Nguyễn Thụy Kha
Một cõi âm tanh
Một cõi âm tanh
Tôi rất quý một câu thơ của Nguyễn Bắc Sơn trong tập Chiến
tranh Việt Nam và tôi: “Men nhạc Trịnh Công Sơn chảy tràn đêm khuya". Cứ
ngược cái thời mấy chục năm đêm... dài miền Nam vừa qua, mới thấy sức sống
"chảy tràn" của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn trong suốt những năm tháng ấy.
Nửa cuối thập niên 1950 - 1960, - giữa lúc dòng nhạc
Đoàn Chuẩn đang dần ngưng với Lá đổ muôn chiều, Chiếc lá cuối cùng và Gửi
người em gái miền Nam thì dòng nhạc Cung Tiến bắt đầu giao thoa vào với Hương
xưa, Thu vàng, Hoài cảm. Tiếp tục giao thoa với dòng âm nhạc Cung Tiến,
năm 1958, 19 tuổi đời, Trịnh Công Sơn đã bắt đầu dòng nhạc của mình bằng Ướt
mi - một ca khúc mang đậm nỗi buồn Huế. Và sau đó là miên man cho tới nay
một cõi âm thanh Trịnh Công Sơn.
Giai đoạn đầu, các ca khúc Trịnh Công Sơn căn bản
là tình khúc. Bằng nỗi cô đơn trong trẻo, đầy linh cảm xót xa, mất mát của tuổi
đôi mươi, những tình khúc Trịnh Công Sơn khi ấy là lời thốt lên của lớp thanh
niên miền Nam sống triền miên trong âu lo, trong phấp phỏng thời cuộc. Đó là những Thương
một người, Chiều một mình qua phố, Biển nhớ, Hạ trắng v.v... ở Cuối
cùng cho một tình yêu (thơ
Trịnh Cung), tiếng nức nở trào lên một đổ vỡ:
Một lần chia tay,
Một đời bão nổi,
Giã từ giã từ
Chiều mưa giông tới...
Làm sao em biết
Mưa ngoài song bay
Lời ca em nhỏ
Nỗi lòng anh đây. . .
Trong giai đoạn này, ca khúc Cho một người nằm xuống,
đã báo hiệu cho một cái nhìn về chiến tranh. Thân phận những người lính ngã xuống
chỉ là một mất mát đời đời:
Anh nằm xuống sau một lần vào viễn du
Đứa con xưa đã tìm về nhà,
Đất hoang vu khép lại hẹn hò...
Báo hiệu này đã dẫn tới những ca khúc phản chiến ở
giai đoạn tiếp theo dòng nhạc Trịnh Công Sơn. Nhìn chiến tranh bằng cặp mắt
trung thực ở tầm nhân loại, Trịnh Công Sơn đã kêu lên bức bối giữa cuộc đời
"nồi da nấu thịt" nơi anh đang sống và chứng kiến:
Một ngày mùa đông hai bên là rừng
Một chiếc xe tang trái mìn nổ chậm
Người chết hai lần thịt da nát tan (Ngụ ngôn mùa
đông)
Có lẽ vì cách nhìn như thế nên sau 30-4-1975, Trịnh
Công Sơn là nhạc sĩ miền Nam duy nhất lại có thêm nửa khối thính giả ở miền Bắc.
Anh đã tạo ra thính giả bằng chất nhạc riêng của mình.
Cũng cần nói thêm rằng sự nghiệp âm nhạc của Trịnh
Công Sơn trong thời kỳ này được chắp cánh nhờ giọng hát Khánh Ly. Cuộc trùng
phùng này đã để lại một dấu ấn không phai mờ trong lịch sử âm nhạc Việt Nam.
Trịnh Công Sơn bước vào địa hạt làm âm nhạc cho điện
ảnh cũng từ sau giải phóng miền Nam. Mười lăm năm trôi qua, anh đã có mặt ở gần
hai chục phim truyện cũng như tài liệu. Từ trong những cuốn phim, ca khúc Trịnh
Công Sơn lại đĩnh đạc bước vào đời, sống một cuộc sống riêng như những ca khúc
khác. Nói đến phim Tội lỗi cuối cùng không ai có thể quên được "Hiền
cá sấu”. Không quên "Hiền cá sấu” tức là nhớ Phương Thanh.
Nhưng làm cho khán giả nhớ đến nhân vật này, bên cạnh diễn xuất xuất sắc của
Phương Thanh, còn có sự trợ giúp đắc lực của ca khúc Đời gọi em biết bao lần
được viết ra cách đây một thập niên. Mỗi khi cất giọng hát lẩm nhẩm: "Đi
về đâu hỡi em. . . " tôi lại thấy hiện lên trước mặt một "Hiền
cá sấu” với số phận đầy bi kịch.
Cũng nhờ viết nhạc phim mà Trịnh Công Sơn có được một
ca khúc thiếu nhi nổi tiếng: Em là bông hồng nhỏ:
Em sẽ là mùa xuân của mẹ
Em sẽ là màu nắng của cha
Em đến trường học bao điều lạ
Môi em cười là những nụ hoa...
Có một đêm hội Gala 87 ở thành phố Hồ Chí Minh, khi
đến tiết mục của mình, Trịnh Công Sơn đã “xỉn xỉn", anh hát không được lôi
cuốn. Khán giả bắt đầu ồn ào. Đột nhiên, Sơn chuyển sang: “Em sẽ là mùa
xuân...”, thế là cả cầu trường Phan Đình Phùng lại dội lên tiếng vỗ tay rầm
rập.
Lạ hơn nữa là Trịnh Công Sơn viết nhạc cho cả phim
tài liệu về tập võ thuật. Ca khúc Bốn mùa thay lá nhờ thế mà ra đời.
Ngày kỷ niệm 60 năm sinh nhật nhạc sĩ Văn Cao, khi nghe anh giới thiệu xuất xứ
bài hát, ai cũng ở trạng thái đón đợi một cái gì cứng rắn, gập ghềnh. Nhưng khi
Sơn cất giọng lên: “Bốn mùa thay lá, bốn mùa thay hoa. . .” thì
trôi đến với người nghe lại là một âm điệu dịu dàng, mượt mà, tình cảm.
Nếu ở giai đoạn trước là sự song hành của Trịnh
Công Sơn với Khánh Ly, thì ở địa hạt âm nhạc cho điện ảnh lại là song hành của
Trịnh Công Sơn với Phạm Trọng Cầu. Hai người bạn, hai nhạc sĩ nhiều đồng cảm với
nhau luôn cùng có mặt trong từng bộ phim. Tình bạn giữa hai anh tạo nên âm hưởng
của mối giao cảm, luồn trong từng phút nhạc.
Gần đây nhất, hồi cuối tháng 3 năm 1990, nhạc sĩ có
một cõi âm thanh của hơn ba mươi năm sáng tạo, của gần 500 ca khúc thoắt một
cái đã trở thành diễn viên của phim truyền hình do hãng phát thanh truyền hình
BBC thực hiện.
Cất đi những phóng túng trong đời sống cũng như
trong âm nhạc, Trịnh Công Sơn đã tự khép mình vào kỷ luật của một diễn viên.
Anh phải vội vã bay từ thành phố Hồ Chí Minh ra Hà Nội và chỉ ở lại có 16 tiếng
để đứng trước ống kính trong một cảnh gặp gỡ nhạc sĩ Văn Cao tại nhà riêng ở số
108 phố Yết Kiêu. Ngay sau đó, anh bay vào Huế để thực hiện một đoạn phim khác
trên quê hương xanh ngắt những miệt vườn lá trúc che ngang mặt chữ điền. Rồi lại
quay về thành phố Hồ Chí Minh.
Không biết nhạc sĩ có tạo ra được ngôn ngữ điện ảnh
trong diễn xuất độc đáo như ngôn ngữ âm nhạc của mình không. Chắc những người vốn
mến mộ Trịnh Công Sơn còn phải chờ đợi khi cuốn phim ra đời. Nhưng chắc không
ai mong anh lại bỏ âm nhạc để trở thành diễn viên. Vẫn cứ mong cõi âm thanh Trịnh
Công Sơn càng ngày càng thăm thẳm.
Trường Kỳ
Trò Chuyện
Với Khánh Ly Về Trịnh Công Sơn
Trò Chuyện
Với Khánh Ly Về Trịnh Công Sơn
Ngoài anh em và người thân trong gia đình, có lẽ
Khánh Ly là người gắn bó với Trịnh Công Sơn nhất. Chị đã coi Trịnh Công Sơn như
một nửa đời sống của mình sau gần 40 năm gắn liền với những tác phẩm của người
nghệ sĩ tài hoa.
Sang Montreal trong dịp gia đình nhạc sĩ Trịnh Công
Sơn làm lễ cầu siêu cho người nhạc sĩ quá cố vào ngày 8 tháng Tư năm 2001,
Khánh Ly đã dành cho người viết một cuộc nói chuyện đặc biệt, trong đó chị đã tỏ
bày tâm sự của mình bằng tất cả xúc động sau cái chết của Trịnh Công
Sơn... Cuộc nói chuyện được diễn ra trên lầu nhà
hàng La Famille Vietnameienne, góc đường St André và Duluth, do vợ chồng em gái
nhạc sĩ Trịnh Công Sơn - bà Trịnh Vĩnh Tâm và ông Hoàng Tá Thích - khai thác từ
nhiều năm qua, vào lúc 7 giờ 30 tối ngày 8 tháng Tư năm 2001. Phòng khách trên
lầu nơi gia đình em gái Trịnh Công Sơn cư ngụ đã từng diễn ra những buổi họp mặt
thân mật và ấm cúng giữa gia đình và bạn bè của Trịnh Công Sơn trong dịp ông
sang Montreal thăm các em và cháu vào năm 1992. Một mình với Khánh Ly - nơi có
trưng bày một tác phẩm hội họa của Trịnh Công Sơn - trong một bầu không khí ảm
đạm, người viết đã được nghe những tâm sự của chị liên quan đến Trịnh Công Sơn,
vốn là người mà chị coi là "gắn bó như một định mệnh". Dưới đây là những
đoạn trích nguyên văn từ những câu trả lời của Khánh Ly trong buổi nói chuyện đặc
biệt này, xen lẫn với những tiếng sụt sùi, nghẹn ngào trên một khuôn mặt đượm
nét u buồn...
Trường Kỳ (TK) : Chị là một trong số những người
ở hải ngoại biết được tin nhạc sĩ Trịnh Công Sơn qua đời sớm nhất. Cảm giác của
chị khi nghe được tin ấy ra sao?
Khánh Ly (KL) : Tôi không biết là trong trường
hợp những người khác, cảm giác của họ khi nhận được tin một người thân vừa đi
xa như thế nào. Nhưng mà lúc đó thì tôi hoàn toàn như một người bị đông đá! Đầu
óc tôi hoàn toàn trống rỗng và tôi ngồi sững người trên ghế cho đến khi tôi
nghe tiếng chồng tôi khóc! Lúc đó tôi mới tỉnh lại, tôi nói với nhà tôi là
"Anh Sơn đi rồi”.
TK: Sau đó?
KL: Sau đó, tôi được nói chuyện với anh Thích,
em rể của anh Sơn... ở thành phố này, tôi muốn xác nhận tin đó là đúng hay chỉ
là tin đồn. Tôi được xác nhận là điều đó đúng và chính anh Thích lúc đó cũng gần
như là rơi vào một tình trạng như tôi. Có lẽ tôi là người đầu tiên liên lạc với
anh Thích.
TK: Tôi được bạn bè bên Califonia cho biết chị
đã phải vào bệnh viện cấp cứu sau khi nghe tin này...
KL: Tôi có ngã từ trên ghế xuống... Tôi cảm thấy
tôi thở không được nữa. Đó là ngày hôm sau, sau khi tôi liên lạc về Sài Gòn.
Nhà tôi có đưa tôi đi cấp cứu và tôi nằm đến chiều thì tôi đòi về. Vì tôi muốn ở
nhà để chờ tin Sài Gòn. Thực sự mà nói, cho tới bây giờ là một tuần lễ đã qua
tôi vẫn thấy dường như điều đó không phải là sự thật, tôi không nghĩ rằng đó là
sự thật.
TK. Nhưng đúng là anh Sơn đã ra đi. . .
KL: Có lẽ là tôi phải mất một thời gian nữa,
lâu lắm tôi mới có thể tin rằng, sự ra đi của anh Sơn là chuyện có thật. Những
nỗi vui đến với tôi nhanh và tôi mau quên. Nhưng cái mất mát, cái đau buồn đến
với tôi, thường thấm nhập vào tôi rất là chậm và càng ngày tôi càng nhận thức
được nỗi đau, nỗi khổ của mình là sự thật. Nó không phải là giấc mơ nữa! Còn đến
giờ phút này tôi vẫn như là người sống ở trong một cơn mơ, giống như là sự
lặp lại của một ngày vào tháng Tư năm 1975. Đó là ngày 29 tháng Tư năm 1975 khi
tôi rời Sài Gòn. Phải đến 15 năm sau khi rời xa Việt Nam tôi mới nhận thức được,
tôi mới chịu nhìn nhận rằng là tôi đã thực sự ở xa Việt Nam.
TK. Trường hợp của anh Sơn đối với chị cũng
như vậy?
KL: Tôi nghĩ là ông Trịnh Công Sơn đi xa, đi
đâu đó một vài giờ đồng hồ, một vài ngày như ông thường đi ra quán nghệ sĩ mỗi
buổi sáng để gặp các bạn bè của ông. Dẫu rằng ông chỉ ra đó, ông ngồi uống một
ly trà rồi ông đi bộ về. Bây giờ tôi vẫn còn cái cảm giác đó là một lát nữa đây
có thể là ông sẽ trở về. Tại vì ở thành phố này là nơi mà năm 1992 tôi được gặp
ông. Cũng trong căn phòng này, chúng tôi đã quây quần với các em của ông, các
cháu của ông, các bạn của ông. Chúng tôi đã ngồi đây rất hạnh phúc trong một
khoảng thời gian mấy tháng trời. Và cũng có lúc ông đi ra ngoài quán cà phê ngồi
để nhìn những người khách lạ đi qua đi lại. Bây giờ tôi cũng nghĩ rằng không có
mặt ông ở đây chắc là ông đang còn ở một quán cà phê nào đó và ông sẽ trở về kịp
bữa cơm tối nay.
TK. Chị đã gặp anh Sơn lần nào sau năm 1975?
KL: Lần đầu tiên tôi gặp ông Trịnh Công Sơn
sau năm 1975 là năm 1988 tại Paris. Rồi đến năm 1992 thì tại Canada, tại đây. Đến
năm 1997 tôi về với phái đoàn Nhật Bản và năm ngoái, tháng Năm, tôi cũng về với
phái đoàn Nhật để hát cho một cuộn phim nói về một người ký giả Nhật đã chết ở
Việt Nam. Và khi tìm được xác của anh thì trong túi của anh vẫn còn một cuốn
cassette nhạc của ông Trịnh
Công Sơn do tôi hát. Trong suốt thời gian đó, sau
những giờ làm việc với phái đoàn của Nhật, của hãng phim Nhật tôi dành hết thì
giờ để được nói chuyện với ông Trịnh Công Sơn, được ngồi với ông và một số bạn
bè như Lan Ngọc, như Hồng Vân, như anh Nguyễn ánh 9, anh Nguyễn Ngọc Thạch,
thoáng gặp Cẩm Vân một lần. Và Hồng Vân, Lan Ngọc là những người bạn, những người
em cũ; anh Nguyễn ánh 9 thì lại là người quá thân, một nhạc sĩ mà tôi rất là
quý mến. Đồng thời tôi cũng được gặp Bảo Phúc. Bảo Phúc tập nhạc cho tôi tại
nhà của anh Sơn. Và anh Sơn đã chỉ cho tôi hát bài “Đồng dao 2000" và bài
“Tiến thoái lưỡng nan".
TK. Như vậy vào tháng Năm năm ngoái là lần cuối
chị gặp anh Sơn?
KL: Dạ! Đó là lần cuối. Thật ra sau Tết tôi
nghe tin anh Sơn nhập viện, tôi có dự định về thăm anh. Nhưng rồi chính tôi
cũng lại không được khỏe cho nên tôi hoãn lại. Và đến khi tôi nghe anh Thích và
chị Tâm từ Việt Nam về cho biết là tình hình sức khỏe anh Sơn đã khá tôi cũng mừng.
Tôi cũng mừng và nghĩ rằng có thể là tôi thu xếp để từ giờ đến cuối năm về thăm
anh. Nhưng không ngờ là chỉ có mấy ngày sau thì tôi được tin anh đã nhập viện
và bị "coma".
TK: Được biết ở Việt Nam có tin cho là chị sẽ
về dự lễ an táng anh Sơn?
KL: Tôi biết, có nhiều người e-mail cho tôi và
ở bên úc cũng liên lạc cho tôi biết về tin đồn này. Nhưng tôi nghĩ là tôi về
thì cũng chẳng còn được nhìn thấy anh. Mà nhiều khi sự có mặt của tôi cũng trở
thành thừa thãi và cũng. . . chẳng có ích lợi gì cho ai? Cho nên ngày
hôm nay tôi có mặt ở đây cùng với những người cháu của ông Trịnh Công Sơn và
ông Hoàng Tá Thích là em rể của ông Trịnh Công Sơn để làm lễ cầu siêu cho ông
Sơn thì cũng là một sự gặp gỡ, chia xẻ trong gia đình. Tôi nghĩ là về Việt Nam
hay qua đây thì cũng giống nhau thôi!
TK. Nhưng thật sự trong thâm tâm chị có muốn về
Việt Nam ngay sau khi nghe tin anh Sơn qua đời?
KL: Tôi rất muốn! Tôi rất muốn! Nhưng tôi suy
nghĩ kỹ thì tôi thấy là tôi không nên về!
TK: Tại sao chị cho là chị không nên về, nghĩ
sao khi nói câu đó?
KL: Bởi vì như tôi đã trình bày là tôi không
được thấy mặt ông nữa... và... tôi cũng chẳng muốn cho ai thấy mặt
tôi ở Việt Nam trong những giờ phút đó?
TK. Khi nói chuyện với chị sáng nay tại lễ cầu
siêu cho anh Sơn, tôi có nghe chị nói giữa chị và anh Sơn có một sự liên hệ lạ
lùng. Sự liên hệ chị cho là lạ lùng đó như thế nào?
KL: À cái sự liên hệ giữa ông Trịnh Công Sơn với
tôi đã kéo dài một thời gian quá lâu. Một sự gắn bó định mệnh. Ông Trịnh Công
Sơn có thể có những giây phút không nhớ đến tôi. Nhưng riêng tôi thì lúc nào
tôi cũng nhớ đến ông. Bởi vì như tôi đã nói, ông là một nửa đời sống của tôi.
Và ngay bây giờ khi tôi nói những lời này, thực sự tôi muốn thưa cùng tất cả là
tôi không biết tôi còn hát nổi nữa hay không. Có thể tôi sẽ từ giã... bây giờ
điều tôi mơ ước nhất là nếu tôi có thể tan biến đi ra khỏi cuộc đời này hoặc là
tôi sẽ không thức dậy sau một đêm, sau một giấc ngủ thì có lẽ điều đó tốt cho
tôi hơn!
TK: Như chị đã nói, Trịnh Công Sơn là nửa đời
sống của chị, thì đó là một sự liên hệ về mặt tình cảm hay văn nghệ thuần túy
hoặc là một sự liên hệ nào khác?
KL: Ông Trịnh Công Sơn và tôi có một mối liên
hệ cao hơn, đẹp đẽ hơn, thánh thiện hơn là những tình cảm đời thường. Và vì tôi
được gần ông Trịnh Công Sơn nhiều và tôi được ông cắt nghĩa rõ ràng những tác
phẩm, nhạc phẩm của ông. Cho nên cảm nhận của tôi là mối liên hệ tình cảm đó phải
vượt lên trên tất cả những tình cảm của đời thường. Bởi vì ông Trịnh Công Sơn,
điều vĩ đại nhất, vĩ đại hơn cả những tác phẩm của ông là nhân cách, nhân phẩm
của ông. Ông là người nhạc sĩ duy nhất đã sống trong đời sống này có một tấm
lòng không có thù hận. Và phải hiểu những tác phẩm của ông thì mới có thể nói
và yêu thương ông, nếu không hiểu những tác phẩm của ông thì tất cả những điều
nói về ông có thể là sai, là không đúng sự thật! Trong lúc này thì thật ra tôi
cũng xin phép là tôi không dám nói nhiều, nhưng tôi hy vọng trong cuốn sách tôi
sẽ in trước khi tôi từ giã. Tôi sẽ xin được kể lại rất là thật thà, tất cả mọi
chuyện từ khởi đầu cho đến kết thúc, quan hệ tình cảm giữa ông Trịnh Công Sơn
và tôi. Còn bây giờ tôi xin phép cho tôi được giữ riêng một số những kỷ niệm rất
riêng tư giữa chúng tôi.
TK: Khi nào sách sẽ phát hành và tựa đề là gì?
KL: Tôi dự định in cuốn sách đó trong năm 2000
vừa qua, nhưng tôi cũng chưa đủ phương tiện và tôi cũng cảm thấy có nhiều điều
còn thiếu sót cho nên có lẽ là năm tới tôi hy vọng sẽ hoàn tất được cuốn sách
đó. Và tôi đã lựa cho cuốn sách đó một cái tựa cách đây trên 10 năm là: "Đằng
Sau Những Nụ Cười”.
TK: Chị vừa nhắc đến câu "trước khi tôi từ
giã". Chị muốn nói lên điều gì qua câu đó?
KL: Thưa anh, thực sự ngay bây giờ khi tôi ngồi
đây với anh, tôi không nghĩ là tôi có cất nổi tiếng hát nữa hay không. Và tôi
cũng không biết là tôi còn sống tới ngày nào, tôi cũng không biết là tôi sẽ đi
lúc nào nữa! Thành ra tất cả những cái gì mà tôi đã viết nếu còn dang dở thì
cũng đành chịu thôi. Và nhà tôi sẽ là người cho in ấn cuốn sách đó với những điều
còn dang dở. Cứ coi giống như là một câu chuyện nửa đường đứt gánh vậy thôi.
Cũng như một đời người vậy! Tôi không thể nói chắc được bất cứ chuyện gì trong
giây phút này.
TK. Là người hiểu rõ những tác phẩm của Trịnh
Công Sơn, như chị nói, và chị cũng là người đã trình bày rất nhiều nhạc phẩm của
anh Sơn. Đối với chị, chị yêu thích những nhạc phẩm nào nhất?
KL: Có nhiều người yêu những bản tình ca của
ông Trịnh Công Sơn . Riêng tôi thì tôi thấy. . . tôi lại
yêu những Ca Khúc Da Vàng hơn bởi vì nó lớn hơn tình ca. Tình ca ai viết cũng
được, mỗi người viết theo cái cảm xúc của trái tim mình. Và trong những bản
tình ca của ông Trịnh Công Sơn, ai cũng nhìn thấy mình ở trong đó, nhất là tôi?
Luôn luôn tôi nhìn thấy tôi ở trong tất cả những bản tình ca của ông. Riêng Ca
Khúc Da Vàng, tôi còn nhìn thấy cả một quê hương, cả những mơ ước, cả những đớn
đau, thân phận của một dân tộc, mơ ước của cả một dân tộc về một nền hòa bình,
về một sự thống nhất, một đất nước sau một cuộc nội chiến quá đau thương. Và đó
là cái điều mà cả tôi, và tôi nghĩ rằng rất nhiều người, đều mơ ước được sống,
được ở lại Việt Nam trong sự thống nhất một đất nước Việt Nam với tự do, với hạnh
phúc thực sự.
TK. Anh Sơn đã sáng tác những nhạc phẩm nào
dành riêng cho chị?
KL: Tôi nghĩ là cũng có... tôi nghĩ là
cũng có! Anh Sơn cũng có nói với tôi. . . nói với tôi ở đây cùng với
tất cả các anh em ở đây, đặc biệt nhất là bài "Rơi Lệ Ru Người" anh
viết sau năm 1975 khi anh nghĩ là tôi đã chết trên biển Đông, và anh đã viết
bài đó cho tôi. Rồi mãi đến năm 1990, 1991 anh mới tìm lại được bài hát đó và
anh đã tập cho tôi khi anh qua đây năm 1992. Còn những bài khác thì bằng cách
này và cách khác, chúng tôi có những cách nói với nhau mà không ai biết được,
đó là cái cách nói mà không thành tiếng và chỉ nói bằng mắt mà thôi.
TK. Còn riêng về con người của Trịnh Công Sơn,
chị có những nhận xét gì?
KL: Ông Trịnh Công Sơn là người nhạc sĩ duy nhất
chỉ sống cho người mà không sống cho mình. Cái ông quan tâm đến là gia đình, là
bạn bè, là anh em. Và trên hết là dân tộc, là quê hương. Có nghĩa ông là người
Việt Nam và ông yêu quê hương, yêu Tổ quốc. Cho nên tôi đã nói ông ở lại Việt
Nam là điều đúng. Và ông đã ở lại Việt Nam, ông đã sống những tháng ngày ở Việt
Nam sau năm 1975 bằng cả một tấm lòng, một tấm lòng, một trái tim không nặng nề
cho dẫu là có những đau đớn ông phải trải qua, có những nỗi oan ông phải gánh
chịu. Và chính những điều đó khiến hình ảnh của ông lại càng trở nên vĩ đại
hơn, lớn lao hơn trong trái tim của tôi, trong sự suy nghĩ của tôi.
TK. Có thể đây là một chi tiết nhiều người đã
biết, tuy nhiên trong dịp này xin chị nhắc lại về trường hợp chị gặp anh Sơn?
KL: Cũng là tình cờ thôi! Tôi là người may mắn
được gặp ông Trịnh Công Sơn năm 1964 và đến năm 1967 thì tôi bắt đầu được hát
cùng với ông. Ông là hình, tôi là bóng. Và tôi đã được sống cùng với tên tuổi của
ông từ năm 1967, nếu phải kể thì phải từ năm 1964 cho tới bây giờ.
TK: Và từ đó, nhờ anh Sơn chị mới có được
thành công, mới tạo được tên tuổi?
KL: Từ ông Sơn cũng như tôi đã thưa nhiều lần
là nhờ ông, mọi người mới biết đến tôi và tôi mới được sự thương yêu của mọi
người, tôi mới thành nhân và mới thành danh. Do đó chẳng bao giờ tôi quên được
lời ông dặn tôi là phải ráng sống với một tấm lòng, sống với mọi người bằng sự
tử tế và hãy làm những điều gì tốt đẹp nhất cho Việt Nam, có nghĩa là cho quê
hương của chúng tôi.
TK: Và chị đã luôn thực hành lời dặn này?
KL: Dĩ nhiên là tôi làm, tôi cố gắng trong khả
năng. Dĩ nhiên là trong đời sống của một người tôi khó có thể nói rằng mình là
một người hoàn hảo, không bao giờ làm một điều gì lầm lỗi. Nhưng kể từ ngày ra
đời cho đến bây giờ, rồi từ lúc được biết ông Trịnh Công Sơn chưa bao giờ tôi
phạm phải một cái lầm lỗi nào. Tôi chưa bao giờ làm cho ai phải đau đớn mà tôi
cũng chưa bao giờ phụ lòng tin của ông
Trịnh Công Sơn là sống với mọi người bằng sự tử tế,
bằng một tấm lòng mà ông Sơn đã dạy tôi. Từ những ngày tôi còn trẻ cho tới bây
giờ, tôi nghĩ là tôi không làm cho ông Trịnh Công Sơn thất vọng, cũng như là
ông Trịnh Công Sơn không hề phụ lại lòng yêu thương của những người đã thương
yêu ông Sơn trong suốt mấy chục năm qua.
TK: Mọi người cho là nếu không có Trịnh Công
Sơn sẽ không có Khánh Ly. Chị có cho nhận xét này là đúng?
KL: Tôi luôn luôn nói rằng nếu không có ông Trịnh
Công Sơn thì sẽ không có tôi. Có thể tôi vẫn chỉ là một cái bóng mờ nào đó hoặc
là tôi sẽ có một cái đường đi nó chật hẹp hơn. Do đó.., tôi luôn luôn nghĩ rằng
tôi may mắn đã có được sự giúp đỡ, sự an ủi, dạy bảo, nâng đỡ của ông Trịnh
Công Sơn. Và tôi không bao giờ quên cái ơn nghĩa này.
TK. Qua sự thành công của chị, có thể nói chị
là một người may mắn?
KL: Tôi một người có rất nhiều may mắn, nhưng
đồng thời cũng là một người có rất nhiều bất hạnh. Được may mắn nhiều và cũng
đón nhận được nhiều bất hạnh. Tôi chịu nhiều cái tang trong đời sống, nhiều cái
tang mà không bao giờ tôi quên. Và mỗi người đi thì để lại trong tim tôi một vết
thương. Bây giờ trong trái tim của tôi chỉ còn một chỗ rất là nhỏ nhoi là còn
nguyên vẹn. Và cái mảnh tim nguyên vẹn đó còn lại, tôi muốn xin để ghi nhớ ân
tình của tất cả mọi khán thính giả ở khắp nơi đã yêu thương tôi, của các con
tôi và của chồng tôi. Bởi vì một người giống như tôi khó có thể nào mà chịu đựng
được quá nhiều bất hạnh như vậy trong cuộc sống. Những bất hạnh mà những may mắn
khó đền bù nổi. Tôi tin là sẽ có người khinghe tâm sự này của tôi sẽ hiểu những
điều mà tôi nói là thật.
Những điều tôi nói đúng theo lời ông Trịnh Công Sơn
dạy là sự tử tế tôi muốn gửi đến mọi người. Nếu tôi có đi xa thì cũng xin như một
lời chia tay. Tôi cũng xin một giọt nước mắt của những người đã vì ông Trịnh
Công Sơn mà yêu thương tôi.
Thái Kim Lan
Trịnh Công Sơn, Nơi Vùng Ưu Tư Thành Tiếng Du Ca
Trịnh Công Sơn, Nơi Vùng Ưu Tư Thành Tiếng Du Ca
Dẫu biết rằng trong mấy mươi năm hễ ở đâu có Sơn và
tiếng hát của Sơn thì cái vòng này càng nới rộng ra, như những làn sóng, khởi đầu
từ một điểm xoáy nơi nào đó ở
Huế, có thể nơi khúc sông Bến Ngự, hay nơi hồ Tịnh
Tâm, hay ở bến Bao Vinh hay ở đồi Vạn Niên, ở đó Sơn ném một viên sỏi là tiếng
hát của mình vào đấy và làn sóng lan ra, từ thế hệ chúng tôi cho đến thế hệ trẻ
ngày hôm nay, từ Huế, đến Sài Gòn, Hà Nội, Cà Mau hay Lạng Sơn, vượt qua mấy lần
đại dương và cái vòng quây quần quả đất bao la, hôm qua, ngày nay và có lẽ mai
sau...
Sơn là tiếng hát - Trịnh Công Sơn của mọi người
như tôi vẫn thấy chiều hôm ấy - hay bởi mình muốn thấy như vậy - Sơn như vừa mới
đứng dậy ra ngoài châm điếu thuốc, rồi sẽ trở lại ngồi giữa chúng tôi, trong
vòng bạn bè, có thể chỉ là ba, hay bốn hay mười hay hai mươi đứa, ở Huế, tại
nhà một người bạn nào đó, Chỉ, ý, Tường, Tôn, Hùng, MLan, Điền, Hạnh, Thọ, Kỳ,
Lý... ở nơi điểm xoáy sâu nhất của sông Hương - là vùng tâm tư của những người
bạn đang tuổi thanh xuân - ngồi yên, ít lời, đôi môi mỏng thoáng nụ cười, mi mắt
chớp sau gọng kính trên chiếc mũi thanh lắng nghe những nổi sôi, những phiền muộn
quanh mình, như lắng nghe chính con tim mình. . . trong vùng - tôi
xin gọi là -
Vùng ưu tư của Huế những năm 1960
Chính trong những năm tháng ấy, lần đầu tiên tôi gặp
“bộ ba" (chữ của HPNT) Trường - Cường - Sơn.
Nguyên do thật là rất "Huế', có thể tìm thấy rải
rác đâu đó trong các bài hát của Sơn.
Một buổi chiều nắng vàng chiếu nghiêng trên nón lá,
đường phố chính vắng người, không gian yên tĩnh có thể nghe thấy cả tiếng thời
gian, chỉ rộn rã tiếng guốc của mấy cô nữ sinh viên - (đã có thể là B Diễm, T
Mai, Han, KLan hay , Mươi, NB, DL, KL) đi dạo phố mua sách vở, tà áo lụa
lướt bay trong nắng, bụi mờ đàng xa, và có một chàng trai xa lạ nào, có lẽ từ xứ
Quảng ra, "chiều một mình qua phố ", - đang đứng ngơ ngác nhìn đường
phố, bỗng tà áo lụa như có sức hút nam châm, chàng trai thấy mình thơ thẩn bước
theo.
Chiều hôm sau nghe báo có anh Tường đến thăm mượn
sách, lúc ấy anh Tường tuy đã dạy văn nhưng học thêm môn cử nhân triết cùng
khóa với tôi, anh đến với hai người bạn nữa, “cái người hôm qua đi theo tà áo lụa"
và người kia là Sơn, "đi theo cho vui" như Sơn bảo. Chiều hôm sau nữa
thì tôi cũng biết thêm là trong nhóm bạn của mình, có đứa là "bạn" của
Sơn.
Huế nhỏ bé là như thế ấy, người này là bạn của bạn
của bạn của bạn... và bạn bè thành ra những vòng tròn quây quần với nhau. Chỉ cần
một tiếng “Ới" của thằng bạn ở trước ngõ là đứa trong nhà đã vội vàng với
cái mũ bê rê dắt xe đạp ra mà đi rong suốt ngày làm cho cả nhà chới với chờ
cơm... Anh Tường hôm ấy thao thao, vì lấy cớ đi mượn sách nên phải nói về sách.
Chúng tôi trao đổi với nhau một vài đoạn về chủ nghĩa hiện sinh trong cuốn Hữu
thể và hư vô của J. P. Sartre, một chút về ý niệm thời gian của Heidegger, mà
chúng tôi đang đọc ở trường.
Sơn ngồi nghe chúng tôi bàn cãi, phân tích, hình
như Sơn không bao giờ thay đổi dáng ngồi của mình, khi nào cũng như thế, tham dự
nhưng không ồn ào, hiền hậu và luôn luôn thoải mái như khi ở giữa đám bạn thân,
lắng nghe, chú ý mà không chút chi cố gắng, ít tranh cãi, dễ thân thiện tự
nhiên, một phút phù phiếm và mỏi mệt nơi dáng người, và ánh mắt xa xôi với những
chuyện cãi vã cốt dành phần lý về mình cũng như với mục đích khoa danh mà mỗi
người sinh viên Huế thời ấy thường đặt ra cho mình.
Gió phương Tây
Chủ nghĩa hiện sinh với Heidegeer, J. P. Sartre, A.
Camus, phong trào điện ảnh với Jean Luc Godard, thể điệu “chason" với
Juliette Greco, F. Hardy ở phương Tây đã đến với lớp trẻ chúng tôi trong những
năm của thập niên 60 như một làn gió chướng thổi qua cái thành phố Huế, nhỏ bé,
đóng khung, còn rất cổ kính trong cách nghĩ, cách làm ấy.
Những danh từ “hiện sinh buồn chán”, “lo âu”
(angoisse, Angst) "hư vô", “thời gian", "hữu hạn" và
vô hạn", "nôn mửa”, thân phận con người, sự vô nghĩa của cuộc đời, nỗi
hoài công phi lý của Sisyphus(°), ý niệm về siêu hình, bản thể học (ontologie)
đã như những tiếng gõ bí ẩn vào cánh cửa tâm hồn của lớp thanh niên trẻ chúng
tôi thời ấy như những mời gọi phiêu lưu vào những vùng đất lạ của tri thức -
Bây giờ nhìn lại thì mình dại khờ, bởi chính những tư tưởng mới này chẳng có
chi là mới so với triết lý Phật giáo cả - thế nhưng lúc ấy chúng có một sức thu
hút quyến rũ kỳ lạ trong cái khung cảnh đều đều êm đềm của xứ Huế, thành trì của
thủ cựu và khuôn sáo, là những hàng rào ước lệ mà lớp trẻ thường hay muốn vượt
qua.
Chúng tôi thường gặp nhau để kể cho nhau nghe về một
quyển sách đã đọc, soạn bàn, tranh luận.
Và có lần với cây đàn ghi ta, Sơn bắt đầu hát cho
chúng tôi nghe.
Ưu tư và du ca
Khi nghe Sơn hát tôi giật mình.
Vì Sơn hát... môn “siêu hình học" về cuộc đời,
về tình yêu đấy!?, cái môn mà những "con sâu gạo triết" (Đinh Cường)
là chúng tôi đang còn "bể đầu', đang chật vật với nó, - nhưng ngược lại,
chẳng có một chút khô khan, trừu tượng, gượng ép hay kỳ quặc gì cả, - Sơn
"hát triết học" như một bà mẹ Huế có giọng nói hay nhất trên đời kể
câu chuyện cổ tích Tấm Cám .
(°) Sisyphus: Nhân vật trong huyền thoại Hy Lạp,
con của Aiolos và nữ hoàng Korinth, nổi tiếng là tinh ranh quỷ quyệt đã dám bắt
thần chết trói lại để cho con người khỏi phải chết, sau đó bị trừng phạt vì tội
ấy suốt đời phải lăn một tảng đá lên núi, nhưng khi đến nơi thì tảng đá lại rớt
xuống và Sisyphus lại phải bắt đầu lại công việc lăn đá lên núi.
Như một con ve vừa mới thoát xác lần thứ mấy mươi
nghìn năm từ lòng đất của Huế, đã đi về thường xuyên trong tâm thức Huế, đã
rung động và cảm ứng với trời - đất Huế, với một âm điệu giản đơn thoát từ
gam trầm của giọng Huế, Sơn đã trả lời trong cảm ứng vô thức những tiếng gõ cửa
từ phương xa và giải thể chúng tôi khỏi ngõ bí của tư duy.
Trong cái không khí sôi nổi của tuổi trẻ đô thị ham
mê siêu hình, Sơn đã bắt đầu hát thay vì cãi nhau, thay vì lý luận dông dài với
đám bạn bè, với cả thiên hạ, Sơn hát "cho vui” với anh em như Sơn thường
nói, Sơn hát như một sự tham dự vào những đàm luận của bạn bè thuở đó và về sau
của cả thiên hạ, mà đúng thật, Sơn hát với những ưu tư thầm kín nhất của tuổi
hai mươi chúng tôi, với những tư duy của thế hệ trẻ chúng tôi với một cách
"đặt vấn đề," - biệt ngữ của phong trào học Triết học siêu hình thời ấy,
- khác với những người nhạc sĩ đi trước.
Sơn hát như cách thế "cởi dép đội lên đầu”
đi ra khỏi giảng đường của Thiền Sư Triều Châu° không phải là để bỏ đi, từ chối,
mà là một cách thế mở ngỏ cho sự sống như Triều Châu.
(°) công án Triều Châu: "Một hôm trong thư viện
của Hòa Thượng Nam Tuyền, tăng chúng ởđông và tây dường tranh nhau một con mèo.
Nam Tuyền cầm con mèo giơ lên nói: Đại chúng nếu có ai được (đắc đạo) thì cưu
mang cho mèo, bằng nói không được (đạo bất đắc) thì ta sẽ chém mèo vậy!".
Chúng chẳng ai nói được. Nam Tuyền bèn chém mèo. Chiều đến. Triều Châu về. Nam
Tuyền đem chuyện kể lại cho Triều Châu. Triều Châu bèn cởi giầy để lên đầu rồi
đi ra. Nam Tuyền nói. "Nếu như có ông ở đó, hẳn đã cứu được mạng cho mèo rồi".
Sơn hát đề tài "có cái gì là khởi đầu, có gì
là cái cuối cùng" -- ngõ bí của triết học đấy - nhưng với chất keo của một
điệu ca bông đùa diễu cợt, và một chút ranh mãnh hiền triết của một thiền sư
thõng tay vào chợ, Sơn hát "không có đâu em này, không có cái chết đầu
tiên, và có đâu bao giờ, đâu có cái chết sau cùng...”, hát như con bé điên
cứ đánh lưỡi tùy theo cảm hứng của nó lúc chạy theo chế diễu mọi người ở trên một
đường phố nhỏ của Huế.
Người nghe có thấy mâu thuẫn hay không cũng phải mỉm
cười, và bỗng ngộ được tính phi lý của sự đối nghịch trước sau.
Sơn hát đề tài "bản thể và hư vô" và nhắc
chúng tôi tìm về dòng sông Hương nhìn nước chảy, để “thấy" hay
"nghe" “tay hư vô thắp nến, chiều chơi vơi lên cao, rồi dòng sông
cũng qua mau, đưa người gợi mối sầu . . ." trong một giai điệu tiếng
nước chảy ngược về nội tâm, để thấy sông không chảy mà tâm mình đang chảy. . . Ai
định nghĩa được hư vô? Khổng Tử cũng đã đến dòng sông để thể nghiệm với tiếng
thở dài “nước trôi mãi như thế ư?". Phạm Duy hát "Tim nghe nước chảy
về đâu” trong một cảm giác buồn bã trôi xuôi. Với ý niệm hư vô, Sơn đặt lại vấn
đề và giải mã "sự biến đổi" "sự chảy đi" của dòng sông với
cảm tính triết học của mình trong âm giai sâu lắng, giữa tỉnh và mê, giữa buồn
bã và giác ngộ.
Sơn hát đề tài “nỗi hoài công của Sysiphus", bằng
tiếng vang của “vết lăn trầm... phiến đá quanh", của mùa thu bay đi với
vòng tay buồn ôm nuối tiếc và đưa ta về với khung cảnh Huế - không phải Huế thơ
mộng mà là một Huế như chốn “lưu đày" đồng thời "quê nhà" trong
nỗi nhớ, - bằng một tiếng than dài như xâu chuỗi âm hưởng quấn quýt luân hồi. .
.
Cũng phải nói thêm rằng thuở ấy, việc “đi hát"
đối với các vị cha mẹ người Huế là một chuyện đáng nghi ngờ, nền nếp gia phong
được rào lại kín cổng cao tường, không ai muốn cho con mình đi đàn đúm rong
chơi với những kẻ lãng tử giang hồ. Những bài hát mới do đó đối với chúng tôi
thường như những trái cấm.
Cho nên bài hát đầu tiên của Sơn mà chúng tôi hát
là một bài hát chuyền tay nhau: Nhìn những mùa thu đi.
Bài ca có lẽ đã bỏ trong túi lâu ngày, chưa được phổ
biến, đến tay chúng tôi thì mực đã nhạt nhòe, chúng tôi xúm nhau lại trên thềm
xi măng của một gian phòng rộng lớn gọi là hội trường của Ty cảnh sát thành phố
Huế (bây giờ là Đại học Sư phạm Huế) lúc ấy tạm sử dụng làm phòng giam những
thành phần trí thức Phật tử trong phong trào đòi bình đẳng tôn giáo do việc cấm
treo cờ Phật giáo vào ngày Phật Đản 1963 và việc xe tăng cán chết 14 em trong
gia đình Phật tử vào đêm Phật Đản tại thành phố Huế - để tập hát. Chúng tôi,
sinh viên Phật tử, gia đình Phật tử, các giáo viên và giáo sư đều đồng thời bị
bắt một loạt đêm 20; 08/63 - đêm các chùa bị tổng tấn công trên khắp miền Nam
Việt Nam, có người đang ngủ ở nhà cũng bị mời vào, như trường hợp của Hoàng Phủ
Ngọc Tường - hồi ấy Hoàng Phủ Ngọc Tường không nằm trong đoàn Sinh viên Phật tử,
- trong túi áo của anh mảnh giấy Nhìn nhũng mùa thu đi đã trở thành
bài hát “cho đỡ buồn" (cũng như Sơn đã nói hát cho vui) trong suốt những
ngày tháng bị giam cầm của chúng tôi.
Huế dạo ấy đang độ vào thu, ban đêm mưa sầm sập
trên mái ngói, buổi sáng sớm trời trong trẻo, một thứ trong suốt như đóng đinh
vạn vật dừng lại ở một điểm cố định, cây bàng độc nhất trong sân đứng với mấy
chiếc lá đỏ trên cành, chúng tôi ngồi... "tay trơn” trên nền nhà - trẻ
măng là mớ tóc và vầng trán, trẻ măng là sự ôm những lý tưởng, những hoài vọng,
những ước ao, những đợi chờ của tuổi hai mươi, - và chúng tôi đã đếm ngày tháng
bằng Nhìn những mùa thu đi...
Buổi sáng sớm, khi mưa vẫn còn rỉ rả ngoài sân,
nhóm phụ nữ còn nằm trên... "sân khấu” của hội trường - (hội trường là nơi
tạm giam chung nam nữ những thành phần trí thức và sinh viên, học sinh Phật tử
đã biểu tình, tuyệt thực chưa được định tội rõ ràng - vì tội trạng chưa được rõ
ràng nên chúng tôi có thể di chuyển thoải mái trong phòng và được đối xử tương
đối tử tế - ban đầu có đến 500 người, sau đó được thả ra dần dần, còn lại khoảng
50, 60 người, được chúng tôi lấy ghế ngăn lại làm hai trạm nghỉ: phần trên sân
khấu dành cho phụ nữ cắm lều mùng mền, phần dưới sân khấu dành cho nam giới cắm
trại) thì chúng tôi đã được điểm tâm bằng tiếng huýt sáo của ai đó đứng ngoài
hiên nhìn mưa "Nhìn những mùa thu đi, anh nghe buồn lên trên ấy, và
lá rụng ngoài song...", buổi xế trưa bỗng nghe có ai cao giọng lê thê "Gió
heo may đã về, chiều tím loang vỉa hè nhìn mùa thu bay đi" và buổi tối
có giọng ai âm thầm ở trong một góc phòng của hậu trường “và lá rụng ngoài
song, nghe tên mình vào quên lãng, nghe tháng ngày chết trong thu vàng... thương
cho mình... lạnh lùng thêm". Chưa bao giờ trong đời tôi, đã nghe và
đã hát một bài hát nhiều lần và trong một quãng thời gian dài liên tiếp ba
tháng như thế.
Bài nhạc thật đơn giản về âm giai thể điệu, đề tài
mùa thu, một đề tài quen thuộc trong thi ca rất dễ bị rơi vào sáo ngữ, đã có Tiếng
thu của Lưu Trọng Lư không tiền khoáng hậu, đã có Giọt mưa thu của
Đặng Thế Phong khó quên trong lòng người, Thu vàng của Cung Tiến âm
vang, nhưng Nhìn những mùa thu đi đã là bước đầu thành công của cuộc
hành trình ca khúc Trịnh Công Sơn.
Có thể nói hành trình ca khúc Trịnh Công Sơn thực sự
bắt đầu từ Nhìn những mùa thu đi chứ không phải Ướt mi, dù Ướt
mi đã làm cho người ta biết đến Sơn.
Bởi vì với Nhìn những mùa thu đi Sơn đã
đưa chúng ta đến một cảm nhận mới, một thể cách "tân thanh" đến từ
chính ý thức của người nghe: chúng ta hát Nhìn những mùa thu đi bằng
mỗi "Cái Nhìn” mùa thu như một thể cách “tự mình biết riêng mình", một
thể nghiệm riêng cho mỗi cảm nhận lời ca của mỗi một cá nhân. Chúng ta hát
"Cái Nhìn" của chúng ta, vào một buổi sáng mai thức dậy bỗng nghe gió
heo may lùa vào khe cửa hay vào một buổi trưa nắng le lói trên vỉa hè của đường
phố thưa thớt người qua lại hay vào buổi chiều tím bên song. Nỗi
"Nhìn" mùa thu trở thành sự rung động mùa thu.
Tôi nhớ đến chữ "Kiến Tính" của Huệ Năng
khi ngài xây dựng quan điểm thiền học mới mẻ của mình, thay vì “Thân thị Bồ đề
thọ . . . Tâm như minh cảnh đài" của Thần Tú, Huệ Năng đã đổi
cách nhìn cuộc đời một cách vật lý so sánh thụ động bằng "Cái Nhìn"
sinh động vào bản chất thực sự của sự vật trong tính chuyển đổi sáng tạo của nó
“Bồ đề bổn vô thọ, Minh cảnh diệt phi đài". Với "cái nhìn vô niệm"
vào diệu dụng của "vô" và "phi", Huệ Năng đã đưa Thiền học
vào một con đường dẫn đến giác ngộ đầy sinh động và sáng tạo.
Cũng thế, trong hành trình ca khúc của Sơn, với
“Nhìn" những mùa thu đi theo tôi nghĩ Sơn đã mở ra bằng "Cái
Nhìn" của mình một thế giới âm thanh mới và lạ, thể cách và âm điệu sinh động
vượt ra khỏi những cảm nghĩ khuôn sáo cũ, đi thẳng vào tâm thức người nghe, làm
tiền đề cho tiếng hát Trịnh Công Sơn, và có lẽ đã là không phải một trùng hợp
ngẫu nhiên mà trong tiếng hát Trịnh Công Sơn chữ "vô" (hư vô, vô thường)
đã được ngâm nga một cách tân kỳ so với lời ca của những người đi trước và người
đồng thời, ngoại trừ âm nhạc Phật giáo.
Chỉ khác nhau ở một cách đặt vấn đề, với bài hát
mùa thu bằng "Cái Nhìn" mùa thu, có thể nói hành trình ca khúc Trịnh
Công Sơn đã từ giã khuôn khổ của âm nhạc Việt Nam trước đó để cảm ứng được những
trầm tư, thao thức và khát vọng của thế hệ của chính mình và thế hệ kế tiếp mà
khởi sắc giai điệu riêng tư của mình.
Mỗi khi nghe giai điệu ca khúc Trịnh Công Sơn, âm
hưởng của tiếng ca đi vào lòng người một cách tự nhiên như dòng nước chảy, ta
có thể nghe và hát mấy mươi lần một bài mà không chán, tôi cứ nghĩ rằng Sơn đã
nắm được yếu tố cốt tủy của âm thanh trong lòng đất Huế, đã triển khai được âm
giai trầm của tiếng Huế làm thành thể chất căn bản cho ca khúc, như có lần tôi
đã được nghe một công án của Phật: “Có vị Sa môn ban đêm tụng kinh nghe tiếng rất
buồn, có vẻ hối tiếc, lưỡng lự, muốn trở về thế tục. Phật gọi mà hỏi, khi ông ở
nhà thì đã làm gì? Thưa thường đánh đàn. Dây đàn dùi thì thế nào? Thưa không
kêu. Dây đàn cao thì thế nào? Thưa mất tiếng. Cao dùi vừa phải thì thế nào?
Thưa âm điệu phát ra đủ cả. Phật nói, học đạo cũng phải như vậy, giữ tâm trí chừng
mực thì đạo phải được". (Bài kinh số 33 trong Kinh 42 Chương. Trí
Quang dịch).
Âm điệu trong nhạc Trịnh Công Sơn cũng thế đã tùy tâm
để thể hiện âm thanh, cho nên nốt nhạc không bao giờ bức xé cũng như không bao
giờ quá thấp để không có thể hát được, âm thanh chậm rãi, lưu luyến chảy vào
tâm thức như một ý tưởng, một suy tư đang được ánh trăng thanh lọc khỏi những nứt
rạn khô khan, cằn cỗi, gượng ép của tư tưởng mà trở thành dòng suối tâm thức
tuôn chảy không ngừng.
Nhiều đêm nằm thao thức, nghe bài ca “đi về"
“xuôi ngược" dội vào tim, tôi như trực cảm rằng trong bước đầu sáng tạo,
Sơn đang từ trong giảng đường đi ra, vừa đi vừa làm một tiểu luận về - nghe buồn
cười nếu tôi nói tiếp - “hữu thể và thời gian" của Heidegger, và Nhìn những
mùa thu đi là một bài tiểu luận về ý niệm thời gian mà Trịnh Công Sơn đã
"điểm nhãn" bằng "giai điệu rung cảm Huế và của tất cả những gì
đã diễn biến và lưu lại trong lòng của mảnh đất đã biến thành vùng khổ nạn kể từ
năm 1963.
Tình Huế
Ở Huế có lẽ có một mối tình thủy chung duy nhất
không bao giờ tàn phai, đó là tình yêu cảnh Huế của người Huế, như
núi Kim Phụng mãi mãi đứng đó mà yêu hoài sông
Hương bạc tình chảy xuôi, sông núi đã hun đúc mối
tình keo sơn của người Huế với cảnh vật quanh mình ngay từ khi nằm trong nôi
nghe mẹ hát "ru con cho tới làng Hồ. . ." “thuyền về Đại Lược,
duyên ngược Kim Long” hay ru em cho théc cho muồi, để mẹ đi chợ. . . mua
vôi... chợ Quán chợCầu, mua cau Nam Phổ mua trầu chợ Dinh...
Huế có lẽ là thành phố duy nhất trên quả địa cầu có
cả núi và sông nằm ngay trong lòng, để cho người Huế dù cho đi xa mấy mươi năm,
mấy mươi nghìn vạn dặm vẫn cứ mỏi mòn mong ngày trở lại dòng sông, trở về với
núi.
Vườn cây, hoa lá, nắng mưa, mây gió, cảnh chùa đã
ôm ru thời thơ ấu và tuổi niên thiếu của mỗi con người Huế, đã uốn nắn trong
tâm thức nhạy cảm của người Huế trước thiên nhiên, đã trở thành những âm vang gợi
cảm trong suốt cả đời người mỗi khi nghe mưa rơi, nghe lá đổ, nhìn nắng lên
hàng cau, nghe hoa bưởi bắt đầu lên hương trong khu vườn buổi sáng.
Ca khúc của Sơn, nhất là khúc tình yêu, thường đã
mang nặng “cảnh thức" Huế như một nguồn sống cho ý thơ và âm điệu.
Cho nên khi nghe nhạc của Sơn , người nghe nhất là
người Huế thường có cảm giác mình đang đi trên một con đường nào đó ở quê
hương, hay đã ở trên đường đi trong cơn mưa "thì thầm dưới chân
ngà", trong "mùa hạ khói mây" hay "mùa đông vời vợi",
để đến thăm người yêu, chỉ một thoáng rồi đi, chỉ để nhìn mặt hay không nhìn mặt
người yêu rồi quay trở về trên đường sỏi đá bên khúc sông Bến Ngự, để vùi trong
cơn sốt thương yêu "gọi thân hao gầy, gọi hồn ngất ngây".
Diễm xưa là mối tình đầu của Diễm xưa, sau ướt
mi một thời mê say giang hồ, Diễm xưa đã trở thành ca khúc tình
đầu của Sơn. Và "Diễm" đã trở nên một huyền thoại "xưa" như
chuyện Từ Thức gặp tiên, như một câu chuyện tình cổ lụy cho đời và cho cả chính
Sơn.
Tình yêu đã đến với Sơn như một huyền thoại bất ngờ,
như một cơn mưa đến từ cõi hoang sơ rơi trên tháp cổ, nên thật bàng hoàng. Có lần
Sơn bảo, con gái Huế yêu thật lạ lùng, trong cơn đau vẫn trốn mẹ, tung mền mặc
áo mưa băng qua cầu chạy như bay đến để chỉ đặt một trái cây hoặc một bông hoa
trước cửa, không cần gặp người yêu, rồi ra về.
Để cho người con trai sững sờ, ngạc nhiên và lặng
người trong nỗi nhớ nhung "buổi chiều ngồi ngóng những chuyến mưa
qua, trên bước chân em âm thầm lá đổ, chợt hồn xanh buốt cho mình xót
xa"... nỗi nhớ vết chim di, bay qua vùng đất rộng, ước sao bờ sông Bến
Ngự nối liền. “Chiều này còn mưa sao em không lại, nhớ mãi trong cơn đau vùi
làm sao có nhau... hằn lên nỗi đau, bước chân em xin về mau”. Diễm ơi, Sơn
ơi, những mối tình nơi Huế!
Tôi nghĩ rằng không ai cả ngoài Diễm xưa vẫn
luôn luôn là bóng dáng người tình trong những tình khúc Trịnh Công Sơn.
Trong Như cánh vạc bay, Quỳnh hương, Tình nhớ,
Hạ trắng, Mưa hồng, Gọi tên bốn mùa, Tình sầu v. v.., vẫn thấp thoáng những
nét đan thanh, chấm phá của Diễm: mảnh khảnh đến gió thổi bay, vai gầy guộc như
đôi cánh cò (chúng tôi thường chế diễu nhau như thế), tay gầy lêu khêu, nét
xanh xao, mái tóc rối quăn ôm gương mặt trái xoan nhỏ nhắn, bóng dáng chợt đến
chợt đi chợt ẩn chợt hiện như trong Liêu Trai, đi, nhưng trong lòng thì đầy cả
đam mê bão táp.
Cái hình ảnh mảnh mai ẻo lả "lãng đãng như gần
như xa" như có thực mà như không có thực ấy, khác hẳn với các khuôn mặt
tình và khuôn mặt đẹp theo ước lệ trong những ca khúc tình yêu thường nghe, vẻ
đẹp hao gầy mong manh trở nên nguồn cảm hứng không ngừng trong ca khúc tình yêu
của Trịnh Công Sơn, xúc cảm từ một cuộc tình đam mê, trong trắng, mối tình học
trò ngây thơ đầy hương sắc và ánh sáng mà Sơn chưa kịp nhận được thì đã thoáng
bay.
Nếu tình yêu cảnh Huế keo sơn bao nhiêu thì tình
yêu của người con gái Huế lại càng phù du như đám mây trời, như cơn mưa mùa hạ
bấy nhiêu.
Hình như là một thông lệ cho những người yêu nhau ở
Huế: yêu ai thì rất mực yêu ai, nhưng khi tính cuộc trăm năm với người nào thì
cha mẹ hay tiếng nói của mẹ cha đã nằm sẵn trong tiềm thức của mỗi người quyết
định, và thường khi quyết định một cách thực tế là không lựa chọn người mình
yêu, dù "nỗi lòng anh đây" nhưng "lời ca anh nhỏ" bé đơn sơ
quá cho nên "Này em em hãy phụ người , này em xin cứ phụ tôi",
"em cứ phụ đời" bởi vì trời đã sinh ra con gái Huế là để "yêu nhau
thì lại bằng mười phụ nhau”.
Ai bảo Sơn không khổ vì yêu, thứ tình "mật ngọt
trên môi" trở thành "mật đắng trong đời"? Cho cả cuộc đời, suốt
cả bốn mùa mưa nắng "đôi khi thấy trong gió bay lời em nói, đôi khi
thấy trên lá cây ngày em đã xa tôi".
Có khổ tận trong tình yêu, có dạt dào trong nỗi khổ
mới thể nghiệm được nghĩa vô thường "yêu là chết" và có thể đồng cảm
với niềm vui và nỗi khổ của những người đang yêu. Trong tất cả ca khúc tình yêu
của Sơn luôn có tâm tình riêng chia với tâm tình chung, như “trên lá khô"
chảy ra “dòng suối”, tình yêu không tuyệt vọng...
Và đền bù lại cho những mối tình mây nổi, đã có tình
bạn hữu thật chí thiết, đưa vai hứng đỡ những cơn tuyệt vọng chết người “đừng
tuyệt vọng, tôi ơi đừng tuyệt vọng!". “Bạn bè ở Huế thương nhau lắm, một đứa
vợ la chín đứa kinh”, có một nhà thơ nhận xét như vậy sau này.
Cô đơn vì người tình "hờn dỗi" lắm khi
không cô liêu bằng khi "bạn bè rời xa chăn chiếu”. Và khi bạn
yêu người nào thì hình như mình cũng yêu người ấy, khi bạn thất tình thì mình
cũng đau khổ không kém gì nỗi đau của bạn.
Trong những lúc Sơn lụy vì tình, đã nhiều lần thay
bạn đi thuyết khách, giải thích, hóa ra ai yêu nhau ai giận nhau thì bạn bè đều
mau mau đứng ra chịu trận như chính mình là người trong cuộc. Và chính Sơn cũng
đã tâm sự với tôi như thể tôi cũng là người trong cuộc của hai người.
Mái chùa
Đối với người Huế, và đối với chúng tôi, yêu cảnh
Huế hầu như cũng đồng nghĩa với yêu cảnh chùa ở Huế.
Hình như trong tất cả những lần đi ngoạn cảnh hay
đi lang thang ở Huế, vô tình hay hữu ý, nơi đến cuối cùng thường là bước vào cổng
chùa, đứng nghỉ nắng hay chờ tạnh mưa dưới mái tam quan hay vào xin một chén nước
chè tươi đỡ khát hoặc một chén trà ướp sen cho ấm lòng, tiện thể vào chiêm ngưỡng
tượng Phật, thắp hương cho vị tổ sáng lập chùa, thăm thầy trụ trì, nghe một câu
chuyện thiền trong một không khí ít lời, thong thả, mát dịu.
Thế rồi bóng nắng mời gọi, hoa trái trong vườn mời
gọi, cỏ cây trong sân mời gọi là chân bước theo chân, là mắt đưa theo mắt, là
tai chiều theo tai, ngẩn ngơ trong vườn sắn, vườn chè, rừng cây cổ thụ, nơi hồ
sen, nơi tiếng ve kêu, nơi chùm khế cây sai trái, dừng lại nơi lá xanh reo, nơi
suối róc rách, nơi hoa sen nở, nơi hoa mộc thơm hương - dù chỉ một vài giây vô
niệm, không chủ ý - nhưng cũng đủ để thể nghiệm sự tĩnh lặng thường còn trong vạn
vật, ở đó thong dong đi về không còn ngăn cách là thấy và nghe, cảm và
nghĩ, xúc giác và khứu giác trong một toàn thể bao hàm tất cả những mâu thuẫn của
sự trôi đi và dừng lại . . .
Buổi dừng chân có thể chỉ đủ để bóng nắng nghiêng
trên triền đồi hay cơn mưa vừa tạnh hạt, nhưng cũng có thể để ngả lưng đợi giờ
tắt cơn nắng gắt hay cơn mưa dai dẳng chưa dứt, để thấy hơn một lần hư không là
nắng và vô thường là mưa.
Hay nhiều khi có thể lưu lại chùa vào một đêm trăng
sáng, nghe tiếng hòa điệu rộn ràng của trăm thứ hương lồng bóng nguyệt hay cảm
nhận được tiếng kinh Phổ môn cầu an tẩm ướt ánh trăng thấm đượm thân thể như giọt
nước cành dương, rồi bỗng chiêm nghiệm được trong khoảnh khắc tiếng yêu đương
và tiếng yêu người cũng chỉ là một, "yêu em lòng chợt từ bi bất ngờ”.
Có lẽ trong tất cả những người thanh niên trẻ của
thế hệ chúng tôi, Sơn là người đã bắt gặp được sự đốn ngộ bất ngờ ấy sớm hơn ai
cả, không phải nghĩa "sớm" của "trước sau” mà là đã "từ bao
giờ" không ai hay - trong vòng tay của người mẹ mộ đạo Phật ru đứa con đầu
lòng, của gia đình thành tâm thương Phật, anh em có nhau khăng khít, của cả mấy
đời người Huế thương chùa, của cả mảnh đất thần kinh thâm u miệt mài hai chữ tu
tâm - nên đến bây giờ, chỉ cần một chút "run rẩy" của lá là đã chuyển
động "Phật tâm viên tròn thể tánh” trong ý nghĩa đơn giản nhất: chứng ngộ,
thấy được chữ "thương ai" (ta và người = từ bi) viết đậm nét trên chiếc
lá "hư không".
Mỗi ca khúc của Sơn vì thế, - như ít có nơi những kẻ
đi trước và những người đồng thời với Sơn trên lĩnh vực âm nhạc, - có thể nghe
và cảm nhận như những công án thiền học về cuộc đời, mà mỗi câu hỏi siêu hình về
nó đều bị "trả đũa" bằng một hay hai điều tầm thường, vớ vẩn trong
chính cuộc đời, ở đó chữ nghĩa mất hết tính ước lệ, quy luật văn phạm, sự vô
nghĩa nằm sát bên có nghĩa. Vô nghĩa đứng cạnh có nghĩa mà vẫn không nghịch lý,
người nghe không thấy chối tai mà ngược lại cảm thấy cảm xúc lăn tròn theo tiếng
hát, và trong chuỗi âm thanh theo đuổi nhau, mọi nghịch lý, phi lý làm cho con
người nghẹt thở của một Sisyphus hì hục lăn tảng đá cuộc đời đều được giải tỏa
bằng một hơi thở dài trút hết ưu phiền của tiếng hát lênh đênh.
Mỗi tiếng mỗi chữ trong các ca khúc trở thành những
đơn thể của tâm thức trong tính cách hiện sinh duy nhất, tràn đầy sinh động của
chúng ta đã được Sơn sử dụng một cách sáng tạo như những phương tiện "tiếng
vỗ của một bàn tay" nhằm đánh thức âm hưởng nội tâm của mỗi người nghe, từ
đó người nghe có thể đưa thêm vào bàn tay của mình để gây âm thanh cho chính cảm
xúc của mình. Và tiếng ca, từ những cọng lá khô không lời, những viên sỏi vô
tri im tiếng, bỗng xôn xao "cây lá vào mùa", bỗng lao xao sóng vỗ bờ
xa...
Những ý niệm, những ngôn từ trong đạo Phật, hư vô,
hư không, cõi tạm, vô thường, cõi đi về, tiền kiếp, từ bi...", thường được
xem như những món "cơm chay" khắc khổ, đã được Sơn hóa giải rất tài
tình trong lời ca theo nguyên tắc (suốt cả 49 năm Phật không thuyết một lời
nào), bỏ hết tất cả những chất khô cứng đóng khung của ngôn ngữ dù đó là lời
kinh, chúng được "lắng nghe" và "linh cảm" trong bản chất
âm giai nội tâm đối đãi nguyên sơ nhất của chúng. “Tôi đang lắng nghe im lặng
dòng sông. . . tôi đang lắng nghe im lặng ngọn đồi... tôi đang lắng nghe im lặng
của tôi...". Bài hát sâu lắng như một tọa Thiền quan sát hơi thở.
Hư vô, cõi tạm do đấy được sử dụng như tiếng thô
"đục" của mõ và thanh "bổng" của chuông, hai phương tiện
"nghe kinh ngộ đạo" đơn sơ nhất, căn cứ vào tầng rung cảm âm thanh bẩm
sinh của mỗi con người, nói nôm na là "tiếng lòng" của mỗi người mà
âm vang của tiếng mõ và tiếng chuông có thể làm nở: "đóa hoa vô thường", có
thể chở ta ra đi viễn xứ và mang chúng ta trở lại quê nhà.
Có thể nói tính cách tân kỳ của ca khúc Trịnh Công
Sơn nằm ở chỗ trong khi Sơn chuyển ý niệm "sắc không” vào âm nhạc, Sơn đã
"làm mềm" chúng bằng cách dựa vào giai từng cơ bản đối đãi giữa giải
thoát và cõi trần cát bụi trong tương quan chuyển qua đối lại giữa "đục -
thanh", "trầm - bổng" của mõ và chuông, từ đó tùy tâm mà chuyển
đổi và ứng dụng tất cả những phương tiện khác của âm nhạc, - tứ đại cảnh, ru
em, hò hay điệu blue buồn hoặc điệu soul của phong trào tân nhạc âu châu chẳng
hạn - để sáng tạo nên thể cách riêng tư của mình. Trong tất cả dòng chảy của âm
nhạc Trịnh Công Sơn, sự tĩnh lặng thoát ra cho sự cảm nhận nét nhạc của mỗi bài
ca, dù cho bài ấy có dồn dập đến đâu.
Chính nhờ nguyên tắc đối đãi, mà lời và nhạc của
Sơn luôn luôn biến chuyển không ngừng, trong nắng hư vô đã thấy tóc em gái, đường
xa áo bay, . . . và lời ru của mẹ, lời ru cho em thường dẫn ta đi vào
cõi đời thường như một cõi đời mộng, để cho mộng thực luân lưu trong nội tâm
quyện tròn thành một lời êm dịu như tiếng kinh dỗ dành giấc ngủ.
Có thể so sánh sức mạnh sáng tạo trong thơ nhạc của
Trịnh Công Sơn với một công án của Hakuin, thiền sư và họa sĩ đắc đạo nhất của
Nhật Bản:
Tay không mà cỏ cầm cán mai;
Đi bộ mà ngồi lưng trâu;
Người đi qua trên cầu,
Cầu trôi, nước chẳng trôi!
Cái cố định hóa mềm dưới chân, nỗi ưu tư hóa mềm
trong tiếng du ca. Trong cái nhìn của người nghệ sĩ, ngữ căn hay lục căn
được cởi bỏ mọi giới hạn, để chỉ còn tự do sáng tạo, ở đó nghe là nhìn, ngửi là
nghe, vị giác cũng là nghe, mà Hakuin gọi là phạm trù "kikan" của mỗi
công án, phạm trù của cơ cấu mềm dẻo và tự do.
Trong cái nghe sáng tạo, tiếng rơi thô kệch của hòn
đá rớt xuống cành mai bỗng hóa thành tiếng chim ca thánh thót khúc qua đời?
Đứng dưới mái chùa, Trịnh Công Sơn đã trả lời
Sisyphus bằng một công án như thế!.
Tương Lai
Cuộc Tiễn Đưa Sơn Về "Chốn Xa Xăm Cuối Trời"
Cuộc Tiễn Đưa Sơn Về "Chốn Xa Xăm Cuối Trời"
Mờ Sáng, trời Sài Gòn rất đẹp, đẹp để tiễn đưa Sơn.
Mà cả mấy ngày nay không mưa để hoa xếp hàng ngoài ngõ nhà Sơn không bị ướt và
nẫu đi. Một rừng hoa hôm nay đã được đưa lên xe chuyển đến nghĩa trang nơi "Một
người sẽ nằm xuống". Việc giữ trật tự do mọi người tự tổ chức có sự hỗ
trợ của lực lượng Công an không vất vả chút nào ở lễ mặc niệm vì rừng người kéo
đến rất đông, nhưng rất tự giác giữ không khí trang nghiêm. Ngôi nhà Sơn không
rộng nhưng vẫn đủ chỗ cho mọi tấm lòng yêu mến, hâm mộ và tiếc thương.
Tôi có mặt lúc 5h30, đã có nhiều người đến trước
tôi để được cái may mắn vào thắp hương trước linh cữu Sơn. Mỗi người chỉ thắp một
nén hương, nhưng riêng tôi xin phép thắp 3 nén vì trong đó có một nén cho Phan
Đình Diệu ở Hà Nội, một nén chung cho các anh chị đã có yêu cầu tôi. Tôi xin lỗi
chỉ thắp được có một nén thôi, vì nếu theo đúng yêu cầu của tất cả các anh chị
thì bao nhiêu nén cho đủ, và làm sao đếm được tình cảm? (Sau đó thì phải tạm ngừng
để các nhà sư thực hành những nghi lễ).
Đúng 6h10, nhạc sĩ Trần Long ẩn, bạn của Sơn, một
người trong nhóm "Những người bạn" mà Sơn là Anh Cả, phó Tổng
thư ký Hội Nhạc sĩ thành phố đọc điếu văn.
Vì tôi đã theo dõi hầu như tất cả những bài đã viết
về Sơn trên báo và chưa thấy bài nào nói được điều mà mình nghĩ, nên nghe Trần
Long ẩn, tôi thấy cảm động và sau đó, tôi có đến bắt tay cám ơn Trần Long Ẩn.
Tôi cảm ơn vì nội dung có đánh giá Sơn là một nhạc sĩ thiên tài . . . và "nhạc sĩ Trịnh
Công Sơn đã để lại cho đời, cho kho tàng âm nhạc
Việt Nam một tài sản âm nhạc đồ sộ và vô cùng quý
giá. Nhưng cái đáng quý hơn hết mà anh để lại chính là con người anh với tất cả
chiều kích và tầm vóc của một nhân cách lớn".
Ẩn có nói ngay với tôi “cảm động quá không kịp in để
đưa cho nhà báo, họ đòi dữ quá". Như thế cũng có nghĩa là tạm được!
Sau điếu văn và lời cám ơn của Hà, em Sơn, thay mặt
cho gia đình, các nhà sư bắt đầu tụng kinh siêu linh tịnh độ. Đúng 7h00 thì động
quan, rất chính xác về thời gian.
Đi theo linh cữu, Trần Mạnh Tuấn cất lên tiếng kèn
saxophone bài "Cát Bụi", bên cạnh Tuấn tôi cố kìm để thả hồn mình
theo tiếng kèn, nhưng nỗi nhớ Sơn khiến nước mắt giàn dụa, tai ù đi.
Đến giữa chừng của ngõ nhà Sơn, Tuấn lại thổi bài "Một
cõi đi về”, tôi đưa chai nước cho Tuấn uống để lấy giọng, thì vừa ra đến đầu
ngõ, Tuấn thổi một bài tiếp nữa. Đường
Phạm Ngọc Thạch (tức là đường Duy Tân cũ) như lặng
đi, xe cộ dừng hết cả lại (vì quá xúc động tôi không nhớ ra là bài gì nữa, chỉ
biết đó là bài mình vẫn hát).
Linh cữu Sơn được đưa lên xe tang. Các em Sơn ngồi
bên cạnh. Xe đi một vòng, đưa Sơn qua đường Trần Quốc Thảo, nơi có trụ sở Hội
Nhạc sĩ mà ngày ngày Sơn vẫn hay qua lại sau đó đoàn xe đi về phía nghĩa trang
Gò Dầu, nơi có mộ của mẹ Sơn.
Một dòng sông xe máy, xe ô tô, xe đạp... trôi từ từ
trên đường Điện Biên Phủ và tăng tốc dần. Có lẽ đáng nói nhất là đoàn xe máy,
xe "của những người hâm mộ" những công chúng vô danh
vĩ đại mà tôi cho là tuyệt vời nhất, họ thực sự chiếm lĩnh con đường đưa
Sơn về chốn "xa xăm cuối trời" của Sơn, và dòng sông xe cứ thế trôi.
Thật hạnh phúc biết bao cho một nghệ sĩ có được một công chúng hâm mộ như vậy.
Nghĩa trang nơi có mộ mẹ Sơn là một nghĩa trang nhỏ,
chưa bao giờ có một đám tang cỡ này cho nên đến đây thì có sự gay go. Phải có sức
mạnh lực sĩ mới chen nổi vào nghĩa trang vì những người hâm mộ và yêu mến Sơn
đã đến từ trước, họ chiếm lĩnh trận địa, kể cả bà con lối xóm ở gần nghĩa trang
cũng kéo đến chật cứng. Tôi đành phó mặc số phận mình cho sự đưa đẩy của dòng
thác người, trước mắt thấy thấp thoáng chiếc khăn tang của Tịnh, em Sơn, người
cao nhất, thế là biết rằng cuối cùng mình cũng sẽ trôi đến nơi cần thiết.
Lễ hạ huyệt, trước lúc đó, Bửu ý đọc lời tiễn biệt
của Huế, nơi Sơn đã dành một phần lớn trái tim mình. Cảm động nhất vẫn là điệu
kèn saxophone của Trần Mạnh Tuấn. Cả không gian như quánh đặc lại cùng với tiếng
kèn của “Lời thiên thu gọi". Tôi đã thực hiện yêu cầu của các anh chị
là ném xuống mộ Sơn những bông hồng trắng, nhưng để cho đủ số hoa mà các bạn
đã yêu cầu thì không sao đủ hoa hồng, tôi đành ném xuống hoa huệ trắng (thôi
thì đành vậy, anh chị nào chọn bông hoa nào cho mình thì xin cứ tâm nguyện "Làm
sao ta gặp, làm sao ta gặp được nhau”!).
Điều tôi muốn kể là tiếng hát đồng ca của đám tang,
hát theo tiếng kèn của Mạnh Tuấn thì chỉ khe khẽ trong tim, nhưng sau đó thì
đám đông trầm lắng trong "Biển Nhớ", và nhất là trong "Nối
vòng tay lớn". Nhưng bài hát cứ vậy kéo dài mãi, và cứ thế người ta nói
với người nghệ sĩ yêu mến của mình "Anh Sơn ơi, Anh đâu có chết, anh
vẫn có mặt trên cõi đời này”. Bài hát “Cho một người nằm xuống được
ai đó cất lên và cả đám tang lặng đi trong những lời hòa đồng nối tiếp. Tôi
nghĩ rằng, nơi cõi xa xăm cuối trời kia, Sơn đang lặng lẽ mỉm cười "ta
là ai mà còn khi dấu lệ, ta là ai mà còn trần gian thế”.
Một thảm hoa hồng trắng và hồng nhạt trải trên mộ
Sơn. Mấy cô gái tài hoa và tỉ mỉ chọn những cánh hồng nhung đỏ thắm kết
thành chữ "ANH SƠN" trên thảm hồng trăng nhạt. Và rồi, người ta nhặt
những nhánh hồng và huệ cắm chung quanh thảm hoa đắp trên mộ Sơn làm thành
một vườn hoa hồng và huệ.
Tôi không nghĩ đây là sự sắp đặt trước của ai đó.
Mà đây là ngẫu hứng của những bạn bè, những người hâm mộ đã liên cảm được với
tâm hồn nhà nghệ sĩ tài hoa đang mỉm cười dưới chiếc thảm hoa mà cuộc đời đang
đắp cho Anh đấy thôi, thảm hoa nằm giữa một vườn hoa . Tôi lãng mạn
quá chăng? Hình như không, tôi vẫn nhớ, con gái tôi lưu ý tôi nên đưa vào đây
hình ảnh của hai ông lão hành khất (?), một người mù, một người chỉ còn một
chân, đã dìu nhau vào đề nghị Ban Tổ chức lễ tang hướng dẫn họ vào thắp hương
cho nghệ sĩ của mọi người vừa nằm xuống.., rồi hình ảnh nhóm Nhà Sư mặc áo cà
sa vàng đến hành lễ tưởng niệm, và sau đó, trước Bàn thờ và linh cữu Sơn, họ đã
đồng ca bài "Một cõi đi về", đấy là câu chuyện của ngày viếng trước
hôm 4/4/2001 đưa tang.
Nhưng có điều này thì hình như trái với điều mà Sơn
cảnh báo: “đôi tay nhân gian chưa từng độ lượng". Tôi sai chăng?
Một anh bạn thân của tôi, anh Nguyễn Trọng Huấn nhặt
một bài thơ trên giấy trắng đặt trên tấm thảm hoa đắp cho Sơn. Tác giả, một
sinh viên Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Tp. Hồ Chí Minh ngăn lại "Đừng
chú ơi. Cháu muốn để đấy cho Anh Sơn đọc. Vì cháu viết cho anh ấy mà.
Nếu chú thích thì cháu đọc cho chú chép vậy".
Và đương nhiên là anh bạn tôi chép, và vừa rồi đã đọc
qua điện thoại cho tôi vì biết tôi đang thông tin cho các bạn.
Bài thơ như sau:
KíNH VIếNG ANH SƠN
Bao năm giữa chốn vô thường
Người đi bỏ lại con đường vô vi
Một đời hát khúc tình si
Một ngày gió bụi cuốn đi phong trần
Cát bụi kia, cũng một lần
Phôi pha để trả nợ nần thế gian
Cuộc đời rồi cũng sang ngang
Một đời rồi cũng lỡ làng một phen.
Trước khi về nhà, tôi đã kịp đưa cho Hà, em Sơn, những
bức thư các anh chị gửi cho tôi mà tôi đã in ra, nhờ Hà đặt trên bàn thờ Sơn,
thắp một nén nhang.
Thôi thì cũng là "Ngàn dâu cố quận muôn
trùng nhớ thương... Bỏ xa xôi yêu và gần gũi. Bỏ mặc tôi buồn...".
Chiều ngày 4/4/2001
Xuất hiện giữa công chúng như một ẩn sĩ, với lời lẽ
hư hư thực thực, đầy giằng xé, phủ nhận, nghi hoặc, và tự khoác cho mình một tấm
áo choàng chấm gót cách biệt, gần đây, gặp một Trịnh Công Sơn khác: trầm lặng về
ban ngày, nhiều hội hè, gặp gỡ về đêm. Một Trịnh Công Sơn triết lý xa xôi, nói
năng bóng bẩy, như bù trừ cho một Trịnh Công Sơn giản dị, khép kín, ưa lãng du
ngày nào. Song cái tôi than thở hồn nhiên của anh thì vẫn thế, không giấu được
gốc tích nỗi buồn riêng. Khi cơn cớ thở dài "Đi đâu loanh quanh cho đời
mỏi mệt", cũng là khi anh đang ở đỉnh cuối vô nghĩa của vinh quang, nổi
tiếng và... hư danh. "Ba mươi năm ca hát mộng mị giữa đời, ngoái
nhìn: giấc mộng của người khác" (Trịnh Công Sơn) . Nghĩa là sự
giằng xé bao năm qua vẫn sống, giữa cuộc đời và thân phận; quá khứ và hiện tại;
tuyệt vọng và tự tái tạo niềm tin; cảm giác không tìm thấy mình giữa dòng đời
và lắng nghe mọi va đập, tìm cái tôi ẩn khuất trong chốn "đô thị nát tan của
hồn mình". ám ảnh về thân phận, tình yêu ẩn hiện trong ca khúc của Trịnh
Công Sơn. Hơn 600 ca khúc của anh là sự giãi bày với mọi người, giãi bày mà người
nghe không thấy chán.
Dường như bởi từng góc tâm trạng đều có mặt ta ở đấy.
Nỗi buồn của Trịnh Công Sơn đã đặc trưng hoá cho những mảnh tôi "tự mình
liếm vết thương". Ấy nên, người trẻ hay già đều yêu thích hoặc chấp nhận
ca khúc của Trịnh Công Sơn ở mức khá phổ cập. Cái tôi ấy từng thổ lộ:
"Chúng ta đã đấu tranh như một người trẻ tuổi và đã sống mệt mỏi như một kẻ
già nua. Tôi đang muốn quên đi những trang triết lý, những luận điệu phỉnh phờ.
Ở đó có hai con đường: Một con đường dẫn ta về ca tụng sự vinh quang của đời sống.
Con đường còn lại dẫn về sự băng hoại".
Âm nhạc Trịnh Công Sơn dẫn người ta đến bờ vực để rồi
buộc phải có một giải đáp: sụp đổ hay vượt lên.
Một nỗi đau đã theo đuổi Trịnh Công Sơn từ thuở nhỏ
đến khi trưởng thành: cái chết của người cha - ông Trịnh Xuân Thanh. Cả cha và
mẹ là gạch nối Trịnh Công Sơn với thơ ca (cả nhà mê thơ phú, đàm đạo). Và cũng
chính họ là hai hình ảnh liên kết rõ ràng nhất về thân phận con người. Người
cha bị tù đày ở lao Thừa Phủ nhiều năm vì tham gia kháng chiến chống Pháp. Sau
đó, cha ông chết trong một tai nạn dọc đường. Người mẹ tần tảo buôn bán nuôi 8
con trong thời kỳ người chồng bị giặc bắt và ở vậy cô quạnh một đời. Chỗ dựa
tinh thần của Trịnh Công Sơn ngay từ bé đã khá chông chênh. Không có gì níu kéo
anh ở lại với những dằn vặt nhỏ mọn, những nỗi lo cơm áo trì trệ . . . ,
nhìn thấy cái chết và nhận chân nó cũng là để khỏi vướng bận trước cuộc đời hữu
hạn. Anh đi tìm một cõi riêng, cõi của trí tưởng tượng, của những ánh sáng đẹp
đẽ hơn mà mắt thường không nhìn thấy, mải mê trong cuộc du ca của ước vọng và
nghiền ngẫm, xâu kết về đời sống: anh và những người xung quanh đang tồn tại vì
lẽ gì. Trịnh Công Sơn nhớ lại: “Trong giấc ngủ hằng đêm tôi thường nhìn thấy
cái chết của ba tôi. Nỗi ám ảnh ấy chắc chắn không bắt nguồn từ lớp bụi tro dày
của vô thức làm nên từ những cái chết của tổ tiên mà có lẽ từ những năm tù tội
tra tấn chết đi sống lại của ba tôi trong kháng chiến chống Pháp. Rõ ràng là
cái chết ấy được báo động qua một tâm hồn quá nhạy cảm của tuổi thơ. Ba tôi mất
đi khi tôi mười lăm tuổi. Rất nhiều bài hát đầu đời của tôi đã phảng phất cái
không khí vắng lặng của sự mất mát. Càng về sau, lúc tiến dần về tuổi trưởng
thành, giữa những bức xúc của cuộc sống, giữa những ngày tháng buồn vui, nỗi ám
ảnh ấy đã trở thành lúc nào không hay ngọn nguồn của một nỗi âu lo thường trực
về sự vắng bóng con người . . . " .
Trịnh Công Sơn sinh ngày 28-2-1939 tại Đắc Lắc, lúc
nhỏ sống ở Huế, trưởng thành ở Đà Lạt, Quy Nhơn và Sài Gòn. Có thể nói, Đắc Lắc
cho ra một tính cách cô đơn, mãnh liệt; Đà Lạt nuôi thơ và tâm hồn mộng mị; Quy
Nhơn là điểm gấp khúc của biến động hai miền đất nước; Huế quyện vào không gian
buồn bã, chậm rì trong lời ca. Ngay từ thuở nhỏ ông đã ham mê ca hát, mười tuổi
chơi măng đô lin và sáo trúc, 12 tuổi lần đầu tiên có cây đàn guitare trong đời...
Ở Huế, Trịnh Công Sơn theo học các trường Lyceè Francais, Provindence Huế, sau
vào Sài Gòn học triết ở trường Tây Lyceé J. J Rousseau Sài Gòn. Triết học là
chìa khoá duy nhất giải mã cho tâm hồn người thanh niên non nớt này về cuộc sống,
bản thân. Ca khúc đầu tiên được sáng tác từ năm 17 tuổi Sương đêm và
Sao chiều mang rõ những nét chấm phá này. Nhưng kể từ khi Ướt mi được
Nhà xuất bản An Phú in và phát hành (1959), Trịnh Công Sơn mới chính thức rong
ruổi vào mảnh đất tình ca. Đó là cảm xúc được ghi lại từ những giọt nước mắt của
một ca sĩ nữ sinh vừa rời ghế nhà trường, hát để kiếm tiền nuôi mẹ đang hấp hối
trên giường bệnh. Tuổi hai mươi phơi phới, với ý đồ hiệp sĩ, Trịnh Công Sơn đã
dùng số tiền nhuận bút đầu tiên (5 ngàn đồng) để tặng ca sĩ và chia cho anh em
cùng trọ. Nhưng cũng kể từ đó, thành hình một nguồn cảm hứng khác: "Như một
khu vườn mùa thu yên tĩnh được một cơn gió thổi bùng lên đánh thức lớp lá vàng
dậy, tâm hồn tôi đã bắt đầu biết xôn xao theo những tín hiệu dù nhỏ nhất của cuộc
sống. Tôi không còn nhìn ngắm cuộc sống một cách lơ đãng nữa mà càng lúc càng thấy
mình bị cuốn hút về phía những tình cảm phức tạp của con người".
Cái nhìn chăm chú vào sự chết đã xua đi nỗi sợ hãi
tột cùng của mất mát: đằng sau cái chết và nỗi khiếp sợ liệu có một ý nghĩa
nào, một sự tái sinh nào? Một kiếp người, ngẫu hứng là cuộc rong chơi để lại trở
về hình hài cát bụi, hay còn lẽ gì lớn hơn? Vì sao sinh ra con người đã phải
tuyệt vọng? Chống chọi với tất cả những nỗi hoài nghi trên, ca khúc Trịnh Công
Sơn giăng mắc rất nhiều cái bẫy, cho mình và cho mọi người, để rồi tìm cách thoát
khỏi đó.
Năm 1961, Trịnh Công Sơn bắt buộc phải trốn lính,
nên thi vào trường Sư phạm Quy Nhơn để có hai năm yên ổn. Khoa anh học: Tâm lý
giáo dục trẻ em. Thật buồn cười, thực ra, trong đầu óc chàng trai trẻ ưa phiêu
bạt ấy, học thêm cũng chẳng để làm gì. Tốt nhất là tự chiêm nghiệm và trải qua
cuộc đời - vốn dĩ không có gì mới. Không gian biển cả và tâm trạng chớm yêu của
gã trai mới lớn đã làm nên những rung động đầu mùa: Diễm xưa, Nhìn những
mùa thu đi, Biển nhớ. . . Tất cả dồn nén buồn quay quắt. Tình yêu là một
chùm quả chỉ để ngắm nhìn, dĩ nhiên, nhiều hư ảnh nhưng cũng đầy than trách, tiếc
nhớ, bị nhấn chìm trong cách xa và chia lìa, trong sự tan hoang của ký ức. Mối
tình với Bích Diễm, rụt dè và thầm kín, một thoáng cháy bùng để rồi sớm tắt
ngay trong chính nỗi ngơ ngác của gã trai kia. Nhưng khi nhìn ngắm lại kỷ niệm
thì "Làm sao em biết bia đá không đau!”. Lần đầu tiên, anh cày xới
trên nỗi yêu một thứ triết lý muộn màng. “Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau”. Và
cũng chính lúc đó, khái niệm “đau” trong tình yêu mang nghĩa lớn hơn, cái đau của
một kiếp người được mở rộng ra nhiều kiếp, nỗi thiệt thòi khi cảm nhận được mất
mát không gói trong ngần ấy câu chữ mà thôi. Anh lân la trong tuổi trẻ của
mình, để thấy cái gì là phù du, cái gì lay động, cái gì không thể mất. Lãng du
vào hồn mình, thay vì đi qua mãi những mảnh đất khác nhau, vào cõi gốc của lòng
khát sống. Ví mình như hạt bụi, như loài sâu ngủ quên, như lau trắng, mưa, nắng,
như những phận tầm gửi nhưng lại biết hát lên khúc ca cuối cùng. Lúc nào cũng vội: nắng
tắt, rừng khô héo, vội vàng thêm những lúc yêu người; người đã đến, và người sẽ về bên
kia núi... Các vật thể được truyền vào một đời sống khác - đời sống của
tâm trạng: Đường phố cười, đường phố hao mòn, tay nhanh lấp đầy hố tuyệt vọng... Dần
dà, chính Trịnh Công Sơn cũng tự đi đến trạng thái vô thức lúc nào không hay:
Các ca từ được nạp điện giàu sức gợi cảm hơn. Kiểu như: "Loài sâu ngủ
quên trong tóc chiều”, “Nghe tiền thân về chào tiếng lạ”, “Chập chờn lau trắng
trong tay”, “Dưới mặt trời ngồi hát hôn mê". Và đó chính là thơ. Thơ
dẫn nhạc theo gót vào chốn không tưởng, rũ mọi tạp âm để có thể cất lên những
giai điệu hồn nhiên nhất, da diết nhất, cho dù đôi khi chỉ là tiếng thở dài...
rất Việt.
Khu vườn siêu thực đưa Trịnh Công Sơn nhanh chóng đến
đỉnh cao của mọi cảm nhận âm thanh. Vị giác: “Môi ốm o lời thề"; xúc
giác: “Lời cỏ cây hát trên da người"; thính giác: “tiếng hát
xanh xao của một buổi chiều”; thị giác: “Nắng thủy tinh”; khứu
giác: "Lời ca dạ lan như ngại ngùng” và một giác quan nữa - vùng
tâm thức đổ bóng "hồn xanh buốt”, "vùng u tối của loài sâu...”
Hay là những tiếp nhận hình tượng tưởng như rất vu vơ: “Ta thấy em trong tiền
kiếp, với cọng buồn cỏ khô", (Rừng xưa đã khép)... Sự vật,
hoặc siêu hình, hoặc thật mong manh (tình mong manh, gió mong manh, nụ cười
mong manh, cỏ lá mong manh, sống chết mong manh, môi rồ dại. . . ) cuối
cùng cũng được mặc áo tâm trạng của một thời kỳ muốn sống vội, yêu vội lĩnh hội
mọi điều bí ẩn của tâm linh. Dấu chân địa đàng là dòng xiết của siêu
thực: âm điệu như nước cuốn trôi, không kìm nén nổi, rồi phá tung mọi kìm hãm,
rồi tạm lắng, rồi như đất khát. . . là sự nổi loạn chống chọi thời
gian, định mệnh, lãng quên, mà cuối cùng vẫn vô định. Nhũng ca khúc ấy in đậm
vũ trụ quan và thế giới quan của Trịnh
Công Sơn, một kẻ ngạo mạn sáng tạo ra một cõi, rồi
lại bối rối bởi không chạy thoát được cái xô ngã của đời sống, sực tỉnh giữa
mê.
Nếu như Diễm xưa mở ra một không gian
hoài niệm, câu thúc trong sự thoái thác của mưa, với cánh cửa ngôn từ giàu tượng
hình, thì Lời buồn thánh đi vào tâm trạng cô đơn, không lối thoát
trong tình yêu với những khuấy đảo vô vọng, lặp lại vùng không gian - thời gian
trong sự đổ vỡ, tàn hoang của tâm hồn đồng vọng. Viết về ca khúc Trịnh Công
Sơn, nhà phê bình Bửu ý từng nhận định: "Nhạc của Trịnh Công Sơn không tuyền
là nhạc, bài hát không chỉ là bài hát. Mỗi bài là một truyện ngắn. Mỗi ca khúc
là một chương khúc của truyện dài không có kết thúc, vẫn mở ra như một vết
thương - một vết thương người, một vết thương thời đại...".
Nhưng vì sao tình yêu lại là một cuộc leo dốc và
trượt dài không sao cứu vãn nổi? Đằng sau tình yêu là gì? Phải là cõi
“mê", là một thế giới của mất mát? Là con đường tàn lụi?
Điều đó tuỳ thuộc vào thân phận hay đúng hơn là
khuôn khổ một đời người. Đi ra khỏi mọi giới hạn, để rồi không trở về được nữa,
cũng là một bi kịch?
Đây cũng chính là thời điểm chín rộ của tài năng.
Trước đó, Trịnh Công Sơn trải qua một giai đoạn tìm tòi để lột xác. Vào những
năm 1956 - 1957, thời của những “giấc mộng ngổn ngang, của những viễn tưởng phù
phiếm non dại. . . " lúc này, Trịnh Công Sơn chưa có ý trở thành
nhạc sĩ hay sáng tác ca khúc. Trằn trọc đêm này qua đêm khác vì tự dằn vặt
"cái trò lãng mạn viết lách", "xướng ca vô loài". Nhưng ca
khúc đã nhập hồn vào Trịnh Công Sơn. Trở thành phương tiện giúp anh tỏ tình với
cuộc sống. Những năm về sau, hình thành một quan niệm sống rõ rệt: "Sống
là sống với người khác, và muốn có cảm thông thì phải bộc lộ mình". Anh hiểu
rằng anh được tự do trên mảnh đất (ca khúc) này.
Hoạ sĩ Đinh Cường, bạn thân của Trịnh Công Sơn, nhớ
lại: vào thời kỳ này, Sơn thường mặc độc nhất một chiếc áo kaki bạc màu, khắc
khổ. Anh là một trong những người thầy dạy học ở miền núi sớm nhất. Sống hoang
vu nhất. Căn phòng Sơn ở với chiếc mùng rủ sẵn quanh năm, chim sẻ làm tổ đầy
trên trần nhà, mùi rơm và phân chim ẩm mốc, xác những bao Bastos xanh chất
thành đống. Có lần, người em trai của Sơn đến thăm, không gặp, ra ngoài quán,
thấy Sơn đang chơi bi da một mình trong ánh đèn tù mù. Sơn cô đơn đến như vậy.
Thời của tuổi trẻ tự tìm đến với những nỗi cô đơn khốc liệt để bùng lên những
sáng tạo cần thiết.
ca khúc là sự lựa chọn "bất khả kháng" của
Trịnh Công Sơn, bởi như đã nói, đó không chỉ là nhu cầu tự thân, mà còn là cửa
mở duy nhất để nhạc sĩ tìm thấy tự do, sự an ủi, những "câu hỏi buốt trí
não của đời sống", để giết chết nỗi buồn của mình. Với Trịnh Công Sơn,
quan niệm sáng tác khá rõ ràng, chính anh không hề úp mở: "Hàng trăm ca
khúc viết xong có thể gom lại thành một cuộc đời thu nhỏ.
Viết cả trăm bài càng thấy thiếu. Bởi vì con đường
tình yêu đi mãi không cùng. Con đường số phận đi hoài không tận.nBằng ca khúc,
tôi muốn mang đến những quà tặng cho anh em bằng hữu tôi trong cuộc liên hoan
trên đất đai xứ sở này. Ca khúc là một cuộc hôn phối kỳ diệu giữa thi ca và âm
nhạc". Dường như đặt bút vào Ướt mi, Trịnh Công Sơn đã nghiệm ra
được chân lý riêng của mình: cái khả năng to lớn sau cùng của ca khúc là mang đến
cảm thông giữa mọi người bằng tiếng hát. Đó là sứ mệnh truyền đạt những âu lo,
chờ đợi của con người khi đối diện với chính mình trước cuộc sống, cũng như
thông điệp tình yêu và nhân ái đến với những tâm hồn yêu chuộng hòa bình và những
con tim đang bị ngộ độc bởi ngòi thuốc nổ.
Trong dòng ca khúc của Trịnh Công Sơn, có thể thấy
rõ quan niệm sáng tác qua từng giai đoạn: dòng ca khúc trữ tình, dòng ca khúc
chống chiến tranh (phản chiến) và dòng ca khúc âm ỉ thứ ba: giải thoát bản ngã.
Giữa thập niên 60 là thời kỳ sáng tác sung sức nhất
của Trịnh Công Sơn. Trong số các khuynh hướng sáng tác âm nhạc ở miền Nam (1954
- 1975) (bao gồm khuynh hướng âm nhạc chống cộng, khuynh hướng âm nhạc lành mạnh,
khuynh hướng âm nhạc yêu nước và cách mạng), sự xuất hiện các bản tình ca của
Trịnh Công Sơn mang một vị thế nhất định, một sức sống mới. Đối tượng với tình
ca Trịnh Công Sơn có dòng nhạc "tiền chiến" được phục hưng và phổ biến
mạnh mẽ trở lại. Bên cạnh đó, ca khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn đối lập với
nhận thức một chiều về chiến tranh theo kiểu tâm lý chiến.
Ca khúc trữ tình là phần nghiêng trong sáng tác của
Trịnh Công Sơn, đặc biệt là thời kỳ trước 1975, trong số 400 bài hát được xuất
bản và phổ biến. Ở giai đoạn đầu, âm hưởng chính là nét trữ tình lãng mạn. Trịnh
Công Sơn vẽ ra những bầu trời có cánh bướm, cánh chuồn, cánh vạc, màu môi hồng
ngọc, những "bóng tối ở đó tẩm liệm hồn người" (lời Trịnh Công Sơn).
Anh mơ một tiếng hát hân hoan như ngọc chảy trên tay một người con gái, mỗi
viên ngọc chứa tâm hồn đá núi ngàn năm. Có thể, đó là ước vọng thơ ngây của tuổi
trẻ, của trí tưởng tượng đi theo vệt mòn các bậc “tiền bối" thuộc dòng ca
khúc lãng mạn trữ tình trước và sau 1945. Một chút cô đơn sầu nhớ, một ít tuyệt
vọng, sự than thở của cây thụ cầm nhiều âm trầm, ảo tưởng tình yêu đuổi bắt chập
chờn... "Gọi em cho nắng chết trên sông dài”, “Thương ai buồn kiếp
người, lạnh lùng ánh sao rơi"... Một kiểu tình yêu gần như đơn
phương, phảng phất vị tiếc nuối, có phần hơi kể lể, trong một không gian hồi tưởng
không mấy xê dịch, biến chuyển, trong điệu thức âm u của tâm trạng. Ở những ca
khúc đầu tay, thời gian được xoá nhoà trong cõi mộng, gờn gợn thứ âm nhạc
"liêu trai" nhiều hư ảnh. Tóm gọn lại, chỉ là một góc cạnh đa cảm của
nhạc sĩ trẻ mà thôi.
Nhưng vào thời kỳ bỏ dạy học ở Blao (Lâm Đồng) về
Sài Gòn, guồng xiết của không gian đô thị đã lần lượt bóc đi lớp vỏ uỷ mị, hiền
lành trong những ca khúc tương tự như thế. “Cơn gió lãng mạn trữ tình của một
thời niên thiếu” như Trịnh Công Sơn từng gọi đã được thay thế bằng những
"cơn lốc dằn vặt trên thân phận con người" trong chiến tranh. Cuộc sống
nhiều cọ xát đã xua đi các ảo tưởng. Những ca khúc trữ tình của Trịnh Công Sơn
sâu sắc hơn, gập ghềnh hơn: “Những ngày ngồi rủ tóc âm u, nghe
tiền thân về chào tiếng lạ”, “Một ngày còn sống, chiếc bóng lung linh, một đời
về không, hai tay quy hàng”, “Ngủ yên đời đi con như vết thương đau ngủ buồn
như trùng dương mắt thâm còn nghe ngóng, tôi một hôm chợt thấy hoang vu quanh
mình"...
Thậm chí dửng dưng “Một lần nằm mơ tôi thấy tôi qua
đời... lòng không buồn mấy..” Triền mạch hoang mang và thấu suốt, tô và
xoá, lồng quá khứ trong hiện tại. Tình yêu siêu thoát, tưởng đã gục ngã, nhưng
không phải, không bi lụy hay khóc than khô khốc mà vạch một nét nhân bản sâu
xa. Những linh cảm về đổ vỡ, huỷ diệt làm "Nhói lên những con âm tha thiết
và tha thiết là vũ khí duy nhất của con người để kháng cự huỷ diệt" (Hoàng
Hưng).
Rất có thể, Trịnh Công Sơn đã lạm dụng chữ "tình",
“sầu”, “buồn" trong nhiều bài hát. Nguồn khơi mạch này dễ dẫn
người ta đến triền dốc buông thả, quy hàng trước nghịch cảnh. Nhưng đó chỉ là nỗi
ám ảnh không gian và thời gian, nỗi ám ảnh của Định mệnh. Còn không là một cõi
hư vô. Đến một cường độ nào đó, người ta bỗng thôi tuyệt vọng, mà tự mình trồi
lên thở như cá. Đấy là phần kết "có hậu” trong những nỗi tuyệt vọng mà Trịnh
Công Sơn tự đánh đắm tàu mình. Thường tự ví là "phận cỏ hèn"; “Đời ta
có khi tựa lá cỏ, ngồi hát ca rất tự do. . .”, ít nhiều họ Trịnh chịu ảnh
hưởng Albert Camus. Tự đầy đoạ mình trong "mối yêu thương con người”. Ngỡ
"Thiền" mà lại không, mọi nỗi đau quá biến động trong cái vỏ ngôn từ
có thể gọi tên được. Tin vào kiếp luân hồi: “Hạt bụi nào hoá kiếp thân
tôi, để một mai tôi về làm cát bụi”. Vào hư không: "Chiều hôm thức
dậy, chập chờn lau trắng trong tay". Vào hoá thân: “Ta thấy
em trong tiền kiếp". Cứ như thế, thế giới nội tâm của Trịnh Công Sơn
tự loại bỏ mâu thuẫn, săm soi từng khoảnh khắc hiện tại, nhìn lùi quá khứ xa
xăm, tìm cứu cánh ngoài bản thân mình. Trịnh Công Sơn từng thú nhận: "Nỗi
sầu muộn lớn nhất là không bao giờ nói hết được lòng mình. Tôi tập cho tôi biết
sững sờ trước những điều dung tục, đồng thời tôi cũng tập cho tôi biết giữ lòng
bình an trước những hiểu nhầm”.
Chiến tranh đã xáo trộn tất cả. Một loạt mâu thuẫn
nội tại trong tiềm thức Trịnh Công Sơn bị dội sang một bên. “Bây giờ ta nhìn
khói trời mênh mông. Ta nhìn ta về giữa trời hư không. Tên em là vết thương
khô” (Khói trời mênh mông). Giữa một nền trời như vậy, thân phận con người
là một vấn nạn. Những bài hát trong hai tập Ca khúc da vàng và Kinh
Việt Nam trưng dụng những màu sắc hoàn toàn điên đảo, không nhằm miêu tả
tường thuật chiến tranh, mà vẽ ra những phóng xạ chiến tranh. Với tư cách nhân
chứng, Trịnh Công Sơn ghi lại tất cả nỗi đau đớn "viết trên xác người"
và nỗi đau đớn đó trào dâng thành uất hận ngùn ngụt khi được hát trên môi.
Thái độ đầu tiên phản kháng chiến tranh là trốn
lính. Để được miễn quân dịch, Trịnh Công Sơn bỏ lên sống ở Lâm Đồng, sâu trong
vùng núi heo hút. Sau đó, anh quyết định về lại Sài Gòn. Để có được hai năm trời
sống thong dong hợp pháp, Trịnh Công Sơn phải nhịn đói tuyệt đối 60 ngày (mỗi
năm 30 ngày) trước khi ra trình diện. Cộng thêm uống thuốc điamox (loại thuốc
rút bớt nước trong tế bào ra) để xuống ký nhanh. Một thời gian sau, anh không
phải ra trình diện nữa vì người anh gầy còm y như dân xì ke, sức khoẻ suy sụp
thực sự. Như một kẻ vô gia cư, Trịnh Công Sơn lang thang cùng một số sinh viên
trong những căn nhà tiền chế tồi tàn bỏ trống ở khu đất sau Đại học Văn khoa.
Ngủ trên ghế bố hay nền xi măng, đến đánh răng ở các quán cà phê quen biết.
Sống trong thời kỳ bấp bênh đó, Trịnh Công Sơn vẫn
viết và hát. Đó là thời kỳ sôi động nhất trong đời người nhạc sĩ trẻ. Những ca
khúc của anh được in ra từng tờ rời và tuyển tập. Dần dà, việc in ấn cũng khó
khăn vì bị cảnh sát truy lùng, phải rải ra in ở bốn nhà in khác nhau. Vì tính
chất phản chiến của ca khúc Trịnh Công Sơn nên chính quyền ra lệnh tịch thu.
Các báo trong và ngoài nước đổ xô tìm gặp Trịnh Công Sơn phỏng vấn. Nhưng quan
trọng hơn, cái không khí chết chóc, đau thương của chiến tranh đã ngấm dần vào
tâm hồn nhạy cảm của Trịnh Công Sơn, và anh đã viết nên những bài hát như đùa
chơi với ma quỷ, chết chóc, mà thực ra là nỗi đau thương nước đến bàng hoàng.
Bài ca dành cho xác người: "Hàng vạn chuyến xe mang vô thị thành, từng
vùng thịt xương có mẹ có em" (Đại bác ru đêm). Hay “Mẹ vỗ tay reo mừng xác
con, mẹ vỗ tay hoan hô hoà bình”, (Hát trên những xác người), “Người già co ro
ngồi nghe tiếng nổ, em bé loã đồ khóc tuổi thơ đi” (Người già và em bé).
Là người quan sát, nhưng Trịnh Công Sơn không dấu nổi
tâm trạng đau đớn khi đối diện với sự chết chóc của đồng loại. Anh khóc cho những
thân phận con người, thân phận đất nước trong chiến tranh: "Giọt nước
mắt thương dân, dân mình phận long đong". "Ôi quê hương đã lầm than
sao còn còn chiến tranh, mẹ già hết chờ mong đã ngủ yên" (Du mục). Dù
khai thác cái bi thương nhưng những bài ca trong Ca khúc da vàng vẫn
toả ra tình yêu thương quê hương. Cái cảm giác trải qua chiến tranh làm con người
già đi, nhưng lại lớn hơn trong nhận thức: “Đường phố nào còn nằm che giấu, cho
tôi đi giữa nhân loại đớn đau” (Có những con đường). "Khi tôi đứng
bên một xác người", - Trịnh Công Sơn thổ lộ, - tôi không nghĩ đó là ta hay
là địch, mà đó là một thân phận chịu đựng sự vô nghĩa của chiến tranh".
Anh có một ước muốn duy nhất và đơn giản: "Khi đất nước tôi không còn
giết nhau, trẻ con đi hát đồng dao ngoài đường". Hay "Đường
tương lai không ai thù ghét ai”. Mặc dù quan niệm về chiến tranh còn chưa
rạch ròi, nhưng những khúc đoản ca bi phẫn của Trịnh Công Sơn đã đẩy âm nhạc
lãnh một sứ mệnh: kêu gọi hoà bình. Vào thời kỳ này, ca khúc phản chiến của Trịnh
Công Sơn được phổ biến rộng rãi ở nước ngoài. Bài Ngủ đi con trong tập Ca
khúc da vàng đã đoạt giải Đĩa hát vàng ở Nhật vào năm 1972, qua
giọng hát Khánh Ly (trên hai triệu đĩa). Kể từ đó, tên của Trịnh Công Sơn có
trong cuốn Tự điển Bách khoa Pháp. Không chỉ mở ra vết thương người,
vết thương nhân loại trong chiến tranh, ca khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn
còn vươn tới một tầm cao hơn - là tiếng kinh cầu cho linh hồn đau khổ siêu
thoát, là sự bất lực hoá thành ăn năn. Chính vì thế, dòng ca khúc phản chiến của
Trịnh Công Sơn hé mở nhân cách của người nghệ sĩ trước thời cuộc và chuyển tải
vào đó tiếng nói phẫn nộ của hàng triệu con tim. Ảnh hưởng loại ca khúc này với
công chúng miền Nam khá sâu rộng. Trước ngày 30-4-1975, chính Trịnh Công Sơn đã
cùng với một số nhạc sĩ khác hát vang ca khúc Nối vòng tay lớn trên
đài phát thanh của chế độ cũ, truyền loan tin thống nhất đất nước cho mọi nhà.
Sau 1975, một thời kỳ thử thách lại đến với Trịnh
Công Sơn - thử thách về lòng kiên nhẫn, ý thức dấn thân vào đời sống. Trải qua
hai năm học tập ở Cồn Tiên, vùng đất hoang vu đầy bom đạn, Trịnh Công Sơn có được
một thời kỳ yên tĩnh để nhìn lại mình trong các biến động lịch sử. Suốt một thời
gian dài hầu như anh không sáng tác. Đó là lúc anh tìm "chân dung của nỗi
khát khao", đi tìm cái chưa bao giờ viết được. “Tiếng hát từ đó sẽ giải
thoát mình ra khỏi mọi ràng buộc, mọi trì kéo"... (Trịnh Công Sơn). Lần lượt
đi thực tế nông trường theo anh em thanh niên xung phong. Gặp 20 người con gái
Thanh niên xung phong ở nông trường Nhị Xuân. Hôm sau nghe tin các cô đã hy
sinh ở biên giới Tây Nam. Ca khúc bấy giờ cất lên tiếng nói của mình: soi tỏ
hơn nữa số phận con người. Hàng loạt ca khúc mới ra đời, là băn khoăn đời thường,
ý chí vượt qua tuyệt vọng để sống và thèm sống: Mỗi ngày tôi chọn một niềm
vui, Tuổi đời mênh mông, Huyền thoại Mẹ, Đoá hoa vô thường, Em còn nhớ hay em
đã quên, Em ở nông trường, em ra biên giới, Ru đời đi nhé, Sóng về đâu... Vẫn
là một Trịnh Công Sơn than thở, ví mình là cỏ, thích ca hát, rong chơi. Nhưng
đã là một Trịnh Công Sơn đã thấu hiểu cuộc đời, tự điều chỉnh mình bằng sự cân
bằng nội tại. "Tìm trong vô thường có đôi dòng kinh sấm bay rền vang,
bỗng tôi thấy em dưới chân cội nguồn, nụ cười mong manh, một hồn yếu đuối...”
(Đoá hoa vô thường). Hay tự khuyên nhủ mình "Tôi là ai mà yêu
quá đời này” (Tôi ơi đừng tuyệt vọng), “tôi đang lắng nghe im lặng đời mình", (Im
lặng thở dài), “Mỗi ngày tôi chọn một lần thôi, chọn tiếng ru con nhẹ bước vào
đời”, (Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui). Nhưng nhìn chung, càng về sau, ca
từ Trịnh Công Sơn thấu hiểu cuộc đời, tự điều chỉnh mình bằng tình, kể lể nhiều
hơn. Chất bi thương giảm hẳn, bù lại là một gắng gỏi tồn tại không vô nghĩa. Vẫn
là triết lý về thân phận, tình yêu, nỗi cô đơn, nhưng ở một góc nhìn khác, một
nỗi buồn khác. Yếu tố siêu thực trở nên nhạt nhoà so với sáng tác trước 1975.
Cô đơn và trầm tư, nhạc sĩ đào sâu vào bí mật của tồn tại, vào việc giải thoát
bản ngã. "Hai mươi năm xin trả nợ người, trả nợ một đời không hết
tình đâu”. Những triết lý có phần yếm thế, dù đã gắng vui nhưng không mấy
hồn nhiên. Và chẳng bao giờ giải thoát nổi cho mình ra khỏi sự rối rắm của ý muốn.
"Tôi không bao giờ nhầm lẫn về sự khổ đau và hạnh phúc. Nhưng tôi thử rơi
vào cơn hôn mê trước giấc ngủ. Ở biên giới đó tôi hoảng hốt thấy mình lơ lửng
giữa sự sống và cái chết. Những giây phút như thế vồ chụp lấy tôi mỗi đêm. Và
tôi đau đớn nhận ra rằng, có lẽ cuộc đời đã cho ta lắm ngày bất hạnh. Mỗi ngày
sống tới, tôi thấy đời sống nhỏ nhắn thêm", "Nhưng khỏi phải e ngại rằng
Trịnh Công Sơn định làm triết lý thay vì âm nhạc" - nhà văn Hoàng Phủ Ngọc
Tường bình luận. “Điều khiến cho tình ca Trịnh Công Sơn sống mãi trong lòng người
chính là ở đây. Dù những trầm tư của tác giả đi xa đến đâu, âm nhạc Trịnh Công
Sơn vẫn là cõi riêng dành cho tình yêu. Nó chứa đựng tất cả tâm trạng lo âu của
con người nhạy cảm nhìn ra thế giới hiện đại".
Ca từ trong ca khúc Trịnh Công Sơn, như đã nói, là
thơ. Ở đó đầy rẫy những hình tượng biểu cảm: “Tóc em từng sợi nhỏ, rớt xuống đời
làm sóng lênh đênh”, hay “Vai em gầy guộc nhỏ như cánh vạc về chốn xa xôi”. Sự
tìm tòi, sáng tạo chữ nghĩa ở Trịnh Công Sơn luôn hướng về cái lạ, sự liên tưởng
đột biến để rơi vào cõi vô thức. Nhà thơ Nguyễn Duy từng nhận xét: "Quỷ thật,
giai điệu ấy, lời ca ấy tự nhiên ghim lại trong tâm tưởng tôi ngay từ phút bất
chợt ấy. Cái đẹp từ câu nhạc, cái đẹp trong ca từ cả xác chữ lẫn hồn thơ, lảng
bảng, lờ mờ, khó phân định đúng nghĩa, nhưng rõ ràng đẹp làm sao và cũng hơi ma
quái thế nào...” Chất mê muội nhiều xáo trộn của ngôn từ Trịnh Công Sơn làm nên
sự kết dính của liên tưởng. “Trí óc và cảm xúc của Trịnh Công Sơn phù hợp với tổng
hợp hơn là phân tích, nghiêng về kết hợp hơn là phân chia. Hình ảnh chiếc cầu đối
với anh là một lời mời gọi cất bước sang bên kia, đồng thời chuyển biến sang
bên này và ngược lại. Băng qua cầu là để sống với bên kia và nhớ sang bên này.
Trong nỗi sống đã tượng hình nỗi nhớ. Người đi trên cầu không những nhìn ôm cả
hai phía mà có thể nhìn cút bắt với những khuỷu sông thấp thoáng ẩn hiện, cấu tạo
dần dần trong tâm khảm cái dư cảm lìa xa, mất mát" (Bửu ý).
Nhịp điệu chậm rãi, quay tròn, đều đều, hễ bài hát
cất lên là người ta nhận ngay ra gương mặt Trịnh Công Sơn. Lúc là giai điệu buồn
tẻ của mưa, vòng xoay của hoài niệm, khi là tiếng nói âm u từ một cõi khóc, trầm
khô. Những khi dòng nhạc không làm chủ được giai điệu, cứ như xô lấn để dệt nên
một nỗi tuyệt vọng. Cũng có khi là tiếng thét, là nỗi hờn héo úa... Vui trong
buồn, buồn trong vui, những giai điệu quyến rũ là ở chỗ không biết nên phân loại
vào cấp độ tâm trạng nào. Người viết cứ than thở, giai điệu theo sau tán thưởng
bằng sự chơi vơi - đó là những nỗi buồn "không chân" bay rải rác la
đà trên mặt đất, trong một phút ngẫu hứng, Trịnh Công Sơn xâu chuỗi lại thành một
mê khúc mang âm hưởng những điệu hát Chàm ru hời về một vương quốc đã mất. Hay
là một chút réo rắt của nhạc cung đình Huế. Nhưng có một điều lạ, là cho dù âm
nhạc Trịnh CôngSơn luôn rủ rê người ta buồn rũ ra, không cười được, cũng không
khóc được, cũng chính là khi rệu rã nhất, người ta phải tự nạp năng lượng để
không rệu rã thêm và thoát ra khỏi cái mê cung buồn sầu ấy lúc nào không hay.
Cũng có khi nỗi buồn đó của giai điệu quấn quýt không rời và làm nên một niềm
an ủi vô cớ. Có phải là vì "Trịnh Công Sơn nắm bắt được tiết tấu bản chất
của Định mệnh kiểu phương Đông, đặc biệt Việt Nam trong nhịp bốn và năm âm tiết"
chăng? (Hoàng Hưng) . Hay nỗi buồn của con người cũng có giới hạn,
như những âm trầm khi đã chạm đến đáy sâu trầm nhất thì tất yếu phải dội lên,
phải phản hồi những cung bậc cao hơn?
Nói về cuộc gặp gỡ "tri âm" với âm nhạc
Trịnh Công Sơn, nhạc sĩ Văn Cao viết: "Tôi gọi Trịnh Công Sơn là người thơ
ca (Chantre), bởi ở Sơn, nhạc và thơ quyện vào nhau đến độ khó phân định
cái nào là chính, cái nào là phụ. Và nơi Sơn đã hát về quê hương đất nước bằng
cả tấm lòng của một dứa con biết vui tận cùng những niềm vui và đau tận cùng những
nỗi đau của Tổ quốc mẹ hiền... Trong âm nhạc của Sơn, ta không thấy dấu vết của
âm nhạc cổ điển theo cấu trúc bác học phương Tây. Sơn viết hồn nhiên như thể cảm
xúc nhạc thơ nó trào ra. Nói như nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát, người bạn già của
tôi “Trịnh Công Sơn viết dễ như lấy chữ từ trong túi ra”. Cái quyến rũ của nhạc
Trịnh Công Sơn có lẽ là ở chính chỗ đó, ở chỗ không định tạo ra một trường phái
nào, một triết học nào mà vẫn thấm vào lòng như suối tưới. Với những lời ý đẹp
và độc đáo đến bất ngờ hôn phối cùng một kết cấu đặc biệt như một hình thức của
dân ca hầu như không thay đổi, Trịnh Công Sơn đã chinh phục hàng triệu con tim,
không chỉ ở trong nước, mà ở cả bên ngoài biên giới nữa. Và nếu không lầm thì dấu
ấn của Sơn đã ít nhiều in trên tác phẩm của một số nhạc sĩ thời kỳ sau
1975".
Sẽ không công bằng nếu như nhắc đến sự nghiệp của
Trịnh Công Sơn mà lại không nhắc đến một giọng hát thở than điêu luyện và vào bậc
nhất cho ca khúc Trịnh Công Sơn: Khánh Ly. Người ta không ai thoát ra khỏi những
ám ảnh mà không chỉ do nhạc, do lời ca mà do cả cái giọng khàn khàn trầm ấy
cuốn hút. Khánh Ly hát như thở, không uốn éo, làm duyên, nhưng lạ kỳ thay, tiếng
hát làm nên sinh khí cho ca khúc Trịnh Công Sơn, như cỏ và sương đêm vậy. Từ ca
khúc phản chiến đến ca khúc trữ tình, tất cả làm thành một không gian - Khánh
Ly.
Không gian khói sương, cánh hạc bay vút, và đôi khi
chán chường ê chề, không thể khác. Tiếng hát Khánh Ly mà đã bủa vây thì không để
lại một lối thoát nào ra khỏi những gì mà lời ca đang than thở. Hít một hơi thở
sâu không khí tươi mát để thay vào những lời ca thán khí, đó là chất mới ở
Khánh Ly. Đó là giọng hát từ quá khứ dội lại, đê mê và đầy liên luỵ, không ảo
tưởng nhưng lại đầy ẩn dụ. Có một thời bao nhiêu đồn đại, cho rằng Khánh Ly và
Trịnh Công Sơn hẳn phải là một cặp tri âm tri kỷ kiểu như "Bá Nha - Tử Kỳ"
mới cho ra những ca khúc và giọng hát ăn khớp nhau như thế. Nhưng theo Trịnh
Công Sơn thì ngày trước, anh và Khánh Ly như hai người bạn thân. Mối giao cảm
tinh thần chỉ dừng lại trong những khoảng khắc xuất thần nhất của câu hát và
bài hát. Còn hiện tại? Mỗi người ở một phương, nghĩ về nhau cũng như những nốt
nhạc tuổi trẻ.
Song nếu nói rằng những mối tình đi qua đời Trịnh
Công Sơn đều nhàn nhạt để tàn phai là không phải. Thời trai trẻ, không chỉ một
hình bóng Diễm xưa, mà còn rất nhiều hình bóng khác đi vào ca khúc
chàng lãng du họ Trịnh. Người em của Bích Diễm là một kỷ niệm sâu đậm trong
anh. Mối tình cuộn lên trong Biển nhớ, Nắng thủy tinh dành cho Ngô Vũ
Dao Ánh. Người con gái có đôi môi đỏ rực, đôi môi hồng ngọc, là nỗi thảng thốt
đầu đời của Trịnh Công Sơn trước cái đẹp của người con gái. Khi Diễm đi lấy chồng,
cô chị còn gửi lại lời than trách cho em: "Em biết chị vẫn yêu anh Sơn,
sao lại viết thư tỏ tình với anh ấy?" Hoá ra cả hai đều say mê chàng lãng
du họ Trịnh cùng một lúc. Về sau, Dao Ánh lấy một người đàn ông thành đạt, sang
sống ở Canađa. Một mối tình khác trong Nhìn những mùa thu đi là dành
cho Phương Thảo, cô gái Huế duy nhất trong đời Trịnh Công Sơn. (Hầu như Trịnh
Công Sơn thường phải lòng những cô gái miền Bắc, giọng nói nhỏ nhẹ, tóc dài,
dáng cao cao mảnh mai...). Thuở đó, anh làm gia sư tiếng Pháp cho Thảo. Một mối
tình với cái hôn đầu đời "luống cuống không biết đặt vào chỗ nào". Rồi
sau đó có nàng Phùng Thị với đôi khoen tai to tròn mà họ Trịnh nhìn thấy trên
cao nguyên Đà Lạt: “Ta thấy em đang ngồi khóc, khi rừng chiều đổ mưa”...Những mối
tình như nắng, bùng lên mãnh liệt rồi lại nhạt nhanh, nhưng để lại không ít nỗi
ngậm ngùi trong tâm hồn gã trai đã bán cho ca khúc mất rồi...
Trích từ Những người lao động và sáng tạo, NXB
Lao Động
Ở đâu và bao giờ cũng vậy, mỗi khi nghe tiếng anh nói
cười, tôi đều cảm thấy yên tâm vô cùng... "Ô, Mai hả, có qua không?"
Tôi cười..." Em cũng chưa biết tính sao, để xem đã nghe anh...". Miệng
thì nói vậy, sáng hôm sau tôi đã có mặt ở phi trường. Chuyến bay cất cánh lúc 7
giờ sáng.
Trời lúc đó đã sang tháng 4. Tuyết vẫn phủ trắng xoá
hai bên đường từ phi trường về nhà. Hình như cái gì vào lúc sắp hết cũng mạnh mẽ
thêm, như ánh lửa, như cơn nắng, như mưa dông, như tình yêu - rồi mới chịu dứt
hẳn, mới chịu buông tay chấp nhận. Cũng may tôi chuẩn bị áo lạnh đầy đủ, vậy mà
cũng không tránh khỏi những xuýt xoa. Tôi đi thẳng lên lầu, rón rén bước vào
phòng. Anh đang ngủ. Giấc ngủ buổi chiều. Khuôn mặt gầy, xương xương góc cạnh.
Cái kính gọng vân vân như đồi mồi để trên bàn đầu giường. Anh gầy quá. Tôi bước
lại gần anh hơn. Rất nhẹ nhàng tôi cúi xuống, nhìn sát mặt anh. Tôi không nghe
hơi thở của chính mình. Tự dưng tôi muốn hôn lên trán anh. tôi không làm thế.
tôi muốn nắm lấy bàn tay rất gầy có những ngón thon dài, đặt trên ngực. Tôi
không làm thế. Và cũng rất nhẹ nhàng như khi bước vào, tôi ra ngoài phòng khách
ngồi nói chuyện với Tâm, Tịnh và anh Thích.
Anh bước ra, tay vuốt tóc, tay chỉ tôi... “A, tới rồi
à. Tới hồi nào vậy..." Giọng anh không hề có chút ngạc nhiên, làm như cái
chuyện tôi đến, anh đã biết. Ngày xưa cũng thế. Chúng tôi ôm choàng lấy nhau,
và đến lúc này tôi mới cảm nhận rằng chúng tôi thực sự có nhau. Không phải
trong một giấc mơ kéo dài 17 năm. Tất cả chúng tôi ngồi bên nhau. Hình như chưa
bao giờ chúng tôi nói với nhau nhiều dù ở bất cứ một đề tài, một lãnh vực nào.
Hình như chúng tôi có cách nói mà chỉ hai chúng tôi hiểu được. Một cách nói ở bốn
con mắt im lặng. Cũng có lúc, cả hai chúng tôi bị lôi cuốn vào câu chuyện vui của
mọi người. Nhưng đó là những điều hoàn toàn không dính líu, liên quan đến những
điều thực sự chúng tôi muốn nói với nhau. Tất cả những điều cần nói, chính là
những điều không bao giờ nói ra bằng lời.
Buổi chiều tuyết rơi kín mặt hồ, chúng tôi đi bên cạnh
hàng cây đầy hoa. Hoa tuyết. Nói chuyện bâng quơ, không gì rõ ràng được đặt ra,
không có gì thắc mắc, không có khoảng cách 17 năm để phải ngỡ ngàng. Tôi ngỡ
như vừa từ Sài Gòn ra Huế thăm anh. Anh từ Huế vào Sài Gòn.
Chúng tôi uống cà phê tại La Pagode. Tôi tưởng sẽ có
nhiều điều để hai anh em nói với nhau. Nhưng cả hai đều không nói gì cả.
Bao nhiêu ngày tháng đã đi qua giữa chúng tôi. Anh vẫn
không bao giờ thay đổi. Tôi cũng thế. Cả hai không có những thắc mắc về đời sống
của nhau bởi 30 năm trước đã không hỏi thì 30 năm sau cũng không hỏi... Tôi quý
những giây phút ở bên anh và tôi nghĩ anh sẽ nói với tôi điều cần nói, nếu có.
Anh im lặng cũng có thể vì những điều anh nghĩ, anh muốn, không còn cần thiết để
phải nói ra.
Trong một căn phòng, không phải bên cạnh sông Hương
mà ở ngay giữa lòng thành phố Montréal. Bên ngoài tuyết rơi, chúng tôi ngồi với
nhau, những người bạn cũ. Hát lại những bài hát ngày xưa. Hoặc những tình ca mới.
Mỗi người một ly rượu, khói thuốc mù mịt, mỗi người ngồi sát nhau trên chiếc thảm,
trước lò sưởi. . . Không ai cảm thấy lạnh. Không chút lạnh lẽo nào giữa
chúng tôi trong căn phòng nhỏ... Anh hát đi. Không, Mai hát đi. Giang hát đi.
Mai ngâm thơ đi. . . “Mà sao giấc ngủ không dài.
Mà đêm không ngắn mà trời cứ mưa. Ở đây tôi sống như thừa. Cố đem men rượu tẩm
vừa lòng nhau”. (Nguyễn Bính).
Cũng mùa đông, một đêm nào đó, 1974 ở nhà anh chị Lễ,
ở Huế. Ngôi biệt thự bên cạnh sông Hương. Ngoài trời cũng tối và lạnh như đêm
nay. Mùa đông ở Huế. Chúng tôi cùng ngồi bên nhau như hôm nay. Lúc đó, tôi vừa
30 tuổi. Tóc vẫn còn xanh. Lòng còn tha thiết yêu đời sống. Một buổi sáng tôi bỗng
thấy mặt trời lên cùng tôi và biển cả. Nước mắt tôi tuôn như mưa. Tôi nhớ mùa
đông ở Huế. Chính Huế cho tôi hơi thở.
Bây giờ là cuối đông. Những bông tuyết bay trong chiều,
đậu trên những cành cây trụi lá, gầy guộc. Chúng tôi đi bên nhau. Tia nắng dịu
dàng đậu trên những bông hoa nhỏ bé, lấp lánh tấm thảm dầy trắng tinh, chỉ có vết
chân bé nhỏ của những chú sóc nghịch ngợm chạy tới ăn những hạt bắp rang nổ
bung mà anh liệng ra để dụ chúng lại gần. Anh cười vui, ánh mắt long lanh theo
dõi. Tôi ít thấy anh cười mà cũng không bao giờ thấy anh tỏ vẻ buồn bã.
Chúng tôi tìm đến một thân cây lớn, một nửa ngập dưới
tuyết, ngồi nghỉ chân. Tuyết vẫn rơi. Chỉ có hai chúng tôi giữa một vùng trắng
mênh mông yên lặng. Chẳng lẽ không có gì để nói, không còn gì đáng nói sau mười
mấy năm vắng nhau? Có chứ. Anh đã nói, không phải với riêng tôi, mà ở những bài
hát. Tôi đã nghe và hiểu từ đó... “Có đường xa mà gió chiều quạnh quẽ. Có
hồn ai đang nhè nhẹ sầu lên... Tôi là ai mà còn khi dấu lệ. Tôi là ai mà còn trần
gian thế. Tôi là ai. Là ai. Là ai mà yêu quá đời này. . . Con diều bay mà linh
hồn lạnh lẽo. Con diều rơi cho vực thẳm buồn theo. . . "
Tôi bỗng thương anh thêm và càng quý trọng những giây
phút bên anh. Cũng vội vàng, ngắn ngủi như những lần tôi ghé Huế. Tuy nhiên,
tôi nghĩ, như thế có lẽ tốt hơn. Bởi vì những điều như thế đã cho tôi cái cảm
tưởng là không hề bao giờ giữa chúng tôi có cái khoảng cách 17 năm. Lá vẫn rơi
trên lối chúng tôi đi. Những khóm hoa nắng vẫn lấp lánh trên đường chúng tôi
đi. Tất cả vẫn còn rực rỡ.
Quay về căn phòng nhỏ. Ánh lửa như hồng thêm, ấm áp
thêm bên ly rượu màu hổ phách, cay nồng. Cởi áo lạnh ra, trông anh gầy hơn xưa
nhiều, song so với lần gặp nhau ở Paris 1989, anh có vẻ khoẻ hơn. Bên cạnh anh
là Hoàng Xuân Giang của quán Văn ngày xưa. Giang đã có vợ, con gái lớn rồi.
Hoàng Xuân Sơn cũng đùm đề một gánh thê nhi nặng trĩu hai vai. Phạm Nhuận to
béo hơn xưa, vui vẻ cười nói ồn ào bên cạnh Hoàng Xuân Sơn nhỏ nhẹ thư sinh.
Hoàng Xuân Giang vạm vỡ khoẻ mạnh như loài cây hoang trong rừng già và anh, anh
mong manh và thật đằm thắm. Nhìn quanh, tôi thấy như mình đang sống trong thần
thoại 20 năm là đây. Chỉ ở một buổi chiều cuối đông tại thành phố Montreal. Còn
ai nữa nhỉ? Chắc chắn là còn thiếu một vài người. Trong tôi, một thoáng ngậm
ngùi.
Chúng tôi chia tay nhau, dưới ánh đèn đường vàng vọt,
trước cửa nhà anh Quế. Mai gặp lại. Anh và tôi trở về nhà Tâm. Nỗi vui làm tôi
khó ngủ như ngày xưa sau mỗi buổi hát, chúng tôi thường ngồi lại với nhau, chia
cho cạn niềm vui còn sót lại. Những niềm vui không thể để vung vãi, bỏ phí. Phải
uống hết, nuốt hết vào lòng. Chúng tôi đã sống bằng những niềm vui không nhiều
trong đời. Tôi tự cho mình là cái bóng của anh và cũng được hưởng niềm vui đó.
Tôi mở cửa phòng rất nhẹ. Anh đã ngủ yên. Chỗ tôi nằm
cách chỗ anh một sải tay. Tôi khẽ nằm xuống, kéo mền lên, nhắm mắt dỗ giấc ngủ.
Tôi nghĩ lát nữa đây, khi mặt trời lên trên thành phố này, khi tôi thức dậy,
tôi sẽ nhìn thấy anh. Tôi vẫn bay ngoài cửa sổ nhưng ngày sẽ đẹp.
Anh dậy rất sớm và việc làm đầu tiên trong ngày của
anh là ra khỏi nhà. Tìm đến một quán cà phê, ngồi đó hút thuốc và nhìn người
qua lại trên đường phố. . . "Phải nhìn thấy mọi người, một ngày
không thấy ai, buồn dễ sợ". Tôi nhìn anh cười không nói. Cái nhìn và nụ cười
là câu trả lời. Ngày xưa anh cũng thế. Chúng tôi cùng nhau xuống phố. Vẫn im lặng
đi bên nhau với nỗi hân hoan hạnh phúc không thành tiếng... "Mỗi ngày
tôi chọn đường mình đi.
Đường đến anh em, đường đến bạn bè. Tôi chọn nơi này
cùng nhau ca hát. Để thấy tiếng cười rộn rã bay...".
Đó là những điều rất thật thà anh đã nói, đã làm, để
sau cùng. . . “Tôi chợt biết rằng vì sao tôi sống, vì đất nước này cần một
trái tim. Và như thế tôi đến trong cuộc đời. Và như thế tôi sống vui
từng ngày. Đã yêu đời bằng trái tim của tôi. . . " .
Tôi thấy anh yêu đời thực sự. Anh cười với ông Phạm
Duy, ông Trầm Tử Thiêng, ông Duy Khánh và các bạn qua điện thoại. Anh hát và chỉ
cho tôi, cắt nghĩa cho tôi những bài hát mới..."Nhớ đừng có hát như trả
bài nhé...". Giọng anh hát khỏe hơn lần gặp ở Paris..."Thôi anh hát
đi, anh hát hay... hơn em". Anh cười, mắt anh cũng cười..."Anh bao giờ
cũng hát hay hơn Mai" . . .
Tôi bồi hồi nhớ lại những ngày tháng của năm 1967.
Chúng tôi những người bạn nghèo đến với nhau, gắn bó không ngờ. Gia đình anh giầu,
gia đình Hoàng Xuân Sơn, Hoàng Xuân Giang cũng giầu, nhưng cá nhân chúng tôi đều
nghèo. Một đĩa cơm chia hai, một điếu thuốc cùng hút, một ly cà phê cùng uống.
Chia nhau nằm ngủ trên những tờ báo nhầu nát trải dưới đất. Tình bạn, tình anh
em nẩy mầm ở đó. Quán Văn, cái tên quán dễ nhớ và dễ thương, mọc lên chơ vơ giữa
lòng Sài Gòn trăm ngàn màu sắc. Mái bằng lá, và những tấm ván ép hư bể, được
ghép lại, nhỏ hơn cái bếp ở đây, chỉ dành làm chỗ pha cà phê. Mỗi người tới tuỳ
tiện tìm chỗ ngồi trên cái nền xi măng bỏ trống ngổn ngang gạch vụn và cỏ dại.
Đó là nơi gặp gỡ đẹp đẽ nhất của một thời tôi còn trẻ.
Chúng tôi không hề biết... ngoài trời có gì vui.
Chúng tôi không cần biết vì niềm vui đã có. Rất đơn sơ mà thắm thiết không rời.
Đến với nhau qua sự run rủi của định mệnh. Không thề thốt, không hứa hẹn. Đến
và ngồi với nhau. Một lần rồi thì có nghĩa là mãi mãi. Giang đó, Sơn đó, Nhuận
đó, Thao đó, anh và tôi... từ những ngày lăn lóc đó cho đến bây giờ vẫn không dời
đổi. Qua những bài hát của anh, sự kết hợp những người trẻ thật khít khao, vừa
vặn. Ai đến cũng được, ai đi cũng được...
“Em theo đời cơm áo. Mai ra cùng phố xôn xao.
Bao nhiêu ngày yêu dấu tan theo...".
Kỷ niệm lần Khánh Ly gặp lại Trịnh Công Sơn tại
Montre
Xin Cho Một Đời ....
Hơn 30 năm không còn cùng nhau ngồi hát ca. 25
năm xa lìa cô quạnh. Bao nhiêu cay đắng bể dâu không khiến lòng tôi phai mờ, những
dấu ấn tốt đẹp đã để lại mảnh đất nhiều bất hạnh khổ đau. Quê hương thì bao giờ
cũng thế. Những đời người, những con đường, những góc phố, những dòng sông, những
khuôn mặt, những nụ cười dường như đã biến dạng. Điều còn lại, phải chăng là những
ước mơ đâu đó trong trái tim mọi người. Anh gầy hơn xưa, tưởng như chẳng còn có
thể gầy hơn nữa. Anh trầm lặng như tượng đá. ánh mắt xa vắng. Nụ cười vu vơ khiến
tôi đau lòng. Sao anh không khóc đi. Nước mắt có khi thay được cho bao nhiêu điều
muốn nói.
Vẫn những người em gái xưa, nay đã thành thiếu
phụ, ở quanh anh. Không còn là những phút sum vầy hạnh phúc. Chẳng có gì, chẳng
có ai lấp đầy nỗi đơn lẻ trong anh. Ôi, làm sao trả lại cho anh, cho tôi, cho
chúng tôi những tháng ngày đã mất . . . Người quen biết cũ lần lượt vắng
xa và sẽ chẳng còn bao lâu nữa, tôi cũng sẽ rong chơi một nơi nào đó. Sẽ chẳng
còn gì. Sẽ chẳng còn ai từng ngày, ngồi thương tiếc. Kỷ niệm sẽ tàn phai, mất
hút như chưa bao giờ xảy ra, như một điều không có thật, như huyền thoại... một
ngày nào, anh bảo tôi... Huyền thoại là điều không có thật. . .
Ngày đó... ngày đó chúng tôi còn trẻ và rất
gắn bó. Có ai trong chúng tôi nghĩ rằng có một ngày nào đó lại phải thương nhớ
nhau từng phút giây. Tuy vậy, bằng cách nào đó, chúng tôi vẫn ở trong trí nhớ của
mọi người, như ngày đầu ngồi với nhau, vào đời nhau bằng những bản tình ca. Hồn
xa rồi, người ta còn có thể sống được không? Trái tim ngừng đập rồi, người ta
có thể nào không chết? Chúng tôi đã đến với nhau một lần. Chỉ một lần nhưng xin
đủ cho một đời...
Tạp Chí Văn nghệ, số 1.2000
Nhiều người đặt
câu hỏi tại sao lại gọi là Huyền thoại Mẹ khi nội dung bài hát ngợi ca những
bà mẹ Việt Nam, những bà mẹ trong cuộc chiến của dân tộc ta những năm vừa qua?
Phải chăng đó là dụng ý của tác giả muốn xây dựng một điển hình bà mẹ tưởng như
không thể có trong đời thực mà lại chính là những con người bằng xương bằng thịt
đã sống và chiến đấu trong những năm gian khổ? Đó là những bà mẹ có lòng yêu nước
nồng nàn hết lòng vì đàn con, những bà mẹ chịu đựng những đau khổ cho
riêng mình vì sự nghiệp lớn lao của đất nước.
Bài hát Huyền
thoại Mẹ của Trịnh Công Sơn có sức lay động lòng người chính vì cách đặt vấn
đề và biểu hiện hình tượng những bà mẹ như thế. Lời hát thực sự là một bài thơ
cô đọng súc tích với ngôn từ chọn lọc độc đáo. Phương pháp cấu trúc hình thức
âm nhạc của Huyền thoại Mẹ là thể 3 đoạn có tái hiện (ABA) rất quen
thuộc trong các ca khúc Trịnh Công Sơn. Giai điệu của bài có nét riêng gần gũi
với những âm điệu của ca nhạc dân gian truyền thống.
Huyền thoại Mẹ như
những giọt mưa xuân nhè nhẹ thấm sâu mà không ồn ào, dung dị mà không khô cứng,
lắng đọng mà không lên gân, có sức thuyết phục nhưng không bằng sự hô hào, cổ
vũ.
Bắt đầu vào
bài hát là câu "Đêm chong đèn ngồi nhớ lại từng câu chuyện ngày
xưa". Nét nhạc chậm rãi như một giọng kể chuyện ấm áp thu hút được sự
chú ý của người nghe. Câu hát tiếp theo “Mẹ về đứng dưới mưa" nét
nhạc vút lên khoẻ khoắn thích hợp với nội dung lời ca, gợi lên hình ảnh của bà
mẹ trong tư thế hiên ngang nhưng vẫn là một bà mẹ dịu dàng che chở cho đàn con
ngủ trước sự rình mò của kẻ thù.
Câu nhạc ứng với
lời ca “Mẹ về đứng dưới mưa cho đàn con nằm ngủ, canh từng bước chân thù.
Mẹ ngồi dưới cơn mưa" vừa kết thúc đoạn nhạc đầu tiên của bài (đoạn
A) đồng thời vừa mở ra cho đoạn nhạc thứ hai (đoạn B) tiếp nối một cách tự
nhiên dường như không bị ngắt mạch. Đạt được ý đồ này chính là vì nhạc sĩ đã kết
thúc đoạn nhạc bằng âm Son (âm bậc VII của giọng LA). Âm đó như gọi sự phát triển
âm nhạc và đoạn nhạc B bắt đầu từ câu hát “Mẹ lội qua con suối...” đã
gắn chặt hai đoạn A-B với nhau trong một âm điệu tiết tấu thống nhất được sử dụng
xuyên suốt trong cả bài đó.
Ở đoạn B này
tưởng như người kể chuyện đã xúc động mạnh hơn khi nói về những công tích của Mẹ.
Âm nhạc đẩy tới cao trào ở lời hát "Mẹ chìm trong đêm tối gió mưa tóc
che lối con đi". Và đoạn nhạc B đã chấm dứt tại đó. Lại một lần nữa
nhạc sĩ không kết đoạn nhạc bằng âm chủ ổn định mà cho ngân dài ở nốt bậc II của
giọng LA (nốt Xi) gây cho người nghe cảm giác chờ đợi. Đúng lúc này đoạn nhạc đầu
tiên (đoạn A) được tái hiện. Vẫn là giọng kể chuyện đều đều, ấm áp và có sức cuốn
hút "Đêm chong đèn ngồi nhớ lại từng câu chuyện ngày xưa". Ở
đoạn nhạc tái hiện này nhạc sĩ đã cho nhắc lại luôn 3 lần câu nhạc thứ 2 của đoạn
để tiếp tục kể về tinh thần hy sinh chịu đựng, hết lòng vì đàn con thân yêu của
Mẹ: "Mẹ về đứng dưới mưa che từng căn hầm nhỏ xoá sạch vết con về..." Tác
giả ngợi ca tấm lòng nhân hậu, tình yêu thương, sự hy sinh cao cả của Mẹ: "Mẹ
là gió uốn quanh trên đời con thầm lặng. Trong câu hát thanh bình. Mẹ là gió
mong manh. Mẹ là nước chứa chan trôi dùm con phiền muộn cho đời mãi trong lành
Mẹ chìm dưới gian nan".
Đúng là những
câu thơ hàm súc được hát lên trong một âm điệu tha thiết, thân thương chứa chan
tình cảm và rung lên tự đáy lòng. Câu nhạc kết thúc toàn bài hát được nhắc lại
ba lần với ba lời ca khác nhau, đều dừng lại ở âm chủ của giọng LA nhưng vẫn
không cho người nghe cảm giác chấm dứt hoàn toàn. Còn cái gì lưu luyến, bâng
khuâng, lâng lâng tựa như câu chuyện về Mẹ huyền thoại vẫn chưa thể
có kết trọn. Người kể vẫn muốn kể mãi, người nghe vẫn muốn nghe mãi chuyện về
bà mẹ, vì đây chính là mẹ của cuộc đời hư - thực, thực - hư,
hai cái đó đan xen hoà quyện vào nhau trong không gian sâu thẳm. Thực mà như
không thể có thực, thực mà như huyền thoại, vì mẹ thiêng liêng quá, cao thượng
quá. Mẹ của cả một đàn con. Mẹ của những đứa con- Mẹ Việt Nam. Cái thần
của âm nhạc được kết hợp chặt chẽ với lời ca đã tạo lên cảm giác đó. Tính hấp dẫn
của ca khúc Huyền thoại Mẹ cũng chính ở điểm này.
Đây là một ca
khúc thật giản dị mà không sơ lược: một nội dung thật cụ thể mà giàu tính khái
quát: một ca khúc vừa có thể biểu diễn mang tính nghệ thuật vừa có thể phổ cập
rộng rãi.
Trong những
năm qua đã có những bài hát ca ngợi bà mẹ, bài Huyền thoại Mẹ, của Trịnh
Công Sơn xuất hiện trong những năm 1980 này đem đến cho ca khúc Việt Nam một
nét mới trong cách biểu hiện về người Mẹ Việt Nam.
Tạp chí Văn
hóa, số 13/1998
Trần Hữu Lục
Trịnh Công Sơn Tỏ Tình Với Cuộc Sống
Trịnh Công Sơn Tỏ Tình Với Cuộc Sống
“... Tôi chỉ
là tên hát rong đi qua miền đất này để hát lên linh cảm của mình về những
giấc mơ đời hư ảo...". Trịnh Công Sơn không chỉ dành riêng cho nhạc,
mà còn cả cho tranh và thơ nữa. Ở một lúc khác, anh tự bạch: “Mỗi bài hát của
tôi là một lời tỏ tình với cuộc sống, một lời nhắn nhủ thầm kín về những nỗi niềm
tuyệt vọng, và cũng là một nỗi lòng tiếc nuối khôn nguôi đối với buổi chia lìa
(một ngày nào đó) cùng mặt đất mà tôi đã một thời chia xẻ những buồn vui cùng mọi
người". Và có lần "bị" phỏng vấn, anh nói: "Tôi chỉ viết lời
cho những bài tình khúc của tôi. Bởi một lẽ đơn giản là tôi chỉ có những mối
tình lãng đãng, sương khói, hoàn toàn không có gì cụ thể. Ngày xưa dường như cả
thế hệ của tôi là như vậy, yêu một mái tóc, một dáng hình, mỗi ngày chỉ cần
nhìn thấy mặt nhau, thấy em qua khung cửa sổ là cả ngày thấy vui. Có khi đạp xe
sau lưng em mà em không biết mình là ai, vẫn thấy vui như thường. Diễm xưa cũng
là một loại tình yêu như vậy. . . Ừ, kỳ lạ vậy. Khi đang yêu nhau,
nghĩa là đang mải yêu, đang đắm say với hạnh phúc. Chỉ đến khi mất mát, còn lại
một mình, anh mới tự đối diện với mình mà nhận ra điều trước nay anh không hề
nhìn thấy. Cũng không phải là gặm nhấm nỗi đau, mà là nhận diện nỗi
đau...".
Người
"hát rong" ấy cất tiếng hát: "Từng người tình bỏ ta đi như
những dòng sông nhỏ", cũng là lúc yêu cuộc sống, yêu tất cả. Và từ đó
cảm xúc thực sự đã đến với anh, đến với
Hãy cứ vui như
mọi ngày, Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui, Ở trọ, Một cõi đi về, Đoá hoa vô thường,
Huyền thoại mẹ, Quỳnh hương, Tôi tìm tôi. .. Vâng, tình yêu thì vô cùng.
Trong bài hát Tôi
tìm tôi, anh tự hỏi "Tôi là ai?” Câu hỏi không chỉ riêng
cho mình, mà còn cho một vùng đất. Là ai? "Sài Gòn gánh gió trên vai
mưa lầy lội. Tôi tìm chập chùng dấu vết hươu nai”. Là ai nữa? “trở lại hóa
kiếp rong chơi giữa nơi này. Phố phường Sài Gòn nhớ nhớ quên quên". Và
ai nữa? “Đi quanh tôi tìm hình bóng xưa quen. Đi đi tìm em cho tôi dấu vết
bóng Phù Nam..." Câu hỏi cứ lặp đi lặp lại, mình đang sống đây nhưng
mình đã là ai trong 300 năm trước. Lời thơ trong giai điệu như thế không
phải chỉ mới có trong bài hát Tôi tìm tôi, mà trước đó đã xuất hiện
trong nhiều bài hát của Trịnh Công Sơn. Anh đã rất "thi sĩ", rong
chơi chữ nghĩa như thế trong thế giới âm nhạc của mình. Mỗi cõi đi về đều để lại
dấu ấn. Trịnh Công Sơn có cách nói riêng, bằng lời và bằng nhạc, nói như nhà
văn Bửu Ý "Lời tách riêng, đó là những đoạn thơ hoặc là truyện thơ tâm sự
về giọt mưa, giọt nắng, về một vùng biển đầy ắp sự vắng mặt...” và "Ta còn
chứng kiến một công cuộc thể nghiệm của tiếng Việt trên những chặng đường mới của
ngôn ngữ với những kết hợp từ ngữ tài hoa, những góc độ thu hình lạ lẫm, những
tri giác dày dạn nhiều tầng, khả năng tưởng tượng bay bổng".
Từ bài hát Tôi
tìm tôi trở về hơn 30 năm trước, lời tách riêng vẫn là thơ, những câu thơ,
đoạn thơ tài hoa và lay động. Đó là nét chấm phá, những hoa gấm cho sóng nhạc.
Có thể "nhặt" ra những đoạn thơ khá hoàn chỉnh.
Mỗi ngày tôi
chọn một niềm vui
Chọn những
bông hoa và những nụ cười.
Tôi nhặt gió
trời mời em giữ lấy
Để mắt em cười
tựa lá bay (Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui)
Những câu thơ
lục bát:
Con chim ở đậu
cành tre
Con cá ở trọ
trong khe nước nguồn
Tôi nay ở trọ
trần gian
Trăm năm về chốn
xa xăm cuối trời. (Ở trọ)
Những câu thơ
bốn chữ:
Nụ cười mong
manh
Một hồn yếu đuối
Một bờ môi
thơm
Một hồn giấy mới
(Đoá hoa vô thường)
Những câu thơ
năm chữ:
Em đi qua chuyến
đò
Thấy con trăng
nằm ngủ
Con sông là
quán trọ
Và trăng
tên lãng du. (Biết đâu nguồn cội)
Thơ trong nhạc
Trịnh Công Sơn đã tạo nên sắc thái, tên tuổi của anh.
Không phải ai
cũng có thể hiểu ngay lời thơ - ca từ của anh, nhưng giai điệu và lời thơ cứ xoắn
xuýt nhau, mà độ “cảm" cứ thấm dần và sau đó mới hiểu được một phần tình ý
của anh. Và có dịp đọc những câu thơ riêng lẻ, hoặc một bài thơ khá hoàn chỉnh
của Trịnh Công Sơn, tôi mới cảm nhận hết sự tinh tế, nhẹ nhàng mà sâu lắng, chấm
phá mà tài hoa của anh. Có người nói Trịnh Công Sơn làm thơ rất sớm trước khi
sáng tác bài hát Ướt mi. Chẳng cần đặt tên cho cảm xúc của mình,
nhưng đọc Chùm thơ vô đề của anh in chung trong tuyển tập thơ Chút
tình với thức và những bài thơ ngắn của anh được sáng tác tại Montréal
(năm 1992), có thể "nhặt" ra những câu thơ thú vị bất ngờ. Nơi này là
một bài thơ tứ tuyệt:
Chỗ em ngồi
ngày xưa còn ấm lắm
Anh gối lên và
ngủ một giấc dài
Em có hiểu đời
cho em là mộng
Để anh về cứ
tưởng một là hai.
Kia là một bài
thơ lục bát:
Mặc đời ô trược
vừa qua
Tấm thân nhỏ
nhặt người la mắng người
Buồn phiền vỡ
mộng đường dài
Ta xin một góc
ta ngồi với ta.
Như đã có một
chỗ riêng cho người làm thơ - cô đơn mà gần gũi quá:
Đời ta nắng trải
vô bờ
Chén cơm nguyệt
quế em hờ hững sao
Mai sau nếu có
bao giờ
Chén cơm nguyệt
quế không hờ hững đâu.
Và nhân ái cả
với chính mình:
Đường xa mỏng mộng
vô thường
Trái tim chợt
tỉnh, tôi nhường nhịn tôi.
Một bài thơ
khác có tên hẳn hoi - Như lời tựa - Trịnh Công Sơn đã viết: "Tôi
người thợ nặng nề vác nặng những cuồng điên", và sau đó giãi bày: "Có
những bài thơ viết vì một nỗi mơ màng không uẩn khúc. Những bài thơ tuyệt vọng.
Những bài thơ sáng lạnh một tình cảm rộn ràng trong phút chốc. Đừng nhớ niềm
tuyệt vọng. Hãy nhớ trời cao. Mây và mây bay trên bầu trời lãng đãng. Tình yêu
và gió. Gió thổi mênh mông một cuộc đời. Cuộc đời lận đận..."
Có thể, mai
này ai mà biết được Trịnh Công Sơn sẽ đi đâu, về đâu? Nhưng những câu thơ của
anh vẫn cứ ám ảnh tôi da diết:
Có thể mai này
không có gì nặng nợ với trầm luân cuộc đời gió hàm oan cứ thổi, mà tôi đi đi
mãi.
Không cần ai
giữ lại một tấc lòng, tấc lòng không đáng kể, vì có bao giờ ai hiểu rõ chút vô
thường vô lượng của lòng tôi”.
Những câu thơ
chiêm nghiệm "Có thiên đường cạnh nỗi đau", giúp chúng ta hiểu
thêm về "một góc ta ngồi với ta" của Trịnh Công Sơn - con người thi
sĩ trong con người nhạc sĩ, chất hoa gấm trong sóng nhạc. Một cõi riêng như thế
đã hé lộ một cách đáng yêu.
Tạp chí Sóng
Nhạc, tháng 9-1998
Trương Quang Lục
Nhạc Sĩ Trịnh Công Sơn Và Tuổi Thơ
Nhạc Sĩ Trịnh Công Sơn Và Tuổi Thơ
Như các phụ
huynh, các em nhỏ yêu thích ca nhạc đều xúc động khi nghe tin nhạc sĩ Trịnh
Công Sơn đã trút hơi thở cuối cùng lúc 12 giờ 45 phút ngày 1/4/2001 trong vòng
tay yêu thương của gia đình và các thầy thuốc bệnh viện Chợ Rẫy.
Trong thời
gian qua thiếu nhi cả nước đã hát những bài hát của ông viết riêng cho tuổi
thơ. Qua đó, các bạn nhỏ thấy rõ tình cảm thân thương ông dành cho các lứa tuổi
từ mầm non đến nhi đồng, thiếu niên kể cả các em tuổi mới lớn.
Các cháu mầm
non rất thích bài Mẹ đi vắng vừa vui tươi, hồn nhiên vừa ngộ nghĩnh,
dí dỏm:
Mẹ đi vắng, mẹ
đi vắng
Con sang chơi
nhà bạn (í a)
Con cầm cây
đàn con hát.
Hát cho mẹ về
với con...
Tuổi thơ các
em thật đẹp như những "hoa hồng nhỏ " được mọi người nâng niu, quý mến.
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn có bài rất nổi tiếng viết về niềm tự hào của các em được
sống trong vòng tay yêu thương của mọi người. Chắc các bạn nhỏ đã biết, đó là
bài Em là bông hồng nhỏ, từng được tuổi thơ cả nước bình chọn là một
trong 50 bài hát thiếu nhi hay nhất thế kỷ 20:
Em sẽ là mùa
xuân của mẹ
Em sẽ là màu nắng
của cha,
Em đến trường
học bao điều lạ...
Mùa xuân là
mùa đẹp nhất trong năm, hoa thắm đỏ, chim ca vang. Các bạn nhỏ lại thêm một tuổi,
hứa hẹn một mùa bội thu trong học tập. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn viết bài hát Em
đến cùng mùa xuân ghi lại không khí vui tươi, hồ hởi của các em đón chào
mùa xuân đang đến:
Em đi cùng mùa
xuân đến trong đôi tay cuộc đời,
Tim em rạng rỡ
mặt trời, chân đến trường bước vội.
Cùng mùa xuân
em xanh ngát tay ôm quanh tương lai
Cùng mùa xuân
em tràn đầy đời hồng những sớm mai...
Mùa hè đến
trong nắng chói chang cùng những cơn mưa vội vã. Các em học sinh tạm rời mái
trường thân yêu, vui chơi thoả thích trong những ngày hè, ông đã viết bài hát Tiếng
ve gọi hè để tặng các em:
Khắp phố phường
tiếng ve kêu hè hè hè
Và trong những
tàu lá ve kêu hè hè hè...
Sau đó ông lại
viết Mùa hè đến:
Mùa hè đến những
cơn mưa vội vàng qua,
Phượng tươi thắm
như đôi môi hồng mùa hạ...
Mùa thu đến,
thích nhất là đêm Tết Trung thu, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cũng cất tiếng hoà vui
cùng các bạn nhỏ trong bài hát Tết suối hồng:
Trung thu đốt
đèn lên cho sáng,
Cho bao con đường
rộn vui.
Đêm trăng với
đèn lồng thay nắng
Em như giấc mộng
giữa đời. . .
Viết bài hát
cho các lứa tuổi thiếu nhi, ông vẫn không quên các em ở lứa tuổi 15,16,17 rất
yêu thích bởi lẽ giai điệu và ca từ khá phù hợp với tuổi mục lìm hồn
nhiên, mộng mơ:
Mây và
tóc em bay trong chiều gió lộng,
Trời làm cơn
mưa xanh dưới những hàng me.
Em và lá tung
tăng như loài chim đến
Và đã hót giữa
phố nhà...
Nhạc sĩ Trịnh
Công Sơn đã đi xa, những các tác phẩm của ông dành cho các lứa tuổi mầm non,
thiếu nhi, tuổi mới lớn vẫn vang vọng khắp nơi như tình cảm yêu thương của ông
đối với các cháu nhỏ vẫn mãi mãi còn đây. Trong buổi tiễn đưa ông đến nơi yên
nghỉ cuối cùng tại thành phố Hồ Chí Minh, trong dòng người lặng lẽ bước có cả
nhiều em nhỏ đi theo để chia tay với chú nhạc sĩ yêu quý của mình.
Tạp chí âm
Nhạc và Thời Đại, số 3-2001
Những ca khúc
của Trịnh Công Sơn thành công trong những năm 1960, không chỉ ở Việt Nam mà ở cả
nhiều nước trên thế giới. Lúc đó Việt Nam đang có chiến tranh, nhiều nhà báo nước
ngoài đến Việt Nam để theo dõi tin tức; họ cùng nghe nhạc Trịnh Công Sơn và giới
thiệu bài hát của Trịnh Công Sơn cho độc giả của nước mình.
Bên Mỹ cũng
như bên Pháp, các nhà báo nói về Trịnh Công Sơn, giới thiệu bài hát với lời dịch
ra tiếng Anh hoặc tiếng Pháp. Ở hai nước này có số Việt kiều đông nên đã phần
nào giúp nhiều độc giả quan tâm đến Trịnh Công Sơn.
Sự thành công
của Trịnh Công Sơn, tôi có thể nói rằng, lớn nhất sau Việt Nam phải là Nhật Bản.
Chỉ có ở Nhật
Bản, bài hát của Trịnh Công Sơn mới được dịch ra tiếng Nhật, do ca sĩ Nhật hát
bằng tiếng Nhật và được nghe trong cả nước qua Radio phát mỗi đêm khuya: đó là
bài Ngủ đi con do ông Asai Takashi - một nhà báo của Mainichi
Broadcasting Television – thu băng ở Sài Gòn mang về Nhật vào tháng 7/1968. Ngủ
đi con được giới thiệu qua lời dịch và tiếng hát của ca sĩ Takaishi
Tomoya, và bán ra bằng đĩa 45 tours vào tháng 2/1969, bài này tên tiếng Nhật là Boya
Okiku Naranaide (Đừng có lớn lên, con ơi), gặt được thành công rất lớn ở
Nhật
Trịnh Công Sơn
được nhận "Golden Disc Prix" (Giải Đĩa Vàng) năm 1969 tại Nhật.
Vào năm 1970,
nhân dịp Triển lãm Quốc Tế tại Osaka, nữ ca sĩ Khánh Ly qua Nhật và giới thiệu
bài Diễm xưa của Trịnh Công Sơn. Bài này được giới thiệu lại trong
phim truyền hình của Đài NHK "Sài Gòn Kara Kita Tsuma To Musume" (Vợ
và con gái tôi từ Sài Gòn đến) năm 1979, rất thành công qua tiếng hát Khánh Ly.
Phần đầu là tiếng Nhật, phần cuối bằng tiếng Việt.
Hiện nay ở Nhật,
nhiều người tuổi trên 50 không liên quan gì trực tiếp với Việt Nam, vẫn nhớ hai
bài nói trên của Trịnh Công Sơn, và trong giới nhà báo, học giả, những người vận
động cho hòa bình ở Việt Nam hồi xưa, v.v... Trịnh Công Sơn cùng các
bài hát cũng được họ biết đến rất nhiều.
Tôi đã từng cố
gắng nghiên cứu tại sao Trịnh Công Sơn lại thành công đặc biệt lớn đến vậy ở Nhật
Bản, mặc dù số người gốc Việt Nam ở Nhật chỉ là thiểu số so với kiều dân khác.
Về sự thành
công của Trịnh Công Sơn vào năm 1969 thì có thể trả lời rằng, lúc đó, Nhật Bản
có khả năng kinh tế lớn nhất trong khu vực châu á nên dễ dàng gửi nhiều nhà báo
nhất đi Việt Nam. Còn trong nước lúc đó, phong trào vận động cho hòa bình, chống
chiến tranh Mỹ ở Việt Nam rất mạnh nên những ca khúc phản chiến của Trịnh Công
Sơn được yêu thích.
Trịnh Công Sơn
đã có lần qua Nhật và biểu diễn tại Osaka vào năm 1995. Nghe nói, lúc ở Nhật,
Trịnh Công Sơn thấy buồn, không thích ở lâu vì không có thân nhân hoặc bạn bè
như ở Mỹ hoặc Pháp.
Như vậy, sự
yêu thích của người Nhật với Trịnh Công Sơn chỉ là một phía, như là tương tư. Vừa
rồi, khi được tin Trịnh Công Sơn mất, tờ báo Nhật nào cũng đăng tin buồn đó, và
Radio phát lại bài Diễm xưa theo yêu cầu của thính giả.
Hy vọng, dù đã
về trời, Trịnh Công Sơn vẫn thỉnh thoảng nhớ đến những người Nhật chưa nguôi
còn tương tư mình.
Sài Gòn 10/06/2001
Hạnh phúc là một
ly cà phê và nhạc Trịnh. (Lời một người dân Huế)
Người đầu tiên
gọi điện báo cho tôi cái tin nhạc sĩ Trịnh Công Sơn qua đời lại là người đã từ
lâu lắm chẳng hề ỏ ê gì đến tôi, một người mà tôi yêu thương và vì vậy cũng gây
cho tôi nhiều đau đớn. Lạ lùng nhưng không ngạc nhiên. Bởi vì tôi biết giờ này
trên nhiều miền đất nước, những người yêu nhau, đã yêu và nay vẫn đang yêu, đã
yêu và nay không còn yêu nữa, những con người đó đang gọi điện cho nhau, viết
thư cho nhau, email cho nhau, fax cho nhau, hay ít ra là gửi lên trời những ý
nghĩ cho nhau.., nghĩa là đang tìm đến nhau bằng mọi thứ phương tiện và ngôn ngữ,
để được chia sẻ cho nhau những tình yêu và nỗi đau to lớn trước sự ra đi của một
con người mà từ lâu đã trở thành một phần không thể thiếu trong tình yêu và kỷ
niệm của họ. Cuộc đời vẫn thế: yêu thương và đau đớn vốn là hai nửa của một
trái tim. Cũng như tôi đây: chính vì trong hơn một phần tư thế kỷ vừa qua, tức
là toàn bộ thời gian hậu chiến khi tôi được trở lại làm con người bình thường
như muôn thuở, tôi đã đem lòng si mê âm nhạc Trịnh Công Sơn, thứ âm nhạc chắt
ra từ cội nguồn sâu thẳm của hồn người, từ tinh chất của tình yêu như một thứ
men say, để giờ đây khi nghe tin anh Sơn không còn nữa, tôi đã đau đớn tận đáy
lòng, một nỗi đau giản dị và trần trụi, mang màu sắc hoàn toàn riêng tư đến nỗi
tôi không muốn chia sẻ nó cho ai, tôi chỉ muốn đóng chặt lòng mình để mình tôi
với hồn anh trong đó, ở đấy tôi có thể khóc anh mà không sợ bị ai quấy rầy...
Sơn ơi! Anh
Sơn ơi? Anh hồn của anh Sơn ơi? Cái nửa thứ hai của hồn tôi ơi!... Tôi có một
ngàn lời để nói về anh, một ngàn lời và hơn thế nữa, nhưng để làm gì kia chứ,
trước âm nhạc của anh mọi ngôn từ khác đều lẽo đẽo chạy theo sau, thảm hại và nực
cười. Tất cả về anh, tức cũng là về tôi, về tất cả chúng ta, âm nhạc của anh đã
nói hết cả rồi, nói rất sâu và rất rộng, nói rất cao và rất hay, không thể thêm
gì vào đấy nữa. Chỉ có cách là làm như anh, hát lên:
Bao nhiêu năm
rồi còn mãi ra đi
Đi đâu loanh
quanh cho đời mỏi mệt,
Trên hai vai
ta đôi vầng nhật nguyệt
Rọi suốt trăm
năm một cõi đi về. . .
Cỏi đi về ấy
giờ đây chỉ có đi mà không có về. Đã ngừng đập rồi một trái tim đắm đuối. Con
chim họa mi kiêu hãnh đã ngừng hót. Người hát rong của thế kỷ hai mươi, người đứng
cao hơn mọi thành kiến trên đời, người từ chối hận thù để ca hát yêu thương,
người tôn vinh vẻ đẹp của nỗi buồn, người tình của mọi người tình, chàng Romeo
cuối cùng. . . đã chết !
Còn nhớ có lần
ở đâu đó anh Sơn đã viết: Người ta yêu tôi là yêu cái dòng sông chảy xiết ở
tôi... Không thể đúng hơn. Anh là một dòng sông mênh mông, dào dạt và chảy
xiết. Người đời lại nói: dòng sông âm nhạc của anh bao gồm ba nguồn mạch - nhạc
phản chiến, nhạc về thân phận con người và những tình khúc. Nhưng bởi là dòng
sông nên dù góp lại từ bao nhiêu nguồn mạch thì rốt cuộc cũng đều hoà làm một,
đều có chung hướng chảy là tuôn về biển cả. Và dĩ nhiên, tất cả mọi nguồn mạch ấy
đều bắt nguồn sâu xa từ trong lòng đất, nơi bắt đầu của mọi dòng sông. Lòng đất
đó, với âm nhạc Trịnh Công Sơn, chính là Tình yêu.
Định mệnh đã bắt
anh phải yêu thương.
Định mệnh lại
trao vào tay anh cây đàn và chiếc bút.
Và thế là
chúng ta có Trịnh Công Sơn, chúng ta có nhạc Trịnh.
Con người ấy
sinh ra để mà yêu và từ yêu thương lại sinh ra tất cả. Bởi yêu thương con người
- từng con người một, bé nhỏ và mong manh - mà dẫn đến yêu thương dân tộc, yêu
thương nhân dân, và yêu thương cả nhân loại. Bởi yêu thương con người nên yêu
thương cuộc sống, nên yêu thương và nâng giấc tình yêu, giấc mơ đẹp nhất của
con người. Bởi yêu thương nên phải nhận vào mình quá nhiều đau đớn, những đớn
đau làm cho hình hài tàn tạ nhưng tâm hồn thì trong suốt như pha lê. Còn căm
thù thì sao? Chắc có người hỏi vậy. Có đấy, nhưng là thứ căm thù kiểu Trịnh
Công Sơn, thứ căm thù vì quá yêu thương, thứ căm thù đầy khả năng thanh lọc, nó
đứng cao hơn mọi thứ hận thù tầm thường như nghiệp chướng vốn chỉ gây ra những
hận thù triền miên không dứt. Tôi vẫn nghĩ: Lúc yêu thương, Trịnh Công Sơn như
đứa con yêu mẹ, đằm thắm, thiết tha và dịu dàng khôn xiết - nhưng khi căm giận,
anh lại như người mẹ giận con, giận đấy, nhưng đau đớn nhiều hơn, tê tái vô
cùng vì luôn thấy như chính mình có lỗi. Trước những xấu xa, tăm tối của đồng
loại, con người này không tự đứng ngoài hay đứng cao hơn tất cả - có phải vì
trong bản chất của nghệ thuật chân chính vốn đã mang thiện lương của con người,
thứ thiện lương cao quý như phẩm chất của Chúa Trời. Xin hãy nghe:
Chiều đi lên đồi
cao hát trên những xác người
Tôi đã thấy,
tôi đã thấy
Những hố hầm
đã chôn vùi thân xác anh em
Mẹ vỗ tay reo
mừng chiến tranh
Chị vỗ tay
hoan hô hoà bình
Người vỗ tay
cho thêm nhịp nhàng
Người vỗ tay
xa dần ăn năn...
Anh đã đi qua
chiến tranh với thiện lương như thế. Tôi không biết như vậy là đúng hay sai, chỉ
thấy hễ nghe là muốn khóc. Và dù có ai đó nói là đúng hay sai thì tôi cũng chưa
thấy một người nào ghét bỏ hay chí ít là lườm nguýt gì anh. Ai có thể ghét bỏ một
trái tim đang rỏ máu - nó đang rỏ máu vì chính các người đấy, hỡi con người. Quả
thật, tôi gần như không thể viết tiếp được nữa, nước mắt đã nhoà hết cả rồi...
Tôi không phải
là người dễ để cho người khác thấy mình khóc đâu. Trên đời này không bao giờ
tôi khóc khi gặp những lừa lọc, phản trắc, những hận thù và cả thương đau...
Tôi chỉ không thể cầm lòng khi chứng kiến những tình yêu cao thượng, những hy
sinh và tha thứ, những đoàn tụ và bao dung... Và đó cũng lại là những điều tôi
đọc được trong bản thông điệp mà nhạc Trịnh gửi đến cho tôi, cho tất cả chúng
ta. Người gieo trồng trên cánh đồng nhân ái đã đi rồi. Đó là một cái chết đã được
báo trước. Đau đớn, nhưng không thể khác. Mãi gần đây tôi còn hỏi một người bạn
vừa ở Nam ra:
“Ông Sơn dạo
này sức khoẻ thế nào?". Đáp: "Yếu lắm rồi". “Bệnh gì vậy?".
Đáp: "Kiệt sức". Bao năm rồi hình ảnh Trịnh Công Sơn đã luôn như thể
là một vị La Hán chùa Tây Phương. Trên thân mình anh, ngoài cặp kính là không
thể gầy đi, còn tất cả đều như một quả cam đã vắt dần đến giọt nước cuối cùng.
Bởi cũng bao năm rồi tấm thân gầy guộc ấy đã còng lưng dưới gánh nặng của một
tình yêu quá tải, thứ tình yêu càng trao đi bao nhiêu lại nhận về gấp bội. Có lần
tôi đã được nghe một cô gái tâm sự: chuyện tình của cô với anh chàng người yêu
rất trắc trở, mười đêm gặp chín đêm liền cãi nhau, có lần cả năm trời
họ không nói với nhau lời nào, nhưng cô vẫn không sao quên được anh và rốt cuộc
họ lại về bên nhau, mà theo lời cô gái thì chỉ vì "ở anh ấy có một cái gì
đó rất Trịnh Công Sơn!” Thế thôi. Người yêu thương lại nhận được
thương yêu, lẽ đời công bằng và nhân hậu là thế.
Anh Sơn ơi,
anh đã yêu thương đến cùng kiệt cả đời mình như ngọn nến đã cháy đến tận gốc. Bằng
cách sống hết mình, anh đã chuẩn bị cho mình một cái chết cũng đúng là mình.
Suốt đời anh
đã hát ru người khác ngủ và người khác chết, bây giờ xin một lần cho chúng tôi
được làm việc ấy trước anh.
Hà Nội,
4-4-2001
Người Hát Rong
Của Thế Kỷ XX
Rơi xuống từ
trời những sắc lá vàng phai
Giọt nước mắt
của mùa đông lạnh lẽo,
Chiều đã xuống
trên mặt người khô héo
Thế gian đẹp
và buồn
Ngân lên từ những
sợi dây đàn
Tiếng run rẩy
mười ngón tay gầy guộc,
Tiếng im lặng
cặp kính tròn ngơ ngác
Trái tim yêu
và đau.
Người đến từ
đâu
Và sẽ đi về
đâu
Người làm lụng
trên cánh đồng mệt mỏi
Giữa hoang vu
người cất lên tiếng gọi
Sỏi đá trăm
năm dội tiếng con người.
Người đứng cao
hơn mọi thành kiến trên đời
Giữa đồng loại
như một người xa lạ.
Ôm cây đàn như
vác cây thánh giá
Người lạc loài
ngay chính giữa quê hương
Từ chối hận
thù người hát riêng yêu thương
Chạy trốn bơ
vơ người tìm vào giấc mộng
Người học cách
sống chung cùng tuyệt vọng
Người vỗ về từng
ngọn cỏ xót xa.
Ngủ đi, ngủ đi
những dục vọng mù loà
Ngủ đi, ngủ đi
những lọc lừa, phản trắc
Ngủ đi, ngủ đi
những trái tim tan nát
Ngủ đi, ngủ đi
tàn tạ những hình hài...
Người hát rong
của thế kỷ hai mươi
Giờ đã hết,
năm đã cùng, tháng tận
Mắt đã mờ, máu
trong tim đã cạn
Tay đã buông,
gối đã mỏi, chân rời
Người vẫn còn
hát mãi không thôi
Yêu và đau,
trái tim dường nức nở
Đẹp và buồn,
thế gian còn nặng nợ
Người là tôi
Hay tôi cũng là
người
Người hát rong
Người hát rong
ơi...
15-11-2000
Hồng Nhung
“Anh Sơn mất rồi Nhung ơi..." Đang
lưu diễn ở Úc, tôi nghe giọng người bạn gái run rẩy trong điện thoại. Im lặng!
Còn có gì đâu để nói. Hình ảnh anh lần đầu tiên tôi gặp bỗng về lại, người đàn
ông nhỏ bé, hồn nhiên, bước vào qua cái cổng sắt lớn, bước vào trong cuộc đời
tôi. Anh đội chiếc mũ bạc màu mà anh luôn thích, vừa đi vừa đá nhẹ mấy hòn sỏi
dưới sân. Và nụ cười của anh, tươi thế, trong sáng thế, và hiền hậu thế, làm
sao mà không cảm thấy thân thương ngay được! Cám ơn định mệnh đã cho tôi được gặp
anh. Niềm tin của anh, tình yêu của anh làm cho tôi ngay cả trong những lúc cô
đơn nhất vẫn cảm thấy an tâm vì được che chở, được đón nhận và tha thứ, như một
người con an tâm vì có gia đình đùm bọc. Tôi đã thấy anh vui như trẻ nhỏ khi
hai anh em leo được lưng chừng một ngọn núi trong cái lạnh cắt da để thấy sông,
thấy rừng và cả mây nữa ở phía dưới, hồi ở Nhật Bản; tôi đã thấy anh cực kỳ
hưng phấn, với đôi bàn tay còn dính đầy màu vẽ, ngồi nhìn bức tranh anh vừa vẽ
trong đêm; tôi đã thấy anh băn khoăn, lẩm bẩm hát một đoạn ngẫu hứng mà anh vừa
kịp ghi lại trên một mẩu giấy xé từ bao thuốc lá... Và tôi đã từng thấy
anh buồn... Anh chẳng làm gì để đỡ buồn, mà tự buồn cho hết. Những lúc ấy, tôi
thấy thương anh vô cùng, mặc dầu có những khi chính tôi cũng làm anh buồn vậy.
Có lúc tôi đến thì thấy anh ngồi một mình trong phòng, một điếu thuốc lá, một ly
rượu. Tôi cảm nhận sự cô đơn trong âm nhạc của anh, trong chính con người anh.
Anh nói với tôi thật nhiều về những bài hát của
anh. Tôi thì hay hỏi "Tại sao?" Anh thì chẳng bao giờ nề hà mà thong
thả trả lời cặn kẽ cho từng “Tại sao" nhiều khi là ngô nghê ấy. Tôi biết
cho đến giờ tôi vẫn chẳng thể nào hiểu thấu đến tận cùng ý nghĩa của tất cả những
gì anh viết. Song, có một điều anh dạy đã trở thành bài học nằm lòng đối với
tôi, ấy là điều mà anh hay nhắc đi nhắc lại: nếu sáng mai ra ngoài ngõ có gặp
ai, dù lạ, vẫy tay với mình, thì đừng bao giờ quên vẫy tay lại, vì ai biết được
có thể người sẽ ra đi ngay sau đó mà không bao giờ còn gặp lại.
Tôi lại đến nhà anh, lần nay không giống như mọi
lần, không còn anh ngồi đây, trên chiếc ghế mây quen thuộc với nụ cười vốn lúc
nào cũng tươi thế, trong sáng thế, và hiền hậu thế. Có ai ngờ được bến bờ là
đây, anh đã ra đi để tôi không còn bao giờ còn được gặp lại.
Người ra đi để tình yêu ở lại. Những hình ảnh của
anh cứ tiếp tục trở về, không dồn dập mà thong thả, êm đềm, làm tôi có cảm giác
đang ngồi bên dòng sông để nghe ký ức rì rầm kể chuyện. Tại sao thế, nước cứ
trôi không ngừng mà dòng sông chẳng hề vơi, tại sao thế hả anh Sơn? Hay cả anh ở
nơi chín suối cũng đang ngồi nhìn dòng sông âm thầm chảy khe khẽ hát:
“...Ru người ngồi mãi cùng tôi
Phạm Phú Phong
Lời Thơ Trong Ca Khúc Trịnh Công Sơn
Lời Thơ Trong Ca Khúc Trịnh Công Sơn
Văn cao, Nguyễn Đình Thi và sau này có Nguyễn Trọng Tạo,
Nguyễn Thụy Kha... đến với thơ rồi mới đến với nhạc. Với Trịnh Công Sơn, cả hai
cùng đến một lúc: khi anh đặt bút xuống ghi những lời ca vào khuôn nhạc, cũng
là lúc hồn thơ trong anh ào ạt, dồn đến réo gọi. Hay nói đúng hơn, anh để khuôn
nhạc của mình trôi trên dòng chảy của thơ ca, mà cả hai phía đều ào ạt, cồn cào
một cách mãnh liệt như nhau.
Một nghịch lý khá phổ biến trong nền thơ ca Việt Nam
là nhiều người làm thơ nhưng ngôn từ chỉ dừng lại ở lời ca, có khi để lẫn vào
ca dao dân gian, trong khi đó, có những người viết lời ca cho nhạc của mình, dù
không hề có ý thức rằng mình đang làm thơ, mà ngôn từ ca khúc kia, được giai điệu
truyền đến cho tâm hồn người nghe, hòa nhập ở cửa ngõ của thơ. Trịnh Công Sơn
là một trong những người như vậy.
Có dịp nghe lại các ca khúc của Trịnh Công Sơn, lần lại
chặng đường sáng tác của anh, từ những Sương đêm (1957) Chơi vơi (1957)
không mấy người biết đến, đến Ướt mi (1958) là tác phẩm được nhiều
người chú ý mà anh cũng đã từng công nhận đó là sáng tác đầu tay thật sự của
mình, cho đến những sáng tác gần đây, tôi bỗng nhận ra trên những cấu trúc âm
thanh hợp lý với sự tiếp nối những trường độ, cao độ và giai điệu khác nhau ấy,
đều xoay quanh dòng chảy của chính tâm hồn thi nhân:
Ngoài hiên mưa rơi rơi
Lòng ai như chơi vơi
Người ơi! Nước mắt hoen mi rồi. (Ướt mi)
Lời ca biểu hiện ý nghĩa một cách cụ thể và chính xác,
còn nhạc tăng cường âm hưởng và ý nghĩa của nó về mặt cảm xúc. Trịnh Công Sơn
luôn tự nhận mình là một trong những tác giả ca khúc; mà đã nói ca khúc thì yếu
tố lời ca không kém gì yếu tố nhạc để đưa đến thành công của tác phẩm, xét về mặt
ca từ học. Trình độ thưởng thức phổ biến của công chúng nước ta chủ yếu vẫn là
ca từ. Và Trịnh Công Sơn đã đáp ứng được điều đó. Nhạc của anh thường tập trung
vào những vấn đề muôn thuở của con người; tình yêu, nỗi đau khổ, thân phận quê
hương, chiến tranh và hòa bình. Như một thi sĩ tài hoa, anh lý giải những u uẩn
của kiếp nhân sinh trước thực tại mênh mông, cùng lúc đặt con người đối đầu trước
cả vận mệnh lịch sử của dân tộc. Anh cư ngụ trong đời người không phải chỉ như
một thi sĩ ca ngợi cái đẹp mà còn là một hành giả đi tìm cái chân, cái thiện của
đời sống. Lời thơ của anh không chỉ là yếu tố phụ, là phương tiện thể hiện dòng
chảy của âm thanh mà trở thành yếu tố chủ đạo thể hiện thế giới tâm hồn của anh
không chỉ đơn côi, trống vắng, chơi vơi đầy sức hấp dẫn mà còn đạt đến độ sâu sắc
đầy tính triết lý nhân sinh. Trong anh có cả nỗi buồn của người Nhìn những
mùa thu đi (1961) có vai em gầy guộc nhỏ của một Diễm xưa (1963)...
Nhưng cũng có khi bùng lên cơn bão táp của cuộc Nối vòng tay lớn (1971).
Cái ồn ào không khí nỗi loạn của cuộc chiến phi lý vẫn không làm lời thơ đầy
tính triết lý bị giảm đi. Cho đến sau 1975, tâm hồn ấy lại ùa ra Huyền thoại
mẹ; Em ở nông trường, em ra biên giới, Hoa hồng nhỏ; Mỗi ngày tôi chọn một niềm
vui. . . Vẫn trong cái dòng nhất quán của hồn thơ ấy:
Đêm chong đèn ngồi nhớ lại
Từng câu chuyện ngày xưa
Mẹ về đứng dưới mưa
Che đàn con nằm ngủ...
Mẹ lội qua con suối
Dưới mưa bom không ngại
Mẹ nhẹ nhàng đưa lối
Tiễn con qua núi đồi...
Nếu chúng ta không bị ảnh hưởng lệ thuộc bởi bài hát
đã từng nghe, khi đọc lên những câu thơ này, sẽ thấy đó hoàn toàn là những câu
thơ hay và đẹp, ngợi ca người mẹ Việt Nam, cao hơn, đó là Mẹ - ĐấT Nước. Toàn bộ
bài hát như một bài thơ hoàn chỉnh, với cấu tứ, cảm xúc, ngôn ngừ, thể hiện được
những hình tượng thơ, làm toát lên được chủ đề và một phần đời sống sống động của
đất nước một thời.
Nhiều người nói Trịnh Công Sơn là nhạc sĩ của Huế,
không chỉ vì anh trưởng thành, tham gia phong trào và công tác ở Huế mà bởi vì
trong anh có không gian âm hưởng có vóc dáng tâm hồn của Huế, có chút biến âm của
làn điệu mái nhì mái đẩy, có vòm cây long não, có tháp cổ kinh thành. . . mà
nếu không có tâm hồn của một thi nhân, anh khó mà có thể cảm nhận hết được. Tôi
nhớ, nhà văn Nguyễn Tuân có lần nói rằng: "Nhạc Trịnh Công Sơn là
thơ". Quả vậy, Trịnh Công Sơn là một nhà thơ, đã sáng tác trên dòng chảy của
những chuỗi âm thanh từ cây đàn ghi ta. Và, cho đến nay, anh là một trong những
người đã khai thác đến tận cùng năng lực của những nốt nhạc trên cây đàn gỗ ấy,
để đem lại những bản nhạc - những bài thơ có sức quyến rũ nhiều thế hệ.
Bùi Vĩnh Phúc
Trịnh Công Sơn
Những Ám ảnh Nghệ Thuật
Trịnh Công Sơn
Những Ám ảnh Nghệ Thuật
Trịnh Công Sơn đã ra đi. Những tiếng chuông gọi hồn
đã được đánh lên. Và âm vang của những hồi chuông ấy vẫn còn vương đầy trong
không gian tâm hồn của chúng ta. Qua những tiếc thương và suy tư của bao người
còn ở lại. Nhưng thực ra, những tiếng chuông gọi hồn đó đã luôn cất lên, gióng
giả, trong suốt cuộc hành trình làm người của Trịnh Công Sơn. Chúng vang vọng
trong âm nhạc của anh, với những nhịp điệu đều đều, buồn buồn, nghe như những
tiếng kinh cầu; trong những nhịp kể lể với những ca từ mang nặng tính siêu hình
pha vào nhịp thở của thời đại. Những tiếng chuông gọi hồn đó vang vọng trong
cõi thời gian chìm chìm ẩn ẩn một màu úa tàn, bềnh bồng trôi dạt về một nơi chốn
thiên thu nào đó, một cõi thời gian luôn luôn in dấu những chiếc bóng trăm năm.
Những tiếng chuông gọi hồn đó, chúng vang vọng trong những khoảng không gian đựng
nhiều bóng tối, trong những cánh rừng xưa đã khép mắt, những cồn biển quạnh hiu
và những núi đèo mờ mịt, trong những đường phố đầy bóng hư không, hay trong những
quán xá bàn ghế không bày... Nhưng những tiếng chuông cầu hồn ấy trước hết, đã
được đánh lên với những âm vang sắc buốt nhất qua những bài hát về thân phận
con người, về cuộc chiến tang thương vỡ nát trên quê hương Việt Nam.
Những tiếng chuông ấy vang động khắp thế giới qua âm
nhạc cũng như lời ca của Trịnh Công Sơn. Những lời ca như những dòng thơ buồn rầu
vỡ sắc, tả về những kinh hoàng tưởng như không bao giờ có thật, nhưng chúng vẫn
hiện hữu trong cuộc sống con người. Những lời ca như những dòng thơ đẩy con người
chạm mặt với cõi siêu hình. Dù chỉ là trong những khoảnh khắc của cuộc sống. Và
chính những tiếng chuông cầu hồn vang lên trong âm nhạc đó của anh đã đẩy anh,
nhiều lần, ra trước những vành móng ngựa của đời. Con người là một con vật xã hội
(social animal). Từ đó, nó cũng là một con vật chính trị (political animal) dù
nó có muốn hay không. Và nếu chỉ nhìn về khía cạnh chính trị, từ góc độ của
mình, có lẽ chúng ta có thể nhìn thấy Trịnh Công Sơn có những sai lầm, những vấp
ngã; và chính anh, khi nhìn lại đời mình, cũng đã có những lúc thấy và hối tiếc
về những vấp ngã và sai lầm của anh trong đời. Chúng ta, trong mắt nhìn của
mình về anh như một con người của quần chúng, có quyền lên tiếng và bày tỏ thái
độ của mình về những chọn lựa của Trịnh Công Sơn. Nhưng nếu nhìn từ một góc độ
khác, rộng lớn hơn, người nghệ sĩ ấy là một con vật xã hội. Hơn thế nữa,
Trịnh Công Sơn là một con người với tất cả những yếu đuối và mỏng dòn của nó.
Anh cũng là một con người hết sức thiết tha với cuộc đời. Anh yêu thương cuộc đời
và đau xót vì thấy được cái thân phận mỏng manh và nhiều khổ đau của kiếp con
người. Thật ra, trên hết và trước hết, Trịnh Công Sơn là một nghệ sĩ, một con
người đã sống hết lòng với trái tim mình. Một trái tim thật nhạy cảm trước từng
máy động của đời. Trịnh Công Sơn rung động với mỗi chuyển động tế vi của trời đất,
với tiếng gió qua đèo, tiếng những giọt mưa, những nụ hoa hẹn hò nhau trước sân
nhà anh. Những máy động mong manh như thế, con người nghệ sĩ ấy còn nghe thấy,
thì làm sao những tiếng nổ làm vỡ nát thịt da người kia anh lại không nhận ra?
Nhưng cuộc chiến nào cũng có hai phía, nếu không là nhiều phía, nên khi anh ghi
nhận lại những hình ảnh đau thương tan nát và những âm thanh tàn phá ấy, anh dễ
bị lôi ra trước những vành móng ngựa của đời. Cũng thế, những người góp tiếng
nói để nhìn lại hoàn cảnh, vị trí, con người và những mơ ước, những thiết tha
cùng những đóng góp nghệ thuật của anh cũng có thể bị ngộ nhận như thế.
Nhưng, nếu ta nhìn cuộc đời này một cách rộng lớn
hơn, nếu ta không đóng khung nó lại trong khoảng thời gian của một cuộc chiến;
nếu ta nhìn con người như những tế bào, những sinh thể của một Đời Sống lớn
hơn, những sinh thể được liên kết với nhau trong một sự gắn bó thiết tha sống
chết, thì đúng như John Donne đã nói "Không ai là một hòn đảo (...); mỗi
người là một mảnh của Đại lục (...) Cái chết của mỗi một người đều
làm tôi bị mất mát đi, bởi lẽ tôi gắn liền với Nhân loại. Và, bởi thế, xin đừng
bao giờ hỏi rằng chuông gọi hồn ai. Chuông gọi hồn anh đó". Nếu một người
có tội, tất cả mọi người đều - trong những mức độ nào đó - chia sẻ sự liên đới
của tội lỗi kia. Để đạt đến sự cứu rỗi, tất cả mọi người đều phải có những nỗ lực
đóng góp để vươn về điểm tới ấy. Một gương mặt hằn sâu những vết cắt của tội lỗi
và đau khổ (in bóng một cánh rừng âm u, quằn quại những sức sống vươn lên trong
bóng tối), cùng lúc, cũng khuôn mặt ấy với ánh sáng thánh thiện và nét cứu rỗi
mọc lên trong đôi mắt, bỗng hiện dần ra trước cái nhìn của tôi. Đó là khuôn mặt
của con người nghệ sĩ Dostoevski. Tôi muốn chảy nước mắt khi nhớ lại cái ánh
sáng kia trong các tác phẩm của ông. Con người là một sự liên đới. Và trong sự
nhận thức về tính cách liên đới ấy, nó bước gần đến chỗ tìm ra được sự cứu chuộc
cho chính mình. ý nghĩa cuộc sống hiện sinh của con người nằm ở chính trong sự
liên đới và sự cứu chuộc kia.
Dù sao, tôi muốn viết bài này về Trịnh Công Sơn không
phải chỉ để nhắc lại những tiếng chuông gọi hồn vẫn mãi còn gióng giả trong nhạc
của anh. Thật ra, tôi muốn viết về anh nhiều hơn với tất cả những khía cạnh đẹp
tươi, thơ mộng mà anh đã để lại trong âm nhạc và ca từ của mình, mặc dù những
nét thơ và đẹp ấy gần như luôn luôn nằm trong vùng hồi quang của những chia
lìa, mất mát để khi nhìn lại, người ta thường chỉ thấy ở đó những cơn gió quạnh
quẽ, những chiếc bóng trăm năm đi về mãi mãi. Nhưng, bây giờ, ít nhất, trong những
giờ khắc tĩnh tại của lòng mình, trong những khoảng thời gian chớp mắt của đời
sống mà chúng ta thỉnh thoảng tìm được cho mình trong dòng đời này, hãy để lòng
mình lắng lại những tiếng quê nhà. Hãy thử gạt bỏ đi những tạp âm trong đời sống
này để nghe lại những tiếng nói thân thiết mà chúng ta hằng quen thuộc. Trịnh
Công Sơn đã để lại cho tất cả chúng ta một gia tài dung chứa bao nhiêu hình ảnh
đau thương, xót xa cũng như thơ mộng và đẹp đẽ về quê hương Việt Nam nói riêng,
và quê hương của con người là cõi tạm này nói chung. Những bài hát của anh đã
làm cho chúng ta phong phú hơn biết bao về nhiều khía cạnh.
Thế giới nhạc ngữ của Trịnh Công Sơn rất mới. Chúng mới
một cách giản dị. Không phải mới ở cách dùng những câu chữ phức tạp, cầu kỳ,
nhưng là mới ở cách sắp đặt những từ ngữ và những hình ảnh bên nhau một cách bất
ngờ và rất không truyền thống. Trịnh Công Sơn lớn lên trong một thời đại mà ảnh
hưởng của văn hóa âu Mỹ, đặc biệt là của Tây phương, đã ghi những dấu ấn khá
sâu đậm trong tâm hồn người Việt. Nó tạo nên bầu khí quyển văn hóa đặc thù, và
những trí thức trẻ Việt Nam là những người có nhiều cơ hội sống và hô hấp trong
cái bầu khí quyển đó. Những nghệ sĩ, lại là trí thức, dễ trở nên những người nhạy
cảm và tài hoa hơn ai hết trong việc khúc xạ những hình ảnh của thời đại, của
thế giới, theo cách nói mới của con người thời đại. Trịnh Công Sơn có chịu những
ảnh hưởng này, ở một mức độ nào đó. Và, trên khía cạnh ngôn ngữ và nghệ thuật,
tôi cho rằng đây là những ảnh hưởng tốt, có khả năng giúp mở ra một thế giới
hình tượng mới cho tuổi trẻ Việt Nam. Trong thi ca, chúng ta đã có nhiều nhà
thơ, qua tiếp cận với những tiếng nói thời đại ở khắp nơi trên thế giới, làm mới
được giọng nói và ngôn ngữ mình.
Nhớ, Apollinaire, trong bài Le Pont Mirabeau, đã
có những câu thật đẹp:
Les mains dans les mains restons fàce à face
Tandis que sous
Le pont de nos bras passe
Des éternels regards l 'onde si lasse. . .
(Tay nắm lấy tay và mặt nhìn mặt
Trong lúc đó dưới
Cầu của những cánh tay đôi ta lướt chảy
Dòng nước mệt mỏi của những thoáng nhìn thiên thu...)
Hình ảnh cây cầu bằng những cánh tay bắc qua vai nhau
này thật đẹp và mới. Nó cũng đã xuất hiện trong một câu thơ của ta vào những
năm sáu mươi.
Cũng Apollinaire, trong bài Zone, có hình ảnh
thật lạ:
Bergère ô tour Eiffel le troupeau des ponts bêle ce
matin...
(Ô kẻ chăn cừu ơi hỡi tháp Eiffel, bầy cừu mà nàng
chăn dắt là những cây cầu kêu be be buổi sáng hôm nay...)
Và Trịnh Công Sơn có hình ảnh quá mới và đẹp sau đây
mà chắc ít người để ý:
Ngày mai em đi / biển nhớ em quay về nguồn
Gọi trùng dương gió ngập hồn / bàn tay chăn gió mưa
sang...
Bàn tay chăn gió mưa sang. Gió mưa được xem như
một bầy cừu hay một bầy dê nhỏ đáng yêu mà bàn tay ai đã chăn dắt sang đây.
Hình ảnh mưa gió được làm cho mềm mại và sinh động để hòa nhịp với nỗi nhớ thiết
tha đang bay trong trời không.
Jacques Prévert nói:
L’oiseau qui chan te dans ma tête
Et me repète que Je t’aime. . .
(Con chim hót trong đầu anh /
Và nhắc lại cho anh biết rằng anh yêu em...)
Và lời ca trong bài Therés A time, mà Nàng
Mouskouri hát rất hay, có hình ảnh:
Now you ride the ocean, chase the stars underneath
some far-away skies
And the bird in my heart knows you are never coming
home, never coming home till the day the sea runs dry.
(Giờ đây anh cưỡi trên biển cả, đuôi theo những vì
sao dưới những bầu trời xa thẳm
Và con chia trong trái tim em biết rằng anh chẳng bao
giờ quay về, chẳng bao giờ quay về cho đến khi nào biển cạn khô dòng.)
Hình ảnh con chim hót trong đầu hay trong trái tim của
một con người không phải là hình ảnh có thể xảy ra trong đời xa xưa, chẳng hạn
như trong thời của "Tuyết Hồng Lệ Sử”; nhưng nó là hình ảnh tự nhiên để diễn
tả cảm xúc của thời năm mươi, sáu mươi, và sau đó nữa. Trịnh Công Sơn có thể chịu
ảnh hưởng trong việc sử dụng biểu tượng này. Nhưng hình ảnh chim gắn với cảm
xúc trong ca từ của ông được vẽ bằng một nét mạnh bạo và độc đáo hơn nhiều:
Trong trái tim con chim đau nằm yên /
Ngủ dài lâu mang theo vết thương sâu
và
Trên giọt máu cuồng điên/ con chim đứng lặng câm
Khi về trong mùa đông/ Tay rong rêu muộn màng...
Trông đợi những cơn mưa, Trịnh Công Sơn viết:
Buổi chiều ngồi ngóng những chuyến mưa qua
“Mưa" được coi như những chuyến xe mà tác giả là
người chờ ngóng mong đợi chúng. Để làm gì? Có thể là để lên đường đi đến cõi mộng
mơ của mình chăng? Cũng nói về những chuyến mưa như thế, nhưng ở đây là những
chuyến mưa đêm, Mai Thảo có viết một câu với đại ý là "từ những vùng xa thẳm,
mưa bay qua những ga sao và những trạm trời để đến với ta".
Tôi thử đưa ra một số những hình ảnh và ngôn ngữ ấy để
chứng tỏ rằng thời đại làm nên con người. Và nó làm nên con người qua những
hình ảnh và ngôn ngữ cùng lối suy nghĩ riêng của nó. Chính vì thế, qua thế giới
nhạc ngữ của Trịnh Công Sơn, ta nhận thấy rõ anh là một nhân chứng quan trọng của
thời đại. Âm nhạc của anh cùng với ngôn ngữ và hình ảnh trong đó đã đem lại cho
chúng ta một cái nhìn rõ nét về giai đoạn mà nó ra đời. Và Trịnh Công Sơn quả
thật đã là người sai sử ngôn ngữ một cách tuyệt diệu.
Sau đây, trước hết, chúng ta hãy thử khảo sát một số
ám ảnh của Trịnh Công Sơn.
(... ) Một ám ảnh, thu gọn thân phận riêng Trịnh Công
Sơn, với những biểu hiện rất riêng của người nhạc sĩ, là ám ảnh về sự cô
đơn của chính mình.
Hãy nghe anh nói về thế giới của anh:
Trời cao đất rộng / Một mình tôi đi / Một
mình tôi đi
Đời như vô tận / Một mình tôi về
Một mình tôi về với tôi (Lặng lẽ nơi này)
(... ) Đời chỉ là một cuộc đi. Đi mãi đi mãi. Và
đi một mình. Đi một mình như thế qua suốt cuộc trần gian này:
Có đường xa và nắng chiều quạnh quẽ
Có hồn ai đang nhè nhẹ sầu lên (Tôi ơi đừng tuyệt vọng)
(... ) Nếu có về chốn cũ của mình, anh chỉ nhìn thấy
sự hoang vu quạnh quẽ. Tất cả những gì là êm ấm, gần gũi ngày xưa, bây giờ chỉ
còn là sự hờ hững, vắng không, tăm tối, khiến cho nỗi cô đơn trong anh càng đầy,
càng nặng:
Nhà im đứng cửa cài đóng then
Vườn mưa xuống hành lang tối tăm
Về thôi nhé, cổng chào cuối sân
Hờ hững thế loài hoa trắng hồng (Vườn xưa)
Trịnh Công Sơn nhìn ngắm thân phận mình như một cái
gì hư ảo, chóng tàn, chóng mất. Phần nào giống như Trần Thái Tông trong Khóa
hư lục ngày xưa:
Thân như băng kiến hiệu
Mệnh tựa chúc đương phong
(Thân như băng gặp nắng trời
Mệnh như ngọn đuốc giữa gió)
Dù sao, cái nhìn của anh về thân phận mình có chút gì
mong manh, dễ tàn, dễ mất hơn:
Đời ta có khi là đớm lửa
Một hôm nhóm trong vườn khuya (Đêm thấy ta là thác đổ)
Ánh lửa ấy rồi cũng như vệt nắng chiều mong manh hấp
hối kia, sẽ đậy lại một ngày qua... “Tâm hồn là kẻ săn đuổi cô đơn". Kẻ
săn đuổi ấy cô đơn?
Hay kẻ ấy săn đuổi sự cô đơn? Nghĩa nào cũng đẩy tâm
hồn con người đối mặt với chính nỗi cô đơn của mình. Tựa đề trong nguyên bản tiếng
Anh rõ ràng hơn. The Heart is A Lonely Hunter. Nghĩa thứ nhất. Dù
sao, chính trong sự cô đơn, con người nghe ngóng được cuộc đời, cảm nhận được
những hiện tượng thiên nhiên một cách rõ ràng hơn. Trịnh Công Sơn cũng thế.
Trong tịch lặng của niềm cô đơn, thính giác anh trở nên mẫn cảm hơn bao giờ hết.
Sự nghe ngóng cuộc đời cảm nhận thiên nhiên của Trịnh Công Sơn, ở một góc cạnh
nào đó, cũng là nỗi ám ảnh muốn ôm lấy đời sống này, cho dù bên tai anh vẫn
luôn nghe thấy những tiếng giục gọi lên đường:
Đêm nghe gió tự tình
Đêm nghe đất trở mình vì mưa
Đêm nghe gió thở dài
Đêm nghe tiếng khóc cười của bào thai. . .
Đêm thân xác mịt mùng
Đêm nghe tiếng muôn trùng đẩy đưa (Nghe tiếng muôn
trùng)
Im lặng thở dài cho ta thấy Trịnh Công Sơn hết sức
thiết tha với cuộc sống. Anh luôn muốn sống cuộc đời mình một cách đầy tràn. Có
lẽ vì anh đã cảm nhận được là mọi thứ trên đời này qua đi quá nhanh.
Nghe ngóng thiên nhiên, anh có dịp sống trở lại những
cảm giác, những hạnh phúc và đau đớn cũ. Đời sống anh trở nên đậm nét và sâu lắng.
Đôi khi thấy trên lá khô một dòng suối
Đôi khi thấy trong mắt em một bóng tối nhỏ nhoi...
Đôi khi thấy trong cánh chim từng đêm tối
Đôi khi nhớ trong tóc em mùi cây trái thơm tho
Đôi khi bước qua phố xưa lòng tôi nhớ
Đôi khi thấy trăm vết thương rồi như đá ngây ngô. (Rồi
như đá ngây ngô)
Trong đời ta, biết bao lần đã xảy ra những cuộc “đôi
khi" đó, nhưng mấy ai là người cảm nhận rõ được hết những buốt sắc và ngọt
ngào của những gì mà ta đã có trong đời. Phải là một người hết sức thiết tha với
cuộc sống trong từng nếp gấp của nó, phải là người cứ mãi nuôi nấng trong lòng
những tình cảm với người đã đi qua đời mình, người ta mới có thể sống trở lại một
cách tận tuyệt như thế những đau đớn và hạnh phúc của đời. Bài hát trên có lẽ
là một trong những bài hát đẹp lạ lùng mà Trịnh Công Sơn đã kể lại cho chúng
ta.
Trịnh Công Sơn có thể "tìm thấy nỗi nhớ từ mỗi
chiếc lá". Thật sự, mỗi một nét của đời, mỗi một sự kiện trong đời sống
con người đều thấp thoáng trong nó một bức vẽ hoàn chỉnh nào đó, lớn hơn chính
nó. Với cảm nhận cua riêng tôi, và trong cái nhìn của tâm lý hoàn hình Gestalt,
tôi có thể nhìn thấy bất cứ một hình ảnh hay sự kiện nào đã xảy ra với tôi và
được cất giữ lại trong ký ức của tôi qua bất cứ một nét, một dấu, một hình nào
đó mà tôi gặp gỡ trong đời. Tất cả những nét, những hình, những dấu ấy, như là
một vài nét phác của một bức tranh hoàn chỉnh, sẵn sàng được tái hiện trong nhận
thức và cảm thức tôi. Miễn là tôi biết rung động. Trịnh Công Sơn đã nhìn, nhưng
không phải anh nhìn để tìm biết cấu trúc của hiện thực. Anh nhìn, để sống và cảm
nhận lại những đường nét, những khía cạnh có ý nghĩa đối với anh trong cái hiện
thực ngày xưa mà bây giờ đã trở thành kinh nghiệm đó. Anh luôn nghe ngóng và
nhìn ngắm đời sống để có thể bắt được trở lại những đường dây mong manh cũ. Những
đường dây đã kết nối anh với những nỗi hạnh phúc bây giờ đã thành xa vắng.
Nhìn và nhớ. Từ đó, bắt đầu một quá trình làm sống dậy
quá khứ. Từ đó, con người sống trong thời gian đồng hiện:
Mùa xuân yêu em đồi núi thênh thang
Hồ nước long lanh ngàn cánh vàng
Ngày ta yêu em màu lá thanh xuân
Chờ đến thu sang rồi hãy tàn
Đàn chim bên sông chiều chiều rung cánh
Người ngồi trên bến nhớ mênh mông. (Người về bỗng nhớ)
Có những khi, cái nhìn của Trịnh Công Sơn không phóng
ra ngoại giới, mà lại chiếu thẳng vào bên trong. Đó là một cái nhìn có tính
cách quán chiếu. Anh nhìn vào đời mình, nhìn vào lòng mình, lắng nghe lòng
mình. Rồi, với những cảm xúc do sự quán chiếu vừa mang lại, anh nhìn ra thiên
nhiên. Cảm nhận ngoại giới. Nhìn như thế, ta sẽ thấy mình không còn giữ cái tâm
biện biệt trong, ngoài. Nội giới hòa vào ngoại giới. Và ta là kẻ bắt đầu thấy
được cái ta đang máy động những nhịp điệu của vũ trụ bao quanh. Nhìn như thế là
nhìn theo cái nhịp thiên địa dữ ngã tịnh sinh. Ta và trời đất cùng sinh ra và
cùng chia nhau một nhịp thở:
Ngày tháng nào đã ra đi khi ta còn ngồi lại
Cuộc tình nào đã ra khơi ta còn mãi nơi đây.
Từng người tình bỏ đi ta như những dòng sông nhỏ
Ôi những dòng sông nhỏ
Lời hẹn thề là những cơn mưa. (...)
Đôi khi ta lắng nghe ta
Nghe sóng âm u dội vào đời buốt giá
Hồn ta gió cát phù du bay về
Đôi khi trên mái tình ta
Những sự mất mát trong đời sống đã mở mắt cho Trịnh
Công Sơn thấy được cái vô thường của đời này. Nỗi ám ảnh về cái chết, về sự
mất mát, về tính vô thường của đời sống, luôn luôn là một ám ảnh theo
sát Trịnh Công Sơn từ những ngày anh còn khá trẻ. Có lẽ vì là một người sống
ngay trong một thành phố mà lúc nào bom đạn cũng bủa vây tứ phía, được nhìn tận
mắt chiến tranh, nghe và thấy cái chết một cách quá rõ nét trong cuộc đời, Trịnh
Công Sơn đã có những cảm nhận sâu xa về những cái mất còn của đời sống. Cuộc
chiến đã dựng lên những cận ảnh tang tóc và kinh hoàng ngay trong những thành
phố mà anh đã từng sống với. Cái còn hay mất của tất cả mọi thứ, kể cả tình
yêu, trong chiến tranh, cũng là một điều mà con người phải kinh nghiệm và chấp
nhận. Hạnh Phúc hay Bất Hạnh. Nỗi Buồn hay Niềm Vui. Khổ Đau hay Hoan lạc. Tất
cả chỉ là hai mặt sấp ngửa của Cuộc Đời. Từ đó, người nhạc sĩ nhận ra rằng:
Một hôm bỗng nghe ra buồn vui kia là một
Như quên trong nỗi nhớ
Vườn năm xưa em đã đến/ Nay trăng quá vô
vi
Giọt sương khuya rụng xuống lá
Như chân ai lần về (Nguyệt ca)
Anh nhìn ra là những ngày vui rồi sẽ tan mau như nắng:
Trong hội trần gian bao nhiêu ngày yêu dấu cũng không
còn
Người người yêu nhau đã mất nhau trong đời
Một ngày tăm tối khép nghìn sớm mai. (Còn
có bao ngày)
Em theo đời cơm áo / Mai ra cùng phố xôn
xao
Bao nhiêu ngày yêu dấu tan theo
Ta ôm tình nặng trĩu / Nghe quanh đời mưa bão
Ôi những ngày yêu dấu bọt bèo (Yêu dấu tan theo)
Trịnh Công Sơn nhìn thấy rất rõ những bào ảnh của đời. Tình
trong hai tay, một hôm biết mất; Còn gì đâu những má xưa hồng / vùng tuổi xanh
thoảng bay như gió; Bốn mùa thay lá thay hoa thay mãi đời ta; Trong xuân thì thấy
bóng trăm năm; Chiều hôm thức dậy / ngồi ôm tóc dài / chập chờn lau trắng trong
tay; Người đi quanh thân thế của người/ một trăm năm như tiếng thở dài. Tất
cả những kinh nghiệm, những nhận thức ấy càng làm cho anh ý thức hơn nữa cái
khoảng ngắn hẹp của thời gian mà chúng ta gọi là đời người này.
Bao nhiêu năm làm kiếp con người
Chợt một chiều tóc trắng như vôi
Lá úa trên cao rụng đầy
Cho trăm năm vào chết một ngày...
Vết mực nào xóa bỏ không hay. (Cát bụi)
Phải, đời sống con người cũng chỉ như một vết mực. Rồi
nó sẽ nhòe đi. Rồi sẽ được xóa bỏ. Thực, biến. Có, không. Đi, về. Đối với ta,
bây giờ, tất cả trông chỉ giống như một đường chỉ kéo dài tít tắp.
Dòng sông trước kia tôi về/ Bỗng giờ đây đã khô không
ngờ
Lòng tôi có khi mơ hồ/ Tưởng mình đang là cơn gió...
Chợt tôi thấy thiên thu là / Một đường không bến bờ...
(Lời thiên thu gọi)
Một ngày có đóa hoa lan trong vườn
Một ngày thấy dáng em
Một chiều bỗng thấy hoa lan úa tàn
Vườn chiều vừa mất dáng em
Một chiều núi bỗng mang thân cánh đồng
Thì cùng dòng nước khóc giùm.
Một lần thấy bóng em qua nơi này
Một lần với bóng tôi
Một ngày đã có em xa nơi này
Một ngày với vắng tôi
(Một lần thoáng có)
Giống như Nguyễn Du đã nhìn thấy hình ảnh vô thường
trong bóng mây:
Du du vân ảnh biên thần tịch
(Bóng mây lững thững biến đổi sớm chiều)
Trịnh Công Sơn cũng nhìn thấy cái chớp mắt của vô thường
kia trong bóng nắng. Bóng nắng trong câu kinh Phật:
Con mắt còn lại nhìn đời là không
Nhìn em hư vô nhìn em bóng nắng
Thiền sư Vạn Hạnh trong bài Thị đệ tử nói
rõ:
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
(Thân như ánh chớp có rồi không)
Người con gái yêu dấu bên cạnh đời ta kia rồi một
ngày
nào đó cũng sẽ bay đi. Bay đi như một ánh chớp. Bay
mãi vào cuộc trăm năm hay vào những cõi bờ không còn không mất. Hình ảnh cánh
hoa trắng ngần kia có phải là hình ảnh của em không?
Mùa mưa tới cánh hoa trắng ngần
Đã ra đời đùa vui phút giây
Sau một lần đến bên người
Khép lại tấm lòng nghìn năm nhớ ai (Chuyện đóa Quỳnh
Hương)
Và hình ảnh ngọn gió kia, chính là ta đó. Một ngọn
gió hư vô:
Ôi phù du / từng tuổi xuân đã già
Một ngày kia đến bờ/ Đời người như gió qua
(Phôi pha)
Em hay ta, rồi thì cũng sẽ ra đi. Và cả trần gian này
nữa.
Tất cả rồi thì cũng sẽ mịt mù. Tất cả rồi sẽ nằm chìm
dưới cơn mưa của trăm năm. Hay của ngàn năm. Trăm năm, cái dấu chấm bé cỏn con ấy
cho một đời người. Và ngàn năm, so với thiên thu, thì cũng chỉ là một cơn gió
phù du:
Chìm dưới cơn mưa một ngàn năm trước mây qua...
Chìm dưới cơn mưa một ngàn năm nữa mây qua mây qua...
Bờ bên thiên thu nằm chìm dưới hư vô (Chìm dưới cơn
mưa)
Tất cả rồi sẽ chìm trôi. Đó là nỗi ám ảnh không nguôi
của
Trịnh Công Sơn. Tính chất Vô thường của đời sống, và
của mọi sự trong nó, dẫn đến một thứ hư vô rợn ngợp bao phủ không gian tinh thần
của một số ca khúc Trịnh Công Sơn.
Nhưng, vì là một con người luôn thiết tha gắn bó và
yêu thương cuộc đời, như đã phân tích ở trên, nhận thức về hư vô này không đưa
người nghệ sĩ đến một thứ hư vô luận có tính cách tàn phá và phủ nhận cuộc đời.
Trái lại, chính sự thiết tha ấy đã làm nên một chiếc phao giúp cho Trịnh Công
Sơn khỏi phải “chìm dưới cơn mưa". Ít ra, cho đến hết kỳ hạn của anh. Cho
đến lúc "vết mực" kia bị xóa bỏ đi.
Thời gian nghệ thuật
Một lát cắt quan trọng để khảo sát nghệ thuật sử dụng
hình tượng và ngôn ngữ trong thế giới của Trịnh Công Sơn, cũng như để tìm hiểu
một nỗi ám ảnh lớn trong cuộc đời anh, là lát cắt về thời gian. Một cách chung,
có thể nói thời gian là một đơn vị, một đại lượng để đo và xác định quá trình
phát khởi, tồn tại, vận động, phát triển và suy tàn của mọi vật, mọi loài trong
thế giới hiện tượng. Khoa học tự nhiên, với những định luật khách quan của nó,
cho biết là thời gian chỉ vận động theo một chiều. Đó là chiều đi tới, từ quá
khứ, sang hiện tại, rồi đến tương lai. Thời gian tự nhiên không đi theo chiều
nghịch đảo, và nó cũng không thể cùng đồng hiện. Thời gian được biểu thị bằng một
vec-tơ theo một chiều đi tới. Thế nhưng, trong thế giới nghệ thuật, thời gian
có thể rong ruổi tới lui tùy theo sự sắp xếp của kẻ sáng tạo. Trong văn chương
hiện đại, có lẽ Gabrial Garcia Marquez, bậc thầy của những tác phẩm hiện thực
huyền ảo (magical realism), với nhiều tác phẩm được cả thế giới biết đến, đặc
biệt là hai quyển Trăm năm cô đơn (One Hundred Years of Solitude) và Tình
yêu thời thổ tả (Love In The Time of Cholera), đã cho thấy là thời
gian có thể chạy ngược hay xuôi, và có nhiều lúc nó lại trở nên đồng hiện, tức
xảy ra cùng một lúc, cả quá khứ lẫn hiện tại. Tất cả bắt nguồn từ trong trí tưởng
tượng, trong hoạt động nhận thức, trong tâm lý của chủ thể sáng tạo, và trong
những nhu cầu thao tác nghệ thuật để cấu trúc tác phẩm của người nghệ sĩ. Thời
gian trong tác phẩm nghệ thuật, như thế,
không bị đóng khung trong một chiều đi tới, mà nó có
thể được sử dụng như một hình tượng, được tái hiện, được dự phóng, để diễn đạt
tâm và ý của kẻ sáng tạo.
Trong tinh thần đó, nhìn vào thế giới nghệ thuật của
Trịnh Công Sơn, ta thấy bóng thời gian đầy khắp:
Ta về nơi đây tháng năm quá rộng (Khói trời mênh
mông)
Tháng năm quá rộng đấy, nhưng có lúc lại như là những
hạt cát trong chiếc đồng hồ cổ kia:
Ngựa xa rồi ngựa xa rồi trên ngày tháng vơi (Phúc âm
buồn)
Anh nghe tiếng thời gian chạy trong mùa, trong từng
ngọn gió bấc:
Nghe tiếng em run
Theo từng ngọn gió bấc sang mùa (Ru đời đã mất)
Mùa xanh lá vội / ru em miệt mài (Ru em từng ngón
xuân nồng)
Thời gian, trong cảm nhận của Trịnh Công Sơn, có thể
rộng, vơi, có thể được nhìn thấy trong ngọn gió mùa sang, trong từng sắc lá.
Nhưng, thời gian trong anh cũng còn có thể được nhìn thấy một cách đồng hiện
trong dòng chảy mịt mù của thiên thu:
Dòng sông trước kia tôi về
Bỗng giờ đây đã khô không ngờ. . .
Chợt tôi thấy thiên thu là
Một đường không bến bờ. (Lời thiên thu gọi)
Thời gian trong Trịnh Công Sơn được cảm nhận nhiều và
rõ nét trong những không gian buổi chiều, hay là khi bóng đêm đã phủ chụp xuống,
hơn là trong những sớm mai hay trong những trưa nắng. Điều này có nguyên nhân của
nó, và chúng ta sẽ xét sau ở phần phân tích bên dưới. Ở đây, tạm thời chúng ta
hãy ghi nhận điều đó. Và hãy thử bước vào những không gian chiều và đêm ấy của
anh để cảm nhận rõ hơn nữa bước đi của thời gian, và cũng để thấy được những
vùng bóng lá trong linh hồn của một người:
Xin vỗ tay cho đều / Khi đêm đổ xuống đời
ta
Xin vỗ tay cho đều / Khi tình trôi đã trôi xa
Nụ cười đã cuốn ta đi / một ngày lại thấy
ta về
Xin đứng yên trong chiều / trên môi thở
khói quạnh hiu
Xin đứng yên trong chiều / phơi tình cho nắng
khô mau
Về đây thân xác hư hao / đêm đêm nằm
nghe lá
Than van chút niềm đau ngọt ngào...
Xin đứng yên trong chiều / lao xao từng
bóng hoàng hôn
Xin đứng yên trong chiều / treo tình trên
chiếc đinh không. . . (Tình xót xa vừa)
Đêm, nó thật sự là một cõi thời gian đặc biệt. Trong
nó,
Trịnh Công Sơn có nhiều cơ hội để nhìn ngắm, nghiền
ngẫm đời mình:
Tôi như ngọn đèn từng đêm vơi cạn
Lửa lên thắp một niềm riêng
Tôi như nụ hồng nhiều khi ưu phiền
Nhìn tôi rã cánh một lần. (Tự tình khúc)
Thật sự, Trịnh Công Sơn đã cảm nhận thời gian trong từng
giờ phút của đời mình:
Từng giờ tiếc nuối / chia tay ngậm ngùi
Một ngày còn sống / Chiếc bóng lung linh. . . (Vẫn nhớ
cuộc đời)
Trong anh, từng giờ phút, từng ngày tháng là những tiếng
đinh thời gian gõ đều trên cuộc đời:
Ngày tháng nào đã ra đi khi ta còn ngồi lại
Cuộc tình nào đã ra khơi ta còn mãi nơi đây(...)
Khi bước chân ta về/ đêm khuya nhìn đường phố
Thành phố hoang vu như một lần qua cuộc tình
Làm sao em biết đời sống buồn tênh. (Tình xa)
Trình bày qua như thế để thấy rằng, đối với Trịnh
Công Sơn, thời gian không hẳn chỉ là một đại lượng. Mà nó còn là một nỗi ám ảnh.
Một nỗi ảm ảnh bao trùm lên hiện sinh anh, ôm ấp và ôm giữ lấy anh. Tôi thấy
chúng ta có thể chia thời gian trong các tác phẩm của anh thành những loại thời
gian như sau: thời gian phai tàn, thời gian tiếc nuối, thời gian trông
ngóng (một hạnh phúc, một tin vui), thời gian hướng vọng thiên thu, và thời
gian thực tại.
Dưới đây, ta sẽ lần lượt thử xét các loại thời gian
này trong Trịnh Công Sơn qua những hình tượng và ngôn ngữ nghệ thuật mà anh đã
sử dụng để diễn tả chúng.
Thời gian phai tàn
Trịnh Công Sơn là một người luôn ý thức được bước đi
của thời gian. Đối với anh, thời gian thường đi qua nhanh, để tất cả những gì
là tươi đẹp trong cuộc sống này cứ thế mà phai úa, tàn héo dần. Gần như nhìn
vào bất cứ hiện tượng thiên nhiên nào, anh (được diễn tả bằng những đại từ nhân
xưng tôi, ta, hay em, những chủ thể tương thông và đối chiếu, đối điểm của
chính tác giả) cũng thấy ẩn giấu trong chúng những hạt mầm của sự tàn phai.
Nhìn vào trong lòng, những chủ thể tôi, ta, hay em đó cũng không thoát khỏi việc
phải đối diện với những mầm hạt phai tàn hay những chiếc lá úa của những cuộc
tình đã đi qua đời mình.
Trước hết, hãy nhìn vào những mùa thu của Trịnh Công
Sơn:
Nhìn những mùa thu đi / Em nghe sầu lên
trong nắng
Và lá rụng ngoài song/ Nghe tên mình vào quên lãng,
Nghe tháng ngày chết trong thu vàng (...)
Đã mấy lần thu sang, / Công viên chiều qua
rất ngắn.
Chuyện chúng mình ngày xưa, / Anh ghi bằng
nhiều thu vắng,
Đến thu này thì mộng nhạt phai. (Nhìn những mùa thu
đi)
Quên lãng, chết, rất ngắn, nhạt phai. Đó là những nhận
thức của Trịnh Công Sơn về bước đi hững hờ mà gây nhiều xót xa, đau đớn của thời
gian. Cũng thế, trong bài Còn tuổi nào cho em, ta thấy có những câu "Tuổi
nào nhìn lá vàng úa chiều nay" và ”Tuổi nào ngồi khóc tình đã nghìn
thu”. “Vàng úa", "nghìn thu” đã là những biểu hiện buồn bã của sự
phai tàn, mất mát. Tất cả đều đang hoặc đã trôi vuột ra ngoài tầm tay. Để con
người ngồi đó xót xa.
Nhìn vào chính thân thế mình, Trịnh Công Sơn cũng bắt
gặp sự úa tàn và phai héo đó:
Bao nhiêu năm làm kiếp con người.
Chợt một chiều tóc trắng như vôi
Lá úa trên cao rụng đầy
Cho trăm năm vào chết một ngày. (Cát bụi)
Chợt một chiều tóc trắng như vôi. Tiếng kêu nghe
thật thảng thốt và xót xa. Cái khoảng thời gian chiều, rồi tối, rồi đêm ấy,
hình như đã là khoảng thời gian đem lại cho Trịnh Công Sơn nhiều ám ảnh nhất
trong những suy nghĩ về thời gian của anh. Trong hướng nhìn thời gian, như đã
nói, không phải là chúng ta không thấy những bình minh và những ban mai, những
sương sớm và ánh nắng trong thế giới nhạc ngữ của Trịnh Công Sơn. Ta sẽ nhắc đến
những nét hồng và vui này sau. Dù sao, nếu một ngày của con người được chia làm
24 tiếng với những thời khắc lớn hơn được xác định bằng cách chia thành từng mảng,
từng đoạn, từng cụm thì, khảo sát kỹ, ta vẫn thấy Trịnh Công Sơn có nhiều, nếu
không nói là rất nhiều, gắn bó với những khoảng thời gian chiều tối, đêm, là những
khoảng thời gian bắt đầu cho sự muộn màng của ngày để đi dần đến sự tàn tạ và
chấm dứt của nó.
Hãy ngắm nhìn một buổi chiều khác trong anh:
Chiều hôm thức dậy /Ngồi ôm tóc dài
Chập chờn lau trắng trong tay (Chiếc lá thu phai)
Tóc biến thành lau trắng. Một biểu tượng vừa có tính
cách ẩn dụ, vừa có tính cách hoán dụ để chỉ kiếp người quá ngắn vội. Một biểu
tượng xót xa. Chập chờn cũng mang một ý nghĩa đặc biệt. Nó làm gợi nhớ
đến hình ảnh một ngọn nến lắt lay, chập chờn trong gió. Ngọn nến ấy có thể tắt
bất cứ lúc nào trước những cơn gió đời.
Cuộc đời chóng tàn, và những cuộc tình trong cuộc đời
này cũng qua đi quá nhanh. Con người sinh ra giữa đời là để hạnh phúc hay là để
hứng chịu những nỗi đời ấy. Hạnh phúc hay đau khổ có những lúc rất rõ ràng với
nhiều người; nhưng ít ai ngờ là chúng có thể là những đóa hoa nở ra từ cùng một
nhánh. Hạnh phúc nào không tả tơi, không đắng cay, hình như đó là một câu trong
bài Không tên số 1 của Vũ Thành An phổ theo thơ của Nguyễn Đình Toàn.
Nhưng nói như Camus, con người tìm được hạnh phúc chính là ở chỗ nó sống trong
những nỗi đời, những giới hạn và những ràng buộc của đời sống. Bởi lẽ con người
chỉ có thể tìm ra ý nghĩa của cuộc hiện sinh mình ngay trong những ràng buộc và
giới hạn ấy. Cũng thế, nó tìm được những cơ hội để sống hạnh phúc ở chính ngay
trong những nỗi đời và những ràng buộc, những giới hạn của cuộc đời này. Nhưng
Camus là một triết gia hiện sinh, và "hiện sinh" với những ý nghĩa tốt
đẹp nhất của nó. Trịnh Công Sơn không phải như thế. Anh là người sống trong cuộc
hiện sinh nhưng luôn nhìn thấy những chiếc bóng trăm năm trôi qua đời mình. Anh
yêu cuộc đời, muốn ôm ghì lấy cuộc đời, nhưng cuộc đời này hình như chỉ muốn để
lộ cho anh thấy những nét tàn phai của nó. Đó có phải chăng là một vết thương
trong cuộc sống của chàng nghệ sĩ? Bởi anh đã nhìn thấy quá rõ nét tàn tạ trong
những nụ đời:
Đã có nghìn trùng trên môi người tình
Đã giấu nụ tàn bên trong nụ hồng
Có chớm lạnh lùng trên môi nồng nàn
Có thoáng gập ghềnh trên con đường mòn
Đời sẽ buồn như một vết thương
Tình sẽ buồn như là nấm hoang ôi hiu quạnh với nến
tàn... (Như một vết thương)
Thời gian trông ngóng:
Nhận thức được sự tàn phai của thời gian và tất cả mọi
thứ nằm trong nó, Trịnh Công Sơn nuối tiếc những gì đẹp đẽ đã qua. Nhưng anh
không chỉ nuối tiếc mà anh vẫn tiếp tục trông ngóng. Trông ngóng một tin vui
nào đó sẽ tới. Trông ngóng một hạnh phúc mới trong đời. Một nụ hồng mới và xao
xuyến khác. Cho dù, hầu như tất cả những nụ hồng trong thế giới nhạc ngữ của
anh đều là những nụ tàn, những nụ ẩn giấu trong nó ít nhiều những phôi pha, héo
úa.
Người nhạc sĩ, trong cơn mưa bay của một bầu trời ôm
đầy những tầng tháp cổ, những thành quách cũ, ngóng chờ bước chân người yêu, đã
lên tiếng gọi:
Chiều nay còn mưa sao em không lại
Nhớ mãi trong cơn đau vùi
Làm sao có nhau/hằn lên nỗi đau.. (Diễm xưa)
Cũng thế, anh gọi người yêu trong cơn mưa hồng, trong
màu lá xanh đang vẫy mềm ngoài hiên mưa, và trong tiếng nước dâng tràn lên
ngoài sông vắng:
Người ngồi xuống mây ngang đầu/mong em qua bao nhiêu
chiều
Vòng tay đã xanh xao nhiều. . .
Người ngồi xuống xin mưa đầy/ Trên hai tay cơn đau
dài
Người nằm xuống nghe tiếng ru
Cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ (Mưa hồng)
Cũng là những lời mời gọi yêu thương, những tiếng
trông ngó yêu thương, mà Trịnh Công Sơn, chúng nghe như có chút gì buồn bã, chịu
đựng. Trong khi đó ở Xuân Diệu thì đó là sự giục giã, sự hối thúc. Hãy yêu tôi
vội vã, vì thời gian đang thúc hối ngoài kia, "Mau với chứ, vội vàng
lên với chứ / Em, em ơi, tình non sắp già rồi", và “Xuân đương tới
nghĩa là xuân đương qua / Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già". Trịnh
Công Sơn chỉ mong và chờ: Với sự thiết tha chân thành của anh. Ở anh, hình như
không bao giờ có sự thúc hối, ngoại trừ khi anh cất tiếng mời gọi tất cả mọi
người hãy yêu nhau vì “rừng thay lá", và vì "dòng nước đã trôi
xa". Chủ yếu, người nghệ sĩ chỉ mong chờ và cất lên lời kêu gọi tha thiết
tự lòng mình.
(...) Nhìn ngắm người yêu, Trịnh Công Sơn thường thấy
những ẩn hiện phi trần thế nơi người con gái anh yêu. Em hoặc là người trong tiền
kiếp, hoặc là người mang những phẩm tính thiên thần. Thế nên, trong những suy
nghĩ liên tưởng đó, trong những buổi chiều chủ nhật buồn, với tiếng gió hiu hắt
đi về ngoài kia, anh trông ngóng được nhìn thấy em. Hoặc là chỉ xin năm ngón
tay em dẫn lối để đưa anh đi vào cô đơn:
Chiều chủ nhật buồn nằm trong căn gác đìu hiu
Ôi tiếng hát xanh xao của một buổi chiều
Trời mưu trời mưa không dứt (...)
Tôi xin năm ngón tay em thiên thần
Trên vùng ăn năn / qua cơn hờn dỗi
Tôi xin năm ngón tay em đưa vào cô đơn. (Lời buồn
thánh)
Thời gian trông ngóng trong Trịnh Công Sơn không chỉ
thể hiện với đối tượng chính của anh là người nữ anh yêu, mà còn được thể hiện
ra trong cái nhìn thiết tha chờ đợi của anh để được thấy lại những mặt người.
Cho dù đó là bạn bè, anh em, những người thân yêu, hay chỉ là thuần túy những mặt
người. Những khuôn mặt xa lạ đi chăng nữa. Anh cần nghe được những tiếng con
người, tiếng xe cộ, tiếng đời sống. . . Anh rất sợ sự vắng lặng. Vắng
lặng của đời sống hay của bất cứ điều gì. Anh có thể yêu sự im lặng, vì trong
nó, anh có cơ hội để nghe ngóng đời, nghe ngóng lại lòng mình.
Nhưng sự vắng lặng, không. Nếu nó đã là một sự hiện hữu,
anh kiên nhẫn chờ để nó đi qua:
Xin chờ những rạng đông
Đời sao im vắng như đồng lúa gặt xong
Như rừng núi bỏ hoang
Người về soi bóng mình/ Giữa tường trắng lặng câm
(Ru ta ngậm ngùi)
Đối với Trịnh Công Sơn, dù có những lúc tiếc nuối một
niềm vui, một hạnh phúc đã qua, hay dù có những khi trông đợi một niềm vui, mới
trong anh, thời gian vẫn luôn luôn đem lại một ám ảnh khác, bền vững, day dứt,
và giằng xé hơn. Đó là ám ảnh thiên thu, ám ảnh của bóng trăm năm. Thiên thu chạm
mặt anh ở khắp mọi nơi:
Dưới vòng nôi mọc từng nấm mộ.
Dưới chân ngày cỏ xót xa đưa.
Người đã đến và người sẽ về
Bên kia núi.
Từng câu nói là từng cánh buồm
Giong cuối trời
Còn lại tiếng cười khóc
Giữa đời (. . .)
Nghe tiền thân về chào tiếng lạ
Những mai hồng ngồi nhớ thiên thu (Cỏ xót xa đưa)
Trịnh Công Sơn biết rằng anh chỉ là một người khách
trọ ở chốn trần gian này:
Tôi nay ở trọ trần gian
Trăm năm về chốn xa xăm cuối trời (Ở trọ)
và những chiếc bóng trăm năm luôn vây phủ con người:
Từng chiếc bóng trăm năm đã về vây người giữa nến não
nùng
Từng tiếng khóc trăm năm đã về vây người giữa chốn
mông lung (Từng ngày qua)
Anh biết là rồi một ngày nào đó anh sẽ lên đường để
đuổi theo "nghìn trùng cơn gió bay”. Nhưng, giữa chốn trần gian này, những
buổi sáng còn trông thấy mặt người, thấy bạn bè anh em, còn nghe tiếng ngựa xe
trên đường phố, tiếng nắng trên lá vẫy gọi qua hiên, tiếng mưa ngoài sông nước
lớn, tiếng đời sống líu lo trong giọng chim non, tiếng xuân thì lấp lửng trong
những nụ ngọt, anh còn dễ hòa nhập vào cuộc nhân gian. Nhưng những đêm ở trọ
trong chốn trần gian này, một mình anh nằm nghe hết những tiếng gọi thiên thu ấy.
Những tiếng gọi quá gần gũi. Tưởng như còn gần gũi hơn cả những tiếng gọi của đời
sống mà anh vừa tạm từ giã khi mặt trời đã đóng sập cửa một ngày;
Đêm ta nằm bóng tối che ngang
Đêm ta nằm nghe tiếng trăm năm
Gọi thì thầm gọi thì thầm gọi thì thầm
Đêm nghe trời như hú như than
Ta nghe đời như có như không
Còn lại mình/ Đời bềnh bồng/ Đời buồn tênh (Còn có
ban ngày)
Sau những đêm nghe những lời thiên thu gọi như thế,
Trịnh Công Sơn, có lúc, hình như bị đẩy tới hố sâu của niềm tuyệt vọng. Nhìn đi
đâu anh cũng thấy bóng trăm năm bao phủ. Chỉ nhìn một vạt nắng vàng, cũng là chạm
mặt thiên thu. "Vạt nắng vàng , nhắc lời thiên thu / Nhớ
ngàn năm trôi qua". Anh biết anh, rồi cũng sẽ như tất cả mọi người,
không thể tìm ra lối thoát khỏi cuộc vây của những tiếng gọi muôn trùng đó. Một
điều gì gần như niềm tuyệt vọng dấy lên:
Có điều gì gần như niềm tuyệt vọng
Trong xuân thì thấy bóng trăm năm. . .
Những ngàn xưa trôi đến bây giờ
Sông ra đi hay mới bước về (Gần như niềm tuyệt vọng)
Trong nỗi niềm gần như tuyệt vọng như thế, Trịnh Công
Sơn nhìn cơn mưa bây giờ khác trước. Đây không còn là những cơn mưa hồng để "em
đi về cầu mưa ướt áo / đường phượng bay mù không lối vào", hoặc
là những cơn "mưa bay trên tầng tháp cổ” nữa. Bây giờ là những
cơn mưa mù mịt thiên thu:
Chìm dưới cơn mưa một ngàn năm trước mây qua mây
qua...
Chìm dưới cơn mưa một ngàn năm nữa mây qua mây qua...
Bờ bến thiên thu nằm chìm dưới hư vô (Chìm dưới
cơn mưa)
Trịnh Công Sơn tự hỏi, "còn bao lâu cho
thiên thu xuống trên thân này / Còn bao lâu cho mây đen tan trên hồn người /
Còn bao lâu tôi xa anh, xa em, xa tôi". Những câu hỏi không có câu trả
lời đích xác. Nhưng thật sự, có ai cần một câu trả lời không? Bởi lẽ, trong cảm
nhận riêng của mình, mỗi người phải tự có câu trả lời riêng cho chính mình. Từ
đó, đưa đến những thái độ sống khác nhau, những xác tín khác nhau trước cuộc đời.
Câu hỏi về thiên thu thật sự là câu hỏi về đời sống. Anh nghĩ về thiên thu ra
sao thì đời sống anh sẽ phản ánh rõ rệt điều đó như vậy trong cuộc làm người của
anh. Trịnh Công Sơn luôn bị tiếng của thiên thu nhắc nhở. Có những lúc anh cảm
thấy mỏi mệt và nặng nề trước cuộc đời này. Nhưng anh vẫn luôn cảm thấy tiếng gọi
và hình bóng của con người thu hút anh. Anh là chiếc cân để nhật nguyệt lên xuống
hai bên. Anh là chiếc bóng để ngày và đêm tha hồ giỡn đuổi. Anh là cơn mê giữa
Thực và ảo, giữa Mộng và Giác, giữa Tiếng Xuân Thì và Bóng Trăm Năm. Cuộc đi của
anh, một mình là cuộc đi về của một con người đã nghe rõ quá những tiếng gọi
thiên thu nhưng vẫn không đành lòng rời bỏ con người:
Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi
Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt
Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt
Rọi suốt trăm năm một cõi đi về (...)
Đường chạy vòng quanh một vòng tiều tụy
Một bờ cỏ non một bờ mộng mị ngày xưa
Từng lời tà dương là lời mộ địa
Từng lời bể sông nghe ra từ độ suối khe (...)
Con tinh yêu thương vô tình chợt gọi
Lại thấy trong ta hiện bóng con người. (Một cõi đi về)
Không gian nghệ thuật
Một lát cắt lớn khác, ngoài lát cắt về thời gian, cho
ta cơ hội khảo sát kỹ những ám ảnh cũng như những hình tượng và nghệ thuật ngôn
ngữ của Trịnh Công Sơn, là lát cắt về không gian. Con người sống trong không
gian, hay, nói khác đi, không gian là nơi cư trú của con người. Không những
không gian thể hiện lối sống, phong cách sống của những con người chiếm hữu nó,
mà không gian còn cho thấy nó có khả năng "uốn nắn" con người. Chúng
ta có thể thấy rõ được điều đó khi nhận thức rằng thổ ngơi và địa lý đã là những
yếu tố quan trọng, đóng góp vào việc quyết định tính cách và, rất nhiều khi, cả
định mệnh của một dân tộc. Lịch sử hiện đại cho ta một thí dụ rõ nét: Nhật Bản.
Định mệnh của dân tộc này, những bước thăng trầm của nó, và ngay cả tính cách
con người Nhật Bản, phần lớn, cũng đã do không gian sống của nó quyết định.
Không gian sinh tồn của con người, nhỏ thì là một túp
lều, một mái nhà, lớn thì cả trời đất mênh mang, không chỉ thể hiện khung cảnh
và điều kiện sống của nó. Không gian còn thể hiện tâm trạng của con người. Nhất
là nếu không gian này được nhìn xét dưới nhiều góc cạnh khác nhau và nếu nó xuất
hiện trong khung cảnh sống nói chung của con người theo một tần số nào đó. Lúc ấy,
có thể không gian đó không còn chỉ mang tính chất vật lý nữa; bây giờ, nó mang
nặng tính chất tinh thần. Nó thể hiện tâm trạng của con người. Nó thể hiện thế
giới bên trong, thế giới nội tâm thầm kín của con người đã chiếm hữu hay bầu bạn
với nó. Không gian lúc đó, như thế, trở nên một hình tượng. Nó là một hình tượng
nghệ thuật mà người nghệ sĩ đưa vào trong tác phẩm của mình để diễn tả tâm ý
mình trong những hoàn cảnh nhất định.
Đi vào thế giới âm nhạc của Trịnh Công Sơn, xét riêng
về mặt nhạc ngữ, ta có thể nhận ra là không gian sống của anh có thể chia ra
thành nhiều loại. Rộng lớn thì là đất trời mênh mang nói chung, rồi thì là biển,
sông, rừng, núi. Nhỏ thì là phố, quán, và những con đường. Nhưng trong những
vùng không gian vừa mang tính vật lý vừa mang tính tâm trạng này, người ta thấy
sáng lên những biểu tượng, chẳng hạn như mặt trăng, mặt trời, sóng, nước, mây,
mưa, nắng, khói... Và con người, kẻ sống giữa không gian, trong cái nhìn của Trịnh
Công Sơn, và trong thế giới âm nhạc của anh, đã được phản ánh như thế nào. Nó là
một biểu tượng để tô, dập lại những đường nét của thiên nhiên, hay, có nhiều
khi, ngược lại, nó lại là thước đo để từ đó thiên nhiên được diễn tả, phản ánh.
Sau đây, chúng ta hãy thử lần lượt đi vào những không
gian vừa có tính vật lý vừa có tính tâm trạng đó trong thế giới của anh.
Không gian trời đất
Trời đất là không gian lớn rộng để Trịnh Công Sơn và
những con người, những chủ thể trong thế giới của anh, đi về. Nhưng trước hết,
đó là nơi đi, về của chính anh:
Trời cao đất rộng một mình tôi đi, một mình tôi đi
Đời như vô tận một mình tôi về.
Một mình tôi về, với tôi. (Lặng lẽ nơi này)
Trong không gian ấy, anh lắng nghe và cảm nhận được hết
cái im lặng của đất trời. Và của lòng mình. Đời rộng thênh như im vắng tiếng
rơi khô. Nhưng, cũng có khi, lạc vào vùng không gian mênh mông ấy, anh như
tìm thấy ở nó những biểu tượng tôn giáo. Không gian đất trời, bây giờ, kéo anh
(và những chủ thể trong thế giới của anh) xích lại với những không gian trong
Kinh Thánh, trong Cựu ước:
Mặt trời hãy ngủ yên / Xin mặt trời hãy ngủ
yên
Người hãy nhớ mang theo hành trang/qua khoang trời vắng
chân mây địa đàng (Xin mặt trời ngủ yên)
Ôi môi hờn / xin đừng / kể lại tích xưa buồn hơn
Đợi chờ năm
Làm gió qua truông thiên đàng (Vết lăn trầm)
Trời đất trong anh cũng là một trang giấy, một ấn bản
của những giấc mơ mà anh có giữa đời. Đó chính là những giấc mơ trong lòng anh,
những giấc mơ nhiều khi trở nên hiện thực hơn khi con người mở mắt:
Trời còn in dấu chim xa nguồn
Đời còn bay những cơn mưa phùn (Khói trời mênh mông)
Tình đi âm thầm/ Nghìn trùng như vết sương
Lạnh lùng như dấu chim
Tình mong manh như nắng
Tình còn đầy không em? (Tình sầu)
Nói trời đất là một ấn bản của những giấc mơ giữa đời
Trịnh Công Sơn thì có thể cũng đúng. Nhưng, có lẽ đúng hơn, nó chính là một tấm
phông lớn, một màn ảnh lớn để anh nhìn ra những mộng ảnh, những hư ảnh, những
thực ảnh hay những hiện ảnh của đời mình.
Đây có phải là thực ảnh:
Ta về nơi đây thoáng nghe gió lạnh
Hết mùa thu sang đã đến ngày đông
Những hàng cây xanh đón em áo lộng
Bây giờ ta nhìn khói trời mênh mông. (Khói trời mênh
mông)
Và đây có phải là mộng ảnh:
Tình ngỡ đã quên đi như lòng cố lạnh lùng
Người ngỡ đã xa xăm bỗng về quá thênh thang
Ôi áo xưa lồng lộng đã xô dạt trời chiều
Như từng cơn nước rộng xóa một ngày đìu hiu. (Tình nhớ)
Còn đây là hiện ảnh chăng?
Mây và tóc em bay trong chiều gió lộng
Trời làm cơn mưa xanh dưới những hàng me. (Tuổi đời
mênh mông)
Và đây là hư hay là thực, hay đó chỉ là một chút phù ảnh
khi người nghệ sĩ nhìn mây bay ngang đầu mà gọi thầm tên em:
Có còn trong em những đêm gió lộng
Ngồi bên hiên nhìn bên nước đầy dâng
Có còn trong em những cây nên hồng
Những cầu qua sông những chút tình duyên
Gió trời lênh đênh nhớ con phố hẹn
Ta nhìn ta về giữa trời hư không (Khói trời
mênh mông)
Trịnh Công Sơn hỏi thầm trong lòng mình về những cơn
mơ đời đã là rất thực mà cũng là rất hư ấy. Chân hay mộng thì những phiên bản của
trời đất kia gửi tới anh cũng chỉ làm anh nhận thức được rõ thêm một điều này:
đất trời quá bao la và con người quá bé nhỏ. Đôi khi do những cảm xúc chủ quan
và thiết tha của mình, anh đã nâng lên thành cận ảnh những đường nét yêu dấu
trong đời, ôi áo xưa lồng lộng đã xô dạt trời chiều, nhưng anh biết rằng
con người chỉ là một hạt bụi trong cõi trời đất thiên thu này. Ý nghĩa về sự
mênh mông, bao la của không gian lại làm anh đụng chạm đến một nỗi ám ảnh lớn
khác của mình: ám ảnh về thời gian:
Rộng nghìn thu một tà dương ấy...
Vàng phai sẽ cuốn đi mịt mù. (Vàng phai trước ngõ)
Và ám ảnh về thời gian, lại dẫn Trịnh Công Sơn, và cả
chúng ta, đến một không gian khác trong tâm hồn của chàng nghệ sĩ.
Không gian núi và biển
Trong Trịnh Công Sơn, có một không gian ở dưới thấp,
thu gọn lại nơi những con phố và những quán xá, nơi anh thường tìm thấy mỗi ngày
hình ảnh của chính mình và những khuôn mặt bè bạn cũng như những người nữ thiết
tha mà anh có trong đời; nhưng cũng có một không gian ở trên cao, như núi, trầm
ngâm, chờ đợi, và một không gian ở khá xa, nhưng vẫn ầm ì tiếng gọi, như biển.
Núi và biển là những không gian vật lý, chắc chắn thế. Nhưng càng chắc chắn hơn
trong thế giới âm nhạc của Trịnh Công Sơn, đó là những không gian tâm trạng.
Núi và biển đều là những biểu tượng lớn trong thế giới của anh. Khi anh nói "về
bên núi đợi", hay "buồn lên núi nằm xuống", không
có nghĩa thật là anh sẽ trèo lên núi hay về sống bên núi để làm cái công việc đợi
chờ hay nghỉ ngơi (!) kia. Trịnh Công Sơn muốn nói đến một cái gì khác. Cái đó
chúng ta ai cũng biết.
Trước hết, hãy trở lại với những núi non trong Trịnh
Công Sơn. Trước hết, núi là một điểm hẹn. Một điểm hẹn trăm năm. Khi con người,
dù như một ngọn gió kia, đã thấy mệt mỏi với đôi cánh lang thang của mình:
cuồng phong cánh mỏi.
Về bên núi đợi
Ngậm ngùi ôi đá cũng thương thay. (Chiếc lá thu phai)
Vẫn ngọn gió mệt mỏi ấy. Bay về. Nó thiết tha quay về
điểm hẹn:
Chợt như xác thân không còn...
Tưởng mình như là cơn gió
Về chân núi thăm nấm mồ (Lời thiên thu gọi)
Tôi như là người ngồi trong đêm dài nhìn tôi đang quá
ngậm ngùi...
Một hôm buồn lên núi nằm xuống (Tự tình khúc)
Tại sao chàng nghệ sĩ lại muốn trở về núi. Có phải vì
chàng mong ước rằng, nơi núi, ở bên kia của núi, chàng sẽ tìm lại được những
yêu dấu cũ. Chàng sẽ dựng lại được những kỷ niệm tươi đẹp bên người:
Người đã đến và người sẽ về
Bên kia núi.
Từng câu nói là từng cánh buồm
Giong cuối trời
Còn lại tiếng cười khóc
Giữa đời... (Cỏ xót xa đưa)
Ngày xưa, khi người còn ở bên ta, ta đã dự cảm cuộc
chia ly loang màu xanh sẫm của núi chiều, hay màu tím than của dáng đêm đổ đầy
trên bóng núi. Ta đã dự cảm điều đó, và, thật sự, bây giờ, người đã đi xa. Chỉ
còn lại ta đứng đây nhìn bóng núi. Và nghe tiếng núi thầm thì, hay than vãn.
Trịnh Công Sơn có những lúc đã muốn trở về. Núi là điểm
hẹn. Núi là biểu tượng của một nơi xa xôi, hoang vắng, là một chốn cao và xa,
thoát khỏi cuộc đời lắm mộng ảo, nhiều phiền tạp và bụi bặm này, và núi cũng là
một cứ điểm bền vững để người nhạc sĩ lui về cố thủ trong những lúc mệt mỏi với
cuộc đời. Thế nhưng, đó có phải thực sự là nơi mà con người có thể lui về để kiếm
tìm sự thực? Hay nó cũng vẫn nằm trong một cuộc mộng lớn hơn giữa chốn thiên
thu này:
Một chiều núi bỗng mang thân cánh đồng /
Thì cùng dòng nước khóc giùm (Một lần thoáng có)
Núi, như thế, chưa hẳn là một cứ điểm bền vững. Nhưng
nó vẫn cứ là một biểu tượng của cuộc hẹn hò trăm năm trong lòng Trịnh Công Sơn.
Anh đã cùng dòng nước khóc cuộc ra đi của núi. Nước, như thế, là sự vỗ về, là sự
che chở, cưu mang ta. Từ đó, ta cũng hiểu rằng biển chính là sự vỗ về, an ủi và
cưu mang thiết tha đó. Và ai, nếu không phải là em, đã hòa thân và hóa thân vào
biển.
Núi và biển như thế là ôm ấp, gắn bó với nhau. Như
trong những suy nghĩ của Trịnh Công Sơn về trời đất:
Trong khi ta về lại nhớ ta đi
Đi lên non cao đi về biển rộng (Một cõi đi về)
Núi là nơi để nằm xuống, để trở về. Nhưng biển là nơi
để tâm sự, để thầm thì kể lể:
Người tìm về biển xanh / nói thầm về đời mình
Ăn năn dấu rêu phong (Lời của dòng sông)
Biển là sự dịu dàng mềm mại, trùng trùng ngoài khơi
nước lên sóng mềm. Biển luôn luôn là nơi cất giấu hay lưu giữ những gì thân thiết,
đẹp đẽ và dịu dàng ở nơi em:
Tóc người dòng sông xưa ấy đã phai
Đã lênh đênh biển khơi (Có một dòng sông đã qua đời)
Biển có khi là nơi chốn em về, để cho tôi hoang mang
tìm kiếm. Nào tôi có biết em vẫn đang chờ mong một lời hò hẹn:
Chân nhuộm phố phường em về biển xa
Bàn chân thoát chốn lao tù
Em về đứng chờ dưới ngọn tình ca (Góp lá mùa xuân)
Thế nhưng, có khi biển cũng mang tâm sự của con người,
hoài mong và tiếc nhớ. Biển lên tiếng gọi, và cả không gian con người, bây giờ,
cùng chia sẻ nỗi buồn đau của biển. Bởi lẽ, hình như đó chính là nỗi đau của
con người được biển ôm giữ hộ trong lòng. Và tiếng biển đó, thật ra, chỉ là tiếng
vọng âm của con người quắt quay trong nỗi hoài nhớ của chính mình. Biển nhớ đã
là một trong những bài hát đẹp và buồn, mang tính cách Trịnh Công Sơn nhất
trong thập niên sáu mươi, một thập niên mà xã hội miền Nam Việt Nam và con người
sống trong xã hội ấy đang có những chuyển mình thay đổi một cách tàn khốc. Giai
đoạn đó là một cơn đau dài. Nhiều giá trị xã hội cũng như nhiều giá trị con người,
mặc dù không hẳn là toàn vẹn về mọi mặt, nhưng đã được thiết lập một cách khá bền
vững trước đó và mang lại cho con người một sự bình an tạm bợ, nay đang vặn
mình trong một cơn thoát xác. Những cơn lốc bắt đầu cuốn lên. Tiếng gọi của Biển
nhớ, bây giờ, nghe lại, thấy như là tiếng gọi xót xa, đau đớn về một điều
gì êm đềm, tha thiết đã không còn nữa. Đặt nó trong nhịp thở chung của thời đại,
và thử đối chiếu nó với nét đẹp dịu mềm và tha thiết, đằm thắm, một sự tha thiết
phản ánh cái bình an của hơi thở con người, của Dưới vòng nôi mọc tùng nấm
mộ.
Dưới chân ngày cỏ xót xa đưa. (Cỏ xót xa đưa)
Mặt trời có thể tạo ra những cơn hôn mê; nó cũng có
thể đưa con người vào cái nhìn xuyên suốt để đi đến sự tìm hiểu cấu trúc của hiện
thực. Nó cho ta một cái nhìn vào trái tim của thực tại. Nó là sự có mặt cần thiết
cho cuộc sống của con người trên trần gian này. Trong tất cả những ý nghĩa vừa
có tính vật lý (physical) vừa có tính siêu hình (metaphysical) của nó.
Không gian phố
Trước hết, đối với Trịnh Công Sơn, phố là nơi có những
mặt người, những mặt người xa lạ cũng như những mặt người thân quen. Phố là nơi
có sự sống, sự sống cứ mãi tiếp diễn và như một dòng chảy vô tận. Phố là sự
sinh động. Với những quán xá, những con đường. Trong phố có nắng, có mưa, có những
lá cây và có những cỏ hoa lấp lánh. Ở phố, con người có thể tìm ra mọi dạng thức
của đời sống. Trong phố, con người có thể thấy được đủ mọi nét vẽ của cuộc đời.
Trong đó, có những nét nhạc vui và những tiếng nhạc buồn. Có những thiết tha và
có những khổ lụy. Có những nụ cười, có những giọt nước mắt, có vị mặn đắng của
đời sống, và có những chất ngọt thơm của cuộc đời. Hãy xem thử một cuộc triển
lãm về phố trong thế giới của Trịnh Công Sơn. Trước hết là một con phố hồng, một
con phố lạ. Nó đẹp và tươi đến độ chúng ta cảm thấy là nó không có thật giữa cuộc
đời này. Nhưng nó đã mọc lên giữa lòng ta qua mắt nhìn của người nhạc sĩ:
Trời đất kia, có hay ta về
Một phố hồng, một phố hư không
lên cao để nở giữa trời, sông quả thật đã dìu con người
và khiêu vũ với nó giữa cuộc thênh thang trời đất;
Những dòng sông nối đôi tay liền với biển khơi...
Con sông là thuyền / mây xa là buồm
Từng giọt sương thu hết mênh mông. (Bốn mùa thay lá)
Sông mở rộng không gian cho người. Và có khi, nó dìm
chết một ngày của đời người trong vũng không gian ấy.
Dòng sông nắng cho bờ bên rộng...
Một dòng sông chở ngày hấp hối . (Vàng phai trước
ngõ)
Nhưng, dù sao đi nữa, sông với người vẫn gần như luôn
cần có nhau. Bởi vì, hai thực thể đó có lẽ đã là những chiếc bóng của nhau.
Sông đã giữ gìn hình ảnh của con người trong nó. Và con người, không phải nó vẫn
luôn mang trong lòng một dòng sông hay sao? Một dòng sông êm đềm hay một dòng
nước cuồn cuộn chảy. Để con người nghe ra những tiếng thời gian. Thế nên, nếu
có một lần nào đó người bỏ đi, dòng sông kia còn lại gì?
Người ra đi bên sông nằm lạnh
Này nhân gian, có nghe đời nghiêng? (Có nghe đời
nghiêng)
Bởi lẽ ấy, rồi người lại trở về. Sông ôm ấp, gìn giữ
và chở đi xa những mơ ước, những dấu buồn đau của con người.
Dường như bão qua/ dòng sông nước lên
Đời không có mưa mà vẫn ướt mềm (Gần như niềm
tuyệt vọng)
Tìm lại trên sông những dấu hài (Đóa hoa vô thường)
Một dòng sông sâu /chở hồn thương đau (Fm đi trong
chiều)
Chính vì sông là nguồn an ủi, là nơi ôm ấp những thiết
tha, đau đớn của ta, là nơi rửa sạch những vết thương mà ta có thể bắt gặp giữa
đời này, Trịnh Công Sơn (và cả người nữ của anh) thường tìm về với sông để kể lể,
hỏi han. “Người tìm về dòng sông/ hỏi thầm về đời mình". Thậm chí,
sông còn là nơi để nhận giữ những lời trăn trối cuối.:
Một chiều em đứng cuối sông/ Gió mùa thu rất ân cần
Chở lời kinh trên núi non / Những lời tình em trối
trăn (Đóa hoa vô thường)
Cũng chính vì biết em đã ra sông để thả bay những lời
trối trăn trong nắng, Trịnh Công Sơn, khi đi tìm em, cũng đi về dòng sông ấy.
Vì anh hiểu rằng, sông kia đã trở nên một điểm hẹn giữa hai người;
Gọi em cho nắng chết trên sông dài (Hạ trắng)
Còn một lời gọi nào đẹp hơn thế? Người nhạc sĩ đứng
bên bờ sông và gọi người yêu của mình.
Anh gọi mãi gọi mãi. Cho đến khi chiều hấp hối. Và chết
trên dòng sông trắng. Tưởng như tiếng gọi đã đụng vào cõi vô biên.
Sóng
Biển, sông, cũng như núi, đó là những bến hẹn. Những
điểm đợi của con người. Nhưng một trong những biểu hiện của sông và biển là
sóng. Sóng là tiếng nói của cả hai. Sóng là những nỗi dội đập của lòng ta trong
lời sông, tiếng biển.
Thật ra sóng cũng là ta, và ta là sóng. Làm sao tách
hai ra được. Đó là sự phân thân. Bởi thế, khi ta nói với sóng, thì cũng chính
là ta nói với ta. Đó là những lời tự nhủ thầm. Đó là những tiếng kêu trong ta.
Để nhắc rằng ta vẫn còn những cảm nhận, những đau đớn xót xa buốt sắc trong
lòng. Làm sao sóng không hiểu? Chỉ có người với người là còn có những lúc không
hiểu nhau, còn có những lúc quay mặt đi. Nhưng sóng là ta, ta là sóng, làm sao
sóng không hiểu những tiếng kêu đau đớn của chính mình?
Biển sóng biển sóng đừng xô nhau
Ta xô biển lại sóng về đâu? sóng bạc đầu / và núi
chìm sâu
Ta về đâu đó (...)
Biển sóng biển sóng đừng xô nhau
Ta xô biển lại sóng nằm đau
Biển sóng biển sóng đừng xô tôi
Đừng xô tôi ngã giữa tim người (Sóng về đâu)
Mưa
Có mây thì phải có mưa. Đó là hai mặt gắn bó của đời
sống tự nhiên. Thật ra, mây và mưa cũng chỉ là một. Như vui và buồn. Như nụ cười
và giọt nước mắt. Đó chỉ là những cách nói. Thực ra, mưa dễ nhắc con người đến
những kỷ niệm buồn của đời sống. Những cơn mưa bay nghiêng trên tầng tháp cổ nhắc
người ta về những cơn đau vùi lúc người ta nằm nhớ người yêu. Đó là những ngày
khởi đầu thế giới Trịnh Công Sơn mở ra với chúng ta, làm chúng ta bỗng thấy rằng
ở trong những cơn mưa hình như còn có những điều khác nữa:
Mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ
Buổi chiều ngồi ngóng những chuyên mưa qua
Trên bước chân em âm thầm lá đổ
Chợt hồn xanh buốt cho mình xót xa. .. (Diễm
xưa)
Trịnh Công Sơn nghe mưa để thấy đời biển động. Ngoài
kia dâng lên tiếng sóng. Anh nghĩ về những bia đá lạc loài, những đời sỏi đá buồn
thảm để nghĩ đến thân phận của chính mình. Và thân phận của con người. Làm
sao em biết bia đá không đau? Câu hỏi khơi dậy tư tưởng vạn vật nhất thể.
Nó đánh bật lên một hơi lửa ấm trong cảm xúc của con người. Hơi lửa mong tìm sự
sẻ chia và đồng cảm. Lúc yêu Diễm, Trịnh Công Sơn vẫn còn trẻ lắm.
Tiếng mưa đánh lên những ngọn lửa cho con người hơi ấm.
Mưa còn làm tiếng ru, vỗ về con người, "thôi ngủ đi em / mưa ru em ngủ / tay
em kết nụ / nuôi trọn một đời / nuôi một đời người. . . "
Những tiếng mưa bốn chữ vẫn tiếp tục làm nhịp võng
đong đưa.
Mưa cũng nhắc ta đến những lời hò hẹn. Những giọt
mưa, những nụ hoa, hẹn hò gặp nhau trước sân nhà. Đó là những giọt mưa làm cho
những nụ hoa hạnh phúc. Hay ngược lại.
Và chợt nhớ những cơn mưa hồng. Có lẽ trên cuộc đời
này, Trịnh Công Sơn là người duy nhất giữ được mầu nắng hồng trong mây và giữ
được mầu mưa hồng trong nắng.
Những giọt mưa hồng ấy đã giữ được sự thủy chung với
cội nguồn mình:
Trời ươm nắng cho mây hồng
Mây qua mau em nghiêng sầu
Còn mưa xuống như hôm nào
Em đến thăm mây âm thầm mang gió lên
Người ngồi đó trông mưa nguồn ôi yêu thương nghe đã
buồn
Ngoài kia lá như vẫn xanh
Ngoài sông vắng nước dâng lên hồn muôn trùng (Mưa hồng)
Cơn mưa hồng, cơn mưa thủy chung của mầu trời, rơi xuống
thành người con gái đi trong phố xá Sài Gòn đẫm nước của mùa hạ:
Mưa mùa mưa Sài Gòn mưa
Mưa phố vai mưa mềm
Bàn tay em đôi tay mùa hạ
Phố mưa tôi tìm (Mưa mùa hạ)
Nhưng tiếng mưa bềnh bổng thánh thót của Trịnh Công
Sơn có lẽ vẫn là những tiếng mưa trong Tuổi đá buồn. Tiếng mưa ấy đã
nghe một lần rồi thì không sao quên được.
Tiếng mưa đánh trên những phím dương cầm của lá xanh,
tiếng mưa òa vang những nốt nhạc của mây trên cao, mây trôi từng phiến, và, đâu
đó, từng vạt mây đánh chéo xuống thành những vạt mưa. Một cơn mưa kỳ ảo ướp mùi
những đóa hoa hồng tàn. Một cơn mưa nghe văng vẳng trong nó những tiếng chuông
nhà thờ ngân thênh thang và đánh trầm trầm như những tiếng dương cầm ở những
octave cao và trầm nhất.
Trời còn làm mưa mưa rơi mênh mang
Từng ngón tay buồn em mang em mang
Đi về giáo đường
Ngày chủ nhật buồn còn ai còn ai
Đóa hoa hồng cài lên tóc mây
Ôi đường phố dài lời ru miệt mài. . .
Đóa hoa hồng vùi quên trong tay...
Trời còn làm mưa mưa rơi thênh thang
Từng gót chân trần em quên em quên..
Đóa hoa hồng tàn hôn lên môi. . . (Tuổi đá buồn)
Và, cùng với cơn mưa, những tiếng chuông vẫn còn tiếp
tục bềnh bồng gõ nhịp trong trái tim ta.
Cùng với mặt trăng, đây là một biểu tượng xuất hiện
theo một tần số cao trong thế giới nhạc ngữ của Trịnh Công Sơn. Mặt trời là nguồn
sống, là dấu chỉ cho sự tiếp diễn của cuộc lữ thứ trên trần gian. Nhưng, đối với
Trịnh Công Sơn, mặt trời cũng có khi mang trong nó những xót xa, những dấu hiệu
của nỗi tuyệt vọng của con người. Thật ra, đó là một biểu tượng muôn đời vẫn tiếp
tục soi dấu của nó mãi trên trần gian này. Nhớ Zarathustra của Nietzsche có lần
đứng trên đỉnh núi cao mà nói với mặt trời về sự liên hệ của nó với con người.
Nếu không có con người khốn cùng đang lăn lộn dưới mặt đất kia, mặt trời lấy
đâu ra sự huy hoàng và tìm đâu ra được ý nghĩa cho sự tồn tại của mình? Đối với
Trịnh Công Sơn, mặt trời trong mắt anh đôi khi được nhìn với con mắt nhận xét của
đứa bé khôn ngoan mà một lần Khổng Tử đã gặp trên đường đi của mình. Mặt trời
lúc xa lúc gần:
Mặt trời xa bay về gần / Rơi trên sông rơi sau bờ thành
Nhìn cỏ cây ráng pha mầu hồng/ Nhìn lại em
áo lụa thinh không (Níu tay nghìn trùng)
Mặt trời của Trịnh Công Sơn thật đẹp và thơ. Nó cũng
có những nét thơ và đẹp như chiếc “tịch dương hồng" của Nguyễn Du. Mặt trời
của Nguyễn Du mang trong nó một màu cổ kính, tịch lặng. Nó rơi xuống, và lặng lẽ
cháy, đỏ hồng trong chiều. Còn mặt trời của Trịnh Công Sơn mang trong nó cái
dáng dấp và hơi thở phập phồng của thời đại.
Có thiền sư nhìn ra mặt trời là trái tim của con người.
Nó là nhịp đập của sự sống con người. Nó gắn con người vào nhịp đập, vào trái
tim của vũ trụ. Có phải là chính người nhạc sĩ cũng có những lúc nhìn ra điều
đó không?
Mặt trời nào soi sáng tim tôi.../ Mặt trời soi một
kiếp rong chơi ... (Cát bụi)
Nhưng mặt trời cũng có những khi tạo ra những ảnh hưởng
có tính hỗn hóa. Mặt trời làm cho mọi thứ hóa ra những hình ảnh hỗn loạn, không
nằm trong ý thức của con người. Con người như bị hôn mê đi dưới ảnh hưởng thôi
miên của con mắt vĩ đại treo trên cao kia. Mặt đất im, mặt trời cúi nhìn. Hay,
có khi ngược lại, chính trong lúc bị mặt trời thôi miên ấy mà con người nhìn ra
những sự thật của đời sống, những sự thật không bị những ảo tưởng đời che chắn
khiến cho chúng thường mang dáng dấp của những mộng ảo thật trong mắt người. Mặt
trời giúp mở ra một cái nhìn vào hiện thực:
Trên đời người trổ nhánh hoang vu
Trên ngày đi mọc cánh lá mù.
Những tim đời đập lời hoang phế
Dưới mặt trời ngồi hát hôn mê.
Dưới vòng nôi mọc từng nấm mộ.
Dưới chân ngày cỏ xót xa đưa . (Cỏ xót xa đưa)
Mặt trời có thể tạo ra những cơn hôn mê; nó cũng có
thể đưa con người vào cái nhìn xuyên suốt để đi đến sự tìm hiểu cấu trúc của hiện
thực. Nó cho ta một cái nhìn vào trái tim của thực tại. Nó là sự có mặt cần thiết
cho cuộc sống của con người trên trần gian này. Trong tất cả những ý nghĩa vừa
có tính vật lý (physical) vừa có tính siêu hình (metaphysical) của nó.
Không gian phố
Trước hết, đối với Trịnh Công Sơn, phố là nơi có những
mặt người, những mặt người xa lạ cũng như những mặt người thân quen. Phố là nơi
có sự sống, sự sống cứ mãi tiếp diễn và như một dòng chảy vô tận. Phố là sự
sinh động. Với những quán xá, những con đường. Trong phố có nắng, có mưa, có những
lá cây và có những cỏ hoa lấp lánh. Ở phố, con người có thể tìm ra mọi dạng thức
của đời sống. Trong phố, con người có thể thấy được đủ mọi nét vẽ của cuộc đời.
Trong đó, có những nét nhạc vui và những tiếng nhạc buồn. Có những thiết tha và
có những khổ lụy. Có những nụ cười, có những giọt nước mắt, có vị mặn đắng của
đời sống, và có những chất ngọt thơm của cuộc đời. Hãy xem thử một cuộc triển
lãm về phố trong thế giới của Trịnh Công Sơn. Trước hết là một con phố hồng, một
con phố lạ. Nó đẹp và tươi đến độ chúng ta cảm thấy là nó không có thật giữa cuộc
đời này. Nhưng nó đã mọc lên giữa lòng ta qua mắt nhìn của người nhạc sĩ:
Trời đất kia, có hay ta về
Một phố hồng, một phố hư không
Đường lên cao, bước chân nhè nhẹ
Sương, ô kia, sương rơi bềnh bồng (Có nghe đời
nghiêng)
Một phố vui. Với nắng và lá:
Bên trời còn nắng / Lá trời còn xanh
Phố còn người đông (Hãy cứ vui như mọi ngày)
Một phố có em, với hoa vàng, với trời hạ, với một
thoáng hương mềm tha thiết, và với tiếng cười em thoảng bay, đâu đó, tưởng chừng
như có như không:
Em đến bên đời / Hoa vàng một đóa
Một thoáng hương bay / Bên trời phố hạ (...)
Em cười đâu đó
trong lòng phố xá
đông vui (Hoa vàng mấy độ)
Và một phố hoa khác. Với em, trong một cảnh quay chậm,
giữa những loài hoa vàng và tím. Và có thể với một chùm hoa giấy màu đỏ cam
đong đưa. Tất cả bồng bế nhau, hơi nhòe đi trong nhịp chuyển động, trên nền đen
của tóc:
Đường phố em về/ tóc cùng hoa quyến luyến (Thành phố
mùa xuân)
Trịnh Công Sơn là con người của phố, một con người
luôn nhớ phố phường. Anh không thể sống một ngày mà không xuống phố. "Từng
ngày chôn chân nhớ phố lang thang" là nỗi khổ đau cụ thể của một người
bị giam hãm trong bốn bức tường, không được nghe những tiếng nói bạn bè, những
tiếng cười thân yêu. Hạnh phúc của anh là sự gặp gỡ tất cả những con người thân
quen cũng như những con người xa lạ mà trần gian đã gửi đến cuộc đời này. Anh
muốn dang rộng vòng tay để ôm lấy và yêu thương tất cả những con người.
Người nhạc sĩ yêu những đường phố trần gian. Anh nhìn
ra mọi vẻ mặt thân thiết của những đường phố đó:
Đường phố dài một đường phố dài
Đường phố này một chiều tôi tới
Đi lang thang tôi chào vẫy mọi người
Đường phố cười(...)
Đường rất tình một đường rất tình
Đường rất gần một ngày xưa lắm
Khi chân qua bỗng nghe đầy tiếng chim
Đường trái tim
Đường tình yêu nghe tiếng ai nỉ non
Đường hàm oan nghe tiếng ai than thầm
Đường máu xương chờ lau hết dấu vinh quang
Đường đến tôi chờ em đã quá lâu năm... (Có những con
đường)
Trịnh Công Sơn đã đi qua nhiều loại phố phường khác
nhau. Anh đã đi "về trên phố cao nguyên ngồi" để nghe “tiếng
gà trưa gáy khan bên đồi” vắng. Anh đi thăm "phố xưa dấu đạn" để
thấy những vết tích của "cỏ lá buồn tênh". Những đường phố ấy
buồn bã vì thưa vắng bóng người, và ở đó, "tháng năm quá rộng”, "khói
trời mênh mông”, và đời lúc nào cũng vẫn “còn bay những cơn mưa phùn". Ở
Huế, nơi quê hương của tâm hồn Trịnh Công Sơn, trong những đường phố của thành
quách hoang vu, ẩm mốc, giữa đêm thâu vắng lặng với những “tiếng muôn trùng đẩy
đưa", anh nằm nghe ngóng cuộc đời:
Nghe trăm tiếng ngậm ngùi / Nghe lăng miếu trùng vây
Nghe xa cách cuộc đời / Nghe hoang phế cạnh đây
Xin trên những đường dài/ Cho nghe bước rộn vui
Xin trên những nụ cười / Còn rạng rỡ mặt trời (Nghe
tiếng muôn trùng)
Đó là hình ảnh những con đường ở Huế, như Trịnh Công
Sơn trong một bài viết đã hé mở cho ta thấy, hay đó là những con đường của bất
cứ nơi nào trên quê hương Việt Nam mà Trịnh Công Sơn đã phả cái tâm hồn rất Huế
của mình vào. Nhưng khi đến Hà Nội, Trịnh Công Sơn cũng bắt ngay được cái hình ảnh
rất Hà Nội này, cái hình ảnh "nhòa phố mong manh nhòe phố mưa" mà Trần
Anh Hùng cũng đã tìm thấy trong Mùa hè chiều thẳng đứng (à la
Verticale de L’Été).
Trịnh Công Sơn đã bắt được cái hồn của những con phố
cổ. Dòng nhạc của anh, ở đây, lan chảy thành một dòng dài với những ngoắt khúc
bất chợt để làm thành những ngõ dài ngõ ngắn của Hà Nội. Trong dòng nhạc ấy và
trong những ca từ mà anh đặt trên nó, có ai lại không thấy hiện lên tha thiết
những con đường Hà Nội cổ xưa:
Hà Nội mùa thu cây cơm nguội vàng
Cây bàng lá đỏ nằm kề bên nhau
Phố xưa nhà cổ mái ngói thâm nâu
Hà Nội mùa thu, mùa thu Hà Nội
Mùa hoa sữa về thơm từng cơn gió
Mùa cốm xanh về thơm bàn tay nhỏ
Cốm sữa vỉa hè thơm bước chân qua... (Nhớ mùa thu Hà
Nội)
Phố luôn gắn liền với quán xá. Đó là những chiếc cửa
sổ mở ra mở vào những tâm sự của nó. Có khi đó là một tâm sự buồn.
Có chén rượu chờ trong quán đêm đêm (Bay đi thầm lặng)
Có khi người nhạc sĩ mong được làm cái quán kia, để
chờ đón em vào. Để mong được chia sẻ những tâm sự vui buồn của em:
Tôi xin làm quán đợi / buồn chân em ghé chơi (Biết
đâu nguồn cội)
Trong những đường phố mà Trịnh Công Sơn đã đi qua đó,
tình cờ, một hôm người nhạc sĩ gặp em, “một ngày tình cờ biết em / là ngày lạ
lùng nhất trần gian". Sự gặp gỡ đó mang trong nó những hạt mầm hạnh
phúc và bất hạnh lớn:
Hôm chợt thấy em đi về bên kia phố
Trong lòng bỗng vui như đời rất lạ
Tôi tìm thấy tôi theo từng gót xa
Làm lời lá bay trên đường đi
Tôi tìm thấy tôi như giọt nắng kia
Làm hồng chút môi cho em nhờ (...)
Dưới đường phố kia có người nhớ em
Nằm mộng suốt đêm ôm thiên đường (Cho đời
chút ơn)
Vẫn em. Và hạnh phúc ấy nghe như một tiếng chim bay
trong thành phố.
Em cùng lá tung tăng như loài chim đến
Và đã hót giữa phố nhà (...)
Bao đường phố em qua nắng lên đứng chờ (Tuổi đời mênh
mông)
(... ) Chính vì em là một nét xanh của lá, một nét
tím của mây, một nét hồng của nắng, một nét trắng của mưa, một nét vàng của
hoa, chính vì em là một nét mềm của tiếng chim kia, một nét vui của bờ tường ấy,
nên khi em ra đi, phố trở nên trống vắng, như bức tranh thiếu cái sinh động của
một linh hồn;
Nếu thật hôm nào em bỏ đi
Em bỏ đi
Sau lưng em còn con phố dài
Những hàng cây loan tin nhau rồi im tiếng nói
Quanh đây hoang vu tiếng cười (Rơi lệ ru người)
Trịnh Công Sơn nhắc lại những cảnh phố cũ. Đó là những
điều thân thiết mà phố mang đến cho chúng ta. Đó là phố của tất cả mọi người; đồng
thời, đó cũng là phố của chỉ hai người mà thôi. Phố là thế. Phố mở rộng cho tất
cả, nhưng phố cũng gìn giữ những riêng tư cho mỗi hai người:
Nhớ phố xưa quen / biết tên bàn chân
Nhớ đèn đường từng đêm thao thức
Sáng cho em vòm lá me xanh (...)
Nhớ bạn bè chào nhau quen tiếng
Phố em qua gạch ngói quen tên...
Khi chiều xuống bên sông nước lên
Én nô đùa giữa phố nhà
Có nắng vàng lạc trên lối đi (...)
Trong lòng phố / mưa đêm trói chân
Dưới hiên nhìn nước dâng tràn
Phố bỗng là dòng sông uốn quanh (Em còn nhớ hay em đã
quên)
Phố là nơi gặp gỡ, phố là chỗ khởi đầu, thế nên, khi
người con gái ra đi, tan loãng vào cuộc đời này, "em theo đời cơm áo
/ mai ra cùng phố xôn xao / bao nhiêu ngày yêu dấu tan theo", hay
khi bóng người đã khuất lấp mít mù, "ngủ đi em đôi vai lụa mát/ ngủ
đi em da thơm quả ngọt", Trịnh Công Sơn cũng vẫn không thể quên được
những ngày yêu dấu cũ. Anh sống với cuộc hồi tưởng.
Tôi đã đưa em qua nhiều phố
Những sáng mênh mông tôi ngồi nhớ (Trong nỗi đau tình
cờ)
Nhìn lại những con phố, những con phố mà ngày xưa đã
từng là những lưu điểm của hạnh phúc, đã là những điểm lập lòa ánh sáng và lấp
lánh những tiếng cười vui, những sắc màu tươi thắm của đời, Trịnh Công Sơn lắng
nghe lại những âm hao cũ. Lúc đó, chỉ còn nỗi buồn rớt lại, trong một không
gian xa lạc và mất dấu:
Giật mình nhìn quanh
Ồ phố xa lạ (Bên đời hiu quạnh)
Con người chợt nhận thức ra rằng tất cả cuộc đời bây
giờ là lạ mắt:
Bàn chân trong phố xa lạ nhiều
Có người lòng như nắng qua đèo (Có một dòng sông đã
qua đời)
Tất cả những đường phố trong anh, bây giờ, đều đã chết.
Còn nếu không, chúng chỉ là những chứng tích của sự
buồn thảm. Không còn những ngày cũ, với ta nhìn "gió trời thênh thang
nhớ con phố hẹn". Không còn những ngày đã xa rồi, như bản tính của bất
cứ một người con gái nào, đùa vui với hạnh phúc trông ngóng của người yêu, em "tặng
hết cho tôi một phố chờ”. Không còn những ngày tôi đã cùng em chạy trốn
mưa trong thành phố cũ, "mưa phố vai mưa mềm / bàn tay em đôi tay mùa
hạ phố mưa tôi tìm". Có còn lại chăng chỉ là một nỗi quạnh hiu rụng đầy
trong ta:
Có đường phố nào vui cho ta qua một ngày
Có sợi tóc nào bay trong trí nhớ nhỏ nhoi
Không còn không còn ai / ta trôi trong cuộc đời...
(Ru ta ngậm ngùi)
Phố xưa không còn là tiếng chim hót bay vào trời
xanh, bây giờ "phố xưa nằm bệnh/ đàn chim non réo bên vườn
hoang". Phố, đóa hoa hồng ngày xưa nở tươi trên môi cuộc đời, bây giờ,
không có bóng em, nó chỉ là một nụ hồng “vùi quên trong tay". Thành phố,
"đóa hoa hồng tàn hôn lên môi", kia bây giờ, chỉ là một cơn nhớ bay
dài trong mưa, là vị mặn của một giọt thầm trên mắt, hay của nhiều giọt thầm
như thế. Chợt nhớ những câu thơ cũ, về một nỗi đau khi bước trên thành phố nhầu
nát và mất bóng em:
Đi trên thành phố vai nhầu
Bước chân xiêu vẹo nghe sầu vọng âm
Lời em trên mắt âm thầm
Khua chân phố nhở giọt đầm đìa tuôn. (Hoài Thanh)
Hình ảnh phố khi con người đã không còn bên nhau nữa
chỉ mang toàn những nét xiêu vẹo và nhầu nát như thế. Nếu bị dầm trong mưa,
hình ảnh buồn bã và khốn khổ ấy sẽ lại được càng làm cho rõ nét hơn. Và người
đi trong phố, lúc đó, nghe đèn phố trong mưa kể lể những tiếng buồn qua ánh điện
vàng. Ánh điện vàng đó chính là ánh đèn soi chiếu những chiếc bóng hấp hối
trong đời mình:
Cồn đá rêu phong rủ buồn
Đèn phố nghe mưa tủi hờn (...)
Thành phố mắt đêm đèn vàng
Hồn lẻ nghiêng vai gọi buồn (Biển nhớ)
Trịnh Công Sơn là người thiết tha với phố, bởi lẽ,
như đã nói, phố là bến đợi một thời của tuổi trẻ anh, là không gian in đẫm những
hạnh phúc có thật mà anh tìm ra được giữa cuộc đời này. Phố, với anh, thật sự
không còn là một khoảng không gian mang tính vật lý nữa. Nó đã trở nên một khoảng
không gian tinh thần, tô đậm những hình bóng và những nhớ tiếc, xót xa có những
tên gọi cụ thể trong hồn anh. Trong những phố ấy, đi đâu Trịnh Công Sơn cũng chạm
mặt với những hạnh phúc cũ, mà nay đã trở nên những nỗi buồn. Những nỗi buồn mà
anh vẫn mãi không muốn từ bỏ:
Chiều một mình qua phố âm thầm nhớ, nhớ tên em
Gió ơi, gió ơi bay lên / để bụi đường cay
lòng mắt (...)
Chiều qua bao nhiêu lần môi cười, cho mình còn nhớ
nhau
Chiều qua bao nhiêu lần tay rời, nghe buồn
ghé môi sầu
Ngày nào mình còn có nhau xin cho dài lâu
Ngày nào đời thôi có nhau xin người biết đau (Chiều một
mình qua phố)
Người đi trên phố, và phố nhắc nhở người những cơn
đau. Đau vì một người đã ra đi, một người đã về bên kia núi. Nhưng cũng có khi
đau vì một người đã không còn bên cạnh ta nữa, cho dù người vẫn còn đâu đó
trong cuộc đời này, vẫn còn cười nói "đâu đó trong lòng phố xá đông vui";
nhưng thật sự, đời sống đã dạy cho con người biết rằng “trong cuộc bể dâu ôi
trăm ngày phố xá cũng trôi theo / Trong hội trần gian bao nhiêu ngày yêu dấu
cũng không còn". Từ đó, cho dù, "có lần bàn chân qua phố thấy
người, sóng lao xao bờ tôi", thì người vẫn biết rằng tất cả mọi sự,
như dòng nước kia, đã theo nhau chảy dưới chân cầu. Người đi trên phố đi mãi đi
mãi, và phố kia, bây giờ, như một mũi tên, bay tới đâm thẳng vào trái tim người.
Phố đóng đinh ta trên cây thập tự:
Tưởng rằng đã quên / cuộc tình sẽ yên
Tưởng rằng đã quên / thân đau muốn nằm
Vì từng bước em là từng mũi đinh cuồng điên (...)
Tưởng rằng đã quên / cuộc tình sẽ yên
Tưởng rằng đã quên / em qua phố rộng
Một lời trối trăn còn tìm thấy trong đôi mắt (...)
Tưởng rằng đã quên / tay em vẫn còn
Dựng đời bão lên/ làm từng vết thương hồn nhiên (Tưởng
rằng đã quên)
Nhưng không phải phố chỉ là nơi cho Trịnh Công Sơn,
con người ở vị trí chủ thể, cơ hội thẩm thấu những kinh nghiệm của đời mình. Phố
còn là nơi để người nữ, con người đối trọng của anh, cảm nhận cuộc sống. Em là
tôi và tôi cũng là em. Bởi thế, người nữ của Trịnh Công Sơn, như anh, cũng đã
có những cơ hội cảm nhận đối với tất cả những gam màu, những sắc độ, và những
cung bậc của nó. Nhưng cũng như anh, hình như những cảm nhận sâu sắc nhất của
con người ấy cũng đều nằm trong vùng hồi quang của những bất hạnh, xót xa và
đau khổ:
Chiều nay em ra phố về / thấy đời mình là những chuyến
xe
Còn đây âm vang não nề
Ngày đi đêm tới / trăm tiếng mơ hồ
Chiều nay em ra phố về / thấy đời mình là những đám
đông
Người chia tay nhau cuối đường
Ngày đi đêm tới / nghe tiếng hư không (...)
Chiều nay em ra phố về / thấy đời mình là những quán
không
Bàn im hơi bên ghế ngồi
Ngày đi đêm tới / đã vắng bóng người
Chiều nay em ra phố về / thấy đời mình là con nước
trôi
Đèn soi trên vai rã rời
Ngày đi đêm tới / còn chút hao gầy (Nghe những
tàn phai)
Phố, như vậy, chính là không gian tục lụy của Trịnh
Công Sơn. Tục lụy với tất cả nhưng hạnh phúc và khổ đau của nó, với tất cả những
sắc độ và gam mầu của nó. Nếu rừng, núi, sông, biển cho dù là những biểu tượng
khá thân thiết với con người, vẫn có những khi mang những nét xa cách với nó,
thì phố là một biểu tượng gắn chặt với những cảm nhận và thức nhận của con người
về cuộc đời với đủ nét tân toan cam khổ này. Phố là không gian để con người sống
cùng và sống với. Đó là một không gian nhỏ hẹp của cuộc đời, nhưng, qua nó, người
ta nhìn ra những phản ánh của cuộc sống rộng lớn hơn ngoài kia. Như thế, phố, đối
với Trịnh Công Sơn, là một không gian cắm mốc trong bản ngã của anh. Và, có lẽ,
cũng đúng nữa, đó là một không gian cắm một dấu mốc rõ nét trong bản ngã của
con người thời nay. Nó mang trong nó dấu ấn cuộc sống và hơi thở của con người
thời đại.
Con người, những bản vị trong không gian
Không gian của Trịnh Công Sơn mang chứa trong nó nhiều
biểu tượng. Những biểu tượng ấy gắn vào con người và hòa quyện với nó. Con người
của anh sống giữa thiên nhiên, đặt mình trong lòng thiên nhiên, và cũng phản
ánh thiên nhiên qua chính nó. Nhưng, một nét đặc biệt nơi
Trịnh Công Sơn là, con người trong thế giới của anh,
nhất là người nữ, thường có khuynh hướng trở thành những bản vị để, qua đó, anh
đo đạc, nhìn ngắm và hạnh phúc với thiên nhiên chung quanh. Trời đất, thiên
nhiên, bây giờ, không còn là một bản vị chính yếu nữa để con người theo đó mà
được mô tả, so sánh. Chính con người bây giờ là những bản vị. Những bản vị nhỏ
bé và duyên dáng làm ngơ ngẩn cả đất trời.
Ngày xưa, để tả Thúy Vân và Thúy Kiều, Nguyễn Du đã
nói tới "mai cốt cách, tuyết tinh thần", "khuôn trăng”,
"nét ngài”, "mây", “làn thu thủy, nét xuân sơn", "hoa
ghen", "liễu hờn"... Nguyễn Du đã lấy thiên nhiên làm thước đo để
khen ngợi chị em Thúy Vân,Thúy Kiều. Vân, Kiều, như thế, được mang ra so sánh với
thiên nhiên, cho dù sự so sánh, qua ngòi bút của Nguyễn Du, có phần hơi thiên vị
hai người con gái duyên dáng và đáng yêu này. So sánh như thế là so sánh theo
những ước lệ cổ điển, theo những quy phạm về văn chương mà Nguyễn Du, như một
con người của thời đại mình, không thể tránh khỏi. Thiên nhiên là những bản vị,
con người là những nét để bên cạnh.
Trong thế giới của Trịnh Công Sơn, tình hình lại có vẻ
như ngược lại. Con người trở thành thước đo của thiên nhiên:
Nắng có hồng bằng đôi môi em
Mưa có buồn bằng đôi mắt em
Tóc em từng sợi nhỏ
Rớt xuống đời làm sóng lênh đênh
Ta nghe nghìn giọt lệ
Rớt xuống thành hồ nước long lanh (Như cánh
vạc bay)
Ở đây, nắng được mang ra để so sánh với đôi môi em;
mưa, với đôi mắt. Đó là một vị thế đảo ngược trong sự so sánh. Tóc em rớt xuống
đời làm thành sóng, chứ không phải lênh đênh như sóng. Nước mắt em rơi xuống
thành, chứ không như hồ nước long lanh. Tóc và những giọt nước mắt em trở nên
những hình ảnh trung tâm, những hình ảnh ở ngôi thứ nhất, từ đó, chúng được phản
chiếu, khúc xạ vào thiên nhiên. Những thao tác nghệ thuật này gần với ẩn dụ hơn
là với so sánh, cho dù "ẩn dụ” thì cũng là một loại tu từ dùng để so sánh.
Thế nhưng, chúng lại đưa ra những ảnh hưởng khác biệt nhau, tạo ra những nét gần
như đối nghịch về mặt nhận thức trên cảm quan thẩm mỹ của người thưởng ngoạn.
Cũng thế, trong bài Níu tay nghìn trùng, lời
ca của người tình trẻ rớt thành cơn mưa:
Từ bờ môi hát lên nhè nhẹ
Từ lời ca rớt thành cơn mưa
Chúng ta có thể tìm được nhiều thí dụ khác nữa. Chẳng
hạn:
Đã có nghìn trùng trên môi người tình
Đã chớm lạnh lùng trên môi nồng nàn
“Môi người tình" là nơi để người yêu cảm nhận nỗi
cách xa "nghìn trùng", cảm nhận sự chia ly và nhìn thấy hình ảnh của
chiếc bóng trăm năm.
Hình ảnh "đêm thấy ta là thác đổ” cũng mang chứa
trong nó nét trung tâm của chủ đề “ta". Cũng như vậy, trong:
Ôi áo xưa em là một chút mây phù du
Trịnh Công Sơn, qua biện pháp ẩn dụ, đã đưa hình ảnh
“áo em ngày xưa” vào trong khung cận ảnh, phóng lớn nó lên, để cho thấy hình ảnh
lênh đênh trôi nổi áo em (như mây nhẹ); hay đúng hơn, kết hợp chung với biện
pháp hoán dụ (dùng áo để chỉ người), câu hát cho thấy hình ảnh vô thường của
em, của liên hệ giữa tôi và em, những liên hệ rất phù du mây nổi, và chút mây
kia cùng đã trôi về một biên giới khác.
Hình ảnh "Ôi áo xưa lồng lộng /
đã xô dạt trời chiều”
cũng đem “áo xưa" vào cận ảnh, để cả một khung
trời chiều bé nhỏ lạc mất phía sau, và càng lúc càng bị mất vị thế trung tâm
qua động từ "dạt". Thiên nhiên bị những hình ảnh con người lấn chiếm,
để càng lúc càng bị đẩy xuống vị trí thứ yếu.
Trong bài Ở trọ, có câu:
Mây kia ở đậu từng không
Mưa nắng ở trọ bên trong mắt người
Có phải là Trịnh Công Sơn đã lấy mắt người để đo thời
tiết không? Mưa nắng ở trong mắt. Và mắt ấy là mắt của một người con gái. Ở
đây, không phải con người nằm trong thiên nhiên mà, ngược lại, thiên nhiên nằm
trong con người. Nhìn vào em, tôi thấy thiên nhiên và tất cả những mưa nắng cuộc
đời.
Nhưng em, dù có đẹp và có thu trọn thiên nhiên trong
mình đấy, cũng không phải là sẽ còn lại mãi với cuộc đời này. Em cũng chỉ là một
cái chớp mắt, một cái vụt qua của cuộc sống:
Nhìn em hư vô, nhìn em bóng nắng (Con mắt còn lại)
Tác giả thấy rõ em là bóng nắng, là hư vô. Em không
phải như những ảo ảnh phù du kia, đang tan đi và biến mất. Em chính là sự phù
du, em đang lung linh, hư ảo, và tan đi. Bóng nắng, một nét thiên nhiên, nếu còn
rớt lại đâu đó, chỉ thấy rõ là em, con người, đã ra đi mà thôi. Thiên nhiên,
như thế, lại hóa ra là một nét của con người. Chứ không phải là ngược lại. Câu
hỏi. "Màu nắng hay là màu mắt em", trên bề mặt hình thức, đặt
hai chủ thể ngang nhau; nhưng dưới mạch ngầm lại để "màu mắt em" vào
vị trí trung tâm. Câu "Quỳnh thơm hay môi em thơm" cũng
thế, cũng cho ta thấy rõ tác giả thiên vị "môi em" nhiều hơn, cho dù
nụ quỳnh cũng là một hình ảnh đáng yêu của trần gian.
Như thế, trong thế giới của Trịnh Công Sơn, con người,
đặc biệt là người nữ, trở nên nổi bật. Nhìn kỹ, người nữ ấy hiện diện như một bản
vị. Nó đứng độc lập, hay được đặt để vào những vị trí để giúp cho thiên nhiên
được nhận diện một cách rõ nét hơn. Nó là ánh cầu vồng bảy sắc phản chiếu hình ảnh
thiên nhiên lung linh và đẹp đẽ này.
Trịnh Công Sơn là một nghệ sĩ lớn. Điều đó có lẽ
chúng ta đều có thể công nhận với nhau, dù chúng ta có đứng ở vị trí hay góc độ
nào để nhìn ngắm, quan sát hay đánh giá anh. Có những người không ngại gọi anh
là một thiên tài. Họ có cái lý của họ. Tôi nói Trịnh Công Sơn là một nghệ sĩ lớn
theo cái nghĩa mà con người trên thế giới nói chung, bất kể là họ sống dưới chủ
nghĩa nào hay khoác trên mình những màu áo khác nhau nào, đã dùng để nói về
Pablo Neruda, Pablo Picasso, Paul Eluard, Jean Paul Sartre, Romain Rolland, v.v... hay
để nói về bất cứ một nghệ sĩ lớn nào khác của nhân loại đã cống hiến cho con
người những rung động thiết tha, đẹp đẽ. Những nghệ sĩ lớn ấy, trong những
hoàn cảnh riêng của mình, đã mở ra cho con người những viễn tưởng mới. Họ đem đến
cho con người những thế giới mới lạ, hay, nói cho đúng hơn, họ đem lại cho con
người những cái nhìn về thế giới, về cuộc đời. Họ làm con người trở nên giàu có
hơn về mặt tinh thần.
Từ trong những hang đá cổ sơ, con người đã nhìn thấy
và tìm ra những giấc mơ và những mộng ước của mình. Và họ đã để lại dấu tích của
những mơ ước đó trên các vách đá mà con người thời đại ngày nay vẫn còn đang lần
dò tìm hiểu. Nghệ thuật gắn liền với ước mơ, và nó là cái đến trước. Đến trước
lúc con người tìm ra cách kéo sợi, dệt vải, và dùng loại thuốc nhuộm mà nó sáng
chế ra để nhuộm các màu xanh đỏ đen vàng cho quần áo của mình. Nghệ thuật có mặt
trước khi con người biết lợi dụng, mạt sát, lên án và chém giết nhau qua sự
phân chia của những mầu áo. Nó là tiếng nói đầu tiên của con người để xác nhận
trước thiên nhiên và cuộc đời cái dấu ấn mà Thượng Đế, kẻ sáng tạo, đã để lại
trong nó. Tất cả những giải thích khác về cuộc đời, kể cả tiếng nói của chính
trị, là những cái đến sau.
Trịnh Công Sơn là một con người sống trong cuộc đời.
Anh phải chấp nhận những giới hạn của cuộc sống, nhưng đồng thời anh cũng đã cất
lên tiếng nói của mình để mơ ước và hoài vọng những điều tốt đẹp cho anh, cho
những người thân yêu, những người chung quanh, và cho cả nhân loại nói chung.
Nhưng tiếng nói ước mơ của Trình Công Sơn có lẽ không
hẳn chỉ là tiếng nói của một con người. Những giấc mơ cũng như cái thế giới mà
anh vẽ ra là những giấc mơ và thế giới của bao nhiêu con người thiết tha với cuộc
đời này nhưng vẫn nuôi nấng trong trái tim mình những mầm hạt cho một cuộc sống
đẹp đẽ, đáng yêu và thơ mộng hơn nữa. Những giấc mơ vẫn cố bay lên cao, cho dù
nhiều khi chúng bị giằng giật và bị dìm kéo xuống dưới đất bằng. Con người còn
sống là con người còn những mơ ước. Và những nghệ sĩ lớn là những người thiết
tha với những giấc mơ của mình hơn bất cứ ai. Cho dù đó là những giấc mơ nhỏ bé
hay những mộng tưởng thơ ngây.
Trịnh Công Sơn là một thi sĩ. Anh sống trong thời đại
của mình, và anh có những giấc mơ. Và, nói như Jiris Wolker: “Qua nhà thơ, người
ta nhìn ra được tầm cỡ của thời đại mà ông ta sống". Có lẽ, nếu muốn,
chúng ta cũng thấy được tầm cỡ của thời đại mình qua những giấc mơ và thế giới
mà Trịnh Công Sơn là một nghệ sĩ lớn. Anh đã yêu trần gian này biết bao, và anh
đã hiểu được thế nào là hạnh phúc và xót xa trong cuộc sống của anh với trần
gian này. Anh cũng đã mơ thật đẹp những giấc mơ của mình. Cho dù là chúng rộn
vui tiếng cười hay đầy tràn nước mắt. Chúng ta là những người được chia sẻ những
giấc mơ đó. Hãy nghe anh nói, và, nếu có thể, hãy khóc cười, hãy đau khổ và hạnh
phúc cùng anh. Đừng tô mầu những giấc mơ của anh. Hãy để chúng y nguyên như thế.
Vì, cẩn thận, có thể chúng ta sẽ tự đánh mất mình trong việc bóp méo hay chà đạp
những giấc mơ của người khác. Nhất là giấc mơ của một nghệ sĩ, kẻ, như Robert
W. Corrigan nói, "là máy đo độ chấn động của thời đại hắn".
Trịnh Công Sơn đã làm chúng ta yêu cuộc đời này hơn
chính những vẻ đẹp mong manh của nó. Anh cũng làm cho chúng ta thiết tha yêu
thương con người hơn, muốn gắn bó với mọi người chung quanh hơn. Trịnh Công Sơn
làm được tất cả những điều ấy qua những giấc mơ nhỏ bé của anh .
Và Trịnh Công Sơn đã để lại những giấc mơ ở trần gian
này.
Chúng ta, mỗi người, hãy tự nhìn lại những giấc mơ của
chính mình.
Một Cõi Đi Về
° Triết học ấn Độ nói rằng: nếu ở nơi này vừa có một
kẻ bỗng dưng giàu lên thì lập tức ở một nơikhác sẽ có một kẻ mất hết sản nghiệp.
Chiều nay ở sân bay vừa đưa tiễn những người thân
đi xa. Về nhà, người bạn tôi nói: ở nơi này vừa thiếu đi bốn người thì lập tức ở
nơi xa xôi kia nhận thêm được bốn người...
Có một nỗi buồn ở nơi này thì sẽ có một niềm vui ở
chốn khác.
Có một trái tim khổ nạn ở người này thì tất nhiên sẽ
có một trái tim hân hoan ở kẻ khác.
° Những ai đã đi đến với đời thì phải có lúc lìa xa
nó. Một cõi đi về...
Trong Phật giáo, một trong những "hạnh"
cao nhất là hạnh bố thí.
Cho kẻ này nhưng sẽ nhận lại ở kẻ khác.
Thanh Tùng nói với tôi: Tôi muốn làm một điều gì đó
thật tốt đẹp cho người đã khuất, người vợ một đời lo âu, tận tụy vì tôi.
Vợ Tùng đã một đời cho Tùng nhiều quá thì sẽ nhận
được quà tặng ở một nơi khác. Tùng biết cách cho thì vợ Tùng sẽ nhận được. Những
đứa con của vợ Tùng sẽ nhận được.
Những thân quyến, bạn hữu của vợ Tùng sẽ nhận được.
° Chết là sự tan biến của thể xác. Nhưng sống không
chỉ là sự tồn tại của thân xác. Nhiều người còn sống mà tưởng chừng như đã chết.
Nhiều người đã chết mà vẫn còn sống trong trí nhớ mọi người.
Trước khi mất vợ Tùng nói với tôi: Nếu khoẻ, em về
lại nhà và sẽ chỉ làm hai điều này thôi. Mang quà mỗi ngày cho những người
nghèo đau ốm trong bệnh viện và chiều chiều làm đồ nhậu cho các anh với anh
Tùng để nghe các anh nói chuyện đời, chuyện nghệ thuật.
Trong câu chuyện đời chung, kẻ này quên thì người
kia phải nhớ. Một ý tưởng chợt tắt để làm mầm chuyển hóa cho một ý tưởng khác nảy
sinh.
Cái mất không bao giờ mất hẳn.
Cái còn không hẳn mãi là còn.
Sóng Nhạc 1990
Hồi ức
Thuở ấy có một người con gái rất mong manh, đi qua
những hàng cây long não lá li ti xanh mướt để đến trường đại học văn khoa ở Huế.
Nhiều ngày, nhiều tháng của thuở ấy, người con gái ấy
vẫn đi qua dưới những vòm cây long não.
Có rất nhiều mùa nắng và mùa mưa cũng theo qua.
Những mùa nắng ve râm ran mở ra khúc hát mùa hè
trong lá. Mùa xuân mưa Huế, người con gái ấy đi qua nhòa nhạt trong mưa giữa
hai hàng cây long não mù mịt.
Nhà cô ấy ở bên kia sông, mỗi ngày phải băng qua một
cây cầu rồi mới gặp hàng long não để đến trường.
Từ ban công nhà tôi nhìn xuống, cái bóng dáng ấy đi
đi về về mỗi ngày bốn bận. Thời buổi ấy những người con gái Huế chưa hề dùng đến
phương tiện có máy nổ và có những tốc độ chóng mặt như bây giờ. Trừ những người
ở quá xa phải đi xe đạp, còn lại đa số cứ chậm rãi đến trường bằng những bước
đi thong thả hoàng cung. Đi để được ngắm nhìn, để cảm thấy âm thầm trong lòng mình
là một nhan sắc. Nhan sắc cho nhiều người hoặc chỉ cho một người thì có quan trọng
gì đâu. Những bước chân ấy từ mọi phía đổ về những ngôi trường với những cái
tên quen thuộc, đôi khi lại quá cũ kỹ. Đi để được những con mắt chung quanh
nhìn ngắm nhưng đồng thời cũng tự mình có thì giờ nhìn ngắm trời đất, sông nước
và hoa lá thiên nhiên. Long não, bàng, phượng đỏ, muối, mù u và một dòng sông
Hương chảy quanh thành phố đã phả vào tâm hồn thời con gái một lớp sương khói
lãng mạn thanh khiết. Huế nhờ vậy không bao giờ cạn nguồn thi hứng. Thành cổ, đền
đài, lăng tẩm khiến con người dễ có một hoài niệm man mác về quá khứ hơn và một
phần nào cũng giúp cho con người được cứu rỗi ra khỏi vòng đai tục lụy. Và từ
đó Huế đã hình thành cho riêng mình một không gian riêng, một thế giới riêng.
Nó không cám dỗ như cõi phồn hoa đô hội nhưng nó là mạch nguồn của một nguồn gợi
cảm nhẹ nhàng riêng. Từ đó con người bỗng đâm ra mơ mộng và ước mơ những cõi trời
đất gần như không có thực.
Nhưng sự thực và mơ là gì? Thật ra, nói cho cùng,
cái này chỉ là ảo ảnh của điều kia. Và với những ảo ảnh đó đã có một thời, khá
dài lâu, những con người lớn lên trong thành phố nhỏ nhắn đó đã dệt gấm thêu
hoa những giấc mơ, giấc mộng của mình.
Đó cũng là thời gian mà mỗi sáng tinh mơ, mỗi chiều,
mỗi tối, tiếng chuông Linh Mụ vang xa trong không gian, chuyến đi trên dòng
sông để đến với từng căn nhà khép hờ bay đang đóng kín cửa.
Thời gian trôi đi ở nơi đây lặng lẽ quá. Lặng lẽ đến
độ người không còn cảm giác về thời gian. Một thứ thời gian không bóng hình,
không màu sắc. Chỉ có cái chết của những người già, vào mùa đông giá rét, mới
làm sực tỉnh và bỗng chốc nhận ra tiếng nói thì thầm của lăng miếu, bia mộ ở những
vùng đồi núi chung quanh.
Trong không gian tĩnh mịch và mơ màng đó, thêm chìm
đắm vào một khí hậu loáng thoáng liêu trai, người con gái ấy vẫn đi qua đều đặn
mỗi ngày dưới hai hàng cây long não để đến trường. Đi đến trường mà đôi lúc dường
như đến một nơi vô định. Định hướng mà không định hướng bởi vì những bước chân
ngày nào ấy dường như đang phiêu bồng trên một đám mây hoan lạc của giấc mơ.
Người con gái ấy đã đi qua một cây cầu bắc qua một
dòng sông, qua những hàng long não, qua những mùa mưa nắng khắc nghiệt, để cuối
cùng đến một nơi hò hẹn.
Hò hẹn nhưng không hứa hẹn một điều gì. Bởi vì
trong không gian liêu trai ấy hứa hẹn chỉ là một điều hoang đường. Giấc mơ liêu
trai nào cũng sẽ không có thực và sẽ biến mất đi.
Người con gái đi qua những hàng cây long não bây giờ
đã ở một nơi xa, đã có một đời sống khác. Tất cả chỉ còn là kỷ niệm. Kỷ niệm
nào cũng đáng nhớ nhưng cứ phải quên.
Người con gái ấy là Diễm của những ngày xưa.
Thế giới âm Nhạc - Tháng 3/1997
Giấc Mơ Hạ Trắng
Ở Huế mùa hạ, ve kêu râm ran trên những tàn cây như
một dàn hợp xướng và nắng nóng oi bức như địa ngục. Thêm vào đó lại còn có gió
Lào. Vừa tắm xong là người đã ướt đẫm mồ hôi. Bao nhiêu nhiên liệu tích lũy
trong cơ thể đều tan ra thành nước. Những đồ vật và áo quần sờ vào đâu cũng có
cảm giác như vừa rút trong lò lửa ra. Những mặt đường gần như bốc khói với nhiệt
độ 42 - 43.
Có một mùa hạ năm ấy tôi bị một cơn sốt nặng, nhiệt
độ trong người và bên ngoài bằng nhau. Tôi nằm sốt mê man trên giường không còn
biết gì. Và bỗng có một lúc nào đó tôi cảm thấy có một hương thơm phủ ngập cả
căn phòng và tôi chìm đắm vào một giấc mơ như một cơn mê sảng. Tôi thấy mình lạc
vào một rừng hoa trắng thơm ngào ngạt, bay bổng trong không gian đó. Đến lúc tỉnh
dậy người ướt đẫm mồ hôi và tôi nhìn thấy bên cạnh giường có một người con gái
nào đó đã đến cắm một bó hoa dạ lý hương trắng rất lớn. Chính cái mùi thơm của
dạ lý hương đã đưa tôi vào giấc mơ kia. Giấc mơ trong một mùa hạ nóng bức.
Trong vùng tôi ở, quanh đó chỉ có một nhà duy nhất trồng dạ lý hương nên tôi biết
ngay người mang hoa đến là ai.
Sau một tuần lễ tôi hết bệnh. Nghe tin bố người bạn
đang hấp hối tôi vội vàng đến thăm. Ông chẳng có bệnh gì ngoài bệnh nhớ thương
và buồn rầu. Câu chuyện rất đơn giản. Hai ông bà đã lớn tuổi thường nằm chung
trên một sập gụ xưa. Cứ mỗi sáng bà cụ thức dậy sớm và xuống bếp nấu nước sôi để
pha trà cho ông cụ uống. Một buổi sáng nọ, Cũng theo thường lệ, bà cụ xuống bếp
bị gió ngã xuống bất tỉnh và chết. Mấy người con ở gần đó tình cờ phát hiện ra
và đưa bà cụ về nhà một người để tẩm liệm. Sau đó chôn cất và giấu ông cụ. Khi
ông cụ thức dậy hỏi con, mẹ các con đi đâu rồi, thì họ trả lời là mẹ sang nhà
chúng con để chăm sóc mấy cháu vì chúng bị bệnh. Vài ngày sau vẫn chưa thấy bà
về ông mới trầm ngâm hỏi các con có phải mẹ các con đã chết rồi không. Lúc ấy mọi
người mới khóc oà lên. Từ đó ông nằm trên sập gụ một mình, cơm không ăn, trà
không uống cho đến lúc kiệt sức và đi theo bà cụ luôn.
Câu chuyện này ám ảnh tôi một thời gian. Và sau đó
tôi kết hợp giấc mơ hoa trắng mùa hạ với mối tình già keo sơn này như "áo
xưa dù nhầu cũng xin bạc đầu gọi mãi tên nhau” để viết nên bài Hạ trắng.
Cát Bụi
Vào một buổi chiều ngày tháng không còn nhớ, tôi một
mình đến rạp Casino xem phim. "Hiệp sĩ mù nghe gió kiếm” tập 6.
Đây là một bộ phim nhiều tập, đã xem tập này thì không thể không chờ xem tập
khác. Nói chung là tập nào cũng hấp dẫn. Trong tập 6 có đoạn hiệp sĩ mù xuất kiếm
giải cứu cho một nàng Kiều xinh đẹp. Cứ mỗi tuyệt chiêu xuất ra là nghe một tiếng
nói bình giải ca ngợi. Đường kiếm như có thêm sức mạnh mỗi lúc mỗi uyển chuyển
huy hoàng hơn. Sau khi cứu được nàng Kiều, hiệp sĩ mù quay về phía tiếng nói
vái tay chào hỏi. Hoá ra bên vệ đường, dưới gốc cây to, có một người mù khác
đang ngồi xếp bàn, trên hai chân có cây đàn bọc trong bao vải gác ngang. Người
nghệ sĩ mù có nhã ý muốn chơi một bản đàn tặng hiệp sĩ mù. Hai người bèn kéo
nhau vào một khu rừng gần đấy. Hình như là rừng vào thu nên các cành đều trơ
lá, chỉ thấy một thảm lá vàng đỏ trải dày trên mặt đất. Hai người ngồi tựa vào
hai góc cây đối diện nhau. Tiếng đàn nửa chừng bỗng đứt giây. Người nghệ sĩ mù
nói: có kẻ bất thiện đang nghe lén. Quả đúng như vậy, có một tên gian đang rình
rập hiệp sĩ mù. Thế là hai người lặng lẽ chia tay.
Hết phim, tôi tản bộ lang thang trên phố. Không hiểu
sao cái đoạn phim ngắn ngủi ấy khiến tôi buồn buồn. Chiều tối về nhà, sau khi
ăn, tôi ngồi đọc lại cuốn Zorba le Grec. Đến đoạn Zorba than thở:
"Chim đa đa ơi thôi đừng hót nữa. Tiếng hót mày làm tan nát tim ta”, tôi bỗng
gập sách lại và không đọc nữa. Có một cái gì đó thật trùng hợp trong cùng một
buổi chiều. Một nỗi buồn hay một điều gì đó gần với sự rời xa li biệt đang cựa
mình thức dậy trong tôi. Tôi lại ra đường tìm đến một góc quán quen thuộc ngồi.
Trên đường trở về nhà, trong đầu bỗng vang lên một tiếng hát, hát thành tiếng
khe khẽ. Đến khi về nhà lấy giấy bút ghi lại thì bài hát đã gần như hoàn chỉnh.
Sáng hôm sau mang hát cho một số bạn bè nghe, hầu như ai cũng thích.
Đó là câu chuyện về sự ra đời của bài Cát bụi.
Mỗi bài hát gần như đều bắt nguồn từ một duyên cớ
nào đó. Có khi từ một câu chuyện không đâu.
Bây giờ thì Người hiệp sĩ mù kia đã chết rồi. Khoảng
hai năm nay.
Người viết Zorba đã qua đời, dĩ nhiên con chim đa
đa kia cũng đã chết. Và nếu Zorba là một con người có thật được Nikos
Kazantzakis tiểu thuyết hoá thì nay ông ta cũng đã mất rồi.
“Tiếng động nào gõ nhịp khôn nguôi... "
Thời gian đã nghiền nát tất cả thành cát bụi hết rồi.
Thế giới Âm Nhạc - Tháng 1/1998
Nhớ Về Một Bài Hát
Cách đây nhiều năm, sự kiện thanh niên xung phong đến
các nông trường xa thành phố Hồ Chí Minh để lao động là một tin thời sự nóng bỏng
và còn mới lạ đối với nhiều người trong thành phố.
Những cuộc xuất quân rầm rộ cấp thành, rồi cấp quận,
cấp phường, cấp xã. Những thanh niên, thanh nữ ra đi với một tâm trạng còn bề bộn
những vui buồn lẫn lộn, những băn khoăn, âu lo thắc mắc trăm điều.
Đã qua đi cái thời kỳ ấy. Bây giờ người thanh niên
xung phong ra đi, bất kỳ nơi đâu, với một sự tự nguyện và với một tâm trạng ổn
định hoàn toàn. Không phải ngẫu nhiên mà có được thành quả đó. Tất cả hoa trái
hôm nay có được là nhờ những bước chân dũng cảm đi trước, nhờ những ý chí tiên
phong, nhờ những hy sinh mất mát qua những tấm gương tuổi trẻ của những đội ngũ
xung kích làm thành những biểu tượng đẹp đẽ, đáng yêu kính trong những ngày đầu.
Trong những ngày đầu ấy chúng tôi đã có dịp đến thăm
và sinh hoạt cùng với anh em thanh niên xung phong ở một vài nông trường. Lần đến
nông trường Nhị Xuân là lần để lại nhiều kỷ niệm nhất. Xe chở chúng tôi đến
nông trường lúc trời còn sáng đang ngả dần về chiều. Đường vào nông trường bụi
đỏ bay đầy. Bụi đỏ bay cao, tỏa về phía các rẫy mía, ở đó thanh niên xung phong
nam nữ cũng đang chuẩn bị trở về các lán trại sau một ngày lao động.
Chiều bắt đầu thẫm màu, đã nghe vang lên tiếng cười,
tiếng hát, tiếng đàn ghita từ phía các lán dựng về phía bờ kinh. Đêm xuống mà
lòng người như cứ muốn bay lên. Tự nhiên thấy muốn yêu người yêu đời hết sức.
Cái không khí bao trùm xung quanh gợi lên khung cảnh thơ mộng lãng mạn của những
kẻ phiêu lưu đi khai phá ở những vùng đất mới.
Chúng tôi dùng cơm tối với nhau. Các cô thanh niên
xung phong vừa phục vụ, vừa chào hỏi, đùa nghịch vui vẻ. Cô nào trông cũng rắn
chắc, khoẻ mạnh, nước da nâu hồng, sự tươi trẻ lan truyền khắp cả phòng ăn. Tôi
thử hỏi tên một vài cô, cô nào cũng bảo em tên là thanh niên xung phong.
Sau giờ ăn chúng tôi bắt đầu ca hát. Mưa đổ xuống bất
chợt. Nơi trình diễn là một nhà tranh dài, bốn bề không có vách. Mọi người đều
ngồi bệt xuống đất. Mưa cứ tiếp tục đổ xuống, ướt cả người hát lẫn người nghe.
Tạm ngừng? Không! Và cứ thế chúng tôi hát, người nghe vẫn yên tĩnh ngồi nghe rồi
lại hát chung, hát riêng, không còn phân biệt ai là người trình diễn ai là người
nghe nữa.
Đến khuya, nước tràn qua các bờ kinh, leo lên gần
chỗ ngủ các lán thì chúng tôi về. Xe sắp vào thành phố thì chúng tôi buộc phải
dừng lại vì lực lượng dân phòng ngại không đảm bảo được an ninh. Lúc bấy giờ đã
gần 2 giờ sáng.
Sự ra đời của một bài hát nào thường cũng gắn liền
với một thực tế nào đó, hoặc một câu chuyện tình cảm hoặc một bối cảnh ngẫu
nhiên.
Một buổi sáng cách đây bốn năm tôi tình cờ gặp anh
Mai ở căng tin Hội văn nghệ. Chúng tôi uống cà phê. Anh Mai người nhỏ, cao
không quá một sải tay, nhưng là người nhiều năm tận tụy phụ trách phần ca hát
nhạc cho lực lượng thanh niên xung phong. Anh Mai hỏi tôi còn nhớ những cô có
tên là “Thanh niên xung phong" ở Nhị Xuân không? Mới sáu bảy tháng làm sao
quên được. Qua câu chuyện anh Mai kể tôi được biết là sau lần chúng tôi đến
sinh hoạt văn nghệ có hai mươi cô trong số chúng tôi biết mặt đã tình nguyện
tham gia chiến đấu ở biên giới Tây Nam. Trong một chuyến tải đạn các cô bị bọn
Pôn Pốt phục kích và đã hy sinh rất thảm thương. Tôi không muốn kể lại chi tiết
về những cái chết đó, nhưng nếu ai còn là người Việt Nam thì nghe xong câu chuyện
không thể không căm thù. Tôi cảm thấy lòng mình tràn ngập một tình yêu thương
và một nỗi buồn quá lớn. Những khuôn mặt yêu đời ấy tôi còn nhớ rõ. Những tiếng
cười đùa nghịch ấy tôi cũng còn nghe rõ. Tôi tiếc là chưa được nắm lấy một lần
những bàn tay trẻ trung đó đã chai đi vì những tháng ngày lao động ở nông trường.
Những đôi vai thanh xuân đó đáng lẽ phải được gánh nhẹ nhàng những hạnh phúc của
đời, thì đã phải quên mình để gánh hết những nhọc nhằn của những biên giới chưa
yên .
Người ta có thể làm được những kỳ công nhưng không
ai dễ dàng sáng tạo ra những con người đẹp đẽ như thế. Tất cả những hình ảnh ấy
sáng lên trong tôi như một huyền thoại. Một huyền thoại mang đầy đủ nét trữ
tình và chất lãng mạn mới của thời đại chúng ta.
Những bản anh hùng ca mới rồi sẽ ra đời. Ở tôi,
đáng tiếc vì những hạn chế của khả năng, chỉ mới thành hình được một ca khúc nhỏ:
Em ở nông trường, em ra biên giới. Tôi đã viết bài hát này như một nỗi
nhớ thương của riêng tôi đối với những người bạn trẻ. Bài hát nào cũng có một sự
tích của nó. Đó cũng là kỷ niệm, những khói trầm hương tôi đốt lên để nhớ những
người con gái mà tôi không bao giờ còn gặp lại.
Nhị Xuân bây giờ đã khang trang, không còn những
lán trại dã chiến như xưa nữa. Hội trường, nhà cửa, đường sá đã mọc lên thành nếp
ngăn trật tự. Tôi hy vọng trên những con đường vào Nhị Xuân trong tương lai sẽ
không thiếu tên những người con gái đó trên những tấm biển đường.
Ngày Văn Cao Trở Lại
Chỉ là chuyến đi bình thường nhưng đã thành một sự
kiện. Nhạc sĩ Văn Cao vào thăm thành phố Hồ Chí Minh và cái thành phố luôn náo
nhiệt làm ăn này dường như đang hằng mong đợi ông. Ba buổi biểu diễn nhạc Văn
Cao đã được tổ chức cấp tốc ở nhà Văn hóa Thanh niên, đông hết sức chứa, bất kể
những cơn mưa tháng bảy...
Nhạc sĩ Văn Cao trở lại Sài Gòn lần này, với tôi,
có điều gì đó không giống những năm trước. Sự có mặt của anh bên cạnh ly rượu
làm tôi nhớ đến những người đã vắng mặt. Những anh Nguyễn Tuân, Nguyễn Xuân
Khoát, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Sáng. Những con người tài hoa của nghệ thuật cũng
như anh Văn mà có thời tôi đã cùng chia nhưng ly rượu sáng chiều ở Hà Nội
cũng như ở Sài Gòn. Cái có, không ở đời là chuyện thường tình của cuộc sống,
nhưng cứ mỗi lúc có một cái gì gợi nhớ là không thể không ngậm ngùi. Anh Văn
Cao là sự gợi nhớ đó.
Cho đến bây giờ tôi vẫn còn bị ám ảnh bởi cái không
khí ảm đạm, cô đơn của những mùa thu đông ở Hà Nội, với hình ảnh một Văn Cao ngồi
một mình với cốc rượu trước mặt ngày này qua ngày khác. Anh ngồi đó mà như một
sự vắng mặt trước cuộc sống. Ngồi hơn hai mươi năm như một cái bóng. Ly rượu
cũng biến thành cái bóng. Cái bóng của hai người. Người và ly - rượu - người.
Thân thiết chia sẻ cùng nhau những nỗi đời riêng, hiu quạnh không còn ai khác
có thể san sẻ giùm.
Những ngày này, ở đây, giữa Sài Gòn xưa và nay, tôi
thấy ở anh thoáng hiện những nụ cười yêu đời hóm hỉnh. Dấu hiệu của một sự yêu
đời đã trở lại. Vì đời yêu anh nên anh phải yêu đời. Yêu đời là lẽ sống của những
người không bệnh hoạn.
Anh Văn Cao đã nói với những người yêu nhạc ở thành
phố này về tình yêu, về những kỷ niệm xa xưa đã làm nên những bài hát trữ tình
của anh. Ai cũng thấy rõ anh đã có một thời yêu đương, một thời mơ mộng. Đừng
tưởng tuổi già làm anh cụt hứng với cuộc đời. Anh vẫn yêu, vẫn còn những mộng
tưởng êm đềm đối với cuộc sống chung quanh. Như thế, có nghĩa là anh vẫn còn tồn
tại dài lâu với cuộc đời chưa hề muốn phụ bạc anh. Vì qua ba buổi trình diễn những
ca khúc xưa của anh, mọi người vẫn thấy rõ cái cảm xúc còn dấy lên như một cơn
lốc, từ những tiếng vỗ tay không muốn ngừng nơi đám đông người ở một thế hệ quá
trẻ.
Thành phố này đã yêu anh - quá khứ, và tiếp tục yêu
anh - hiện tại. Đó là món quà lớn cho một đời người làm nghệ thuật. Sống mà
không ai quên được mình thật là khó. Anh đã làm được chuyện ấy thật không dễ
gì.
Mọi điều xấu tốt rồi sẽ qua đi, không ai để lòng nhớ
mãi những câu chuyện đời. Nhưng tôi biết rằng, và cũng tin rằng, ở nơi đây,
trên mặt đất quê hương này, khi nhiều năm nữa, sẽ qua đi, thì những Thiên
thai, Suối mơ, Sông Lô. . . cũng vẫn mãi mãi còn vang vọng trong những trái tim
yếu mềm vì một thứ nghệ thuật chỉ dành riêng cho những con người đích thực.
Hai mươi không phải là quá trẻ và bảy mươi chưa phải
là đã già. Sự già trẻ trong nghệ thuật là ở trái tim còn biết rung động và nồng
nàn với cuộc sống. Trí tuệ cũng muốn nói một điều tương tự.
Anh Văn Cao đã từng cùng bằng hữu của anh đi qua cuộc
đời này và chắc anh không nghĩ khác rằng trái tim và trí tuệ chỉ là một. Trái
tim nuôi trí tuệ và trí tuệ nuôi lại trái tim.
Có bao nhiêu người sẽ còn nhớ lại những đêm Văn Cao
ở Sài Gòn? Nhớ bao lâu và sẽ nhớ đến bao giờ? Những đầu tóc phai màu và những đầu
tóc còn xanh. Có lẽ phải nói thật một điều, dù phũ phàng đến bao nhiêu, sẽ
không còn nhớ ai trong cuộc đời này cả. Người mất đi sẽ bị thiệt thòi. Cuộc sống
vẫn cứ êm đềm hoặc sinh động trôi đi. Những nụ cười. Áo đẹp. Vóc dáng. Xe cộ
ngược xuôi. Tình yêu. Hoa quả cây lá xanh tươi. Quá nhiều điều trong cuộc đời
không nhớ hết.
Dù sao vẫn còn sót lại trong lòng tôi một mơ ước là
tất cả chúng ta, đã cùng có mặt trước, sau trong cuộc đời, đối với những ai đã
mang đến những khúc hát, những bản tình ca, những lời rao truyền được hát lên
như bi ai hoặc hạnh ca, thì cũng nên có phút nhẹ lòng được nhớ lại và nghĩ đến.
Tôi nhớ anh Văn Cao như nhớ đến một người đồng
hương mà quê quán không còn vết tích. Tôi vẫn mong chờ ở anh Văn Cao một bản
tình ca sau cùng.
Văn Cao - Cuộc đời và tác phẩm
Trong Âm Nhạc, Văn Cao Sang Trọng Như Một Ông Hoàng
Mùa thu. Gõ cửa. Vào. Anh Văn Cao ngồi trước chiếc
bàn có tẩu thuốc lào và ly rượu, 8 giờ sáng.
Không bao giờ ra Hà Nội mà tôi không ghé anh Văn.
Anh Văn ngồi. Ngồi ở sạp gỗ cũ kỹ như đã ngồi hằng trăm năm. Ngồi tóc bạc phơ,
râu cũng bạc phơ. Chỗ ngồi đã mòn. Lưng dựa đã mòn. Ngồi như thế ích gì anh
Văn. Anh nói: "Lấy cái ly sạch cho Sơn đi bà". Buổi sáng mùa thu uống
rượu với anh Văn và nghĩ ngợi.
Có những con đường anh Văn đã đi.
Có những con đường tôi cũng đã qua.
Những con đường ấy có lúc gặp nhau, có lúc chia
lìa.
Trong âm nhạc, Văn Cao sang trọng như một ông
hoàng.
Trên cánh đồng ca khúc, tôi như một đứa bé ước mơ mặt
trời là con diều giấy thả chơi.
Âm nhạc của anh Văn là âm nhạc của thần tiên bay bổng.
Tôi la đà đi giữa cõi con người. Anh cứ bay và tôi cứ chìm khuất. Bay và chìm
trong thân phận riêng tư.
Quanh anh Văn là tranh. Là thơ. Là nhạc.
Vốn liếng cạnh tôi, nhỏ nhắn vô cùng, cũng là
tranh, là thơ, là nhạc.
Anh và tôi đi trên cùng một con đường. Nhưng anh là
anh và tôi vẫn là tôi. Cái lớn vô cùng và cái nhỏ cũng vô cùng. Thế mà vẫn gặp.
Sự gặp gỡ bình sinh không biết hết. Sự gặp gỡ muộn màng giờ đây tôi muốn hát
cho anh nghe.
Khúc hát trễ tràng, giấu kín những điều thầm lặng.
Thật đấy.
Tôi hát anh và tôi hát tôi.
Anh đi qua cuộc đời và hát.
Tôi cũng đi qua cuộc đời và hát.
Hát cho người và hát cho mình. Thế thì anh muốn gì
hỡi hoàng tử bé -petit-prince-râu tóc bạc phơ?
Đời sống gọn gàng, bé nhỏ. Đôi khi (?) rộng lớn vô
cùng.
Anh bé nhỏ và anh rộng lớn.
Văn Cao. Văn Cao.
Thân anh gầy yếu không dựng nổi một mùa. Nhưng tôi
nghe trong âm nhạc anh gió vẫn chuyển và cây thay lá.
Anh sống và anh cười thầm lặng. Cái chua xót ẩn kín
đằng sau những nếp nhăn.
Anh biết và anh biết hết.
Nhưng anh cũng khờ khạo như trẻ thơ.
Anh ngủ yên nhưng anh tỉnh thức. Thi ca và triết học
trên hai bàn tay anh như nâng đỡ cuộc đời.
Sống chết là số phận con người. Anh đâu cần biết.
Anh đã từng nhiều năm nặng nợ với âm nhạc, thi ca, hội hoạ. Điều ấy có thật
nhưng nhiều khi tôi vẫn băn khoăn tự hỏi: Anh là ai mà lưu lạc giữa chốn Thiên
Thai này?.
Văn Cao - Cuộc đời và tác phẩm.
Sưu tầm và biên soạn:
Nguyễn Trọng Tạo
Nguyễn Thụy Kha - Đoàn Tử Hiến
Nguyễn Thụy Kha - Đoàn Tử Hiến
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét