Mùa xuân vốn dĩ đã là một đối tượng thẩm mĩ của văn chương. Nhưng để trở thành
một trường thẩm mĩ thực sự với tư cách là thước đo của thời gian, hạn định của
không gian và niềm hy vọng vào viễn cảnh tươi sáng của con người thì là cả một
hành trình dài. Trên con đường ấy ta đã gặp biết bao tác phẩm được kí thác lại
từ những tận cảm, đồng điệu của văn nhân xưa và nay trong thời khắc xuân sang.
Mùa xuân, ngày Tết với những
cảm tác trong thơ xưa
Lâu nay, người đọc hay bị ám
ảnh bởi quan niệm về thời gian tuần hoàn trong văn chương trung đại. Bởi lẽ,
khi chạm đến những câu thơ như “Trăng bao nhiêu tuổi trăng già/ Núi bao nhiêu
tuổi gọi là núi non” (Khuyết danh) hay “mấy chum trước dậu hoa năm ngoái” cảm
giác về bước đi của thời gian mờ nhạt nên khó lòng nhận ra những bừng thức của
thi nhân khi đất trời chuyển giao. Nhưng kì thực, đọc những bài thơ Nôm đậm đà
thi vị mới thấy mùa xuân và ngày Tết vẫn có nhiều sắc thái khác nhau. Trong những
câu thơ quốc âm, Nguyễn Trãi đã có cảm nhận về mùa xuân với sinh khí mới tựa
như đã thấm vào dòng nhựa âm thầm mà kín đáo thổi bùng lên sức xuân:
Tự bén hơi xuân tốt lại thêm
Đầy buồng lạ mầu thâu đêm
Tình thư một bức phong còn
kín
Gió nơi đâu gượng mở xem
(Ba tiêu - Quốc âm thi tập)
Đến các nhà thơ thời đại
sau, mùa xuân ấy đã nhuốm màu thế sự. Dẫu là bậc khanh tướng hay hàn nho thì
cũng một niềm suy cảm ấy nhưng được lí giải bằng nhiều sự cắt nghĩa khác nhau.
Với giọng ngang tàng của một bậc văn nhân “ngất ngưởng”, Nguyễn Công Trứ đã vượt
ra ngoài thế giới quan trung đại để lí giải về sự thảng thốt, hờn oán của đời
người trước những mùa xuân bào mòn tuổi tác:
Ngẫm cho kỹ đến bất nhân là
tạo vật
Đã sinh người lại hạn lấy
năm
Kể chi thằng lên bẩy, đứa
lên năm
Dẫu ba vạn sáu nghìn ngày là
mấy chốc?
Lại mang lấy lợi danh, vinh
nhục
Cuộc đời kia lắm lúc bi
hoan
E đến khi hoa rữa trăng
tàn
Xuân một khắc, dễ nghìn vàng
đổi chác?
(Chơi xuân kẻo hết - Nguyễn
Công Trứ)
Cái giá “nghìn vàng” đổi “một
khắc” xuân ấy đã trở thành nỗi ám ảnh sau này của các nhà Thơ mới. Tuy nhiên,
trong bối cảnh của xã hội phong kiến với ý thức hệ Nho giáo đã suy thoái, ý thức
hệ tư sản chưa kịp bắt rễ vào đời sống tinh thần của các trí thức dân tộc thì mỗi
cái Tết đến với các nhà Nho lại là dịp để tự trào và bộc lộ khí tiết của mình một
cách kín đáo.
Anh em đừng nghĩ Tết tôi
nghèo
Tiền bạc trong kho chửa lĩnh
tiêu
Rượu cúc nhắn đem, hàng biếng
quẩy
Trà sen mượn hỏi, giá còn
kiêu
Bánh chưng sắp gói, e nồm
chảy
Giò lụa toan làm, sợ nắng
thiu
Thôi thế thì thôi, đành tết
khác
Anh em đừng nghĩ Tết tôi
nghèo!
(Cảm Tết - Trần Tế Xương)
Vẫn một phong cách cao ngạo,
kiêu bạc của những khi “Tiền dẫu hết, hết rồi lại có” hay “Chỉn e rầy gió
mai mưa/ Lấy gì đi sớm về trưa với tình”. Cũng giống như khi cụ Tam nguyên Yên
Đổ đón khách đến chơi nhà, cụ Tú Xương viện đủ mọi cái lí để giấu đi cái đạm bạc,
thiếu thốn. Nào là thói kiêu, biếng của nhà buôn, nào là sự khắc nghiệt của cái
Tết khác thường nóng nực, ngột ngạt… Tất thảy gợi cuộc sống bấp bênh, bon chen
của nhà Nho ở phường phố. Nhưng dường như mọi “lộng” ấy cũng chỉ là cách để
khoe một thứ “chân” ấy là một cái tình nồng nàn dẫu có nghèo cũng vẫn không rẻ
rúm, nhếch nhác như kẻ phàm phu:
Chẳng phong lưu cũng ba ngày
tết,
Kiết cú như ai cũng rượu
chè!
Ngày Tết với các nhà Nho khi
bước vào những năm đầu thế kỉ XX đâu chỉ là sự thu mình, giữ mình để tiết tháo
mà còn cả sự trải lòng cảm thương hướng cái nhìn ra với cộng đồng. Giữa thời mà
công danh sự nghiệp lạc bước khi rơi vào cái cảnh “ú ớ u ơ ngọn bút chì” của
văn minh phương Tây, của chữ quốc ngữ, là lúc hàng ngày chứng kiến nghịch cảnh
“Công đức tu hành sư có lọng/ Xu hào rủng rỉnh mán ngồi xe” thì những thương cảm
ấy vẫn đậm chất nhân văn:
Gái tơ đi lấy làm hai họ
Năm mới vừa sang được một
ngày.
(Mồng hai Tết viếng cô ký)
Trong khi ấy, nơi làng quê của
bậc đại khoa quy ẩn như Nguyễn Khuyến lại ấm cúng bởi không khí Tết của đời sống
nông nghiệp:
Năm ngoái, năm kia đói muốn
chết,
Năm nay phong lưu đã ra phết!
Thóc mùa, thóc chiêm hãy còn
nhiều
Tiền nợ, tiền công chưa trả
hết.
Trong nhà rộn rịp gói bánh
chưng, Ngoài ngõ bi bô rủ chung thịt.
Ta ước gì được mãi như thế,
Hễ hết Tết rồi, thời lại Tết!
(Cảnh Tết)
Bài thơ mộc mạc và chân phác
từ chính những lời kể rất thành thật của tác giả. Tết vẫn còn đó những lo toan
của năm cũ chưa trả hết (tiền nợ, tiền công chưa trả hết) nhưng cứ hãy vui với
không khí đón năm mới ở nơi thôn ổ ít bị tác động bởi mưa Âu, gió Mỹ, it nhiều
vẫn giữ được nét đẹp của nề nếp xưa (gói bánh chưng, cung thịt). Cũng chính bởi
thế mà vị danh Nho có thể tĩnh tâm trước thời cuộc mà thảnh thơi khai bút đầu
xuân:
Rượu ngon nhắp giọng đưa vài
chén,
Bút mới xô tay thử một hàng
(Khai bút - Nguyễn Khuyến)
Chính từ những mảng ghép ấy,
có thể giúp chúng ta hình dung được không khí Tết của nhiều thế kỉ trước khi nếp
sống nông nghiệp còn đậm nét trên khắp các vùng quê Việt Nam cho đến khi những
mới - cũ đan cài và chuyển dần sang xã hội hiện đại.
Mùa xuân ngọn gió thời gian và Tết nay
Trước khi nói về Tết trong
thơ hiện đại, trước hết phải là chuyện của cảm quan mùa xuân với các nhà văn. Gần
như nỗi ám ảnh thời gian tuyến tính (một đi không trở lại) đã trở thành một mẫu
số chung với các nhà văn. Nếu Xuân Diệu “vội vàng” thốt lên như sợ rồi chính sự
thảng thốt của mình cũng cũ “Xuân đang tới nghĩa là xuân đang qua” cũng đồng điệu
với “Ngày mai trong đám xuân xanh ấy/ Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi” của
Hàn Mặc Tử, là “hồn” của những người “muôn năm cũ” với Vũ Đình Liên... Nhưng nỗi
ám ảnh ấy không đẩy họ đến với những bi lụy, chán chường mà được nâng lên bằng
một tầm vóc khác. Ấy là sự trân trọng và nâng niu các giá trị sống của cuộc đời.
Nguyễn Bính đã nhận ra những gì là vẻ đẹp muôn đời của ngày Tết: “Gậy trúc giắt
bà già tóc bạc/ Lần lần tràng hạt miệng nam mô” (Xuân về). Là sự nhượng bộ
chung sống giữa phố phường mới mẻ và dấu ấn quá khứ vàng son (bày mực tàu giấy
đỏ/ bên phố đông người qua).
Qua bao nhiêu biến thiên của
thời đại, sau bao lần lên ngôi của các trường phái sáng tác, cảm xúc về ngày Tết
của các tác giả hiện đại luôn mang đậm giá trị nhân văn ở cả sự trân trọng các
giá trị sống và những thân phận con người lỡ dở, cô lẻ trong không khí ấm cùng ấy.
Nguyễn Duy là người rốt ráo với những thân phận nhỏ bé: “Có một người nạng gỗ/
Ngồi bên sông nhớ nhà” (Pháo Tết); “Lụt trắng đồng mà không trắng lòng/ bạn
cùng tôi chung chén rượu nồng/ be tết không đầy nhưng không nhạt/ uống rồi nghe
có bão bên trong... (Tết ở vùng quê lụt); Là tình yêu nồng nàn, say đắm của
những tâm hồn trẻ:
Muốn ôm em thật lâu
Giữa Nhà Ga Trái Đất
Anh định nói một câu
Bỗng tự dưng quên mất.
Và Mùa Xuân Thứ Nhất
Và Nụ Hôn Đầu Tiên
Hoa Đào chia đều tất
Cho anh và cho em.
(Lời chúc hoa đào - Hoàng
Nhuận Cầm)
Hay, Tết là khi chiêm nghiệm
lại năm tháng cuộc đời với những buồn vui:
Mười năm đi xa
Mỗi năm một lần về quê ăn Tết
Người già nói ta còn trẻ
Cô gái trẻ cười ta mau
già
Thử luồn tay vào tóc
Sợi bạc không che kín
ngón
(Về quê đón Tết - Nguyễn
Khoa Điềm)
Là cái Tết tha hương của bao
người trong một xã hội hiện đại:
Nắng chang chang cũng thịt mỡ
dưa hành
cũng có một mùa đông trong tủ
lạnh
quạt máy xua khói nhang bay
đỏng đảnh
thiếu cái gì mà tết cũng như
chưa?...
(Tết Nam nhớ Bắc - Nguyễn
Duy)
Phải chăng, với mỗi chặng đường
thi ca, mùa xuân và những cái Tết để lại dấu ấn khác nhau. Nhưng tựu chung lại
vẫn là hồn dân tộc, vẫn là sức sống của mùa xuân và sự cảm thông, chia sẻ, trân
trọng những thân phận, kiếp người. Mùa xuân ấy, niềm vui ấy như khởi phát tự
lòng người.
Bùi Việt Phương
hãng máy bay eva
vé máy bay 2 chiều đi mỹ
hàng không hàn quốc
giá vé máy bay đi mỹ khứ hồi
vé máy bay đi canada giá bao nhiêu
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Ngau Hung Du Lich
Kien Thuc Du Lich