Với Xuân Diệu, kỳ diệu nhất là đời
(Phát biểu tại Đêm thơ "Quê hương với Xuân Diệu")
"Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!" là một câu thơ mang
"thương hiệu" Xuân Diệu. Có lẽ, trong rất nhiều động từ thể hiện cái
cảm giác vồ vập, siết chặt, níu giữ hay sợ hãi một cái gì trôi tuột, thì động từ
"cắn" mà Xuân Diệu dùng cho câu thơ này là mạnh mẽ nhất và chính xác
nhất. Nhà thơ chỉ hơn người thường ở cách dùng chữ, vẫn là những chữ đó thôi,
khỏi cần "sáng tạo" thêm những chữ mới chưa có trong đời sống và
trong ngôn ngữ, nhưng sử dụng chúng thế nào, đặt chúng vào đâu trong văn cảnh,
trong trường ngữ nghĩa, trong mạch cảm xúc, điều đó quyết định đẳng cấp nhà
thơ. Xuân Diệu chỉ chơi một chữ "cắn", thế là xong béng tất cả những
cảm giác, những cảm xúc, những cảm thấy về những gì tuyệt ngon, tuyệt đẹp, tuyệt
khoái cảm mà mùa xuân mang lại cho con người. Nhưng vì sao Xuân Diệu viết được
chữ "cắn" trong câu thơ đó, thì là cả một câu chuyện dài.
Xuân Diệu là người yêu đời, yêu vồ vập, yêu đắng đót (như chữ dùng của ông) và
yêu đằm thắm như con yêu mẹ, mẹ yêu con:
"Theo ý má, con là hơn tất cả
Ánh mặt trời, má cũng gửi vào con
Bánh con cho, má để dành lại đã
Con ăn cùng, má mới thấy quà ngon"
Với một nhà thơ có hàng ngàn bài thơ, mấy ngàn trang viết để lại cho đời, thì
trích dẫn Xuân Diệu luôn là một thách thức với bất cứ ai muốn viết về ông. Tôi
cũng không là ngoại lệ. Nhưng tôi, yêu bất chợt một bài thơ nào đó của Xuân Diệu,
tôi lại cứ muốn trích nhiều hơn:
Má thường nhắc chuyện ở trong Bình Định
Con cá, con tôm, mắm muối thế nào
Chuyện làng vạn xưa kia hò giã gạo
Những tiếng chày nện cối suốt đêm sao"
(Thơ tặng má)
Xuân Diệu thường có một giọng thơ đặc biệt tâm tình, đặc biệt khẽ nhẹ như vậy
khi viết về mẹ mình, viết về quê mẹ mình:
"Quy Nhơn nhà cũ cạnh chùa Bà
Gió biển thường vô kể chuyện xa"
(Tâm sự với Quy Nhơn)
Đó là một giọng thơ thật trầm ấm, chất chứa những nỗi niềm, và giản dị tới mức
như những lời nói thường, bất chợt thốt lên. Người ta nói, Xuân Diệu là
"Ông Hoàng thơ tình", với nghĩa ông là chủ nhân của hàng mấy trăm bài
thơ tình yêu - cái tình yêu cổ xưa nhất của nhân loại là tình yêu trai gái -
trong đó có những bài tuyệt tác. Nhưng tôi nghĩ, Xuân Diệu còn là Ông Hoàng của
thơ viết về tình yêu cuộc sống, thơ về đời sống, một dòng thơ mộc mạc hiếm có ở
một người đã từng sở hữu những câu thơ trau chuốt vào bậc nhất trong thơ Việt:
"Đàn ghê như nước, lạnh, trời ơi...
Long lanh tiếng sỏi vang vang hận"
(Nguyệt cầm)
Hay:
" -Tôi là con nai bị chiều đánh lưới
Chẳng biết đi đâu, đứng sầu bóng tối"
(Khi chiều giăng lưới)
Một nhà thơ như thế vẫn viết được những câu thơ quá đỗi thân gần ấm áp về đời sống,
một đời sống hiện tồn và không dứt, một đời sống chảy trôi bình thản và còn lại
ngay cả khi ta lơ đãng bỏ qua:
"Một buổi chiều trong bếp nấu cơm
Má đang lặt rau, lửa nhè nhẹ cháy
Một buổi chiều trong vườn sạch lá
Đất còn mang dấu chổi quét ban mai"
(Một buổi chiều)
Nếu thơ tình của Xuân Diệu là thơ tình trong khao khát và cố dấu nỗi buồn thất
vọng, thì thơ tình yêu cuộc sống của ông lại quấn quít ta như lửa bếp, như nắm
rau vừa lặt, như khu vườn chợt quang quẽ "còn mang dấu chổi quét ban
mai".
Có một hình ảnh về Xuân Diệu khiến tôi nhớ mãi. Ấy là một buổi chiều ở Kiep,
tháng 5.1985, gọi là chiều vì mùa hè ở châu Âu mặt trời chỉ tắt khi đã 10 giờ
đêm, mà lúc ấy vào khoảng 9 giờ tối, bên ta gọi là quá hoàng hôn mà non chập
choạng. Xuân Diệu ngồi im lặng trên một chiếc ghế đá cạnh bến tàu điện, loại
tàu điện mà Tây gọi là "troleybus" - tàu điện chạy bánh hơi. Trông
Xuân Diệu lúc ấy thật buồn, cứ như ông đang nhìn theo từng chuyến tàu điện -
con tàu của đời sống đang chạy xa dần nơi ông ngồi, chạy xa mà ông không thể
lên tàu, hay ông bị nhỡ tàu. Lúc ấy, có một bà cụ người Ukraina đến bên chúng
tôi và nói: "Đây là chuyến tàu điện cuối cùng!". Xuân Diệu như sững
người. Nhưng ông không nói gì. Tôi không thể ngờ, chỉ khoảng 7 tháng sau, Xuân
Diệu đã về một nhà ga vĩnh viễn xa lắc xa lơ nào đó. Dù sau đó chúng tôi còn một
chuyến đi thực tế với Xuân Diệu về Tuy Phước quê mẹ ông, nhưng tôi có cảm giác,
vào tháng 5.1985 ấy, ở một bến tàu điện xứ người, tôi đã lần cuối cùng được ngồi
lặng lẽ bên Xuân Diệu. Bây giờ tôi mới hiểu, cái dáng vẻ lặng buồn như tượng của
Xuân Diệu lúc ấy là bởi ông đã linh cảm chuyến đi cuối cùng của mình và ông tiếc
nuối bao nhiêu cuộc đời mình đã yêu đã sống. Bởi, với Xuân Diệu, kỳ diệu nhất vẫn
là đời sống, một đời sống thô tháp, giản dị, thân gần, ấm áp và cả những lạnh lẽo
mà ông đã yêu, "cho tới hơi thở cuối".
THANH THẢO
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét