lại ẩn chứa Vân Thủy Thiền Tâm. Biết bao người bước vào tòa thành này liền không kìm được yêu mến nó. Có lẽ nó không phải tòa thành định mệnh của bạn, nhưng chắc chắn rằng, tất cả mọi người đến đây đều không thể quên được nó. Đến Đại Lý là vì mối duyên tình không dứt từ kiếp trước.
(1) Thương Sơn Nhĩ Hải
Đây là một thành thị nổi danh nhờ phong hoa tuyết nguyệt, chỉ cần bước vào Đại Lý, giơ tay ra là có thể sờ được vào sự lãng mạn, cúi mày là có thể chạm tới sự dịu dàng. Nói đến Đại Lý, rất nhiều người đều nhớ đến “Thiên Long Bát Bộ[19]”, nhớ đến Lục Mạch thần kiếm, nhớ đến hoa trà của Đại Lý, nhớ đến Đoàn Dự văn nhã đa tình. Một tiểu quốc phía Nam, cho dù là giang hồ mưa máu gió tanh cũng chưa từng càn quét nơi này. Dường như nó luôn là một vương giả vô tâm, không thích phân tranh chiến loạn. Cho nên từ rất nhiều năm về trước, nó đã trút bỏ sự uy nghiêm của đế vương, đóng cổ thành thành một cuốn sách năm tháng êm dịu, để muôn vàn bách tính cùng điềm tĩnh ngồi đọc.
[19] Thiên Long Bát Bộ: Tiểu thuyết võ hiệp nổi tiếng của Kim Dung.
Thương Sơn Nhĩ Hải (núi Thương biển Nhĩ), là phong cảnh tự nhiên của Đại Lý, chỉ riêng chúng đã đủ sức để mang lại sự lãng mạn tuyệt đẹp cho thành phố này. Tuyết Thương Sơn ngàn năm không tan, trăng Nhĩ Hải vạn cổ trường tổn, còn có suối Hồ Điệp trong vắt mát rượi, chúng đồng hành với thời gian của Đại Lý, nuôi dưỡng tinh thần của cổ thành, khi rất nhiều thành thị trong lịch sử dần dần đánh mất dung mạo thuở xưa, Đại Lý vẫn giữ được khuôn trang thanh tân như thuở ban đầu. Những chúng sinh mê đắm trong phồn hoa đó, trong những tháng ngày hối hả, đến cả vui buồn cũng đều vội vã. Khi họ bước chân vào Đại Lý, liền cảm thấy yêu sự đơn giản và yên bình, tĩnh lặng nơi này. Mới biết rằng, hóa ra cuộc sống cũng có thể chậm lại như thế, dạo bước sân vắng chính là trạng thái nhân sinh hoàn mỹ.
Tuyết Thương Sơn óng ánh nhuần nhã; mây Thương Sơn biến ảo đa dạng; suối Thương Sơn ngọt ngào tinh khiết. Chi cần vô tình tới thăm, không cần một lời hẹn ước, mỗi du khách đều có thể tan vào Thương Sơn. Để bản thân ngọc khiết băng thanh như tuyết, yểu điệu rung động như mây, tâm sáng kiến tính như suối. Nước Nhĩ Hải phẳng lặng xanh biếc; gió Nhĩ Hải ôn tồn êm ái; trăng Nhĩ Hải trong vắt sáng soi. Nước nơi này cũng từng sóng lớn ập bờ, nhưng càng lâu về sau, lại càng phẳng lặng không gợn. Gió nơi này có thể trị thương, ngồi trên thuyền, những nỗi buồn thương của mặt hồ xanh thẳm của quá khứ, dần dần được xoa dịu trong gió. Trăng nơi này trong sáng đến mức có thể cầm sách ngồi đọc, nhóm lò nấu trà. Lúc yên ả, cũng có thể thưởng thức hương trà, gối đầu lên ánh trăng mà ngủ thiếp đi.
Ở Đại Lý, Thương Sơn Nhĩ Hải, có thể nấu thế vị nồng đậm thành một bát trà nhạt. Người đến Đại Lý, từ ngày đầu tiên sẽ yêu ngay bát trà này. Trà này, giống như cuộc sống ở Đại Lý, thanh đạm, yên ả, êm đềm.
(2) Ba tháp chùa Sùng Thánh
Đại Lý, nhờ có chùa Sùng Thánh, nên mới có danh hiệu Diệu Hương Phật Quốc. Mà ba ngọn tháp ở chùa Sùng Thánh sừng sững tọa lạc trong thành cổ với một khí thế vững vàng phi thường, lưng dựa Thương Sơn, mặt đối Nhĩ Hải, chứng kiến văn hóa Phật giáo của Đại Lý, phong tình nghìn năm của Vân Nam.
Đây thực sự là một tòa Phật đô, năm đó phong trào sùng Phật hưng khởi, chùa Phật lớn nhỏ có đến hơn ba ngàn ngôi, phân bố khắp trong nội cảnh Vân Nam. Phật gia chú trọng duyên pháp, tin vào nhân quả, trong thành Đại Lý trên từ đế vương khanh tướng, dưới xuống bình dân bách tính, đều kết túc duyên sâu đậm với Phật. Trong hai mươi hai đời quốc vương Đoàn thị của nước Đại Lý, có chín vị hoàng đế từ bỏ hoàng vị, đến chùa Sùng Thánh xuất gia. Chúng ta cơ hồ có thể tưởng tượng được, Đại Lý khi đó gần như bị khói hương bao trùm, khắp nơi là Thiền vị từ bi thấm đẫm.
Tâm có bồ đề mới có thể giác ngộ nhân sinh. Tu Phật, tức tại tu tâm, không phải là tránh đời, không phải né trần, mà là vì siêu thoát cho bản thân, độ hóa cho muôn vàn chúng sinh. Ngước trông ba tháp, dưới bầu trời xanh, trong làn nước biếc, khiến lòng người chợt nảy sinh một cảm giác thanh tĩnh xa xôi và đầy sức sống. Dường như Đại Thiên thế giới, vạn vật ảo diệu, đều dung nạp trong đó. Trên thế gian này, không một độ cao nào có thể vượt qua nó; không một loại tâm tình nào có thể đuổi kịp nó.
Tháp chính của ba tòa tháp có một cái tên rất nặng tình, gọi là Thiên Tầm (nghĩa là: nghìn lần tìm kiếm). Không biết năm đó ai đã đặt một cái tên sinh động đến vậy cho bảo tháp, có thể là một vị cao tăng, có thể là một vị đế vương, hoặc có thể chỉ là một kiến trúc sư bình thường. Thiên Tầm, Thiên Tầm, không ai biết nội dung sâu sắc ký gửi đằng sau hai chữ Thiên Tầm là gì, có lẽ phải là một câu chuyện đầy xúc động. Chỉ là, qua mây nước nghìn năm, tên ngọn tháp này vẫn làm cảm động vô số người.
Ba tòa tháp của chùa Sùng Thánh có tạo hình tương tự với Đại Nhạn tháp, Tiểu Nhạn tháp ở Tây An, là kiến trúc mang phong cách đời Đường, dát vàng đỉnh tháp, thể hiện sự tôn quý và hoa lệ một cách rõ ràng. Ba ngọn tháp mạnh mẽ, vươn thẳng vào trời xanh, khí thế hùng hồn. Trên tầng mây, dường như đang có nghìn Phật tĩnh tọa đài sen, lặng ngắm phàm trần suy thịnh. Những người ngồi nhìn hai bờ của thời gian đó, năm năm tháng tháng, đã không biết đổi thay bao lần. Mà ba tòa bảo tháp trải qua ngàn năm mưa gió, vẫn nguy nga sừng sững. Không tìm kiếm nữa, không đợi chờ nữa, chỉ vì ở Phật quốc này, tu một đoạn duyên phận, độ một người qua đường, đổi lấy một khoảng mát lành. (3) Nhà ở của dân tộc Bạch ở Hỷ Châu
Nói đến dân tộc Bạch, rất nhiều người sẽ nghĩ tới bộ phim “Năm đóa kim hoa” nổi tiếng trong và ngoài nước, bộ phim này đã phô bày cho khán giả xem phong tục nhân tình của dân tộc Bạch giỏi ca múa, khiến những người chưa từng tới Đại Lý càng thêm phần ngưỡng mộ đối với văn hóa lịch sử mê hồn của tòa thành này. Những người đến đây càng nguyện ý trồng cho mình một cái cây, nhuộm một tấm vải, hái một cành hoa, chỉ vì muốn một ngày nào đó trong tương lai, có một lý do để mà nhung nhớ.
Hỷ Châu, một tiểu trấn tọa lạc giữa vùng non nước, giống như chốn đào nguyên thế ngoại, người biết đến nó có lẽ không nhiều. Nhưng dân cư Hỷ Châu lại đặc trưng cho phong cách của dân tộc Bạch ở thành Đại Lý, người đến Đại Lý nhất định sẽ tìm đến nơi này. Nó im lặng giữ gìn thời gian xa xưa của thị trấn, đợi chờ tri kỷ một đời trong duyên phận của mình.
Trời Hỷ Châu xanh ngăn ngắt, mây bay la đà, hễ bạn vươn tay ra là có thể hái được một áng mây bạn muốn. Nhà nhà ở Hỷ Châu đều có đình viện, họ trồng hy vọng trong sân, cày xới xuân thu, truyền ngày tháng thu hoạch lại cho đời sau. Đình viện nơi đây rất xưa cũ, gạch xanh ngói đen, và còn những bình phong, cửa sổ điêu khắc hoa văn tinh xảo, cho dù trầm lặng, nhưng không phút nào giây nào quên nói cho khách đến biết quá khứ xa xăm của tiểu trấn Hỷ Châu.
Phố cổ Hỷ Châu là một người già biết bao câu chuyện, đi ngang qua đó, những năm tháng lịch sử xa xôi ấy sẽ chậm rãi xuất hiện, dường như không cần xét đoán, cũng biết được câu chuyện đời này kiếp trước của Hỷ Châu. Cỏ cây, tường núi, lầu cửa, phường nhuộm nơi này, sẽ không hề mệt mỏi đem những ký ức đã cất giấu giao phó cho mỗi người đi tìm nó.
Người dân tộc Bạch chất phác, sống cuộc đời hạnh phúc nơi cổ trấn Hỷ Châu. Sự yên tĩnh, bình yên và cổ kính nơi đây khiến người ta cảm thấy thân thiết và yêu thích tự đáy lòng. Thời gian thật có tình, sẽ không vội vã trôi qua. Chúng ta có thể thong thả ngắm nhìn những người già trồng hoa chăm cỏ trong những khoảnh sân vườn, những bà mẹ rửa rau bên khe suối, những cô gái nhuộm vải trong phường vải, những đứa trẻ nô đùa bên góc tường. Cho đến khi sự xúc động trong trái tim dâng đầy đôi mắt, khoảnh khắc này, bạn cũng đã chìm vào những câu chuyện trăm năm của Hỷ Châu. Từ đây về sau, chỉ cần nhắc đến ký ức này, cho dù mê lạc nơi nào, đều có một bến đò dẫn dắt bạn lên bờ.
Có lẽ, chúng ta đều không phải là chủ nhân của nơi này, nhưng đời này đã định rằng sẽ có một đoạn tình duyên như bèo tụ. Ngỡ rằng năm tháng âm thầm thay đổi, quay người, hóa ra năm tháng vẫn nơi đây.
(4) Thành cổ Đại Lý
Ai cũng nói nói thành Đại Lý bốn mùa như xuân, có gió dịu nhẹ, có mây bảy màu, hoa cỏ xinh tươi và ánh dương trong sáng. Đến nơi này là có thể lãng quên giang hồ, vứt bỏ quá khứ rối rắm, chuyên tâm làm một người cuồng nhiệt yêu mến cuộc sống.
Đi qua tường thành cổ kính của Đại Lý, lịch sử của cả vương quốc Đại Lý như một cuốn sách không có chữ, khắc hết thảy nền văn hóa lâu dài vào bức tường cổ này. Đứng ở phía bên trong tường thành có thể thực sự chạm được vào mây khói yên tĩnh, sự mềm dịu tinh tế và cả sự dịu dàng ngày hôm qua của tòa thành này. Thành cổ Đại Lý mộc mạc cổ kính mà u tĩnh, hoa cỏ phủ kín khắp thành, nước suối trong vắt chảy róc rách. Người Đại Lý trồng rất nhiều loại hoa trong sân vườn nhà mình, sống cuộc sống chậm rãi. Hàng ngày, trên gương mặt mỗi người đều ánh lên nụ cười bình thản, thật lòng yêu mến cuộc sống của mình.
Đây là tòa thành mà người ta không nhẫn tâm phụ bạc, cũng không thể phụ bạc. Từ khi tỉnh dậy ban sớm, đón nhận tia nắng đầu tiên của thành cổ, là đã định trước bị tòa thành này cảm nhiễm. Nó không cần nghiêng thành vì bạn, chỉ cần dưới bầu trời Đại Lý, nói chuyện với một đóa mây trắng, uống một chén sương trong lành của trà hoa núi, đánh một ván cờ với một cụ già dưới bóng cây, hay nhặt một làn rau cùng cụ bà trong một khoảng sân. Một ngày bình dị được người Đại Lý ngâm trong ly trà, vẽ lên cửa sổ, nhuộm mài trong vải. Lúc hoàng hôn, tiểu thành thong thả lại càng yên tĩnh hơn trong sắc chiều. Những dây leo xanh thẫm leo trên tường luôn nhắc nhở chúng ta nhớ về một cuộc gặp gỡ không thể nào quên của nhiều năm về trước. Người trở về, ngửi thấy hương hoa, giẫm lên ánh tà dương như dát vàng, là đang tiễn biệt hoàng hôn, nghênh đón ánh trăng.
Đây là một tòa tiểu thành đắm chìm trong hồi ức, mỗi một phong cảnh của nó đều khiến thời gian muốn dừng bước, hoài cổ một cách dịu dàng với nó. Đã thấy phong hoa tuyết nguyệt, lại thấy Thiền Tâm Vân Thủy, hành trang của năm tháng đã ních đầy. Sân khấu của lịch sử, mỗi ngày đều đổi thay nhân vật, Đại Lý, nhất định còn có rất nhiều truyền kỳ mà người ta không biết. Những câu chuyện đó được cất giấu trong đóa mây bảy sắc, cất giấu trong đời sống vụn vặt, hết thảy đều gửi gắm cho ngày tháng, thưởng thức từng chút từng chút một.
Nếu như có thể, hãy để bản thân biến thành một chú bướm màu bay lượn bên Hồ Điệp, hoặc là một đóa mây trắng lướt qua tường thành, chuyên chở cuộc gặp gỡ và ly biệt này. Chỉ cần không bay qua Thương Sơn Nhĩ Hải, lúc vươn tay, chúng ta có thể chạm vào tòa thành tên là Đại Lý này, tòa thành cả đời chẳng thể nào quên.
Lại là một tầng cửa, đời người phải chăng có một tầng cửa như thế này, bước vào trong là không thể đi ra? Có cách nghĩ như thế thì vẫn chưa thể buông bỏ chấp niệm. Thế sự non sông chìm nổi bất định, đợi đến khi sinh mệnh kết thúc, tất cả đều hạ màn, quay về với tự nhiên.
Ký Sướng viên vốn là gia viên của họ Tần, chủ khu vườn này chắc chắn phải có một gia tài đồ sộ, mới có thể gửi gắm tình cảm một cách khoáng đạt sảng khoái vào non nước nơi đây. Phong cách của khu vườn cảnh này thuộc thời đại Minh, Thanh, tuy đã trải qua mưa gió mấy trăm năm nhưng vẫn bảo tồn được nguyên vẹn hiện trạng. Thủy tạ ca đài, lầu khắc thuyền hoa, vẫn là cảnh trí Giang Nam thuở nào.
Hành lang quanh co, gió mát thông thoáng, chầm chậm dạo bước, không có mục đích. Hai bên hành lang trồng đầy trúc xanh, ánh nắng xuyên qua ngói xanh, chiếu những vệt nắng loang lổ trên con đường đá, không ai có thể giẫm lên chiếc bóng của chính mình.
Mấy gian thư viện nho nhỏ, trên tường treo vài bức cổ họa tả ý. Cảnh trí trong tranh đều là sông nước Giang Nam, những dãy nhà dân trùng trùng điệp điệp, xây bên dòng nước, dựng bao quanh núi. Vài cây cầu nhỏ như ẩn như hiện, trải dài về phía vùng đất không rõ tên. Mấy chiếc thuyền chèo xuôi dòng, không biết sẽ đi về hướng nào, và sẽ cập bến nơi đâu?
Cổ tháp tọa lạc trên đỉnh Tích Sơn, im lặng cúi nhìn dòng kênh chảy suốt nghìn năm đó và khung cảnh phồn hoa của thành cổ Vô Tích. Nhìn thỏi mực quý của tiền nhân để lại, dạo chơi giữa ranh giới xưa và nay, những dấu ấn của nền văn minh xa xưa đó nay đã thương tích chất chồng, dường như tất cả trước mắt đều là sự bình tĩnh đã được ngụy trang. Nhưng chúng ta không có cách nào xé bỏ cảnh tượng này, để cho sự phi thường của năm tháng được phơi bày ra trước mặt.
Tiếp tục đi về phía trước theo tiếng nước chảy, bạn sẽ thấy những bức tường đá chất tầng tầng lớp lớp thành muôn hình vạn trạng. Những bức tường đá này không biết là do tự nhiên tạo thành, hay là do con người cố ý tu chỉnh? Tuy cái đẹp của sinh mệnh bắt nguồn từ tự nhiên, nhưng nếu không trải qua sự nhào nặn của năm tháng, tự nhiên cũng sẽ biến thành đơn điệu và vô vị. Duy chỉ có dùng cái tâm thuần túy để thưởng thức, mới có thể phát hiện được chân ý của cái đẹp.
Chọn một chiếc ghế đá sạch mát để ngồi, ngắm đàn cá lượn lờ đùa trong nước. Chúng luôn được hưởng thụ những đồ ăn ngon của du khách cho, không cần lo lắng bị bắt bởi lưới của người đời. Chỉ là có lẽ chúng sẽ thấy chán chường vùng tịnh thổ nhỏ bé này, thà vẫy vùng trong sông hồ biển lớn, sống cuộc sống bình thường nhất từ xưa tới nay còn hơn. Cá đã như thế, huống chi là người, vạn vật trên thế gian đều phải tuân theo quy luật của tự nhiên mới có thể lâu dài vĩnh viễn.
Đường nhỏ vòng vèo, trên tường đá khắc rất nhiều bức thư pháp của danh gia thời cổ, những thể chữ khác nhau ngụ chứa tâm tính khác nhau của họ. Những vết khắc sâu có nông có đó không che giấu nổi cuộc đời chìm nổi và cả vận mệnh phóng khoáng của họ. Mỗi một hàng văn tự dường như đều có thể cho thấy hình bóng thu nhỏ của cuộc đời những con người ấy. Có lẽ người xưa cũng chưa từng nghĩ rằng, sau vài năm, ở nơi này sẽ lại có một lần tụ hội.
Cổ thụ um tùm, nơi sâu nhất của khu vườn cảnh lại càng thanh vắng. Đi qua hành lang, đi qua cầu đá, trên mặt đầm có mấy chiếc lá đỏ rụng, trôi dập dềnh trên mặt nước. Lá đỏ dường như luôn có mối liên quan đến mùa thu, giữa cái se se lạnh của mùa thu luôn mang theo chút buồn man mác. Mà những người dạo chơi trong khu vườn không biết là sẽ làm kinh động giấc mộng của ai.
Lòng vòng quanh hang núi suối khe, khi đi ra, lại về con đường lúc mới đến. Đời người tựa như một vòng luân hồi, bốn mùa luân chuyển, triều đại đổi thay, cho dù phong vân biến ảo như thế nào, đến một ngày nào đó, đều quay trở về phẳng lặng. Ký Sướng viên cũng như vậy, trải qua phồn thịnh và suy thoái, kế đó lại được những người của các triều đại khác nhau tu sửa và phá hỏng, làm sao còn có thể như lúc ban đầu? Khi chúng ta nhìn thấy những kiến trúc cổ được tân trang đó, rất nhiều thợ thuyền đương nhiệt tình ra sức tu sửa trang trí. Vài năm sau, gạch xanh ngói đen dần dần thay đổi, lại không nhìn ra nổi những vật cũ của năm nào. Những người đến tìm mộng năm đó, còn có thể tìm được những gì?
Đường đến là đường về, có lẽ Ký Sướng viên vẫn còn rất nhiều phong cảnh, đợi chúng ta đến khám phá; và còn có rất nhiều câu chuyện, chờ được chúng ta phát giác. Nhưng đời người khó tránh khỏi lầm lỡ, chúng ta không cần phải cố ý kiếm tìm.
Đều là khách qua đường, nên chẳng thể là người trở về của chốn này, cũng không cần quyến luyến với cây cỏ nơi đây. Cho dù tương lai có thể trùng phùng hay không, chỉ cần lưu giữ lại ký ức về non nước lầu gác, ung dung qua ngày, thưởng thức niềm vui của đời người là tốt rồi.
Đi ra khỏi khu vườn Giang Nam, trong con ngõ nhỏ lát đá xanh kéo dài tít tắp là những ngôi nhà vùng sông nước. Ở cửa ra vào bày những chiếc ghế tre cao thấp khác nhau, các cụ già túm tụm uống trà trò chuyện. Không biết trên chiếc sào phơi áo vắt trên cửa sổ gỗ kia treo chiếc váy hoa của nhà ai, đang phất phơ bay bay trong làn gió nhẹ. Không hay những người khách qua đường lưng đeo tay nải ấy, bến tiếp theo sẽ đi về đâu?
Tháng năm như nước, sẽ có một ngày chúng ta đặt hành trang của thế tục xuống, trở về thị trấn nhỏ có ngói đen tường trắng này. Khi ấy, uống một ly trà nhàn nhã từ sớm hôm tới hoàng hôn, cùng bầy én bay về hồi tưởng lại đoạn quá khứ mây nước đó.
Thành cổ Đại Lý
Mỗi con người đều có một tòa thành thuộc về chính mình, cho dù tòa thành đó rộng rãi hay nhỏ hẹp, phồn hoa hay lạnh lẽo. Chỉ cần trong thành có một người, một ký ức, một phong cảnh mà mình nhung nhớ, thì đều nguyện một đời ở lại nơi đó. Đại Lý, từng là một tòa hoàng thành, và cũng là một tòa Phật quốc, đã từng có phong hoa tuyết nguyệt, lại ẩn chứa Vân Thủy Thiền Tâm. Biết bao người bước vào tòa thành này liền không kìm được yêu mến nó. Có lẽ nó không phải tòa thành định mệnh của bạn, nhưng chắc chắn rằng, tất cả mọi người đến đây đều không thể quên được nó. Đến Đại Lý là vì mối duyên tình không dứt từ kiếp trước.
(1) Thương Sơn Nhĩ Hải
Đây là một thành thị nổi danh nhờ phong hoa tuyết nguyệt, chỉ cần bước vào Đại Lý, giơ tay ra là có thể sờ được vào sự lãng mạn, cúi mày là có thể chạm tới sự dịu dàng. Nói đến Đại Lý, rất nhiều người đều nhớ đến “Thiên Long Bát Bộ[19]”, nhớ đến Lục Mạch thần kiếm, nhớ đến hoa trà của Đại Lý, nhớ đến Đoàn Dự văn nhã đa tình. Một tiểu quốc phía Nam, cho dù là giang hồ mưa máu gió tanh cũng chưa từng càn quét nơi này. Dường như nó luôn là một vương giả vô tâm, không thích phân tranh chiến loạn. Cho nên từ rất nhiều năm về trước, nó đã trút bỏ sự uy nghiêm của đế vương, đóng cổ thành thành một cuốn sách năm tháng êm dịu, để muôn vàn bách tính cùng điềm tĩnh ngồi đọc.
[19] Thiên Long Bát Bộ: Tiểu thuyết võ hiệp nổi tiếng của Kim Dung.
Thương Sơn Nhĩ Hải (núi Thương biển Nhĩ), là phong cảnh tự nhiên của Đại Lý, chỉ riêng chúng đã đủ sức để mang lại sự lãng mạn tuyệt đẹp cho thành phố này. Tuyết Thương Sơn ngàn năm không tan, trăng Nhĩ Hải vạn cổ trường tổn, còn có suối Hồ Điệp trong vắt mát rượi, chúng đồng hành với thời gian của Đại Lý, nuôi dưỡng tinh thần của cổ thành, khi rất nhiều thành thị trong lịch sử dần dần đánh mất dung mạo thuở xưa, Đại Lý vẫn giữ được khuôn trang thanh tân như thuở ban đầu. Những chúng sinh mê đắm trong phồn hoa đó, trong những tháng ngày hối hả, đến cả vui buồn cũng đều vội vã. Khi họ bước chân vào Đại Lý, liền cảm thấy yêu sự đơn giản và yên bình, tĩnh lặng nơi này. Mới biết rằng, hóa ra cuộc sống cũng có thể chậm lại như thế, dạo bước sân vắng chính là trạng thái nhân sinh hoàn mỹ.
Tuyết Thương Sơn óng ánh nhuần nhã; mây Thương Sơn biến ảo đa dạng; suối Thương Sơn ngọt ngào tinh khiết. Chi cần vô tình tới thăm, không cần một lời hẹn ước, mỗi du khách đều có thể tan vào Thương Sơn. Để bản thân ngọc khiết băng thanh như tuyết, yểu điệu rung động như mây, tâm sáng kiến tính như suối. Nước Nhĩ Hải phẳng lặng xanh biếc; gió Nhĩ Hải ôn tồn êm ái; trăng Nhĩ Hải trong vắt sáng soi. Nước nơi này cũng từng sóng lớn ập bờ, nhưng càng lâu về sau, lại càng phẳng lặng không gợn. Gió nơi này có thể trị thương, ngồi trên thuyền, những nỗi buồn thương của mặt hồ xanh thẳm của quá khứ, dần dần được xoa dịu trong gió. Trăng nơi này trong sáng đến mức có thể cầm sách ngồi đọc, nhóm lò nấu trà. Lúc yên ả, cũng có thể thưởng thức hương trà, gối đầu lên ánh trăng mà ngủ thiếp đi.
Ở Đại Lý, Thương Sơn Nhĩ Hải, có thể nấu thế vị nồng đậm thành một bát trà nhạt. Người đến Đại Lý, từ ngày đầu tiên sẽ yêu ngay bát trà này. Trà này, giống như cuộc sống ở Đại Lý, thanh đạm, yên ả, êm đềm.
(2) Ba tháp chùa Sùng Thánh
Đại Lý, nhờ có chùa Sùng Thánh, nên mới có danh hiệu Diệu Hương Phật Quốc. Mà ba ngọn tháp ở chùa Sùng Thánh sừng sững tọa lạc trong thành cổ với một khí thế vững vàng phi thường, lưng dựa Thương Sơn, mặt đối Nhĩ Hải, chứng kiến văn hóa Phật giáo của Đại Lý, phong tình nghìn năm của Vân Nam.
Đây thực sự là một tòa Phật đô, năm đó phong trào sùng Phật hưng khởi, chùa Phật lớn nhỏ có đến hơn ba ngàn ngôi, phân bố khắp trong nội cảnh Vân Nam. Phật gia chú trọng duyên pháp, tin vào nhân quả, trong thành Đại Lý trên từ đế vương khanh tướng, dưới xuống bình dân bách tính, đều kết túc duyên sâu đậm với Phật. Trong hai mươi hai đời quốc vương Đoàn thị của nước Đại Lý, có chín vị hoàng đế từ bỏ hoàng vị, đến chùa Sùng Thánh xuất gia. Chúng ta cơ hồ có thể tưởng tượng được, Đại Lý khi đó gần như bị khói hương bao trùm, khắp nơi là Thiền vị từ bi thấm đẫm.
Tâm có bồ đề mới có thể giác ngộ nhân sinh. Tu Phật, tức tại tu tâm, không phải là tránh đời, không phải né trần, mà là vì siêu thoát cho bản thân, độ hóa cho muôn vàn chúng sinh. Ngước trông ba tháp, dưới bầu trời xanh, trong làn nước biếc, khiến lòng người chợt nảy sinh một cảm giác thanh tĩnh xa xôi và đầy sức sống. Dường như Đại Thiên thế giới, vạn vật ảo diệu, đều dung nạp trong đó. Trên thế gian này, không một độ cao nào có thể vượt qua nó; không một loại tâm tình nào có thể đuổi kịp nó.
Tháp chính của ba tòa tháp có một cái tên rất nặng tình, gọi là Thiên Tầm (nghĩa là: nghìn lần tìm kiếm). Không biết năm đó ai đã đặt một cái tên sinh động đến vậy cho bảo tháp, có thể là một vị cao tăng, có thể là một vị đế vương, hoặc có thể chỉ là một kiến trúc sư bình thường. Thiên Tầm, Thiên Tầm, không ai biết nội dung sâu sắc ký gửi đằng sau hai chữ Thiên Tầm là gì, có lẽ phải là một câu chuyện đầy xúc động. Chỉ là, qua mây nước nghìn năm, tên ngọn tháp này vẫn làm cảm động vô số người.
Ba tòa tháp của chùa Sùng Thánh có tạo hình tương tự với Đại Nhạn tháp, Tiểu Nhạn tháp ở Tây An, là kiến trúc mang phong cách đời Đường, dát vàng đỉnh tháp, thể hiện sự tôn quý và hoa lệ một cách rõ ràng. Ba ngọn tháp mạnh mẽ, vươn thẳng vào trời xanh, khí thế hùng hồn. Trên tầng mây, dường như đang có nghìn Phật tĩnh tọa đài sen, lặng ngắm phàm trần suy thịnh. Những người ngồi nhìn hai bờ của thời gian đó, năm năm tháng tháng, đã không biết đổi thay bao lần. Mà ba tòa bảo tháp trải qua ngàn năm mưa gió, vẫn nguy nga sừng sững. Không tìm kiếm nữa, không đợi chờ nữa, chỉ vì ở Phật quốc này, tu một đoạn duyên phận, độ một người qua đường, đổi lấy một khoảng mát lành. (3) Nhà ở của dân tộc Bạch ở Hỷ Châu
Nói đến dân tộc Bạch, rất nhiều người sẽ nghĩ tới bộ phim “Năm đóa kim hoa” nổi tiếng trong và ngoài nước, bộ phim này đã phô bày cho khán giả xem phong tục nhân tình của dân tộc Bạch giỏi ca múa, khiến những người chưa từng tới Đại Lý càng thêm phần ngưỡng mộ đối với văn hóa lịch sử mê hồn của tòa thành này. Những người đến đây càng nguyện ý trồng cho mình một cái cây, nhuộm một tấm vải, hái một cành hoa, chỉ vì muốn một ngày nào đó trong tương lai, có một lý do để mà nhung nhớ.
Hỷ Châu, một tiểu trấn tọa lạc giữa vùng non nước, giống như chốn đào nguyên thế ngoại, người biết đến nó có lẽ không nhiều. Nhưng dân cư Hỷ Châu lại đặc trưng cho phong cách của dân tộc Bạch ở thành Đại Lý, người đến Đại Lý nhất định sẽ tìm đến nơi này. Nó im lặng giữ gìn thời gian xa xưa của thị trấn, đợi chờ tri kỷ một đời trong duyên phận của mình.
Trời Hỷ Châu xanh ngăn ngắt, mây bay la đà, hễ bạn vươn tay ra là có thể hái được một áng mây bạn muốn. Nhà nhà ở Hỷ Châu đều có đình viện, họ trồng hy vọng trong sân, cày xới xuân thu, truyền ngày tháng thu hoạch lại cho đời sau. Đình viện nơi đây rất xưa cũ, gạch xanh ngói đen, và còn những bình phong, cửa sổ điêu khắc hoa văn tinh xảo, cho dù trầm lặng, nhưng không phút nào giây nào quên nói cho khách đến biết quá khứ xa xăm của tiểu trấn Hỷ Châu.
Phố cổ Hỷ Châu là một người già biết bao câu chuyện, đi ngang qua đó, những năm tháng lịch sử xa xôi ấy sẽ chậm rãi xuất hiện, dường như không cần xét đoán, cũng biết được câu chuyện đời này kiếp trước của Hỷ Châu. Cỏ cây, tường núi, lầu cửa, phường nhuộm nơi này, sẽ không hề mệt mỏi đem những ký ức đã cất giấu giao phó cho mỗi người đi tìm nó.
Người dân tộc Bạch chất phác, sống cuộc đời hạnh phúc nơi cổ trấn Hỷ Châu. Sự yên tĩnh, bình yên và cổ kính nơi đây khiến người ta cảm thấy thân thiết và yêu thích tự đáy lòng. Thời gian thật có tình, sẽ không vội vã trôi qua. Chúng ta có thể thong thả ngắm nhìn những người già trồng hoa chăm cỏ trong những khoảnh sân vườn, những bà mẹ rửa rau bên khe suối, những cô gái nhuộm vải trong phường vải, những đứa trẻ nô đùa bên góc tường. Cho đến khi sự xúc động trong trái tim dâng đầy đôi mắt, khoảnh khắc này, bạn cũng đã chìm vào những câu chuyện trăm năm của Hỷ Châu. Từ đây về sau, chỉ cần nhắc đến ký ức này, cho dù mê lạc nơi nào, đều có một bến đò dẫn dắt bạn lên bờ.
Có lẽ, chúng ta đều không phải là chủ nhân của nơi này, nhưng đời này đã định rằng sẽ có một đoạn tình duyên như bèo tụ. Ngỡ rằng năm tháng âm thầm thay đổi, quay người, hóa ra năm tháng vẫn nơi đây.
(4) Thành cổ Đại Lý
Ai cũng nói nói thành Đại Lý bốn mùa như xuân, có gió dịu nhẹ, có mây bảy màu, hoa cỏ xinh tươi và ánh dương trong sáng. Đến nơi này là có thể lãng quên giang hồ, vứt bỏ quá khứ rối rắm, chuyên tâm làm một người cuồng nhiệt yêu mến cuộc sống.
Đi qua tường thành cổ kính của Đại Lý, lịch sử của cả vương quốc Đại Lý như một cuốn sách không có chữ, khắc hết thảy nền văn hóa lâu dài vào bức tường cổ này. Đứng ở phía bên trong tường thành có thể thực sự chạm được vào mây khói yên tĩnh, sự mềm dịu tinh tế và cả sự dịu dàng ngày hôm qua của tòa thành này. Thành cổ Đại Lý mộc mạc cổ kính mà u tĩnh, hoa cỏ phủ kín khắp thành, nước suối trong vắt chảy róc rách. Người Đại Lý trồng rất nhiều loại hoa trong sân vườn nhà mình, sống cuộc sống chậm rãi. Hàng ngày, trên gương mặt mỗi người đều ánh lên nụ cười bình thản, thật lòng yêu mến cuộc sống của mình.
Đây là tòa thành mà người ta không nhẫn tâm phụ bạc, cũng không thể phụ bạc. Từ khi tỉnh dậy ban sớm, đón nhận tia nắng đầu tiên của thành cổ, là đã định trước bị tòa thành này cảm nhiễm. Nó không cần nghiêng thành vì bạn, chỉ cần dưới bầu trời Đại Lý, nói chuyện với một đóa mây trắng, uống một chén sương trong lành của trà hoa núi, đánh một ván cờ với một cụ già dưới bóng cây, hay nhặt một làn rau cùng cụ bà trong một khoảng sân. Một ngày bình dị được người Đại Lý ngâm trong ly trà, vẽ lên cửa sổ, nhuộm mài trong vải. Lúc hoàng hôn, tiểu thành thong thả lại càng yên tĩnh hơn trong sắc chiều. Những dây leo xanh thẫm leo trên tường luôn nhắc nhở chúng ta nhớ về một cuộc gặp gỡ không thể nào quên của nhiều năm về trước. Người trở về, ngửi thấy hương hoa, giẫm lên ánh tà dương như dát vàng, là đang tiễn biệt hoàng hôn, nghênh đón ánh trăng.
Đây là một tòa tiểu thành đắm chìm trong hồi ức, mỗi một phong cảnh của nó đều khiến thời gian muốn dừng bước, hoài cổ một cách dịu dàng với nó. Đã thấy phong hoa tuyết nguyệt, lại thấy Thiền Tâm Vân Thủy, hành trang của năm tháng đã ních đầy. Sân khấu của lịch sử, mỗi ngày đều đổi thay nhân vật, Đại Lý, nhất định còn có rất nhiều truyền kỳ mà người ta không biết. Những câu chuyện đó được cất giấu trong đóa mây bảy sắc, cất giấu trong đời sống vụn vặt, hết thảy đều gửi gắm cho ngày tháng, thưởng thức từng chút từng chút một.
Nếu như có thể, hãy để bản thân biến thành một chú bướm màu bay lượn bên Hồ Điệp, hoặc là một đóa mây trắng lướt qua tường thành, chuyên chở cuộc gặp gỡ và ly biệt này. Chỉ cần không bay qua Thương Sơn Nhĩ Hải, lúc vươn tay, chúng ta có thể chạm vào tòa thành tên là Đại Lý này, tòa thành cả đời chẳng thể nào quên.
Lệ Giang phong tình
Tôi không biết, Lệ Giang mà tôi đã tương ngộ trăm ngàn lần trong mộng, đến nay mới thấy rõ dung nhan thì nên coi là lần đầu gặp gỡ hay là trùng phùng. Non nước tao nhã, phong tục nồng đượm, còn mang một vẻ đẹp trước đây chưa từng thấy, dần dần thắm sắc rực rỡ trong sinh mạng. Đi trên những cây cầu nhỏ và những con phố đan xen nối liền, bạn sẽ cảm thấy bụi bặm của Lệ Giang đều là phong tình ý vị cả.
Cho dù bạn mang một cõi lòng bình tĩnh phẳng lặng thế nào, cũng sẽ bị cảm nhiễm bởi sự phong tình tràn ngập trong không khí, hương thơm chưng cất từ phong tục ngàn năm có thể thanh tẩy bạn thành “phong tư vạn chủng”. Khi tôi mang theo hành lý, một mình đặt chân tới Lệ Giang, tôi đã biết, suốt chặng đường sẽ có biết bao tình cảm quyến luyến với tôi như thế.
Có người nói, thời gian ở Lệ Giang là êm dịu nhất, nó có thể khiến thế tục cứng nhắc biến thành uyển chuyển nhẹ nhàng. Có người nói câu chuyện ở Lệ Giang là phong tình nhất, nó có thể khiến cuộc sống phẳng lặng thành rực rỡ tươi sáng. Thậm chí, có người nói non nước Lệ Giang có thể trị thương, nó có thể chữa lành vết sẹo của quá khứ, khiến trái tim bạn thấu triệt sáng rõ. Lệ Giang đúng là một nơi độc đáo đặc biệt của thiên nhiên, nằm trên cao nguyên Vân Quý xa xôi, coi sự dâu bể của Trà Mã cổ đại là nội dung chi tiết, lại lấy sự thanh khiết của Ngọc Long Tuyết Sơn làm bối cảnh, vừa chất phác lại vừa ý vị, phong tình mà không diễm lệ.
Năm tháng ở nơi này, chẳng qua chỉ như nước chảy, không một chút đổi thay. Vẻ đẹp rơi rớt lại nơi này từ trăm nghìn năm trước, trăm nghìn năm sau vẫn có thể tìm được. Dạo chơi giữa phong cảnh thiên nhiên của Lệ Giang, bất cứ một giây phút vô tình nào cũng sẽ khiến bạn lạc vào ký ức xa xôi, chìm đắm trong những chuyện cũ xa xưa và những tình cảm hoài niệm. Đây chính là Lệ Giang, khắc ghi trong trái tim mỗi người bằng phong thái thần kỳ và ý vị đặc biệt của mình, để những người đánh mất ngày hôm qua tìm được ngày hôm nay, lại khiến những người có được ngày hôm nay hướng về ngày mai.
Thành cổ giống như một câu chuyện chưa từng được mở ra, âm thầm đóng kín ở Lệ Giang bằng một gam màu và phong cách riêng. Trên tầng tầng lớp lớp ngói xanh lưu cữu bụi bặm của bao triều đại khác nhau, trong sự sâu lắng mang theo sự thuần túy, trong sự thuần túy lại hàm chứa sự nguyên thủy. Nơi đây chưa từng bị những tâm sự không tên xâm lấn, cũng chưa từng bị những tình cảm vô cớ lấn quấn, chỉ là giữa phong cảnh thuần phác vẫn giữ được một sự tùy ý mà tự nhiên, khoáng đạt mà cố chấp.
Đối với Lệ Giang, tôi cũng giống như tất cả mọi người, vừa lạ lẫm vừa quen thuộc tiến vào, đi tìm sự trầm tĩnh an nhiên giữa năm tháng phù hoa, theo đuổi sự thanh tao thoát tục giữa tục thế xô bồ. Trong những ngày đơn sơ nhàn nhã ở Lệ Giang, đến nỗi buồn rầu cũng trong sáng, bạn có thể xuyên qua sự mênh mông của thời gian để tìm lại bản thân chân thực của mình. Nơi đây sẽ khiến bạn quên đi những dĩ vãng mệt mỏi đó, cũng không cần lo lắng ngày tháng sẽ lặng lẽ trôi đi, bởi vì Lệ Giang bình lặng vĩnh hằng, cho dù mười năm nữa trôi qua, bạn vẫn có thể có được sự thuần túy và tươi đẹp của nó.
Phong cảnh sinh ra vì hiểu lòng người, nhưng phong cảnh của đường Tứ Phương lại sinh ra vì mỗi người khách qua đường bình thường. Cho dù bạn có thực sự hiểu được không, hay không hề biết gì, đều không quan trọng, nó sẽ dùng một tình ý giống nhau để lọt vào mắt bạn, mang lại cho bạn sự dịu dàng của ánh dương. Những con đường lát đá ngũ sắc bị năm tháng mài giũa trở nên sáng bóng, cho là ngày nắng hay là ngày mưa, đều mang lại cho người đi được một cảm giác mát rượi, yên bình. Những cửa tiệm tạp hóa hai bên đường bày đủ các sản vật của dân tộc Nạp Tây, cho dù là gỗ khắc hay vải nhuộm, chuông lạc đà hay trang sức bạc, đều mang lại cho bạn muôn vàn bất ngờ, vui sướng.
Mỗi một đồ vật đều níu giữ một tình cảm khó nói thành lời, dù bạn có dần dần đi xa, nhưng cũng đã từng có một cuộc tương phùng dịu dàng, gặp gỡ ở phía nam của mây màu, gặp gỡ ở Lệ Giang của thành cổ. Cắt một khoảng phong cảnh Nạp Tây đưa vào ký ức tuổi trẻ, hoặc hái vài đóa mây màu của Lệ Giang nhét vào hành lý của khách qua đường, nhiều năm về sau, bạn sẽ nhiều lần nhớ lại khoảnh khắc đẹp nhất cuộc đời đã từng có ở nơi đây. Khoảnh khắc này sẽ nhốt bạn trong chiếc gương của thời gian, nhìn thấy tất cả mọi vật bên ngoài thời gian, nhưng không thể bước ra ngoài.
Đi xuyên qua ngõ đá, bạn không cần đoán xem con đường nào sẽ dẫn đến phong cảnh tuyệt mỹ hơn, bởi vì bất cứ nơi nào cũng đều lưu giữ phong vận xưa cũ của Lệ Giang. Chỉ cần nhè nhẹ bước vào, là sẽ phải bất ngờ, ngạc nhiên. Mà cổ nhạc Nạp Tây chính là khúc tiên nhạc giữa chốn nhân gian, nó lạc trong giấc mộng của thành cổ, làm run rẩy sợi dây đàn trong trái tim mềm yếu của người qua đường. Văn hóa Nạp Tây đã khắc sâu phong cách cổ xưa mộc mạc vào từng mái ngói, khung cửa sổ của Lệ Giang, và từng ngõ ngách, cây cầu nơi đây.
Những bức bích họa thuần phác đơn sơ, đậm phong vận độc đáo và chữ viết Đông Ba [20], mang chút gì đó hoặc hào phóng, hoặc uyển chuyển, bộc lộ tính tình tự nhiên, ôn hòa của người Nạp Tây, cũng phô bày nền văn hóa nghệ thuật đa dạng phong phú, muôn hình vạn trạng của dân tộc này. Những chữ viết hình tượng nhìn tưởng chừng đơn giản tầm thường nhưng lại phức tạp hàm súc đó, khiến cho bạn nảy sinh một ảo tưởng vô hạn đối với phong tình tập quán của Nạp Tây. Mỗi một ký tự đều cần sự trầm tĩnh của tâm hồn, múa may theo những tư thế lả lướt của chúng, quay về với thời gian cổ xưa lúc ban đầu, vẫy gọi những tình tiết nồng đậm tận đáy sâu của lịch sử. Mỗi một hình ảnh đều giải thích cho những ý nghĩa sinh mệnh khác nhau, nếu bạn không thể tìm hiểu sâu, thì hãy coi nó là phong cảnh của Giang Nam, còn bạn chính là người ngắm cảnh đến từ phương xa đó. Quay người rời đi trong phút chốc, biết bao tình cảm quyến luyến mà bạn để lại, sẽ mang theo một đoạn ký ức không lời.
[20] Chữ viết Đông Ba: Một loại chữ viết tượng hình cổ, chủ yếu được sử dụng trong giáo phái Đông Ba, dùng để viết kinh văn, vì thế còn được gọi là Đông Ba văn. Sở dĩ có đoạn miêu tẻ, so sánh chữ Đông Ba với những điệu múa lả lướt ở phía sau là do tự dạng chữ Đông Ba không phải khối vuông, nhiều các nét tròn, cong, uốn lượn.
Mộng như chuông lạc đà kinh động trăng sáng, tâm như lá thu nhuộm đỏ núi xanh. Trong con ngõ cổ đang ngả bóng về chiều đó, loáng thoáng nghe thấy tiếng chuông ngựa tinh tang như gần như xa vẳng tới, đánh thức lòng ngưỡng mộ trăm mối chằng chịt đối với con đường cổ Trà Mã [21] của tôi. Đó là một con đường cổ – nơi ngưng tụ của văn minh Trà và Ngựa, những bầy ngựa lớn bôn ba trên cao nguyên đầy tuyết, tìm một con đường sinh tồn và con đường nhân sinh bằng tinh thần cương nghị quả cảm của chúng. Chúng đã từng vô số lần dừng chân ở tòa thành cổ Lệ Giang này, mang theo bụi trần xa lắc, lại lưu những dấu ấn của cuộc trường chinh.
[21] Đường cổ Trà Mã: Chỉ con đường lưu thông thương mại quốc tế dân gian, nằm ở khu vực Tây Nam Trung Quốc, dùng bầy ngựa làm phương tiện giao thông chủ yếu, là hành lang giao lưu văn hóa kinh tế dân tộc Tây Nam Trung Quốc.
Đứng trên ngã rẽ của ngõ cổ, nhìn về làn khói xanh mơ hồ phía xa xa, sàn đá trơn bóng đó không biết đã bị bao nhiêu dấu chân mài nhẵn mịn. Nơi đây như một con ngõ luân hồi, đi xuyên qua nó có thể tìm thấy kiếp trước, mà đi ra khỏi, lại có thể tìm về kiếp này. Đời này kiếp trước của Lệ Giang được rất nhiều người tìm kiếm không biết mệt mỏi, họ mang những câu chuyện buồn vui của bản thân đến đây, thanh thản rũ bỏ quá khứ, chỉ giữ lại một đoạn thời gian lặng lẽ này. Cho dù tương lai là dừng lại hay là cách xa, đều không còn quan trọng, chỉ vì ta đã từng có điều này. Rêu phong của năm tháng vẫn xanh thẫm như thuở ban đầu, Lệ Giang đêm nay có thể vẫn còn mộng ước. Tiếng tiêu hồ lô nhẹ nhàng bay bổng thổi đi thổi lại khúc “Trúc Quan Âm dưới ánh trăng [22]”, cùng ánh đèn dịu dàng trong sắc đêm hòa quyện, quấn quýt suy tư của bạn, làm si mê ý niệm của bạn, mê hoặc tình cảm của bạn. Cho dù vẫn còn những tâm sự khó có thể gác sang bên, nhưng ngắm dòng suối mát lành trong trẻo đã khiến bạn bình tĩnh trở lại.
[22] “Trúc Quan Âm dưới ánh trăng”: Một nhạc khúc của dân tộc Thái, tiêu hồ lô cũng là một nhạc cụ của dân tộc này.
Từng chiếc đèn hoa sen trong nước trôi dập dềnh giữa năm tháng tươi đẹp, kể lại từng câu chuyện cũ của thành Nam năm nào. Cây cầu nhỏ cổ kính, dòng nước cổ kính, phường trà cổ kính, đến quán bar cũng cổ kính, biết bao thứ cổ kính ấy xâu chuỗi với nhau, tạo thành một phong cảnh giữa màn đêm, thêu dệt nên những giấc mộng khác nhau trong lòng những người khác nhau. Chính những chiếc bóng của thời gian nhìn tưởng chừng đơn giản cổ lỗ này, lại mang đến sự phong tình thú vị vô tận cho những người tìm mộng. Tôi không biết kiếp trước mình đã đến đây hay chưa, mà sao hết thảy đều quen thuộc đến thế, quen thuộc đến mức giống như một cố nhân lâu ngày không gặp, không cần nói gì đã hiểu hết thảy chuyện cũ ngày qua của nàng, hiểu cả dung nhan ngày nay của nàng, và cũng hiểu cả hồi ức ngày mai của nàng.
Chắc chắn ở Lệ Giang còn có phong cảnh mà tôi chưa từng đến, nhưng thể nào vẫn có biết bao ánh mắt lưu luyến khiến tôi đau lòng, thể nào vẫn có những nụ cười mỉm ngọt ngào khiến tôi cảm động. Ở Lệ Giang, tôi không phải là người lần đầu mới tới, cũng không phải là người cuối cùng đặt chân đến. Rất nhiều năm về trước, có rất nhiều người trèo đèo lội suối kiếm tìm nó, và càng có nhiều người hơn nữa luôn nâng niu cất giữ nó bằng một thứ tình cảm sâu nặng.
Tôi từng nghĩ rằng sẽ dùng cuộc đời để khắc ghi, từ đây quên lãng giang hồ, già đi ở Lệ Giang. Nhưng hồng trần muôn vàn vẻ đẹp, rốt cuộc vẫn không có cách gì từ bỏ, đành lựa chọn ra đi như thế, ra đi trong bụi trần lơ lửng giữa ánh dương. Loáng thoáng nhớ rằng, Lệ Giang đã cầm một chén sương trong trong đóa sơn trà man mác tiễn biệt tôi lúc phân ly. Thế nhưng, đợi đến lúc tháng năm già đi, tôi nên lấy điều gì để nhớ về Lệ Giang của ngày hôm qua? Khung cảnh Nạp Tây đó, đóa mây trắng Lệ Giang đó, hoặc là những thứ khác, hay là điều gì cũng không phải?.
Tôi không biết, Lệ Giang mà tôi đã tương ngộ trăm ngàn lần trong mộng, đến nay mới thấy rõ dung nhan thì nên coi là lần đầu gặp gỡ hay là trùng phùng. Non nước tao nhã, phong tục nồng đượm, còn mang một vẻ đẹp trước đây chưa từng thấy, dần dần thắm sắc rực rỡ trong sinh mạng. Đi trên những cây cầu nhỏ và những con phố đan xen nối liền, bạn sẽ cảm thấy bụi bặm của Lệ Giang đều là phong tình ý vị cả.
Cho dù bạn mang một cõi lòng bình tĩnh phẳng lặng thế nào, cũng sẽ bị cảm nhiễm bởi sự phong tình tràn ngập trong không khí, hương thơm chưng cất từ phong tục ngàn năm có thể thanh tẩy bạn thành “phong tư vạn chủng”. Khi tôi mang theo hành lý, một mình đặt chân tới Lệ Giang, tôi đã biết, suốt chặng đường sẽ có biết bao tình cảm quyến luyến với tôi như thế.
Có người nói, thời gian ở Lệ Giang là êm dịu nhất, nó có thể khiến thế tục cứng nhắc biến thành uyển chuyển nhẹ nhàng. Có người nói câu chuyện ở Lệ Giang là phong tình nhất, nó có thể khiến cuộc sống phẳng lặng thành rực rỡ tươi sáng. Thậm chí, có người nói non nước Lệ Giang có thể trị thương, nó có thể chữa lành vết sẹo của quá khứ, khiến trái tim bạn thấu triệt sáng rõ. Lệ Giang đúng là một nơi độc đáo đặc biệt của thiên nhiên, nằm trên cao nguyên Vân Quý xa xôi, coi sự dâu bể của Trà Mã cổ đại là nội dung chi tiết, lại lấy sự thanh khiết của Ngọc Long Tuyết Sơn làm bối cảnh, vừa chất phác lại vừa ý vị, phong tình mà không diễm lệ.
Năm tháng ở nơi này, chẳng qua chỉ như nước chảy, không một chút đổi thay. Vẻ đẹp rơi rớt lại nơi này từ trăm nghìn năm trước, trăm nghìn năm sau vẫn có thể tìm được. Dạo chơi giữa phong cảnh thiên nhiên của Lệ Giang, bất cứ một giây phút vô tình nào cũng sẽ khiến bạn lạc vào ký ức xa xôi, chìm đắm trong những chuyện cũ xa xưa và những tình cảm hoài niệm. Đây chính là Lệ Giang, khắc ghi trong trái tim mỗi người bằng phong thái thần kỳ và ý vị đặc biệt của mình, để những người đánh mất ngày hôm qua tìm được ngày hôm nay, lại khiến những người có được ngày hôm nay hướng về ngày mai.
Thành cổ giống như một câu chuyện chưa từng được mở ra, âm thầm đóng kín ở Lệ Giang bằng một gam màu và phong cách riêng. Trên tầng tầng lớp lớp ngói xanh lưu cữu bụi bặm của bao triều đại khác nhau, trong sự sâu lắng mang theo sự thuần túy, trong sự thuần túy lại hàm chứa sự nguyên thủy. Nơi đây chưa từng bị những tâm sự không tên xâm lấn, cũng chưa từng bị những tình cảm vô cớ lấn quấn, chỉ là giữa phong cảnh thuần phác vẫn giữ được một sự tùy ý mà tự nhiên, khoáng đạt mà cố chấp.
Đối với Lệ Giang, tôi cũng giống như tất cả mọi người, vừa lạ lẫm vừa quen thuộc tiến vào, đi tìm sự trầm tĩnh an nhiên giữa năm tháng phù hoa, theo đuổi sự thanh tao thoát tục giữa tục thế xô bồ. Trong những ngày đơn sơ nhàn nhã ở Lệ Giang, đến nỗi buồn rầu cũng trong sáng, bạn có thể xuyên qua sự mênh mông của thời gian để tìm lại bản thân chân thực của mình. Nơi đây sẽ khiến bạn quên đi những dĩ vãng mệt mỏi đó, cũng không cần lo lắng ngày tháng sẽ lặng lẽ trôi đi, bởi vì Lệ Giang bình lặng vĩnh hằng, cho dù mười năm nữa trôi qua, bạn vẫn có thể có được sự thuần túy và tươi đẹp của nó.
Phong cảnh sinh ra vì hiểu lòng người, nhưng phong cảnh của đường Tứ Phương lại sinh ra vì mỗi người khách qua đường bình thường. Cho dù bạn có thực sự hiểu được không, hay không hề biết gì, đều không quan trọng, nó sẽ dùng một tình ý giống nhau để lọt vào mắt bạn, mang lại cho bạn sự dịu dàng của ánh dương. Những con đường lát đá ngũ sắc bị năm tháng mài giũa trở nên sáng bóng, cho là ngày nắng hay là ngày mưa, đều mang lại cho người đi được một cảm giác mát rượi, yên bình. Những cửa tiệm tạp hóa hai bên đường bày đủ các sản vật của dân tộc Nạp Tây, cho dù là gỗ khắc hay vải nhuộm, chuông lạc đà hay trang sức bạc, đều mang lại cho bạn muôn vàn bất ngờ, vui sướng.
Mỗi một đồ vật đều níu giữ một tình cảm khó nói thành lời, dù bạn có dần dần đi xa, nhưng cũng đã từng có một cuộc tương phùng dịu dàng, gặp gỡ ở phía nam của mây màu, gặp gỡ ở Lệ Giang của thành cổ. Cắt một khoảng phong cảnh Nạp Tây đưa vào ký ức tuổi trẻ, hoặc hái vài đóa mây màu của Lệ Giang nhét vào hành lý của khách qua đường, nhiều năm về sau, bạn sẽ nhiều lần nhớ lại khoảnh khắc đẹp nhất cuộc đời đã từng có ở nơi đây. Khoảnh khắc này sẽ nhốt bạn trong chiếc gương của thời gian, nhìn thấy tất cả mọi vật bên ngoài thời gian, nhưng không thể bước ra ngoài.
Đi xuyên qua ngõ đá, bạn không cần đoán xem con đường nào sẽ dẫn đến phong cảnh tuyệt mỹ hơn, bởi vì bất cứ nơi nào cũng đều lưu giữ phong vận xưa cũ của Lệ Giang. Chỉ cần nhè nhẹ bước vào, là sẽ phải bất ngờ, ngạc nhiên. Mà cổ nhạc Nạp Tây chính là khúc tiên nhạc giữa chốn nhân gian, nó lạc trong giấc mộng của thành cổ, làm run rẩy sợi dây đàn trong trái tim mềm yếu của người qua đường. Văn hóa Nạp Tây đã khắc sâu phong cách cổ xưa mộc mạc vào từng mái ngói, khung cửa sổ của Lệ Giang, và từng ngõ ngách, cây cầu nơi đây.
Những bức bích họa thuần phác đơn sơ, đậm phong vận độc đáo và chữ viết Đông Ba [20], mang chút gì đó hoặc hào phóng, hoặc uyển chuyển, bộc lộ tính tình tự nhiên, ôn hòa của người Nạp Tây, cũng phô bày nền văn hóa nghệ thuật đa dạng phong phú, muôn hình vạn trạng của dân tộc này. Những chữ viết hình tượng nhìn tưởng chừng đơn giản tầm thường nhưng lại phức tạp hàm súc đó, khiến cho bạn nảy sinh một ảo tưởng vô hạn đối với phong tình tập quán của Nạp Tây. Mỗi một ký tự đều cần sự trầm tĩnh của tâm hồn, múa may theo những tư thế lả lướt của chúng, quay về với thời gian cổ xưa lúc ban đầu, vẫy gọi những tình tiết nồng đậm tận đáy sâu của lịch sử. Mỗi một hình ảnh đều giải thích cho những ý nghĩa sinh mệnh khác nhau, nếu bạn không thể tìm hiểu sâu, thì hãy coi nó là phong cảnh của Giang Nam, còn bạn chính là người ngắm cảnh đến từ phương xa đó. Quay người rời đi trong phút chốc, biết bao tình cảm quyến luyến mà bạn để lại, sẽ mang theo một đoạn ký ức không lời.
[20] Chữ viết Đông Ba: Một loại chữ viết tượng hình cổ, chủ yếu được sử dụng trong giáo phái Đông Ba, dùng để viết kinh văn, vì thế còn được gọi là Đông Ba văn. Sở dĩ có đoạn miêu tẻ, so sánh chữ Đông Ba với những điệu múa lả lướt ở phía sau là do tự dạng chữ Đông Ba không phải khối vuông, nhiều các nét tròn, cong, uốn lượn.
Mộng như chuông lạc đà kinh động trăng sáng, tâm như lá thu nhuộm đỏ núi xanh. Trong con ngõ cổ đang ngả bóng về chiều đó, loáng thoáng nghe thấy tiếng chuông ngựa tinh tang như gần như xa vẳng tới, đánh thức lòng ngưỡng mộ trăm mối chằng chịt đối với con đường cổ Trà Mã [21] của tôi. Đó là một con đường cổ – nơi ngưng tụ của văn minh Trà và Ngựa, những bầy ngựa lớn bôn ba trên cao nguyên đầy tuyết, tìm một con đường sinh tồn và con đường nhân sinh bằng tinh thần cương nghị quả cảm của chúng. Chúng đã từng vô số lần dừng chân ở tòa thành cổ Lệ Giang này, mang theo bụi trần xa lắc, lại lưu những dấu ấn của cuộc trường chinh.
[21] Đường cổ Trà Mã: Chỉ con đường lưu thông thương mại quốc tế dân gian, nằm ở khu vực Tây Nam Trung Quốc, dùng bầy ngựa làm phương tiện giao thông chủ yếu, là hành lang giao lưu văn hóa kinh tế dân tộc Tây Nam Trung Quốc.
Đứng trên ngã rẽ của ngõ cổ, nhìn về làn khói xanh mơ hồ phía xa xa, sàn đá trơn bóng đó không biết đã bị bao nhiêu dấu chân mài nhẵn mịn. Nơi đây như một con ngõ luân hồi, đi xuyên qua nó có thể tìm thấy kiếp trước, mà đi ra khỏi, lại có thể tìm về kiếp này. Đời này kiếp trước của Lệ Giang được rất nhiều người tìm kiếm không biết mệt mỏi, họ mang những câu chuyện buồn vui của bản thân đến đây, thanh thản rũ bỏ quá khứ, chỉ giữ lại một đoạn thời gian lặng lẽ này. Cho dù tương lai là dừng lại hay là cách xa, đều không còn quan trọng, chỉ vì ta đã từng có điều này. Rêu phong của năm tháng vẫn xanh thẫm như thuở ban đầu, Lệ Giang đêm nay có thể vẫn còn mộng ước. Tiếng tiêu hồ lô nhẹ nhàng bay bổng thổi đi thổi lại khúc “Trúc Quan Âm dưới ánh trăng [22]”, cùng ánh đèn dịu dàng trong sắc đêm hòa quyện, quấn quýt suy tư của bạn, làm si mê ý niệm của bạn, mê hoặc tình cảm của bạn. Cho dù vẫn còn những tâm sự khó có thể gác sang bên, nhưng ngắm dòng suối mát lành trong trẻo đã khiến bạn bình tĩnh trở lại.
[22] “Trúc Quan Âm dưới ánh trăng”: Một nhạc khúc của dân tộc Thái, tiêu hồ lô cũng là một nhạc cụ của dân tộc này.
Từng chiếc đèn hoa sen trong nước trôi dập dềnh giữa năm tháng tươi đẹp, kể lại từng câu chuyện cũ của thành Nam năm nào. Cây cầu nhỏ cổ kính, dòng nước cổ kính, phường trà cổ kính, đến quán bar cũng cổ kính, biết bao thứ cổ kính ấy xâu chuỗi với nhau, tạo thành một phong cảnh giữa màn đêm, thêu dệt nên những giấc mộng khác nhau trong lòng những người khác nhau. Chính những chiếc bóng của thời gian nhìn tưởng chừng đơn giản cổ lỗ này, lại mang đến sự phong tình thú vị vô tận cho những người tìm mộng. Tôi không biết kiếp trước mình đã đến đây hay chưa, mà sao hết thảy đều quen thuộc đến thế, quen thuộc đến mức giống như một cố nhân lâu ngày không gặp, không cần nói gì đã hiểu hết thảy chuyện cũ ngày qua của nàng, hiểu cả dung nhan ngày nay của nàng, và cũng hiểu cả hồi ức ngày mai của nàng.
Chắc chắn ở Lệ Giang còn có phong cảnh mà tôi chưa từng đến, nhưng thể nào vẫn có biết bao ánh mắt lưu luyến khiến tôi đau lòng, thể nào vẫn có những nụ cười mỉm ngọt ngào khiến tôi cảm động. Ở Lệ Giang, tôi không phải là người lần đầu mới tới, cũng không phải là người cuối cùng đặt chân đến. Rất nhiều năm về trước, có rất nhiều người trèo đèo lội suối kiếm tìm nó, và càng có nhiều người hơn nữa luôn nâng niu cất giữ nó bằng một thứ tình cảm sâu nặng.
Tôi từng nghĩ rằng sẽ dùng cuộc đời để khắc ghi, từ đây quên lãng giang hồ, già đi ở Lệ Giang. Nhưng hồng trần muôn vàn vẻ đẹp, rốt cuộc vẫn không có cách gì từ bỏ, đành lựa chọn ra đi như thế, ra đi trong bụi trần lơ lửng giữa ánh dương. Loáng thoáng nhớ rằng, Lệ Giang đã cầm một chén sương trong trong đóa sơn trà man mác tiễn biệt tôi lúc phân ly. Thế nhưng, đợi đến lúc tháng năm già đi, tôi nên lấy điều gì để nhớ về Lệ Giang của ngày hôm qua? Khung cảnh Nạp Tây đó, đóa mây trắng Lệ Giang đó, hoặc là những thứ khác, hay là điều gì cũng không phải?.
Quyển thứ ba: Đạo tràng bồ đề
Chúng ta bước ra từ nơi hồng trần sâu thẳm nhất, băng qua ngàn non vạn nước; chỉ vì muốn đến kịp một cuộc ước hẹn của Thiền Phật. Chỉ vì ở bờ bên kia của cảnh xuân, ước chừng là phong cảnh hoa sen bừng nở. Núi xanh vạn dặm, nằm ngủ như Phật, vách đá giữ lời hẹn ước, cỏ cây có linh tính, thú điểu hiểu từ bi, vạn vật thế gian đều có Phật tính không thể nói ra. Cổ sát lâu đài ở chốn sâu rừng Thiền, là chốn về yên tĩnh cho những mây trôi chân trời, khách qua đường giữa nhân gian. Tại nơi này, có thể nhìn thấy những cao tăng tay chống thiền trượng, thong thả đến đi trong mây. Có thể nhìn thấy những khách dâng hương lưng đeo tay nải, dạo bước chầm chậm trên cổ đạo. Những biển biếc của ngày hâm qua, là nương dâu của ngày hôm nay; những ly tán của phút này, là tương phùng của ngày mai. Đạo Phật từ bi dạy chúng ta học cách buông bỏ, hiểu lòng cảm ân.
Phật quốc Phổ Đà
Sinh mệnh là một chuyến viễn hành mênh mang trong vắt, nhét những văn nhân và lịch sử vào tay nải, mang theo những tư tưởng và tình cảm ôn hòa, suốt dọc đường vừa vội vã hối hả rong ruổi, lại vừa nhàn nhã dạo bước, bốn mùa lưu chuyển, sương gió không hối hận. Khi lạnh lẽo đi tìm phồn hoa, trong hào quang đi tìm thanh đạm. Khi xa cách mong ước cuồng nhiệt, trong huyên náo ngưỡng mộ tĩnh lặng.
Ngày tháng bốn mùa, cảnh vật nhân gian đều chuyển tải khí vị tự nhiên của non nước, chứa đựng chân ý vô cùng của tuế nguyệt. Phong cảnh như một trạm dịch trên con đường nhân sinh, mỗi chuyến lưu đày đều giúp bạn đi từ tuổi trẻ tới trưởng thành, từ nông nổi tới sâu sắc, từ nóng vội tới trấn tĩnh. Một trạm này, đích đến là đạo tràng Quan Âm – núi Phổ Đà, nơi có Thiền cảnh bồ đề, được xưng tụng là Hải Thiên Phật Quốc.
Khi đến, không cần mang theo một trái tim tham Thiền ngộ đạo, gió nơi này sẽ tẩy sạch bụi trần cho bạn, cho dù bạn chỉ là xương cốt phàm tục, linh hồn cũng có thể trong sạch như hoa sen. Phóng tầm mắt ngắm nước xanh núi xa, đưa lại gần nhìn rừng Thiền bóng Phật, chỉ trong khoảnh khắc ngắn ngủi, nỗi buồn đau của ngày hôm qua đổi thành sự thông suốt của ngày hôm nay, những mê đắm của quá khứ đổi thành sự thức tỉnh của giờ khắc này. Đây chính là Phật quốc, là Thiền cảnh, bạn không cần thực sự truy tìm sự yên tĩnh, mà vẫn có thể cảm nhận được sự siêu phàm thoát tục của chùa miếu, bạn không cần cố ý học lòng khoan dung, mà vẫn có thể lĩnh ngộ sâu sắc sự từ bi của hoa sen.
Đi qua những con đường nhỏ của núi rừng, hàng tùng bách cổ thụ xanh biếc hai bên đường, vì đã nhuộm hương khói của Phật Đà nên cũng trầm ngâm như mang đầy Thiền ý. Tiếng chuông trống vang vọng, đánh thức những linh hồn còn đang lạc lối, Phạn âm chuốc say những tư tưởng vốn nóng vội, lúc này Phổ Tề thiền tự đã mở cánh cửa thâm nghiêm trang trọng chờ bạn, bày ra phong cảnh thanh tịnh vô trần, cũng kể cho bạn nghe câu chuyện gió mưa của trăm ngàn năm. Hoa sen trong đầm Hải Ấn mơ màng hé nở, dù là cô độc như nước, cũng mỉm cười mọc giữa lòng nước. Làm một đóa sen ngủ trước Phật là mong ước đời này của biết bao chúng sinh, ướp đẫm đàn hương cổ mộc, lặng nghe kinh kệ Phạn âm, bầu bạn với chuông sớm trống chiều, không cần nhập thế, không cầu danh vọng.
Bước vào điện Đại Viên Thông, khi bạn ngẩng đầu đối mặt với Quan Âm Bồ Tát trong điện, chỉ trong sát na, đã có thể khiến bạn tự tưởng tượng rằng, ngài kiên trì ngồi trên đài sen là để đợi bạn đến, đây là duyên phận không hẹn ước nhưng lại tương phùng, nên càng ghi nhớ khắc sâu. Trên hai vách tường đông tây có Bồ Tát đủ mọi hình dạng, được gọi là Quan Âm, dùng những thân phận khác nhau để giáo hóa thế nhân. Cho dù là một hạt bụi trần nhỏ nhoi, ngài cũng sẽ ban cho bạn sự thương xót và từ bi như thế, khiến cho Phật quang phổ chiếu đến sinh mệnh và linh hồn bé mọn của bạn.
Nếu nói vì muốn thắp nén nhang trên chùa Tuệ Tề nên mới leo lên núi Phật Đỉnh, chẳng thà nói là bị mê hoặc bởi mây mù trùng trùng trước mặt còn hơn. Ngọn núi Phật Đỉnh như ảo như mộng chìm trong biển mây mù khói, phảng phất như chốn non bồng tiên cảnh, sẽ khiến bạn không kìm được ham muốn đi xuyên qua biểu tượng của tầng mây đó, đến với chân thân của nó. Tự do giữa tầng mây, bước đi nhẹ nhàng, ảo cảnh thần kỳ như thế đủ để khiến bạn vứt bỏ hết thảy công lao và những thứ quý giá trên thế gian, cam tâm tình nguyện trả trước một đời để chìm đắm nơi này. Cho dù khi tỉnh lại, thế nhân đã đổi khác, biển biếc hóa nương dâu, cũng không hề hối hận.
Trong gió nhẹ mưa bụi, vừa hay trước mắt xuất hiện một họa quyển ngàn năm, tên của bức họa là: Đa thiểu lâu đài yên vũ trung (Biết bao lâu đài trong mưa khói). Đi qua núi rừng và biển mây trong bức họa, vô số lâu đài chùa miếu sẽ giải phóng hoàn toàn những kỳ ảo và Thiền ý, một cảm giác tinh khiết và ung dung hiện hữu khiến cho ta và sự vật cùng quên nhau. Mà lúc này, bạn sẽ tưởng tượng mình là một cao tăng đắc đạo, tay nắm thiền trượng, đi đi lại lại xuyên qua mây. Trong khoảnh khắc, bờ bên này là hoa sen tịnh thổ, bờ bên kia là hồng trần vạn trượng.
Đi trên đường vòng quanh co trong rừng, lắng nghe tiếng tiếng sóng lô xô, cảm tạ trời đất thuần túy, trong lúc hữu ý vô ý, không biết một phong cảnh nào đó lại có liên quan đến sinh mệnh. Cuộc gặp gỡ ở chùa Pháp Vũ chẳng phải là ngẫu nhiên, cũng không phải là tất nhiên, có lẽ bạn sẽ không dừng bước lại một cách nặng tình, nhưng nhất định không thể bỏ lỡ một cách hờ hững. Lầu gác trập trùng tọa lạc sâu tít trong mây, cảnh tượng cao xa, khí tượng phi phàm, bên trong đó chứa đựng muôn vàn tượng Phật, nghiêm trang diệu pháp.
Vân Thủy Thiền Tâm, nghìn năm lưu chuyển, có thuyết nói nơi này Quan Âm đã từng hiện thân, nơi này cao tăng Từ Hàng [1] đã từng phổ độ. Có người đến, rồi lại đi, chỉ là khách qua đường nơi chân trời. Có người đi, rồi lại về, làm người ở lại tự viện này. Gió nhẹ như nước, nơi đây không thích hợp để đối tửu trường ca, trăng sáng vô trần, nơi đây chỉ cho phép tĩnh tọa nghe Thiền. Rời đi theo con đường đã đến, kiếm tìm phong cảnh tươi sáng hơn ở phía trước, quá trình ngoái nhìn hàm chứa một phần của sự thức tỉnh, khiến bạn cảm thấy đời người như Thiền, càng dấn sâu càng cô độc, thế vị như trà, càng uống càng nhạt nhẽo.
[1] Cao tăng Từ Hàng hay đạo nhân Từ Hàng là một cách gọi khác của Quan Âm Bồ Tát.
Phong cảnh dừng lại, nhưng suy nghĩ vẫn chuyển động, cùng sóng bước với nó còn có đôi mắt, cả hai đều đang dõi tìm ở phía xa. Tượng đồng Nam Hải Quán Thế Âm dùng hào quang muôn trượng của người để lôi kéo và giữ lại linh hồn của chúng sinh, để bạn tiến lại gần ngài, với một lòng thành kính khôn xiết từ bấy lâu nay. Khoảng cách xa đến gần này, khiến bạn không dám lơ là chút nào, chỉ sợ chớp mi một cái, ngài sẽ quay người, đi lướt qua bạn. Cho đến khi bạn đứng dưới đài sen của ngài, ngước mắt nhìn ngài, cùng nghe thấy hơi thở của nhau, mới có thể thực sự an nhiên thanh thản.
Quá trình không lời ấy như mây trắng nhô trên đầu núi, tựa như hoa nở gặp Phật, khiến vạn vật thư thái, hương thầm lan toả. Không cần chùa miếu che chắn, không cần lầu gác trang hoàng, Nam Hải Quan Âm đứng giữa trời đất bao la, bình thản ung dung nhìn vạn vật phồn hoa, độ hóa cho hết thảy chúng sinh của Đại Thiên thế giới. Một lần gặp gỡ vậy thôi, dù tương lai vật đổi sao dời, cũng không thể quên ngài, dù sau này cách trở vạn nước ngàn non, bạn cũng chưa hề xa ngài. Cho dù nhân thế hỗn loạn khiến bạn xa rời yêu hận, xóa nhòa buồn vui, cái liếc mắt đầy thiện ý hiền từ của ngài, cũng đủ khiến bạn từ đây chỉ muốn tồn tại một cách thuần khiết, sống một cách từ bi.
Có cơn gió nhẹ thoảng qua thổi tà áo của người khách qua đường phơ phất, đó là một kiểu lôi kéo không lời. Chỉ nghe thấy tiếng lá tre xào xạc, dường như đang nhắc nhở bạn nơi này còn có một chốn thâm u không thể bỏ lỡ. Rừng Tử Trúc là nơi Quan Âm ngồi thiền tu luyện, mặc dù không thể tìm thấy tiên cốt thanh cao của ngài trong rừng trúc vi vu tiếng gió, nhưng lại có thể cảm nhận được bóng dáng vô hình huyền ảo của ngài tồn tại ở khắp mọi nới trong bầu không khí. Ngẩng đầu nhìn tầm biển gỗ bên trên viết “Bất khẳng khứ Quan Âm viện”, danh xưng khác biệt này gợi người ta nhớ đến nguồn gốc của nó.
Năm thứ hai niên hiệu Trinh Minh đời Hậu Lương, nhà sư người Nhật – Tuệ Ngạc rước tượng Quan Âm từ Ngũ Đài Sơn về nước, đi thuyền qua biển Phổ Đà gặp phải cản trở, cho rằng Bồ Tát không muốn đi về phía Đông bèn để lại pho tượng Phật bên bờ, sau có một cư dân họ Trương tiến cúng, xây dựng nên tòa “Bất khẳng khứ Quan Âm viện”. (Viện Quan Âm không chịu đi) Dạo quanh trong thiền viện vô trần, tâm cũng theo đó mà tĩnh tại, dường như một cây nhang cũng có thể thiêu đốt những năm tháng trôi xa, một chiếc mõ cũng có thể đánh thức thời gian tịch mịch, một quyển kinh cũng có thể thay đổi số mệnh đã định, một ống sáo trúc cũng có thể thổi tan lời thề hẹn non nước.
Tiếng chuông là một kiểu kêu gọi, cũng là một kiểu vẫy tay từ biệt, thời gian lúc này dường như không cho phép bạn dừng lại quá lâu, bất cứ sự lưu luyến nào cũng đều bị coi là phiền nhiễu. Đều nói năm tháng ngắn ngủi, nhìn lại quá khứ, rốt cuộc là thời gian đuổi bạn đi xa, hay bạn đã lướt qua ngày tháng? Có lẽ đức Phật cũng không thể cho bạn một đáp án chính xác, nếu quá khứ đã thành hồi ức, vậy hãy trân trọng tương lai, bởi vì tương lai ẩn chứa những thiền cơ sâu sắc hơn nữa. Núi Phổ Đà, bao nhiêu người từng đến nơi này, không kìm được ham muốn vứt bỏ hết ngày tháng của thế tục, lại có biết bao nhiêu người đến nơi này, vô tình quên lãng mọi phồn hoa của chốn đô thành. Mà hết thảy, đều có nhân quả, đều là số mệnh.
Duyên đến duyên đi như thủy triều lên xuống, lúc đến sóng xô trùng trùng, dào dạt vỗ bờ, khi đi biển biếc sóng xanh, trấn tĩnh ung dung. Một chuyến đi để chứng ngộ cho một lần vượt qua thử thách, một lần tìm kiếm trở thành một phần hoàn mỹ. Nhiều năm về sau, Phổ Đà trong ký ức là một bình rượu ngon được nút kín, không màu cũng không vị; là một khúc huyền ca lâm ly, không điệu cũng không âm; là một hạt bụi trần phiêu lãng, không đến cũng không về.
Nga My tươi đẹp Chặng đường nhân sinh của mỗi con người, đều là đi vào và ra khỏi trần thế, trong suốt chặng đường đó, người ta cảm nhận được sự ý vị nên thơ giữa trong và ngoài giấc mộng. Đi qua những ngõ ngách nhỏ hẹp của cuộc sống, vươn tới những không gian xa hơn, non xanh vạn dặm, sông dài trăm đời, gió mây vô cùng vô tận thu trọn trong
tầm mắt. Cảnh tượng của hiện tại hết thảy đều đổ bộ xuống núi Nga My - ngọn núi có danh xưng “Nga My thiên hạ tú”. Nga My [2], chỉ đọc hai từ này, ta đã cảm thấy như một nàng thiếu nữ thanh tao không vướng bụi trần, có hàng lông mày mềm mại, phong thái uyển chuyển, tự tại vụt qua trên ảo cảnh mênh mang sương khói, giữa đỉnh non cao trăng sáng như gương.
[2] Nga My: Lông mày của người đẹp.
Thời gian giống như một dòng chảy trong vắt, cuồn cuộn không ngừng; cảnh vật hưng thịnh một cách hân hoan, sinh sôi bất tận. Núi Nga My xa xôi, tựa như một miếng mỹ ngọc không tì vết khảm vào trời đất, tư thế tựa sen, tinh thần tựa Phật, xuyên qua lớp áo khăn mỏng mảnh của khách vãng lai, tới thẳng nơi sâu thẳm của linh hồn. Nhìn tầng không cao xa, sông núi vạn cổ, bạn sẽ thấu hiểu một cách sâu sắc, nhân sinh là một kiểu “xả thủ” (giữ lấy và từ bỏ), muốn có một thế gian thuần túy, tĩnh lặng như nước, thì phải từ bỏ ngũ vị [3] hồng trần, khói lửa nhân gian.
[3] Ngũ vị là cay, đắng, ngọt, mặn, chua, ngũ vị hồng trần để chỉ mọi trạng thái sướng khổ vui buồn của đời người.
Có người lưng đeo túi thơ, có người tay chống thiền trượng, có người vác cây cổ cầm, có người cầm thanh kiếm lẻ, bọn họ đi qua gió Đường mưa Tống, mang theo trần ai của trời Nam đất Bắc, cùng với hoàng hôn của mỗi ngày, trải hết gió sương mưa tuyết của mỗi mùa. Có sự sáng tỏ như Dương Xuân Bạch Tuyết, thấu triệt như Vân Thủy Thiền Tâm, cũng có sự lạnh mát như nước chảy hoa trôi, khoáng đạt như ân oán sòng phẳng. Tháng ngày đã qua đậu lại trên cơ thể, đến đến đi đi, đều là khách qua đường chốn nhân gian, chỉ có tiên cảnh Nga My này, Phật quang trên Kim Đỉnh, trước sau vẫn chưa từng thay đổi dung nhan của ngày hôm qua.
Chúng ta bước ra từ nơi hồng trần sâu thẳm nhất, băng qua ngàn non vạn nước; chỉ vì muốn đến kịp một cuộc ước hẹn của Thiền Phật. Chỉ vì ở bờ bên kia của cảnh xuân, ước chừng là phong cảnh hoa sen bừng nở. Núi xanh vạn dặm, nằm ngủ như Phật, vách đá giữ lời hẹn ước, cỏ cây có linh tính, thú điểu hiểu từ bi, vạn vật thế gian đều có Phật tính không thể nói ra. Cổ sát lâu đài ở chốn sâu rừng Thiền, là chốn về yên tĩnh cho những mây trôi chân trời, khách qua đường giữa nhân gian. Tại nơi này, có thể nhìn thấy những cao tăng tay chống thiền trượng, thong thả đến đi trong mây. Có thể nhìn thấy những khách dâng hương lưng đeo tay nải, dạo bước chầm chậm trên cổ đạo. Những biển biếc của ngày hâm qua, là nương dâu của ngày hôm nay; những ly tán của phút này, là tương phùng của ngày mai. Đạo Phật từ bi dạy chúng ta học cách buông bỏ, hiểu lòng cảm ân.
Phật quốc Phổ Đà
Sinh mệnh là một chuyến viễn hành mênh mang trong vắt, nhét những văn nhân và lịch sử vào tay nải, mang theo những tư tưởng và tình cảm ôn hòa, suốt dọc đường vừa vội vã hối hả rong ruổi, lại vừa nhàn nhã dạo bước, bốn mùa lưu chuyển, sương gió không hối hận. Khi lạnh lẽo đi tìm phồn hoa, trong hào quang đi tìm thanh đạm. Khi xa cách mong ước cuồng nhiệt, trong huyên náo ngưỡng mộ tĩnh lặng.
Ngày tháng bốn mùa, cảnh vật nhân gian đều chuyển tải khí vị tự nhiên của non nước, chứa đựng chân ý vô cùng của tuế nguyệt. Phong cảnh như một trạm dịch trên con đường nhân sinh, mỗi chuyến lưu đày đều giúp bạn đi từ tuổi trẻ tới trưởng thành, từ nông nổi tới sâu sắc, từ nóng vội tới trấn tĩnh. Một trạm này, đích đến là đạo tràng Quan Âm – núi Phổ Đà, nơi có Thiền cảnh bồ đề, được xưng tụng là Hải Thiên Phật Quốc.
Khi đến, không cần mang theo một trái tim tham Thiền ngộ đạo, gió nơi này sẽ tẩy sạch bụi trần cho bạn, cho dù bạn chỉ là xương cốt phàm tục, linh hồn cũng có thể trong sạch như hoa sen. Phóng tầm mắt ngắm nước xanh núi xa, đưa lại gần nhìn rừng Thiền bóng Phật, chỉ trong khoảnh khắc ngắn ngủi, nỗi buồn đau của ngày hôm qua đổi thành sự thông suốt của ngày hôm nay, những mê đắm của quá khứ đổi thành sự thức tỉnh của giờ khắc này. Đây chính là Phật quốc, là Thiền cảnh, bạn không cần thực sự truy tìm sự yên tĩnh, mà vẫn có thể cảm nhận được sự siêu phàm thoát tục của chùa miếu, bạn không cần cố ý học lòng khoan dung, mà vẫn có thể lĩnh ngộ sâu sắc sự từ bi của hoa sen.
Đi qua những con đường nhỏ của núi rừng, hàng tùng bách cổ thụ xanh biếc hai bên đường, vì đã nhuộm hương khói của Phật Đà nên cũng trầm ngâm như mang đầy Thiền ý. Tiếng chuông trống vang vọng, đánh thức những linh hồn còn đang lạc lối, Phạn âm chuốc say những tư tưởng vốn nóng vội, lúc này Phổ Tề thiền tự đã mở cánh cửa thâm nghiêm trang trọng chờ bạn, bày ra phong cảnh thanh tịnh vô trần, cũng kể cho bạn nghe câu chuyện gió mưa của trăm ngàn năm. Hoa sen trong đầm Hải Ấn mơ màng hé nở, dù là cô độc như nước, cũng mỉm cười mọc giữa lòng nước. Làm một đóa sen ngủ trước Phật là mong ước đời này của biết bao chúng sinh, ướp đẫm đàn hương cổ mộc, lặng nghe kinh kệ Phạn âm, bầu bạn với chuông sớm trống chiều, không cần nhập thế, không cầu danh vọng.
Bước vào điện Đại Viên Thông, khi bạn ngẩng đầu đối mặt với Quan Âm Bồ Tát trong điện, chỉ trong sát na, đã có thể khiến bạn tự tưởng tượng rằng, ngài kiên trì ngồi trên đài sen là để đợi bạn đến, đây là duyên phận không hẹn ước nhưng lại tương phùng, nên càng ghi nhớ khắc sâu. Trên hai vách tường đông tây có Bồ Tát đủ mọi hình dạng, được gọi là Quan Âm, dùng những thân phận khác nhau để giáo hóa thế nhân. Cho dù là một hạt bụi trần nhỏ nhoi, ngài cũng sẽ ban cho bạn sự thương xót và từ bi như thế, khiến cho Phật quang phổ chiếu đến sinh mệnh và linh hồn bé mọn của bạn.
Nếu nói vì muốn thắp nén nhang trên chùa Tuệ Tề nên mới leo lên núi Phật Đỉnh, chẳng thà nói là bị mê hoặc bởi mây mù trùng trùng trước mặt còn hơn. Ngọn núi Phật Đỉnh như ảo như mộng chìm trong biển mây mù khói, phảng phất như chốn non bồng tiên cảnh, sẽ khiến bạn không kìm được ham muốn đi xuyên qua biểu tượng của tầng mây đó, đến với chân thân của nó. Tự do giữa tầng mây, bước đi nhẹ nhàng, ảo cảnh thần kỳ như thế đủ để khiến bạn vứt bỏ hết thảy công lao và những thứ quý giá trên thế gian, cam tâm tình nguyện trả trước một đời để chìm đắm nơi này. Cho dù khi tỉnh lại, thế nhân đã đổi khác, biển biếc hóa nương dâu, cũng không hề hối hận.
Trong gió nhẹ mưa bụi, vừa hay trước mắt xuất hiện một họa quyển ngàn năm, tên của bức họa là: Đa thiểu lâu đài yên vũ trung (Biết bao lâu đài trong mưa khói). Đi qua núi rừng và biển mây trong bức họa, vô số lâu đài chùa miếu sẽ giải phóng hoàn toàn những kỳ ảo và Thiền ý, một cảm giác tinh khiết và ung dung hiện hữu khiến cho ta và sự vật cùng quên nhau. Mà lúc này, bạn sẽ tưởng tượng mình là một cao tăng đắc đạo, tay nắm thiền trượng, đi đi lại lại xuyên qua mây. Trong khoảnh khắc, bờ bên này là hoa sen tịnh thổ, bờ bên kia là hồng trần vạn trượng.
Đi trên đường vòng quanh co trong rừng, lắng nghe tiếng tiếng sóng lô xô, cảm tạ trời đất thuần túy, trong lúc hữu ý vô ý, không biết một phong cảnh nào đó lại có liên quan đến sinh mệnh. Cuộc gặp gỡ ở chùa Pháp Vũ chẳng phải là ngẫu nhiên, cũng không phải là tất nhiên, có lẽ bạn sẽ không dừng bước lại một cách nặng tình, nhưng nhất định không thể bỏ lỡ một cách hờ hững. Lầu gác trập trùng tọa lạc sâu tít trong mây, cảnh tượng cao xa, khí tượng phi phàm, bên trong đó chứa đựng muôn vàn tượng Phật, nghiêm trang diệu pháp.
Vân Thủy Thiền Tâm, nghìn năm lưu chuyển, có thuyết nói nơi này Quan Âm đã từng hiện thân, nơi này cao tăng Từ Hàng [1] đã từng phổ độ. Có người đến, rồi lại đi, chỉ là khách qua đường nơi chân trời. Có người đi, rồi lại về, làm người ở lại tự viện này. Gió nhẹ như nước, nơi đây không thích hợp để đối tửu trường ca, trăng sáng vô trần, nơi đây chỉ cho phép tĩnh tọa nghe Thiền. Rời đi theo con đường đã đến, kiếm tìm phong cảnh tươi sáng hơn ở phía trước, quá trình ngoái nhìn hàm chứa một phần của sự thức tỉnh, khiến bạn cảm thấy đời người như Thiền, càng dấn sâu càng cô độc, thế vị như trà, càng uống càng nhạt nhẽo.
[1] Cao tăng Từ Hàng hay đạo nhân Từ Hàng là một cách gọi khác của Quan Âm Bồ Tát.
Phong cảnh dừng lại, nhưng suy nghĩ vẫn chuyển động, cùng sóng bước với nó còn có đôi mắt, cả hai đều đang dõi tìm ở phía xa. Tượng đồng Nam Hải Quán Thế Âm dùng hào quang muôn trượng của người để lôi kéo và giữ lại linh hồn của chúng sinh, để bạn tiến lại gần ngài, với một lòng thành kính khôn xiết từ bấy lâu nay. Khoảng cách xa đến gần này, khiến bạn không dám lơ là chút nào, chỉ sợ chớp mi một cái, ngài sẽ quay người, đi lướt qua bạn. Cho đến khi bạn đứng dưới đài sen của ngài, ngước mắt nhìn ngài, cùng nghe thấy hơi thở của nhau, mới có thể thực sự an nhiên thanh thản.
Quá trình không lời ấy như mây trắng nhô trên đầu núi, tựa như hoa nở gặp Phật, khiến vạn vật thư thái, hương thầm lan toả. Không cần chùa miếu che chắn, không cần lầu gác trang hoàng, Nam Hải Quan Âm đứng giữa trời đất bao la, bình thản ung dung nhìn vạn vật phồn hoa, độ hóa cho hết thảy chúng sinh của Đại Thiên thế giới. Một lần gặp gỡ vậy thôi, dù tương lai vật đổi sao dời, cũng không thể quên ngài, dù sau này cách trở vạn nước ngàn non, bạn cũng chưa hề xa ngài. Cho dù nhân thế hỗn loạn khiến bạn xa rời yêu hận, xóa nhòa buồn vui, cái liếc mắt đầy thiện ý hiền từ của ngài, cũng đủ khiến bạn từ đây chỉ muốn tồn tại một cách thuần khiết, sống một cách từ bi.
Có cơn gió nhẹ thoảng qua thổi tà áo của người khách qua đường phơ phất, đó là một kiểu lôi kéo không lời. Chỉ nghe thấy tiếng lá tre xào xạc, dường như đang nhắc nhở bạn nơi này còn có một chốn thâm u không thể bỏ lỡ. Rừng Tử Trúc là nơi Quan Âm ngồi thiền tu luyện, mặc dù không thể tìm thấy tiên cốt thanh cao của ngài trong rừng trúc vi vu tiếng gió, nhưng lại có thể cảm nhận được bóng dáng vô hình huyền ảo của ngài tồn tại ở khắp mọi nới trong bầu không khí. Ngẩng đầu nhìn tầm biển gỗ bên trên viết “Bất khẳng khứ Quan Âm viện”, danh xưng khác biệt này gợi người ta nhớ đến nguồn gốc của nó.
Năm thứ hai niên hiệu Trinh Minh đời Hậu Lương, nhà sư người Nhật – Tuệ Ngạc rước tượng Quan Âm từ Ngũ Đài Sơn về nước, đi thuyền qua biển Phổ Đà gặp phải cản trở, cho rằng Bồ Tát không muốn đi về phía Đông bèn để lại pho tượng Phật bên bờ, sau có một cư dân họ Trương tiến cúng, xây dựng nên tòa “Bất khẳng khứ Quan Âm viện”. (Viện Quan Âm không chịu đi) Dạo quanh trong thiền viện vô trần, tâm cũng theo đó mà tĩnh tại, dường như một cây nhang cũng có thể thiêu đốt những năm tháng trôi xa, một chiếc mõ cũng có thể đánh thức thời gian tịch mịch, một quyển kinh cũng có thể thay đổi số mệnh đã định, một ống sáo trúc cũng có thể thổi tan lời thề hẹn non nước.
Tiếng chuông là một kiểu kêu gọi, cũng là một kiểu vẫy tay từ biệt, thời gian lúc này dường như không cho phép bạn dừng lại quá lâu, bất cứ sự lưu luyến nào cũng đều bị coi là phiền nhiễu. Đều nói năm tháng ngắn ngủi, nhìn lại quá khứ, rốt cuộc là thời gian đuổi bạn đi xa, hay bạn đã lướt qua ngày tháng? Có lẽ đức Phật cũng không thể cho bạn một đáp án chính xác, nếu quá khứ đã thành hồi ức, vậy hãy trân trọng tương lai, bởi vì tương lai ẩn chứa những thiền cơ sâu sắc hơn nữa. Núi Phổ Đà, bao nhiêu người từng đến nơi này, không kìm được ham muốn vứt bỏ hết ngày tháng của thế tục, lại có biết bao nhiêu người đến nơi này, vô tình quên lãng mọi phồn hoa của chốn đô thành. Mà hết thảy, đều có nhân quả, đều là số mệnh.
Duyên đến duyên đi như thủy triều lên xuống, lúc đến sóng xô trùng trùng, dào dạt vỗ bờ, khi đi biển biếc sóng xanh, trấn tĩnh ung dung. Một chuyến đi để chứng ngộ cho một lần vượt qua thử thách, một lần tìm kiếm trở thành một phần hoàn mỹ. Nhiều năm về sau, Phổ Đà trong ký ức là một bình rượu ngon được nút kín, không màu cũng không vị; là một khúc huyền ca lâm ly, không điệu cũng không âm; là một hạt bụi trần phiêu lãng, không đến cũng không về.
Nga My tươi đẹp Chặng đường nhân sinh của mỗi con người, đều là đi vào và ra khỏi trần thế, trong suốt chặng đường đó, người ta cảm nhận được sự ý vị nên thơ giữa trong và ngoài giấc mộng. Đi qua những ngõ ngách nhỏ hẹp của cuộc sống, vươn tới những không gian xa hơn, non xanh vạn dặm, sông dài trăm đời, gió mây vô cùng vô tận thu trọn trong
tầm mắt. Cảnh tượng của hiện tại hết thảy đều đổ bộ xuống núi Nga My - ngọn núi có danh xưng “Nga My thiên hạ tú”. Nga My [2], chỉ đọc hai từ này, ta đã cảm thấy như một nàng thiếu nữ thanh tao không vướng bụi trần, có hàng lông mày mềm mại, phong thái uyển chuyển, tự tại vụt qua trên ảo cảnh mênh mang sương khói, giữa đỉnh non cao trăng sáng như gương.
[2] Nga My: Lông mày của người đẹp.
Thời gian giống như một dòng chảy trong vắt, cuồn cuộn không ngừng; cảnh vật hưng thịnh một cách hân hoan, sinh sôi bất tận. Núi Nga My xa xôi, tựa như một miếng mỹ ngọc không tì vết khảm vào trời đất, tư thế tựa sen, tinh thần tựa Phật, xuyên qua lớp áo khăn mỏng mảnh của khách vãng lai, tới thẳng nơi sâu thẳm của linh hồn. Nhìn tầng không cao xa, sông núi vạn cổ, bạn sẽ thấu hiểu một cách sâu sắc, nhân sinh là một kiểu “xả thủ” (giữ lấy và từ bỏ), muốn có một thế gian thuần túy, tĩnh lặng như nước, thì phải từ bỏ ngũ vị [3] hồng trần, khói lửa nhân gian.
[3] Ngũ vị là cay, đắng, ngọt, mặn, chua, ngũ vị hồng trần để chỉ mọi trạng thái sướng khổ vui buồn của đời người.
Có người lưng đeo túi thơ, có người tay chống thiền trượng, có người vác cây cổ cầm, có người cầm thanh kiếm lẻ, bọn họ đi qua gió Đường mưa Tống, mang theo trần ai của trời Nam đất Bắc, cùng với hoàng hôn của mỗi ngày, trải hết gió sương mưa tuyết của mỗi mùa. Có sự sáng tỏ như Dương Xuân Bạch Tuyết, thấu triệt như Vân Thủy Thiền Tâm, cũng có sự lạnh mát như nước chảy hoa trôi, khoáng đạt như ân oán sòng phẳng. Tháng ngày đã qua đậu lại trên cơ thể, đến đến đi đi, đều là khách qua đường chốn nhân gian, chỉ có tiên cảnh Nga My này, Phật quang trên Kim Đỉnh, trước sau vẫn chưa từng thay đổi dung nhan của ngày hôm qua.
Cảnh thứ nhất: Phật quang
Kim Đỉnh
[Mặt trời mọc]
Ngắm mặt trời mọc, cũng như trong đêm đen đợi bình minh, khi hoa rụng chờ hoa nở, như sự lột xác của sâu bướm, từ thô mộc đi tới hoàn mỹ. Đứng trên bờ rộng rãi của cuộc đời, gió mát thổi bay những suy nghĩ mơ hồ trước đó, ngày tháng cũng vì Thế Âmà trở nên lâu dài, tĩnh mịch hơn. Mặt trời mọc đằng Đông, trời đất giao thoa, mấy ráng đỏ xen lẫn mấy đám mây màu viền vàng, lững lờ trôi trên màn trời màu xanh tím.
Trên đỉnh núi, một vầng mặt trời đỏ từ từ nhô cao, dần dần chuyển thành một mảnh khuyết nhỏ, rồi sang hình bán nguyệt, cuối cùng là tròn đầy, một cung độ hoàn mỹ, giống như một sự lãng mạn không lời lướt qua tâm hồn mềm yếu. Vọt lên cao trong khoảnh khắc, mang theo một vệt sáng rồi biến mất trong chớp mắt, vầng mặt trời đỏ chói lọi như khảm nơi chân trời, mộng ảo ban nãy cũng bị thức tỉnh hoàn toàn.
Ráng trời vạn trượng, toàn bộ núi Nga My tắm mình trong sắc vàng, hai dòng sông Thanh Y và Đại Độ phía xa trông như hai dải lụa trắng, bao quanh ngàn núi vạn non, là nơi phong cảnh hội tụ, cảm xúc giao thoa. Còn có Đại Tuyết sơn chập chùng liên miên, nằm nghiêng nghiêng trên đỉnh ngọn núi, bị ráng trời gọt giũa thành ngọc trắng khắc hoa, khí chất lóng lánh như ảo như mộng.
Mặt trời mọc trên Kim Đỉnh, mỗi ngày đều khác nhau, dù bạn có ngóng chờ đến mức hóa thành một pho tượng, cũng không thể nào bắt gặp những cảnh sắc giống nhau, vẻ đẹp của nó chính là vẻ đẹp muôn hình vạn trạng. Thực ra mặt trời mọc cũng giống như mặt trời lặn, chỉ vì sự khác biệt giữa ráng trời sớm ló dạng phương Đông và tịch dương chìm trong hoàng hôn, đã đem đến cho người ta một cảm giác đổi thay biển biếc hóa nương dâu. Tuy nói đời người ngắn ngủi, nếu bạn đánh mất ngày hôm qua, vẫn còn ngày hôm nay mới mẻ, cho dù bạn bỏ lỡ sớm nay, thì vẫn còn ngày mai tươi đẹp. Mặt trời mọc trên Kim Đỉnh vẫn bình tĩnh chờ đợi từng người, dù qua năm này tháng khác.
[Biển mây]
Đuổi theo biển mây cũng như đuổi theo một đoạn thời gian kiếp trước, chỉ cầu ý niệm, không hỏi nhân quả. Biển mây như sóng cả cuộn trào dần dần che lấp núi sông không còn dấu vết, vạn sự nhân gian cũng theo đó mà trở nên mơ hồ mông lung. Biển mây mênh mông phô bày cảnh tượng vô bờ vô bến, khi mờ mịt như chốn bồng lai tiên cảnh, khi sáng rõ lại như nước thu gió lạnh, khi cuồn cuộn tựa như vạn ngựa tung vó, khi rộng khắp tựa trời xanh biển biếc.
Đại Hùng bảo điện cũng bị bao trùm trong sương mù màu trắng, tuy không nhìn ra được sự trang nghiêm hùng vĩ của nó, nhưng có thể nghe thấy Phạn âm mà các Thiền sư ngâm tụng, tiếng ngâm xướng khẽ khàng ấy mang theo một sức mạnh vô hình, nó xuyên qua mây mù mờ mịt, đánh thức bạn giữa làn mây khói, để lại bước vào một Thiền cảnh khác. Còn có pho tượng Phật Thập Diện (Phật mười mặt) trước bảo điện, Phổ Hiền Bồ Tát cưỡi voi thần, như thể cưỡi mây trời giáng phàm, khi mây mù tan đi mới có thể nhìn thấy kim quang sáng lòa tỏa chiếu từ thân ngài, vô tư chiếu rọi khắp nẻo sơn hà.
Mây bóng lồng nhau, như thế giới huyền ảo Đại Thiên Như Lai, ngàn vạn vách đá hang đá ẩn hiện trong biển mây tựa như Phật Đà thiền tọa, Phật pháp mênh mông, bao la vô hạn. Chỉ khi bạn leo lên đỉnh Nga My tuyệt sắc này, nhìn hết vạn trạng mây khói, bạn mới hiểu rằng, hàng trăm nghìn năm qua, tại sao lại có biết bao nhiêu người cam tâm tình nguyện bỏ thân dưới vách đá, có lẽ họ không muốn thành tiên thành Phật mà chỉ không kìm nổi trước sự mê hoặc của sóng tuyết sóng mây, liền quả quyết bay qua mê cảnh của biển mây.
Biết rõ rằng một cú tung thân nhảy qua đó là kết thúc một đời người, nhưng vẫn lao đi không hề luyến tiếc, quyết liệt dứt bỏ chốn phù dung hoa lệ của thế gian, để đánh đổi lấy số phận dứt mộng trần ai. Không cần hỏi đây là đường mê hay lối về, bất cứ sự giải thích nào cũng đều trở nên nhỏ nhoi trước biển mây này. Trút bỏ hết thảy trang sức sẽ hiểu được rằng, có một loại vạn vật gọi là mênh mang, có một loại Phật pháp gọi là vô biên.
[Phật quang]
Yên lặng đợi Phật quang cũng như yên lặng chờ đợi một kỳ tích tươi sáng nhất của cuộc đời, không cần hẹn ước, cuối cùng vẫn tương phùng. Trên đỉnh Nga My, trên Kim Đỉnh, khi ánh dương và mây mù giao nhau, thường xuất hiện Phật quang lung linh bảy sắc cầu vồng. Trong kinh Phật có nói, Phật quang là ánh sáng phát ra từ giữa hai hàng lông mày của Phật Thích Ca Mâu Ni, giống như một đóa sen vàng, thanh khiết vô tư chiếu rọi vạn dặm càn khôn.
Vì thế, có khách hành hương như mây đi qua vạn nước nghìn non, mang theo tín ngưỡng mãnh liệt trèo núi cao, chỉ vì bị lây nhiễm sự huyền ảo rực rỡ của Phật quang vô biên đó. Trèo lên Kim Đỉnh, xuyên qua ánh dương lung linh và khói mù mờ mịt, nhìn thấy Phật quang bảy sắc, rực rỡ tỏa sáng, lại trong vắt như gương. Bóng sáng kỳ diệu khôn xiết đó phản chiếu lên người, ta đưa tay nhấc chân, bóng luôn theo hình. Càng thần kỳ hơn nữa là dù có hàng vạn người cùng chiêm ngưỡng, nhưng người xem cũng chỉ có thể nhìn thấy chiếc bóng của chính mình, mà không thấy bóng của người bên cạnh. Là sự huyền ảo mà tự nhiên ban tặng, nên mới có thể có được cảnh sắc mỹ lệ nhường này, những thước phim quyến rũ về non sông vô hạn ấy, khiến cho du khách đắm chìm trong chiếc bóng của chính mình, say đắm không thôi.
Phật quang treo lơ lửng trên Kim Đỉnh Nga Mv, nhẹ tựa dây leo, mộng như Nam Kha, mang ánh sáng đến cho người đang hoang mang, mang lại sự ấm áp cho người cô lẻ. Đây là ánh sáng của từ bi, là ánh sáng cứu vớt thế giới, cũng là ánh sáng may mắn, nó cười ngạo biển xanh, cứu độ hết thảy chúng sinh, kinh qua trăm đời, hóa thành nương dâu. Người ta nói, những người có duyên với Phật mới có thể nhìn thấy Phật quang, thực ra đức Phật nhân từ, Phật quang mang lại ánh sáng, hơi ấm cho tất cả vạn vật sinh linh, duyên sâu hay duyên mỏng, đều là ngộ tính của mỗi người.
Hồng trần ở bờ bên này, Phật giới ở bờ bên kia, giữa bờ bên này và bờ bên kia, chỉ cách nhau năm tháng như khói mây. Hai bên nhìn nhau, cùng trân trọng nhau, nhưng vĩnh viễn không thể bên cạnh nhau. Mà khoảng cách trở thành vẻ đẹp thiên cổ, khiến cho vô số thế nhân tới Nga My cũng chỉ vì sự từ bi của đài sen này. Đến đến đi đi, giống như Phật quang cảnh ảo, không cần chờ đợi gặp gỡ, cũng không cần sợ hãi ly biệt. Quay đầu nhìn lại đỉnh núi mênh mông, ánh Phật quang sáng lòa trên Kim Đỉnh đó, vẫn còn vì ai chiếu rọi một quãng thời gian như nước?
[Thánh đăng]
Truy tìm Thánh đăng (đèn Thánh) cũng như trong đêm tối tìm một con đom đóm, như ẩn như hiện, mù mịt khó nắm bắt. Thánh đăng và Phật quang tựa như sự thay đổi giữa ban ngày và ban đêm, nó mang theo sự thần thánh và thanh tịnh của Phật khiến cho khách qua đường chốn hồng trần phải truy tìm, nhưng nó lại chưa từng phụ bạc ai. Trong đêm đen gió lộng, xả thân dưới vách đá của Kim Đỉnh, bỗng thấy ánh sáng như đom đóm, từ vài đốm dần dần biến thành vô số, bồng bềnh giữa sơn cốc thâm u tĩnh mịch, lập lòe bất định. Đó chính là Thánh đăng, nó trôi nổi giữa những vách đá, uốn lượn không để lại bóng dáng, từng đốm sáng huỳnh quang mang lại cho người gặp cảm giác được tái sinh trong khốn cùng. Nó không giống như trăng sáng sao sớm, lửng lơ trên bầu trời thênh thang, cho dù bạn ở bất cứ đâu đều có thể nhìn thấy. Sự kỳ diệu của Thánh đăng nằm ở chỗ, nó như một giai nhân tuyệt sắc, thoắt ẩn thoắt hiện trong u cốc, duy chỉ có trên núi cao cheo leo hiểm trở, mới có thể tìm thấy dấu tiên, gặp được giai nhân.
Kim Đỉnh trên Nga My là nơi ngắm Thánh đăng đẹp nhất, từng đốm từng đốm lửa như sao băng vụt qua, xưa đi nay đến, lưu giữ biết bao linh hồn khi mờ khi tỏ của biết bao người xem. Chính vòng sáng của Thánh đăng, đã chiếu sáng sự u ám của bốn bề, khiến cho người đến thông suốt, người đi sáng tỏ; khiến người tụ lại trấn tĩnh, người ly tán ung dung. Có những người rong chơi giữa phong cảnh ban ngày, có những người say sưa giữa mộng cảnh ban đêm, cho dù là trong sáng hay là sâu sắc, đều có lý do để đam mê. Khi người tìm kiếm vội vã đi xa, dải thánh đăng sáng lập lòe ấy chờ đợi bình minh là vì ai?
Cảnh thứ hai: Chùa Vạn Niên
Cảnh ảo mây khói giăng tỏa được vén ra, một vùng trong sáng, cao xa của mùa thu nước trong leo lẻo gió mát hiu hiu hiện lên trong tầm mắt. Trước trời cao mây thu, nước trắn bên hồ, chùa Vạn Niên đã trải qua nghìn năm, không màng nhân quả, chẳng can số mệnh. Đi qua ngày hôm qua đầy ắp tiếng suối chảy róc rách, theo từng câu chuyện cũ lá phong nhuộm đỏ, đứng trước cánh cửa trang nghiêm của ngôi chùa cổ, ngắm màn khói lửa thời Tấn, nghe Phạn âm triều Tống, tìm bóng dáng thời Minh.
Bước vào tòa minh điện xây bằng gạch không có cột kèo, quan sát tòa kiến trúc thần kỳ này, những lớp hoa văn trang trí trang nhã trên tường làm tôn lên vẻ tĩnh mịch, trang nghiêm của Phật điện. Không cần tìm kiếm, đã thấy ngay tượng Phổ Hiền Bồ Tát cưỡi voi trắng đang nghiêm trang nhìn bạn, trên đầu ngài đội mũ vàng Ngũ Phật, tay cầm như ý, tư thế trọn vẹn, thần thái sinh động. Con voi trắng sáu ngà mà ngài cưỡi khí thế hùng hồn, gánh vác sứ mệnh, đứng trên đài sen, đã trở thành tượng trưng cho Phổ Hiền Bồ Tát. Họ (tượng bồ tát và voi trắng) bảo vệ cho lầu gác điện đài của chùa Vạn Niên, bảo vệ cho cảnh non xanh nước biếc của Nga My, có lẽ họ dễ dàng bị người đời quên lãng, nhưng cũng dễ dàng được người đời nhớ ra.
Mây trắng nhẹ bay, nước thu trong vắt, nơi đây từng có tăng nhân đời Đường gẩy đàn cho thi tiên Lý Bạch nghe, Lý Bạch cũng từng làm bài thơ “Thính Thục tăng Tuấn đàn cầm” (Nghe nhà sư Tuấn của đất Thục gẩy đàn), thơ rằng: “Thục tăng bão lục y, tứ hạ Nga My phong. Vị ngã nhất huy thủ, như thính vạn hác tùng. Khách tâm tẩy lưu thủy, dư hướng nhập sương chung. Bất giác bích hải mộ, thu vân ám kỷ trùng.” (Trần Trọng Kim dịch thơ: Nhà sư ôm một cây đàn, từ Nga My xuống đi sang nơi này. Vì ta một bận vẫy tay, dường như muôn suối vang đầy tiếng thông. Nước tôi rửa sạch cõi lòng, dư âm hòa lặn tiếng chuông sương mờ. Núi xanh chiều xuống không ngờ, tối tăm bốn phía mây thu trập trùng) Nghe nói trong đầm Bạch Thủy còn sinh ra một loại ếch tinh khôn biết chơi đàn, khi du khách tới, chúng thường phát ra những tiếng kêu vui tai, tựa như tiếng đàn réo rắt du dương, tuyệt diệu không thể nào tả xiết. Chuông đồng treo trên góc thềm đung đưa vang lên những tiếng tính tang trong trẻo tựa thời gian trôi, luôn có những người đứng trước lò hương đồng lốm đốm vết han gỉ nhớ lại sự phồn thịnh của những ngày đã qua. Lúc ấy không nghe thấy tiếng đàn, mà dường như nghe thấy tiếng ếch kêu, âm điệu như nước chảy mây thu ấy liệu có đang vang lên ở một nơi khác, hoặc chỉ có người phong nhã mới có thể nghe thấy âm thanh tuyệt diệu năm đó? Do nhuốm màu hương khói, nên ngói lợp ngả sang màu đen sậm; do Phạn âm ngâm nga, nên lầu gác thanh đạm như được tẩy rửa. Một tầng cửa lớn, mấy cánh cửa sổ, thấp thoáng bóng dáng người xưa, chỉ có tiếng thở dài của người nay là hiện hữu. Dường như những người đến đến đi đi đều thích tìm kiếm những được mất của bản thân, thực ra giữa được và mất, giữa đến và đi, có quá nhiều vướng mắc không thể giải thích rõ. Đi vào trong ngưỡng cửa, vướng mắc cũng kết thành một kiểu Thiền ý giác ngộ, nhưng ra khỏi ngưỡng cửa, vướng mắc đã trở thành một kiểu truy tìm vô nghĩa.
Cảnh thứ ba: Gác Thanh m
Nếu như nói Thanh Sơn là một chiếc áo xanh vắt ngang núi Nga My, vậy thì Bích Thủy là viên ngọc phỉ thúy treo lơ lửng trước ngực Nga My. Vào trong gác Thanh m, khi bạn vẫn chưa hết nỗi mệt mỏi trong chặng hành trình, thì gió nhẹ trên đường núi, nước chảy giữa suối khe đã âm thầm xâm lấn trái tim bạn, thời khắc ấy, đến gió bụi phong trần cũng trở nên tinh khiết.
“Hà tất ti dữ trúc, sơn thủy hữu thanh âm.” (Dịch nghĩa: Hà tất cần đến tơ và trúc, non nước vốn cũng có thanh âm) Gác Thanh âm được đặt tên theo câu thơ này, âm thanh thiên nhiên của non và nước còn tuyệt diệu hơn cả âm điệu réo rắt của đàn sáo. Phong cảnh nơi này sáng sủa như đã từng được gió núi tẩy rửa, thanh tịnh như đã được nước suối ngâm sâu. Nó không vì bạn vô tình lạc bước mà nảy sinh những trần ai buồn thảm, nó có thể tô điểm cho vô số mộng cảnh Thiền ý của khách qua đường, mà những du khách đến đây đều không thể nào cất giữ nổi khoảnh khắc nó trôi qua.
Gác Thanh âm cũng được gọi là chùa Ngọa Vân, cái tên này liên quan đến sự tích Thiền sư Thông Tuệ xây dựng chùa vào năm Càn Phù thứ tư đời Đường Hy Tông. Dưới gác có hai cây cầu, giữa hai cây cầu là một ngôi phi đình sừng sững tọa lạc, hai dòng suối Hắc – Bạch trong vắt chảy qua dưới chân cầu, sóng trắng tuôn trào, vỗ ùa vào những tảng đá lớn hình dáng như tim trâu trong đầm Bích Đàm. Đá tim trâu bị dòng nước mài mòn bóng loáng như gương, dường như soi thấy cả ngày tháng của hàng triệu năm về trước, nó đứng đó trải qua những tụ tan của bèo trôi, nhìn quen những cảnh quan lướt qua, tâm trạng vẫn ung dung bình thản như dòng nước suối.
Sóng cả xô đá, hất tung bọt sóng như ngọc vỡ, thanh âm róc rách, tựa như cổ cầm tấu khúc, lúc thì trong trẻo, lúc thì trầm ngâm, lúc lại du dương, lúc lại sang sảng. Vào đêm trăng thanh gió mát, vào lúc vạn vật tĩnh lặng, tiếng nước trong trẻo văng vẳng giữa rừng sâu sơn cốc, toàn bộ gác Thanh âm chìm trong khung cảnh siêu trần thoát tục. Cao tăng các đời và vô số lữ khách từng ngồi trên đài Tẩy Tâm trước đầm nước, lắng nghe thanh âm trong trẻo của nước chảy, tâm như hoa sen, kiên trì gìn giữ vẻ đẹp thuần túy thanh tịnh.
Phật Tổ vô cùng sáng suốt, khi bạn muốn bước hẳn vào trong, người sẽ cách xa bạn một khoảng vừa phải. Khi bạn định đi ra ngoài, người lại nhẹ nhàng giữ chân bạn lại. Gác Thanh âm là nơi lưu giấu linh hồn, mỗi một người đến đây đều nguyện ý gửi những năm tháng tuổi trẻ vào trong tháng ngày tĩnh lặng này, cho dù phải để lại một nửa thời thanh xuân, cũng không thay lòng đổi ý.
Khi bước chân truy tìm dừng lại ở điểm khởi đầu mới, điều không thể quên được chính là tình cảm của quá khứ. Nhìn lại gác Thanh m, nhớ lại phong cảnh sắp nhạt nhòa, tháng năm rồi sẽ già đi, ai sẽ là người hối hận, vì đã từng có một khoảng đời được bồ đề thanh tẩy như thế?
Cảnh thứ tư: Nhất Tuyến Thiên
Đi qua khung cảnh non nước trập trùng, có một đoạn đường khói bụi, chính là con đường thông với khe Bạch Vân (Bạch Vân giáp). Bên ngoài khe núi quang đãng sáng sủa, tầm nhìn hút mắt, bên trong khe núi mát mẻ thâm u, khúc khuỷu quanh co. Bước vào trong khe, ngẩng đầu nhìn Nhất Tuyến Thiên (một dải trời) trên đỉnh núi cheo leo, cảnh tượng ấy giống như một tòa núi lớn nguy nga chọc trời, lại bị năm tháng sắc bén như đao chém xuống, cắt thành những bức tường vỡ vụn, thưa thớt xiêu vẹo, mới để lộ một dải trời xanh biếc. Khung cảnh đặc biệt do thiên nhiên tạo nên ấy mang tới cho con người một đoạn đường nguy hiểm cùng một luồng tư tưởng khoáng đạt vô biên.
Thời gian vụt qua, mở ra những nội dung mà núi non đã đóng kín, giải phóng sự hoa lệ của ngàn đời. Để người lữ hành bước vào không gian nhỏ hẹp này cảm nhận được sự kỳ diệu của thế giới trong cốc, cho dù đây là một hành trình cực kỳ nguy hiểm, nhưng vẫn có rất nhiều người tình nguyện đi từ chốn trời cao đất rộng đến chỗ đường hẹp quanh co, để lưu lại những ấn tượng hoành tráng, hoàn mỹ trong cuộc đời.
Bước qua con đường núi vòng vèo, gió mát rười rượi như từ thời viễn cổ thổi về, khe khẽ kéo tay nải của bạn, làm lay động vạt áp bạn. Dòng suối ào ạt chẳng dứt, chảy men theo sơn đạo quanh co, lượn lờ xoáy vòng, một dòng nước nhỏ chảy theo hai bờ vách núi, uốn cong linh hoạt, cảnh tượng thanh tĩnh u nghiêm. Những hòn đá cuội như châu như ngọc nằm im dưới lòng hồ sâu, xanh đỏ trắng đen, đẹp lung linh trong ánh sáng vỡ vụn dưới lòng nước.
Ở nơi này, ánh sáng mặt trời chỉ nhàn nhạt, nó chiếu xuyên qua giếng trời Nhất Tuyến Thiên, rọi tới tận những góc nhỏ ẩm ướt xanh rêu, nhưng nó không biết cử động đa tình ấy lại khiến sự tĩnh lặng và mát mẻ chỉ có trong sơn cốc lặng lẽ bốc hoi. Gặp nghịch cảnh mới tỏ rõ bản sắc anh hùng, ở trong khe cốc mới biết càn khôn rộng lớn, mọi tranh giành danh lợi chốn thế gian chẳng qua cũng chỉ là một đoạn nhạc nền trong cuộc phong vân biến ảo lớn lao mà thôi.
Hy vọng sẽ được tái sinh sau khi tuyệt diệt, khi bạn vượt qua cảnh ngộ khốn khó, tư tưởng của bạn sẽ phá vỡ mọi xiềng xích giam cầm của số mệnh, kỳ tích trong mơ há phải đâu là xa xôi? Ở nơi sơn cốc không thấy bầu trời này, ở chốn thâm u ẩn chứa gió mây này, sau cơn im ắng, nhờ có đôi cánh tinh thần, những người tìm kiếm sẽ xuyên thủng tầng mây, lẩn nữa thưởng thức muôn vàn khí tượng, sự lãng mạn của núi sông trên thế gian.
Dù bạn có muốn cất giữ mỗi một hình bóng sinh động của Nga My đến đâu, nhưng đời người luôn có rất nhiều phong cảnh mà bạn không thể nào ngắm hết. Hiện thực sẽ dẫn bạn ra khỏi mộng cảnh mơ hồ, hoa sen trong tâm bung nở cánh hoa cuối cùng, những kẽ hở của tư duy cũng nhân đó nuốt trọn mùi hương thoang thoảng còn sót lại. Và tay nải nặng trĩu trên vai đang nhìn bạn khoan thai đi khỏi thánh cảnh Phật quốc. Có nhiều khi, bạn ngỡ rằng mình đang đến rất gần Phật, nhưng thực ra bạn vẫn chỉ là một khách qua đường của hồng trần đứng bên ngoài ngưỡng cửa, mà khoảnh khắc đi lướt qua đó đã ngoái lại nhìn. Khi bạn thực sự giác ngộ được Thiền, sinh mệnh cũng thấu triệt, cho dù chỉ là một đóa sen trước Phật cũng có phong vận riêng của nó, bởi vì nó đã hấp thu được sự từ bi mênh mông của Phật giới.
Khói bụi phiêu lãng, gió mây cuộn trào, bước chân vội vã của người tìm kiếm nay đã khoan thai chậm rãi bên rìa Nga My. Rốt cuộc là tháng ngày của nơi đây đã ghìm chân bạn lại, hay là bạn bị kẹt trong ngày tháng này? Nếu không phải thế, tại sao cảnh non xanh nước biếc xa dần vẫn còn quẩn quanh trước mắt; nếu không phải thế, tại sao tiếng tụng kinh gõ mõ sớm đã tan đi vẫn còn văng vẳng bên tai?
Núi Nga My, người trao cảnh sắc tuyệt mỹ nhất thiên hạ cho người khách qua đường vội vã, mà người khách qua đường như nước chảy mây trôi ấy, sẽ để lại những gì cho người? Đây đức Phật từ bi, khi người đối mặt với xiết bao buồn vui tan hợp, tại sao vẫn có thể bình thản trấn định đến thế? Có lẽ, những người khách qua đường ly biệt trong bối cảnh không lời ấy, có một ngày bỗng nhớ ra, đã có một cây bồ đề trong quá khứ, gọi là Nga My.
[Mặt trời mọc]
Ngắm mặt trời mọc, cũng như trong đêm đen đợi bình minh, khi hoa rụng chờ hoa nở, như sự lột xác của sâu bướm, từ thô mộc đi tới hoàn mỹ. Đứng trên bờ rộng rãi của cuộc đời, gió mát thổi bay những suy nghĩ mơ hồ trước đó, ngày tháng cũng vì Thế Âmà trở nên lâu dài, tĩnh mịch hơn. Mặt trời mọc đằng Đông, trời đất giao thoa, mấy ráng đỏ xen lẫn mấy đám mây màu viền vàng, lững lờ trôi trên màn trời màu xanh tím.
Trên đỉnh núi, một vầng mặt trời đỏ từ từ nhô cao, dần dần chuyển thành một mảnh khuyết nhỏ, rồi sang hình bán nguyệt, cuối cùng là tròn đầy, một cung độ hoàn mỹ, giống như một sự lãng mạn không lời lướt qua tâm hồn mềm yếu. Vọt lên cao trong khoảnh khắc, mang theo một vệt sáng rồi biến mất trong chớp mắt, vầng mặt trời đỏ chói lọi như khảm nơi chân trời, mộng ảo ban nãy cũng bị thức tỉnh hoàn toàn.
Ráng trời vạn trượng, toàn bộ núi Nga My tắm mình trong sắc vàng, hai dòng sông Thanh Y và Đại Độ phía xa trông như hai dải lụa trắng, bao quanh ngàn núi vạn non, là nơi phong cảnh hội tụ, cảm xúc giao thoa. Còn có Đại Tuyết sơn chập chùng liên miên, nằm nghiêng nghiêng trên đỉnh ngọn núi, bị ráng trời gọt giũa thành ngọc trắng khắc hoa, khí chất lóng lánh như ảo như mộng.
Mặt trời mọc trên Kim Đỉnh, mỗi ngày đều khác nhau, dù bạn có ngóng chờ đến mức hóa thành một pho tượng, cũng không thể nào bắt gặp những cảnh sắc giống nhau, vẻ đẹp của nó chính là vẻ đẹp muôn hình vạn trạng. Thực ra mặt trời mọc cũng giống như mặt trời lặn, chỉ vì sự khác biệt giữa ráng trời sớm ló dạng phương Đông và tịch dương chìm trong hoàng hôn, đã đem đến cho người ta một cảm giác đổi thay biển biếc hóa nương dâu. Tuy nói đời người ngắn ngủi, nếu bạn đánh mất ngày hôm qua, vẫn còn ngày hôm nay mới mẻ, cho dù bạn bỏ lỡ sớm nay, thì vẫn còn ngày mai tươi đẹp. Mặt trời mọc trên Kim Đỉnh vẫn bình tĩnh chờ đợi từng người, dù qua năm này tháng khác.
[Biển mây]
Đuổi theo biển mây cũng như đuổi theo một đoạn thời gian kiếp trước, chỉ cầu ý niệm, không hỏi nhân quả. Biển mây như sóng cả cuộn trào dần dần che lấp núi sông không còn dấu vết, vạn sự nhân gian cũng theo đó mà trở nên mơ hồ mông lung. Biển mây mênh mông phô bày cảnh tượng vô bờ vô bến, khi mờ mịt như chốn bồng lai tiên cảnh, khi sáng rõ lại như nước thu gió lạnh, khi cuồn cuộn tựa như vạn ngựa tung vó, khi rộng khắp tựa trời xanh biển biếc.
Đại Hùng bảo điện cũng bị bao trùm trong sương mù màu trắng, tuy không nhìn ra được sự trang nghiêm hùng vĩ của nó, nhưng có thể nghe thấy Phạn âm mà các Thiền sư ngâm tụng, tiếng ngâm xướng khẽ khàng ấy mang theo một sức mạnh vô hình, nó xuyên qua mây mù mờ mịt, đánh thức bạn giữa làn mây khói, để lại bước vào một Thiền cảnh khác. Còn có pho tượng Phật Thập Diện (Phật mười mặt) trước bảo điện, Phổ Hiền Bồ Tát cưỡi voi thần, như thể cưỡi mây trời giáng phàm, khi mây mù tan đi mới có thể nhìn thấy kim quang sáng lòa tỏa chiếu từ thân ngài, vô tư chiếu rọi khắp nẻo sơn hà.
Mây bóng lồng nhau, như thế giới huyền ảo Đại Thiên Như Lai, ngàn vạn vách đá hang đá ẩn hiện trong biển mây tựa như Phật Đà thiền tọa, Phật pháp mênh mông, bao la vô hạn. Chỉ khi bạn leo lên đỉnh Nga My tuyệt sắc này, nhìn hết vạn trạng mây khói, bạn mới hiểu rằng, hàng trăm nghìn năm qua, tại sao lại có biết bao nhiêu người cam tâm tình nguyện bỏ thân dưới vách đá, có lẽ họ không muốn thành tiên thành Phật mà chỉ không kìm nổi trước sự mê hoặc của sóng tuyết sóng mây, liền quả quyết bay qua mê cảnh của biển mây.
Biết rõ rằng một cú tung thân nhảy qua đó là kết thúc một đời người, nhưng vẫn lao đi không hề luyến tiếc, quyết liệt dứt bỏ chốn phù dung hoa lệ của thế gian, để đánh đổi lấy số phận dứt mộng trần ai. Không cần hỏi đây là đường mê hay lối về, bất cứ sự giải thích nào cũng đều trở nên nhỏ nhoi trước biển mây này. Trút bỏ hết thảy trang sức sẽ hiểu được rằng, có một loại vạn vật gọi là mênh mang, có một loại Phật pháp gọi là vô biên.
[Phật quang]
Yên lặng đợi Phật quang cũng như yên lặng chờ đợi một kỳ tích tươi sáng nhất của cuộc đời, không cần hẹn ước, cuối cùng vẫn tương phùng. Trên đỉnh Nga My, trên Kim Đỉnh, khi ánh dương và mây mù giao nhau, thường xuất hiện Phật quang lung linh bảy sắc cầu vồng. Trong kinh Phật có nói, Phật quang là ánh sáng phát ra từ giữa hai hàng lông mày của Phật Thích Ca Mâu Ni, giống như một đóa sen vàng, thanh khiết vô tư chiếu rọi vạn dặm càn khôn.
Vì thế, có khách hành hương như mây đi qua vạn nước nghìn non, mang theo tín ngưỡng mãnh liệt trèo núi cao, chỉ vì bị lây nhiễm sự huyền ảo rực rỡ của Phật quang vô biên đó. Trèo lên Kim Đỉnh, xuyên qua ánh dương lung linh và khói mù mờ mịt, nhìn thấy Phật quang bảy sắc, rực rỡ tỏa sáng, lại trong vắt như gương. Bóng sáng kỳ diệu khôn xiết đó phản chiếu lên người, ta đưa tay nhấc chân, bóng luôn theo hình. Càng thần kỳ hơn nữa là dù có hàng vạn người cùng chiêm ngưỡng, nhưng người xem cũng chỉ có thể nhìn thấy chiếc bóng của chính mình, mà không thấy bóng của người bên cạnh. Là sự huyền ảo mà tự nhiên ban tặng, nên mới có thể có được cảnh sắc mỹ lệ nhường này, những thước phim quyến rũ về non sông vô hạn ấy, khiến cho du khách đắm chìm trong chiếc bóng của chính mình, say đắm không thôi.
Phật quang treo lơ lửng trên Kim Đỉnh Nga Mv, nhẹ tựa dây leo, mộng như Nam Kha, mang ánh sáng đến cho người đang hoang mang, mang lại sự ấm áp cho người cô lẻ. Đây là ánh sáng của từ bi, là ánh sáng cứu vớt thế giới, cũng là ánh sáng may mắn, nó cười ngạo biển xanh, cứu độ hết thảy chúng sinh, kinh qua trăm đời, hóa thành nương dâu. Người ta nói, những người có duyên với Phật mới có thể nhìn thấy Phật quang, thực ra đức Phật nhân từ, Phật quang mang lại ánh sáng, hơi ấm cho tất cả vạn vật sinh linh, duyên sâu hay duyên mỏng, đều là ngộ tính của mỗi người.
Hồng trần ở bờ bên này, Phật giới ở bờ bên kia, giữa bờ bên này và bờ bên kia, chỉ cách nhau năm tháng như khói mây. Hai bên nhìn nhau, cùng trân trọng nhau, nhưng vĩnh viễn không thể bên cạnh nhau. Mà khoảng cách trở thành vẻ đẹp thiên cổ, khiến cho vô số thế nhân tới Nga My cũng chỉ vì sự từ bi của đài sen này. Đến đến đi đi, giống như Phật quang cảnh ảo, không cần chờ đợi gặp gỡ, cũng không cần sợ hãi ly biệt. Quay đầu nhìn lại đỉnh núi mênh mông, ánh Phật quang sáng lòa trên Kim Đỉnh đó, vẫn còn vì ai chiếu rọi một quãng thời gian như nước?
[Thánh đăng]
Truy tìm Thánh đăng (đèn Thánh) cũng như trong đêm tối tìm một con đom đóm, như ẩn như hiện, mù mịt khó nắm bắt. Thánh đăng và Phật quang tựa như sự thay đổi giữa ban ngày và ban đêm, nó mang theo sự thần thánh và thanh tịnh của Phật khiến cho khách qua đường chốn hồng trần phải truy tìm, nhưng nó lại chưa từng phụ bạc ai. Trong đêm đen gió lộng, xả thân dưới vách đá của Kim Đỉnh, bỗng thấy ánh sáng như đom đóm, từ vài đốm dần dần biến thành vô số, bồng bềnh giữa sơn cốc thâm u tĩnh mịch, lập lòe bất định. Đó chính là Thánh đăng, nó trôi nổi giữa những vách đá, uốn lượn không để lại bóng dáng, từng đốm sáng huỳnh quang mang lại cho người gặp cảm giác được tái sinh trong khốn cùng. Nó không giống như trăng sáng sao sớm, lửng lơ trên bầu trời thênh thang, cho dù bạn ở bất cứ đâu đều có thể nhìn thấy. Sự kỳ diệu của Thánh đăng nằm ở chỗ, nó như một giai nhân tuyệt sắc, thoắt ẩn thoắt hiện trong u cốc, duy chỉ có trên núi cao cheo leo hiểm trở, mới có thể tìm thấy dấu tiên, gặp được giai nhân.
Kim Đỉnh trên Nga My là nơi ngắm Thánh đăng đẹp nhất, từng đốm từng đốm lửa như sao băng vụt qua, xưa đi nay đến, lưu giữ biết bao linh hồn khi mờ khi tỏ của biết bao người xem. Chính vòng sáng của Thánh đăng, đã chiếu sáng sự u ám của bốn bề, khiến cho người đến thông suốt, người đi sáng tỏ; khiến người tụ lại trấn tĩnh, người ly tán ung dung. Có những người rong chơi giữa phong cảnh ban ngày, có những người say sưa giữa mộng cảnh ban đêm, cho dù là trong sáng hay là sâu sắc, đều có lý do để đam mê. Khi người tìm kiếm vội vã đi xa, dải thánh đăng sáng lập lòe ấy chờ đợi bình minh là vì ai?
Cảnh thứ hai: Chùa Vạn Niên
Cảnh ảo mây khói giăng tỏa được vén ra, một vùng trong sáng, cao xa của mùa thu nước trong leo lẻo gió mát hiu hiu hiện lên trong tầm mắt. Trước trời cao mây thu, nước trắn bên hồ, chùa Vạn Niên đã trải qua nghìn năm, không màng nhân quả, chẳng can số mệnh. Đi qua ngày hôm qua đầy ắp tiếng suối chảy róc rách, theo từng câu chuyện cũ lá phong nhuộm đỏ, đứng trước cánh cửa trang nghiêm của ngôi chùa cổ, ngắm màn khói lửa thời Tấn, nghe Phạn âm triều Tống, tìm bóng dáng thời Minh.
Bước vào tòa minh điện xây bằng gạch không có cột kèo, quan sát tòa kiến trúc thần kỳ này, những lớp hoa văn trang trí trang nhã trên tường làm tôn lên vẻ tĩnh mịch, trang nghiêm của Phật điện. Không cần tìm kiếm, đã thấy ngay tượng Phổ Hiền Bồ Tát cưỡi voi trắng đang nghiêm trang nhìn bạn, trên đầu ngài đội mũ vàng Ngũ Phật, tay cầm như ý, tư thế trọn vẹn, thần thái sinh động. Con voi trắng sáu ngà mà ngài cưỡi khí thế hùng hồn, gánh vác sứ mệnh, đứng trên đài sen, đã trở thành tượng trưng cho Phổ Hiền Bồ Tát. Họ (tượng bồ tát và voi trắng) bảo vệ cho lầu gác điện đài của chùa Vạn Niên, bảo vệ cho cảnh non xanh nước biếc của Nga My, có lẽ họ dễ dàng bị người đời quên lãng, nhưng cũng dễ dàng được người đời nhớ ra.
Mây trắng nhẹ bay, nước thu trong vắt, nơi đây từng có tăng nhân đời Đường gẩy đàn cho thi tiên Lý Bạch nghe, Lý Bạch cũng từng làm bài thơ “Thính Thục tăng Tuấn đàn cầm” (Nghe nhà sư Tuấn của đất Thục gẩy đàn), thơ rằng: “Thục tăng bão lục y, tứ hạ Nga My phong. Vị ngã nhất huy thủ, như thính vạn hác tùng. Khách tâm tẩy lưu thủy, dư hướng nhập sương chung. Bất giác bích hải mộ, thu vân ám kỷ trùng.” (Trần Trọng Kim dịch thơ: Nhà sư ôm một cây đàn, từ Nga My xuống đi sang nơi này. Vì ta một bận vẫy tay, dường như muôn suối vang đầy tiếng thông. Nước tôi rửa sạch cõi lòng, dư âm hòa lặn tiếng chuông sương mờ. Núi xanh chiều xuống không ngờ, tối tăm bốn phía mây thu trập trùng) Nghe nói trong đầm Bạch Thủy còn sinh ra một loại ếch tinh khôn biết chơi đàn, khi du khách tới, chúng thường phát ra những tiếng kêu vui tai, tựa như tiếng đàn réo rắt du dương, tuyệt diệu không thể nào tả xiết. Chuông đồng treo trên góc thềm đung đưa vang lên những tiếng tính tang trong trẻo tựa thời gian trôi, luôn có những người đứng trước lò hương đồng lốm đốm vết han gỉ nhớ lại sự phồn thịnh của những ngày đã qua. Lúc ấy không nghe thấy tiếng đàn, mà dường như nghe thấy tiếng ếch kêu, âm điệu như nước chảy mây thu ấy liệu có đang vang lên ở một nơi khác, hoặc chỉ có người phong nhã mới có thể nghe thấy âm thanh tuyệt diệu năm đó? Do nhuốm màu hương khói, nên ngói lợp ngả sang màu đen sậm; do Phạn âm ngâm nga, nên lầu gác thanh đạm như được tẩy rửa. Một tầng cửa lớn, mấy cánh cửa sổ, thấp thoáng bóng dáng người xưa, chỉ có tiếng thở dài của người nay là hiện hữu. Dường như những người đến đến đi đi đều thích tìm kiếm những được mất của bản thân, thực ra giữa được và mất, giữa đến và đi, có quá nhiều vướng mắc không thể giải thích rõ. Đi vào trong ngưỡng cửa, vướng mắc cũng kết thành một kiểu Thiền ý giác ngộ, nhưng ra khỏi ngưỡng cửa, vướng mắc đã trở thành một kiểu truy tìm vô nghĩa.
Cảnh thứ ba: Gác Thanh m
Nếu như nói Thanh Sơn là một chiếc áo xanh vắt ngang núi Nga My, vậy thì Bích Thủy là viên ngọc phỉ thúy treo lơ lửng trước ngực Nga My. Vào trong gác Thanh m, khi bạn vẫn chưa hết nỗi mệt mỏi trong chặng hành trình, thì gió nhẹ trên đường núi, nước chảy giữa suối khe đã âm thầm xâm lấn trái tim bạn, thời khắc ấy, đến gió bụi phong trần cũng trở nên tinh khiết.
“Hà tất ti dữ trúc, sơn thủy hữu thanh âm.” (Dịch nghĩa: Hà tất cần đến tơ và trúc, non nước vốn cũng có thanh âm) Gác Thanh âm được đặt tên theo câu thơ này, âm thanh thiên nhiên của non và nước còn tuyệt diệu hơn cả âm điệu réo rắt của đàn sáo. Phong cảnh nơi này sáng sủa như đã từng được gió núi tẩy rửa, thanh tịnh như đã được nước suối ngâm sâu. Nó không vì bạn vô tình lạc bước mà nảy sinh những trần ai buồn thảm, nó có thể tô điểm cho vô số mộng cảnh Thiền ý của khách qua đường, mà những du khách đến đây đều không thể nào cất giữ nổi khoảnh khắc nó trôi qua.
Gác Thanh âm cũng được gọi là chùa Ngọa Vân, cái tên này liên quan đến sự tích Thiền sư Thông Tuệ xây dựng chùa vào năm Càn Phù thứ tư đời Đường Hy Tông. Dưới gác có hai cây cầu, giữa hai cây cầu là một ngôi phi đình sừng sững tọa lạc, hai dòng suối Hắc – Bạch trong vắt chảy qua dưới chân cầu, sóng trắng tuôn trào, vỗ ùa vào những tảng đá lớn hình dáng như tim trâu trong đầm Bích Đàm. Đá tim trâu bị dòng nước mài mòn bóng loáng như gương, dường như soi thấy cả ngày tháng của hàng triệu năm về trước, nó đứng đó trải qua những tụ tan của bèo trôi, nhìn quen những cảnh quan lướt qua, tâm trạng vẫn ung dung bình thản như dòng nước suối.
Sóng cả xô đá, hất tung bọt sóng như ngọc vỡ, thanh âm róc rách, tựa như cổ cầm tấu khúc, lúc thì trong trẻo, lúc thì trầm ngâm, lúc lại du dương, lúc lại sang sảng. Vào đêm trăng thanh gió mát, vào lúc vạn vật tĩnh lặng, tiếng nước trong trẻo văng vẳng giữa rừng sâu sơn cốc, toàn bộ gác Thanh âm chìm trong khung cảnh siêu trần thoát tục. Cao tăng các đời và vô số lữ khách từng ngồi trên đài Tẩy Tâm trước đầm nước, lắng nghe thanh âm trong trẻo của nước chảy, tâm như hoa sen, kiên trì gìn giữ vẻ đẹp thuần túy thanh tịnh.
Phật Tổ vô cùng sáng suốt, khi bạn muốn bước hẳn vào trong, người sẽ cách xa bạn một khoảng vừa phải. Khi bạn định đi ra ngoài, người lại nhẹ nhàng giữ chân bạn lại. Gác Thanh âm là nơi lưu giấu linh hồn, mỗi một người đến đây đều nguyện ý gửi những năm tháng tuổi trẻ vào trong tháng ngày tĩnh lặng này, cho dù phải để lại một nửa thời thanh xuân, cũng không thay lòng đổi ý.
Khi bước chân truy tìm dừng lại ở điểm khởi đầu mới, điều không thể quên được chính là tình cảm của quá khứ. Nhìn lại gác Thanh m, nhớ lại phong cảnh sắp nhạt nhòa, tháng năm rồi sẽ già đi, ai sẽ là người hối hận, vì đã từng có một khoảng đời được bồ đề thanh tẩy như thế?
Cảnh thứ tư: Nhất Tuyến Thiên
Đi qua khung cảnh non nước trập trùng, có một đoạn đường khói bụi, chính là con đường thông với khe Bạch Vân (Bạch Vân giáp). Bên ngoài khe núi quang đãng sáng sủa, tầm nhìn hút mắt, bên trong khe núi mát mẻ thâm u, khúc khuỷu quanh co. Bước vào trong khe, ngẩng đầu nhìn Nhất Tuyến Thiên (một dải trời) trên đỉnh núi cheo leo, cảnh tượng ấy giống như một tòa núi lớn nguy nga chọc trời, lại bị năm tháng sắc bén như đao chém xuống, cắt thành những bức tường vỡ vụn, thưa thớt xiêu vẹo, mới để lộ một dải trời xanh biếc. Khung cảnh đặc biệt do thiên nhiên tạo nên ấy mang tới cho con người một đoạn đường nguy hiểm cùng một luồng tư tưởng khoáng đạt vô biên.
Thời gian vụt qua, mở ra những nội dung mà núi non đã đóng kín, giải phóng sự hoa lệ của ngàn đời. Để người lữ hành bước vào không gian nhỏ hẹp này cảm nhận được sự kỳ diệu của thế giới trong cốc, cho dù đây là một hành trình cực kỳ nguy hiểm, nhưng vẫn có rất nhiều người tình nguyện đi từ chốn trời cao đất rộng đến chỗ đường hẹp quanh co, để lưu lại những ấn tượng hoành tráng, hoàn mỹ trong cuộc đời.
Bước qua con đường núi vòng vèo, gió mát rười rượi như từ thời viễn cổ thổi về, khe khẽ kéo tay nải của bạn, làm lay động vạt áp bạn. Dòng suối ào ạt chẳng dứt, chảy men theo sơn đạo quanh co, lượn lờ xoáy vòng, một dòng nước nhỏ chảy theo hai bờ vách núi, uốn cong linh hoạt, cảnh tượng thanh tĩnh u nghiêm. Những hòn đá cuội như châu như ngọc nằm im dưới lòng hồ sâu, xanh đỏ trắng đen, đẹp lung linh trong ánh sáng vỡ vụn dưới lòng nước.
Ở nơi này, ánh sáng mặt trời chỉ nhàn nhạt, nó chiếu xuyên qua giếng trời Nhất Tuyến Thiên, rọi tới tận những góc nhỏ ẩm ướt xanh rêu, nhưng nó không biết cử động đa tình ấy lại khiến sự tĩnh lặng và mát mẻ chỉ có trong sơn cốc lặng lẽ bốc hoi. Gặp nghịch cảnh mới tỏ rõ bản sắc anh hùng, ở trong khe cốc mới biết càn khôn rộng lớn, mọi tranh giành danh lợi chốn thế gian chẳng qua cũng chỉ là một đoạn nhạc nền trong cuộc phong vân biến ảo lớn lao mà thôi.
Hy vọng sẽ được tái sinh sau khi tuyệt diệt, khi bạn vượt qua cảnh ngộ khốn khó, tư tưởng của bạn sẽ phá vỡ mọi xiềng xích giam cầm của số mệnh, kỳ tích trong mơ há phải đâu là xa xôi? Ở nơi sơn cốc không thấy bầu trời này, ở chốn thâm u ẩn chứa gió mây này, sau cơn im ắng, nhờ có đôi cánh tinh thần, những người tìm kiếm sẽ xuyên thủng tầng mây, lẩn nữa thưởng thức muôn vàn khí tượng, sự lãng mạn của núi sông trên thế gian.
Dù bạn có muốn cất giữ mỗi một hình bóng sinh động của Nga My đến đâu, nhưng đời người luôn có rất nhiều phong cảnh mà bạn không thể nào ngắm hết. Hiện thực sẽ dẫn bạn ra khỏi mộng cảnh mơ hồ, hoa sen trong tâm bung nở cánh hoa cuối cùng, những kẽ hở của tư duy cũng nhân đó nuốt trọn mùi hương thoang thoảng còn sót lại. Và tay nải nặng trĩu trên vai đang nhìn bạn khoan thai đi khỏi thánh cảnh Phật quốc. Có nhiều khi, bạn ngỡ rằng mình đang đến rất gần Phật, nhưng thực ra bạn vẫn chỉ là một khách qua đường của hồng trần đứng bên ngoài ngưỡng cửa, mà khoảnh khắc đi lướt qua đó đã ngoái lại nhìn. Khi bạn thực sự giác ngộ được Thiền, sinh mệnh cũng thấu triệt, cho dù chỉ là một đóa sen trước Phật cũng có phong vận riêng của nó, bởi vì nó đã hấp thu được sự từ bi mênh mông của Phật giới.
Khói bụi phiêu lãng, gió mây cuộn trào, bước chân vội vã của người tìm kiếm nay đã khoan thai chậm rãi bên rìa Nga My. Rốt cuộc là tháng ngày của nơi đây đã ghìm chân bạn lại, hay là bạn bị kẹt trong ngày tháng này? Nếu không phải thế, tại sao cảnh non xanh nước biếc xa dần vẫn còn quẩn quanh trước mắt; nếu không phải thế, tại sao tiếng tụng kinh gõ mõ sớm đã tan đi vẫn còn văng vẳng bên tai?
Núi Nga My, người trao cảnh sắc tuyệt mỹ nhất thiên hạ cho người khách qua đường vội vã, mà người khách qua đường như nước chảy mây trôi ấy, sẽ để lại những gì cho người? Đây đức Phật từ bi, khi người đối mặt với xiết bao buồn vui tan hợp, tại sao vẫn có thể bình thản trấn định đến thế? Có lẽ, những người khách qua đường ly biệt trong bối cảnh không lời ấy, có một ngày bỗng nhớ ra, đã có một cây bồ đề trong quá khứ, gọi là Nga My.
Cảnh Thiền Cửu Hoa
Vẫn nói rằng núi Cửu Hoa có chín ngọn núi hình dáng như hoa sen, mang một vẻ kỳ vĩ tú lệ bẩm sinh, trường tồn cùng thời gian, có một linh hồn bất diệt. Rất nhiều người đến nơi này nảy sinh những tưởng tượng ảo mộng trong không khí Thiền của hoa sen, họ thường xuyên quên mất nỗi mơ hồ của kẻ qua đường là chính bản thân mình.
Phong cảnh núi Cửu Hoa là một bức tranh sơn thủy thiên nhiên, treo lửng lơ giữa tầng mây, dòng thủy mặc trôi chảy nói cho chúng ta hay sự sáng suốt trí tuệ của Phật, Thiền. Ánh mặt trời nơi đây rất huyền ảo mơ hồ, khi bạn đến, sinh mệnh điểm tô dung nhan thanh xuân, khi bạn quay mình, năm tháng đã già đi, đánh mất vẻ ban đầu. Phật nói, kiếp phù sinh như cát bụi, chín đóa hoa sen ấy, đã nhìn thấu hết mọi bèo tụ bèo tan của đời người, sẽ không vì ai mà đợi chờ ngày mai định mệnh, cũng không vì ai mà thay đổi câu chuyện đã hoàn thành.
(1) Nguồn gốc Cửu Hoa
Khởi hành với một tâm thế như hoa sen, núi Cửu Hoa đã mở rộng cánh cửa lòng với chúng sinh, Thiền lý của núi Cửu Hoa cũng cảm nhiễm cả vùng Huy Châu rộng lớn, khiến cho hoa sen như nước nở rộ trong từng ngóc ngách cổ kính, thê lương.
Nơi đây là đạo tràng của Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, cao tăng Kim Kiều Giác[4] đã từng du ngoạn Cửu Hoa, tìm tòi những điều huyền bí, vất vả tu luyện những mấy chục năm, đến năm chín mươi chín tuổi thì viên tịch. Qua ba năm, nhục thể của ngài vẫn tươi tắn như còn sống, chúng tăng lữ bèn căn cứ theo đạo hạnh của ngài lúc sinh thời và rất nhiều dấu hiệu khác, cho rằng ngài là hóa thân của Địa Tạng Bồ Tát. Và họ đã xây dựng tháp đá, lưu giữ và thờ cúng nhục thân của ngài trong đó, đồng thời tôn ngài thành “Kim Địa Tạng” Bồ Tát, còn núi Cửu Hoa dần dần trở thành đạo tràng Địa Tạng Bồ Tát, trăm ngàn năm qua, khói hương không dứt, hưng thịnh chẳng suy.
[4] Kim Kiều Giác/ Kim Kyo–gak (696 – 794), tu sĩ Tân La (Silla), tục gọi là Kim Địa Tạng, là họ hàng của quốc vương nước Tân La cổ (nay là phía Đông Nam bán đảo Triều Tiên).
Cho dù là vào mùa nào, hoặc là bạn từ đâu tới, tiếng kinh kệ ở Cửu Hoa sơn vẫn vang khắp nơi nơi. Bạn vội vã hay nhàn tản đi tới, thì gió trong sơn miếu đều thổi bay bụi trần vương trên người bạn, để trái tim tinh khiết chảy trôi theo Thiền ý.
Phóng hết tầm mắt nhìn ra xa, những lầu gác đền đài ẩn sau rừng cây, tựa đời người như tụ như tan. Cả ngọn núi Cửu Hoa được xây dựng theo phong cách kiến trúc Huy phái, những bức tường lợp ngói đen, những giếng trời bằng gỗ chạm trổ, kết hợp một cách khéo léo tinh xảo giữa sự lãng mạn nên thơ của dân gian và văn hóa chùa chiền, thể hiện rõ ràng một vẻ đẹp khác biệt. Cho dù bạn mang theo tâm tình thế nào bước vào khung cảnh này, thì cũng có thể tìm được những vết tích mà thủy mặc đã từng thấm đẫm ở bất cứ chỗ nào nơi đây, cũng có thể ngửi thương thơm tràn ngập của tháng năm. Đây không phải mộng cảnh, ở Phật quốc thanh tịnh, sáng rõ như nước này, bạn sẽ cảm thấy linh hồn mỏng manh của bản thân dần dần được lấp đầy, sẽ nhìn thấy phong cảnh nhân gian phồn tạp dần dần trở nên thuần túy thanh tịnh.
Khi bạn đi ngược dòng tìm nguồn gốc của núi Cửu Hoa, cũng là đang đi ngược dòng tìm nguồn gốc của đời người. Khi những năm tháng của quá vãng chảy theo mạch nước, dập dềnh trôi tới, những gì bạn thấy là tàn khuyết hay là viên mãn? Tham ngộ Phật pháp bằng những tâm trạng và cuộc đời khác nhau, thì chân lý mà bạn ngộ ra cũng hoàn toàn khác biệt.
Bạn đứng giữa thắng cảnh Phật quốc yên tĩnh và hiền hòa ấy, có biết được nơi này đã từng mù mịt khói lửa chiến tranh, cũng từng gặp phải cảnh ngộ điêu linh tàn phá, chỉ là cho dù trải qua trăm ngàn chìm nổi, kinh qua biết bao vui buồn ly hợp, cuối cùng vẫn có thể gấm hoa rực rỡ, trăng sáng sao tỏ. Mà Phật tổ ngồi trên đài sen, mặc dầu trải qua biến thiên của năm tháng, phủ đầy bụi bặm của thời gian, vẫn có thể bình thản, an nhàn trước hoa xuân rơi rụng, ngắm quen trăng thu tàn khuyết.
(2) Chân thân bảo điện
Như nước chảy trong núi Cửu Hoa, không cần vội vã truy đuổi, chỉ cần thong thả dạo bước là sẽ có một cảnh tượng tươi đẹp đợi chờ bạn. Núi Thần Quang một mình thanh tịnh giữa sương mù rừng núi, người đời sau đã xây dựng điện tháp Địa Tạng trên mảnh tịnh thổ này, đặt nhục thân tiên cốt của Kim Địa Tạng Bồ Tát trong đó. Từ đây, bảo điện Nhục Thân giống như một ngọn đèn Phật đầy trí tuệ, thắp sáng thánh địa Cửu Hoa suốt cả ngày đêm.
Qua bậc thang, đến điện tháp, nhìn điện gác nguy nga, ngắm Phật tổ trang nghiêm. Trên mi cửa có treo bức hoành phi “Đông Nam đệ nhất sơn”, lại là một cảnh quan tự nhiên hùng vĩ. Trên hành lang của đại điện có khắc đủ mọi loại dị thú trân quý, kỳ hoa dị thảo, chúng được thời gian rửa sạch, nhưng vẫn sống động như xưa, tươi mới hút mắt. Những tác phẩm nghệ thuật dân gian khảm vàng nạm bạc ấy bảo tồn lịch sử nghìn năm của bảo điện, vẽ nên cảnh quan văn hóa của Cửu Hoa, đến ngày nay, bãi bể nương dâu đã từng trải qua hết chúng sẽ tô điểm cho giấc mộng của ai?
Điện tháp được lát bằng đá cẩm thạch trắng, khám thờ Phật trùng trùng điệp điệp, giống như số mệnh duyên sâu duyên mỏng nhìn thấu hết luân hồi của trăng thu gió xuân chốn nhân gian. Trong tháp cúng bái nhục thân của Kim Địa Tạng, chân thân bất hoại mạ ánh vàng, ngài cam lòng bị vận mệnh giam cầm trong thời gian nghìn năm, chỉ vì muốn đến cái đích phúc tuệ viên mãn trong pháp giới Từ Hàng. Từ đây, thiền tọa trên đài sen, dùng sự từ bi của Phật để phổ độ cho hết thảy chúng sinh.
Là bảo địa phong thủy của núi Cừu Hoa, đã khiến cho cao tăng các đời trải hết cuộc đời, là Phật pháp tinh thâm mênh mông, khiến cho họ thấu ngộ Thiền lý, đắc đạo ở Cửu Hoa mới có được chân thân bất hoại và được lưu giữ trong điện tháp theo cách ấy. Ngài đã đem chân lý và tinh túy của Phật giới cô đặc và đúc kết trong nhục thân, dùng sự từ bi để đổi thay nhan sắc của non nước núi Cửu Hoa, dùng sự thiền định để làm thanh tịnh linh hồn du khách.
Ra khỏi tòa điện, gặp gỡ người đến, mà sau phút giây lướt qua nhau, người khách qua đường dáng điệu vội vã ấy, ai sẽ nhớ đã từng có với ai một cuộc tương phùng trước Phật? Dù cho nhiều năm về sau, lại trùng phùng chốn này mà vẫn không hay biết sự tồn tại của nhau. Có lẽ không từng quen biết so với việc biết nhau rồi lại quên nhau sẽ ấm áp hơn, bạn đã từng ngóng đợi được quen biết nhau như thế, có một ngày cũng sẽ mong chờ quên nhau như vậy. Phật gia coi đây là luân hồi, nếu bạn giác ngộ được mối duyên pháp này, có lẽ bạn sẽ dùng một phương thức khác để đánh giá những tụ tan ly hợp của đời người.
Rời đi với Thiền ý nửa tỉnh nửa mê, lá phướn ngũ sắc bay phấp phới trong gió, đã không phân biệt được rõ ai là khách qua đường, ai là người quay về. Cờ phướn vẫy gọi trong khoảnh khắc này, là đang cáo biệt hay là đang mời gọi đây?
(3) Pháp hội Địa Tạng
Kinh Phật chép rằng, ngày ba mươi tháng bảy âm lịch hàng năm là ngày đản sinh của Địa Tạng Bồ Tát, truyền thuyết nói rằng đây cũng là ngày Kim Địa Tạng đắc đạo, ngày này, núi Cửu Hoa cử hành điển lễ long trọng ở Nhục Thân điện. Có rất nhiều khách dâng hương sẽ từ trời nam đất bắc hối hả tụ hội đến đây, trong những tay nải nặng trĩu chứa đầy lòng thành kính và ước nguyện, mang theo hương khói và kinh kệ, chỉ để chiêm bái lần pháp hội Địa Tạng trang nghiêm này.
Trong ngày này, núi Cửu Hoa phô bày trước mắt mọi cảnh tượng phồn hoa vô tiền khoáng hậu. Người đổ về như thác lũ, vứt bỏ mọi khói bụi của nhân gian, thong thả dạo bước ở Cửu Hoa, dưới chân vạn Phật, cầu ước siêu độ vong linh, tiêu trừ tai chướng. Trên những con đường bằng phẳng, không phải vì người đến quá nhiều, ngày tháng quá lâu, mà cảnh quan núi Cửu Hoa trở nên cũ kỹ tàn úa, nhạt nhòa dung nhan.
Bao nhiêu người khách qua đường đi trên phố Cửu Hoa, cảm nhận thánh địa được gọi là “Phật quốc liên hoa” này, trong thời gian mơ hồ, bỗng tưởng rằng mình là một vị tăng giả vân du trở về, chìm đắm trong nó, không thể nào rời đi lần nữa. Từ đây, tháng ngày hương khói không ngớt, và ngàn vạn du khách đều trở thành một vẻ đẹp không thể thiếu trong khung cảnh Cửu Hoa.
Tòa điện đường được xây dựng trên lưng chừng núi chính là “Bách Tuế cung” nổi tiếng của núi Cửu Hoa, ánh nắng vỡ vụn xiên xiên rải trên bức đại tự sơn son thiếp vàng, nhưng không thể đánh thức nổi những linh hồn ngủ say trong điện. Trên mảnh đất tịnh thổ không vướng bụi trần này, buồn đau sẽ được thanh thản, tội ác sẽ thành thiện lương. Có lẽ bạn từng hô mưa gọi gió, cũng từng kiêu ngạo phóng túng, nếu bạn đến đây, cho dù là với bất cứ thân phận nào, trong tuệ nhãn trong suốt như nước của Phật tổ, tất thảy chúng sinh đều bình đẳng.
Đúng thế, tất cả những người đến núi Cửu Hoa dự Pháp hội lớn này đều được gọi là khách hành hương. Họ cam tâm tình nguyện buông bỏ sự kiêu ngạo và vinh quang của ngày thường, đón nhận sự thanh tẩy của hương khói trước Phật, chờ đợi Phạn âm làm tinh khiết tâm hồn. Những người này, ai nấy đều có duyên pháp của mình, họ trèo đèo lội suối chẳng quản nghìn dặm xa xôi đến đây, là vì không nhìn rõ được cuộc sống sướng khổ mơ hồ nơi thế gian, hay là chán ghét khói lửa mù mịt chốn hồng trần, chỉ muốn ở chốn hoa sen nở rộ, dùng linh hồn làm lời chú giải, đổi lấy tâm trạng bình tĩnh và yên lành.
Sinh mệnh có hạn, có lẽ đến nay không ai thực sự hiểu rằng, Phật tổ rốt cuộc đã dùng sức mạnh gì mà có thể giữ chặt được linh hồn của khách hành hương, để họ luôn đau đáu tình thâm tìm đến. Làm thế nào khiến họ lưu luyến không nỡ rời như thế, chỉ muốn tìm một chốn có thể dừng chân ở núi Cửu Hoa, bình yên ung dung sống hết một đời một kiếp dưới ánh sáng của bồ đề?
(4) Núi chính Thiên Đài
Cảnh trí núi non xưa nay luôn nằm giữa chốn mây mù vạn trượng, trong mây khói nhìn thấy núi non trùng điệp, cảm nhận trời đất huyền ảo, luôn thấy rằng, phong cảnh cũng như đời người, đều có nhân quả riêng của nó. Có bao nhiêu núi sâu rừng rậm, thì có bấy nhiêu suối chảy thác trào, núi rừng sâu thẳm chứa biết bao đền miếu cổ sát bị mây khói che phủ giống như chốn Bồng Lai tiên cảnh, không vướng bụi trần.
Núi non Cửu Hoa như một bức tranh thủy mặc đậm nhạt đan xen, mà núi Thiên Đài là một nét bút đậm màu gộp lại của rất nhiều núi non, kết tụ hết thảy thắng cảnh của núi Cửu Hoa, thế nên du khách từ ngàn xưa đã hết lần này đến lần khác tụ hội phong vân trên đỉnh Thiên Đài. Từ đường Cửu Hoa lên Thiên Đài, dọc đường vừa kiếm tìm phong cảnh, lại vừa bị phong cảnh đuổi theo. Đến chính đỉnh của Ngũ Đài, phóng tầm mắt nhìn núi non nhấp nhô, cúi xuống ngắm Trường Giang như lụa. Khi cái tôi nhỏ bé đứng trước trời đất mênh mông vô tận, bạn không biết là sinh mệnh đã tạo nên sự thần kỳ của vạn vật, hay là vạn vật nung nấu lên sự thần kỳ của sinh mệnh.
Ngọn gió núi trong lành lướt qua, làm thức tỉnh những suy nghĩ còn u mê, từng trận gió rì rào như sóng biển mang đến mùi trầm hương cổ mộc thơm ngát. Trong thời đại vừa theo đuổi đỉnh cao vừa sùng bái tự nhiên này, và cũng trong thời đại vừa chạy theo trào lưu lại vừa vứt bỏ trang sức bề ngoài, trở về với bản ngã, càng có nhiều linh hồn cần đi từ nóng vội đến trầm tĩnh, càng nhiều sinh mệnh cần đi từ rực rỡ lóa mắt đến bình dị thực chất, vẫn nói người ở ngôi cao lạnh không chịu nổi [5], nhưng chỉ có đăng cao, mới có thể nhìn rõ núi sông trùng điệp, hiểu được vạn tượng gió mây.
[5] Nghĩa bóng chỉ người có địa vị cao thường không có tri kỷ. Khi mây khói mịt mù lan tới, bạn vẫn có thể nhìn thấy rõ một tảng đá lớn, bên trên khắc ba chữ “Phi Nhân Gian”. (không phải chốn nhân gian) Nơi đây chỉ nghe thấy tiếng chuông, chỉ nhìn thấy đỉnh núi cheo leo trong mây khói chờn vờn, nhân gian dường như càng lúc càng xa mãi muôn trùng. Những người đến đây đều muốn trong một thời gian ngắn ngủi được đắm mình hoàn toàn vào trong mộng cảnh. Trong mơ, bạn là một tiên khách chốn núi thiêng, không nếm trải khói lửa nhân gian nữa, trong mơ bạn ngồi nghiêm trang trên đài sen, ngắm hết những khách qua đường lặng lẽ tới tới lui lui.
Trong mộng, mấy độ sen rụng rồi sen lại nở, khi tỉnh lại tuổi xuân tươi đẹp đã chẳng còn. Lúc mây khói nhạt nhòa tan đi, bạn nhìn thấy bản thân đang đứng giữa ranh giới của mộng và tỉnh, cõi lòng xao động đó như những gợn sóng lăn tăn trên mặt hồ phẳng lặng.
Một đời người luôn đi tìm phong cảnh hoàn mỹ nhất, há không biết phong cảnh hoàn mỹ nhất lại thường không hẹn mà gặp hay sao? Bạn trao cho Thiên Đài một quãng thời gian, Thiên Đài sẽ trả lại bạn một khoảng năm tháng.
Ai nói thời gian dễ dàng vứt bỏ con người, nhân lúc tháng ngày không chú ý, bạn có thể ném bỏ nó, giẫm lên cầu thang mộng tưởng, phiêu du trong thánh địa tinh thần. Có những chuyến biệt ly mà không cần ngoảnh đầu nhìn lại, giống như một số chuyện cũ không cần phải hồi tưởng. Núi Cửu Hoa chính là như thế, nó đem đến cho bạn quá khứ hữu tình, rồi lại đem đến cho bạn tương lai bình thản, mà cuộc sống của thời khắc này hoàn toàn thuộc về chính bạn. Nếu như vẫn quên lãng, thì hãy mượn núi Cửu Hoa như chiếc bút tuyệt diệu, lấy núi làm giấy, lấy sông làm mực, vẽ hết vẻ đẹp thiên thu, phong nhã vạn đời.
Há chẳng biết, văn chương phi thường, cần phải có phong cảnh phi thường, và còn cần có cuộc đời phi thường. Bạn đến với một tâm trạng nặng nề, thì có thể sẽ ra đi với một tâm thế thanh thản thoải mái. Sau này, mặc dầu tháng năm như nước, sông núi già đi, phong cảnh của núi Cửu Hoa vẫn như ngày hôm qua. Đóa hoa sen tinh khiết đó vẫn âm thầm tỏa hương giữa phong cảnh nhân sinh người đến kẻ đi.
Vẫn nói rằng núi Cửu Hoa có chín ngọn núi hình dáng như hoa sen, mang một vẻ kỳ vĩ tú lệ bẩm sinh, trường tồn cùng thời gian, có một linh hồn bất diệt. Rất nhiều người đến nơi này nảy sinh những tưởng tượng ảo mộng trong không khí Thiền của hoa sen, họ thường xuyên quên mất nỗi mơ hồ của kẻ qua đường là chính bản thân mình.
Phong cảnh núi Cửu Hoa là một bức tranh sơn thủy thiên nhiên, treo lửng lơ giữa tầng mây, dòng thủy mặc trôi chảy nói cho chúng ta hay sự sáng suốt trí tuệ của Phật, Thiền. Ánh mặt trời nơi đây rất huyền ảo mơ hồ, khi bạn đến, sinh mệnh điểm tô dung nhan thanh xuân, khi bạn quay mình, năm tháng đã già đi, đánh mất vẻ ban đầu. Phật nói, kiếp phù sinh như cát bụi, chín đóa hoa sen ấy, đã nhìn thấu hết mọi bèo tụ bèo tan của đời người, sẽ không vì ai mà đợi chờ ngày mai định mệnh, cũng không vì ai mà thay đổi câu chuyện đã hoàn thành.
(1) Nguồn gốc Cửu Hoa
Khởi hành với một tâm thế như hoa sen, núi Cửu Hoa đã mở rộng cánh cửa lòng với chúng sinh, Thiền lý của núi Cửu Hoa cũng cảm nhiễm cả vùng Huy Châu rộng lớn, khiến cho hoa sen như nước nở rộ trong từng ngóc ngách cổ kính, thê lương.
Nơi đây là đạo tràng của Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, cao tăng Kim Kiều Giác[4] đã từng du ngoạn Cửu Hoa, tìm tòi những điều huyền bí, vất vả tu luyện những mấy chục năm, đến năm chín mươi chín tuổi thì viên tịch. Qua ba năm, nhục thể của ngài vẫn tươi tắn như còn sống, chúng tăng lữ bèn căn cứ theo đạo hạnh của ngài lúc sinh thời và rất nhiều dấu hiệu khác, cho rằng ngài là hóa thân của Địa Tạng Bồ Tát. Và họ đã xây dựng tháp đá, lưu giữ và thờ cúng nhục thân của ngài trong đó, đồng thời tôn ngài thành “Kim Địa Tạng” Bồ Tát, còn núi Cửu Hoa dần dần trở thành đạo tràng Địa Tạng Bồ Tát, trăm ngàn năm qua, khói hương không dứt, hưng thịnh chẳng suy.
[4] Kim Kiều Giác/ Kim Kyo–gak (696 – 794), tu sĩ Tân La (Silla), tục gọi là Kim Địa Tạng, là họ hàng của quốc vương nước Tân La cổ (nay là phía Đông Nam bán đảo Triều Tiên).
Cho dù là vào mùa nào, hoặc là bạn từ đâu tới, tiếng kinh kệ ở Cửu Hoa sơn vẫn vang khắp nơi nơi. Bạn vội vã hay nhàn tản đi tới, thì gió trong sơn miếu đều thổi bay bụi trần vương trên người bạn, để trái tim tinh khiết chảy trôi theo Thiền ý.
Phóng hết tầm mắt nhìn ra xa, những lầu gác đền đài ẩn sau rừng cây, tựa đời người như tụ như tan. Cả ngọn núi Cửu Hoa được xây dựng theo phong cách kiến trúc Huy phái, những bức tường lợp ngói đen, những giếng trời bằng gỗ chạm trổ, kết hợp một cách khéo léo tinh xảo giữa sự lãng mạn nên thơ của dân gian và văn hóa chùa chiền, thể hiện rõ ràng một vẻ đẹp khác biệt. Cho dù bạn mang theo tâm tình thế nào bước vào khung cảnh này, thì cũng có thể tìm được những vết tích mà thủy mặc đã từng thấm đẫm ở bất cứ chỗ nào nơi đây, cũng có thể ngửi thương thơm tràn ngập của tháng năm. Đây không phải mộng cảnh, ở Phật quốc thanh tịnh, sáng rõ như nước này, bạn sẽ cảm thấy linh hồn mỏng manh của bản thân dần dần được lấp đầy, sẽ nhìn thấy phong cảnh nhân gian phồn tạp dần dần trở nên thuần túy thanh tịnh.
Khi bạn đi ngược dòng tìm nguồn gốc của núi Cửu Hoa, cũng là đang đi ngược dòng tìm nguồn gốc của đời người. Khi những năm tháng của quá vãng chảy theo mạch nước, dập dềnh trôi tới, những gì bạn thấy là tàn khuyết hay là viên mãn? Tham ngộ Phật pháp bằng những tâm trạng và cuộc đời khác nhau, thì chân lý mà bạn ngộ ra cũng hoàn toàn khác biệt.
Bạn đứng giữa thắng cảnh Phật quốc yên tĩnh và hiền hòa ấy, có biết được nơi này đã từng mù mịt khói lửa chiến tranh, cũng từng gặp phải cảnh ngộ điêu linh tàn phá, chỉ là cho dù trải qua trăm ngàn chìm nổi, kinh qua biết bao vui buồn ly hợp, cuối cùng vẫn có thể gấm hoa rực rỡ, trăng sáng sao tỏ. Mà Phật tổ ngồi trên đài sen, mặc dầu trải qua biến thiên của năm tháng, phủ đầy bụi bặm của thời gian, vẫn có thể bình thản, an nhàn trước hoa xuân rơi rụng, ngắm quen trăng thu tàn khuyết.
(2) Chân thân bảo điện
Như nước chảy trong núi Cửu Hoa, không cần vội vã truy đuổi, chỉ cần thong thả dạo bước là sẽ có một cảnh tượng tươi đẹp đợi chờ bạn. Núi Thần Quang một mình thanh tịnh giữa sương mù rừng núi, người đời sau đã xây dựng điện tháp Địa Tạng trên mảnh tịnh thổ này, đặt nhục thân tiên cốt của Kim Địa Tạng Bồ Tát trong đó. Từ đây, bảo điện Nhục Thân giống như một ngọn đèn Phật đầy trí tuệ, thắp sáng thánh địa Cửu Hoa suốt cả ngày đêm.
Qua bậc thang, đến điện tháp, nhìn điện gác nguy nga, ngắm Phật tổ trang nghiêm. Trên mi cửa có treo bức hoành phi “Đông Nam đệ nhất sơn”, lại là một cảnh quan tự nhiên hùng vĩ. Trên hành lang của đại điện có khắc đủ mọi loại dị thú trân quý, kỳ hoa dị thảo, chúng được thời gian rửa sạch, nhưng vẫn sống động như xưa, tươi mới hút mắt. Những tác phẩm nghệ thuật dân gian khảm vàng nạm bạc ấy bảo tồn lịch sử nghìn năm của bảo điện, vẽ nên cảnh quan văn hóa của Cửu Hoa, đến ngày nay, bãi bể nương dâu đã từng trải qua hết chúng sẽ tô điểm cho giấc mộng của ai?
Điện tháp được lát bằng đá cẩm thạch trắng, khám thờ Phật trùng trùng điệp điệp, giống như số mệnh duyên sâu duyên mỏng nhìn thấu hết luân hồi của trăng thu gió xuân chốn nhân gian. Trong tháp cúng bái nhục thân của Kim Địa Tạng, chân thân bất hoại mạ ánh vàng, ngài cam lòng bị vận mệnh giam cầm trong thời gian nghìn năm, chỉ vì muốn đến cái đích phúc tuệ viên mãn trong pháp giới Từ Hàng. Từ đây, thiền tọa trên đài sen, dùng sự từ bi của Phật để phổ độ cho hết thảy chúng sinh.
Là bảo địa phong thủy của núi Cừu Hoa, đã khiến cho cao tăng các đời trải hết cuộc đời, là Phật pháp tinh thâm mênh mông, khiến cho họ thấu ngộ Thiền lý, đắc đạo ở Cửu Hoa mới có được chân thân bất hoại và được lưu giữ trong điện tháp theo cách ấy. Ngài đã đem chân lý và tinh túy của Phật giới cô đặc và đúc kết trong nhục thân, dùng sự từ bi để đổi thay nhan sắc của non nước núi Cửu Hoa, dùng sự thiền định để làm thanh tịnh linh hồn du khách.
Ra khỏi tòa điện, gặp gỡ người đến, mà sau phút giây lướt qua nhau, người khách qua đường dáng điệu vội vã ấy, ai sẽ nhớ đã từng có với ai một cuộc tương phùng trước Phật? Dù cho nhiều năm về sau, lại trùng phùng chốn này mà vẫn không hay biết sự tồn tại của nhau. Có lẽ không từng quen biết so với việc biết nhau rồi lại quên nhau sẽ ấm áp hơn, bạn đã từng ngóng đợi được quen biết nhau như thế, có một ngày cũng sẽ mong chờ quên nhau như vậy. Phật gia coi đây là luân hồi, nếu bạn giác ngộ được mối duyên pháp này, có lẽ bạn sẽ dùng một phương thức khác để đánh giá những tụ tan ly hợp của đời người.
Rời đi với Thiền ý nửa tỉnh nửa mê, lá phướn ngũ sắc bay phấp phới trong gió, đã không phân biệt được rõ ai là khách qua đường, ai là người quay về. Cờ phướn vẫy gọi trong khoảnh khắc này, là đang cáo biệt hay là đang mời gọi đây?
(3) Pháp hội Địa Tạng
Kinh Phật chép rằng, ngày ba mươi tháng bảy âm lịch hàng năm là ngày đản sinh của Địa Tạng Bồ Tát, truyền thuyết nói rằng đây cũng là ngày Kim Địa Tạng đắc đạo, ngày này, núi Cửu Hoa cử hành điển lễ long trọng ở Nhục Thân điện. Có rất nhiều khách dâng hương sẽ từ trời nam đất bắc hối hả tụ hội đến đây, trong những tay nải nặng trĩu chứa đầy lòng thành kính và ước nguyện, mang theo hương khói và kinh kệ, chỉ để chiêm bái lần pháp hội Địa Tạng trang nghiêm này.
Trong ngày này, núi Cửu Hoa phô bày trước mắt mọi cảnh tượng phồn hoa vô tiền khoáng hậu. Người đổ về như thác lũ, vứt bỏ mọi khói bụi của nhân gian, thong thả dạo bước ở Cửu Hoa, dưới chân vạn Phật, cầu ước siêu độ vong linh, tiêu trừ tai chướng. Trên những con đường bằng phẳng, không phải vì người đến quá nhiều, ngày tháng quá lâu, mà cảnh quan núi Cửu Hoa trở nên cũ kỹ tàn úa, nhạt nhòa dung nhan.
Bao nhiêu người khách qua đường đi trên phố Cửu Hoa, cảm nhận thánh địa được gọi là “Phật quốc liên hoa” này, trong thời gian mơ hồ, bỗng tưởng rằng mình là một vị tăng giả vân du trở về, chìm đắm trong nó, không thể nào rời đi lần nữa. Từ đây, tháng ngày hương khói không ngớt, và ngàn vạn du khách đều trở thành một vẻ đẹp không thể thiếu trong khung cảnh Cửu Hoa.
Tòa điện đường được xây dựng trên lưng chừng núi chính là “Bách Tuế cung” nổi tiếng của núi Cửu Hoa, ánh nắng vỡ vụn xiên xiên rải trên bức đại tự sơn son thiếp vàng, nhưng không thể đánh thức nổi những linh hồn ngủ say trong điện. Trên mảnh đất tịnh thổ không vướng bụi trần này, buồn đau sẽ được thanh thản, tội ác sẽ thành thiện lương. Có lẽ bạn từng hô mưa gọi gió, cũng từng kiêu ngạo phóng túng, nếu bạn đến đây, cho dù là với bất cứ thân phận nào, trong tuệ nhãn trong suốt như nước của Phật tổ, tất thảy chúng sinh đều bình đẳng.
Đúng thế, tất cả những người đến núi Cửu Hoa dự Pháp hội lớn này đều được gọi là khách hành hương. Họ cam tâm tình nguyện buông bỏ sự kiêu ngạo và vinh quang của ngày thường, đón nhận sự thanh tẩy của hương khói trước Phật, chờ đợi Phạn âm làm tinh khiết tâm hồn. Những người này, ai nấy đều có duyên pháp của mình, họ trèo đèo lội suối chẳng quản nghìn dặm xa xôi đến đây, là vì không nhìn rõ được cuộc sống sướng khổ mơ hồ nơi thế gian, hay là chán ghét khói lửa mù mịt chốn hồng trần, chỉ muốn ở chốn hoa sen nở rộ, dùng linh hồn làm lời chú giải, đổi lấy tâm trạng bình tĩnh và yên lành.
Sinh mệnh có hạn, có lẽ đến nay không ai thực sự hiểu rằng, Phật tổ rốt cuộc đã dùng sức mạnh gì mà có thể giữ chặt được linh hồn của khách hành hương, để họ luôn đau đáu tình thâm tìm đến. Làm thế nào khiến họ lưu luyến không nỡ rời như thế, chỉ muốn tìm một chốn có thể dừng chân ở núi Cửu Hoa, bình yên ung dung sống hết một đời một kiếp dưới ánh sáng của bồ đề?
(4) Núi chính Thiên Đài
Cảnh trí núi non xưa nay luôn nằm giữa chốn mây mù vạn trượng, trong mây khói nhìn thấy núi non trùng điệp, cảm nhận trời đất huyền ảo, luôn thấy rằng, phong cảnh cũng như đời người, đều có nhân quả riêng của nó. Có bao nhiêu núi sâu rừng rậm, thì có bấy nhiêu suối chảy thác trào, núi rừng sâu thẳm chứa biết bao đền miếu cổ sát bị mây khói che phủ giống như chốn Bồng Lai tiên cảnh, không vướng bụi trần.
Núi non Cửu Hoa như một bức tranh thủy mặc đậm nhạt đan xen, mà núi Thiên Đài là một nét bút đậm màu gộp lại của rất nhiều núi non, kết tụ hết thảy thắng cảnh của núi Cửu Hoa, thế nên du khách từ ngàn xưa đã hết lần này đến lần khác tụ hội phong vân trên đỉnh Thiên Đài. Từ đường Cửu Hoa lên Thiên Đài, dọc đường vừa kiếm tìm phong cảnh, lại vừa bị phong cảnh đuổi theo. Đến chính đỉnh của Ngũ Đài, phóng tầm mắt nhìn núi non nhấp nhô, cúi xuống ngắm Trường Giang như lụa. Khi cái tôi nhỏ bé đứng trước trời đất mênh mông vô tận, bạn không biết là sinh mệnh đã tạo nên sự thần kỳ của vạn vật, hay là vạn vật nung nấu lên sự thần kỳ của sinh mệnh.
Ngọn gió núi trong lành lướt qua, làm thức tỉnh những suy nghĩ còn u mê, từng trận gió rì rào như sóng biển mang đến mùi trầm hương cổ mộc thơm ngát. Trong thời đại vừa theo đuổi đỉnh cao vừa sùng bái tự nhiên này, và cũng trong thời đại vừa chạy theo trào lưu lại vừa vứt bỏ trang sức bề ngoài, trở về với bản ngã, càng có nhiều linh hồn cần đi từ nóng vội đến trầm tĩnh, càng nhiều sinh mệnh cần đi từ rực rỡ lóa mắt đến bình dị thực chất, vẫn nói người ở ngôi cao lạnh không chịu nổi [5], nhưng chỉ có đăng cao, mới có thể nhìn rõ núi sông trùng điệp, hiểu được vạn tượng gió mây.
[5] Nghĩa bóng chỉ người có địa vị cao thường không có tri kỷ. Khi mây khói mịt mù lan tới, bạn vẫn có thể nhìn thấy rõ một tảng đá lớn, bên trên khắc ba chữ “Phi Nhân Gian”. (không phải chốn nhân gian) Nơi đây chỉ nghe thấy tiếng chuông, chỉ nhìn thấy đỉnh núi cheo leo trong mây khói chờn vờn, nhân gian dường như càng lúc càng xa mãi muôn trùng. Những người đến đây đều muốn trong một thời gian ngắn ngủi được đắm mình hoàn toàn vào trong mộng cảnh. Trong mơ, bạn là một tiên khách chốn núi thiêng, không nếm trải khói lửa nhân gian nữa, trong mơ bạn ngồi nghiêm trang trên đài sen, ngắm hết những khách qua đường lặng lẽ tới tới lui lui.
Trong mộng, mấy độ sen rụng rồi sen lại nở, khi tỉnh lại tuổi xuân tươi đẹp đã chẳng còn. Lúc mây khói nhạt nhòa tan đi, bạn nhìn thấy bản thân đang đứng giữa ranh giới của mộng và tỉnh, cõi lòng xao động đó như những gợn sóng lăn tăn trên mặt hồ phẳng lặng.
Một đời người luôn đi tìm phong cảnh hoàn mỹ nhất, há không biết phong cảnh hoàn mỹ nhất lại thường không hẹn mà gặp hay sao? Bạn trao cho Thiên Đài một quãng thời gian, Thiên Đài sẽ trả lại bạn một khoảng năm tháng.
Ai nói thời gian dễ dàng vứt bỏ con người, nhân lúc tháng ngày không chú ý, bạn có thể ném bỏ nó, giẫm lên cầu thang mộng tưởng, phiêu du trong thánh địa tinh thần. Có những chuyến biệt ly mà không cần ngoảnh đầu nhìn lại, giống như một số chuyện cũ không cần phải hồi tưởng. Núi Cửu Hoa chính là như thế, nó đem đến cho bạn quá khứ hữu tình, rồi lại đem đến cho bạn tương lai bình thản, mà cuộc sống của thời khắc này hoàn toàn thuộc về chính bạn. Nếu như vẫn quên lãng, thì hãy mượn núi Cửu Hoa như chiếc bút tuyệt diệu, lấy núi làm giấy, lấy sông làm mực, vẽ hết vẻ đẹp thiên thu, phong nhã vạn đời.
Há chẳng biết, văn chương phi thường, cần phải có phong cảnh phi thường, và còn cần có cuộc đời phi thường. Bạn đến với một tâm trạng nặng nề, thì có thể sẽ ra đi với một tâm thế thanh thản thoải mái. Sau này, mặc dầu tháng năm như nước, sông núi già đi, phong cảnh của núi Cửu Hoa vẫn như ngày hôm qua. Đóa hoa sen tinh khiết đó vẫn âm thầm tỏa hương giữa phong cảnh nhân sinh người đến kẻ đi.
Thánh địa Ngũ Đài
Luôn có một phong cảnh trong sáng thanh tịnh cần bạn phải hối hả vội vã tới đó; luôn có một khoảng tháng năm như nước, khiến chúng ta không thể thờ ơ phụ bạc nó. Suốt chặng đường đi vòng vèo ấy, bước chân giữa phong cảnh tươi sáng của nhân gian, giữa hành lang lịch sử sâu hun hút, góp nhặt những khoảnh khắc như gió cuốn mây trôi. Đi qua hết núi hết sông, ngắm tận mưa khói lá rụng, ngọn núi chót vót ấy, Ngũ Đài trong lành chính là hình bóng mà bạn cần tìm lúc này. Trong cảnh Thiền nguyên sơ này, những khói lửa của linh hồn khi mờ khi tỏ đến vô cùng, dù bạn có đến đây với những suy nghĩ hào hùng ngông cuồng đến đâu, chỉ cần bước chân vào thánh địa gọi là Ngũ Đài này, trăm mối ngổn ngang đều biến thành bình tĩnh ung dung.
Chỉ là trong khoảnh khắc một chiếc lá lìa cành, hồng trần đã ở sau lưng, khiến bạn ngỡ rằng cửa Phật hóa ra không cao vời đến vậy, bước đi một thước, ngoái nhìn một cái, bạn đã có mặt giữa đất Phật. Đi xuyên qua núi Ngũ Đài, không khí mát mẻ bao trùm khắp núi non, còn cả mùi đàn hương thoang thoảng từ những đền miếu khác nhau thoảng về, khiến bạn ngất ngây say đắm.
Cho dù bạn biết rằng, cố chấp bước vào thánh địa mát lành này có thể sẽ bị rơi vào vòng xoáy của khói mây vạn trạng, không thể nào thoát ra; nhưng bạn vẫn cam tâm tình nguyện vứt bỏ sự ấm áp của khói lửa hồng trần, truy tìm sự minh mẫn hơn nữa trong cảnh Thiền mông lung này. Những tháng ngày mát lành nơi đây sẽ dần dần phủ lấp và làm dịu hàng nghìn hàng vạn suy nghĩ nóng vội, khiến cho những chúng sinh còn mê lầm giữa bùn lầy của nhân gian đến được con đường nhân sinh yên ả và thông đạt.
Kiếm tìm dọc theo những ngõ nhỏ sâu hút trong lịch sử, quãng đường nối liền từ thời Hán đến thời Đường trồng đầy cây bồ đề. Đứng trên núi Ngũ Đài, nhìn thấy Đại Hán xanh xanh, nhìn thấy triều Đường huy hoàng chói lọi, nhìn thấy biết bao đế vương cuồng vọng tay cầm kinh kệ thành khẩn nguyện cầu trước Phật, cầu cho Phật tổ phù hộ giang sơn, vạn đời nối tiếp. Những cuốn kinh ngả vàng ấy có thể mài giũa sự ngang ngược ngút trời của đế vương, cũng có thể trừ bỏ sự bi quan khiếp nhược của thế nhân, để trong một cuốn sách nhỏ hẹp, bạn có thể nhìn thấy bờ cõi rộng lớn của đời người.
Đặc biệt là triều Đường, đây là một triều đại tôn sùng Phật giáo, thịnh hành Phật giáo, vì hai vương triều Lý - Đường khởi binh từ Thái Nguyên mà có được thiên hạ, vì thế nên gọi núi Ngũ Đài là “Tổ tông thực đức chi sở” (nơi tổ tiên gầy dựng công đức). Mấy đời đế vương đều xây dựng chùa chiền trên núi Ngũ Đài, tăng lữ lớp lớp xuất hiện, bạn có thể tưởng tượng khí thế vạn phật ngồi trang nghiêm trên đài sen đó, Phạn âm quấn quít giữa mây khói mờ mịt, mà ngàn vạn khách hành hương từ Ngũ Hồ Tứ Hải lặn lội lên núi ngắm cảnh. Đây là nơi Phật Đà gặp gỡ chúng sinh, là dịp thuyết pháp giảng kinh ngàn năm mới gặp, là chốn phong vân hội tụ.
Đứng bên bờ năm tháng thênh thang, nhìn lại núi Ngũ Đài, giai đoạn Thịnh Đường huy hoàng sáng lạn năm đó đã biến mất trong mây khói mênh mang của lịch sử. Thế nên giang sơn hao gầy mà đế vương nhìn thấy trong chiếc chén, chính là cảm giác đổ vỡ hoang lạnh đến kinh người trong tim bạn. Cho dù núi Ngũ Đài ngày nay không được phồn thịnh như thời Đại Đường, nhưng vẫn còn đó sơn tự sừng sững, tăng lữ như mây. Trong khung cảnh núi trong nước mát này, những ngọn lửa Thiền vẫn luôn nhấp nháy, kinh kệ trước Phật vẫn luôn ngâm nga, không hề vì sự thay triều đổi đại mà ngừng nghỉ gián đoạn, cũng không vì năm tháng trôi qua mà bỗng chốc mệt mỏi.
Chỉ cần bạn đến đây bằng cả trái tim, bạn sẽ có thể nhìn thấy biết bao nhiêu chùa miếu mọc lên san sát giữa cơn gió mát già cỗi, biết bao nhiêu khói hương trở nên bừng sáng rực rỡ trong ngày tháng hoang lạnh. Sinh mệnh vốn là cái này chết đi cái kia sinh ra, khi bạn ngẩng đầu nhìn ra xa, vầng mặt trời đỏ ối từ từ nhô cao giữa dãy núi non trùng điệp ấy đã lại tỏa sáng soi chiếu thế gian, vương giả phong lưu.
Núi Ngũ Đài là đạo tràng của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, chùa miếu giữa núi đều thờ cúng tượng Phật của Văn Thù Bồ Tát. Người toàn thân dát vàng, dáng vẻ như đồng tử, tóc búi cao năm chòm, tay trái cầm hoa, tay phải cầm kiếm, dùng Thiền lý trí tuệ, Phật nghĩa từ bi để độ hóa người đời. Mỗi khách hành hương cưỡi gió mà đến, dưới trời xanh biêng biếc bước vào từng tòa điện miếu thanh tịnh, hương khói thoang thoảng bồng bềnh, Phạn âm vang vọng xa xa, sẽ khiến bạn chợt tỏa hào quang, có lẽ những đạo lý bao năm nay vẫn chưa thấu ngộ, chỉ trong một sát na bỗng nhiên hiểu rõ.
Mà Văn Thù Bồ Tát trước mắt đang nhìn bạn, sẽ vì bạn mà mở cánh cửa lòng còn đóng kín, để bạn hiểu rằng, cuộc sống ngoài rượu thịt ê hề, vẫn còn có trăng thanh gió mát.
Có lúc, dù có ngàn vạn lời nói cũng không bằng một cái mỉm cười giơ cành hoa của Phật tổ. Bức tượng Phật có muôn vàn thần thái ấy, chẳng phải là một loại nhân sinh bách tướng khác hay sao? Trong thánh địa Ngũ Đài gió mây vạn dặm, công lợi mà người đời chăm chăm tìm kiếm, trong con mắt Phật tổ chẳng qua chỉ là phú quý phù vân, công danh hão huyền. Ngài có thể biến sinh mệnh tươi đẹp như hoa, cũng có thể coi vạn vật như tro bụi. Thời gian âm thầm trôi đi, những người đến đây cũng chỉ cần dừng lại trong giây lát, hiểu thấu một chút Phật pháp, giác ngộ một vài nét Thiền tâm, rồi sau đó tiếp tục đi đến chân trời.
Ở núi Ngũ Đài, đâu đâu cũng là núi lạ vách thiêng, dù vô tình hay hữu ý đều có thể gặp những ngọn núi này, vẻ đẹp tự nhiên sẽ khiến tư duy của bạn biến hóa muôn trùng. Dường như mỗi một ngả rẽ lối quặt đều là một bước ngoặt khổ tận cam lai, phong cảnh tự nhiên sáng sủa ấy, kiến thức lịch sử lớn lao, Phật học Thiền lý sâu sắc ấy, lại tưới tắm cho cõi lòng khiến bạn trở nên thông đạt ôn hòa. Năm ngọn núi như năm cột chống trời đâm thẳng lên trên, sừng sững cao vút, đỉnh núi lại bằng phẳng như cái đài, cái tên Ngũ Đài cũng từ đây mà ra.
Đứng giữa thắng cảnh Ngũ Đài, ngắm nhìn làn khói ngưng tụ xanh thẳm, ráng trời như gấm như hoa, ngắm sương khói phù vân, trăng treo đỉnh núi, khiến bạn lên cao mà không thấy lạnh lẽo, ở nơi huyền ảo mà chẳng thấy mông lung. Bởi vì mỗi đám mây màu lướt qua người bạn, mỗi làn gió mát thoảng qua áo khăn, đều nói với bạn rằng, bạn đang ở Ngũ Đài, bạn đang ở dưới chân Đại Phật, những câu chuyện bạn từng bỏ lỡ đều đã được gửi gắm trong năm tháng trôi đi. Bạn đến Ngũ Đài, đứng trên đỉnh cao, từ mây tụ đến mây tan, từ hoa nở đến hoa tàn, cho đến khi khói ráng nhuộm màu hoàng hôn, trăng tròn chiếu sáng trời đêm, giấc mộng mơ hồ vẫn chưa hề tỉnh lại.
Luôn có một phong cảnh trong sáng thanh tịnh cần bạn phải hối hả vội vã tới đó; luôn có một khoảng tháng năm như nước, khiến chúng ta không thể thờ ơ phụ bạc nó. Suốt chặng đường đi vòng vèo ấy, bước chân giữa phong cảnh tươi sáng của nhân gian, giữa hành lang lịch sử sâu hun hút, góp nhặt những khoảnh khắc như gió cuốn mây trôi. Đi qua hết núi hết sông, ngắm tận mưa khói lá rụng, ngọn núi chót vót ấy, Ngũ Đài trong lành chính là hình bóng mà bạn cần tìm lúc này. Trong cảnh Thiền nguyên sơ này, những khói lửa của linh hồn khi mờ khi tỏ đến vô cùng, dù bạn có đến đây với những suy nghĩ hào hùng ngông cuồng đến đâu, chỉ cần bước chân vào thánh địa gọi là Ngũ Đài này, trăm mối ngổn ngang đều biến thành bình tĩnh ung dung.
Chỉ là trong khoảnh khắc một chiếc lá lìa cành, hồng trần đã ở sau lưng, khiến bạn ngỡ rằng cửa Phật hóa ra không cao vời đến vậy, bước đi một thước, ngoái nhìn một cái, bạn đã có mặt giữa đất Phật. Đi xuyên qua núi Ngũ Đài, không khí mát mẻ bao trùm khắp núi non, còn cả mùi đàn hương thoang thoảng từ những đền miếu khác nhau thoảng về, khiến bạn ngất ngây say đắm.
Cho dù bạn biết rằng, cố chấp bước vào thánh địa mát lành này có thể sẽ bị rơi vào vòng xoáy của khói mây vạn trạng, không thể nào thoát ra; nhưng bạn vẫn cam tâm tình nguyện vứt bỏ sự ấm áp của khói lửa hồng trần, truy tìm sự minh mẫn hơn nữa trong cảnh Thiền mông lung này. Những tháng ngày mát lành nơi đây sẽ dần dần phủ lấp và làm dịu hàng nghìn hàng vạn suy nghĩ nóng vội, khiến cho những chúng sinh còn mê lầm giữa bùn lầy của nhân gian đến được con đường nhân sinh yên ả và thông đạt.
Kiếm tìm dọc theo những ngõ nhỏ sâu hút trong lịch sử, quãng đường nối liền từ thời Hán đến thời Đường trồng đầy cây bồ đề. Đứng trên núi Ngũ Đài, nhìn thấy Đại Hán xanh xanh, nhìn thấy triều Đường huy hoàng chói lọi, nhìn thấy biết bao đế vương cuồng vọng tay cầm kinh kệ thành khẩn nguyện cầu trước Phật, cầu cho Phật tổ phù hộ giang sơn, vạn đời nối tiếp. Những cuốn kinh ngả vàng ấy có thể mài giũa sự ngang ngược ngút trời của đế vương, cũng có thể trừ bỏ sự bi quan khiếp nhược của thế nhân, để trong một cuốn sách nhỏ hẹp, bạn có thể nhìn thấy bờ cõi rộng lớn của đời người.
Đặc biệt là triều Đường, đây là một triều đại tôn sùng Phật giáo, thịnh hành Phật giáo, vì hai vương triều Lý - Đường khởi binh từ Thái Nguyên mà có được thiên hạ, vì thế nên gọi núi Ngũ Đài là “Tổ tông thực đức chi sở” (nơi tổ tiên gầy dựng công đức). Mấy đời đế vương đều xây dựng chùa chiền trên núi Ngũ Đài, tăng lữ lớp lớp xuất hiện, bạn có thể tưởng tượng khí thế vạn phật ngồi trang nghiêm trên đài sen đó, Phạn âm quấn quít giữa mây khói mờ mịt, mà ngàn vạn khách hành hương từ Ngũ Hồ Tứ Hải lặn lội lên núi ngắm cảnh. Đây là nơi Phật Đà gặp gỡ chúng sinh, là dịp thuyết pháp giảng kinh ngàn năm mới gặp, là chốn phong vân hội tụ.
Đứng bên bờ năm tháng thênh thang, nhìn lại núi Ngũ Đài, giai đoạn Thịnh Đường huy hoàng sáng lạn năm đó đã biến mất trong mây khói mênh mang của lịch sử. Thế nên giang sơn hao gầy mà đế vương nhìn thấy trong chiếc chén, chính là cảm giác đổ vỡ hoang lạnh đến kinh người trong tim bạn. Cho dù núi Ngũ Đài ngày nay không được phồn thịnh như thời Đại Đường, nhưng vẫn còn đó sơn tự sừng sững, tăng lữ như mây. Trong khung cảnh núi trong nước mát này, những ngọn lửa Thiền vẫn luôn nhấp nháy, kinh kệ trước Phật vẫn luôn ngâm nga, không hề vì sự thay triều đổi đại mà ngừng nghỉ gián đoạn, cũng không vì năm tháng trôi qua mà bỗng chốc mệt mỏi.
Chỉ cần bạn đến đây bằng cả trái tim, bạn sẽ có thể nhìn thấy biết bao nhiêu chùa miếu mọc lên san sát giữa cơn gió mát già cỗi, biết bao nhiêu khói hương trở nên bừng sáng rực rỡ trong ngày tháng hoang lạnh. Sinh mệnh vốn là cái này chết đi cái kia sinh ra, khi bạn ngẩng đầu nhìn ra xa, vầng mặt trời đỏ ối từ từ nhô cao giữa dãy núi non trùng điệp ấy đã lại tỏa sáng soi chiếu thế gian, vương giả phong lưu.
Núi Ngũ Đài là đạo tràng của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, chùa miếu giữa núi đều thờ cúng tượng Phật của Văn Thù Bồ Tát. Người toàn thân dát vàng, dáng vẻ như đồng tử, tóc búi cao năm chòm, tay trái cầm hoa, tay phải cầm kiếm, dùng Thiền lý trí tuệ, Phật nghĩa từ bi để độ hóa người đời. Mỗi khách hành hương cưỡi gió mà đến, dưới trời xanh biêng biếc bước vào từng tòa điện miếu thanh tịnh, hương khói thoang thoảng bồng bềnh, Phạn âm vang vọng xa xa, sẽ khiến bạn chợt tỏa hào quang, có lẽ những đạo lý bao năm nay vẫn chưa thấu ngộ, chỉ trong một sát na bỗng nhiên hiểu rõ.
Mà Văn Thù Bồ Tát trước mắt đang nhìn bạn, sẽ vì bạn mà mở cánh cửa lòng còn đóng kín, để bạn hiểu rằng, cuộc sống ngoài rượu thịt ê hề, vẫn còn có trăng thanh gió mát.
Có lúc, dù có ngàn vạn lời nói cũng không bằng một cái mỉm cười giơ cành hoa của Phật tổ. Bức tượng Phật có muôn vàn thần thái ấy, chẳng phải là một loại nhân sinh bách tướng khác hay sao? Trong thánh địa Ngũ Đài gió mây vạn dặm, công lợi mà người đời chăm chăm tìm kiếm, trong con mắt Phật tổ chẳng qua chỉ là phú quý phù vân, công danh hão huyền. Ngài có thể biến sinh mệnh tươi đẹp như hoa, cũng có thể coi vạn vật như tro bụi. Thời gian âm thầm trôi đi, những người đến đây cũng chỉ cần dừng lại trong giây lát, hiểu thấu một chút Phật pháp, giác ngộ một vài nét Thiền tâm, rồi sau đó tiếp tục đi đến chân trời.
Ở núi Ngũ Đài, đâu đâu cũng là núi lạ vách thiêng, dù vô tình hay hữu ý đều có thể gặp những ngọn núi này, vẻ đẹp tự nhiên sẽ khiến tư duy của bạn biến hóa muôn trùng. Dường như mỗi một ngả rẽ lối quặt đều là một bước ngoặt khổ tận cam lai, phong cảnh tự nhiên sáng sủa ấy, kiến thức lịch sử lớn lao, Phật học Thiền lý sâu sắc ấy, lại tưới tắm cho cõi lòng khiến bạn trở nên thông đạt ôn hòa. Năm ngọn núi như năm cột chống trời đâm thẳng lên trên, sừng sững cao vút, đỉnh núi lại bằng phẳng như cái đài, cái tên Ngũ Đài cũng từ đây mà ra.
Đứng giữa thắng cảnh Ngũ Đài, ngắm nhìn làn khói ngưng tụ xanh thẳm, ráng trời như gấm như hoa, ngắm sương khói phù vân, trăng treo đỉnh núi, khiến bạn lên cao mà không thấy lạnh lẽo, ở nơi huyền ảo mà chẳng thấy mông lung. Bởi vì mỗi đám mây màu lướt qua người bạn, mỗi làn gió mát thoảng qua áo khăn, đều nói với bạn rằng, bạn đang ở Ngũ Đài, bạn đang ở dưới chân Đại Phật, những câu chuyện bạn từng bỏ lỡ đều đã được gửi gắm trong năm tháng trôi đi. Bạn đến Ngũ Đài, đứng trên đỉnh cao, từ mây tụ đến mây tan, từ hoa nở đến hoa tàn, cho đến khi khói ráng nhuộm màu hoàng hôn, trăng tròn chiếu sáng trời đêm, giấc mộng mơ hồ vẫn chưa hề tỉnh lại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét