Chủ Nhật, 29 tháng 1, 2017

Làm người là khó

Làm người là khó
Tròn 80 tuổi, là chủ nhân của 15 cuốn tiểu thuyết, 10 tập truyện ngắn, một tập hồi ký, một tập tiểu luận và bút ký văn học, Ma Văn Kháng là nhà văn có địa vị xứng đáng trên văn đàn Việt Nam hiện đại (Ông vinh dự nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật, năm 2012).
“Người thợ mộc và tấm ván thiên” là cuốn tiểu thuyết thứ mười lăm trong đời văn của Ma Văn Kháng. Nó không hẳn có tính luận đề lớn lao như cuốn tiểu thuyết thứ bảy của ông - “Đám cưới không có giấy giá thú”. Nó giản dị và khiêm nhường hơn khi kể câu chuyện về thân phận con người trong xã hội hiện đại. Nó được viết theo hình thức của bi kịch dựa trên nguyên tắc “thanh lọc tâm hồn” mà Aristote đã đề ra trong tác phẩm “Nghệ thuật thi ca”. Tiểu thuyết được Đề từ bằng câu nói nổi tiếng của kịch gia Đức nổi tiếng thế giới Bertolt Brecht: “Làm kẻ ác khó nhọc vô cùng”. Nhưng đọc xong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng độc giả lại nhận ra cái triết lý đượm màu sắc Đông phương “vi nhân nan” (“Làm người là khó”). Nghĩa là làm người lương thiện là khó. Chủ đề này được triển khai thông qua số phận những con người thuộc lớp bình dân trong xã hội - một ông thầy giáo nghèo suốt đời tận tụy với nghề nhưng bị oan khiên, một ông chủ xưởng mộc cả đời trung thành với “vai” thợ. Nhưng dẫu là “thầy” hay “thợ” thì cuối cùng cũng không thể không giữ nhân cách giữa thiên hạ. Câu chuyện về thân phận của mỗi nhân vật chính được nhà tiểu thuyết kể lại một cách gọn ghẽ, hấp dẫn, ý vị và thấm đượm triết lý nhân sinh.
Nhà văn Ma Văn Kháng với tiểu thuyết 
"Người thợ mộc và tấm ván thiên"
Nhân vật, theo tôi nghĩ, được chính tác giả yêu mến nhất chính là thầy giáo Quang Tình. Một mẫu hình của những nhà giáo chân chính vào những thập kỷ năm mươi, sáu mươi của thế kỷ trước. Đó là những thanh niên trí thức tình nguyện đem ánh sáng con chữ lên vùng cao. Đó là những người giàu hoài bão và lý tưởng. Họ nhiệt huyết sục sôi. Vốn giỏi giang chữ nghĩa thánh hiền, vốn hào hiệp trong phong cách sống, vốn khát khao tự do bày tỏ cái bản ngã của mình với đời, với người. Họ dám bỏ lại phía sau bao nhiêu những điều kiện thuận lợi để mưu cầu hạnh phúc riêng tây không mấy khó khăn. Nhưng họ muốn khởi nghiệp và lập nghiệp ở những nơi khó khăn nhất. Họ là một thế hệ lãng mạn (có vẻ như hợp với câu thơ của thi nhân Nga tài danh thế kỷ mười chín, Lermotov: “Thuyền cầu bão táp mưa sa/ Dường như giông bão mới là bình yên”). Nhưng những trái khoáy (hay là cái phi lý) của cuộc đời đã vận vào nhân vật thầy giáo Quang Tình. Một thầy giáo dạy văn giỏi nức tiếng, một tín đồ của sách đã bị sa thải vì những lý do “trên trời” (vì đã học tiếng Anh “chui” với một người Anh, nên bị nghi ngờ làm gián điệp; vì lấy cô con gái ông thổ ty người dân tộc Giáy làm vợ, nên lập trường quan điểm giai cấp tính chưa chuẩn; vì mâu thuẫn với ông hiệu trưởng trường Bổ túc Công Nông, nên bị khép vào tội coi thường lãnh đạo…). Cổ nhân nói “sảy nhà ra thất nghiệp”. Ở đây có thể nói “sảy nghề ra thất nghiệp”. Thầy giáo Quang Tình dắt díu một vợ hai con trở về quê mưu sinh bằng nhiều nghề (có nghề nếu kể ra thì xấu hổ cho tận đến khi nhắm mắt xuôi tay). Rồi nghề thợ mộc (có vẻ như là không có mối liên hệ gì với nghề dạy học) đã bén duyên với thầy giáo Quang Tình. Khi tay nghề mộc đã thạo, thầy dạy nghề Văn Chỉ truyền cho bí mật (hay là pháp thuật) dùng cỗ ván thiên (hay là ván thôi, gỗ dùng làm nắp quan tài, thường bị thải loại sau ngày cải táng) chế tác ra các sản phẩm gỗ rồi tìm cách để cho kẻ trước đây hãm hại mình mua về dùng.
Tự khắc bọn họ sẽ “lãnh đủ” theo luật nhân quả và những bí mật có tính tâm linh của việc làm này là hợp với quy luật “nhân quả” hay “ác giả ác báo”. Nhưng thầy Quang Tình đã không muốn trả thù dẫu trong một trường hợp nhất định nào đó hành xử này có thể là hợp tình, hợp lý. Vì lòng căm thù chỉ có thể làm con người trở nên thấp hèn và tàn ác hơn. Sự trả thù có thể làm mất nhân tính. Ai đó nói chí lý rằng thế kỷ hai mươi mốt là thế kỷ của tâm linh - thế kỷ của lòng khoan dung, khoan hòa giữa người với người. Riêng tôi có cảm giác Ma Văn Kháng, trong trường hợp này, ướm mình vào nhân vật mà viết. Vì thế những trang văn về số phận thầy giáo Quang Tình vằng vặc một nỗi ưu tư về kiếp người, sâu kín những tâm sự đôi khi khó phát thành lời, những chia sẻ đồng cảm đến độ tri âm tri kỷ. Thậm chí giống những giọt nước mắt lặn vào trong. Nhân vật thầy Quang Tình tiêu biểu cho con đường khổ ải đi tìm chân lý của những người trí thức, văn nghệ sỹ bất kỳ thời nào, ở đâu. Nhưng sẽ có người đặt câu hỏi phải chăng cuốn tiểu thuyết “Người thợ mộc và tấm ván thiên” chỉ thuần viết về nhân vật Quang Tình? Xin thưa, trong tác phẩm này có đến hai “người thợ mộc”. Nếu Quang Tình là thợ mộc học việc bất đắc dĩ do thời thế, cảnh ngộ, ban đầu là vì mưu sinh nhất thời ( nhưng về sau thì yêu cái nghề tưởng đơn giản chỉ có dùng sức không cần dùng mưu) thì “người thợ mộc” thứ hai lại càng sinh sắc hơn dưới ngòi bút tài hoa của Ma Văn Kháng.
Nếu nhân vật Quang Tình tiêu biểu cho giáo giới, cho những kẻ tuẫn nạn vì Đạo Làm Người, cho giới trí thức tuy ưu thời mẫn thế nhưng lại “bất phùng thời" thì Văn Chỉ là điển hình của tầng lớp xã hội được gọi là “thợ”. Đây là một cá tính rất sinh động. Một bản ngã sát với tự nhiên nhưng không nhi nhiên. Rất Đời nhưng không nhạt Đạo. Một người ham làm giàu (vì thấm thía cảnh nghèo thì sẽ hèn) nhưng không hề chỉ biết duy nhất có tiền, không mê muội vì tiền. Từ một người thợ bình thường, lên đến thợ bậc bảy và trở thành chủ một xưởng mộc có thương hiệu. Con đường đi của Văn Chỉ là con đường của thực tiễn. Nó chỉ ra sự mất cân bằng của một xã hội thừa “thầy” nhưng thiếu “thợ” hàng nghìn năm qua. Nếu Quang Tình luôn lấy lý trí soi rọi mọi hành vi của mình thì Văn Chỉ sống đúng theo bản ngã. Nhưng lúc cần thiết thì vẫn viện dẫn “thánh sư triết lý” Nietzsche (biện hộ cho thói nói dối “không nói dối thì lấy cái gì mà ăn”!?). Văn Chỉ là một nhân vật đa nhân cách (chứ không phải là con biến màu như ai đó đã bình phẩm). Một con người hành động, rất ghét những kẻ chỉ nói suông.
Nhiều độc giả của “Người thợ mộc và tấm ván thiên” rất thích cặp bài trùng Quang Tình và Văn Chỉ. Và nếu nói đó là hai nhân vật chính thì cũng không sai. Vì nó quán xuyến toàn bộ tác phẩm. Bởi nó là hiện thân cho các cặp phạm trù cao và thấp, thiếu và đủ, buồn và vui, thành đạt và thất bại, nhận và cho… Cặp nhân vật này chuyên chở tư tưởng tác phẩm. Nhưng cái chất đời phì nhiêu của tiểu thuyết lại nằm ở những nhân vật nữ như Thắm (vợ Quang Tình), Mận (người tình của Văn Chỉ). Thắm mang vẻ đẹp nguyên sơ của một sơn nữ dân tộc Giáy. Tâm hồn cô trong suốt, mát lành như nước suối. Trong máu thịt cô vẫn còn phảng phất cái hoang dã của thiên nhiên bạt ngàn, vô tư và hào hiệp. Nhưng sống cùng với người chồng tuyệt vời như Quang Tình dần dà cô đã trở nên hiện đại hơn. Hiện đại nhưng không hề bị đốn rễ khỏi quê hương bản quán, khỏi những tập tục và tập tính đã tạo nên bản sắc nguyên sơ của người dân tộc mình. Trước sau, cô vẫn là một nguyên khối của cái đẹp, cái thật, cái tốt. Và với riêng Quang Tình, thì cô là nguyên khí. Nếu Thắm là nguyên khí trong con mắt và trái tim của Quang Tình thì Mận là người tình số một của Văn Chỉ. Dẫu cho còn đôi chút nhi nhiên sót lại nhưng cô là người phụ nữ tận hiến (dẫu cho hành xử này là hoàn toàn sai về pháp lý khi có quan hệ với một người đàn ông đã có vợ và bản thân đã có chồng). Mận mang vẻ đẹp phồn thực của nữ giới, của cuộc đời ở phía bản năng, bản ngã. Cô vẫn là người phụ nữ lúc nào cũng so le nỗi niềm “bên tình bến hiếu bên nào nặng hơn”. Dẫu cho Mận đã là một “nhân vật nổi loạn” nhưng dường như độc giả không thành kiến, lên án. Thậm chí lại còn thể tất theo cái triết lý “Đời là thế”. Thành thử ông Văn Chỉ như có thêm một luật sư bào chữa cho những hành vi đáng lí là sai trái của mình vì có quan hệ “ngoài luồng”. Nhân vật này gợi nhớ đến cái triết lý của các bậc tiền nhân, con người ta không ai nắm tay được cả ngày (nghĩa là bên cạnh cái đúng đắn vẫn còn có cái sai lầm). Nếu nói tính chất nghiền ngẫm đời sống rất đậm trong sáng tác của Ma Văn Kháng càng ngày càng rõ thì “Người thợ mộc và tấm ván thiên” là một ví dụ điển hình.
“Người thợ mộc và tấm ván thiên” vẫn tiếp tục bộc lộ phong cách tiểu thuyết Ma Văn Kháng - tính chất luận đề hài hòa với chất đời, tính chất triết lý chan hòa với chất sống vì thế đọc hấp dẫn. Và rõ ràng là một tác phẩm văn chương nhiều hấp lực. Đọc tiểu thuyết này, độc giả một lần nữa nhận ra ở Ma Văn Kháng cái năng lực viết về thiên nhiên và phong tục tinh tế và sâu sắc không kém trưởng lão Tô Hoài khi hướng ngòi bút vào đề tài miền núi, dân tộc thiểu số. Không ai suy diễn giản đơn đây là cuốn tiểu thuyết về phong tục miền núi. Nhưng những trang viết (36-46) về hội hát đón khách của người dân tộc Giáy (gọi là vươn Giáy), thật sinh động. Không chỉ có màu sắc. Không chỉ có âm thanh. Không chỉ có đường nét. Mà còn có cả mùi vị. Còn có tất cả những gì mà đôi lúc chúng ta phải vận dụng giác quan thứ sáu để đón nhận, cảm nhận cho hết, cho thật sâu sắc. Ở cuốn tiểu thuyết mới này Ma Văn Kháng vẫn vận dụng lối kể chuyện truyền thống, có lớp lang, dễ nhớ với độc giả. Riêng tôi có cảm giác nhà văn hoàn toàn xa lạ với các chủ nghĩa (ism) đang như nấm mọc sau mưa ở ta (nào là Hậu hiện đại, Hậu thực dân, Phân tâm học…). Ai đó nói chí lý, hiện đại chính là đi hết cái truyền thống để hòa nhập thế giới (chứ không phải là nhập cảng để bằng người ta). Văn của Ma Văn Kháng là một lối văn điềm tĩnh, đầy suy nghiệm. Cảm hứng công dân rất mạnh mẽ nhưng không rơi vào phá phách, “chửi đổng”. Giọng văn đau đớn, bi phẫn nhưng không rơi vào cay cú, bạo liệt, sỉ vả. Nghĩa là văn của một người giàu trải nghiệm. Đã đạt tới sự an nhiên và khoan dung, khoan hòa. Với độ dài 312 trang, “Người thợ mộc và tấm ván thiên” của Ma Văn Kháng thuộc dòng tiểu thuyết ngắn đang rất thịnh hành trên văn đàn Việt Nam đương đại. Nó phù hợp với quỹ thời gian nhàn rỗi ngày càng eo hẹp của mọi người. Nó phù hợp với cơ chế của văn hóa đọc hiện nay trước sức ép của văn hóa nghe nhìn. Cuối cùng, có thể nói, "Người thợ mộc và tấm ván thiên” là một dấu chỉ trong lộ trình sáng tác hơn nửa thế kỷ của nhà văn Ma Văn Kháng - người “thợ chữ” tài hoa.
Bùi Việt Thắng
Theo http://vanhocquenha.vn/




1 nhận xét:

  Sợ cha mẹ nên trốn tình vào câu hát Lời hát giao duyên kể về nỗi niềm cô gái thương thầm chàng trai/ Sợ cha mẹ nên trốn tình vào câu hát...