“Hành trình của Trần Đức Thảo.
Đây là kết quả của cuộc hội thảo khoa học về triết
gia Trần Đức Thảo trong hai ngày 22 và 23.06.2012 tại Trường Sư phạm cao cấp,
phố Ulm, Paris (École normale supérieure, Rue d’Ulm/ENS), ngôi trường lừng
danh của nước Pháp và cũng là nơi đào tạo Trần Đức Thảo vào đầu những năm 40 thế
kỷ trước, do chính nhà trường tổ chức, phối hợp với Trung tâm quốc gia nghiên cứu
khoa học của nước Pháp (CNRS) và Kho lưu trữ Husserl. (Xem Chương trình hội thảo
được thông báo bằng tiếng Pháp ở Phụ lục cuối sách).
Jocelyn Benoist, giáo sư triết học Đại học Paris I
và Michel Espagne, giám đốc nghiên cứu thuộc CNRS vừa làm nhiệm vụ điều phối cuộc
hội thảo, vừa tập hợp, chọn lọc và bổ sung các tham luận cho tập kỷ yếu “Hành
trình của Trần Đức Thảo” này. Với nhan đề “L’itinéraire de Tran Duc Thao.
Phénoménologie et transferts culturels” (NXB Armand Colin/Recherches,
Paris, 2013), tập kỷ yếu này gồm có hai phần: phần I là các tham luận chọn lọc
và phần II in lại toàn văn nguyên bản tiếng Pháp tác phẩm tiêu biểu và nổi tiếng
nhất của Trần Đức Thảo: “Hiện tượng học và chủ nghĩa duy vật biện chứng” (xuất
bản lần thứ nhất tại NXB Minh Tân, Paris, 1951), cung cấp cho người đọc tư liệu
gốc về hành trình tư tưởng của Trần Đức Thảo trong những năm học tập và hoạt động
triết học của ông tại Pháp trước khi rời Pháp về Việt nam vào năm 1951. Mọi
công trình về sau của ông, kể cả những bản thảo vào cuối đời, thực chất chỉ triển
khai những ý tưởng và đề án cốt lõi trong tác phẩm này. Không xét đến những hạn
chế khó tránh khỏi về nguồn tư liệu tham khảo và tính cập nhật do hoàn cảnh
khách quan, người đọc ngày nay có thể chia sẻ “cảm tưởng” của Thierry
Marchaisse (Niệm ca về cái chết của Trần Đức Thảo) như thể “thời gian
dừng lại” và dường như “tất cả có lẽ được viết trước khi ông về Việt
Nam”, nói lên sự liên tục và nhất quán trong dự phóng nền tảng của Trần Đức Thảo.
Lời dẫn nhập hàm súc nhấn mạnh vị trí đặc biệt
của Trần Đức Thảo như là một hiện tượng “chuyển giao văn hóa” độc đáo: từ triết
học Đức (hiện tượng học Husserl) sang Pháp, rồi từ Pháp sang Việt nam và ngược
lại: “Ta có ở đây một sự chuyển giao văn hóa tay ba như là sự chuyển đổi từ một
không gian tư tưởng này sang một không gian tư tưởng khác và những ngữ nghĩa
bao hàm được đưa thêm vào đó lại làm xuất hiện một chân trời tư tưởng thứ ba”.
Trở lại với tầm quan trọng và giá trị đặc biệt của tác phẩm “Hiện tượng học
và chủ nghĩa duy vật biện chứng” (ở phần II), Lời dẫn nhập cho thấy
“diện mạo Husserl như chúng ta thấy hôm nay phụ thuộc rất lớn vào tác động của
việc Thảo nỗ lực truyền đạt, tổng hợp”, nhất là khi ông là người đầu tiên khai
thác các bản thảo thuộc Nhóm C (bấy giờ chưa công bố) của Husserl cho giới
nghiên cứu Pháp. Công trình nói trên của Trần Đức Thảo “không chỉ đơn thuần là
một sự trình bày tư tưởng của Husserl mà là một sự diễn giải chắc chắn và triệt
để, ắt sẽ định hướng sâu sắc cho những con đường theo hướng chủ nghĩa chú giải,
ít nhất là ở khu vực tiếng Pháp, nơi ta biết rằng khoa hiện tượng học, và đặc
biệt là sự tham khảo Husserl, chắc chắn vẫn tiếp tục rất sôi động (…). Cuốn
sách thật kỳ lạ; nó tháo dỡ (déconstruit) đối tượng của nó ra ngay
trong khi giới thiệu, và, trong chừng mực nào đó, cuốn sách đã trở thành cuốn
giáo trình mà lại không thuộc về cái mà nó phê phán. Khoa hiện tượng học ở Pháp
chắc chắn đã chịu ảnh hưởng lâu dài bởi quyển sách này, trong chừng mực kế thừa
từ Thảo cái ý tưởng về khoa hiện tượng học bị đặt vào một tình thế khủng hoảng
ngay trước khi nó kịp bắt đầu. Hiện tượng học Pháp chắc chắn vẫn chưa hết ưu tư
về sự kiện này, vẫn chưa hết băn khoăn về những giới hạn và câu hỏi về bản thân
khả thể của hiện tượng học, vốn làm nên đặc điểm của việc người Pháp tiếp nhận
lại truyền thống Đức ngữ này. Trong một sự chuyển đổi và đột biến như vậy thì
chắc chắn Thảo, từ chiều sâu của những khác biệt đa dạng của ông và những vấn đề
nảy sinh ra với ông, vượt khỏi phạm vi triết học đơn thuần, đã đóng góp một vai
trò xuất sắc”.
Những “ưu tư” và “băn khoăn” về
hành trình của Trần Đức Thảo nói riêng cũng như của hiện tượng học nói chung sẽ
là nội dung của các tham luận được chọn in trong phần kỷ yếu. Phần I này có thể
chia làm bốn cụm đề tài:
1. Các tham luận liên quan đến tiểu sử của Trần Đức
Thảo, các cột mốc về cuộc đời và tác phẩm của ông trong suốt ba chặng đường: ở
Pháp, ở Việt nam và trở lại Pháp cho đến khi qua đời tại Paris ngày 24.04.1993
(Daniel Hémery, Philippe Papin, Trịnh Văn Thảo, Hoai Hương Aubert-Nguyen,
Thierry Marchaisse).
2. Đóng góp đặc biệt của Trần Đức Thảo trong việc
thiết lập cơ sở ban đầu của kho lưu trữ Husserl tại Paris (Jean-Francois
Courtine). Sau nỗ lực giải cứu kho bản thảo đồ sộ của Husserl khỏi tay chế độc
quốc xã của linh mục Van Breda để bí mật chuyển sang Louvain (Bỉ), Trần Đức Thảo
và Merleau-Ponty được tín nhiệm “tiến hành lựa chọn các bản thảo chưa in thành
sách. Loạt bản thảo được chép lại này (3000 rồi sau đó là 2100 trang) được để tại
Paris, đầu tiên là tại Trường Sư phạm cho tới tháng 12 năm 1946 và một số quan
trọng khác (thuộc Nhóm C được Trần Đức Thảo trích dẫn dài và lần đầu tiên trong
tác phẩm của mình) cho tới tận cuối năm 1948”. Sau bao thăng trầm và dàn xếp vất
vả, “một trung tâm Husserl đặt tại thư viện Đại học Sorbonne đã mở cửa vào
tháng 5 năm 1958” (tức mãi bảy năm sau khi Trần Đức Thảo chia tay Paris!).
3. Đóng góp độc đáo của Trần Đức Thảo trong phong
trào chống chủ nghĩa thực dân Pháp cả về lý luận lẫn thực tiễn, trong quan hệ
phong phú với phong trào người Việt chống thực dân tại Pháp, với tạp chí Les
Temps Modernes (“Thời Đại mới”) nổi tiếng và nhóm chủ trương tạp chí
(“Chống chủ nghĩa thực dân và ly khai: Trần Đức Thảo và Tạp chí “Thời đại mới”/“Les
Temps modernes” của Jérôme Melançon), đặc biệt với tư tưởng chống thực dân
từ Jean-Paul Sartre đến Frantz Fanon (Sự tiến triển của tư tưởng Trần Đức Thảo,
nhìn vào từ Sartre đến Fanon của Perrine Simon-Nahum). Theo tác giả này, lần
đầu tiên người ta “thấy triết học ở cội nguồn của các phân tích về vấn đề thuộc
địa xuất hiện trong các môi trường trí thức”. Nói khác đi, Trần Đức Thảo đi
tiên phong trong “phân tích hiện tượng học-chính trị”, “không đơn thuần mô tả
các sự kiện cho bằng đặt chúng trong tương quan với triết học”. Ông “mô tả tình
hình thuộc địa, từng bước một lấy hiện tượng học làm tấm gương phản chiếu, rồi
sử dụng cái khung mác-xít và nhờ đó có một âm điệu đặc biệt”. “Chính sự gặp gỡ
với chủ nghĩa Marx đã đặt triết học này vào con đường của hành động và thế giới
hiện thực, và điều này lại nhờ có cuộc chiến đấu chống chủ nghĩa thực dân”. Như
thế, chúng ta có thể hiểu rằng: mô tả hiện tượng học - lý thuyết về Praxis
- cuộc đấu tranh giải thực ở Việt Nam và Đông dương là “bộ ba” sẽ khuôn định
nên cuộc dấn thân bi tráng của Trần Đức Thảo. Trong khung cảnh ấy, “diễn ngôn
chống chủ nghĩa thực dân” của Trần Đức Thảo là tiếng nói tiên phong và chủ đạo,
“tới mức đưa ra những quy tắc mới cho tư tưởng chống chủ nghĩa thực dân” trong
giới trí thức Pháp lúc bấy giờ: “Con đường triết học Trần Đức Thảo dẫn các nhà
