Trương Hồng Quang
Nghệ thuật ca từ của Trịnh Công Sơn qua tác phẩm “Đóa hoa vô thường”
Nghệ thuật ca từ của Trịnh Công Sơn qua tác phẩm “Đóa hoa vô thường”
Nhận xét về mối quan hệ giữa ca từ và âm nhạc của
Trịnh Công Sơn, nhạc sĩ Văn Cao từng viết:
Với những lời, ý đẹp và độc đáo đến bất ngờ hôn phối
cùng một kết cấu đặc biệt như một hình thức của dân ca hầu như không thay đổi,
Trịnh Công Sơn đã chinh phục hàng triệu con tim..."(1). So sánh với
ca từ của tình khúc tiền chiến, nhạc sĩ Phạm Duy cho rằng "ngôn ngữ
trong nhạc Trịnh Công Sơn rất mới, chất chứa những hình ảnh lạ lùng, quyến rũ
như cơn mưa hồng, thuở hồng hoang, dấu địa đàng, cánh vạc bay...”(2).
(l) Văn Cao, Lời bạt cho tập nhạc Trịnh Công Sơn Em
còn nhớ hay em đã quên, Nxb Trẻ, TPHCM, 1991, ti. 115.
(2) Phạm Duy, Hồi ký III, xem ở www.sao mai.om.
Đi sâu hơn vào các khía cạnh tu từ trong tác phẩm
Trịnh Công Sơn, nhà phê bình Đặng Tiến từ Paris trong một bài viết mới đây có
nêu lên đặc điểm rằng: “lời ca ấy sử dụng nhiều hình ảnh, biểu tượng bị xé lẻ
đi thẳng vào tâm tưởng người nghe, mà không đòi hỏi họ phải hiểu nghĩa chính xác”(1).
Liệu từ tính chất "bảng lảng, mơ hồ khó phân định cho đúng nghĩa”(2) đã
được xác tính bởi tên tuổi của những tác giả hàng đầu vừa nhắc tới, còn có thể
nói lên một điều gì đó như là một thông điệp riêng, một mã nghệ thuật ngôn từ cụ
thể của Trịnh Công Sơn hay không? Và thông điệp này - nếu có thể nhận diện - liệu
có ảnh hưởng gì đến mỹ cảm hiện thời, và nói rộng hơn, đến việc hình thành diện
mạo văn hóa Việt Nam đương đại?
Bấy nhiêu câu hỏi được đặt ra chỉ mang tính chất gợi
mở và không có tham vọng được giải quyết trong khuôn khổ một bài viết ngắn. Ở
đây, xin được giới hạn những nhận xét về đặc trưng nghệ thuật ca từ của Trịnh
Công Sơn vào việc phân tích một vài khía cạnh của một tác phẩm cụ thể - là ca
khúc Đóa hoa vô thường.
Bản thân đầu đề Đóa hoa vô thường đã là một
kết cấu ngữ nghĩa rất đặc thù cho Trịnh Công Sơn. "Đóa hoa" chỉ
một đối tượng cụ thể, một thực thể - còn "vô thường" lại là
một khái niệm trừu tượng trong bản thể luận của Phật giáo, chỉ một trong ba thuộc
tính của Tồn tại (Vô thường - Đau khổ - Vô ngã)(3), hàm ý rằng thế giới là một
trường biến hóa không ngừng, tất cả những gì mà giác quan của chúng ta cảm nhận
là bất biến và vĩnh hằng thật ra chỉ là "những danh sắc trôi chảy, những
trạng thái biến hiện(4). Được phản chiếu bởi những ý niệm siêu hình này phát ra
từ vị ngữ "vô thường", chủ ngữ “đóa hoa” đứng trước trong
trục ngữ đoạn được cung cấp một ngữ nghĩa hoàn toàn mới, “đóa hoa" ấy
không còn là một đóa hoa cụ thể nữa, mà đã trở thành cái Vĩnh hằng của cái Vô hằng,
đã được siêu hình hóa thành Chân tính của dòng Vô thường biến ảo. Ngược lại, mọc
trên đài của “Đóa hoan ấy”, “vô thường" dường như cũng được
thắp sáng, rũ khỏi bóng tối của Vô minh. Đi dọc theo văn bản tác phẩm, chúng ta
sẽ thấy khái niệm "vô thường" xuất hiện tất cả 4 lần (lần thứ nhất: "Tìm
trong vô thường - Có đôi dòng kinh..."; lần thứ hai: "Một
chút vô thường theo - Từng phút cao giờ sâu”; lần thứ ba: “Nở
hết trong hoàng hôn - Đợi gió vô thường lên”; và lần thứ tư ở
hai câu kết thúc bài: “Từ đó ta là đêm - Nở đóa hoa vô thường”). Ở mỗi
lần, nghĩa của từ vô thường đều có sự biến thái, và đặc biệt ở lần cuối
trong sự kết hợp với từ đóa hoa lúc bấy giờ có cương vị ngữ pháp của
một vị ngữ và với động từ "nở", ý nghĩa toàn văn bản của "Đóa
hoa vô thường" mới thật sự được khai tỏ.
(l) Đặng Tiến, Đời và Nhạc Trịnh Công Sơn 14/04/2001,
Bản thảo.
(2) Phạm Duy, Hồi ký III, xem ở www.saomai.om.
(3) Xem "Lexikon der ostlichen
Weisheitslehren", O.W.Banh Verlag, 1995, ti. 16, mục “Anitya" và tr.
402, mục "Trilakshana" và bản tiếng Việt "Từ điển minh triết
phương Đông" của Lê Diễn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1997, tr. 42, mục
“Anitya" và tr. 749, mục "Trilakshana". Các thuật ngữ ở đó được
dịch như sau (Trilakschana = Drei Merkmale alles bedingten Seiens = Ba đặc
trưng của sự tồn tại bị quy định; Anitya = Verganglichkeit = Vô thường,
Duhkha = Leiden = Đau khổ; Anatman :
Unpersonlichkeit: Vô ngã).
(4) Nguyễn Đăng Thục, Lịch sử triết học phương
Đông, Tập 3, Nxb TPHCM 1991, tr 212.
Ba khổ đầu tiên với điệp ngừ “Tìm em..... "
diễn đạt một môtíp quen thuộc của chủ nghĩa lãng mạn, môtíp của người lữ khách
trên đường lữ thứ, của cái Tôi lãng mạn không có quê hương - nói đúng hơn là đã
khước từ thế giới trong trật tự hiện hành của nó - , cho dù như một chàng
Heinrich trong tiểu thuyết “Heinrich von Ofterdingen” của nhà văn
lãng mạn Đức Novalis để đi tìm một “Đóa hoa xanh” - một “Blaue
Blume" - từng bắt gặp trong một giấc mơ, hay là để “Tìm trên non ngàn - Một
cành hoa khôi" như trong Đóa hoa vô thường của Trịnh
Công Sơn. Ta hãy lưu ý đến những hình ảnh được triển khai tiếp theo trong khổ
thơ đầu: “. . . Nụ cười mong manh - Một hồn yếu đuối - Một
bờ môi thơm - Một hồn giấy mới". Nói theo phân tâm học đây
là một “giấc mơ ngày" (Tagtraum), ẩn chứa những tưởng tượng mang tính dục
(Erotissche Phantasien) về một tình nhân chưa hề gặp. Còn nếu có thể nói theo
ngôn ngữ nhà Phật, phải chăng đấy là lòng tham sống, là dục vọng chiếm hữu và
níu kéo những sắc ảnh mong manh của cõi thế. Cuộc đi tìm ấy diễn ra trong đêm tối
và cả trong "ngày tinh khôi", sang khổ thơ thứ hai chúng ta
thấy người lữ khách đã phải tự khích lệ, đã phải tự "nhủ lòng tôi
ơi". Đến khổ thứ ba thì người đi tìm đó không chỉ còn tự nhủ lòng
mình, mà đã phải gọi trực tiếp đến “em” bằng một từ cảm thán: "Chưa từng
tuyệt vọng- Đâu em!”. Câu cuối cùng từ khổ bốn chữ đột ngột xuống
thành hai chữ, song hai chữ "Đâu em!" này trong nhịp nhạc
được ngân dài ra, nhấn mạnh tính chất của một lời gọi. Mặc dù tự trấn an và xin
được trấn an như vậy, tình hình quả thực đã trở nên tuyệt vọng: "Trong
chiều bạc mệnh - Trăng tàn nguyệt tận. . .”
Trong khổ bốn, người lữ khách đã tìm thấy được "em". Ta
hãy thử nghe kỹ lại về bối cảnh của cuộc hội ngộ này: “Tìm trong vô thường - Có
đôi dòng kinh - Sấm bay rền vang - Bỗng tôi thấy em - Dưới
chân cội nguồn - Tôi mời em về - Đêm gội mưa trong - Em
ngồi bốn bể - Thơm ngát hương trầm”. Tại sao lại có em ở “dưới chân cội
nguồn”? Và chúng ta hãy lưu ý chốn “dưới chân cội nguồn" này lại
nằm trong "vô thường” - những hình ảnh quyết không phải là của
chốn hạ giới nữa. Hình ảnh "em ngồi bốn bề - Thơm ngát
hương trầm" càng nhấn mạnh ấn tượng "em" đúng là người của tiên
cảnh rồi. Chúng ta lưu ý ở đây là những chi tiết của "giấc mơ ngày", ẩn
chứa những tưởng tượng mang tính dục đã nói ở trên ("Nụ cười mong
manh. . . - Một bờ môi thơm”) đã hoàn toàn được gột rửa, câu "đêm
gội mưa trong" cũng hàm chứa ý tưởng siêu thoát đó.
Từ khổ thứ sáu đến khổ thứ tám, thể thơ từ bốn chữ
trước đó chuyển sang thể lục bát (trong nhạc từ nhịp 6/8 chuyển sang nhịp 2/4,
với ghi chú của tác giả trên khung nhạc "Đưa tình về - Nhịp
hớn hở"). Phần lục bát mô tả hạnh phúc ái ân này không dài. Ta hãy
lưu ý đến khổ lục bát ở giữa (khổ thứ bảy) "Mùa đông cho em nỗi buồn - Chiều
em ra đứng hát kinh đầu sông..." (trong nhạc, nhịp ở đây chậm hẳn lại).
Tại sao đang trong hạnh phúc "hớn hở" của ái ân lại có hình
ảnh lạ lùng của "Chiều em ra đứng hát kinh đầu sông “? Hình ảnh
này về sau sẽ được điệp lại một lần nữa ở ý “Một chiều em đứng cuối sông”, nhưng
vào lúc đó chính đã đến thời điểm “Một thời yêu dấu đã qua”, khi mà “gió
mùa thu rất ân cần" đã chở "những lời tình em trối
trăn" đi rồi.
Ở đây chỉ là một thoáng nghi hoặc đầu tiên, nhưng rồi
được át đi ngay, nhịp lại trở về nhí nhảnh "Từ nay anh đã có nàng. .
. - Có con chim hót tên là ái ân ".
Từ "Sen hồng một nụ...” (xem khổ thứ
chín) nhịp thơ trên căn bản trở lại 4 chữ, tương tự như ở phần “Tìm em tôi tìm
- Mình hạc xương mai. . . “, song nhạc chậm hẳn lại và thay
đổi sang nhịp 3/4. Chắc chắn đây không còn là ngôn ngữ của người lữ hành, của
nhân vật "Tôi" nữa, mà là tiếng nói của “em” với sen, và lời
"em" tự nhủ với mình; diễn dịch ra cú pháp văn xuôi, câu này sẽ phải
là: "Em buồn, nhưng em phải đền trọn mối tình của anh". Rồi cái phải
đến đã đến: "Một chiều em đứng cuối sông... - Một thời yêu
dấu đã qua". Ở đây chỉ xin lưu ý tới hai điểm. Điểm thứ nhất: Trong
khổ “Một thời yêu dấu đã qua - Gót hồng em muốn quay về - Dù
trần gian có xót xa - Cũng đành về với quê nhà" có một ý có
lẽ rất khó hiểu: "Quê nhà" này là ở đâu vậy mà “dù trần
gian có xót xa” cũng phải quay về? Quê nhà ở đây chắc không phải là trần gian
đâu, trần gian là chốn của anh, bởi cho dù anh có xót xa ở cõi trần thì “gót
hồng” em vẫn phải quay về. Quê nhà của em - đấy chính là nơi gặp gỡ đầu
tiên, tức là trong "vô thường” là nơi có “sấm bay rền vang”, là
nơi có em ở “dưới chân cội nguồn”. Điểm lưu ý thứ hai: Khổ thơ sáu chữ được sử
dụng ở đây tôi cho có lẽ không phải là vô tình. Khổ bốn chữ ở trên "Sen
hồng một nụ - Em ngồi một thuở. . . " là Monolog, là
độc thoại . Thể lục bát trong phần mô tả hạnh phúc ở trên là để thể
hiện tính chất Dialog, tính chất đối thoại, là hỏi - đáp, hô - ứng,
là "anh đã có nàng", là tiếng đồng vọng, thậm chí trong thơ
còn “có con chim hót" (!) nữa. Còn khổ câu sáu chữ đứng đơn lẻ mà
không có câu tám ở đây (xin nhắc lại: “một thời yêu dấu đã qua - Gót
hồng em muốn quay về - Dù trần gian có xót xa - Cũng đành về
với quê nhà”) có thể nói là một độc thoại bất đắc dĩ, một độc thoại trong
tư thế hồi tưởng đến đối thoại, là những câu sáu chữ vang lên một mình mà không
có sự đồng vọng của cả tổng thể các câu 6 - 8 trước đấy.
Chúng ta đến phần cuối của bài: “Từ đó trong vườn
khuya - ôi áo xưa em là - Một chút mây phù du..." (Xin nhắc: "Vườn
khuya" này chính là “vườn mưa tạnh” trước đây, nơi có “tiếng nhạc
hân hoan " để “trăng vàng khai hội “ đón tình về). Bây giờ là
lúc người lữ khách không còn “tìm trên non ngàn" hay “tìm đêm
chưa từng - tìm ngày tinh khôi” nữa, mà là "ngồi mê", “nằm
đau”. Môtíp “áo xưa" của em giờ là “một chút mây phu du” có
thể nói là một môtíp quen thuộc trong các tình khúc nổi tiếng khác của Trịnh
Công Sơn - chẳng hạn như ý "áo em bây giờ mờ xa nẻo mây" trong Hạ
trắng. Ở đây ta thấy cũng có hình ảnh của “đường xa ", của “chuyến
xe " - song đó chỉ còn là sự vận động, là cuộc lữ hành trong tâm tưởng. “Một
chút vô thường theo - Từng phút cao giờ sâu”. Không gian lữ hành
dường đã được thu lại trong thời gian, người lữ hành lúc bấy giờ chỉ còn lại có
thời gian, và thời gian lúc bấy giờ có cả chiều "cao – sâu”... Thời
gian dường như đang bước tiếp, trước hết là em thành hoa "nở hết
trong hoàng hôn" - đẩy lùi bóng tối để chờ đợi, để gọi gió "vô
thường”, rồi tiếp đó em thành sương “rụng mát trong bình minh”, mở đầu
ngày mới. Và cuối cùng: “Từ đó ta là đêm - Nở đóa hoa vô thường”. “Ta"
chứ không phải là "tôi" nữa, "Ta" đây chính là cả "Tôi
và Em", hay như Trịnh Công Sơn nói về sau này:”Em là tôi và tôi cũng là
em". Hiểu theo biểu tượng của Thiền: Ta là Đêm, ta không còn là Tự
Ngã đầy khổ đau nữa, là sự xóa bỏ khoảng cách giữa chủ thể và khách thể, và
"Đêm" ấy là giây lát cuối cùng trước khi "nở đóa hoa vô thường", trước
giây lát đốn ngộ.
Thời điểm ra đời của Đóa hoa vô thường đáng
tiếc không xác định được rõ, bản in mà tác giả bài tham luận này có không ghi
rõ xuất xứ tác phẩm. Căn cứ vào những nội dung vừa phân tích ở trên và một nhận
định của nhạc sĩ Phạm Duy rằng: "một, hai năm trước biến cố
30/4/1975, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đi vào Thiền, có lẽ cũng giống như tôi (tức
P.D) đi vào Đạo Ca”(1), tôi phỏng đoán rằng Đóa hoa vô thường có
lẽ đã được viết vào thời gian này. Từ ướt mi ra đời vào năm 1958, qua
những Nguyệt ca, Đêm thấy ta là thác đổ, Cát bụi... đến Đóa hoa
vô thường, tác phẩm của Trịnh Công Sơn dường như đã trở thành một vũ trụ
nghệ thuật riêng của miền Nam trước 1975. Nó là cầu nối từ Thơ Mới, từ ca khúc
Tiền Chiến đến sau 1975 - qua suốt thời gian hai cuộc chiến và chia cách Bắc -
Nam, nối tiếp dòng văn hóa của cả nước sau những gián đoạn và hoang phế. Hơn 25
năm sau khi chiến tranh kết thúc, tác phẩm của Trịnh Công Sơn - cũng như ca
khúc Tiền Chiến vốn có thời chỉ còn tồn tại như một nền văn hóa đặc tuyển, giới
hạn trong một phạm vi công chúng hẹp - đã trở thành một phần của văn hóa đại
chúng. Và về phần mình, mã nghệ thuật - ít nhất là mã nghệ thuật ngôn từ - của
Trịnh Công Sơn cũng đã tạo ra những ảnh hưởng sâu rộng trong giới sáng tác và
thưởng thức. Tính chất “bảng lảng, mơ hồ khó phân định cho đúng nghĩa “(2)
trong ca từ của ông - xin một lần cuối nhắc lại lời của Phạm Duy - đã trở thành
phong cách chung trong ca từ và thi ca Việt Nam đương đại.
Chú thích:
(1) phạm Duy, Hồi kí III.
Đỗ Trung Quân
Trịnh Công Sơn Và Bóng Mát Người Mẹ
Trở thành goá bụa khi chỉ mới 34 tuổi. Người mẹ trẻ
ấy đã phải thay chồng nuôi dạy 8 đứa con (3 trai và 5 gái). Một trong những người
con trai của bà sẽ trở thành một trong những nhạc sĩ sáng chói, được yêu mến và
hâm mộ vào bậc nhất Việt Nam sau này: nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.
Trong di sản âm nhạc đồ sộ của mình, hình ảnh người
mẹ đã hiện ra trong ca khúc của Trịnh Công Sơn qua 4 giai đoạn: Ca dao mẹ (1970)
là ẩn dụ về mẹ Việt Nam, hình ảnh đất nước những năm tháng đầy đạn bom máu lửa,
“mẹ ngồi ru con đong đưa võng buồn, đong qua tuổi mòn... Mẹ dạy cho
con tiếng nói quê hương... mẹ nhìn con đi phút giây bàng hoàng. . . . " . Rồi
trong giai đoạn cuối của cuộc chiến, khi đổ nát và "lưu vong" nơi đô
thị tạm chiếm đã ở đỉnh cao, Lời mẹ ru (1974) đã là hình ảnh tìm về với êm
ả, an ủi của cội nguồn Việt Nam “lời mẹ ru con - đến những khu vườn...
ru con trưa nắng (í. . . a. . .), con ngủ thật ngoan, con
ngủ cho yên. . . . một đời ru con nghe cũng mỏi mòn. . . . con ngủ giấc hiền
cho mẹ ngồi trông...". Sau 1975, hình ảnh người mẹ Việt Nam đau khổ,
hy sinh và can đảm hiện lên rõ nét hơn, không ẩn dụ nữa trong âm nhạc của ông, Huyền
thoại mẹ (1987) "Đêm chong đèn ngồi nhớ lại từng câu chuyện ngày
xưa... Mẹ về đứng dưới mưa che từng căn hầm nhỏ, xoá sạch vết con về. . . Mẹ
chìm dưới gian nan . . . "
Thế rồi năm 1991, người mẹ yêu dấu của cuộc đời
ông, người sinh thành và nuôi dạy ông suốt cả đời đã qua đời. Trịnh Công Sơn đã
khóc bằng tiếng khóc trẻ thơ như những ngày thơ dại đời mình: "Mẹ bỏ
con đi đường xa vạn dặm. . . mẹ bỏ con đi. . . mẹ bỏ con đi . . .
" (Đường xa vạn dặm) . Nỗi đau vô hạn đã làm Trịnh Công Sơn suy
sụp tinh thần. Một năm sau, ông biến chứng qua bệnh tiểu đường. Cây cổ thụ của
âm nhạc Việt Nam khô héo thêm nữa và từ đó . . . .
Tuổi thơ và thành niên
Khi cha mất, Trịnh Công Sơn, anh cả của gia đình họ
Trịnh mới chỉ 14 tuổi. Người mẹ trẻ chia đều tình thương cho tất cả 8 đứa con
nhưng bà chăm sóc nhiều hơn người em trai kế của Sơn: Trịnh Quang Hà vì Hà thể
chất, tinh thần yếu nhất trong anh em. Trịnh Công Sơn còn đi học, chưa hé lộ
tài năng nhưng đã lấp loé năng khiếu âm nhạc, anh đã biết chơi đàn từ tuổi thiếu
niên. Khung cảnh Huế nuôi nấng thêm cho tâm hồn anh sự nhạy cảm và mơ mộng. Người
mẹ trẻ lo toan cơm áo nuôi con bằng cửa hiệu bán phụ tùng xe đạp, xe gắn máy có
bảng hiệu “Thanh Tâm" ở Huế. Khi Trịnh Công Sơn rời Huế, Quy Nhơn vào Sài
Gòn học, bà kết hợp những chuyến vào mua hàng đến thăm con trai lớn. Những lần
như thế, bà gặp gỡ con và bạn bè cùng học với Sơn, cuộc trò chuyện cũng giống
như thời Sơn còn bé, bà đọc thơ của bà làm, đọc Kiều (vịnh, phú) cho con trai
nghe. Giai điệu Huế, tâm hồn Huế, thi ca đã đến với Sơn trước khi âm nhạc đến
và sau này, khi có những người bạn trí thức như Ngô Kha, Hoàng Phủ Ngọc Tường,
Đinh Cường. . . người ta sẽ không ngạc nhiên khi ca từ trong ca khúc
của Trịnh Công Sơn đẹp như thơ. Đúng hơn, đây cũng chính là những bài thơ.
Và cuối đời
Trịnh Công Sơn yêu mẹ, sùng bái mẹ cũng thật dễ hiểu.
Khi lớn lên Sơn ngày càng hiểu rõ sự yêu thương, đức hy sinh của mẹ dành cho
con cái và đặc biệt là anh. Nhiều bóng dáng phụ nữ đã đi qua cuộc đời anh, có
người để lại các tên thấp thoáng trong nhiều ca khúc danh tiếng Diễm xưa,
Biển nhớ, Xin trả nợ người, Bông bồng ơi . . . nhưng cuối cùng, con người
tài hoa ấy vẫn quay trở về nằm bên mẹ của mình. Những anh chị em khác của Trịnh
Công Sơn đều đã có gia đình, có con cái. Họ Trịnh vẫn đông đủ người hương khói,
mà đứa con trưởng Trịnh Công Sơn dường như đã nhường điều ấy cho các em mình,
ông dành cả cuộc đời cho âm nhạc, cho sáng tạo và tìm về với mẹ như trẻ thơ sau
cuộc trả nợ tử sinh.
Lê Minh Quốc
Hội Ngội Giữa Hư Không
Hội Ngội Giữa Hư Không
Âm nhạc là một thứ hạnh phúc mơ hồ trong khoảng khắc.
Có những lúc cần an ủi nỗi buồn phiền hoặc ca ngợi niềm hoan lạc, từ trong thâm
tâm ta vọng lên những âm thanh. Âm thanh ấy đã đi vào trong máu thịt từ lúc nào
ta không tự ý thức được. Thế hệ tôi lớn lên, đi trong cõi đời mênh mông với phần
xác, thì trong phần hồn ít nhiều được nuôi dưỡng bằng âm nhạc của Trịnh Công
Sơn. Tôi có cảm giác, người nhạc sĩ tài hoa ấy dường như đã bước ra từ tâm linh
của mình, ông đã nói những điều mà tôi đã gặp đâu đó trong giấc mơ. Ca khúc Ru
ta ngậm ngùi là một trong muôn ngàn ví dụ. Ở đó, ông đã nói về một cuộc
tình đã xa? Không, ông nói về thời gian. Nỗi ám ảnh của Trịnh Công Sơn từ muôn
kiếp cũng chính là thời gian. “Khi tình đã vội quên.
Tim lăn trên đường mòn. Trên giọt máu cuồng điên.
Con chim đứng lặng câm. Khi về trong mùa đông. Tay rong rêu muộn màng. Thôi chờ
những rạng đông...". Hình ảnh "tim lăn trên đường mòn" dường
như "đóng đinh" vào trong trí nhớ khi đôi môi vừa im bặt tiếng hát.
Tôi tự hỏi, tại sao lại là đường mòn? Trong tâm trí bỗng gợi lên một con đường
hun hút hiu quạnh với những câu thơ của Bùi Giáng:
Níu vai phố rộng xin về
Với cây trút gió với hè nắng rung.
Đó là một sự liên tưởng của tôi mà trong ca từ của
Trịnh Công Sơn mở ra nhiều đường, nhiều lối cho những người yêu nhạc của ông
cùng chiêm nghiệm. Và trong đám tang của người nhạc sĩ tài hoa này, tôi không
được nghe tiếng khóc của trẻ thơ, cũng giống như trong đám tang của trung niên
thi sĩ Bùi Giáng ở chùa Vĩnh Nghiêm năm nọ. Cả hai đều được rất nhiều người yêu
dấu, nhưng lại không có nhan sắc yêu dấu của riêng mình. Thoáng nghĩ như thế đã
thấy tim mình đau buốt...
Chợt nhớ năm xưa, trên đường hành quân đi ngang dọc
trên đất nước Chùa Tháp, trên vai chiếc ba lô nặng ba mươi ký như đeo cả trái đất,
hai quai xiết chặt vào vai, dưới chân đôi giày đã rách toạc và đường về doanh
trại còn xa thăm thẳm... Bất chợt trong tâm hồn tôi, ai đó đã vọng lên tiếng
hát "Đời sao im vắng như đồng lúa gặt xong". Trước mắt tôi
là cánh đồng Choans're đang nứt nẻ khô cằn, những rơm rạ oằn mình trong nắng lửa.
Tôi nghĩ, nơi này Trịnh Công Sơn vừa đi qua chăng? Nhưng rừng núi bỏ hoang. Có
đi trong cánh rừng bỏ hoang thì ta mới cảm nhận hết không gian im vắng của Đời
sao im vắng mà người nhạc sĩ tài hoa vừa viết xong. Một nhạc sĩ bình thường
vẫn có thể viết được như thế chứ? Nhưng ở đây, một lần nữa, Trịnh Công Sơn đã đẩy
nỗi ám ảnh về thời gian lên đỉnh điểm của sáng tạo: “Người về soi bóng mình giữa
tường trắng lạnh câm". Thông thường, tôi soi bóng mình trong gương để
tìm sự phản chiếu, cho dù đôi lúc có cảm giác như bóng ấy không phải của mình
mà của kẻ khác. Nhưng ở đây, soi bóng mình giữa tường trắng thì ta không thấy
gì khác ngoài tâm linh của mình đang hội nhập trong bản thể của mình. Những ca
từ ấy, tôi có cảm giác Trịnh Công Sơn không chỉ là một nhạc sĩ đặt ca từ nữa mà
ông đã viết bằng sự linh cảm của một Matsuo Basho với những câu thơ haiku:
Đau yếu giữa hành tinh
Chỉ còn mộng tôi phiêu lãng
Trên những cánh đồng hoang.
Công chúng yêu nhạc của Trịnh Công Sơn, dù không hiểu
lắm về giai điệu, về cấu trúc của một ca khúc nhưng họ khó quên được ca từ của
ông. Vì lẽ đó, Trịnh Công Sơn và những nhạc sĩ tài hoa khác có được một hạnh phúc
mơ hồ là khi vui, buồn ta đều có thể đặt trên môi những ca từ ấy và hát.
Hát như một cách tìm kiếm người bạn đồng hành để tiếp tục đi trên đường dài còn
xa thăm thẳm ....
4-4-2001
Dạ khúc
Lời ca đau trên môi
Tình khúc Trịnh Công Sơn tôi hát
Vòm trời khuya nhợt nhạt màu cỏ úa
Bóng trăng như vệt son của thiên nhiên goá bụa
Trong đêm ngồi tự tình
Tôi bay lên như chiếc lá xanh
Dìu em dự đám cưới
Trong từng ca khúc chìm vào bóng tối
Lời ca đau trên môi
Này em đứng ngửa mặt lên trời để khóc
Nếu mỗi tình nhân còn giữ lại nước mắt
Thì cũng nhiều như suối như sông
Đêm đã khuya rồi
Sắp hết những ngày xuân
Em sắp lớn và hoa sắp úa
Tôi sắp xếp cuộc tình không còn nữa
Vào trong trí nhớ nhỏ nhoi
Nhưng lời ca còn đau mãi trên môi.
Nguyễn Quang Sáng
I
Paris, đêm 16 - 5 - 1987. Nhà Việt Nam trên đường
Cardinal Lemoine có buổi nói chuyện về Trịnh Công Sơn của anh Nam Chi. Người đến
dự đêm Trịnh Công Sơn ở Paris, có người vốn là bạn bè của anh, có người chưa
quen biết anh nhưng yêu anh, mê anh, có người đã trở về nước gặp lại anh, có
người chưa có dịp gặp lại anh,và dù có xa cách đến muôn trùng, trong lòng anh
chị em ấy vẫn vang vọng tiếng hát của anh. Tiếng hát nhức nhối đến tâm can khi
nghĩ đến quê hương. Nghe Sơn mà không thấy, không gặp Sơn. Tuy lời giới thiệu của
anh Nguyễn Ngọc Giao cũng như lời mở đầu của anh Nam Chi, đều ao ước " ... sẽ
có một ngày Trịnh Công Sơn có mặt ở tại đây, trong Maison du Việt Nam với chúng
ta".
Hai năm sau, Trịnh Công Sơn đến Paris và đêm 27 -5,
đúng đêm thứ bảy năm 1989, Trịnh Công Sơn xuất hiện trước bạn bè dưới tầng hầm
của nhà Việt Nam. Sơn đó, đúng như Khánh Ly đã tả về anh: "Dáng người mảnh
khảnh, cặp kính trắng tròn gọng đồi mồi, đôi mắt bồ câu, vầng trán cao, rộng, sống
mũi thẳng, nụ cười đẹp, tươi với chiếc răng khểnh... và giọng Huế. Đó là Sơn của
Khánh Ly. Còn Sơn đối với tôi, Sơn người Huế, tôi người An Giang.
Suốt những năm chiến tranh, về mặt địa dư, tôi với
anh như hai kẻ đối đầu. Lúc Sơn ở Sài Gòn, cái thời Sài Gòn còn là Thủ đô của
Việt Nam Cộng hoà, tôi ở Hà Nội: lúc Sơn về lại Huế, tôi lại về rừng với quân
giải phóng. Không quen, không biết, nhưng lại gần nhau trong đời sống tâm linh
để đến bây giờ cùng một chuyến bay, cùng một chuyến đi, cùng lo cho đêm hát của
Sơn trên đất Paris. Tôi biết Sơn từ lúc ngồi viết Mùa gió chướng (1974).
Tôi tìm nghe và đọc của Sơn. Và tôi đã mượn lời Đại bác ru đêm của
Sơn cho tâm trạng khao khát hoà bình của một nhà báo Sài Gòn hiểu rõ được thời
thế. Cũng có vài trường hợp nghe Sơn, biết Sơn giống như tôi. Như Nguyễn Duy thời
còn chiến tranh, nhà thơ đã trộm nghe đài Sài Gòn, đã biết Sơn qua giọng hát
Khánh Ly. Trong bài Ngày sau sỏi đá, Nguyễn Duy viết: "... Quỷ
thật giai điệu ấy, lời ca ấy tự nhiên ghim lại trong tâm tưởng tôi ngay từ phút
bất chợt ấy. Rồi Như cánh vạc bay. Quái thật? Cảm nhận bất chợt, những
bài hát rất mượt mà đắm đuối ấy nhưng không thuộc chủng loại èo uột rên rỉ, nỉ
non mà người ta vẫn gọi chung là nhạc vàng. Ừ, thì có buồn đấy, đau đấy, quặn
thắt nữa đấy, nhưng còn có cái gì lành mạnh nẩy nở trong đó. Cái đẹp từ câu nhạc,
cái đẹp trong ca từ, cả xác chữ lẫn hồn thơ. Bảng lảng lờ mờ khó phân định cho
đúng nghĩa, nhưng rõ ràng, đẹp làm sao và cũng hơi ma quái thế nào..." (Tuần
tin Thanh Niên số 93 ra ngày 23-11- 1987). Hình như nhà thơ đã bị choáng
ngợp trước tôi và nhạc của Trịnh Công Sơn, không biết nói cách nào cho hết ý
mình nên cứ phải quỷ phải quái và thế nào ấy. . . Nhà văn Tô Hoài nói
về nhạc phẩm của Sơn gọn hơn: "Buồn và đẹp". Gọn hơn nữa, là nhà văn
quá cố Nguyễn Tuân, một chữ: “Thơ". Ở Paris, anh Nam Chi, anh Cao Huy Thuần
cũng nói đến thơ trong lời của Sơn. Đã là thơ thì giải bao nhiêu lời cũng không
đủ, chỉ có một chữ đủ nhất là "Thơ".
Sau 30-4-1975 không mấy ngày, tôi gặp Sơn. Tôi tặng
cho Sơn quyển Mùa gió chướng của tôi và ký tên trang dưới đoạn trích Đại
bác ru đêm của anh. Ấy là ngày đầu làm quen, làm bạn cho đến nay. Ngồi đối
diện với Sơn trong một quán bia buổi trưa hè dưới hàng cây vú sữa đường Trần
Quý Cáp, Trịnh Công Sơn hết sức lạ lùng đối với tôi. Sơn giống một người trong
vùng quê tôi, người đã sáng lập ra một tôn giáo, vị giáo chủ ấy có đến hàng triệu
tín đồ. Cũng gương mặt ấy, cũng mái tóc xoã ngang vai ấy, nhưng Sơn không có
tín đồ mà có hàng triệu người yêu mê nhạc phẩm của anh. Tôi vốn là người có một
thời nghiên cứu về tôn giáo này, tôi có thu thập một ít tư liệu và hình ảnh. Một
hôm, tôi đưa tấm ảnh của vị giáo chủ ấy cho Sơn và bạn bè xem, ai cũng "Ô
giống quá!" ấy là chuyện tình cờ trong đời nhưng tôi không bỏ trôi qua
trong nghĩ suy của tôi về con người: người sinh cùng năm tháng, người cùng một
gương mặt, cùng một dáng đi, người cùng tên, khác nhau đó, nhưng có gì giống
nhau?
Trịnh Công Sơn sinh ngày 28-2-1939, năm Kỷ Mão. Con
mèo Trịnh Công Sơn nhẹ nhàng, hết sức nhạy cảm, hết sức tinh tế. Tưởng như Sơn
nghe cả tiếng nói của cỏ cây, nghe được cả lời thở than khi hoa quỳnh lả cánh.
Chính vì vậy mà Sơn đã hỏi "Làm sao em biết bia đá không
đau?..." và biết "Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau..."
Người yêu nhạc của Sơn, dù có yêu có mê đến mấy
cũng không thể yêu, mê và nhớ 500 ca khúc của anh. Nhưng mỗi lúc, mỗi thời thế,
và tùy theo tâm trạng, mà yêu mà nhớ đến một khúc hát nào đó của Sơn. Và hơn
500 ca khúc của anh như đủ cho một tâm trạng của mỗi con người. Hơn mười năm
qua, đi đâu, bất cứ nơi nào, trong nước hay ngoài nước, nơi nào có người Việt
Nam, là nơi đó tôi được nghe của Sơn. Nhớ năm 1987, trong dịp sang Đông Berlin,
khi tôi vừa ngồi yên trong xe, thì anh bạn lái cho tôi bảo: “Nghe Trịnh Công
Sơn nhé?". "Có à?" - Tôi ngạc nhiên. “Sao lại không!" và giọng
của Khánh Ly "Mưa vẫn mưa bay. . . " lại cùng tôi vang trên
các nẻo đường Đông Berlin trong đêm thu. Khiến tôi nhớ, một lần tôi về đất Mũi,
đang ngồi chơi bên một cái hồ ở chợ Cá Mấy. Dưới hồ có một con gì rất lạ, như một
con đỉa màu xanh lội lăng quăng. Khi tôi cầm cục đất ném xuống thì con "đỉa"
màu xanh tan biến đi. Không thấy gì nữa, chỉ còn mặt nước trong. Một lát sau,
chẳng biết từ đâu, những hạt tế bào tan biến ấy lại tụ về với nguyên hình con đỉa
xanh lội lăng quăng. Tôi đang nghĩ về sự tan biến nhưng không bao giờ chết của
con vật lạ ấy thì bên tai văng vẳng tiếng hát. . . "Rớt xuống đời làm
sóng lênh đênh. . . ". Ngoảnh nhìn lại, một cô gái đi trên bờ đất, cô
hát một mình, không để ý đến ai, vừa nghêu ngao hát vừa đi về phía rừng chiều.
"Sơn à, đi đâu tao cũng nghe mày!".
Tại Paris, nghe đồn ở quận 13 có người Việt cực
đoan thù Sơn, chống Sơn, Sơn không thể đến đó, và cũng không nên đi ngang qua
đó, dù đi bằng ô tô. Họ đã làm bậy với đoàn cải lương rồi. Không thể không cảnh
giác. Một hôm tôi đến, vào một quán phở, một cái quán có nhiều khách chống Sơn:
lạ, tôi lại nghe họ mở nhạc của Sơn. Rồi đầu tháng 7 - 1989 ngồi trong một quán
ăn Việt Nam ở New York, trong ánh đèn mờ, tôi cũng lại nghe của Sơn. “Sơn! Qua
tới Mỹ rồi, tao vẫn nghe mày!" Hoá ra người ghét Sơn, chống Sơn vẫn không
thể không nghe của Sơn. Từ đó, có thể nói, nghệ thuật của Trịnh Công Sơn đã vượt
qua khỏi sự hằn thù được không?
Lại nhớ đến một đêm sương Sài Gòn năm 1978, chúng
tôi gồm nhà văn Nguyễn Tuân, Thọ, Nhuận, Tịnh, Sơn và tôi sang chơi bên quán Cầu
Mới dưới chân cầu Bình Triệu.
Chủ quán nào biết khách là ai. Vô tình mà như chuẩn
bị sẵn từ lúc nào. Khi Sơn và chúng tôi vừa bước xuống xe thì tiếng kèn saxo của
Trần Vĩnh từ một âm thấp vút lên cao Gọi nắng. . . của bài Hạ trắng. Không
giật mình nhưng ngẩn ngơ trước tiếng kèn saxo của Trần Vĩnh. Tả lại cảm xúc ấy
như thế nào đây? Với tôi, tiếng kèn như một luồng sương toả mờ một khoảng trời
của chúng tôi, cho thêm lạnh, thêm nhớ một đêm êm đềm. Nay, nhà văn Nguyễn
Tuân, người anh lớn ấy đã qua một cõi đời rồi, Thọ, Nhuận đang sống ở nước
ngoài. Dù ở đâu, dù có xa nhau, tôi luôn nghĩ, bạn bè trong đêm sương ấy vẫn
còn vẳng bên tai lời gợi nhớ của tiếng kèn saxo: "Áo xưa dù nhàu,
cũng xin bạc đầu gọi mãi tên nhau...".
Tôi hết sức thú vị được nghe tiến sĩ Cao Huy Thuần
qua băng ghi âm trong đêm nhạc của Trịnh Công Sơn ở Paris đêm 20-6-1987. Tiến
sĩ Cao Huy Thuần phân tích: "Đời của Trịnh Công Sơn là thơ. Ca khúc của Trịnh
Công Sơn có bốn chủ đề: chiến tranh và hoà bình, tình yêu, một chút triết lý về
thân phận con người và quê hương". Nói về nỗi buồn của Sơn, anh tạm gọi là
nỗi buồn siêu hình: Anh Cao Huy Thuần nói: “Chắc chắn một điều, bài nào của Sơn
mà không có chữ em, chữ yêu, không có chữ tình, chữ tin, chắc chắn không phải
là bài hát của Trịnh Công Sơn. Đó là Trịnh Công Sơn giả cầy".
Giới thiệu bài Mưa hồng, anh nói: "Cảnh,
tình và người trong Trịnh Công Sơn là cảnh Huế, tình Huế, người Huế. Sau này,
Sơn rời Huế vào Sài Gòn, chất thơ trong nhạc của Trịnh Công Sơn vẫn là chất Huế,
nguồn thơ vẫn chảy từ Huế. Vô số những bài hát của Sơn đều ướt và mưa. Vì
Huế là xứ mưa dầm. Mưa mùa đông, mưa mùa hè, mưa sợi nhỏ, mưa sợi to, mưa tỉ
tê, mưa ray rứt, cảnh mưa trong Trịnh Công Sơn buồn nhưng rất đẹp. Sơn ở gần cầu
Phú Cam, trông xuống sông là Bến Ngự. Cửa mở ra là vòm cây long não xanh mướt,
chiếc cầu nhỏ nối hai bờ sông, bên kia sông là chiếc vai gầy của Diễm...”.
Nói đến mưa trong nhạc phẩm của Trịnh Công Sơn, tôi
nhớ một chiều năm 1980, họa sĩ Nguyễn Trung, Sơn và tôi ngồi trên lầu mười
khách sạn Bông Sen đường Đồng Khởi.
Ba chúng tôi, ngồi bên cốc bia nhìn cơn mưa chiều
mù mịt của thành phố. Mưa Sài Gòn không lê thê, không ray rứt, mà mưa như cầm
bình trút nước, mưa dữ dội, mưa mạnh mẽ. Rồi mưa dứt. Mưa rửa sạch cả thành phố.
Mái ngói đỏ au ánh trời chiều. Mưa Sài Gòn không từng sợi, không tỉ tê, mà ào ạt
đến với nguồn cảm xúc của Sơn. Sau đó, trong ca khúc Chiều trên quê hương
tôi, Trịnh Công Sơn viết:
Chiều trên quê hương tôi,
Nắng phơi trên màu ngói non tươi,
Gió mang tin một mùa sẽ tới.
Sẽ mưa lâu hoặc cơn nắng dài.
Và trong bài Em còn nhớ hay em đã quên:
Nhớ Sài Gòn mưa rồi chợt nắng
Trong lòng phố mưa đêm trói chân
Dưới hiên nhìn nước dâng tràn
Phố bỗng là dòng sông uốn quanh...
Đó là cơn mưa Sài Gòn, cơn mưa nơi Trịnh Công Sơn lớn
lên, trưởng thành và gắn bó cho đến ngày nay.
Tiến sĩ Cao Huy Thuần tiếp: "Nói về người, người
đẹp của Sơn phải là người gầy, không gầy thì không đẹp". Ví dụ, vai gầy:
"Tuổi nào vừa thoáng buồn áo gầy vai" (Còn tuổi nào cho em). Tay gầy:
"Bàn tay em năm ngón ru trên ngàn năm. Trên mùa lá xanh, ngón tay em gầy
nên mãi ru trên ngàn năm" (Ru em từng ngón xuân nồng). "Đoá hoa hồng
tàn hôn lên môi, em gầy ngón dài" (Tuổi đá buồn). Gầy và xanh: "Mưa vẫn
mưa bay trên tầng tháp cổ, dài tay em mấy thuở mắt xanh xao" (Diễm xưa) hoặc
"Bàn tay xanh xao đón ưu phiền" (Nắng thủy tinh).
Cũng cái vẻ đẹp này, Khánh Ly viết: ". .
. Tôi không nhớ Hà Nội bao nhiêu, không yêu Sài Gòn nhiều lắm, mà chỉ xót
xa đến Huế. Huế nghèo, thành phố chỉ vài con đường chính. Huế nóng cháy da, mềm
thịt. Huế lạnh buốt, lạnh từ trong lạnh ra. Dường như Huế chỉ thật sự huyền ảo,
đẹp, nên thơ bởi những nghệ sĩ khi viết về quê hương mình. Có lẽ đó là điều dĩ
nhiên của mọi người, mọi miền khi viết về nơi mình đã sinh ra. Âu cũng không phải
điều làm ta ngạc nhiên. Nhưng không phải vì những điều người Huế viết về Huế đã
làm tôi yêu Huế. Vì nếu như vậy thì tôi phải yêu Hà Nội nhiều hơn mới có lý. Phải
yêu Sài Gòn hơn, Đà Lạt hơn mới phải. Vậy mà tôi yêu Huế, thỉnh thoảng gặp lại
một vài người bạn, tôi năn nỉ mi nói cho tau nghe chút cho đỡ nhớ. Con gái Huế
nói như hát, dịu dàng, đi đứng khép nép, nhẹ nhàng. Có một cái gì thật mong
manh, như tơ, như sương khói, như một điều không có thật trong con người của
các cô gái Huế. Tôi có cảm tưởng họ không phải là sự hiện hữu. Một chút hương
khói hư ảo chập chờn. Chỉ là một tiếng động khẽ dù là tiếng rơi của một chiếc
lá, cũng làm tan biến đi tất cả”... Và với tôi ẩn chứa trong cái vẻ mong manh
như sương khói của Huế là một sức mạnh cường tráng, và dữ dội của thác ghềnh.
Như nhạc phẩm của Trịnh Công Sơn, mơ màng đó, sương khói đó nhưng không tan biến
theo thời gian mà vẫn đọng, vẫn chảy trong lòng người.
II
Tôi thích những ca khúc của Trịnh Công Sơn nghĩ về
cái sống, cái chết và thân phận con người. Tôi nghe, tôi suy ngẫm và muốn tìm
hiểu đến tận nguồn.
Là con cả trong một gia đình đông anh em ở Huế,
ngay từ năm lên sáu Sơn đã phải chia sẻ những buồn vui, lo âu của cha mẹ giữa một
thời điểm đất nước có nhiều biến chuyển. Có phải chăng những nhạc phẩm nghĩ đến
cái chết, cái sống và thân phận con người của Sơn đã bắt nguồn từ tuổi thơ của
anh? Lớn lên vào Sài Gòn, Sơn học triết ở trường JJ. Rousseau, nay là trường Lê
Quý Đôn. Hình như triết học thường hay đến với nỗi đau của con người. Không được
bao nhiêu, rất ít, nhưng tôi cũng cố tìm đọc một vài quyển triết, nhất là sách
Phật, cũng là sách mà Sơn đã đọc. Tôi có cảm tưởng, những điều trong sách vở ấy
đã được lọc qua tâm hồn nghệ sĩ của Sơn, và đã ứa thành mật ngọt của Cõi tạm, của Cát
bụi, của Một cõi đi về... Lại nói một ca khúc, Sơn mơ thấy mình
chết.
Đường nào dìu tôi đi đến cơn say
Một lần nằm mơ thấy tôi qua đời
Dù thật lệ rơi lòng không buồn mấy
Giật mình tỉnh ra ồ nắng lên rồi (Bên đời hiu quạnh)
Một ca khúc hết sức kịch tính, tưởng là nỗi bi quan
về cái chết, nhưng cuối cùng là hết sức yêu đời. Như một nhà thám hiểm. Sơn đã
thử bước vào cõi chết đen ngòm rồi hốt hoảng, vội trở lại với nắng đời. Phải
thú thật, có một dạo, tôi thích nhất Một cõi đi về.
Hơn mười năm chơi với nhau, ngồi với nhau bên ly rượu,
lần nào cũng vậy, trước khi ra về, Sơn cùng hát cho tôi Một cõi đi về có
lẽ vì vậy mà đó là một trong vài ca khúc Sơn không quên lời.
Trịnh Công Sơn đã từng dấn thân trong phong trào đấu
tranh của học sinh, sinh viên, đã từng cầm đàn cùng sinh viên hát vang Nối
vòng tay lớn, đòi chấm dứt chiến tranh, đòi Huế, Sài Gòn, Hà Nội một dải
sơn hà. Đất nước đang chiến tranh, nhưng cuộc đời đã dành cho Sơn, hay Sơn có đủ
sức mạnh tạo cho mình một cõi yên ổn để nói đến tâm tư, đến đời thường của con
người?
Súng đang nổ đó, mà Sơn vẫn viết Như cánh vạc
bay, vẫn Cỏ xót xa đưa, vẫn Hãy yêu nhau đi, vẫn Em
hãy ngủ đi. . . Và... và... Còn dịp để nói, để bàn, để viết về Trịnh Công
Sơn.
Tôi muốn trở lại đêm Trịnh Công Sơn ở Paris, trong
mái Nhà Việt Nam. Một đêm chờ đợi, một đêm trân trọng, một đêm ấm áp. Và cũng
là đêm đặc biệt của Nhà Việt Nam. Xe cảnh sát Pháp đậu dài trên đường Cardinal
Lemoine, bảo vệ cho đêm nhạc của Trịnh Công Sơn. Người trình diễn chỉ có Sơn,
có cả Thanh Hải, người thường hát Trịnh Công Sơn trên đất châu Âu sau này, từ Cộng
hòa Liên bang Đức bay sang. Thú vị hơn, có cả Michikô. Michikô, cô gái Nhật. Có
lẽ và theo tôi, không ai có đủ băng nhạc cũng như ấn phẩm và những vì thuộc về
Sơn bằng Michikô. Michikô có nhiều, có đủ vì cô đang ấp ủ một công trình nghiên
cứu Ngôn ngữ Việt Nam qua lời trong ca khúc của Trịnh Công Sơn. Ngày
ngày Michikô mở băng nghe Khánh Ly hát. Michikô nói tiếng Việt Nam chưa sõi,
nhưng khi với cây đàn ghita thì cô hát đúng giọng của Khánh Ly.
Bạn bè ai cũng lo, chẳng biết Sơn có hát được, hát
nổi hay không? Sơn gầy quá, cũng vừa mới ốm dậy. Đã vậy, lại còn uống (Bây giờ
Sơn đã bỏ rượu rồi - Uống nước ngọt). Lúc ấy và trước trước nữa, ngày nào Sơn
cũng uống, từ sáng cho đến tối, uống mà không ăn. Uống như lời hát Một
ngày tôi chọn một niềm vui: “Mỗi ngày tôi nhậu một lần thôi, từ sáng tinh mơ
cho đến chiều tà". Cho nên ngày hôm đó, bạn bè đặc biệt chăm sóc Sơn
về uống. (Lúc nào cũng có Bordeaux mà!). Tôi là người cùng đi, tôi cũng có bổn
phận này đối với Sơn. Nhưng tôi không lo. Trước đó một tuần, ở Orleans, ngồi
trong nhà anh Nam Chi bên dòng suối ôn Tuyền, Sơn vừa uống, vừa vẽ, suốt ngày.
Nhạc của Sơn đang chuyển thành màu sắc. Không có gì lạ. Nhạc sĩ Văn Cao vẽ, rồi
nhạc sĩ Nguyễn Đức Toàn. Sơn ngồi vẽ, tôi bỗng nghĩ Sơn có một sức sáng tạo cường
tráng trong một cơ thể gầy gò. Tôi biết đến ly nào thì Sơn muốn hát, thích hát,
đến ly nào thì hát hay, đến ly nào thì quẩn không lối ra.
Quan trọng hơn và quyết định là Sơn hiểu được trách
nhiệm của mình.
Và đúng như vậy, với cây đàn gita khi Sơn cất giọng
thì... như anh Nam Chi và nhiều người nhận xét: "Không ai hát Trịnh Công
Sơn bằng Trịnh Công Sơn, kể cả Khánh Ly".
Anh Nam Chi phân tích, ca sĩ mà hát lời của người
làm lời, hát nhạc của người làm nhạc. Còn Sơn, Sơn hát lời của mình và nhạc
cũng của mình. Tất nhiên, Sơn có cả giọng của trời cho. Đời kể cũng lạ. Những
ca sĩ mà tôi biết, hầu như ngày nào cũng luyện giọng. Còn Sơn, tôi chẳng bao giờ
và đố ai thấy Sơn luyện giọng. Nói đến chuyện hát của Sơn, Thế Uyên có viết một
đoạn như sau trong bài Những người từ tuyệt tình cốc...”Từ hôm tới Huế
(trước 1975). Tường đã vài lần nhắc tới Trịnh Công Sơn và khen rất nhiều tài
năng của người nhạc sĩ này. Nhưng đêm nay, ngay sau khi Sơn đã ôm đàn hát lên một
bài của mình về một vết lăn trầm, tôi đã thấy ma lực của lời cũng như nhạc của
anh. Sơn càng hát thêm tôi càng thấy quyến rũ...”.
Đêm Trịnh Công Sơn ở Paris, khi tiếng đàn đã tắt, một
lúc sau người nghe mới vỗ tay như giật mình tỉnh dậy sau lúc "đê mê"
vì cái ma lực của lời, của nhạc và cả giọng quyến rũ của Sơn.
Theo anh Nam Chi, ca khúc của Sơn có câu khi ca sĩ
hát, người nghe không hiểu nghĩa, như một câu vô nghĩa, nhưng khi Sơn hát thì
thấy thâm thúy vô cùng. Lúc hát, Sơn rất quan tâm đến nghệ thuật nhả chữ. Lúc
hát, Sơn kể, có lần Sơn tập cho Khánh Ly trong bài Rừng xưa đã khép có
câu "Ngủ đi em mi cong cỏ mượt". Từ cỏ này hát nghe sao cho
rõ dấu, và cỏ như nằm gọn trong một cái túi, một cái túi đựng lời. Nghệ thuật
phải được rung động từ sự tinh tế. Nghe Khánh Ly (qua băng ghi âm) và nghe Sơn
bài Chiếc lá thu phai ở câu "Tự làm khô héo tôi đây" Khánh
Ly không lột tả nổi sự "khô héo" bằng Sơn. Cũng như bài Huyền
thoại mẹ, Cẩm Vân không diễn tả nỗi người “Mẹ về đứng dưới mưa" bằng
Sơn, Sơn cho ta cảm nhận đến tận cùng sự "khô héo", cho ta niềm xúc động
trước hình ảnh của người mẹ dưới cơn mưa.
Vĩnh Trinh, em gái út của Sơn từ Canada cũng bay
sang thăm anh và hát tiếp anh. Giọng út Trinh khoẻ, lôi cuốn như một dòng thác,
nhưng nghe không cảm bằng Khánh Ly, lại càng không cảm bằng Sơn. Sao thế? Út
Trinh chưa cảm nhận hết ý nghĩa của lời, của thơ. Tôi bảo Trịnh Công Sơn
"Muốn hiểu phải có một trình độ văn hoá và sự cảm nhận văn học nhất định".
Nghe Sơn là nghe hồn thơ qua giọng hát của anh.
Tôi chưa bao giờ hỏi Sơn, khi sáng tác thì nhạc trước
hay lời trước. Nghe và đọc của Sơn, theo tôi, nhạc và lời của Sơn cùng đến, như
cả hai là một không thể tách rời. Có một số ca khúc được nghe, tôi thấy ở một
vài tác giả, có khi vì bị kích động một nốt nhạc nào đó, đành phải có một lời độn,
lời độn đó có khi vô nghĩa hoặc không cần thiết. Ở Sơn, tôi không tìm thấy. Giữa
nhạc và lời, nếu phải có sự “nhượng bộ” thì nhạc phải "nhượng bộ" cho
lời. Bởi thơ thì không thừa, cũng không thiếu.
Nhân nhắc đến Khánh Ly, tôi muốn báo với bạn đọc,
cũng trong tháng năm ấy, Khánh Ly cũng có mặt ở Paris. Sơn hát ở Nhà Việt Nam
trên đường Cardinal Lemoine. Khánh Ly hát ở rạp Mutualite (Place Maubert), cách
nhau chẳng bao xa. Có nhau đó mà không cùng hát như bao người mong ước. Dù hát ở
hai nơi khác nhau, nhưng tiếng hát của hai người đang vang lên trên bầu trời
Paris. Với tôi, đó là điềm lành. Điềm lành cho sự sum họp không chỉ có hai người
mà cho tất cả đàn con Việt Nam đang tản mát khắp nơi trên trái đất.
Đêm hát của Sơn có hai phần: Phần thứ nhất gồm những
ca khúc trước 30-4-75 và những ca khúc sau này. Vì thiếu thông tin, có người tưởng
rằng, sau 1975 sống dưới chế độ cộng sản, Trịnh Công Sơn không còn viết được,
hoặc viết vì “phục vụ chính trị, phục vụ kịp thời" chẳng ra sao.
Với cây đàn gita quen thuộc, Trịnh Công Sơn mở đầu
bài Lặng lẽ nơi này, ca khúc viết cho phim Tình xa năm gần
đây. Trước mắt bạn bè, Sơn vẫn là Sơn, vẫn thơ, vẫn cùng một dòng nhạc mê đắm ấy
và vẫn cái ma lực ấy đã quyến rũ bạn bè ngay từ đầu, có thể nói là bàng hoàng nữa,
bàng hoàng vì không ngờ, chưa có thể nói là hơn, cũng chưa có thể nói là kém so
với ngày xưa, nhưng cũng không thể nói là cũng vậy, khó nói, chỉ thấy bàng
hoàng...
Trong hai mươi ca khúc được trình diễn trong đêm,
có những bài cùng một chủ đề với hai giai đoạn trước và sau 30-4-1975. Trước đó
có Ca dao Mẹ, sau có Huyền thoại Mẹ: trước có Diễm xưa, sau
có Trong nỗi đau tình cờ.
Có bạn không muốn so sánh hai giai đoạn sáng tác của
Sơn giai đoạn nào hơn giai đoạn nào, mà cho rằng ở giai đoạn sau lời và nhạc của
Sơn trong hơn và mạnh hơn.
Cũng như Sơn đã nói "Mười lăm năm qua, tôi là
một con người khác. Tôi đi tìm niềm vui chứ không phải thất vọng. Bởi bất hạnh
thì nhiều mà hạnh phúc thì hiếm quá. Tôi nghĩ ở đâu cũng vậy. Sẽ có người cho
tôi là tên ích kỷ, nhưng tôi vẫn tin rằng những lời thở than không thể thay đổi
số phận một con người. Tôi ghét lòng thương hại." Quả là một nhận
xét đáng suy nghĩ.
Sau đêm hát, bạn bè ai cũng muốn gặp Sơn, nếu không
trò chuyện được lâu, ít nhất cũng một lần bắt tay mừng anh, nhưng không thấy
Sơn đâu. Hỏi ai, ai cũng không thấy. Mất như biển - xe cảnh sát Pháp đã đưa Sơn
đi rồi? Cảnh sát bảo họ có nhiệm vụ bảo vệ cho đêm hát của Sơn.
Một cách máy móc, Sơn hát rồi họ phải đưa Sơn đi...
Đi về một nơi an toàn. Không chỉ có đêm dưới mái Nhà Việt Nam, những ngày sau,
Sơn đã thăm, đã hát ở từng nhà với bạn bè. Có đêm ngoài ngoại ô Paris, anh và
Trinh cùng bạn bè đốt lửa hát suốt đêm.
Qua nhiều cuộc tiếp xúc không thể không có một câu
hỏi, vì sao Sơn không đi? Sơn không đi như 60 triệu dân Việt Nam không đi,
không có gì đặc biệt, không có gì lạ phải phân trần hay giải thích. Và Sơn muốn
học trường Tây, Sơn hiểu cái nghĩa văn hoá theo ngôn ngữ Pháp. Culture (văn
hoá) cũng có nghĩa là trồng trọt. Đã trồng trọt thì không thể rời mặt
đất. Người nghệ sĩ không thể rời bỏ Tổ quốc, không thể không bắt nguồn từ lòng
của dân tộc.
Trở về thành phố, tôi nghe kể lại, ở thành phố đã
có người đánh cuộc Sơn sẽ đi luôn. Và họ phải chung tiền, thua cuộc Nhà văn Thế
Uyên đã viết về sự chọn lựa đi - ở của Sơn như sau: " Trời miền tây Bắc Mỹ
nơi tôi cư ngụ về mùa thu, mùa đông nhiều khi rất buồn. U ám, mây bay, sương
mù, mưa dầm, không khí lạnh giá. Nhiều buổi sáng, khi kéo cao cổ áo cho mưa bớt
rơi vào cổ, ngậm điếu thuốc, tôi đi như chạy trên những con đường nhỏ trong
khuôn viên đại học theo học cho kịp giờ kế. . . Những lúc ấy thật nhớ
nhà vì thèm cái nắng ấm của Sài Gòn, của Việt Nam nhiệt đới. Tâm hồn bay bổng
đôi lúc về quê hương cũ, về những người thân yêu còn ở lại, về dân tộc mình bên
kia Thái Bình Dương rộng lớn, tôi đôi lúc thở dài. Trịnh Công Sơn đã có 1ý khi
anh chọn ở lại quê hương. Nơi này anh có đất nước, có dân tộc và dĩ nhiên có
quê hương đích thực... Anh được làm nhạc sĩ cho dân tộc hơn 60 triệu người của
mình, trên quê hương của mình. Anh chọn lựa ở lại là phải. Bởi vì, ai dan tiếng
cho bằng người bạn già Phạm Duy thân ái của tôi nhưng hay đến như mười bài Rong
ca thì cũng chỉ phổ biến trong một triệu người xa quê, phân tán trên khắp
hành tinh trái đất này. Trịnh Công Sơn ở lại là phải...
Tôi nghĩ có khác hơn anh Thế Uyên, Trịnh Công Sơn ở
lại và ở lại. Không có điều thứ hai cho Sơn so sánh lựa chọn.
Tất nhiên Sơn cũng có một dạo lận đận (ai mà không
có một lúc lận đận trong đời), nhưng tôi vẫn tin. Mỗi lần nghe, mỗi lần gặp,
tôi càng tin ở Sơn.
Hôm nay là ngày 28 tháng 2, tôi kết thúc bài viết
vì ngày này, nhằm sinh nhật thứ 51 của Sơn (28-2-1939 - 28- 1990). Mừng sinh nhật
của Sơn, mừng Sơn đã bỏ rượu mừng sẽ còn nghe nhiều, nghe nữa của Sơn.
Paris - Tiếng hát Trịnh Công Sơn
NXB Tác phẩm mới, 1990
Gần đây, thỉnh thoảng tôi nhận những cú điện thoại
hỏi về tình hình sức khoẻ của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, thậm chí người ta còn
nghe tin đồn là anh đã mất. Và chiều nay, một người bạn từ Sài Gòn điện ra báo
tin Trịnh Công Sơn đã vĩnh biệt cõi đời lúc 12giờ 45 phút. Vẫn biết là anh có
thể ra đi bất cứ lúc nào, vậy mà tôi vẫn hy vọng đấy chỉ là một cái tin của "ngày
nói dối” (ngày l-4).
Ngay cả khi anh không còn trên cõi đời, tôi vẫn cứ
tin rằng anh không chết. Bởi Trịnh Công Sơn là một nhạc sĩ tài hoa, một Con -
Người - Thơ - Ca (theo cách gọi của nhạc sĩ Văn Cao), một cuộc đời hoá thân vào
nghệ thuật xưng tụng thân phận và tình yêu của mọi kiếp người. Âm nhạc của anh
mang sức mạnh và sự mềm mại của Nước, len lỏi vào tận tâm hồn sâu thẳm của người
Việt đánh thức tình yêu quê hương xứ sở, đồng thời anh cũng là "Người
tình lãng du của nhiều thế hệ"(°)
° chữ của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Không có một nhạc sĩ Việt Nam nào được hát nhiều
như Trịnh Công Sơn. Anh cũng là nhạc sĩ chiếm kỷ lục về số lượng băng (ra phát
hành trong cả nước và nước ngoài suốt hơn 40 năm qua kể từ bài hát đầu tiên
mang tựa đề Ướt mi (NXB An Phú - Sài Gòn 1959). Năm 1972,
bài hát Ngủ đi con trong tập Ca khúc Da Vàng của anh được Đĩa
vàng ở Nhật với số lượng trên 2 triệu bản. Tên tuổi Trịnh Công Sơn luôn hiện
diện trên những trang báo hút hồn bạn đọc. Âm nhạc của anh vang lên từ các tụ
điểm ca nhạc, trên sân khấu lớn, trong quán hàng, trên xe ôm, len lỏi vào tận
giường ngủ của mỗi nhà, dầm dề như mưa Huế quê anh, bất tận như điệu thơ lục
bát không bao giờ chấm dứt. Tên những bài hát của anh biến thành những tên quán
của yêu thương và hâm mộ: Biển nhớ, Hạ trắng, Diễm xưa, Mưa hồng,
Nguyệt ca, Ru tình, Ướt mi, Tình nhớ, Quỳnh hương, Nối vòng tay lớn, v..v..
Còn tên anh thì được ghi trong bộ từ điển Bách khoa Pháp: Encyclopédie de
tous les pays du monde.
Nhiều khi tôi tự hỏi, vì sao mà Trịnh Công Sơn được
công chúng hâm mộ đến thế? Có lẽ chính anh là một nhà thơ được hát lên. Ca từ của
anh không chỉ giàu chất thơ như người ta thường nói, mà đấy là những bài thơ thực
sự, những bài thơ thấm đẫm triết lý về cuộc sống, về tình yêu, về sự sinh ra và
trở về Cát Bụi của phận người ngắn ngủi. Nhưng đấy là những bài thơ riêng biệt
phong cách Trịnh Công Sơn, luôn vặn lùi thời gian để được sống hết mình. Nếu
đem in 500 bài hát của anh, ta sẽ có một tập Thơ Trịnh Công Sơn dày
ngót nghìn trang. Và ta không ngạc nhiên rằng khi được nhờ chọn một số bài thơ
tình hay nhất thế kỷ, nhà nghiên cứu văn học Hoàng Ngọc Hiến đã tâm đắc tiến cử
lời ca Đêm thấy ta là thác đổ của Trịnh Công Sơn. Nhưng khi những lời
thơ ấy được hát lên bằng nhạc của chính tác giả, thì nó bỗng trở thành những
câu kinh bất hủ. Và người ta nói rằng, âm nhạc của anh là những bài kinh cầu
bên vực thẳm về thân phận và tình yêu.
Nhưng không chỉ có thơ có nhạc, Trịnh Công Sơn còn
có cả một kho báu về hội họa với bút pháp thật tài hoa. Anh vẽ trong các cuộc
rượu với bạn bè. Khi mà linh hồn đã ngấm men, anh vẽ thật nhanh, thật đẹp những
chân dung mà anh yêu mến. Vẽ. Rồi đề tặng. Rồi ký cái chữ ký thật quen thuộc. Bạn
bè được anh vẽ, mang về lồng khung treo lên tường lưu giữ một tình cảm, lưu giữ
hồn anh. Nhưng dù chỉ là cuộc chơi hội hoạ, Trịnh Công Sơn đã tạo ra nhiều
phòng tranh sơn dầu gây ấn tượng không ngờ với hội họa chuyên nghiệp. Có phòng
tranh của anh đến khi kết thúc, không còn một bức nào để mang về. Người ta mua
tranh vì yêu thương, lại cũng vì khâm phục. Hàng trăm bức tranh của anh lưu lạc
khắp thế giới. Điều đó thêm một lần mách bảo rằng, Trịnh Công Sơn vẫn sống!
Tôi đã nhiều lần nghe nhạc Trịnh Công Sơn trong cuộc
chiến tranh chống Mỹ, nhưng mãi đến năm 1976 mới được gặp anh. Lúc ấy tôi đóng
quân ở vùng núi Lệ Kỳ (Quảng Bình), Trịnh Công Sơn cùng với bạn bè văn nghệ đã
đạp xe leo núi đến thăm và anh ôm đàn hát Nối vòng tay lớn. Cả đoàn
nghệ thuật của tôi đã vỗ tay hát cùng anh. Tôi cũng đã cùng anh đến nghĩa trang
dưới chân núi Ngự Bình (Huế) thăm mộ ông cụ thân sinh của anh, và tôi được biết
ở chính nghĩa trang này vào năm 1974 anh đã sáng tác bài Một cõi đi về với
những chiêm nghiệm thật sâu sắc về phận người: “Trên hai vai ta đôi vầng nhật
nguyệt. Rọi suốt trăm năm một cõi đi về". Và lần gặp anh cuối cùng là
trước Tết Tân Tỵ ở Sài Gòn, lúc ấy anh cùng vợ chồng người em gái ngồi ở một
quán trà thật tĩnh lặng để dưỡng bệnh chốc lát. Anh khoe với tôi là tăng được
hai ký. Vẫn nụ cười lộ chiếc răng khểnh hiền lành, dễ thương, và anh hy vọng sẽ
viết được một cái gì đó ngay sau lần ốm nặng này.
Nhưng Trịnh Công Sơn đã không chống nổi số phận. Âm
nhạc, thơ ca và hội họa của anh sẽ lãnh trách nhiệm sống tiếp đời sống của anh,
đúng như anh ước nguyện lúc sinh thời: "Sống giữa đời này chỉ có thân
phận và tình yêu. Thân phận thì hữu hạn. Tình yêu thì vô cùng. Chúng
ta làm cách nào nuôi dưỡng tình yêu, để tình yêu có thể cứu chuộc thân phận
trên cây thập giá Đời".
Hà Nội đêm 1-4-2001
Có Một Nhà Thơ Tên Là Trịnh Công Sơn
Người ta vẫn gọi Trịnh Công Sơn là Nhạc Sĩ chứ chưa
thấy ai gọi anh là Nhà Thơ dù anh cũng đã in dăm ba bài thơ lẻ. Cũng có người gọi
anh là "Người thơ-ca" hay "Người hát thơ", nghĩa là anh là
người tác hợp giữa thơ và nhạc.b Nhưng với tư cách là một nhà thơ, tôi đã khảo
sát ca từ của Trịnh Công Sơn, và tôi dám khẳng định rằng, anh chính là một Nhà
Thơ đích thực. Cho dù khi sáng tác ca khúc, Trịnh Công Sơn có thể viết lời và
nhạc cùng một lúc, hoặc có đoạn lời viết sau khi đã có nhạc, hay trước khi “phổ
nhạc”, thì mỗi lời ca của anh đều là những bài thơ hoàn chỉnh kể cả về ý, tứ, cấu
trúc, ngôn từ và cảm xúc.
Mà Trịnh Công Sơn không phải là một nhà thơ bình
thường - nhà thơ như Từ điển tiếng Việt định nghĩa: là người chuyên
sáng tác thơ và đã có tác phẩm có giá trị được công nhận - mà anh là Nhà Thơ vô
cùng độc đáo ôm chứa tư tưởng nhân sinh và thời cuộc với một thi pháp khá riêng
biệt trong thơ Việt.
Trịnh Công Sơn rất nhuần nhuyễn trong các thể thơ
truyền thống như lục bát, đồng dao, ngũ ngôn, lục ngôn, thất ngôn, bát ngôn và
thơ tự do; và nhiều khi anh kết hợp rất tài tình nhiều thể thơ trong một bài
thơ mà hết sức trôi chảy nhờ nhạc điệu và lối gieo vần đầy cảm hứng trong âm nhạc.
Ngay từ lần đầu tiên nghe ca khúc “Ở trọ”, tôi đã phát hiện ra đấy là một bài
thơ lục bát rất tài hoa, nếu bỏ đi những âm đệm " i a í a" thì nó chỉ
còn lại những câu thơ lục bát. Từ cái chuyện ở trọ bình thường trong đời, anh
đã đẩy liên tưởng tới các "cõi tạm" chốn trần gian trong triết lý của
Đạo Phật với một cách nói thoải mái, thông minh và hóm (humor). Anh nhìn thấy con
chim ở trọ trên cành cây, con cá ở trọ trong nước, cơn gió ở trọ giữa đất trời...
rồi đẩy tới một khái quát bất ngờ:
Trăm năm ở đậu ngàn năm
Đêm tôi ở trọ chung quanh nỗi buồn.
Có những liên tưởng còn bất ngờ hơn khi nói tới vẻ
đẹp ở trọ trong thân thể , hay tâm hồn của người phụ nữ:
Môi xinh ở đậu người xinh
Đi đứng ở trọ đôi chân Thúy Kiều.
Vì thế mà có câu:
Xin cho về trọ gần nhau
Mai kia dù có ra sao cũng đành.
Và khi con người đã ở trọ vào nhau bằng tình yêu
thì dù có phải xa rời cõi tạm vẫn mãi mãi khăng khít cùng nhau:
Tim em người trọ là tôi
Mai kia về chốn xa xôi cũng gần.
Với Bài thơ "Ở trọ", Trịnh Công Sơn đã
làm cho thể thơ lục bát trở nên sinh động và tươi mới hẳn lên.
Nhiều bài thơ phỏng theo nhịp đồng dao (bốn chữ)
khá thành công nhờ cách lập tứ và chọn từ như “Em đi qua chiều”, "Cũng sẽ
chìm trôi", "Nhật nguyệt trên cao - ta ngồi dưới thấp", nhưng có
lẽ "Ngụ ngôn mùa đông" mới là một bài thơ 4 chữ gây ấn tượng khó phai
mờ trong lòng người đọc. Bài thơ nói về “Một người Việt Nam - Đi ra dòng sông -
Nhớ về cội nguồn. . . Đi lên đồi non - Nhớ về cội nguồn" thật
tươi đẹp, thật máu thịt, rồi bỗng:
Một ngày mùa đông
Trên con đường mòn
Một chiếc xe tang
Trái mìn nổ chậm
Người chết hai lần
Thịt da nát tan...
Người Việt ấy đã chết lại còn bị giết một lần nữa bởi
"trái mìn nổ chậm" của chiến tranh. Cái tứ thơ này không chỉ chia xẻ
với cái chết đau thương tang tóc của con người mà còn có sức mạnh tố cáo chiến
tranh thật sâu sắc:
Súng từ thị thành
Súng từ ruộng làng
Nổ xé da con phố chợ thật buồn
Cuộn giây gai chắn
Chắc mẹ hiền lành
Rồi cũng tủi thân.
Nhịp thơ 5 chữ trong thơ Trịnh Công Sơn cũng xuất
hiện không ít, và lặng lẽ tuôn chảy trong veo buồn thương, ngơ ngác. Khi thì
khao khát hồn nhiên: "Môi nào hãy còn thơm - Cho ta phơi cuộc tình - Tóc
nào hãy còn xanh - Cho ta chút hồn nhiên", khi thì hoang vắng, lạnh câm:
"Như đồng lúa gặt xong - Như rừng núi bỏ hoang - Người về soi bóng mình -
Giữa tường trắng lặng câm", khi thì tuyệt vọng ngậm ngùi: “Không còn,
không còn ai - Ta trôi trong cuộc đời - Không chờ không chờ ai" (Ru
ta ngậm ngùi), và có lúc đầy mộng mơ khao khát giữa ưu phiền: "Tôi
con chim thanh bình - Mơ được sống hồn nhiên - Như hoa trên đồng xanh - Một sớm
kia rất hồng” (Như chim ưu phiền). Nhịp thơ 5 chữ vốn rất
bình dân trong đối đáp dân gian, nhưng với Trịnh Công Sơn, nó bỗng trở nên lồng
lộng, thênh thang và quý phái:
Người ngỡ đã xa xăm
Bỗng về quá thênh thang
Ôi áo xưa lồng lộng
Đã xô dạt trời chiều.
hoặc:
Một người về đỉnh cao
Một người về vực sâu
Để cuộc tình chim mau
Như bóng chim cuối đèo . . . (Tình nhớ)
cùng với những ý thơ bất ngờ đến từ trong vô thức:
Trăng muộn đời thiếu nợ
Mà sông không nhớ ra.
hoặc:
Cây trưa thu bóng dài
Và tôi thu bóng tôi
Tôi thu tôi bé lại
Làm mưa tan giữa trời... (Biết đâu nguồn cội)
Ít thấy nhịp thơ 6 chữ ở Trịnh Công Sơn, nhưng
không phải là không có. Câu thơ 6 chữ xuất hiện đan xen trong nhiều bài thơ của
anh thường tạo được hiệu quả lạ, như một dấu nhấn của cảm xúc và ý tưởng. Ví dụ
như trong bài "Nhìn những mùa thu đi", sau mỗi câu 5 chữ là câu 6 chữ
khá hay:
- Em nghe sầu lên trong nắng
- Nghe tên mình vào quên lãng
- Tay trơn buồn ôm nuối tiếc
- Hai mươi sầu dâng mắt biếc
- Anh nghe buồn mình trên ấy
- Đơn côi bàn tay quên lối
- Anh ghi bằng nhiều thu vắng (Có người đã nhầm
"công viên chiều qua rất ngắn" thành ra "rất vắng" và giải
thích về sự "vắng vẻ của công viên buổi chiều là sai. ở đây phải hiểu là
buổi chiều rất ngắn, vì chiều qua nhanh quá, như người ta vẫn nói "ngày ngắn
đêm dài" vậy. Thế mới đúng cách tư duy của Trịnh Công Sơn. Hơn nữa câu sau
đã có chữ vắng rồi!). Bài "Ru em" là một bài thơ lục ngôn từ đầu đến
cuối:
Ru em ngủ những đêm khuya
Ru em ngủ những âm u
Ru em cùng những u mê
Ru em dù đã chia xa . . .
Thơ 6 chữ hợp với nhịp ru (võng đưa). Trong âm nhạc,
các bài ru thường được viết theo nhịp 6/8, nhưng ở bài "Ru em", tác
giả lại viết theo nhịp 2/4 có chùm 3, cũng có thể hát theo nhịp Slow Rock chậm
(6/8) rất hợp. Trong bài này có 2 câu thơ rất thú vị:
Yêu em yêu thêm tình phụ
Lòng chợt từ bi bất ngờ.
(Nhân nói đến thơ lục ngôn, bỗng nhớ đến một bài
thơ nhịp 3 hết sức đặc biệt của Trịnh Công Sơn. Đó là bài “Mưa hồng":
Trời ươm nắng
Cho mây hồng
Mây qua mau
Em nghiêng sầu
Còn mưa xuống
Như hôm nào
Em đến thăm
Mây âm thầm
Mang gió lên . . .
Điều đó nói lên sự đa dạng và tài hoa của Trịnh
Công Sơn khi sử dụng thi điệu, bởi nhịp thơ 3 thường tươi vui nhí nhảnh, mà ở
đây lại tả cái tâm trạng thương nhớ xa xăm: "Người ngồi xuống/xin mưa đầy/trên
hai tay/cơn đau dài...”
Nhịp thơ thất ngôn là một sở trường của Trịnh Công
Sơn. Dường như anh thẩm thấu Đường thi, nhưng hơi thở thì đã khác. Những câu
thơ 7 chữ vào thơ anh rất tự nhiên. Nhiều bài thơ (bài hát) đã mở đầu bằng câu
thơ 7 chữ thật nhẹ nhàng như chẳng có một cố ý nào. Có thể dẫn ra nhiều trường
hợp như vậy:
- Một đêm bước chân về gác nhỏ
- Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi
- Trên đò người trổ nhánh hoang vu
- Người đi quanh thân thể người
- Vẫn thấy bên đời còn có em.
- Ngoài hiên vắng giọt thầm cuối đông
- Em còn nhớ hay em đã quên
- Hai mươi năm xin trả nợ đời.
- Không có em còn tôi với ai
- Em đứng lên gọi mưa vào hạ
- Mười năm xưa đứng bên bờ dậu
- Màu nắng hay là màu mắt em
vân vân và vân vân...
Cũng là thơ thất ngôn, nhưng cách gieo nhiều vần
bằng liên tiếp theo cảm hứng âm nhạc, đã khiến cho thơ anh không bị gò ép
vào khuôn thước cổ thi, mà thoát ra, phong quang và mềm mại hẳn lên. Có những
đoạn thơ chỉ gieo toàn vần bằng:
Màu nắng hay là màu mắt em
Mùa thu mưa bay cho tay mềm
Chiều nghiêng nghiêng bóng nắng qua thềm
Rồi có hôm nào mây bay lên
Lùa nắng cho buồn vào tóc em
Bàn tay xôn xao đón ưu phiền
Ngày xưa sao lá thu không vàng
Và nắng chưa vào trong mắt em
Chiều đã đi vào vườn mắt em
Mùa thu qua tay đã bao lần
Ngàn cây thắp nến lên hai hàng
Để nắng đi vào trong mắt em
Để nắng bây giờ trong mắt em
Cũng có khi, thơ thất ngôn của anh được gieo vần trắc:
Em đi biền biệt muôn trùng quá
Từng cơn gió và từng cơn gió
Em đi gió lạnh bên xa bờ
Từng nỗi nhớ trùng trùng nỗi nhớ
Lại có khi thơ thất ngôn được tổ chức theo từng khổ
ba câu với những hình ảnh thật đẹp, thật lạ như: "lòng như khăn mới thêu”,
"lòng như nắng qua đèo", chỉ đọc một lần là bâng khuâng xao xuyến
mãi:
Mười năm xưa đứng bên bờ dậu
Đường xanh hoa muối bay rì rào
Có người lòng như khăn mới thêu.
Mười năm sau áo bay đường chiều
Bàn chân trong phố xa lạ nhiều
Có người lòng như nắng qua đèo....
Mười năm khi phố khi vùng đồi
Nhìn nhau ôi cũng như mọi người
Có một dòng sông đã qua đời...
Các thi ảnh vừa tươi mới vừa lạ lùng cứ nối tiếp
nhau hiện lên trong thơ Trịnh Công Sơn để đẩy tứ thơ đến tận cùng bất ngờ:
"Có một dòng sông đã qua đời". Tại sao dòng sông lại qua đời? Phải
chăng, đấy chính là dòng sông biểu tượng cho tình yêu đã cạn!
Trịnh Công Sơn thuộc thế hệ những người mê đắm Thơ
Mới, và thể thơ 8 chữ mà các thi sĩ của phong trào Thơ Mới đã có công cải hóa
và Việt hóa từ thơ Pháp có một nhịp điệu dễ mê hoặc lòng người. Trịnh Công Sơn
tiếp thu nhịp điệu này, và chính âm nhạc đã thêm một lần nữa làm mới thơ 8 chữ:
Một lần chợt nghe quê quán tôi xưa
Giọng người gọi tôi nghe (tiếng) rất nhu mì
Lòng thật bình yên mà sao buồn thế
Giật mình nhìn tôi ngồi hát bao giờ.
Đường nào dìu tôi đi đến cơn say
Một lần nằm mơ (tôi) thấy tôi qua đời
Dù thật lệ rơi lòng không buồn mấy
Giật mình tỉnh ra: ồ nắng lên rồi. (Bên đời hiu quạnh)
Hoặc dùng lại đúng cái nhịp Thơ Mới vẫn thường
dùng, nhưng tinh thần thì đã khác:
Đừng tuyệt vọng, tôi ơi đừng tuyệt vọng
Lá mùa thu rơi rụng giữa mùa đông,
Đừng tuyệt vọng, em ơi đừng tuyệt vọng
Em là tôi và tôi cũng là em,
Con diều bay mà linh hồn lạnh lẽo
Con diều rơi cho vực thẳm buồn theo
Tôi là ai mà còn khi dấu lệ
Tôi là ai mà còn trần gian thế
Một thi sĩ với rất nhiều cung bậc trong điệu nhạc
tâm hồn, Trịnh Công Sơn thả sức bay lượn trong các nhịp thơ tự do đầy phóng
túng. Những câu thơ dài ngắn khác nhau cứ tung tẩy trong các bài thơ tự do của
anh. Khi thì triết lý: “Tình yêu như trái phá con tim mù lòa”, khi thì lộng lẫy:
“Gọi nắng trên vai em gầy đường xa áo bay”, khi thì trùng điệp: "Bốn mùa
thay lá thay hoa thay mãi đời ta", khi thì gập ghềnh mệt mỏi: “Ngựa buông
vó/ Người đi chùng chân đã bao lần/Nửa đêm đó/Lời ca dạ lan như ngại ngùng/vùng
u tối/Loài sâu hát lên khúc ca cuối cùng", và có khi nhịp điệu trôi xa như
sông bỗng quay về gần gũi như mưa:
Từng người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ
Ôi những dòng sông nhỏ
Lời hẹn thề là những cơn mưa.
Dù là phóng túng trong thơ tự do, nhưng vần điệu và
ý tưởng lạ và đẹp ở thơ anh giống như chiếc neo thuyền, neo vào lòng người
để nó chẳng bao giờ trôi đi vô vọng.
Có lẽ Trịnh Công Sơn là nhà thơ được người ta thuộc
nhiều nhất. Điều đó không lạ, bởi anh luôn có sự truyền tải diệu vợi bằng âm nhạc
của chính anh. Nhưng cũng có thể nói ngược lại, âm nhạc của Trịnh Công Sơn luôn
được đôi cánh của thơ cứu rỗi, như thiên sứ mang tin yêu đến với lòng người. Quả
thật, nhiều khi ngồi một mình, tôi không nhớ nhạc của anh mà nhớ những câu thơ
thấy hay này:
- Sống trong đời sống cần có một tấm lòng
Để làm gì em biết không?
Để gió cuốn đi!
- Làm sao em biết bia đá không đau
Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau.
- Bao nhiêu năm làm kiếp con người
Chợt một chiều tóc trắng như vôi.
- Mùa xanh lá
Loài sâu ngủ quên trong tóc chiều.
Mây che trên đầu và nắng trên vai
Đôi chân ta đi sông còn ở lại
Con tinh yêu thương vô tình chợt gọi
Lại thấy trong ta hiện bóng con người.
- Chiều nay em ra phố về
Thấy đời mình là những quán không
Bàn im hơi bên ghế ngồi
Ngày đi đêm tới đã vắng bóng người.
- Một hôm bước qua thành phố lạ,
Thành phố đã đi ngủ trưa.
Đời ta có khi tựa lá cỏ
Ngồi hát ca rất tự do,
Nhiều khi bỗng như trẻ nhớ nhà
Từ những phố kia tôi về.
Bàn chân ai rất nhẹ
Tựa hồn những năm xưa.
- Áo xưa dù nhầu cũng xin bạc đầu gọi mãi tên nhau
- Mẹ là nước chứa chan
Trôi giùm con phiền muộn
Cho đời mãi trong lành
Mẹ chìm dưới gian nan.
- Hà Nội mùa thu
Cây cơm nguội vàng cây bàng lá đỏ nằm kề bên nhau
Phố xưa nhà cổ mái ngói thâm nâu....
Đi giữa mọi người để nhớ một người. . .
Có một tập ca khúc thời trẻ của Trịnh Công Sơn mang
tên là "Kinh Việt Nam” phải chăng, trong sâu thẳm lòng mình, anh khao khát
sáng tạo ra những bài kinh cầu cho dân tộc này, cho tình yêu này và cho thân phận
này? Đấy chính là bài kinh cầu bên bờ vực linh hồn cần được cứu rỗi. Những bài
kinh ấy chính là những bài thơ còn lại của Trịnh Công Sơn với một niềm yêu tin
gần như là tuyệt vọng" đã vượt lên số phận chia sẻ với đương thời và hậu
thế, đấy là lòng tin vào con người khởi nguồn từ dòng cảm xúc tự nhiên, vượt
qua cả tôn giáo và định kiến, bởi vì ,”hương thơm đã sẵn đốt trong hồn"
(chữ của Chế Lan Viên). Cũng với một lòng tin như vậy, tôi xin mạn phép đổi một
chữ trong câu thơ của anh để tạm kết thúc bài viết này:
Ngày sau sỏi đá cũng cần có THƠ!
Hà Nội, ngày giỗ đầu Trịnh Công Sơn, 2002
Diễm Xưa
Có thể tóc nàng bạc trắng
Vô tình sỏi đá thành vôi
Có thể cơn mưa đã tạnh
Trái tim chẳng mọc thêm chồi.
Chàng trai yêu nàng đã khuất
Bên tầng tháp cổ rêu mờ
Cánh chim thiên di mỏi mệt
Bay ngoài câu hát ngu ngơ.
Bọn trẻ như chàng ngày trước
Thả hồn trong quán cà phê
Ở đó có nàng kiều diễm
Vai thon ôm mái tóc thề.
Thì thầm chợt nghe gió nói
Nàng là con của Diễm xưa!
Cao Huy Thuần
Buồn Bã Với Những Môi Hôn
Buồn Bã Với Những Môi Hôn
Tất Cả bài nhạc của Trịnh Công Sơn đều ngắn hoặc rất
ngắn. Riêng một bài duy nhất mang dáng dấp một trường ca: bài Đóa hoa vô
thường. Với nhạc dạo đệm trước mỗi đoản khúc, bài hát kể một tình sử triết
lý qua cách hiểu của Trịnh Công Sơn về chữ "ái ' và chữ "tâm".
Đây không phải là lần đầu vô thường đi vào lời ca của
Trịnh Công Sơn. Vô thường bàng bạc trong nhạc Trịnh Công Sơn từ thuở đầu, nhưng
không mấy ai để ý. Lời ca của anh hay quá, thơ quá, hát lên nghe đã bâng khuâng
rồi, đâu cần hiểu ý nghĩa, chỉ mang máng thấy lời thơ có một chiều sâu triết lý
thiếu vắng hẳn trong nhạc Việt Nam. Có lẽ chính tác giả cũng chưa ý thức được
rõ ràng điều mình cảm nhận, và chính nhờ thế mà tính cách mông lung của lời ca
làm rung động lòng người, khác với lời văn sáng sủa. Với Đoá hoa vô thường, Trịnh
Công Sơn nhạc hóa lý thuyết và lý thuyết hóa nhạc. Anh còn chua thêm giải thích
ở mỗi chuyển mạch để ý của nhạc được hiểu rõ hơn. Đoạn thứ nhất là đi tìm tình,
nhịp thong dong. Đoạn thứ hai là gặp tình, đưa tình về, nhịp hớn hở, mùa
xuân trên những mái nhà, có con chim hót tên là ái ân. Đoạn thứ ba là bốn
mùa yêu nhau trong lẽ vô thường của trời đất. Sau đó, nhạc bắt đầu hiu hắt, một
thời yêu dấu đã qua, ôi áo xưa em là một chút mây phù du. Rồi nhạc mạnh và
êm dịu để đi vào đoạn kết: từ đó ta là đêm nở đóa hoa vô thường. Tại
sao nhạc êm dịu lại? Anh giải thích: tình do tâm ta mà sinh, có khi tình mất mà
tâm còn động vọng, đến lúc tâm bình an thì tình kia cũng đoạn nỗi.
Chữ “ái", đó là chỗ mà ai cũng thấy nơi Trịnh
Công Sơn, chiếc nôi trong đó chúng ta nằm nghe anh ru từ mấy chục năm nay. Chữ
"tâm" là cánh cửa mới mở ra trước Trịnh Công Sơn, nơi anh có cảm tưởng
anh đến, kết thúc một đời rong chơi. Từ "ái" đến "tâm", Đoá
hoa vô thường trình bày một quá trình chuyển hóa trong đó chuyện đời cũng
như chuyện tình diễn biến dưới hình thức đối nghịch của từng đôi, từng cặp như tôi
với em: tìm/ gặp, gặp/ mất, mất/ còn, có/ không. Vô thường, trong Trịnh
Công Sơn, không có gì khác hơn là cái có đi vào cái không. Có thể
ý tưởng về quá trình đối nghịch đó đã nằm trong vô thức của Trịnh Công Sơn từ
trẻ. Hát lại Trịnh Công Sơn từ khi anh mất, trực nhận của tôi chợt bắt gặp vô
thức của anh. Tôi sẽ nói ở đây những đối nghịch đó mà tôi nghĩ luôn luôn là nét
chính trong nhạc Trịnh Công Sơn. Tôi sẽ trích khá nhiều ví dụ, nhưng tôi phải tự
kiềm chế tôi, nếu không thì hát hoài không dứt.
Tôi muốn bắt đầu bằng một đối nghịch trong cách vẽ
tranh của Trịnh Công Sơn. Chẳng tại sao cả. Chỉ vì nói đến nhạc Trịnh Công Sơn
mà bắt đầu bằng triết lý chắc là không ổn, vì anh là thi sĩ. Phải bắt đầu bằng
người đẹp, người đẹp nhất trong tất cả những người đẹp nhất từ hai trăm năm
nay: Thúy Kiều.
Gió sẽ mừng vì tóc em bay
Cho mây hờn ngủ quên trên vai
Tại sao gió sẽ mừng? Vì tóc em là gió. Gió đùa với
gió, làm sao gió không vui? Tại sao mây lại hờn? Vì tóc em là mây. Mây
thua nước tóc, làm sao mây không dỗi? Em là giai nhân toàn bích. Thế nhưng
một nhan sắc toàn bích không làm Trịnh Công Sơn rung động. Giữa toàn bích, anh
chấm một nét hỏng, và chính nét hỏng đó là cái duyên làm say lòng người.
Cho mây hờn ngủ quên trên vai
Vai em gầy guộc nhỏ
Như cách vạc về chốn xa xôi.
Tất cả những người đẹp của Trịnh Công Sơn đều có
vai gầy. Vai gầy, có thể đẹp. Nhưng gầy guộc thì nhất quyết là hỏng.
Thì thiếu da thơm quả ngọt mùa xuân. Vậy mà khi thả giọng trầm xuống
chữ guộc, tôi tưởng như nghe có cánh con vạc bất chợt vỗ nước bay vào
đêm thâu. Đêm vắng sâu hơn và Thúy Kiều đẹp hơn.
Đối nghịch là nét nhạc riêng của Trịnh Công Sơn.
Anh nói một điều rồi anh nói điều trái lại. Như nét hỏng nằm giữa toàn bích.
Bài hát này của anh đối nghịch với bài hát kia, lời một đối nghịch với lời hai,
câu sau nghịch với câu trước, thậm chí hai hình ảnh nghịch nhau trong cùng một
câu, trong vòng đôi ba chữ.
Tôi lấy ví dụ Trịnh Công Sơn hát cô đơn. Anh là người
cô đơn cùng cực:
Trời cao đất rộng một mình tôi đi
Một mình tôi đi
Đời như vô tận một mình tôi về
Với tôi.
Anh cô đơn với. Chữ với làm tôi
rờn rợn. Như câu sau này:
Một ngày thấy bóng em qua nơi này/ một lần với bóng
tôi.
Một ngày đã có em xa nơi này/ một ngày với vắng tôi
Với vắng tôi. Em chỉ với khi nào không có
tôi. Em cộng với con dấu trừ. Cho nên chúng ta chỉ có cái bóng của nhau...
Trịnh Công Sơn hát cô đơn thảm sầu như vậy, nhưng
hát đôi lứa cũng nồng nhiệt vời vợi. Anh cổ vũ:
Hãy ru nhau trên những lời gió mới
Hãy yêu nhau cho gạch đá có tin vui. ..
Hãy kêu tên nhau trên ghềnh dưới bãi
Dù mai nơi này người có xa người
Trịnh Công Sơn hát tuyệt vọng. Anh nằm chết lịm
trong tuyệt vọng, tuyệt vọng rơi gần rơi xuống trong tôi như hoa tiễn
đưa rơi trên mộ. Nhưng anh lại đánh trống thúc quân đừng tuyệt vọng tôi ơi đừng
tuyệt vọng. Anh đang nằm xuống hay anh đã đứng dậy?
Trịnh Công Sơn nhìn đời buồn tênh. Buồn tênh!
Sống có bao năm vui vui buồn buồn buồn người người
ngợm ngợm.
Sống chết mong manh như thân cỏ hèn mọc đầy núi non
Nhưng Trịnh Công Sơn yêu đời thắm thiết. Anh quỳ xuống,
tạ ơn đời đã cho anh hạnh phúc lẫn thương đau:
Dù đến rồi đi tôi cũng xin/ tạ ơn người
tạ ơn đời
Tạ ơn ai đã cho tôi còn những ngày/ quên kiếp
sống lẻ loi
Dù đến rồi đi tôi cũng xin / tạ ơn người
tạ ơn đời
Tạ ơn ai đã cho tôi tình sáng ngời / như
sao xuống từ trời.
Tôi biết có người sẽ nói: thì Trịnh Công Sơn cũng
như mọi nghệ sĩ khác, có vui có buồn, có yêu thương, có tuyệt vọng. Không phải
thế! Trong nhạc Trịnh Công Sơn, vui đi cặp đôi với buồn, hạnh phúc sóng bước với
thương đau trong cùng một bài, trong cùng một câu. Đây là hai vế trong cùng một
bài, vế thứ nhất là thương đau:
Tình yêu như nỗi chết cơn đau thật dài
Tình khâu môi cười / hình hài xưa đã thay / mặn
nồng xưa cũng phai
Tình chia nhau gian dối / tình đày tình đôi nơi
Vế thứ hai là hạnh phúc:
Một mai thức dậy/ chợt hồn như ngất ngây/ chợt buồn
trong mắt nai
Rồi tình vui trong mắt/ rồi tình mềm trong tay
Hạnh phúc tưởng như thiên thu:
Tình cho nhau môi ấm / một lần là trăm
năm
Cũng hai vế đối nhau như thế trong hai đoạn, tôi
hát thêm bài nữa.
Đoạn trước là phụ bạc, nợ nần:
Hai mươi năm xin trả nợ đời
Trả nợ một đời em đã phụ tôi
Em phụ tôi một thời bé dại
Thơ dại ra đi không nhớ gì tôi
Thơ dại ra đi quên hết tình tôi
Đoạn sau là tha thứ lau xóa oán trách, yêu thương vẫy
gọi yêu thương.
Bao nhiêu năm vẫn lại nhiệm màu
Trả nợ một lần quên hết tình đau.
Hai mươi năm vẫn là thuở nào
Nợ lại lần này trong cõi đời nhau
Đó là hai vế nghịch nhau trong một bài. Bây giờ là
hai vế nghịch nhau trong cùng một đoạn. Như thế này là có hay không:
Tiếng thì thầm từng đêm nhớ lại
Ngỡ chỉ là cơn say
Đóa hoa vàng mỏng manh cuối trời
Như một lời chia tay
Như thế này là xa hay gần:
Tình như nắng vội tắt chiều hôm
Tình không xa nhưng không thật gần
Như thế này là rộng hay hẹp:
Tình yêu như biển biển rộng hai vai
Tình yêu như biển biển hẹp tay người
Biển hẹp tay người
Lạc lối
Như thế này là có hay không, mưa hay nắng, đông hay
xuân, khứ hay hồi:
Ngoài hiên vắng giọt thầm cuối đông
Trời chợt nắng vườn đầy lá non
Người lên tiếng hỏi người có không
Người đi vắng về nơi bế bồng
Như thế này là sống hay chết, tàn hay nở:
Chìm dưới cơn mưa một người chết đêm qua
Chìm dưới đất kia một người sống thiên thu
Chìm khuất trong ta một lời nói vu vơ
Chìm dưới thiên thu là một đóa thơm tho
Như thế này là ngày hay đêm, lên hay xuống:
Gió cuốn đi cho mây qua dòng sông
Ngày vừa lên hay đêm xuống mênh mông
Đó là hai vế nghịch nhau trong cùng một đoạn, hoặc
giữa câu trước với câu sau. Nhưng lại rất lắm khi nghịch với thuận, không với
có, trộn lẫn với nhau, buồn xen trong vui, mông lung không biết đâu là vui đâu
là buồn. Mưa là buồn chăng? Không hẳn, mưa trong Trịnh Công Sơn rất hồng, vì
mưa trong nắng, mưa khi trời ươm nắng cho mây hồng. Nắng là vui
chăng? Không hẳn, lung linh nắng thủy tinh vàng, nhưng nắng lên mà chợt hồn
buồn dâng mênh mang. Mưa Huế rất nặng hột, vậy mà mưa cứ như thì thầm
dưới chân ngà. Nắng được trời gọi lên, nhưng trời cũng chẳng biết đó là nắng
của mưa hay mưa của nắng:
Gọi nắng cho cơn mưa chiều nhiều hoa trắng bay
Nắng qua mắt buồn lòng hoa bướm say
Bao nhiêu nụ hồng trong Trịnh Công Sơn, lạ quá, đều
là nụ hồng tàn: em gọi nụ hồng vừa tàn cuối sân; đóa hoa hồng tàn hôn lên
môi em gầy ngón dài. Có một chút của cái này và một chút của cái
kia. Có một chút của cái này trong một chút của cái kia. Có một chút xuôi
trong ngược. Trăm năm trong xuân thì. Chân như trong hạt lệ:
Bước tới hư vô khoác áo chân như
Long lanh giọt lệ / long lanh giọt lệ / giọt lệ
thiên thu
Phôi pha cũng vậy. Trong nhớ đã có quên, trong quên
vẫn cứ nhớ, tưởng vơi mà đầy, trong con nước rút đi có hồng thủy dâng lên:
Tình ngỡ đã quên đi như lòng cố lạnh lùng
Người ngỡ đã xa xăm bỗng về quá thênh thang
Ôi áo xưa lồng lộng đã xô dạt trời chiều
Như từng cơn nước rộng xóa một ngày đìu hiu
Tình ngỡ đã phôi pha như tình vẫn còn đầy. . .
Đến đây, e không còn nói đối nghịch được nữa. E phải
nói đối hợp. Vẫn nghịch như trời với đất, nhưng sương phủ mênh mông nối đất với
trời. Chỉ còn mông lung sương. Rõ ràng nhất là cặp "vợ chồng" đi về.
Không bao giờ Trịnh Công Sơn nói đi mà không nói về. Hễ có đi là có về, hễ về
là lại đi, không bao giờ câu trên đi mà không có câu dưới về, thậm chí đi về nằm
ôm nhau trong một câu, trong hai chữ, trong một cõi, một cõi đi về.
Trong khi ta về lại nhớ ta đi
Đi lên non cao đi về biển rộng
Vừa đi vừa về như thế, đôi chân loanh quanh không
biết xoay xở thế nào, tự hỏi, thắc mắc: đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt. Bốn
mùa cũng loanh quanh như thế. Mùa xuân chưa qua mùa hạ đã đến, mùa thu chưa đi,
mới đầu thu thôi chân ngựa đã về. Mà chỗ về của Trịnh Công Sơn cũng lạ:
không phải về nơi đây mà về chốn xa. Con người ra đi, tưởng đi đến
đâu, Ô hay chỉ làm một vòng xinh rồi trở về nơi cũ, như nằm mộng thấy
mình đi:
Đường chạy vòng quanh một vòng tiều tụy
Một bờ cỏ non một bờ mộng mị
Tôi nghe có người nói một câu hay khi đến thăm một
người rất danh tiếng vừa chết: chỉ có ông ta không biết ông ta chết. Tôi nghĩ
Trịnh Công Sơn không nói như vậy. Chắc anh vẫn đang thấy mọi người tiếp tục chạy
vòng quanh. Tiếp tục đi, tiếp tục về. Tôi nghe như anh đang hát thế này với các
người đẹp đến khóc anh: Này em,
Không có đâu em này không có cái chết đầu
tiên
Và có đâu bao giờ đâu có cái chết sau cùng
Không có đầu tiên, không có sau cùng, không đầu
không cuối, làm sao chết được, bởi vì làm sao bước? Phải có cái bước đầu tiên mới
có cái bước thứ hai, mới có cái bước sau cùng, mới chết, mới có người khóc, mới
có văn tế. Vì bước không được, cho nên Trịnh Công Sơn chỉ lăn, và anh
đã nghêu ngao như thế rồi. Anh ngồi giữa con phố, nhìn những gót chân
thon đi ngược, nhìn những gót chân hồng đi xuôi, và anh í a tôi xin làm đá
cuội và lăn theo gót hài. Anh lăn như thế nhiều lần với ám ảnh tử
sinh. Sống chết là bánh xe lăn tròn, vô thủy vô chung. Trịnh Công Sơn không nói
bánh xe, nhưng anh lăn theo những hòn sỏi, hòn đá, vốn là những hình ảnh quen
thân của anh từ những bài hát đầu:
Hòn đá lăn bên đồi
hòn đá rớt xuống cành mai
Rụng cánh hoa mai gầy
chim chóc hót tiếng qua đời.
Trước đây, khi hát những bài hát đó, tôi không để ý
đến ý niệm bánh xe, nhưng gần đây, Trịnh Công Sơn làm tôi ngạc nhiên khi anh
đưa đối hợp có-không, một-hai, vào lời nhạc của anh một cách rõ rệt, thú vị,
tinh quái. Anh khóc như thế này:
Còn hai con mắt khóc người một con
Còn hai con mắt một con khóc người
Lối khóc rất ngộ này tóm tắt cách nhìn đời của Trịnh
Công Sơn trong suốt nhạc phẩm của anh. Với một con mắt anh nhìn người. Với một
con mắt anh nhìn anh. Một con mắt, anh nhìn tình phai. Một con mắt, anh nhìn
anh thở dài. Nhưng cùng một con mắt kia, anh vừa nhìn thấy em yêu thương, vừa
thấy em thú dữ. Cùng một con mắt này, anh vừa thấy đêm tối tăm, vừa
thấy đêm nồng nàn. Chẳng biết mắt nào là mắt còn lại, chỉ biết rằng
con mắt còn lại nhìn một thành hai. Chỉ biết rằng:
Con mắt còn lại nhìn đời là không
Nhìn em hư vô nhìn em bóng nắng
Con mắt còn lại là con mắt ai
Trịnh Công Sơn làm tôi giật mình. Bóng nắng là
một chữ trong Kinh, và, như anh nói, từ khi trời là trời, trăng là trăng, câu
kinh đã bước vào đời. Con mắt còn lại là con mắt ai? Tôi không muốn nghĩ như
thế, nhưng tôi cảm thấy câu trả lời nằm trong đoạn kết của Đóa hoa vô thường mà
anh đã soạn rất khúc chiết với nhập đề, thân bài, kết bài, với quá trình tìm em
- gặp em - mất em - an nhiên.
Trịnh Công Sơn làm tôi giật mình. Anh bắt tôi phải
hát lại những bài hát trước trong cảm nhận mới đó của tôi về chập chờn bóng
nắng trong tâm thức của anh. Con mắt còn lại hiện ra, và đây là
một mà hai:
Từ lúc đưa em về
Là biết xa nghìn trùng
Nghìn trùng nằm ngay nơi giây phút tao ngộ. Và đây
là hai mà một:
Từ trăng thôi là nguyệt một hôm bỗng nghe ra
Buồn vui kia là một như quên trong nỗi nhớ
Từ trăng thôi là nguyệt tôi như giọt nắng ngoài kia
Từ em thôi là nguyệt coi như phút đó tình cờ
Buồn vui là một, quên nhớ là một, phút tình cờ chụp
bắt được điều đó hiện ra đây đó khá nhiều, có điều là Trịnh Công Sơn hát lên nhẹ
nhàng như thơ, người hát nghe giọng thơ nhiều hơn là nghe ý tưởng. Nếu để ý câu
hát sâu thẳm. Lại ví dụ:
Lòng thật bình yên mà sao buồn thế
Giật mình nhìn tôi ngồi khóc bao giờ
Thật bình yên. Mà buồn! Buồn nằm sẵn trong bình
yên?
Nếu không tại sao anh khóc từ bao giờ? Anh
khóc từ trước, rồi anh mới giật mình, trong một phút tình cờ thấy mình đang
khóc. Ai không tin ở cái giật mình đó, hãy nghe Trịnh Công Sơn giật mình một lần
thứ hai:
Dù thật lệ rơi lòng không buồn mấy
Giật mình tỉnh ra ồ nắng lên rồi
Thật lệ rơi. Mà không buồn? Giật mình: nắng lên. Thế
thì nắng đã nằm sẵn trong giọt lệ? Là một với giọt lệ?
Tôi bắt gặp chớp nhoáng thần bí đó trong cả cách
dùng tính từ của Trịnh Công Sơn: môi em hồng như lá hư không. Lá hư
không là thế nào? Là môi em vừa có dáng như ngọn lá? Lá có màu vừa hồng vừa
không phải hồng? Có một cái gì vừa thật vừa không thật? Nghĩ cho thật kỹ, đúng
là môi em tôi như thế. Đúng như tôi nghĩ là như thế. Nói như ngọn lá, như màu hồng
là sai.
Lại một tính từ khác trong rất nhiều ví dụ như vậy:
Nhìn cỏ cây ráng pha màu hồng
Nhìn lại em áo lụa thinh không
Ráng chiều có thật như sắp đi vào hư ảo rồi, chớp
nhoáng thôi. Nhìn hư trong thực như thế, giật mình nhìn lại em tôi ôi thần kỳ
hai chữ thinh không! Lụa nhẹ như khói đang tan, em cũng vậy, như thực
như huyễn, chỉ còn là nét đẹp diễm ảo, mong manh đó thôi.
Tôi không muốn đóng khung Trịnh Công Sơn trong một
triết thuyết nào cả. Anh tuyên bố chỉ muốn là kẻ rong chơi và chấp tay van vái
chỉ xin được như thế mà thôi. Nhưng khi anh mất, tôi không khỏi nghĩ đến những
mong manh đã ám ảnh anh những năm gần đây và tôi giật mình chợt thấy anh đã là
thi sĩ của mong manh như vậy từ lúc đầu, từ bao giờ. Đây là đóa quỳnh của thuở
xuân xanh:
Đêm này đêm buồn bã với những môi hôn
Trong vườn trăng vừa khép những đóa mong manh
Tại sao môi hôn mà buồn bã thế? Buồn nằm trong hạnh
phúc? Là một với nhau? Nhưng quả thật đóa quỳnh đã hôn đêm trăng như thế. Hãy
xem hoa nở:
Ta mang cho em một đóa quỳnh
Quỳnh thơm hay môi em thơm
Em mang cho ta một chút tình
Miệng cười khúc khích trên lưng
Hoa đang nở trên lưng một cuống lá dài
như môi ai cười trên lưng một người tình. Nhưng cũng môi đó, mới cười với trăng
đã hôn từ giã đêm trăng với những cánh đang khép, đang úa, buồn bã. Tôi giật
mình: đóa quỳnh của thuở xuân xanh chính là đóa hoa vô thường nở
trong tâm của anh ở khoảng cuối đời. Anh đi với đóa quỳnh, khép lại một
chu kỳ vòng quanh. Anh là đêm trăng của ngày xưa đã hôn nhau buồn bã với đóa quỳnh
mong manh và từ đó dòng nhạc của anh róc rách những mong manh như thế cho đến
khi anh chợt nhận ra ta là đêm nở đóa hoa vô thường.
Còn lại chuyện cuối cùng phải nói: vậy thì tôi với
em là một hay hai? Là một chăng? Thì đấy, Trịnh Công Sơn đã có lần hăng hái:
Em là tôi và tôi cũng là em
Chẳng ai tin. Người không tin nhất chính là anh. Đừng
tin!
Đừng nghe tôi nói lời tăm tối
Đừng tin tôi nhé vì tiếng cười
Tôi như là người ngồi trong đêm dài
Nhìn tôi đang quá ngậm ngùi
Tôi với em không thể là một được bởi vì em là muộn
phiền và muộn phiền thì đối nghịch với hồn nhiên mà tôi mơ ước. Hồn
nhiên lấp lánh như mặt trời trong lắm bài. Trịnh Công Sơn mơ ước trở về với hồn
nhiên như trở về với bản chất của anh, như trở về với con chim thuở nhỏ, với
hoa trên đồng xanh một sớm mai rất hồng. Anh muốn trở về với thật
thà, với khờ dại, với ngây ngô, anh ngẩn ngơ nhìn người
kia, dường như chờ đợi thật ra đang ngồi thảnh thơi, anh nhìn đứa bé. Đứa
bé! Đó mới thật là một của Trịnh Công Sơn, bởi vì đó là hồn nhiên, đó
là cội nguồn, đó là quê nhà nằm sâu trong tiềm thức của anh. Hồn nhiên có khi
trở về lồng lộng trong cả bài hát như cánh diều lồng lộng trong không, có khi
âm thầm, văng vẳng, thiết tha, sâu lắng trong một câu, trong một chữ. Những lúc
đó, Trịnh Công Sơn hân hoan:
Hôm nay tôi nghe có con chim
Về gọi giữa trời về hót giữa đời tôi
Hôm nay tôi nghe tôi cười như đứa bé
Mới lớn lên giữa đời sống kia.
Trịnh Công Sơn là người thi sĩ duy nhất của tình
yêu không cho chữ em đi sóng đôi một cặp ngọt ngào với chữ anh. Chữ em mồ
côi chữ anh. Chữ em mù lòa đi tìm chữ anh. Gặp một
hai lần trong một hai bài hát đầu, nhưng nhạt nhẽo, vô duyên lắm. Còn thì Trịnh
Công Sơn chỉ tôi với em, em với ta, như thử hai người yêu là hai
người ở trọ gần nhau.
Có lẽ vì thế mà tôi hát Trịnh Công Sơn với hạnh
phúc tràn trề. Bởi vì tôi hát sự thực trong lòng tôi, trong lòng người, trong
lòng đời. Có bao giờ ai một với ai trong cuộc tình? Cứ xa xa mà tôi khiêm
tốn như thế, họa may tưởng mình có lúc đến gần làm một. Như thế là hạnh phúc. Đến
gần, giọt nắng thủy tinh có khi là giọt lệ.
Paris 15/4/2001
Trần Hữu Thục
Một Cái Nhìn Về Ca Từ Trịnh Công Sơn
Một Cái Nhìn Về Ca Từ Trịnh Công Sơn
Một người bạn giáo sư âm nhạc, khi chỉ tôi về cách
sáng tác ca khúc, nhắc nhở: "Ông viết sao đó thì viết, nhưng nhớ là đừng
có bị "lai' Phạm Duy và Trịnh Công Sơn”. Tôi hứa cố gắng. Bắt chước nhạc
Phạm Duy thì không được rồi. Giống nhạc của ông phong phú, đa dạng quá, vừa
sáng tạo lại vừa chuyên môn và thay đổi theo từng loại ca khúc, theo nội dung
và đề tài, chẳng cái nào giống cái nào. Thiền ca không giống tâm ca, khác xa tục
ca, lại chẳng quan hệ chút nào đến tình ca và những ca khúc yêu nước. Riêng Trịnh
Công Sơn thì thật là khó thoát. Tôi đã thử loay hoay "sáng tác” nhiều đoạn,
nhiều bài, nhưng xong rồi nghe lại (và nhờ bạn bè nghe lại) thì chúng cứ
"lai lai" Trịnh Công Sơn thế nào ấy. Nhẹ nhẹ. Buồn buồn. Đều đều.
Nghe cứ phảng phất, nếu không Diễm xưa, Tuổi đá buồn thì cũng Gọi
tên bốn mùa, Hạ trắng... Sửa đi, sửa lại, cố thay đổi. Vẫn cứ thế. Vẫn nặng
"mùi” Trịnh Công Sơn. Tức quá, tôi tìm cách viết theo một thể điệu khác hẳn,
thay vì "gam" Mi thứ, La thứ, tôi chọn Đô trưởng chẳng hạn. Nghe có
hơi khác Trịnh Công Sơn. Mừng tưởng thoát. Nhưng đến khi đặt lời thì ôi thôi,
những rong rêu, cát bụi, phố xưa, ngậm ngùi, muộn phiền, hư vô, ngày tháng,
trăm năm, hư hao, nỗi nhớ... chúng cứ ào vào. Rốt cuộc, thoát được nhạc thì
"bị" lời. Đặt lời khác thì lại không được, vì cái "tạng” mình nó
vậy, làm sao bây giờ. Thế thì thôi, hát Trịnh Công Sơn đi cho nó khỏe. Đành bỏ
mộng.
Tại sao vậy? Lý do khá đơn giản: nhạc của anh rất
giản dị, không có gì chuyên môn cầu kỳ. Cũng như Trịnh Công Sơn, tôi thích mấy
"gam" bình thường như La thứ, Mi thứ. Thích nhịp điệu buồn buồn, trầm
trầm và nhiều chất diễn tả như blue (2/4), boston (3/4) và cách chuyển
“gam" rất bài bản và dễ. Coi lại những bản nhạc Trịnh Công Sơn, tôi nhận
thấy hầu hết những bản nhạc nổi tiếng của anh, những bản nhạc nhiều người ưa
thích đều “rơi" vào hai “gam" La thứ (nếu không thì La trưởng, hoặc
La thứ trưởng) và Mi thứ (hoặc Mi trưởng). Này nhé:
La thứ: Biển nhớ, Gọi tên bốn mùa, Cát bụi,
Chiếc lá thu phai, Cúi xuống thật gần, Đêm thấy ta là thác đổ, Hạ trắng, Lời
buồn thánh, Một ngày như mọi ngày, Phôi pha, Ru ta ngậm ngùi, Tình xa, Ướt mi,
Em đi bỏ mặc con đường, Những giọt máu trổ bông, Nối vòng tay lớn, Dân ta
vẫn sống...
La trưởng: Nắng thủy tinh, Nhìn những mùa thu
đi, Quỳnh hương, Tuổi đá buồn...
Mi thứ: Còn thời nào cho em, Diễm xưa, Em còn
nhớ hay em đã quên, Hoa vàng mấy độ, Thương một người, Ta đã thấy gì trong
đêm nay.
Mi trưởng: Nguyệt ca.
Hai "gam" La và Mi là hai "gam"
dễ hát, dễ đàn, rất thích hợp với nhạc Trịnh Công Sơn. Chỉ cần một chút kiến thức
âm nhạc và một chút thói quen là có thể "chơi" nhạc anh dễ dàng. Đây
là một kinh nghiệm thuần cá nhân và cảm tính. Tôi có thể nói, dường như hai âm
giai đó tự nó đã mang cái chất Trịnh Công Sơn (hoặc là vì anh đã mang cái chất
của anh vào hai "gam" đó).
Phạm Duy nhận xét: ". . . toàn thể
ca khúc Trịnh Công Sơn không cầu kỳ, rắc rối vì nằm trong một số điệu đơn giản,
rất phù hợp với tiếng thở dài của thời đại” .
Văn Cao nhận xét: “Trong âm nhạc của Sơn, ta
không thấy dấu vết của âm nhạc cổ điển theo cấu trúc bác học phương Tây. Sơn viết
hồn nhiên như thể cảm xúc nhạc thơ tự nó trào ra".
Một người khác, Phạm Văn Tuấn nhận xét: "Đứng
trên khía cạnh lý thuyết nhạc, nhạc của Trịnh Công Sơn không cầu kỳ, phần lớn
những bài hát đều được viết theo thể điệu chậm (slow), boston hay nhanh lắm là
điệu fox. Suốt hơn 40 năm sáng tác, Trịnh Công Sơn không khai phá gì thêm ngoài
những giai điệu đơn giản đó".
Những nhận xét trên cùng với kinh nghiệm nhỏ nhoi của
riêng mình cho tôi thấy, chỉ với nhạc không, ta sẽ chỉ có một Trịnh Công Sơn nhạc
sĩ bình thường, không mang cái hơi hướng đặc biệt Trịnh Công Sơn như ta biết hiện
nay, không trở thành một hiện tượng độc nhất vô nhị trong lịch sử ca nhạc và cả
trong lãnh vực văn học hiện nay. Vậy thì sao lại là nhạc Trịnh Công Sơn?
Một nghịch lý: Nhạc Trịnh Công Sơn hay là nhờ ở
ngôn ngừ Trịnh Công Sơn. Nếu không thích hát, ta có thể giở bất cứ một bài hát
nào của Trịnh Công Sơn và đọc, y như đọc thơ. Ta sẽ thưởng thức các ca từ đó
như bài thơ. Và thế cũng đủ. Nhưng một câu hỏi khác đặt ra: ở Việt Nam, trước
1975 cũng như sau này, đâu có thiếu những bài thơ hay (hay bằng hoặc hay hơn Trịnh
Công Sơn) của những nhà thơ tài hoa khác. Tại sao chúng không nổi tiếng bằng Trịnh
CôngSơn. Thơ Tô Thùy Yên chẳng hạn. Điều đó dẫn đến một nghịch lý thứ hai:
thơ Trịnh Công Sơn hay là vì chúng được biến thành âm thanh, thành nhạc và phổ
biến rộng khắp. Chúng ta biết, nhiều bài thơ đã trở thành hay, thành phổ biến
và được công chúng đón nhận là nhờ được phổ nhạc, nghĩa là biến thành âm thanh.
Phạm Thiên Thư, Nguyễn Tất Nhiên, Du Tử Lê chẳng hạn. Ngôn ngừ trong nhạc Trịnh
Công Sơn là những bài thơ. Y như bất cứ một bài thơ nào khác. Có điều chúng tự
biến thành âm thanh cùng lúc sáng tác (Văn Cao gọi Trịnh Công Sơn là Người Thơ
Ca).
Mặt khác, qua một số lượng khá lớn bài hát, ngoài
việc tạo các cấu trúc khá cân đối, ta nhận thấy Trịnh Công Sơn có vẻ chú ý nhiều
đến cách hợp vần. Như ta biết, khi sáng tác nhạc, nhạc sĩ nào cũng tìm lời có vần,
rất cần thiết để tạo âm thanh thích hợp trong dòng nhạc. Trịnh Công Sơn, cũng
như Phạm Duy, dụng công rất nhiều trong việc tạo vần, nhất là cho những từ cuối
mỗi câu nhạc. Và cũng như Phạm Duy, lối hợp vần của anh khá đa dạng, do đó, tạo
nên những nét nhạc lạ, nhiều khi rất bất ngờ:
Đi lên non cao đi về biển rộng, đôi tay nhân gian
chưa từng độ lượng.
Tình ta như núi rừng cúi đầu, ôi tiếng buồn rơi đều.
Ru em hài nhung gấm, ru em gót sen hồng
Ru bay tà áo rộng, vừa tình tôi chắp cánh
Bốn câu cuối, khi hát lên, mấy chữ gấm, hồng, rộng,
cánh đều có vẻ "vần" với nhau. Như thế, khác với thơ để đọc, thơ để
ca có thể "vần" thanh trắc và thanh bằng vào với nhau một cách thoải
mái. Nhờ khai thác được quan hệ giữa lời và âm, nên anh dễ tìm ra vần. Cách
khai thác vần này khiến các bài ca đâm ra dễ nghe, suôn sẻ, phong phú. Đồng thời,
do đi với nhạc, nên những vần “lai lai", khi hát lên nghe vẫn thuận y như
là vần thật. Thậm chí vần "lai lai" nghe còn thú hơn là vần quá thuận.
Trong ca từ Trịnh Công Sơn, ta thấy anh "vần" những chữ như nhỏ - nọ
- lạ - cỏ - do - giờ - đổ chợ - thơ - lửa. .. hoặc thơm - tình - xanh
- nhiên – yên - mình - tên - quên - mòn - điên - câm - đông - màng. Nhiều bản
nhạc của anh chỉ có vài vần. Có bản, do chọn chữ và cấu tạo âm, ta nghe dường
như chỉ có một vần độc nhất từ đầu đến cuối. Một số ca khúc nổi tiếng của anh
có thể gọi là "ca khúc vần “, vần gần vần xa, vần trắc vần với vần bằng
ngược lại. Có những bài, người ta “hát vần" chứ không "hát ý”. Hồi
trước, tôi đã nhiều lần cười thầm một mình khi đi ngang qua một xóm nghèo, chợt
nghe một cô gái ăn mặc lam lũ vừa bồng em vừa cất tiếng hát: "Gọi nắng,
trên vai em gầy đường xa áo bay..." lẫn với "Đường vào tình
yêu có trăm lần vui có vạn lần buồn...".
Trịnh Công Sơn tự nhận xét: "Ca khúc đối với
tôi là một mô hình gần gũi, thiết thân và hoàn chỉnh. Nó là một cuộc hôn phối kỳ
diệu giữa thi ca và âm nhạc". Vâng, hôn phối giữa thi ca và âm nhạc. Đó là
một lẽ. Theo tôi, nó còn là một cuộc hôn phối khác, hôn phối giữa Trịnh Công
Sơn và thời đại của anh (và chúng tôi)... Ca từ của Trịnh Công Sơn là một hôn
phối giữa nhiều "nỗi" khác nhau: nỗi tuyệt vọng nhân sinh, nỗi phẫn nộ
về chiến tranh, nỗi mơ ước về hòa bình, nỗi băn khoăn siêu hình, nỗi vui về
tình yêu, đoàn tụ, gặp gỡ và nỗi buồn thăm thẳm của thân phận con người. Có lẽ
vì thế mà dù thỉnh thoảng anh có “dao to búa lớn” la to những là hãy thế này,
thế kia, cũng chỉ là "bốc đồng". Anh rên rỉ, than thở và chỉ muốn ru:
ru tình, ru đời, ru đêm, ru tình, ru em... Rốt cuộc, anh chẳng bao giờ có
thể là chiến sĩ, mà chỉ là một nghệ sĩ.
Trong sự nghiệp sáng tác của Trịnh Công Sơn, ta thấy
có hai dòng nhạc tách nhau rất rõ: dòng nhạc nói về chiến tranh và hoà bình và
dòng nhạc nói về tình yêu, thân phận. Hai dòng nhạc khác nhau về nội dung đã
đành, mà nghệ thuật diễn đạt, cách kết cấu ca từ cũng như nhịp điệu và âm thanh
hoàn toàn khác. Nói chung, trong hầu hết những bài hát viết về chiến tranh và
hòa bình, anh viết bằng một lối viết rất hiện thực, kể cả khi mô tả những giấc
mơ, những ước vọng. Hiện thực kinh khiếp đó được mô tả bằng chủ nghĩa sống động
và đầy hình ảnh: trái tim rơi theo đại bác, thịt người cho thú nhai ngon, thịt
xương đã phơi đồng xanh, đại bác đêm đêm dội về thành phố. . .
Anh sử dụng những chi tiết cụ thể, có thể nghe,
nhìn, đồng thời nâng chúng cao hơn, phóng lớn, mở rộng nghĩa. Hiện thực anh bắt
gặp và ví von bất ngờ quá khiến ta đôi khi thảng thốt: mộ bia đều như nấm,
chết thật tình cờ, chết chẳng hẹn hò nằm chết như mơ... Trừ một số ít bài
sử dụng ẩn dụ, còn lại thì ca từ rất "văn phạm", nghĩa là có ý nghĩa
cụ thể vì cấu trúc câu giản dị, dễ hiểu. Anh muốn gửi một thông điệp rõ ràng đến
người hát và người nghe.
Mọi sự hoàn toàn khác hẳn khi ta bước vào tình ca
và thân phận ca mà tôi gọi chung là nhân sinh ca. Tất cả bắt đầu chông chênh ở
biên giới của chủ nghĩa, ý tưởng, bởi vì có một sự pha trộn đặc biệt giữa nhiều
hình ảnh và ý tưởng cũng như các ẩn dụ. Bửu ý nhận xét: "... ta
còn chứng kiến một công cuộc thể nghiệm của tiếng Việt trên những chặng đường mới
của ngôn ngữ với những kết hợp từ ngữ tài hoa, những góc độ thu hình lạ lẫm, những
tri giác dày dặn nhiều tầng, đồng thời làm sáng giá những sự vật thông thường
và tầm thường, khả năng tưởng tượng bay bổng".
Trước hết, ngôn ngữ ở đây là một thứ ngôn ngữ buồn
và day dứt. Anh tận dụng, và trong một số trường hợp có vẻ như lạm dụng thứ
ngôn ngữ đó. Đúng ra thì chúng được lặp đi lặp lại nhiều lần trong nhiều bài
khác nhau. Điều này cũng dễ hiểu, vì nhiều bài hát, anh sống cùng một thứ cảm
thức: cô đơn. Ta nhiều lần bắt gặp những từ và cụm từ như: quạnh hiu, lênh
đênh, trăm năm, dòng sông, gian nan, ăn năn, ngậm ngùi, hoang mang, hoang phế,
mỏi mòn, hư hao, mệt nhoài, buồn tênh, rong rêu, đời, chơi, vui, cuộc tình, vai
gầy, gầy guộc, buồn phiền, ưu phiền, cội nguồn... Nhiều cụm từ có chữ đá: đá buồn,
sỏi đá, đá cuội, bia đá, cồn đá.
Một số từ trong triết học Phật giáo: vô thường, tiền
kiếp, từ bi, cõi tạm, hư không... Tất nhiên, những từ trên không có gì là lạ
trong ngôn ngữ Việt và nhiều người đã dùng. Nhưng ở đây, cái lạ là cách kết hợp
thành những cụm từ và cách sử dụng các từ đó trong các đơn vị câu để tạo
nên những hình ảnh, biểu tượng với ý nghĩa từ mới đến hoàn toàn mới và rất nhiều
khi tạo nên những hiệu ứng đặc biệt về mặt âm thanh; tuổi/đá/buồn, cồn/đá,
môi/hờn, bàn tay xanh xao/ đón/ưu phiền, nắng/khuya, mặt trời/ ngủ yên, hạt/ từ
tâm.
So với những ca từ viết về chiến tranh, sự khác biệt
rất rõ nét. “Xác người năm trôi sông" thì ta hiểu ngay, nhưng “tuổi
đá buồn" chử nghĩa nghe kỳ quặc, lạ hoắc và vô nghĩa.
Một bên thì "mặt trời sáng trên quê
hương" một bên thì “nắng khuya". Hoặc "dài tay em
mấy..." Gì vậy? Có phải là “có mấy thuở tay em dài và mắt em xanh
xao"? Mà nếu thế thì là gì? Nothing. Ấy thế mà ta cứ hát và cái lạ là hình
như nó vẫn có nghĩa. Cứ hát. Và rồi nó có nghĩa thật! Thực ra thì anh dùng cách
kết hợp các từ ngừ xuất phát từ những ý tưởng khác xa nhau. Thay vì phải giải
thích dài dòng, anh cột chúng lại, buộc chúng phải ở với nhau: tuổi (tuổi đời,
tuổi em, tuổi xuân, tuổi ngọc, lứa tuổi...) + đá (đá cuội, đá sỏi,
bia đá, cứng như đá, vô tình như đá, lạnh như đá...)+ buồn. Tóm lại chỉ để diễn
tả nỗi buồn sâu lắng của một thời tuổi trẻ.
Hãy nghe Trịnh Công Sơn giải thích về bài Diễm
xưa: “Nhưng thật sự, thật và mơ là gì? Thật ra, nói cho cùng, cái này chỉ là ảo
ảnh của điều kia"... “Thời gian trôi đi ở đây lặng lẽ quá. Lặng lẽ đến độ
người không còn cảm giác về thời gian"... "Trong không gian tĩnh mịch
và mơ màng đó, thêm chìm đắm vào một khí hậu loáng thoáng liêu trai, người con
gái ấy vẫn đi qua đều đặn mỗi ngày dưới hai hàng cây long não để đến trường. Đi
đến trường mà đôi lúc dường như đi đến một nơi vô định".
Phải mẫn cảm lắm mới nhận ra điều gọi là "đi đến
trường" mà như "đến một nơi vô định" như thế. Đúng ra, tôi nghĩ,
cô gái biết rõ mình đi đến đâu, chỉ có kẻ ngồi ngóng “những chuyến mưa
qua" mới là... vô định. Và suốt đời, đây đó, anh ta luôn luôn vô định. Để
diễn tả cái hình ảnh và cái cảm giác vô định đó, anh tạo ra một thứ ngôn ngữ mới
lạ không hệ lụy vào những ý nghĩa bình thường có sẵn ta vẫn quy cho chúng. Ngôn
ngữ ở đây có tính tạo hình, tạo âm và trong chừng mực nào đó, là một thứ ngôn
ngừ "vô ngôn". Ca từ chỉ còn là sự ghép những hình ảnh, ý, chữ chợt bắt
gặp, chợt rơi vào trí tưởng. Nói một cách khác, không nhất thiết phải dán cho
chúng những ý nghĩa cụ thể nhất định nào. Cứ để chúng tan vào âm thanh, trôi tuột
giữa chữ và chữ với nhau. Chữ cuốn theo chử. Âm cuốn theo âm. Hình cuốn theo
hình. Khi nghe câu hát "mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ, dài tay em
mấy thuở mắt xanh xao", tôi nghĩ đến một bức tranh siêu thực: hình ảnh
của một cô gái nằm vắt ngang giữa rừng cây mưa, giữa đền đài lăng miếu cũ buồn
tênh, tay dài ngoẵng và mắt thì sâu thẳm. Buồn! Bất tuyệt buồn? Có phải anh đã
vẽ trong khi làm thơ và sáng tác ca khúc! Hát Tuổi đá buồn hay Ru
em từng ngón xuân nồng cũng thế, tôi vẫn thường hình dung những chi tiết nào đó
của một bức tranh: một đôi mắt, một vệt màu, vài nét chấm phá vu vơ, một lối đi
hoang vắng hun hút dài, những sợi mưa mà như không mưa, mái tóc dài tung bay
lòa xòa dưới bầu trời xám đục . . . Và tưởng tượng đến một bức tranh
khiến tôi thâm cảm được thêm chất liệu ẩn dấu đằng sau ngôn ngữ của anh, từ "gót
chân trần em quên em quên" cho đến “tóc em như trời xưa đã qua
đi ngàn năm..." .
Cái chất "vô ngôn" (tiến đến phá ngôn) của
Trịnh Công Sơn đạt đến đỉnh cao trong Dấu chân địa đàng, Vết lăn trầm. Những
là "Loài sâu ngủ quên trong tóc chiều" ,“bài ca dạ lan như ngại
ngùng", loài sâu hát lên từ vào trong đá xưa, tóc xanh vầng trán thơ, loài
rong rêu ngủ yên . Trừu tượng hơn: hằn trên phiến đá nâu thêm ưu phiền,
bồn gió hoang, chờ ta da du một chuyến, bài ca dao trên cồn đá. Toàn là những
cụm từ kết hợp vô định, tình cờ, hình ảnh loải choải, nhảy vọt bất ngờ, thậm
chí có vẻ ngây ngô, vô nghĩa y như một kẻ ưa làm dáng chữ nghĩa. Đã thế, không
giống như những bài khác về sau, nhạc ở đấy ngúc ngắc, thiếu hẳn cái nét trơn
tru mềm mại của dòng nhạc “chính thống" Trịnh Công Sơn. Lối viết nhạc và lời
kiểu này khá hiếm trong toàn bộ nhạc Trịnh Công Sơn. Chúng được sáng tác trong
thời kỳ đầu và không hề thấy xuất hiện về sau này. Có lẽ vì anh hết cảm hứng
hay vì nó khó khiến đến với công chúng, nói chung?
Ngôn ngữ ở những bản nhạc này không đóng chức năng
bình thường của ngôn ngữ là tạo nghĩa và tạo ý. Y như trong hội họa hiện đại,
chúng chẳng khác gì một loại tranh “cắt dán" (collage). Trong thực tế,
theo như cảm nhận riêng của tôi, hai bài ca trên là nỗi khắc khoải có tính chất
siêu hình của Trịnh Công Sơn. Đó là một khắc khoải không chỉ về thân phận, mà về
cái tuyệt đối, về một thời hồng hoang đã mất, về một chới với trong cõi vô
biên, từa tựa Trần Tử Ngang:
Tiền bất kiến cổ nhân
Hậu bất kiến lai giả.
Niệm thiên địa chi du du
Độc thương nhiên nhi thế hạ.
Khắc khoải của Trần Tử Ngang có tính trực giác, còn
khắc khoải của Trịnh Công Sơn lại nhuốm màu duy lý. Có thể nói đó là một khát
khao bất tuyệt về một thiên đàng, không phải đã mất, mà không hề có. Nhiều lần,
hát Vết lăn trầm, đến chỗ bài ca dao trên cồn đá..., âm
thanh vút cao lên, khiến lòng chợt chới với, hụt hẫng, đau đáu một nỗi đau mênh
mang khó tả!
Phải thừa nhận rằng, cách cấu tạo ngôn ngữ Trịnh
Công Sơn tài hoa, táo bạo và lạ. Trong quá trình tạo vần cho phù hợp với âm và
với nét nhạc, anh "bật" ra những tứ, những ý, những hình ảnh và ngôn
ngữ hết sức bất ngờ, mới lạ đôi khi khiến ta sửng sốt y như chúng từ trên trời
rớt xuống. Đọc hoặc hát và nghe hát đi hát lại hàng bao nhiêu lần mà cảm giác sửng
sốt và mới lạ vẫn còn tươi rói y như mới nghe lần đầu.
Lùa nắng cho buồn vào tóc em/
Nhật nguyệt trên cao, ta ngồi dưới thấp/
Một đường cong queo, nắng vàng đột ngột/
Lòng tôi có đôi khi tựa bông hoa vừa mọc hân hoan
giây xuống thế/
Chợt nắng long lanh chợt nắng thưa/
Còn nhiều. Ngoài nhiều từ lặp đi lặp lại, hầu như
bài nào cũng có những ý, những chữ hoặc những tứ thật bất ngờ, và lạ như thế. Mặc
dù ý cũ, rất cũ nữa là khác hoặc là cùng một ý anh lặp đi lặp lại qua nhiều bài
hát khác nhau. Cũng là mô tả sự cô đơn, mất mát, sự xao xuyến trước cuộc lữ, sự
bất lực của con người trước thời gian, ám ảnh triền miên về cái chết. Chữ nghĩa
anh dùng cho ta những hình ảnh mới. Thậm chí, mới toanh. Chữ nghĩa trông dễ
dàng đối với anh y như chúng nằm sẵn đâu đó chỉ đợi có cơ hội là tuôn ra. Vừa lạ,
vừa thú vị. Này nhé, hãy nghe anh viết: “Xin đứng yên trong chiều - Treo
tình trên chiếc đinh không". Chữ nghĩa dùng thì có khác nhưng rõ ràng
là ý tứ chưa có gì mới lạ, hình ảnh bình thường. Bỗng nhiên tiếp theo đó:
Gập ghềnh nhiều kiếp lưu vong, ta lăn đời đã quá
Đôi tay vẫn còn ôm mịt mùng
Nghe đã thật! Còn nữa. Này nhé, ta đang nghe: Ru
trên đường em đến xôn xao từng tiếng chim.
Ru em là cánh nhạn.
Bỗng, anh hạ bút:
Miệng ngọt hạt từ tâm
Hoặc là: Vườn khuya đóa hoa nào mới nở. Đời
tôi có ai vừa qua.
Bỗng:
Nhiều khi thấy trăm nghìn nấm mộ
Tôi nghĩ quanh đây hồ như
Ô hay! Sao hai chữ "hồ như" lại rơi vào
đây? Chữ “trông như" chẳng có nghĩa gì ráo, mà làm sao nó khiến cho lòng
mình bề bộn thế này? Bốn câu vừa trích là từ bản nhạc Đêm thấy ta là thác
đổ, một trong những bài hát rất hay của Trịnh Công Sơn. Bản nhạc điệu
"blues" nhẹ, gam La thứ là gam ruột của chất nhạc Trịnh Công Sơn. Nếu
tách hẳn ra thì là một bài thơ hoàn chỉnh mà ông Hoàng Ngọc Hiến cho là bài thơ
hay nhất thế kỷ!
Ngoài ra, như trên đã đề cập, một đặc điểm khác rất
dễ nhận thấy và hầu như chủ yếu trong ca từ Trịnh Công Sơn: tính chất “vần".
Nhờ vần, ca từ trơn tru, êm đềm từ đầu đến cuối bản nhạc, nghe như một tiếng thở
dài nho nhỏ với nhiều hình ảnh đan xen lẫn nhau. Có cái liên hệ, có cái đứt đoạn.
Tôi chợt “ngộ" một điều: những từ ngừ và hình ảnh mới thường nằm ở cuối đoạn
nhạc hoặc ở cuối câu. Và cuối câu thì phải “vần", hoặc với từ cuối câu kế
hoặc với từ cuối câu trước đó. Chính đòi hỏi đó làm “bật" ra những từ ngữ
và hình ảnh mới. Ở đây, ta thấy, nhờ âm mà anh đã tạo ra lời, âm thanh là
"tiềm năng" của lời.
Đặng Tiến
Trịnh Công Sơn Tiếng Hát Hòa Bình
Trịnh Công Sơn Tiếng Hát Hòa Bình
Trong một buổi toạ đàm về bộ truyện Mùa biển động của
Nguyễn Mộng Giác, nhà văn Nhật Tiến đã phát biểu ngoài đề: “Nói về tác phẩm văn
nghệ mà ảnh hưởng rõ nét nhất, tôi nghĩ có lẽ mình chỉ có nhạc Trịnh Công Sơn,
nó gây cái tâm lý phản chiến".
Dùng chữ nhạc phản chiến, theo kiểu anti-guerre,
antiwar, là nói cho gọn, và đã có người phản bác, cho rằng mông lung, vì người
nghệ sĩ chân chính nào mà không chống chiến tranh? Ngoài ra, những ca khúc Trịnh
Công Sơn tố cáo chiến tranh, gào gọi hoà bình còn bày tỏ khát vọng thống nhất đất
nước, tình tự dân tộc, tình yêu nhân loại, niềm tin vào cuộc đời, tình người và
hạnh phúc lứa đôi. Những tình cảm này đan quyện vào nhau. Hơn nữa một số nhạc
tính thuần tuý, nội dung không quan hệ gì đến chiến tranh, khi nghe trong đám
đông, cũng tạo nên một cảm giác thời thế, từ một thời phản chiến.
Vì vậy, gọi là nhạc “phản chiến" là nói tắt,
trong điều kiện bất túc của ngôn ngữ. Gọi cách khác, là ca khúc tranh đấu cho
hoà bình, tuy dài dòng mà vẫn không đủ ý.
Nói chung, những ca khúc “phản chiến" của Trịnh
Công Sơn gia tăng số lượng và cường độ dài theo cuộc chiến, đồng thời cũng chuyển
mình theo từng giai đoạn ngắn của thời cuộc thập niên 1963 - 1973. Nhưng là tiếng
nói tự phát, phản ứng tự nhiên của một cá nhân, một công dân không thuộc đảng
phái hay tổ chức chính trị nào. Đây là điều kỳ lạ trong hoàn cảnh chính trị thời
đó và chính nó đã tạo ra hào quang của Trịnh Công Sơn: người ta hát, và yêu Trịnh
Công Sơn, tạo ra hiện tượng Trịnh Công Sơn, một là vì ca khúc của anh đáp ứng lại
những khát vọng của thời đại, hai là người nghe, trực cảm rằng những lời
ca ấy không mang một ý đồ chính trị nào. “Trong dòng nhạc phản chiến của mình,
Trịnh Công Sơn đã chẳng có toan tính chính trị nào cả. Mà tất cả làm theo mệnh
lệnh của con tim mình (. . .) . Trái tim nhân ái, nhạy cảm,
chỉ biết nói lên những cảm xúc nồng nhiệt của mình đối với quê hương, dân tộc,
dù thiếu vắng một thái độ chính trị nhưng trung thực. Nghĩa là tự đáy lòng mình
thì mình nói" (Bửu Chỉ) .
Có lẽ những suy nghĩ về dân tộc, đất nước, số phận
con người trong chiến tranh đã manh nha từ lâu ở Trịnh Công Sơn, và được khơi động
từ những biến cố tại Huế và miền Trung năm 63, mà bạn bè anh đã tham gia tích cực
và sôi nổi. Bản thân Trịnh Công Sơn không dự cuộc trực tiếp, nhưng khó có thể
nói là không dao động. Sau những bản nhạc tình đã nổi tiếng, thì 1964, Trịnh
Công Sơn đưa vào Lời mẹ ru một vài âm hưởng xót xa, báo hiệu cho những
ru khúc đau thương về sau:
Lời mẹ ru con nghe ra nỗi niềm
Đời mẹ ru con mây kia cũng buồn
Con ngủ trên mây
Tiếng khóc ban đầu còn đau, còn đau
Ru con khôn lớn... Con Rồng cháu Tiên
Một đời ru con, nên mắt ưu phiền
Lối hát ru Việt Nam, như ru con Nam Bộ, thỉnh thoảng
cũng có câu thắt thẻo ruột gan, nhưng ít khi diễn tả buồn đau trong thân phận
làm người như ở Trịnh Công Sơn, càng về sau càng da diết.
Vết lăn trầm, 1965, là một ca khúc đậm đặc
phong cách Trịnh Công Sơn, đau thương và huyền bí:
Vết lăn và lăn trầm
Hằn lên phiến đá nâu thêm ưu phiền
Như có lần chim muông hằn dấu chân
Người đi phiêu du từ đó chưa thấy về quê nhà
Người chợt nhớ mình như đá
Đá lăn vết lăn trầm
Từ cơn đau ấy lưu thân mỏi mòn
Ôi mắt thấm van xin lời thánh đêm
Bài ca dao trên cồn đá
Trên ngai vàng quê nhà...
Ca từ rệu rã, u hoài, xa vắng, nhưng cô đọng cả tâm
giới Trịnh Công Sơn, lúc ấy và về sau. Về sau, sẽ có hằng vạn chuyến xe
claymore lựu đạn, hàng vạn tấn bom trút xuống đầu làng, cũng chỉ là âm vang lăn
trầm vết đá. Hoàng Phủ Ngọc Tường, bạn thân Trịnh Công Sơn đã tinh ý nhận xét:
“Vết lăn trầm bắt đầu tiếp cận nỗi bất hạnh
của một tuổi trẻ bị cuốn hút vào cơn lốc của chinh chiến, và đây là bài hát mở
đầu nội dung phản chiến của nhạc Trịnh Công Sơn" .
Chọn 1965 làm thời điểm cho nhạc thời thế Trịnh
Công Sơn, còn có những lý do khác: đó là cao điểm của chiến tranh Việt Nam, thời
của những Người chết trận Đồng Xoài, Pleime... thời người Mỹ đổ bộ lên Miền
Nam, bắt đầu ném bom miền Bắc. Cũng là cao trào tranh đấu miền Trung trước khi
bị dập tắt vào năm 1966.
Thời đó, ca khúc Trịnh Công Sơn, nhạc tình và nhạc
tranh đấu, được in ronéo, chuyền tay. Năm 1966, nhà xuất bản An Tiêm xuất bản tập Ca
khúc Trịnh Công Sơn, Thần thoại quê hương, Tình yêu và Thân phận, 12 bài,
ngoài Tuổi đá buồn làm từ 1961, những bài khác làm vào 1965 - 1966, đều
mang nội dung: thân phận trong chiến tranh.
Cuối năm 1966 và sang 1967, Trịnh Công Sơn đã sáng
tác một loạt ca khúc chống chiến tranh nổi tiếng: Người con gái Việt Nam
da vàng, Đại bác ru đêm, Tình ca của người mất trí, . . . Tác giả tự ấn
hành lấy, do đó không ghi năm xuất bản, thành tập Ca khúc da vàng. Về
sau, sau Mậu Thân, 1968, anh thêm 2 bài: Hát trên những xác người và Bài
ca dành cho những xác người, ghi là Ca khúc da vàng 2, dự tính
in trong tập Kinh Việt Nam, tự xuất bản 1968. Những bản in về sau,
không thấy 2 bài này. Vậy ta có thể xem Ca khúc da vàng gồm 12 hay 14
bài, tuỳ phương pháp.
Tập Kinh Việt Nam mở đầu bằng lời tựa,
tác giả bày tỏ khát vọng hoà bình, viết 1968, có lẽ sau Mậu Thân và tin tức về
hoà hội Paris; tập nhạc gồm 12 bài, bắt đầu bằng Dân ta phải sống và
khép lại với Nối vòng tay lớn.
Trong một tiểu luận Cao học đệ trình tại Đại học
Paris 7, 1991, Michico Yoshi, cũng là bạn, được Trịnh Công Sơn giúp đỡ và hướng
dẫn, đếm được 69 bài phản chiến. Trên tổng số 136 bài làm từ 1959 - 1972 mà cô ấy
sưu tầm được, tỷ lệ là 51%. Nếu chỉ tính từ 1965 đến 1972, tỷ lệ còn cao hơn nữa.
Nghĩa là trong một thời gian dài thời gian sáng tác khoẻ nhất, rung cảm chính của
Trịnh Công Sơn là thời thế. Và ngược lại, chính những ca khúc kêu gọi hoà bình
đã làm nên danh tiếng Trịnh Công Sơn, đã tạo nên huyền thoại Trịnh Công Sơn,
trong một thời điểm nhất định của miền Nam Việt Nam vào những năm 1966 - 1972.
Tính phản chiến của nhạc anh, chính là tính phản
chiến của cả một miền đất. Nếu chỉ làm nhạc tình, thì Trịnh Công Sơn sẽ là Lê
Uyên Phương hay Từ Công Phụng; nếu chỉ làm nhạc đấu tranh, Trịnh Công Sơn sẽ là
Nguyễn Đức Quang hay Tôn Thất Lập; nếu pha pha tình yêu và thân phận,
Trịnh Công Sơn sẽ là Vũ Thành An. Nếu chỉ phản chiến,
e chỉ hơn Nguyễn Văn Đông.
Nhưng Trịnh Công Sơn đã tổng hợp một thời đại và
xây dựng được một sự nghiệp riêng, gắn bó với vận mệnh đất nước.
Rào nhạc phản chiến Trịnh Công Sơn vào một ấp chiến
lược, là không sát với thực tế xã hội. Trong thời gian 1967 - 1972, Sơn sáng
tác khoảng 70 bài hát kêu gọi hoà bình, và khoảng một nửa được phổ biến rộng
rãi. Nhưng những ca khúc thuần tuý thế sự đó đã được kết hợp với hàng trăm tình
khúc khác, cùng phong cách, trong một hoàn cảnh xã hội và chính trị đặc biệt, đến
với quần chúng thanh niên cùng tâm trạng.
Nghệ thuật Trịnh Công Sơn xét trong toàn bộ, nội
dung, hình thức chủ đề, thể loại, hội với những điều kiện khách quan chính trị,
xã hội, kinh tế, đã tạo danh tiếng Trịnh Công Sơn trong một thời gian kỉ lục,
như Phạm Duy đã nhắc: “Tình khúc Trịnh Công Sơn ra đời, từ giàn phóng là Quán
Văn được hoả tiễn Khánh Ly đưa vút vào trong phòng trà, rồi vào băng casette và
chỉ trong một thời gian rất ngắn đã chinh phục được tất cả người nghe. So sánh
với những tình khúc ba bốn chục năm qua, ngôn ngữ trong nhạc Trịnh Công Sơn rất
mới".
Sở dĩ đi nhanh như thế vì nhạc tình yêu đã kết hợp
với nhạc đấu tranh, được hát trực tiếp, hát cộng đồng. Tác giả hoà nhập vào quần
chúng rồi trở thành một hiện tượng phút chốc thành thần tượng.
Hiện tượng Trịnh Công Sơn cũng đã thành hình qua
vài yếu tố phụ: dáng người mảnh khảnh, nho nhã, bạch diện thư sinh làm người ta
yêu mà không làm người ta sợ. Anh chăm sóc kỹ lưỡng cách ăn mặc, “sang” một
cách kín đáo “thàng" khi trình diễn. Nói năng nhỏ nhẹ, giọng Huế trung
dung, thường thường là phát âm đúng. Lối sống đơn giản cà kê bạn bè, khề khà
quán xá. Thịnh đời 1967, đêm đi hát, khuya về, kê ghế bố ngủ với bạn bè ở Hội họa
sĩ trẻ, sáng dậy ra quán đợi bạn đãi tách cà phê, mời điếu thuốc lá.
Thêm vào hình ảnh Khánh Ly, “Ôi tóc em dài đêm
thần thoại...”, khi hát đi chân đất - nữ hoàng chân đất, la comtesse aux
pieds nus - của một thời - giọng hát rũ rượi da diết, diễn tả nỗi trầm thống vô
vọng: “tin buồn từ ngày mẹ cho mang nặng kiếp người”.
Ca khúc Trịnh Công Sơn gây được tiếng vang là nhờ
giọng hát Khánh Ly: "Một giọng hát có thể xuống rất thấp rất trầm, mà cũng
có thể lên rất cao, một giọng hát khoẻ, dài hơi, giàu nhạc tính. Khánh Ly bao
giờ cũng hát đúng giọng, đúng nhịp, ngân, láy đúng lúc, cách phát âm tiếng Việt
chuẩn xác - càng về sau càng già dặn thêm - một giọng hát ngay từ thời ấy, tuy
vẫn còn nguyên cái chất tươi mát hồn nhiên của tuổi đôi mươi, nhưng dường như
đã mang nặng sầu đau; một giọng hát vừa có thể lẳng lơ một cách đáng yêu, trong
các bản tình ca lãng mạn, lại vừa có thể phẫn nộ, bi ai, trong các bài ca phản
chiến".
Cuối cùng, Trịnh Công Sơn và Khánh Ly thường đi hát
cộng đồng, nghĩa là hát không công, không lấy thù lao, chủ yếu là cho thính giả
trẻ, tại các giảng đường, giáo đường. Họ tạo, hay tái tạo, một hình ảnh lý tưởng
cho nghệ thuật, nhất là nghệ thuật ca hát - mang theo lý tưởng nhân đạo, tình
yêu và chính trị.
Trịnh Công Sơn sống giữa những tranh chấp chính trị
mà không dính líu đến chính quyền hay đảng phái, giáo phái, phe phái. Mặc dầu
anh thích bạn bè, ưa đàn đúm.
Quần chúng biết. ngay điều đó. Chúng ta ngày nay mất
công nghiên cứu văn bản, khổ tâm truy tầm tư liệu để tìm hiểu, chứ quần chúng
thì họ rất nhạy bén, và nhận ra đâu là tiếng nói vô tư, ngay thật, đâu là tiếng
nói có dụng ý, mưu đồ.
Đây là lý do chính giải thích sự thành công nhanh
chóng của Trịnh Công Sơn một sớm một chiều đã thành hiện tượng.
Ví dụ bài Tình ca của người mất trí, 1967,
đã được tiếp nhận và truyền bá tức khắc:
Tôi có người yêu chết trận Pleime
...chết ngoài Hà Nội
...chết không hận thù
Quần chúng hiểu ra ngay biểu tượng “mất trí”, một
bài hát không có lập trường theo bên này, hay được chỉ đạo từ phía bên kia. Lời
ca dội vang chiến sự, nhưng không có mưu đồ, quả là lời người mất trí. Mất trí
là mất tất cả, không còn gì, ngoài cái trí của mình, của riêng mình. Cái trí xa
lìa thực tại, bị sa thải ra ngoài thực tại. Trí tuệ ấy chỉ yêu Một Người, nhưng
người yêu duy nhất đã chết trên khắp chiến trường, chết mọi kiểu, mọi cách, thậm
chí nằm chết như mơ. Chết như mơ? Người ta thường nói: đẹp như mơ, chứ ai nói
chết như mơ.
Tinh nghịch đổi vài chữ, câu hát vẫn hợp lý, vẫn
hay, dù ý nghĩ bị lật ngược:
Tôi có người yêu gặp tại Ba Gia
Tôi có người yêu vừa mới đêm qua
Yêu thật tình cờ, yêu chẳng hẹn hò
Yêu chẳng thề nguyền hạnh phúc như mơ
Lật ngược hay xếp xuôi, tỉnh trí hay mất trí, tình
ca hay chiến ca, ai biết đâu là đâu.
Cũng như bài sau này: Hát trên những xác người, làm
sau Mậu Thân 1968:
Mẹ vỗ tay reo mừng chiến tranh
Chị vỗ tay hoan hô hoà bình
Người vỗ tay cho thêm thù hận
Người vỗ tay xa dần ăn năn ...
Nói về những oan khốc chiến tranh, Trịnh Công Sơn
đã có lời nhập đề tưng tửng:
Đại bác đêm đêm dội về thành phố
Người phu quét đường dừng chổi đứng nghe
Nghe như là nghe nhạc, nghe quen như câu dạo buồn.
Nhạc không lời, một loại romance sans parole. Thậm
chí đại bác như kinh không mang lời nguyện.
Đại bác như kinh?
Bài hát kết thúc bằng cụm từ có mẹ có em. Cũng
như những thành ngữ: có mẹ có cha, có anh có em, có vợ chồng, có mẹ có em, diễn
tả cảnh sum họp, ấm cúng, nhưng ở đây là một đống xương thịt bầy nhầy:
Hàng vạn chuyến xe claymore lựu đạn
Hàng vạn chuyến xe mang vô thị thành
Từng vùng thịt xương có mẹ có em
Sơn có những lời tưng tửng tàn độc như thế, hay đèn
thắp thì mờ, ám ảnh cả một đời bạn mình là Bửu Ý. Nguyên tác trong bài Đi
tìm quê hương (1967):
Người nô lệ da vàng ngủ quên
Ngủ quên trong căn nhà nhỏ
Đèn thắp thì mờ. . .
Dĩ nhiên, trong văn cảnh, câu hát có nghĩa: đèn
không đủ sáng. Nhưng lìa văn cảnh, lời ca dội vào tim: đèn thắp thì sáng, chứ sao
đèn thắp thì mờ?
Nhẫn nhục trong những cơ cực trầm kha truyền kiếp,
người phụ nữ Huế có câu hát não nùng:
Ví dầu đèn tắt, có trăng
Khổ thì em chịu, biết mần răng đặng chừ?
Những cũng không đoạn trường bằng đèn thắp thì mờ.
Bây giờ Sơn đã đi xa, nhớ câu hát xưa mà thương những người bạn cũ, những người
còn ở lại, trong cuộc đời mà Tản Đà đã định nghĩa: đời là cõi bắt con người phải
sống.
Năm 1968 là khúc quanh trong thời sự Việt Nam, đồng
thời là bước ngoặt trong nhạc Trịnh Công Sơn. Trịnh Công Sơn chuyển hướng, làm
những ca khúc có nội dung chính trị rõ rệt, trực tiếp kêu gọi hoà bình, với tập Kinh
Việt Nam (1968) và Ta phải thấy mặt trời (1969).
Thời điểm này, họa sĩ Trịnh Cung, bạn anh, đã vẽ bức
tranh nổi tiếng: Đứa trẻ du ca, tay ôm đàn cầm, có con chim đậu trên
mái tóc, ý muốn nói hoà bình đang về trong thôn xóm. Hoà bình là khát vọng
chung của thanh niên và người dân thời đó, mà ca khúc Trịnh Công Sơn đã vang vọng
qua những tiêu đề: Ngày mai đây bình yên, Cánh đồng hoà bình, Đồng dao hoà
bình. Và đặc biệt là Nối vòng tay lớn.
Trong Kinh Việt Nam, từ 1968, anh tích cực
kêu gọi: Dân ta phải sống, dựng lại người, dựng lại nhà, hãy đi cùng nhau và cụ
thể hơn nữa Nối vòng tay lớn. Hay ít nhất cũng là Chờ nhìn quê
hương sáng chói và tra vấn Ta thấy gì đêm nay? Sao mắt Mẹ chưa vui? Đấy
là tên những bài hát, những Hành Ca trong tham vọng trở thành một hành khúc Việt
Nam:
Đoàn người đi miên man
Tìm ánh sáng cho Việt Nam
Tìm quê hương xưa
Giống Tiên Rồng, giống da vàng. . .
Nói cho liền, nối hai miền. . .
“Kinh Việt Nam là những tiếng kêu thương thống
thiết khởi sự từ một thực trạng máu xương. . .
Những bài ca được viết từ những hân hoan lắng nghe
được trong những lòng người. Đó là nỗi hân hoan của đám đông chờ mong ngày hồi
sinh...
Đã có điều gì không thật suốt hai mươi năm nay
(...)
Chúng ta, dù muốn dù không, bị biến thành những mũi
tên định hướng được bắn đi từ những đồ hình huy hoàng tưởng tượng và ngắn hạn.
Dân ta tàn phế hai mươi năm. Nước mắt và máu đã làm thành những con suối lớn chảy
mòn tiềm lực sáng tạo (...)
Xin hãy dừng tay và cùng chờ nhìn một mặt trời tươi
trẻ sẽ được khai sinh ở phương đông (...)
Xin hãy dừng tay để được nghe ba mươi mốt triệu tiếng
hò reo trong cùng một phút hân hoan (...)
Tiếng hát đã có thể cất lên để nuôi lớn ước mơ
(...)
Một ước mơ vĩ đại, làm bằng những đau thương nối
dài vào hoang tưởng một ngày mà lòng mình vui sướng hơn muôn nghìn năm".
Hai mươi năm hận thù đã qua
Hôm nay thấy mặt người đổi mới
Ta yêu nắng hoà bình vừa đến...
Hai mươi năm chờ đợi từng phút giây
Hôm nay tiếng hoà bình đã thấy
Trên môi người trên môi ta, trên môi em
Trên môi những người Việt nghèo khốn
Hai mươi năm chờ đợi đã lâu... (Đồng dao hoà bình)
Hai mươi năm là tính từ 1948, hay từ trước đó nữa,
nghĩa là không kể Điện Biên Phủ, không kể đến hiệp định Genève, dù sao cũng tạo
được cảm giác hoà bình trong đôi ba năm. Nhưng nền hoà bình tạm bợ ấy đã phải
mua bằng cái giá chia đôi Nam Bắc, mầm mống cho một cuộc chiến tranh khác, lâu
dài hơn, thảm khốc hơn, gây nhiều thù hận hơn. Khi Sơn viết hai mươi năm nội
chiến từng ngày, thì hằng triệu người đã hát, từ năm này qua năm khác, dù
có lúc bị cấm. Hai chữ nội chiến nếu không có lý, cũng có cơ sở tình cảm của
nó. Và đáp ứng lại với tâm lý quần chúng không bị chính trị hoá, không bị giáo
dục chính trị, những người dân đau lòng vì cảnh nồi da xáo thịt, mà không truy
tầm đến căn nguyên phức tạp.
Có lúc anh bộc trực, chính xác hơn:
Hai mươi năm là xác người Việt nằm
Làm sao ta giết hết những đứa con Việt Nam ?
Xưa ta không thù hận
Vì đâu tay ta vấy máu? (Tuổi trẻ Việt Nam - 1969)
Không dễ dàng gì trả lời câu hỏi vì đâu, nếu không
đơn giản lặp lại luận điệu bên này hay bên kia. Không có cuộc chiến tranh nào
mà có lý do đơn giản, chỉ có những đầu óc đơn giản. Thời Nam Bắc Triều, Trịnh
Nguyễn phân tranh, Nam Hà Bắc Hà, cuộc chiến chưa chắc đã bắt nguồn từ những lý
do đơn giản. Giữa lòng thế kỷ XX, hoàn cảnh càng phức tạp. Chiến tranh Việt
Nam, khởi sự là dân tộc giành quyền tự quyết, chống ngoại xâm, nhưng cũng là
chiến tranh ý thức hệ, nối dài biên giới chiến tranh lạnh, với sự can thiệp của
nước ngoài. Nhưng đồng thời cũng có tính chất nội chiến:
Triệu người đã chết, hãy mở mắt ra
Lật xác quân thù, mặt người Việt Nam trên đó
Đi trên những xác người: bao năm tháng những ai?
(Những ai còn là Việt Nam – 1969)
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn không nghị luận chính trị,
vì nghị luận sẽ không thành bài hát; anh chỉ nói lên cảm xúc:
Ôi bom đạn cày trên những xác
Ôi da vàng Việt Nam vỡ nát
Xương thịt đó thiêng liêng vô cùng
(Đêm bây giờ, đêm mai – 1967)
Từ 1968, trong những gào gọi hòa bình, thêm một ý
tưởng hiện ra rõ nét, là thống nhất đất nước. Hòa bình là một ước vọng của nhân
sinh, ai ai cũng chia sẻ. Thống nhất là một đòi hỏi chính trị, người muốn thế nọ,
kẻ muốn thế kia, đại khái qua hai câu hỏi: thống nhất bằng cách nào; và ai chủ
động thống nhất? Trịnh Công Sơn nói lên niềm mơ ước công dân, và không trả lời
hai câu hỏi chính kiến, cũng như nhiều nhạc sĩ khác: Phạm Đình Chương viết Hội
trùng dương, Phạm Duy viết Con đường cái quan, đều chia sẻ một
nguyện vọng.
Khát vọng thống nhất đã bàng bạc trong những bản nhạc
của Sơn trước đó:
Đêm sông Hương nhung nhớ
Ngày Cửu Long mơ, mơ thấy gì
Mơ một ngày Hồng Hà góp Hội trùng dương
Đây quê hương trông ngóng và mẹ chờ mong
(Lại gần với nhau - 1966)
Nhưng phải đợi đến Kinh Việt Nam (1968),
yêu sách ấy mới được diễn đạt chính xác:
Chờ ngày Việt Nam thông nhất (Chờ nhìn quê hương
sáng chói)
Reo vui cờ thống nhất
Chân bước đi trên ba miền
Những ai còn là Việt Nam
Chính chúng ta phải có mọi quyền
Đứng lên đòi thống nhất quê hương (Chính chúng ta
phải nói)
Bắc Nam Trung ơi đoàn kết một miền (Huế, Sài Gòn,
Hà Nội)
Năm 1968, bài hát thành công nhất là Nối vòng
tay lớn:
Rừng núi dang tay nối lại biển xa
Ta đi vòng tay lớn mãi để nối sơn hà
(...)
Thành phố nối thôn xa vời vợi
Người chết nối linh thiêng vào đời. . .
Nhạc điệu phong phú, hào hùng, phóng khoáng và lời
ca vừa nhẹ nhàng vừa súc tích, nối liền con người với nhau, với đất nước, thành
phố với thôn quê, quá khứ với hiện tại, người chết với tương lai.
Năm 1969, Bửu Chỉ kể lại: "thỉnh thoảng người
ta lại nghe phong phanh đâu đó về một giải pháp hòa bình cho Việt Nam, rồi lại
tắt ngấm... Phong trào đấu tranh hòa bình Việt Nam ở các đô thị lại bùng lên
mãnh liệt", nhạc khúc Trịnh Công Sơn gắn bó với hoàn cảnh, mang một nét mới:
chính chúng ta phải nói: chính người dân Việt Nam phải có quyền quyết định về vận
mệnh dân tộc, trên cơ sở hòa bình- thống nhất:
Chính chúng ta phải có mọi quyền
Đứng lên đòi thống nhất quê hương
Quyết chối từ chém giết anh em
Chính chúng ta phải nói hòa bình
Trịnh Công Sơn kêu gọi Ta đi dựng cờ, Đừng
mong ai đừng nghi ngại. Lời ca hùng hồn, khẩu hiệu, có lúc đại ngôn: đã đến
lúc cách mạng tiến lên. Bài Ta quyết phải sống:
Còn sống xin các anh quyết còn cách mạng
Đời ta ta lo, xin xếp vũ khí...
Cách mạng, trong mơ ước Trịnh Công Sơn là cuộc đổi
đời triệt để, từ bóng tối ra ánh sáng, từ xương máu ra hòa bình “một rạng đông
mới sẽ được khai sinh. Nhựa mới sẽ luân lưu cuồn cuộn trong những thân thể Việt
Nam":
Những giọt máu đến ngày trổ bông
Nở hòa bình cho đêm vắng xôn xao tiếng người
Ngày dân ta đi dành lấy hòa bình
Ta phải thấy mặt trời (Những giọt máu trổ bông)
Và mặt trời là biểu tượng ánh sáng, hơi ấm, sự sống
và phương hướng: phương Đông, phía mặt trời mọc:” “Tuổi trẻ Việt Nam, trời sáng
phương Đông“. "Một mặt trời tươi trẻ sẽ được khai sinh ở phương
Đông". Sơn có lần giải thích: người phương Tây, khi định hướng, dùng chữ
orientation, nghĩa là nhắm hướng orient, phương Đông. Việt Nam là chiến trường
giữa những thế lực mê chấp đến từ phương Tây. Trong khi đó, phương Đông nguồn cội
của đức tin, là quê hương của hòa bình, hòa giải và hóa giải.
Tư tưởng Phật giáo tiềm ẩn nơi Trịnh Công Sơn, có lẽ
đã khởi sắc từ ý thức chính trị, xã hội và văn hóa, trong một thời điểm nhất định.
Phật tính là mạch nước ngầm trong tâm hồn Trịnh
Công Sơn, gặp một hố bom, nó chợt thấy mặt trời, và tuôn trào thành Nguồn
thơ suối nhạc.
Nhìn dưới ánh sáng nào đi nữa, sự nghiệp Trịnh Công
Sơn cũng là một khối tài tình. Tài và tình sinh ra nhau, nuôi dưỡng lấy nhau bằng
lương thực một trần ai khổ ải. Chữ tài, phần nào là của trời cho; chữ tình là
khối đau thương khổ luyện trong khổ nạn. Và chính khối đau thương qua những lời
ca phản chiến - đã vinh danh Trịnh Công Sơn trong khổ nạn, vinh danh bên ngoài
ý muốn của nhiều quyền lực thế trị; và sau này nữa bên ngoài những mê chấp sân
si.
Chúng ta yêu nhạc Trịnh Công Sơn vì trong nhạc của
anh có thơ. Vậy, chúng ta có được cả hai. Tự thơ đã là một loại nhạc biểu hiện
cái đẹp và sự hài hòa của chử nghĩa.
Nhạc thơ ở anh song sinh từ niềm thôi thúc muốn tỏ
tình với cuộc đời. Nhạc thơ đó cũng lung linh ảo diệu như bóng trăng in trên mặt
nước mà chúng ta thường không phân biệt nổi đâu là nhạc đâu là thơ. Nói cách
khác, thơ và nhạc là đôi cánh để bay chở tình yêu trong những ca khúc của Trịnh
Công Sơn, không thể tách lìa được. Từ đó thơ nhạc sẽ la đà bay vào lòng người,
khiến tai ta có thể nghe được những âm thanh vọng xuống từ trời cao, tiếng của
đất trời rộn ràng... Dù em khẽ bước không thành tiếng, cõi đời bao la vẫn
ngân dài. Mỗi khúc hát của Trịnh Công Sơn là mỗi giấc mơ hóa thân thu mình
bé lại làm mưa tan giữa trời, là mỗi lần tâm hồn bụi bặm thường nhật
của chúng ta được tuôn tưới, gột rửa.
Trịnh Công Sơn đã từng và ngay lúc này đây đang vọng
nhìn cuộc đời từ bờ bên kia: mệt quá thân ta này, nằm xuống với đất muôn đời.
Kìa còn biết bao người, dìu dặt tới quanh đây. Đã từng ta thấy em
trong tiền kiếp tới cách nhìn sau này với nhãn quan lưỡng nguyên pha thêm
tính u mặc humor kiểu Bùi Giáng trong bài hát Con mắt còn lại. (Cõi
bờ con mắt Hoa Nghiêm, con mắt còn lại một con khóc người/ Bây giờ riêng đối diện
tôi, còn hai con mắt khóc người một con - B.G). Con mắt còn lại là con mắt Hoa
Nghiêm: con mắt thứ ba: con mắt hiệu nằm giữa trán.
Văn Cao đã gọi chính danh Trịnh Công Sơn là người
Thơ ca - để nói về các thi ca sĩ troubadour/ minstrel - những sứ giả sống để phụng
thờ và ca tụng tình yêu như là nguồn sáng cứu rỗi trong đêm trường Trung cổ. Một
khoảnh khắc sống với quả tim yêu nồng nhiệt đáng giá hơn một trăm năm sống bằng
quả tim khô héo, dù ngay cả khi ca tụng tình yêu bằng những bài tình ca không
có hạnh phúc. Đời thi ca sĩ là một kiếp rong chơi:
Đời vẽ tôi tên mục đồng
Rồi vẽ thêm con ngựa hồng
Từ đó lên đường phiêu linh.
Đời vẽ trong tôi một ngày
Rồi vẽ thêm đêm thật dài
Từ đó tôi thề sẽ rong chơi.... (Chỉ có ta trong một
thời)
Dõi trông cuộc hành hương của người du ca Trịnh
Công Sơn, ta thấy nhạc khởi đầu đã hòa chung vào với từng giọt nước mắt buồn
rơi trong đêm mưa từ độ ấy. . . và từ đó đêm (và mưa) bao trùm lên những
ca khúc của anh - như những bài Tụng ca Đêm của thi sĩ Novalis: "Đêm đã trở
nên, dạ con kết trái, đầy những mạc khải. . ." - Đêm ta nằm
nghe tiếng trăm năm... đêm nghe tiếng muôn trùng, đêm nghe tiếng khóc cười của
bào thai. Hóa thân vào dòng thác đêm là cái chết đang cuốn trôi đi tất cả
trong Đêm thấy ta là thác đổ. Đêm mạc khải cho trăng vàng khai hội một
đóa hoa quỳnh. Từ đó ta là đêm nở đóa hoa vô thường.
Từ thánh vịnh ca Cát bụi tới hương thiền
ca Đóa hoa vô thường, là cả một hành trình vượt qua những chặng
thương khó của từng Ca khúc da vàng đầy ắp những hình ảnh thánh giá,
khổ nạn, phúc âm, lời kinh đêm, vực sâu, những lời truyền tin đợi chờ phục
sinh... là nỗi tuyệt cùng chỉ còn hi vọng vào sự cứu rỗi của tình yêu. Chúa
đã bỏ loài người, Phật đã bỏ loài người, này xin em cứu một người này em có nhớ
cuộc đời... Đợi chờ yêu thương trên cây thánh giá. Đời có sân si dưới bóng bồ đề. . . Cho
tới thời điểm tĩnh mịch giữa ngọ(1) cây trưa thu bóng dài và tôi thu bóng
tôi là nỗi khát khao đi tìm lại sự an nhiên (người về soi bóng mình) trong
cõi tâm linh với hương thiền đầy tính mỹ học (mà thiền sư Nhật Suzuki Daisetz
đã tung gieo ra ngoài thế giới). Những tác phẩm mang hương vị Thiền thời kì này
(1972 - 1975) như Ở trọ, Biết đâu nguồn cội, Ngẫu nhiên, Nguyệt ca, Níu
tay nghìn trùng, Giọt lệ thiên thu, Lời thiên thu gọi, Phôi pha, Bên
đời hiu quạnh, Đêm thấy ta là thác đổ, Cũng sẽ chìm trôi, Tự tình khúc, Một cõi
đi về ... và được "viên thành" bằng tổ khúc Đóa hoa vô thường.
Đóa hoa vô thường có thể coi là bức "tứ bình" bằng nhạc, thơ và
họa mở ra cho ta thấy trọn cuộc hành trình tâm linh đi tìm ý nghĩa trong cuộc hội
ngộ với tình yêu, cái đẹp, cái vô thường.
(1) Nietzsche Zarathustla đã nói thế, phần IV
chương "Về giữa ngọ”. Bản Anh ngữ của R.J.Hollingdale. Penguin Books.
1961.
Khát khao đi tìm sự bình an của Trịnh Công Sơn
trong Thiền tông, không hẳn là để tìm sự giải thoát hoặc để đạt tới cõi hoàn
toàn an nhiên tự tại, mà có phần gần với lí tưởng Bồ tát (như đối với nhà thơ
Cao Bá Quát) là “mang cái bệnh Duy-ma" vì chúng sinh(1). Lí tưởng này
không nhằm đạt tới Niết Bàn, cho dù tình yêu ở đây có mang tính vô ngã đi nữa: Tôi
xin làm quán đợi buồn chân em ghé chơi / Tôi xin làm đá cuội mà lăn
theo gót hài / Tôi thu tôi bé lại làm mưa tan giữa trời. Trong ca khúc Biết
đâu nguồn cội đó, đầy những hình ảnh (mang Âm tính, Nữ tính, Mẫu tính và
Pháp tính) thường thấy trong Thiền tông: nước, trăng, thuyền (chứa chở trời đất
và người) đều nổi trôi, che chở và uyển chuyển. Ở trong bài nhạc này để nói về
sự tương tác luôn "ở trọ" trong nhau và “thiếu nợ" lẫn nhau giữa
cõi đời và với trời đất (trăng muôn đời thiếu nợ mà sông không nhớ ra) hơn là để
nói tới cái tâm chân như hay cái tính không: "Kìa xem bóng nguyệt
lòng sông. Ai hay không có có không là gì” (Thiền sư Đạo Hạnh). Ở Trịnh
Công Sơn, cái đẹp bi lụy còn in dấu khi bước tới hư vô khoác áo chân như/ nhưng
vẫn còn long lanh giọt lệ thiên thu (Giọt lệ thiên thu). Đôi khi trầm
tư về cái đẹp với cảm xúc bâng khuâng trước cái mênh mang mà sự giải thoát thì
diệu vợi tận cõi “bỉ ngạn" (bờ kia):
Bên kia sông nước vô bờ
Hồng nhan em có bao giờ bâng khuâng (Lời ở phố về)
(l) "Bồ tát vì chúng sinh mà vào vòng sinh tử,
đã có sinh tử thì có bệnh, bao giờ chúng sinh hết bệnh thì Bồ tát sẽ không còn
bệnh". (Kinh Duy - ma - cập)
Nhan sắc Đóa hoa vô thường
Tim tôi đã nở
Đóa hoa dưới trời
Chùm cánh khát mong
Bầu nhụy mơ mòng. (Garcia Lorea)
Nếu chiêm ngắm kỹ, bạn sẽ thấy con người là một
bông hoa năm cánh. Một thiền giả Nhật đã có chiêm nghiệm như vậy. “Giao hưởng
thơ" Đóa hoa vô thường là một dụ ngôn bằng ý thơ nẻo nhạc để kể
về cuộc hành hương đi tìm ý nghĩa của tình yêu, nghệ thuật và cái chết. Tương tự
như trong truyền thuyết đi tìm Đóa hoa Xanh biểu trưng cho nghệ thuật của thi
sĩ Lãng mạn Đức Novalis - một cuộc luyện đan (alchemy) trong tình yêu và nghệ
thuật. Hoặc gần với Thiền tông hơn, nó được luân diễn trong mười bức tranh chăn
trâu, là hình ảnh kẻ mục đồng hay lữ khách lạc nẻo giữa đồng hoang nội cỏ, khởi
đi tìm cái tâm (chân như) của chính mình đã đánh mất trên siêu lộ mê ảnh trong
cõi sinh tử trập trùng mộng mị . . .
Bốn "chương” (movement) nhạc của Đóa hoa
vô thường tương ứng với bốn hay bốn mùa tâm cảnh về một đời người, như vòng
"quy hồi vĩnh cửu” (eternal recurrence) trong Một cõi đi về. Lối tiến
hành âm hình giai điệu của Đóa hoa vô thường là một cuộc chuyển hóa
liên tục giọng, điệu tính, tiết nhịp, tâm thái... trong từng đoạn, câu hoặc tiết
nhạc. Ý thơ dựa trên một chủ đề chính tái hiện nhiều lần là bông hoa xuyên suốt
tác phẩm. Sự chuyển hóa sắc thái liên tục này làm gợi nhớ tới ý niệm "giao
hưởng thơ ' (symphonic poem của các nhà soạn nhạc Đức như F.Liszt thời Lãng mạn)
đưa ra tính tự do của một nhạc thể và khả năng sử dụng dàn nhạc như là một bảng
pha màu, từ đó vẽ ra một bức tranh linh động bằng âm thanh - hình ảnh.
Chương I - Tìm Tình, Nhịp Thong Dong
Khởi đầu bằng thể hát kể đồng dao bốn chữ Tìm em tôi
tìm... như nhịp chân rảo bước đi tìm Tình trong vẻ Đẹp mà hình ảnh thanh
tao hiện thân trong mình hạc xương mai. Bước đầu tìm trong cái đơn độc, cái một,
tìm trên non ngàn một cành hoa khôi - hiển hiện trong đóa hoa tinh khôi đó là nụ
cười mong manh, một hồn yếu đuối, một bờ môi thơm mang tấm lòng sơ nguyên của một
hồn giấy mới. Điều đó khiến chúng ta liên tưởng tới những vần thơ tình tâm linh
diễm tuyệt “vì tình tôi phải tìm tình" trong Nhã Ca (Kinh Thánh) hoặc
trong Tụng ca Tâm linh (của San Juan de la Cruz) để đi tới chỗ kết hợp huyền
nhiệm (unio mystica).
(Rộn rã bồi hồi)
Đường nét "hướng thượng” trong giai điệu:
"Tìm em tôi tìm nhủ lòng tôi ơi. . ." là nỗi quyết tâm tìm
trong cả những thấp thoáng ảo hóa (maya) của vạn vật đắp đổi; thời gian: tìm
đêm chưa từng, tìm ngày tinh khôi. Trên trời: tìm chim trong đàn ngậm hạt sương
bay. Dưới đất: tìm lại trên sông... những dấu hài. Từ thơ bốn chữ giờ còn lại
ba chữ: những dấu hài.. giọng ngậm ngùi tưởng nhớ. Ở đây "tình lại gặp
tình” lần tìm theo chỉ thấy từng bước in rêu của một hồng nhan bạc mệnh...
(Trầm tưởng)
(Dịu lắng)
“Tìm em xa gan đất trời rộn ràng. . ."
lòng người đi tìm bây giờ đã lắng xuống để quán tưởng mà ôm lấy đất trời xa gần
trong cả cái tính phù du, bạc mệnh, tàn và tận của tấn tuồng ảo hóa đó: Tìm
trong sương hồng, trong chiều bạc mệnh, trăng tàn nguyệt tận, chưa từng tuyệt vọng
đâu em. Thêm hai chữ "đâu em" như lời nhắn nhủ mãi mãi tới cõi phù
sinh này (Đừng tuyệt vọng tôi / em ơi đừng tuyệt vọng...).
(Rộn ràng)
Từ thể hát đồng dao giờ hóa thành bài kệ (gatha) tụng
reo:
Tìm trong vô thường
Có đôi dòng Kinh
Sấm bay rền vang
Bỗng tôi thấy em
Dưới chân cội nguồn...
Là lúc cảnh giới của đất trời giao hội từ khi câu
Kinh đã bước vào đời (Nguyệt ca) - đôi dòng Kinh Sấm (Vajracchedika) ấy
bay rền vang là ánh kim cương chẻ toang bóng tối âm u... Cũng chính là lúc
bỗng tôi thấy em dưới chân cội nguồn - cội nguồn của chân như, bản lai diện mục
- Người Tình hay cái Tâm sẽ tự hiển hiện cho thấy khi thôi tìm trong hình sắc,
âm thanh... Giờ tôi mời em về trong đêm thiêng liêng có ơn mưa trời gội rửa
tuôn tưới. Em giờ hiện hữu ở khắp bốn bề tẩm hương trầm thơm ngát. (Tiếng đàn
như tiếng mưa nhỏ giọt). Khi vườn mưa tạnh, tiếng nhạc liền cất lên hân hoan để
soạn sửa cho cuộc lễ mạc khải thiêng liêng dưới ánh trăng vàng: Một đóa hoa quỳnh
trong ngọc trắng ngần lồng với bóng trăng tròn. Cũng từ lòng đóa hoa tố tâm đó
mở ra (chỉ trong một đêm thắp sáng) mà vạn vật được phản chiếu và mở phơi như
trong một tấm gương trong. Cái nôi vũ trụ tình yêu nhiệm màu đó là những ngón
tay xòe bung ôm lấy tất cả làm một.
Tới đây lời thơ ngưng. (Tiếng đàn... giờ là ánh
trăng lung linh tĩnh mặc) để chiêm ngắm vẻ đẹp của đóa ngọc quỳnh. Như cái thị
kiến ân sủng (beatific vision) của thi sĩ Dante chói mắt trước ánh sáng tâm
linh phát tỏa từ tình yêu được kết thành đóa hoa hồng trắng.
Dưa tình về, nhịp hớn hở (Nhạc...)
Thanh thản (Nhạc...)
Bình an
Từ khi có duyên hội ngộ, đã có tình là có đối đáp.
Lời thơ chuyển sang thể lục bát trữ tình để bày tỏ khoảng an bình khi cả hai đã
có nhau như hình với bóng. Bằng một nhịp thơ liền lạc, vui và đầm ấm: "Từ
nay tôi đã có người, có em đi đứng bên đời líu lo... Từ em tôi đã đắp
bồi, có tôi trong dáng em ngồi trước sân".
Hát tự do
Giọng chuyển đột ngột chùng xuống thành khúc hoài cảm
(melancholy) đượm vẻ nuối tiếc, man mác, buốt lạnh như lời linh cảm trước cho
tính bạc mệnh của đóa hoa "mới chớm đã viên thành” như nụ tình ái Kim - Kiều.
Mùa đông cho em nỗi buồn, chiều em ra đứng hát kinh đầu sông... chút tình mới
chớm đã viên thành. Và tàn đông con nước kéo lên đợi mùa xuân tới:
Nhịp nhàng thư thái
Điệp từ "Từ nay"... đã luôn được nhắc lại,
cung giọng bây giờ cao và nhấn nhá vui hơn. Toàn chương II diễn tả một cuộc
"đối đáp” nói - thưa (đối điểm/ counterpoint), đắp - bồi giữa hai bè ngôi
thứ khởi từ tôi - người, tôi - tình sang tôi - em; cho tới đoạn này là anh -
nàng để đồng xướng (homophony) một chữ có. Ở đoạn này như là giai điệu chim hót
trầm bổng cùng với tiếng ca đồng thanh của đất trời sông núi đáp đền tới cuộc hội
ngộ từ khi đã có... "Từ nay anh đã có nàng, biết ơn sông núi đáp
đền tiếng ca. Mùa xuân trên những mái nhà, có con chim hót tên là ái ân”.
Chương III
Bốn mùa yêu nhau trong lẽ vô thường của trời đất
(Nhạc chuyển... Chậm lại...)
Bình an
Khúc arioso (vịnh tự khúc) : "Sen hồng một
nụ. . ." Chuyển từ hình ảnh đóa quỳnh trắng của chương I sang một hóa thân
khác là nụ sen hồng đang ngồi đong đưa - khoảng cách từ “thơ ngây" tới
“kinh nghiệm" - bằng một giọng kể hoài tưởng lại thời thanh xuân êm đềm
chuyển sang sắc màu “chín" của tình yêu đã nếm trải từ rạng đông cao đến
đêm ngọt ngào. Bảng màu "mùa xuân chín" rõ rệt hơn: Em hồng một thuở
xuân xanh . . . giờ còn lại nỗi buồn hoài niệm để đền trọn mối tình. (Hồng
đi nhé xin hồng với nụ Vàng phai sẽ cuốn đi mịt mù - Vàng phai trước ngõ).
(Nhạc chuyển...)
Hiu hắt
Từ đây chuyển đoạn trầm xuống hiu hắt như tiếp nối
đoạn hoài cảm ở chương II nhưng đã trở thành thể thơ độc thoại sáu chữ. "Một
chiều em đứng cuối sông, gió mùa thu rất ân cần chở lời kinh đến núi
non, những lời tình em trối trăn..." Cuộc tình đã trải qua cả hạnh
phúc lẫn khổ đau, thân phận lưu lạc hoa trôi bèo dạt, lênh đênh từ đầu sông cho
tới cuối sông đoạn trường "tính từ sông nước cát lầm”.
Cánh gió mùa thu chở lời Kinh hát về thân phận gửi
tới non nước quê nhà. Một thời yêu dấu đã qua. Giờ đây gót hồng (gót sen/ đôi
chân hồng trần của Thúy Kiều) mong mỏi được quay về. Từ khúc hoài cảm ở trên giờ
hợp lại trở thành khúc hoài hương (nostalgia) trối trăn rằng: dù trần gian
có xót xa cũng đành về với quê nhà.
(Con sóng biển dâu đã mang tình về quê quán cũ)
(Nhạc. . .)
Chương IV
(Nhạc chuyển...) Rộng rãi
Dồn dập vừa
Mênh mông
Tình đi, người ở lại - (đoạn cuối)
Êm đềm, xa vắng
Khúc 1: “Từ đó trong vườn khuya, ôi áo xưa em là một
chút mây phù du, đã thoáng qua đời ta..."
Khúc bi ca (elegy) u huyền này bằng thể thơ tự sự
năm chữ, là tiếng thở dài mênh mang khi tình đã đi, người ở lại. Có thể diễn tả
lại bằng lời thơ trong Lửa thiêng:
Bóng đêm tỏa không lấp niềm thương nhớ,
Tình đi mau, - sầu ở lại lâu dài.
Ta đã để hồn tan trong tiếng thở
Kêu gọi người đưa tiễn nỗi tàn phai. (Bi ca -
Huy Cận)
Từ cảnh vườn đêm hội ngộ có ánh trăng vàng mạc khải
của chương I tới cảnh vườn khuya cô tịch trong chương cuối này, là nỗi thấu cảm
tính phù du của chữ tình, của vẻ đẹp mong manh, là hình ảnh của chính cái chết. Từ
đó trong hồn ta, ôi tiếng chuông não nề... Nỗi tuyệt vọng mênh
mang, nhịp tim xao động trong lòng là tiếng chuông não nề văng vẳng như tiếng
chuông cầu hồn. Tiếng ngựa hí vang rừng xa vọng suốt đất trời kia, mang tính ẩn
dụ đầy âm - hình (audio- visual) loan báo cho giờ phút khởi hành chuyến xe cuối
cùng của đời người. "Từ đó ta ngồi mê, để thấy trên đường xa, một
chuyến xe tựa như, vừa đến nơi chia lìa”.
(Tình do tâm mà sinh, có khi tình mất mà tâm còn động
vọng. Đến lúc tâm bình an thì tình kia cũng đoạn nỗi.)
(nhạc) Mạnh và liền nhau
Êm dịu lại
Khúc hai: "Từ đó ta nằm đau, ôi núi cũng
như đèo, một chút vô thường theo..."
Bài tự tình khúc cuối này như bức tranh thủy mặc của
cõi tâm bao la vô cùng.
Từ đó... từ chốn vô thủy vô chung để mà chiêm
nghiệm toàn cảnh lộ trình đã qua của người nghệ sĩ - kẻ hành hương - giờ nằm
đau dạt dào bi cảm trước cái như tính của vẻ đẹp của sự vật; chẳng còn biện biệt
nữa không gian (ôi núi cũng như đèo) với thời gian (từng phút cao giờ sâu) để rồi
nhập vào với trạng thái tịnh mặc (samadhi) ngay trong nỗi đau - (ở một nghĩa
nào đó) là đang trải qua kinh nghiệm về cái chết. Đi vào cõi chết như một âm điệu
ngân vang rồi cũng sẽ chìm trôi vào với cái tịch lặng: cõi đi về thiết yếu của
âm nhạc, của chính đời người.
Từ đó - tình yêu là hoa nở hồng ban sớm, nở hết
trong hoàng hôn, vẫn còn mãi khát mong, lại phải nhờ tới ngọn gió vô thường thổi
qua để tiếp tục hóa thân thành sương tinh khiết rụng mát trong bình minh.
Vườn khuya đóa hoa nào mới nở.
Đời tôi có ai vừa qua... (Đêm thấy ta là thác đổ)
Từ đó ta là đêm, nở đóa hoa vô thường,
Từ đó - người đi hành hương nhập thể vào với bóng
đêm vô tận (là cõi chân không) để nở ra đóa hoa vô thường: người chiêm ngắm
(đóa hoa) đã trở thành cái (đóa hoa) mà mình chiêm ngắm. Vẻ đẹp của đóa hoa vô
thường là nở ra nụ cười khúc khích trên lưng đài gương của cái dục mang hương sắc
hoa tình cua cái chết.
Từ đó - đóa hoa là biểu hiện rõ nhất về sự vô thường:
hiện, hiển và biến:
Mùa mưa tới cành hoa trắng ngần
Đã ra đời đùa vui phút giây
Sau một lần đến bên người
Khép lại tấm lòng nghìn năm nhớ ai...
(Chuyện đóa quỳnh hương)
Từ đó - đóa hoa ấy đã khép lại những cánh mong manh
trước cả lúc trăng tàn nguyệt tận.
Từ đó -
Chìm dưới thiên thu là một đóa thơm tho.
(Chìm dưới cơn mưa)
Nhưng từ đó, để kết tinh nên một đóa mong manh,
thơm tho ấy dâng cho đời, đã là sự cưu mang và hi hữu kể từ trăm năm trong cõi
người ta . . .
(Nhạc để chấm dứt. . .)
Khúc Kết
Những phương trời gió loạn nào đã đi qua,
Còn lại đóa hoa vô thường
Phất phơ giữa tuế nguyệt không thời(1)
(l) Dịch nghĩa thơ của Vương Duy. Trích trong Đường
thi - Vương Duy chân diện mục của Vũ Thế Ngọc, Eastwest Institute
Press, CA 1987.
Lặng lẽ nơi này
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn là người mà ai cũng biết
nhưng cũng không ai biết ông bao nhiêu ngoài gia đình và một vài người bạn rất
thân.
Sinh ngày 28 tháng hai năm 1939. Trịnh Công Sơn quê
ở Huế nhưng ra đời ở Đắc Lắc. Tiểu sử, ông chỉ ghi như thế.
Trời cao đất rộng, một mình tôi đi
Đời như vô tận, một mình tôi về
một mình tôi về với tôi. . . .
Từ căn nhà cũ ở Phú Cam, Huế, Trịnh Công Sơn lớn
lên, bỏ vào Sài Gòn, theo bạn bè, âm nhạc. Ông không ồn ào những bước đưa nhạc
của mình vào với người nghe.
Năm 1965, ở trụ sở sinh viên đại học góc đường Duy
Tân Hồng Thập Tự, người thanh niên có cái vẻ rất thư sinh, gầy gò ấy cầm chiếc
Tây Ban cầm bước lên bục, sau đôi lời giới thiệu rất ngắn và giản dị của một
người trong ban tổ chức, cất lên tiếng hát chưa mấy ai biết ở Sài Gòn thời ấy,
và từ đó, nhạc Việt Nam không bao giờ còn như cũ nữa.
Trong số những ca khúc ông hát hôm ấy có bài Gọi
tên bốn mùa. Sài Gòn hôm ấy vừa xong một cơn mưa. Cơn mưa vào hạ những giọt
thì thầm, cành khô bơ vơ, buổi chiều xao xác, tuổi thơ, tin buồn... Không khí ấy,
cứ nghe lại vài ba đoạn trong ca khúc Gọi tên bốn mùa, lại trở về,
như mùa thu cũ, một thời, một đời...
Trịnh Công Sơn tới với người thưởng ngoạn bằng nhạc
nhưng căn bản, ông là một thi sĩ.
Ông như người nhạc sĩ mù trong một bức vẽ của
Picasso, thời kỳ xanh.
Người nhạc sĩ cầm cây đàn không có dây, giơ lên những
âm thanh mà chỉ ông nghe thấy, vì nó đi ra thẳng từ quả tim của ông.
Trịnh Công Sơn cũng thế. Ông viết rất dễ dàng.
Trong trí, trên một mảnh giấy lau tay trong một tiệm nước, bất cứ chỗ nào. Như
một thi sĩ, vì ông chính là một thi sĩ.
Có những bản nhạc của ông, phần lời ca đúng là những
bài thơ. Ông dùng nhạc để nâng đỡ những đoạn thơ đó. Và ông cũng dùng thơ để dẫn
những đoạn nhạc đi. Nhạc của ông không khúc mắc là vì thế.
Ngôn ngữ thơ trong phần lời ca của ông đưa người
nghe vào một thế giới với những hình ảnh hoàn toàn mới. Hình ảnh lãng mạn mà
ông tạo ra không còn dấu tích của dòng nhạc bước đi từ thời tiền chiến. Nó đưa
tới sự chấm dứt những ảnh hưởng cũ đã ở trong nhạc Việt từ hơn ba mươi năm. Đến
Trịnh Công Sơn, nhạc Việt mới đi hẳn về một chiều mới.
Ngôn ngữ tình yêu của ông không là những ngôn ngữ của
thi ca lãng mạn Việt Nam trước đó. Đó là một thứ ngôn ngữ để nói về tình yêu
trong một nỗi bất an, một không gian bất ổn, của chung quanh đầy xao động.
Có thể nói Trịnh Công Sơn làm thơ bằng âm nhạc. Âm nhạc
chỉ là một phương tiện để chuyên chở thơ của ông. Trong những chuỗi âm thanh mà
nhạc dẫn dắt chúng ta theo ông, người nghe vẫn thấy lấp ló đâu đó con người thi
sĩ của ông. Chữ nghĩa thi ca của ông không cầu kỳ, cũng không khuôn sáo. Những
chữ đã rất cũ, qua tay ông được mặc cho những bộ áo mới. Thì đây, chữ nghĩa đã
cũ, nhưng nghe qua Trịnh Công Sơn thì lại rất mới:
Tôi ru em ngủ
Một sớm mùa đông
Em ra ngoài ruộng đồng
Hỏi thăm cành lúa mới
Tôi ru em ngủ
Một sớm mùa thu
Em đi trong sương mù
Gọi cây lá vào mùa...
Trịnh Công Sơn là một tài hoa hết sức đa dạng. Ông
viết về nhiều thứ nhạc khác nhau. Từ những tình ca xót xa, nghe tê dại đau đớn,
những tình khúc bất hạnh đến những bài ngợi ca quê hương đất nước, một ước mơ
hòa bình hiền lành của dân tộc. Ông nói hộ cho một hai thế hệ những điều đó.
Nhưng nhạc tình của ông, bằng những hình ảnh rất mới, của thơ, đã trở thành dấu
ấn của Trịnh Công Sơn.
Ông quan niệm như thế này về nhạc tình: "Khi bạn
hát một bản tình ca là bạn đang muốn hát về cuộc tình của mình. Hãy hát
đi, đừng ngại, dù hạnh phúc hay dở dang thì cuộc tình ấy cũng là một phần máu
thịt của bạn rồi".
Và bởi thế, những tình khúc mà ông viết, đã trở
thành những tình ca chung của tất cả. Tính chất riêng tư không còn nữa.
Diễm trở thành không thực. Chỉ còn nhớ mãi trong
cơn đau vùi, buổi chiều ngồi ngóng những chuyến mưa qua như trong ca khúc Diễm
xưa, nghe một lần rồi mãi mãi không bao giờ quên được.
Trịnh Công Sơn, nhạc tình
Ở trang 11 của tuyển tập Những bài ca không
năm tháng, Trịnh Công Sơn viết về hai nỗi ám ảnh trong đời ông như thế
này: "Sống giữa đời này chỉ có thân phận và tình yêu. Thân phận thì hữu hạn.
Tình yêu thì vô cùng. Chúng ta làm cách nào nuôi dưỡng tình yêu để tình yêu có
thể cứu chuộc thân phận trên cây thập giá đời". Ông viết những dòng trên
có thể vào cuối thập niên 90, khi 127 ca khúc được thu thập in lại thành tuyển
tập. Nhưng nhìn lại những nhạc phẩm mà người ta được nghe của ông, thì tình yêu
là ám ảnh lớn hơn tất cả các đề tài khác của Trịnh Công Sơn.
Có thể khăng định rằng nếu sống vào một thời điểm
khác hòa bình hơn, hạnh phúc hơn, Trịnh Công Sơn đã chỉ viết một loại ca khúc:
nhạc tình. Nhưng chiến tranh bày ra cho ông một bất hạnh lớn. Bất hạnh đó kéo
ông về những đau đớn triền miên của dân tộc. Những đau đớn bất hạnh đó không
cho ông được phép thản nhiên để ca ngợi tình yêu, và vì thế mà trong tình ca của
ông, vẫn thấy bóng dáng của đau khổ, bất hạnh. Trong bài Tình sầu, với
ông, tình yêu, ngay cả những lúc dịu dàng nhất, cũng vẫn như những khổ đau của
trái phá, con tim mù lòa, vết cháy trên da thịt, cơn bão qua địa cầu. . .
Trịnh Công Sơn cứ bị kéo trở lại với những bất hạnh
như thế, nên những tình ca ông viết cũng không là những bài ngợi ca hạnh phúc.
Nó là những bất hạnh của chia xa của những thương tích khổ đau, tuyệt vọng.
Chính Trịnh Công Sơn cũng nói rõ điều ấy: "Mỗi bài hát của tôi là một lời
tỏ tình với cuộc sống, một lời nhắn nhủ thầm kín về những nỗi niềm tuyệt vọng,
và cũng là một nỗi lòng tiếc nuối khôn nguôi đối với buổi chia lìa (một ngày
nào đó) cùng mặt đất mà tôi đã một thời chia xẻ những buồn vui cùng mọi người".
Nên ông mong có được tin vui từ gạch đá dẫu mai nơi
này người có xa người, hãy hát tình ca, hãy yêu nhau dẫu đang chênh vênh bên bờ
của nguy khốn, hạnh phúc và thương đau cứ hãy trao cho nhau...
Trịnh Công Sơn, thủy chung vẫn chỉ ở với nhạc tình.
Bài ca đầu tiên và cuối cùng của ông đều là những tình ca. Trong một chiều dài
một nửa thế kỷ sáng tác, từ những năm 1950 đến cuối thập niên 90, Trịnh Công
Sơn viết nhiều nhất vẫn là nhạc tình. Bản tình ca đầu tiên không phải là bài Ướt
mi như nhiều người vẫn nghĩ. Ông cho biết ca khúc viết cho tình yêu đầu
tiên của ông là bài Sương đêm mà nay ông chỉ còn nhớ được cái tựa.
Không một ai biết bài hát này. Ông cho biết nó đã thất lạc với những biển dâu
trùng trùng của đời sống. Ướt mi lần đầu tiên được hát trước công
chúng là tại phòng trà Văn Cảnh bởi tiếng hát của Thanh Thúy. Ca khúc này đưa
Trịnh Công Sơn thành một tên tuổi nổi tiếng lập tức.
Tình khúc Ướt mi là khởi đầu cho chuyến
đi rất dài, trên đó, ông để lại cho người thưởng ngoạn nhiều tình ca khác. Nhưng Ướt
mi, tuy thế, không phải là ca khúc viết về tình yêu hay nhất của ông. Nó vẫn
còn những nét sơ phác cả về nhạc lẫn lời ca. Phải đợi đến Diễm xưa, và Nắng
thủy tinh mức độ trưởng thành về nhạc và sự chín tới của lời ca mới thấy
rõ nơi nhạc Trịnh Công Sơn.
Màu nắng màu mắt, chiếc bóng nghiêng, bàn tay xanh
xao, gió mây ngàn, cây thắp nến. . . với Nắng thủy tinh, tình ca
Việt Nam đi sang một hướng mới. Ngôn ngữ dùng làm lời ca là ngôn ngữ của thi
ca, mới từ âm thanh đến ý nghĩa. Trước và sau Trịnh Công Sơn, không ai viết thứ
lời ca như thế. . .
Trong chiều dài sáng tác của Trịnh Công Sơn, ông cứ
tiếp tục làm mới ông mãi mãi. So với Nắng thủy tinh, thì Như
cánh vạc bay lại hoàn toàn đi sang một lối khác. Cái đau đớn, chết chóc
không còn nữa, nhưng niềm tuyệt vọng thì còn nguyên. Câu cuối của bài hát này,cứ
như những vòng sóng trên mặt hồ, chạm vào bờ, rồi lại chạy giữa hồ hoài hoài
mãi mãi. Những sợi tóc từ đó mãi mãi là nhắc nhở về mặt hồ sóng. Nắng thì hờn
ghen, mưa thì làm buồn đôi mắt. Đặc tính thơ hiện ra rất rõ trong Như cánh
vạc bay, làm khía cạnh thơ lấn hẳn phần nhạc.
Quỳnh hương mà ông viết trong thập niên 70 lại
đưa nhạc của ông đi xa khỏi cái bờ bến đầu tiên của Ướt mi thêm một đoạn
đường dài khác. ông nhẹ nhàng như những bước nhún nhẩy của nhịp 2/4, như một lời
tỏ tình hân hoan...
Bông hoa quỳnh ông đem tặng người yêu dấu cũng là
món quà người nhạc sĩ viết tình ca để lại cho chúng ta, cho đời sống, đời sống
đẹp mà ông chỉ cho chúng ta tìm lại được trong thế giới nắng hạn đã có lúc bốc
cháy tan nát này.
Phản chiến?
Ở Việt Nam, thế hệ ra đời từ khoảng cuối thập niên
30 đến những năm đầu của thập niên 50 là thế hệ gặp nhiều bất hạnh. Trong lịch
sử Việt Nam, chắc chắn họ là những người tử trận nhiều nhất, góa bụa nhiều nhất
và mồ côi nhiều nhất. Họ vừa lớn lên, là đã đụng mặt với một trong những cuộc
chiến kinh hoàng, ghê khiếp nhất lịch sử nhân loại.
Trịnh Công Sơn mới bước vào tuổi biết nghĩ, là lúc
chiến tranh cũng đang sửa soạn đi vào đoạn khốc liệt nhất. Trong những cái ốc đảo
nhỏ của những thành phố ông đã ở đó, âm thanh của cuộc chiến vẫn vọng về, tiếng
nổ của đại bác đã thay cho tiếng ru hằng đêm, những đứa bé côi cút lõa lồ, những
người già trong công viên, đàn bò ngu ngơ. . .nhắc nhở cho ông không khí đầy
súng đạn, chết chóc xung quanh. Chỉ là gỗ, là đá mới không cảm thấy được những
khổ đau, bất hạnh của đất nước, của dân tộc.
Mà làm sao người ta có thể biết chắc được rằng gỗ,
rằng đá không đau? Bia đá cũng còn biết đau như ông đã viết trong một ca khúc.
Đá còn vậy huống chi con người trước những tang tóc, đau thương của đồng loại.
Từ một người chỉ muốn được một đời viết và hát nhạc
tình, ngợi ca tình yêu, thì cuộc chém giết hàng ngày chung quanh ông đã bắt ông
phải nói lên những khát vọng hòa bình, của chúng ta, của cả dân tộc Việt. Không
phải chỉ bên này, hay chỉ bên kia mới đươc quyền nói, kêu gọi, đòi hỏi hòa
bình, mà chính bạn, tôi, chúng ta, như trong ca khúc nhan đề Chính chúng
ta phải nói, ca khúc một thời trên môi tuổi trẻ Việt Nam ở các sân trường
học.
Năm 1968, khi chiến tranh ở giai đoạn khốc liệt nhất,
thì đó cũng là năm nhạc của Trịnh Công Sơn đi sang một hướng đi khác. Vẫn tiếp
những ca khúc lãng mạn ngợi ca những mối tình đến rồi lại đi, nhưng ngay trong
các tình khúc ấy, tiếng đạn bom, trái phá cũng đã trùng khắp, con phố xưa đầy dấu
đạn, tên em cũng là vết thương khô.
Trịnh Công Sơn bắt đầu viết những ca khúc được nhiều
người gọi là nhạc phản chiến.
Không một người nào có trái tim mà không biết nhỏ lệ,
mà không biết khóc cho cả một dân tộc, cho anh, cũng như cho em đang quằn quại
trong niềm thù hận mà ông gọi là “giả tạo" đó.
Trịnh Công Sơn viết về giọt nước mắt của người mẹ
thương con, thương sông, thương rừng, thương đất, thương mây, thương chim,
thương đêm, giọt nước mắt không tên, bài hát cảm động nghe muốn khóc. Nguyễn
Đình Toàn, một lần, khi giới thiệu giọng hát Khánh Ly, đã gọi đó là giọng hát
đi rao giảng những bất hạnh của dân tộc, giọng hát để tang cho đất nước.
Khánh Ly chỉ là người đem những điều Trịnh Công Sơn
viết xuống và chuyển đúng được những điều ông gửi gắm.
Tập nhạc ông đặt tên là Kinh Việt Nam, xuất
bản năm 1968, theo chính lời ông viết ở trang đầu, là tiếng kêu thương thống
thiết, khởi từ một thực trạng máu xương, là lòng mơ ước về một rạng đông cho
đêm tối dài lâu này. Đó là những bài hát được viết từ những hân hoan lắng nghe
được trong lòng người, là nỗi hân hoan của đám đông chờ mong ngày hồi sinh.
Nếu đó là nhạc phản chiến, thì tất cả chúng ta đều
có đầy đủ lý do và chính nghĩa để chống lại chiến tranh. Phản chiến, như thế,
không là taboo, một cấm kỵ nữa, mà là một ước ao tất đẹp nhất của con người.
Trịnh Công Sơn chống lại chiến tranh, giết chóc một
cách hiền lành. ông không đòi xương máu, ông không đòi trả thù, ông không đòi
tiêu diệt bên này, chôn sống bên kia. ông bất lực không làm gì được để chặn những
viên đạn bay, để nâng dậy hòa bình khốn khổ cho dân tộc đầy đoạ triền miên bao
nhiêu năm. Ước mơ tội nghiệp đó nghe được trong tất cả những ca khúc phản chiến
của ông.
Trịnh Công Sơn, trong thế đứng khó khăn, thế đứng dựa
vào nhân bản và dân tộc đó, ông đã giữ được cho đến lúc qua đời mặc dù trong đời
sống, đã có lúc ông bị buộc phải đi trên sợi dây cheo leo, dưới chân là bờ vực
hiểm nghèo. Nhưng lòng yêu quê hương, lòng thương người của ông, những giọt nước
mắt cho người mẹ ngồi chờ, cho người lính ngồi chờ trên đồi, cho chúng ta, là
những điều sẽ còn mãi trong lòng cả một xứ sở, một dân tộc trong nhiều năm nữa,
chừng nào còn có người hát nhạc Việt.
Trịnh Công Sơn và tôn giáo
Nhạc tôn giáo ít khi tiến được ra ngoài những bức
tường của thánh đường hay sân chùa để được trình tấu và thưởng thức cùng với loại
nhạc phổ thông và thời trang khác. Lý do là vì cấu trúc của loại nhạc này quá cổ
điển, và ngôn ngữ quá tôn nghiêm. Tính chất tôn nghiêm đó khiến cho khó có thể
nói về tình yêu, thứ tình cảm thuần khiết và giản dị nhất của con người. Vì thế,
nhạc tôn giáo vẫn tiếp tục ở mãi trong những bức tường thâm nghiêm của giáo đường
và chùa chiền.
Đầu thập niên 60, The Singing Nun, một nữ tu người
Bĩ cũng có biệt hiệu khác là Soeu Sourire, với cây Tây Ban cầm, đã rất thành
công trong thế giới nhạc Pop với hai bài d'Entre Les étoiles và Dominique, hai
bài hát mang rất nhiều hình ảnh tôn giáo, nhưng lại được những người trẻ tuổi
nghe nhạc Pop ưa thích ngay. Hai nhạc phẩm lời ca viết bằng tiếng Pháp cũng được
ưa chuộng ở các nước nói tiếng Anh. Những rào cản cũ bị dẹp bỏ.
Cùng lúc, Trịnh Công Sơn cũng đem dùng một số những
từ ngữ mà trước đó được giữ trong một nơi chốn khác hơn là ngôn ngữ âm nhạc thời
trang.
Những chữ phúc âm, lời buồn thánh... dẫu
chuỗi hình ảnh đi kèm vẫn là của tình yêu lãng mạn, nhưng đó là lần đầu tiên những
loại từ ngữ này được dùng trong những bản nhạc không mang không khí của giáo đường.
Trịnh Công Sơn đem thứ ngôn từ đó ra ngoài, biến chúng trở thành thân quen,
tình tứ. Chiều chủ nhật, thiên thần, ăn năn... những từ ngữ vang vọng tiếng
chuông, tiếng phong cầm ấy được nối tiếp sau đó không bao lâu bằng nhạc phẩm
mang tựa đề Phúc âm buồn, cũng lại là một thứ từ ngữ nghe là thấy
không khí của tôn giáo. Nhưng Trịnh Công Sơn chỉ dùng những từ ngừ đó như một
cái cớ để dàn trải những tình cảm lãng mạn của ông. Không khí mà chử nghĩa lấy
từ trong Tân ước được lồng vào hai bản tình ca của Trịnh Công Sơn. Ông biến những
chữ trước đó luôn luôn gây những ấn tượng trang nghiêm lạnh buốt thành những
ngôn từ gần gũi hơn, thân mật hơn. Đã có lúc người ta tưởng đạo Cơ Đốc là tôn
giáo của ông.
Trong một cuộc phỏng vấn, Trịnh Công Sơn cho biết đạo
Phật đã ảnh hưởng sâu đậm trên tình cảm thời thơ ấu của ông. Nhưng lớn lên,
càng lởn, và càng nhìn ra những khổ hạnh trong đời sống, những bất công, những
đau đớn cuộc chiến mang lại, Trịnh Công Sơn càng thấy ra những lời gọi của tôn
giáo. Ông tìm được an ủi, trong tuyệt vọng, ông tìm được vỗ về trong hạnh phúc
mong manh phù du.
Bài Đóa hoa vô thường - một ca khúc đẫm
hương thiền - lại là một ca khúc hạnh phúc nhất của ông. Trong đó, sự cứu rỗi
đón lấy ông giữa những trang kinh thơm mùi sen cao quý. Đời sống phù du bỗng
bình an vô thường.
Trịnh Công Sơn dùng hình ảnh từ những trang kinh ra
để nói về tình yêu. Nhưng rồi ông cũng lại dùng những lời ca tầm thường nhất để
tạo một không gian đầy tôn giáo. Bài Nguyệt ca là một ca khúc như thế.
Điều đó cho thấy là bao giờ, thủy chung, Trịnh Công
Sơn cũng vẫn là một nhạc sĩ viết tình ca, loại nhạc sẽ ở mãi với con người cho
dẫu thời gian, không gian có đổi thay.
Những ru khúc
Trịnh Công Sơn, năm 1995, khi thân mẫu qua đời, đã
viết đầy kín một trang giấy những suy nghĩ của ông về cái ngày đau buồn đó. Với
ông, chuyện mất mẹ là một chuyện không thể thỏa hiệp, không thể dàn xếp được, dẫu
cho người con có bao nhiêu tuổi đi chăng nữa. Ông sống rất lâu với mẹ, từ khi mất
cha. Ông bị ảnh hưởng rất nhiều nơi mẹ. Thế nên sự ra đi của người mẹ, mới là
điều không thể thỏa hiệp được với ông như ông nói ở trên. Chính những bài hát
ông nghe được của mẹ đã tiếp tục theo ông mãi trên đoạn đường dài nhất. Những
bài hát mẹ hát để ru những người em đã trở thành những hạt mầm mọc lên những ca
khúc ông viết sau này. Trong bài Tình yêu tìm thấy, người ta
nghe được câu này về những bài hát ru ấy: Tiếng ru mẹ hát những năm xưa,
mãi là lời ca dao bốn mùa, tìm thấy nỗi nhớ từ mỗi chiếc lá, góc phố nào cũng
thấy quê nhà...
Ông rời nhà đi học ở một thành phố lạ, hình ảnh
mang theo của bà mẹ là những bài hát ru. Và ông nhắc đến những bài hát ru ấy
nhiều trong các ca khúc của ông.
Những bài hát ru của Việt Nam là những vỗ về, là những
dỗ dành, là những an ủi, là những vuốt ve đầu tiên của những đứa bé. Vòng tay
thơm, giọng hát ấm áp của người mẹ đem lại cảm giác an toàn cuối cùng cho người
ta trước khi bị đẩy ra thế giới có khi rất hung bạo ở ngoài cửa. Trịnh Công Sơn
tìm thấy trong những bài hát ru ấy một chỗ trú ẩn rất bình yên. Đời sống của
người thanh niên trẻ lần đầu tiên sống xa những bức tường an toàn của ngôi nhà
cũ ở Huế khiến ông cứ tìm cách để trở về với nó mãi. Và đó là lý do Trịnh Công
Sơn viết rất nhiều ru khúc trong chu trình sáng tác của ông. Ông viết để trở về
với đoạn đời hạnh phúc, an toàn ấy trong khi đi qua những con đường đầy những
gập ghềnh của thế giới ông vừa tiến vào.
Ru ta ngậm ngùi là những an ủi, vuốt ve cho
chính mình trong niềm cô đơn tội nghiệp. Ông muốn được trở lại ngủ trong vòng
nôi, trong tiếng ru ấy.
Những bài hát ru đem lại cho người nghe cảm giác an
toàn hạnh phúc. Và cuộc đời càng đưa tới những bão táp nghiệt ngã, thì người ta
càng muốn tìm trở lại nơi trú ẩn cũ. Những bài hát ru của thời thơ ấu cho ông
nơi trú ẩn đó. Chiến tranh càng khốc liệt, thì người ta càng cần đến nhiều hơn
những nơi trú ẩn, những nơi trú ẩn an toàn nhất của thời thơ ấu, đó là những
bài hát ru trong lòng người mẹ. Trịnh Công Sơn nhìn thấy, một cách kinh hoàng
khi những tiếng đại bác thay thế cho những tiếng ru hàng đêm: đại bác đêm
đêm dội về thành phố, người phu quét đường dừng chổi đứng nghe.
Ông thấy phải thay những tiếng nổ đó bằng những ru
khúc. Những bài hát để ru những anh và những em, những người già, và những em
bé, ru đất nước và dân tộc, ru cho những đau thương, những bất hạnh ngủ yên.
Trịnh Công Sơn, trong khi đi tìm sự bình yên cho
ông bằng những ru khúc ông viết, thì cũng đem lại những an ủi, vỗ về cho nguyên
một thế hệ của ông. Có thể nói không một nhạc sĩ nào viết nhiều ru khúc như Trịnh
Công Sơn, ít ra cũng phải trên hai chục bài. ông ngậm ngùi ru chính ông. Ông ru
tình, ông ru đời. Ông ru đời đã mất. Ông ru người yêu ngủ trong buổi sớm mùa
đông, rồi lại một sớm mùa xuân. Ông ru mãi, ru hoài. Ông ru những tháng âm u,
ru những chia xa, những phụ rẫy, ngọt bùi. Những lời tỏ tình cũng được lồng vào
một điệu ru như trong ca khúc Ru em từng ngón xuân nồng.
Còn một cách tỏ tình nào hơn bài hát ru đó?
Thân phận con người
Tuyển tập Những bài ca không năm tháng xuất
bản cuối năm 1998 là một tập nhạc đồ sộ ở con số bản nhạc được chọn để in. Đó
là lần đầu tiên, một tập nhạc có con số ca khúc lớn như thế của Trịnh Công Sơn:
127 bản.
Nhưng đó không phải là tất cả những bản nhạc ông viết
đã cho phổ biến và đã được hát lên, được nghe trong cuối đời sáng tác của ông.
Thông thường thì tác giả nào chẳng muốn in toàn bộ sáng tác của mình, hay ít
ra, thì cũng là tất cả những tác phẩm ưng ý nhất, vào một tập. Trịnh Công Sơn
cho biết, trong cuộc đời sáng tác của ông, đã viết trên 500 nhạc phẩm, con số
mà những người biết ông đều nghĩ là một con số quá khiêm tốn. Nhưng trong số ấy,
ông cũng chỉ chọn 127 bài để in trong tập nhạc này.
Tuy được sắp xếp theo thứ tự của tự mẫu La Tinh
nhưng tình cờ, ca khúc đầu tiên lại là Bên đời hiu quạnh và bản nhạc cuối
của tập nhạc là bản Yêu dấu tan theo, và chính tựa của hai ca khúc in
ở đầu và cuối tập nhạc cho thấy những suy nghĩ cuối đời của ông về tác phẩm ông
muốn để lại.
Những bản nhạc trong tuyển tập đều không ghi ngày
viết và không được xếp theo thứ tự tháng năm sáng tác.
Mở tập Những bài ca không năm tháng người
ta thấy ngay một điều: đó là sự thiếu vắng của những ca khúc vẫn thường được gắn
liền với tên tuổi của ông. Những bản tin của báo chí hay các hãng thông tấn ngoại
quốc như The New York Time, The Washington Post, Reuters, AFP, A-P. . . đều
nhắc đến ông như một nhạc sĩ phản chiến. Nhưng trong tập nhạc cuối cùng này,
người đọc không thấy có bất cứ một bản nhạc gọi là nhạc phản chiến nào. Những
ca khúc như Chờ nhìn quê hương sáng chói, Ngày mai đây bình yên, Ta đã thấy
gì trong đêm nay, Sao mắt mẹ chưa vui, Nước mắt cho quê hương, Ca dao mẹ, Người
già em bé, Du mục... đều không có mật.
Mà những ca khúc đó, đều là những bài hát không thể
không có trong những sinh hoạt của tuổi trẻ miền Nam Việt Nam trong những năm
60 và 70, những bài hát đóng góp lớn trong việc làm thành tên tuổi ông. Và luôn
cả bài Nối vòng tay lớn, bài hát từ nhiều năm nay luôn luôn đi liền với
tên ông. Bài hát được hát lên rất nhiều như ước vọng nối lại sơn hà, nối thành
phố với nông thôn, nối người chết linh thiêng vào đời, nối Bắc với Nam, nối biển
xanh với sông gấm, nối rừng núi với biển xa...
Trịnh Công Sơn không đưa những bài hát này vào tập Những
bài ca không năm tháng.
Trong một câu ông viết ở đầu tập nhạc, ông khẳng định:
Sống giữa đời này chỉ có thân phận và tình yêu. Và
những bài ca ông cho in trong tuyển tập chỉ còn là những bài hát về tình yêu và
thân phận.
Trịnh Công Sơn viết những ca khúc về thân phận hết
sức buồn bã. Ngay cả trong những bài hát ông viết về tình yêu, ông cũng bày ra
một nỗi buồn chán, tuyệt vọng. Trong suốt những năm trưởng thành của ông, những
gì xẩy ra trên quê hương mà ông chứng kiến, chỉ là những điều buồn phiền như
ông đã kể: "Trên quê hương còn lại ta đi qua nửa đời chưa thấy được
ngày vui..." (Những con mắt trần gian).
Những bạn bè rời xa, những cuộc tình bỏ đi, ngày
qua đi mỗi ngày một xót xa... "Ở cuối chân trời Việt Nam, những tia nắng
nghèo nàn và bệnh hoạn từ một mặt trời hết sinh khí sắp đi vào hồn mê".
Ông đã viết như thế năm 1968 ở đầu tập nhạc Kinh Việt Nam. Trịnh Công
Sơn đã sống những ngày vô cùng tuyệt vọng như thế, như trong ca khúc Như
chim ưu phiền mà nhịp đi buồn bã của thơ năm chữ còn rất rõ
trong bản nhạc:
Tôi như con chim nhỏ
Bay về rất ngẩn ngơ
Trên nhân gian chia lìa
Lòng đầy những oán thù
Tôi như chim xa lạ
Đứng nhìn những ngày qua
Trong tim tôi bất ngờ
Một lời than rất nhỏ.
Trịnh Công Sơn lớn lên, nhìn chung quanh chỉ thấy
những tin buồn, những tin buồn như ông có lần viết là đã mang "từ
ngày mẹ cho mang nặng kiếp người" trong ca khúc Gọi tên bốn mùa.
Võ Phiến trong Văn học miền Nam tổng quan nhận
xét Trịnh Công Sơn vừa mới lớn lên cũng thốt lời siêu thoát như một đạo sĩ đầu
râu tóc bạc chống gậy trúc dưới một chân núi nào.
Nhưng thân phận ấy cũng không phải chỉ là của riêng
ông, mà là của cả dân tộc và đất nước đau khổ ông đang sống với những lìa xa,
chết chóc, vong thân, tù ngục, đầy đọa triền miên. Đứa bé ra đồng đạp trái mìn
nổ chậm chết không toàn thây, bờ môi như vẫn còn thầm hỏi có thiên đường hay
không. . . Trong đời sống như vậy, thế hệ mất tuổi trẻ, không hạnh
phúc của ông bỗng tìm thấy một phát ngôn nhân, một tiếng nói nói lên, thay mặt
họ, về những bất hạnh của cuộc sống, những hoài nghi ngay cả về những bàn tay cứu
rỗi của cả Phật lẫn Chúa như trong bài Này em có nhớ.
Sao tuổi trẻ quá buồn,
Như con mắt giận dữ
Sao tuổi trẻ quá buồn
Như bàn ghế không bầy.. .
Thân phận buồn bã của tuổi trẻ trong cuộc chiến trở
thành một ám ảnh không bao giờ rời Trịnh Công Sơn. Ông khóc cho họ, đau cho họ,
rồi lại quay về an ủi, vỗ về họ.
Nhưng còn khúc hát nào buồn hơn trong vỗ về an ủi,
bảo cho mọi người vui lên mà đau đớn như bài Hãy cứ vui như mọi ngày?
"Dù ta như con đường dài vắng người... Hãy cứ vui chơi cuộc đời..."
Tiếng réo gọi về với ca dao
Năm 1967, chiến tranh Việt Nam leo thang lên gần đến
điểm cao nhất, số người chết ở cả hai phía đều lên đến những con số làm
kinh động lương tri của nhân loại. Việt Nam là một quốc gia đang trên đường tan
rã. Tất cả mọi giá trị, mọi truyền thống đều bị đem ra thử thách, để rồi bị gạt
sang một bên. Thành thị, nông thôn bốc cháy trong lửa của chiến tranh khốc liệt.
Một thế hệ lớn lên không có được một ngày thanh bình, những nét tốt đẹp nhất của
dân tộc bị thay thế bằng thù hận, bom đạn, tuyên truyền xảo trá, chiêu bài giả
dối. Thế hệ đó như sắp đánh mất quá khứ và căn cước của họ sau bao nhiêu đổi
thay, đổ vỡ, quê hương chỉ còn là những đống gạch vụn nát không thể trở về. Một
nền văn minh khác đang đe dọa tiến vào, xóa đi những truyền thống cũ.
Thì đúng vào thời gian đó, bài Người con gái
Việt Nam da vàng được hát lên lần đầu tiên ở một hội quán nhỏ ở Sài Gòn của
sinh viên.
Người nghe, cái thế hệ thiệt thòi và tội nghiệp đó,
thế hệ không được biết hòa bình bỗng được chỉ cho thấy cái họ sắp đánh mất. Cuộc
sống tốt đẹp cũ trong một thời gian ngắn, đã trở thành quá xa lạ.
Trịnh Công Sơn có thể dùng một thể nhạc chậm hơn,
không cần phải đầy nét hối hả để viết bài Người con gái Việt Nam da vàng, nhưng
ông chọn một nhịp nhanh hơn để viết ca khúc này. Kết quả là bài ca mang nhiều hối
thúc giục giã hơn. Và có lẽ ít có một ca khúc nào tạo được nhiều xúc động như một
câu trong bài, câu: “... Em chưa hát ca dao một lần, em chỉ có con tim căm
hờn . . . ".
Nguyên một thế hệ xa lạ hẳn với ca dao vì chiến
tranh, bom đạn. Dòng nước ngọt với những lục bát vỗ về tình tứ, những an ủi, những
tỏ tình, những lẳng lơ tuyệt đẹp thế hệ này không biết. Nhiều tiếng nói cất lên
để báo động: dân tộc sắp đi tới một hành động phá sản tự sát văn hóa.
Trịnh Công Sơn, bằng ca khúc Người con gái Việt
Nam da vàng, đã lên tiếng nhắc thế hệ của ông, cái thế hệ đi trong đêm
vang ầm tiếng súng, mang trong con tim những căm hờn, yêu quê hương nay đã
không còn, rằng họ chưa được hát ca dao một lần, họ cũng quên mất xưa kia Việt
Nam không như Việt Nam mà họ đang phải sống từng ngày.
Tiếng réo gọi của bài hát thật là khủng khiếp. Ông
kéo người nghe lại gần, rồi chỉ cho thấy quê hương khốn khổ ấy, nơi những địa
danh, những tên thành phố chỉ còn là nhắc nhở về những cái chết, là nỗi bất hạnh,
là những khổ đau của cả một dân tộc.
Những hình ảnh quê hương đất nước thanh bình mà các
nhạc sĩ lớp trước vừa vẽ ra được như trong các ca khúc của Nguyễn Văn Khánh, Phạm
Đình Chương, Phạm Duy, Lam Phương, Văn Phụng. . . qua đến Trịnh Công
Sơn thì không còn nữa. Những hình ảnh của một thời thanh bình ấy được thay bằng
những cái chết không manh áo, ngoài đồng, trên sông, lòng đèo, ở Ba Gia, ở Chu
Prong, ở Huế, Sài Gòn, Hà Nội . . . . trong Tình ca của người mất
trí.
Trịnh Công Sơn viết về đất nước như một hành động
đòi lấy quyền để nói, để nhắc nhở cho thế hệ của ông, trước ông và sau ông về một
quê hương Việt Nam đang bốc cháy để báo động trận hỏa hoạn, để hét lên lời cầu
cứu . . . "Hố thẳm đã mở ra dưới chân dân tộc này. Lương tâm con
người đang trên đà bị phát mãi.” Ông viết ở đầu cuốn Kinh Việt Nam như thế.
Ca khúc tiếp theo, Lại gần với nhau là những
lời gọi thảm thiết, gọi anh, gọi chị, gọi em, gọi mọi người ngồi lại, ngồi gần
lại nhau.
Trịnh Công Sơn nói với một người bạn rằng ông không
thể sống ở ngoài Việt Nam, bất kể đó là một Việt Nam thế nào đi chăng nữa. Ông
ôm lấy quê hương tơi tả rách nát chờ một ngày đất nước đứng dậy, vực lại quá khứ
huy hoàng cũ. Cũng ở tập nhạc in năm 1968, ông viết: "Xin đừng bao giờ làm
kẻ phản bội một quá khứ hiển linh."
Trịnh Công Sơn không viết về quê hương thanh bình:
“Em không biết quê hương thanh bình, em chưa thấy xưa kia Việt Nam..” Ông
viết về quê hương của những ngày sắp tới, khi ba thành phố nắm tay nhau, ba dòng
sông góp thành hội trùng dương. Huế sài Gòn Hà Nội nói lên ước mơ của
những trái tim đau sắp kiệt lực, những chờ đợi cho những con đường nở hoa, cho
lá trầu, miếng cau cau cổ tích trùng phùng. Ước mong đó không thể là của một
người, mà của cả dân tộc bị đầy đọa khốn cùng. Trịnh Công Sơn đã nói lên tất cả
những điều đó cho những người anh em của ông, chúng ta.
Nỗi cô đơn giữa đám đông
Trịnh Công Sơn trong suốt nhiều năm, lúc nào cũng
có đông bạn bè ở chung quanh nhưng ông lại là người hết sức cô đơn ở giữa đám
đông ấy. Ông cứ loay hoay với những mệt mỏi của cuộc chiến tranh mãi không tìm
ra được lối thoát trong khi những tiếng động của cuộc chiến vẫn vọng về cắt
ngang những đời sống, những tương lai, những cuộc tình, những bạn bè, tuổi trẻ
của thế hệ cùng thời với ông. Càng nghĩ tới những chuyện đó, ông càng thấy rất
nhiều suy nghĩ của ông không được chia xẻ. Nhịp quay của đời sống cuốn theo, nuốt
trôi mọi thứ. Ông vừa thấy bất lực trước chung quanh nghiệt ngã, vừa cảm thấy
lúc nào ông cũng một mình. Chỉ những khi bóng tối che ngang, lúc có những tiếng
gọi thì thầm của trăm năm, như đoạn mở đầu của bài Còn có bao ngày, ông mới
tìm thấy được ở ban đêm, ở bóng tối chỗ ẩn náu, nơi trở về an toàn, tịch lặng
nhất với những đêm tối, về an ủi cho mình. ông nhắc rất nhiều đến những đê những
hoàng hôn, những đêm khuya trong nhạc.
Đó là những lúc để ông nhìn ngắm lại cuộc đời mình.
Đó cũng là lúc ông "đau đớn nhận ra rằng cuộc đời đã cho ta lắm ngày bất hạnh".
Ông viết như thế ở trang 275 của tuyển tập Những bài ca không năm tháng.
Những suy nghĩ về cuộc đời, về thân phận một người
đang đi qua một cuộc chiến thảm khốc với những tư tưởng không ở giữa dòng nước
càng ngày càng đẩy ông ra ngoài đám đông mặc dù ông vẫn đang ở giữa quê hương
đau khổ.
Ông không đồng ý và chấp nhận một đời sống tự hủy
đang diễn ra chung quanh.
Ông là người đi lạc trong một thành phố tưởng là
quen thân lắm. Nhưng thực ra, Trịnh Công Sơn không thuộc vào một nơi nào hết.
Ông cứ đứng ở bên ngoài, tự chọn cho mình thế đứng không nhập cuộc, hai vai hai
vầng nhật nguyệt, thư thái trên con đường chỉ một mình đi.
Trong Một cõi đi về.... "Trăm năm vô biên chưa từng hội ngộ. Chẳng biết nơi nao là chốn quê
nhà..." chỉ một câu, cũng đủ để bầy ra tất cả sự cô đơn khủng khiếp
ông phải đối mặt mỗi ngày trong đời sống rất nhiều biến động.
Tâm trạng cô đơn đứng ngoài một mình không tham dự
và nhập cuộc của Trịnh Công Sơn còn được thấy rõ hơn trong bài Tự tình
khúc. Ông thấy mình là đứa bé ngồi nhìn thế kỷ qua đi, vẫn không thấy được
nơi nương tựa, vẫn cứ chỉ là ngọn đèn nhỏ thắp lên cho riêng mình. Bài ballad
viết về sự cô đơn ấy đầy những hình ảnh xót xa hết sức bi thảm và cảm động.
Trên cái vực thẳm ngó xuống lòng sâu của cô đơn, ông ngồi một mình.
Căn bản, các sáng tác của Trịnh Công Sơn là nhạc
tình. Bài Tình xa là một ca khúc ông viết cùng thời gian với Tình
nhớ và Tình sầu để thành một trilogy trong giai đoạn sáng tác đầu
tiên của ông. Và trong Tình xa, sóng được cho dội vào đời buốt giá,
gió cát phù du bay về để nói về nỗi cô đơn của ông. Ông dùng hơn một tình khúc
để nói về sự cô đơn đó.
Sự cô đơn đã là một cơn đau suốt đời của Trịnh Công
Sơn. Nhưng chính ông đã lựa chọn để sống với nó.
Cũng như Socrates, ông thà sống khốn khổ còn hơn.
Những để lại
Nhiều so sánh đã được đưa ra để tạo ấn tượng về một
sự việc ít ai biết với một sự việc đã quen thuộc với nhiều người. Thí dụ khi
nói nhà văn X là một Solzhenitsyn của văn chương Pháp, họa sĩ Y là một Cezanne
của hội họa ý, nhà thơ Z là Đỗ Phủ của thi ca Đại Hàn... thì người nghe có ngay
một số khái niệm về các ông XYZ ngay. Nhưng cũng rất nhiều khi những so sánh
này lại là những bất công đáng kể với những tiêu chuẩn được đem ra dùng để so
sánh. Các ông Solzhenitsyn Cezanne, Đỗ Phủ lớn hơn các ông XYX chẳng hạn.
Và cũng có những trường hợp ngược lại.
Joan Baez, một nữ ca sĩ nhạc dân ca - folk singer –
của nhạc Mỹ, khi được giới thiệu với Trịnh Công Sơn, đã đưa ra một so sánh lập
tức: Trịnh Công Sơn là Bob Dylan của Việt Nam.
Việc Joan Baez làm cũng dễ hiểu: cô tạo được sự
nghiệp ca hát phần lớn là nhờ nhạc của Bob Dylan, những ca khúc chống chiến
tranh của người nhạc sĩ này. Nhưng cô chưa biết được đủ về Trịnh Công Sơn.
Nguyên số lượng ca khúc mà Trịnh Công Sơn viết đã nhiều hơn số ca khúc của Bob
Dylan. Mà đó mới chỉ nói về số lượng sáng tác.
Như vậy sự so sánh có bất công cho Trịnh Công Sơn.
Bob Dylan viết một số nhạc phản chiến - anti war song – và phản kháng - protest
songs - cùng một số đề tài khác. Trịnh Công Sơn viết nhạc phản chiến, phản
kháng, nhưng chủ yếu là tình ca, những đề tài khác là quê hương, thân phận con
người, trong đó, triết lý và tôn giáo là những nét nổi bật. Bài nổi tiếng nhất
của Bob Dylan là ca khúc Blowin' In The Wind, bài hát nói về chiến
tranh, bom đạn, chết chóc, ước mơ hòa bình được coi như bài hát đầu môi của các
phong trào phản chiến hồi thập niên 60. Nhưng Blowin' In The Wind vẫn
chưa tới được mức bi thảm như các ca khúc Chính chúng ta phải nói, Người
già em bé, Nước mắt cho quê hương hay Đại bác ru đêm.
Pete Seeger là một nhạc sĩ dân ca hàng đầu của Mỹ.
Ông cũng viết nhiều ca khúc chống chiến tranh, và một trong những bài nổi tiếng
của ông được hát rất nhiều trong những sinh hoạt chống chiến tranh của thập
niên 60 là bài Where Have All The Flowers Gone. Pete Seeger lớn tuổi
hơn Trịnh Công Sơn và Bob Dylan nên không được đem ra so sánh. Nhưng cùng những
ý tưởng và hình ảnh thì Where Have All The Flowers Gone chưa bi thảm
bằng Người con gái Việt Nam da vàng hay Tình ca người mất trí.
Pete Seeger cũng viết về nước Mỹ, This Land Is
Your Land, nhưng lòng yêu thương đất nước: Đất này là đất của anh, đất này
là đất của tôi, từ rừng hồng mộc miền Tây đến biển đầy bọt trắng miền Đông, đất
này được tạo ra cho chúng ta. . . không thể cảm động như Huế Sài Gòn Hà Nội
của Trịnh Công Sơn. Huế sài Gòn Hà Nội có tiếng hối thúc, réo gọi, hừng
hực . . .
Trịnh Công Sơn viết tình ca nhiều hơn Burt
Bucharach mặc dù số lượng mà tác giả của I’ll Never Fall In love Again, của Raindrop
Keep Falling On My Head, Alfie, Anyone Who Had A Heart cũng đã nhiều. Nhiều
nhưng chưa thể vượt quá con số 127 bài mà Trịnh Công Sơn chọn để in trong tuyển
tập Những ca khúc không năm tháng sau khi đã bỏ ra ngoài một số lượng
rất lớn những ca khúc viết về các đề tài khác của ông.
Một đóa hoa quỳnh không bao nhiêu người biết, qua
những khuông nhạc của Trịnh Công Sơn, nó biến thành một lời tỏ tình. Những bước
chân trở về của người phụ nữ không may mắn, làm công việc rất bất hạnh của xã hội
đã thành một tình khúc bi thảm, bài Nghe những tàn phai.
Những chi tiết vừa kể cho thấy đem những tên tuổi
khác để so sánh với Trịnh Công Sơn là một việc vừa sai lầm vừa bất công.
Có một chi tiết nhỏ về những ca khúc của Trịnh Công
Sơn, đó là với một số lượng sáng tác lớn như thế và được phổ biến rộng rãi như
thế, chỉ có một hay hai bài, có phần chắc là không quá hai bài, bị đem ra đặt
cho những lời ca khác nhảm nhí.
Đó có phải là một thái độ yêu mến trong khi vẫn còn
dành cho tác giả rất nhiều tôn trọng của những người yêu nhạc, sống cùng thời với
ông không?
Chúng tôi nghĩ là có.
Như một lời chia tay
Ở tuổi hai mươi mấy, ít người viết những lời ca
trong bài Cát bụi. Và cũng không nhiều người viết di chúc hay những
chữ khắc trên mộ bia cho mình ở cái tuổi ấy. Ít người nghĩ đến cái chết, đến sự
trở về với những hạt cát, những hạt bụi của nguyên thủy.
Trịnh Công Sơn đã làm công việc ấy một cách quá sớm.
Ông viết Cát bụi năm ông chưa tới 30 tuổi, như thể ông nhìn thấy sự
ra đi ngay trong sự sống qua những hạt bụi. . . .
Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi, để một mai tôi về
làm cát bụi... ôi cát bụi phận này, vết mực nào xóa bỏ không hay...
Rồi vài chục năm sau, ông lại viết: "...
trong xuân thì thấy bóng trăm năm . . ." ông luôn luôn nhìn thấy cái
chết ở sự sống, trong hạnh phúc có bất hạnh, trong hôm nay có ngày mai, "dưới
vòng nôi mọc từng nấm mộ, dưới chân ngày cỏ xót xa đưa ."
Có lẽ những năm chiến tranh, sự ra đi quá sớm của
người cha, những bất trắc của đời sống làm ông luôn luôn bị nhắc nhở và ám ảnh
về cái chết.
Cuối năm 1992, trong những dòng viết ở cuối tập nhạc Những
bài ca không năm tháng Trịnh Công Sơn viết: "mỗi ngày sống tới, mỗi
ngày tôi thấy đời sống nhỏ nhắn thêm... Đời sống thật sự không tiềm ẩn điều gì
mới lạ. Có lẽ vì thế, sự quen mặt mỗi lúc mỗi gần gũi, thắm thiết hơn, nên tôi
càng thấy yêu mến cuộc đời."
Đó lại là những điều viết xuống của một người nói rất
nhiều đến cái chết. Thực sự, ông là người rất yêu đời sống như lời ca của bài Hãy
cứ vui như mọi ngày. Thí dụ:
...Hãy cứ vui như mọi ngày
Bên trời còn nắng
Lá trời còn xanh
Phố còn người đông...
Rồi ông lại viết "Hãy yêu ngày tới dù quá
mệt kiếp người" trong Để gió cuốn đi, một bài hát đọc thấy tấm
lòng của ông với đời sống bằng nhịp 3/4 thư thả mà thiết tha.
Có lúc ông quay ra đùa cợt với cuộc đời, mà ông coi
chỉ là nơi ông ở trọ. Mượn chút hơi dân ca, ông nhờ không khí lục bát trong ca
dao để viết bài ở trọ bằng nhịp 2/4 vừa lẳng lơ vừa lý lắc những bước
nhún nhẩy. Coi mọi thứ tình yêu, cuộc sống chỉ là vô thường, lúc có lúc không.
Toàn bài nghe như những công án Thiền. Bài ca lời lẽ giản dị, có lúc tươi tắn lạ
thường lại là những tư tưởng rất Phật giáo, được kéo xuống gần gũi hơn nhờ những
í a của dân ca miền Bắc.
Trịnh Công Sơn viết nhạc cho người khác hát. Ông ít
khi hát nhạc của mình trước đám đông mặc dù ông có giọng tốt.
Thêm nữa, là người viết những ca khúc ấy, ông hát
chắc phải rất chính xác. Bài Như một lời chia tay đã được thu
thanh bởi ít nhất là hai giọng hát mà ông rất tin cậy. Nhưng ca khúc này, hát
lên bằng giọng của ông lại mang một nét khác nữa. Ông hát mà như gửi lại những
điều đã đi qua đời ông cho người nghe, như đóng lại trang cuối cùng của cuốn
sách. Lời ca của bài Như một lời chia tay đọc lên, không cần phải
nghe ông hát cũng đủ tạo xúc động. Ông xếp lại đời sống, ông cám ơn cuộc đời,
ông nhìn lại những cuộc tình, ông nhớ lại bông hoa mong manh cuối trời, coi đó
như một lời giã biệt. Ý của lời ca thì bi đát, nhưng nghe qua giọng của ông,
người nghe thấy được sự bình thản của ông khi từ biệt cuộc sống.
Trịnh Công Sơn đã về với cát bụi, giã từ nơi ông ở
trọ. Ông biết trước chuyến đi về nơi vĩnh hằng. Nhưng ông cũng sẽ còn ở lại với
chúng ta mãi mãi. Chúng ta mãi mãi nhớ ông, biết ơn ông, biết ơn ông đã nói hộ
chúng ta những điều khó nói nhất, biết ơn ông đã vỗ về an ủi cuộc đời chúng ta
trong những lúc hân hoan hạnh phúc cũng như những lúc sầu thảm bất hạnh.
Ba trăm năm nữa sẽ còn người hát và nghe những gì
ông để lại.
Đó là món quà âm nhạc. Một món quà mà thỉnh thoảng
lắm, có khi là vài trăm năm Việt Nam mới được món quà quý giá như thế.
Cám ơn Trịnh Công Sơn.
Mồng 1 tháng Tư
12 tháng Tư - năm 2001.
12 tháng Tư - năm 2001.
Sưu tầm và biên soạn:
Nguyễn Trọng Tạo
Nguyễn Thụy Kha - Đoàn Tử Hiến
Nguyễn Thụy Kha - Đoàn Tử Hiến
hãng eva
giá vé máy bay từ sài gòn đi mỹ
korean air ho chi minh
giá vé máy bay đi mỹ khứ hồi
giá vé máy bay đi canada
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Du Lich Tu Tuc
Tri Thuc Du Lich