trí thức khác nhau đi theo có thể được tóm thành ba giai đoạn: trước tiên là gặp
gỡ với vấn đề đặt ra do sự phủ nhận tính cách phổ quát của tâm thần con người
[“Trần Đức Thảo đặt đối nghịch chân trời của người bị đô hộ và thực dân, hai
chân trời không thể hòa làm một cũng không thể gặp nhau”], kế đó, sự cần thiết
phải xích lại với chủ nghĩa Marx dưới ánh sáng của một chủ thể tính được khách
thể hóa và, cuối cùng, vấn đề từ nay phải chấp nhận bạo lực. Dẫu không phải tất
cả đều trải qua theo cùng một nhịp, song ba giai đoạn trên làm thành những cột
mốc của một hành trình đưa phần lớn họ từ tinh thần của cuộc Giải phóng tới sự
dấn thân vào chủ nghĩa Marx”. Điều này sẽ được minh chứng qua ảnh hưởng ngày
càng lớn của Trần Đức Thảo lên tư tưởng chống thực dân của Jean-Paul Sartre
(năm 1946, trong Thuyết hiện sinh là một thuyết nhân bản[1],
Sartre còn cho rằng mọi dự phóng cá nhân đều mang tính phổ quát, có thể truyền
thông được, và, giống như Marx, tin vào một nhân loại “hòa giải”) và nhất
là lên Frantz Fanon (1925-1961), bác sĩ tâm thần học và nhà tư tưởng, nhà chiến
sĩ chống thực dân nổi tiếng gốc Bắc Phi đến Pháp từ 1947, qua những nghiên cứu
thực nghiệm, xác nhận và triệt để hóa các luận điểm của Trần Đức Thảo.
4. Đặc biệt phong phú là cụm đề tài về triết học, gồm
nhiều bài viết khác nhau liên quan đến sự chuyển hóa tư tưởng của Trần Đức Thảo
từ hiện tượng học đến chủ nghĩa duy vật biện chứng trong bối cảnh đương thời với
nhiều hệ quả và vấn đề cần được tiếp tục phân tích và bàn luận.
Mở đầu cho cụm bài này, Jocelyn Benoist (“Cuộc
“tự nhiên hóa” lần đầu tiên đối với hiện tượng học?”) muốn đọc Trần Đức Thảo
như “một toàn bộ, trong tính thống nhất”, “xét mối liên hệ giữa các nghiên cứu
đầu tiên của ông với các nghiên cứu sau này trong quyển Các nghiên cứu về
nguồn gốc của ngôn ngữ và ý thức”. Đặt dự phóng của Thảo trong viễn tượng
như vậy, theo Benoist, sẽ nhận ra “một hình thức nào đó của công cuộc “tự nhiên
hóa” đối với hiện tượng học”. “Tự nhiên hóa” (naturalisation) là “xét
lại”, “tái cấu tạo” và “vượt ra khỏi” dự phóng cơ bản của hiện tượng học khi
Husserl muốn khắc phục “thái độ tự nhiên” nhằm có thể thâm nhập vào lĩnh vực
“hiện tượng thuần túy của ý thức”. Như thế, “tự nhiên hóa” là nỗ lực đặt hiện
tượng học trở lại trong vận động hiện thực của giới tự nhiên, tiến tới xây dựng
một “thuyết duy nhiên kiểu mới” (“un naturalisme d’ un genre nouveau”) (từ
của Trần Đức Thảo). Vậy, “thuyết duy nhiên kiểu mới” này là gì? Theo Benoist,
“không có gì bí ẩn để nhận dạng thuyết duy nhiên này cả: đó là thuyết duy nhiên
dựa vào lập trường duy vật biện chứng trong các nghiên cứu của F. Engels (Phép
biện chứng của Tự nhiên, Chống Dühring)”. Theo tác giả, Trần Đức Thảo nhìn thấy
trong một thuyết duy nhiên như vậy “cơ hội viết lại và đặt lại viễn tượng duy vật
chủ nghĩa cho động lực của hiện tượng học”. Tuy nhiên, “sự trở về lại với
thực tại không phải là trở về lại với tồn tại vật tính tĩnh tại bị tách rời khỏi
sự vận động của đời sống hiện thực mà là trở về lại với chính sự vận động ấy”.
Nói cách khác, “thuyết duy nhiên kiểu mới” của Trần Đức Thảo không phải là thuyết
duy vật cơ giới, “không phủ định tính chủ thể cấu tạo” của Husserl, trái lại, đồng
nhất tính chủ thể này với “bản thân giới tự nhiên trong tiến trình trở
thành-chủ thể của nó” (cách nói của Trần Đức Thảo trong tác phẩm chính đã
nêu và được Benoist nhấn mạnh).“Tự nhiên trở thành chủ thể” có nghĩa là
tính vật chất không còn được hiểu một cách trừu tượng như là đối lập và bất
tương thích với tư duy (như trong thuyết duy vật cơ giới “quy giản luận”), mà
là “hình thức nguyên thủy luôn có mặt trong sự vận động nâng cao nó lên thành sự
sống và ý thức”. Vì thế, thay vì, như nơi Husserl, xuất phát từ kinh nghiệm “sống
trải” với “tính ý hướng” vốn chỉ là “một phương diện trừu tượng” của cuộc
sống hiện thực, Trần Đức Thảo “đề xuất một sự viết lại các phạm trù
cơ bản của hiện tượng học bằng ngôn ngữ của hoạt động-hành vi (pragmatico-comportementaux). “Hành
vi” không phải là “đối vật” hay “đối tượng”, trái lại, “là tiến trình trở
thành-chủ thể của bản thân giới tự nhiên, và đồng thời với sự trở thành-chủ
thể ấy, cấu tạo nên ý nghĩa“hiện thực” của chủ thể”. Hay nói rõ hơn theo
Trần Đức Thảo, đó là “sự vận động hiện thực, nhờ đó giới tự nhiên trở
thành con người bằng cách tự cấu tạo nên chính mình như là tinh
thần” (Xem phần II, tiểu đoạn 287 và tiếp). Trong tinh thần ấy, cách tiếp cận của
Trần Đức Thảo “không bác bỏ mà nói lên sự thật hay chân tướng của thuyết duy
tâm siêu nghiệm”.
Như thế, Benoist đã đi ngay vào dự phóng trung tâm
của toàn bộ triết học Trần Đức Thảo. Theo chúng tôi, nếu Hegel đã xuất phát từ
luận điểm biện chứng độc sáng về việc “bản thể trở thành chủ thể”, khắc phục
“tính bản thể” cứng nhắc của siêu hình học cổ truyền từ Spinoza đến Schelling để
triển khai một “Hiện tượng học Tinh thần”[2],
thì cũng có thể nói, Trần Đức Thảo đã tiếp thu luận điểm cơ bản ấy và dành trọn
đời để theo đuổi nhất quán và kiên trì đề án xây dựng một “Hiện tượng học
(về/của) Vật chất” với nghĩa trọn vẹn của từ này. “Vật chất”, ở đây, tất
nhiên, được Trần Đức Thảo hiểu theo nghĩa “hậu quy giản” của Husserl, đã vượt bỏ
“thái độ tự nhiên” ngây thơ như yêu cầu đầu tiên của hiện tượng học.
Công cuộc lớn lao và đầy tham vọng ấy đã mang lại
những thành tựu nào, gặp những khó khăn và mâu thuẫn gì, và đặt chúng ta trước
những thử thách mới ra sao, sẽ được các tham luận còn lại đề cập và trao đổi.
Trong khi Benoist nhận thấy toàn bộ công việc phân
tích sinh triển về tính ý hướng theo kiểu Husserl từ nay được Trần Đức Thảo triển
khai trên mảnh đất của tập tính học (éthologie), tức trên cơ sở nghiên cứu
các chức năng cảm giác-vận động, được trình bày như là xuất xứ và cơ sở của cấu
trúc ý hướng tính, “là cái gì rất hiện đại: nó không phải không gợi nên sự liên
hệ tới một số nghiên cứu mới hiện nay về tính ý hướng, chẳng hạn như các nghiên
cứu gợi ra những ý tưởng mới mẻ của Alva Noë”[3],
thì Masoud Pourahmadali Tochahi có cái nhìn khá dè dặt và hoài nghi.
Trong “Nguồn gốc của sự ý thể hóa và vấn đề chuyển tiếp từ động tác chỉ trỏ
sang sự biểu nghĩa nơi Trần Đức Thảo”, sau khi phân tích những thành quả và những
khó khăn của việc hình thành ý thức, đã nêu “những câu hỏi không chỉ Thảo mà
toàn bộ triết học duy vật về ngôn ngữ phải trả lời”:
“… đó là, thứ nhất, làm thế nào cái “cái này” (le
“ceci”) mà một chủ thể hay toàn bộ các chủ thể sống trong một cộng đồng
nào đó đã nghiệm trải trong các mối quan hệ tương tác cụ thể của cuộc sống vật
chất lại tự thoát khỏi các mối quan hệ ấy để rồi trở thành đối tượng ý thể (objet
idéal) cho tất cả mọi chủ thể không nhất thiết đã nghiệm trải đối tượng ấy
- về mặt này, có thể lấy ví dụ hiển nhiên của sự phiên dịch với tư cách là khả
năng có thể tưởng tượng ra một đối tượng ở bên ngoài phạm vi một cộng đồng ngôn
ngữ. Câu hỏi thứ hai mà mọi triết học duy vật phải trả lời là như sau: làm thế
nào những đối tượng hư cấu và không hiện hữu (inexistant) lại có thể
xuất hiện trong ngôn ngữ và được tích hợp vào trong “ý thức tập thể” trong khi
chúng không có cái tương đương ở trong “thực tại vật chất”? Khoa hiện tượng học
giải quyết câu hỏi này bằng cách viện đến những thực thể mang tính bản chất phổ
biến (entités eidétiques) vốn luôn “có sẵn” ở trong đối tượng, nhưng
chỉ được “mang lại” ở trong và cho ý thức có tính ý hướng với tư cách ý thức
tuyệt đối và như thế, tạo ra “nghĩa” cho đối tượng ý hướng tính (sens
noématiques) mà bản thân những nghĩa ấy không phải là vật chất. Dĩ nhiên nếu
chỉ bắt đầu bằng thực tại vật chất hiểu theo nghĩa đen và bắt toàn bộ ý thức phải
phục tùng tính “hơn hẳn” (supériorité) của thực tại vật chất thì ta không
thể dễ dàng giải quyết vấn đề của sự chuyển đổi này. Ngay cả sự mô tả hình thức
một cách tỉ mỉ về sự chuyển đổi từ cái “cái “cái này” hiện tiền” (ceci
présent) sang cái “cái “cái này” vắng mặt” (ceci absent) như là
tiền-hình thức (préforme) của nguồn gốc của ý thức cũng không bao giờ
lý giải được cách thức mà các lớp phức tạp hơn nhiều của ý thức có thể thêm
vào. Có lẽ chính vì điều này mà Husserl đã tránh phân tích hệ vấn đề của ngôn
ngữ trong bối cảnh của thế giới cuộc sống và ông chỉ đề cập nó trong bối cảnh của
việc phân tích về ý thức. Rốt cuộc chính niềm tin vững chắc của Thảo vào một hữu
thể học về cử chỉ chỉ trỏ phụ thuộc vào lao động với tư cách hình thức nguyên
thủy của hoạt động con người đã ngăn cản ông phát triển một nghiên cứu thực sự
về nguồn gốc ngõ hầu có thể lý giải sự ra đời của ý thức và ngôn ngữ với tư
cách là cái nôi của ý nghĩa”.
Đi xa hơn, tác giả tỏ ra e ngại rằng “sự thay đổi
triệt để này về phạm vi nghiên cứu và việc ông (TĐT) chuyển dịch từ ý thức về
những trải nghiệm bên trong [kiểu hiện tượng học] sang những hành vi biểu hiện
ra bên ngoài (…) không thể được hiểu như là một sự thay đổi đơn giản về phương
pháp, hay như bản thân Thảo vẫn nói, một sự thay đổi về “chân trời”, mà đúng
hơn là một sự thay đổi bộ môn nghiên cứu (changement de discipline). Sự
thay đổi có thể đặt toàn bộ dự phóng của Thảo vào tình thế một sự từ bỏ triệt để
việc làm triết học (aphilosophisation radicale), điều dường như không hề
gây cho ông sự e ngại nào. Nói khác đi, việc Thảo dựa vào những nghiên cứu về
hành vi, viện cớ là một sự phân tích về hiện thực, rồi ông chỉ dừng lại ở đó mà
không rút ra những hệ quả hữu ích ngõ hầu giải quyết những vấn đề do hiện tượng
học đặt ra, có nguy cơ khiến ông đi ra ngoài lĩnh vực của triết học và đặt ông
vào một cái “tuyệt đối” mà ông vừa mới vất vả thoát ra bằng mọi nỗ lực công thức
hóa như ông đã thực hiện trong các nghiên cứu của mình”.
Alexandre Feron, trong “Từ hiện tượng học đến
chủ nghĩa duy vật biện chứng. Làm thế nào để “thanh toán lương tâm triết học
trước đây”? cho ta một cái nhìn tổng quan khá sáng sủa và lý thú về hành
trình “vượt bỏ hiện tượng học” của Trần Đức Thảo, một hành trình, theo tác giả,
là “nói dễ hơn làm” bởi nó quanh co, phức tạp, nhiều kịch tính trong mối
quan hệ chằng chịt với Husserl, Hegel và Marx. Qua việc phác họa “chân dung một
triết gia đang làm việc, nghĩa là không bao giờ ngừng nghỉ trong việc
đặt lại vấn đề và đấu tranh chống lại những quan niệm của chính mình”, tác giả
đồng ý với nhận xét của Althusser rằng, “chính trong tinh thần ấy, Trần Đức Thảo
chưa bao giờ thôi không còn là người theo Husserl!”.
Tác giả bài viết “muốn tái dựng lại cuộc hành trình
của Trần Đức Thảo bằng cách xem xét những phương thức khác nhau được ông quan
niệm về việc “vượt bỏ” hiện tượng học theo hướng chủ nghĩa duy vật biện chứng -
chúng cũng chính là những phương cách khác nhau để hiểu mối quan hệ giữa hiện
tượng học và chủ nghĩa Marx”. Để “tái dựng” hành trình này, tác giả “chọn cách
trở lại với ba thời điểm. Trước hết là quan tâm đến thời kỳ từ 1945 đến 1950,
trong đó Trần Đức Thảo hình như muốn tổng hợp hai trào lưu tư tưởng để
tạo nên một kiểu “chủ nghĩa Marx hiện tượng học” nào đó. Sau đó là [thời kỳ của]
quyển Hiện tượng học và chủ nghĩa duy vật biện chứng - tác phẩm trong
đó Trần Đức Thảo quan niệm việc vượt bỏ hiện tượng học như là phương tiện để
“thực hiện” (Aufhebung) nó [theo nghĩa của từ Aufhebung trong
Hegel: phủ định, bảo lưu, nâng cao]. Sau cùng, ta sẽ thấy ông [tự] phê
phán chính quan niệm này như thế nào để suy nghĩ về sự cần thiết phải “đi
ra khỏi” (Ausgang/sortie) hiện tượng học - việc “đi ra khỏi” này không còn
được xem như một thời kỳ, mà như là một ngõ cụt không lối thoát”. Bạn đọc cần một
bản “tổng thuật” gọn ghẽ, sáng sủa, vừa phân tích vừa tổng hợp về hành trình tư
tưởng của Trần Đức Thảo - tất nhiên, theo cách nhìn của tác giả - có thể tham
khảo bài viết này với sự chăm chú và phê phán cần thiết. Alexandre Feron kết luận
bài viết:
“Trần Đức Thảo, trong một cách nào đó, tìm thấy lại
Husserl. Thật thế, Husserl đã không ngừng bắt đầu lại hiện tượng học, và, khi
đã già yếu và hầu như sắp lâm chung, đã tuyên bố rằng rút cục, mình đã bắt đầu
hiểu hiện tượng học. Chúng tôi đã mở đầu bài viết này bằng cách đề nghị một
công thức để nói lên đặc điểm của quỹ đạo triết học của Trần Đức Thảo: đó là,
“vượt bỏ hiện tượng học”. Bây giờ, chúng tôi có thể kết thúc bài viết với đề
nghị về một lời tuyên bố “đối lại chan chát”: “Rút cục, tôi bắt đầu hiểu được
chủ nghĩa duy vật biện chứng!”.
Bài Từ hiện tại sống động đến vận động hiện thực.
Chủ nghĩa Marx và sự chuyển giao văn hóa ở Trần Đức Thảo của Michel
Espagne cũng là một nỗ lực “tổng thuật” khá công phu và lý thú, trước khi tác
giả đi đến kết luận: “Hiện tượng học, trong chừng mực nào đó, được dùng làm
công cụ trong sự trao đổi giữa Paris và nước ông. Đảm bảo một sự môi giới
Pháp-Đức, sự môi giới giữa hiện tượng học và chủ nghĩa Marx cũng như giữa Pháp
và Việt Nam, Trần Đức Thảo, với mối quan tâm của ông đối với tri giác về đối tượng,
sự sinh triển vật chất của ý thức, những sự song hành giữa các giai đoạn phát
triển kinh tế và phát triển ý thức nói lên nhiều hơn là một sự diễn giải về
Husserl. Ông là hiện thân của sự chồng lợp với tham vọng mạnh mẽ có tính định
hướng nghiên cứu (heuristique) giữa các không gian văn hóa (…)”. Tác
giả nói tới một “mô hình Trần Đức Thảo”, biểu lộ cái “chân trời Việt Nam” trong
những cuộc tranh luận ở Paris, theo nghĩa vừa kế thừa sinh hoạt trí tuệ của người
Pháp ở những năm 1940 và 1950, vừa gắn liền với những khó khăn mà vị triết gia
của chúng ta gặp phải khi “hòa mình” vào trong mọi phương diện của một hoàn cảnh
chính trị, xã hội đặc thù trên quê hương mình.
Cụm ba bài còn lại có chất lượng triết học rất
cao (“Husserl giữa Trần Đức Thảo và Derrida. Một thời kỳ của hiện tượng học
ở Pháp” của Daniel Giovannangeli; “Hiện tượng học và phép biện chứng.
Phê bình của Derrida đối với Trần Đức Thảo” của Raoul Moati; và “Jean
Cavaillès, Maurice Merleau Ponty, Trần Đức Thảo: ba nhà triết học “ra trường”
trong những năm 1940” của Claude Imbert) bổ sung nhiều thông tin và tư liệu
quý về diễn biến và các cách tiếp cận khác nhau đối với hiện tượng học ở Pháp
vào nửa đầu thế kỷ 20 của những người đồng thời với Trần Đức Thảo, tuy có chênh
lệch ít nhiều về tuổi tác nhưng có thể xem là cùng thuộc một thế hệ. Tất cả đều
đã hân hoan chào đón làn gió thanh tân từ hiện tượng học như là “triết học về
cái cụ thể”, hứa hẹn trở về với “bản thân sự vật” vốn là khát khao cố hữu của
tư duy triết học. Mỗi người hăm hở tự tìm cho mình một lối vào trong tinh thần
mới của một lề lối triết học “không có tiền giả định”. Và cũng chính tính cách
không có tiền giả định ấy cho phép cả một thế hệ (Cavaillès, Lévinas, Sartre,
Merleau-Ponty, Trần Đức Thảo, Ricoeur, Derrida, Lyotard…) không chỉ tìm “đường
vào” mà cả “đường ra”, thông qua sự phát hiện những mâu thuẫn, nghịch lý chưa
được bản thân “tôn sư” Husserl nhận diện hay giải quyết. Nếu Trần Đức Thảo nhận
ra mâu thuẫn “nội tại” giữa phương pháp hiện tượng học và những kết quả “hiện
thực” của nó, đồng thời muốn triệt để hóa những “mầm mống hiện thực” phát hiện
được trong Husserl khi linh cảm thấy rằng “sự quá độ từ cái khả giác sang cái
khả niệm [tức từ vật chất sang ý thức] chỉ có thể được mô tả chính xác bằng sự
phân tích những hình thức kỹ thuật và kinh tế của nền sản
xuất”, thì Derrida, trong tác phẩm đầu tay và cũng là luận án tốt nghiệp[4],
không tán thành “sự chẩn đoán rơi trở lại vào thái độ tự nhiên tiền-quy giản” ấy.
Derrida nhận ra sự nghịch lý nằm ngay trong khái niệm của Husserl về sự sinh
triển (genèse) (cả tính thời gian lẫn ý nghĩa được sản sinh ra từ những
hành vi trước đó của chủ thể siêu nghiệm, nhưng bản thân tính chủ thể lại phải
được cấu tạo bởi một hành vi sinh triển. Như thế, theo nghĩa hiện tượng học,
khái niệm sinh triển vừa có tính thời gian, vừa phi thời gian, vừa là lịch sử,
vừa là triết học). Khó có thể giải quyết quan hệ “biện chứng” này trong thực
hành hiện tượng học, Derrida, mấy năm sau, từng bước phát triển quan niệm nổi
tiếng của mình về sự “giải-kiến tạo” (déconstruction). Claude Imbert,
trong bài trao đổi tại Viện Triết học, Hà nội, ngày 20.3.2015, được bổ sung vào
tập kỷ yếu này, trong viễn tượng của sự chuyển giao văn hóa, đi sâu vào ba cách
tiếp cận khác nhau đối với hiện tượng học của Cavaillès (thầy dạy và người hướng
dẫn luận án của Trần Đức Thảo), Merleau Ponty và Trần Đức Thảo. “Cả ba nhà triết
học này đều chia sẻ cảm nghĩ chung là tất yếu phải đổi mới triết học; họ đặt cược
vào lối tư duy cụ thể như Husserl đã hứa hẹn, và đồng thời khát khao muốn có lại
một thuyết duy thực nào đó. Nhưng, sau khi đọc tỉ mỉ và thận trọng các văn bản
của Husserl, cả ba nhà triết học này đều thất vọng. Mỗi người có sự chẩn đoán
riêng, tùy theo mối quan tâm riêng biệt của mình và đã đề xuất một con đường
thoát ra khỏi đó, gọi chung là con đường biện chứng. Cùng lúc, họ đã
du nhập những bằng chứng mới mẻ về bản chất của hoạt động triết học và những
yêu cầu cho hoạt động này: một lập trường mà ngày nay chúng ta hiểu rõ hơn và
thừa nhận”.
Giới thiệu ba cách tiếp cận khác nhau nói trên cũng
là dịp để tác giả đi đến nhận định mà thiết nghĩ cũng có thể xem là nhận định
chung, toát lên tinh thần của cả cuộc hội thảo: “Nhiệm vụ của chủ nghĩa hiện đại
là phải xem xét tính đa dạng của những ngôn ngữ giàu thông tin và ý nghĩa nhất.
Ngôn ngữ triết học bác bỏ bất kỳ một sự tổng hợp mang tính đỉnh cao nào, và bằng
chứng của sự sản sinh những ngôn ngữ trung gian riêng biệt với tiết điệu và lịch
sử đặc thù của chúng chính là sự thừa nhận rằng ta chỉ có một kết luận tạm thời
mà thôi. Chúng ta nên chấp nhận Khai minh (Enlightenment) là một công
cuộc sản sinh phi tập trung hóa, hàm ý rằng mọi sự chuyển giao và dịch thuật chắc
hẳn là có ích, song không sự dịch thuật hay chuyển giao đơn thuần nào có thể là
hoàn chỉnh một cách tối hậu cả”.
Khuôn khổ một cuộc hội thảo, dù phong phú đến mấy,
cũng khó có thể đề cập mọi vấn đề. Người đọc còn chờ đợi những tham luận đi sâu
hơn nữa vào hệ vấn đề được Trần Đức Thảo mệnh danh là “Phép biện chứng của vận
động hiện thực” như nhan đề phần 2 của “Hiện tượng học và chủ nghĩa duy vật biện
chứng”, cũng như những tìm tòi còn ở dạng phác thảo trong các di cảo cuối đời.
Và, last but not least, là suy tưởng lại về quan hệ của Trần Đức Thảo với
hiện tượng học và triết học nói chung.
*
* *
Bản dịch này được tập thể dịch giả (Bùi Văn
Nam Sơn, Đinh Hồng Phúc, Phạm Anh Tuấn và Phạm Văn Quang) thực hiện theo gợi ý
của Trường Sư phạm cao cấp phố Ulm và đề nghị của NXB Đại học Sư phạm, Hà
nội. Chúng tôi chân thành cám ơn TS Nguyễn Bá Cường, Giám đốc và cô Đoàn Thanh
Trang, NXB Đại học Sư phạm, Hà nội đã tận tình khuyến khích và giúp đỡ, cám ơn
ông Quốc Chính Ứng đã dày công biên tập bản thảo với tất cả sự chăm chú, tận
tâm và chuyên nghiệp. Chúng tôi đặc biệt cám ơn nhà nghiên cứu Phạm Như Hồ và
nhà nghiên cứu Nguyễn Nghị đã dành thời gian giúp xem lại một số bài dịch với
nhiều góp ý quý báu. Là một tập sách có chất lượng chuyên môn cao và khó, chúng
tôi đã cố gắng hết sức mình, nhưng chắc chắn không thể tránh khỏi những sai sót
ngoài ý muốn, kính mong các bậc cao minh và quý bạn đọc rộng lòng chỉ giáo. Hy
vọng tập sách này sẽ góp phần vào việc tìm hiểu vị triết gia hiếm hoi và đáng
quý của chúng ta và cũng là nén tâm hương tưởng nhớ nhân kỷ niệm 99 năm ngày
sinh của ông (1917-2016).
hãng eva airline
vé máy bay eva đi mỹ
giá vé korean airlines
đặt vé máy bay đi mỹ
mua vé máy bay đi canada
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Ngau Hung Du Lich
Kien Thuc Du Lich