1. Hiện đại, “hôm nay”
Bài viết này hướng đến tương
lai và viễn tượng, trong lãnh vực văn học và thiển nghĩ từ nền tảng, một số đặc
tính của của văn chương vẫn chưa thực sự được các nhà văn thơ Việt Nam khai
thác, áp dụng. Mặt khác, những gì vừa xảy ra (và tiếp tục) ở vùng Biển Đông
cùng Trung Đông khiến bàn về văn học nếu muốn không 'viễn mơ' thì không thể
không nói đến thời sự và bối cảnh chính trị, lịch sử. Ở đây chúng tôi bàn về viễn
tượng văn chương hơn là tương lai văn-học!
Trước hết, hãy nói về tính
hiện đại - theo nghĩa 'hôm nay', là đặc điểm cần có cho sinh hoạt văn-chương
cũng như cho mọi canh tân: hiện đại về đề tài, về thể loại hình thức, về nội
dung và một số nguyên lý (cứu cánh) của chính nền văn-học.
Người đọc văn chương hiện
nay thường gặp những đề tài về đời sống mới, hội nhập hay ghetto, tâm
lý, đổ vỡ và hậu quả chiến tranh dù cuộc chiến đã tàn từ hơn ba thập niên trước.
Di chứng của chiến tranh đi vào trong văn-học như là một trong những vấn đề lớn
của hôm nay. Một đề tài thường gặp khác là tình yêu (thường là của
ngày xưa nay nhớ lại) và tâm linh. Tâm linh là một trong những đề tài hiện-đại
nhất. Lý do đầu tiên ai cũng biết đó là thế giới càng tiến bộ về vật chất và kỹ
thuật thì càng để lộ khiếm khuyết về tâm linh; con người càng văn minh và đầy đủ
vật chất thì càng có nhu cầu về tâm linh, và nhu cầu này phát xuất ở nhiều lứa
tuổi. Thứ nữa, với cộng đồng Việt-Nam hải-ngoại sau hơn 34 năm chúng ta đã đi từ
cái tuổi thiếu niên đến trưỡng thành và đang lão hóa, lão hóa đồng hành với
nhu cầu tâm linh càng lớn mạnh. Trong một số tác-phẩm, đời sống tâm linh được
chú tâm hơn và một cái nhìn khác về đời sống ở đất người, rồi đến kêu thương, cứu
rỗi. Nhu cầu tìm cứu rỗi vì tâm linh bị động, vì con người đang bị nhiều chứng
nan-y làm mục nát thế xác cũng như tinh thần. Chúng ta có thể nói đến một truyền
thống văn-học tâm linh, với những tác-phẩm (đề tài, bối cảnh) và nghệ thuật của
một số tác-giả. Có những tác-phẩm bắt nguồn cảm hứng từ tín lý cac tôn giáo cả
một số tác-giả trong nước gần đây (Nguyễn Viện, Nguyễn Đình Chính, Tạ Duy Anh,
Đỗ Minh Tuấn, v.v.), như kiếm tìm về một nguồn tâm linh, tư tưởng có thể đáp ứng
được nhu cầu tinh thần và cảm xúc, mà chủ nghĩa ống loa tuyên truyền và đời sống
bưng bít sự thật đã đưa đẩy con người vào ngõ bí. Nếu căn bản đạo đức (ethic) của
văn-chương là nhắm đưa đến cứu rỗi; thì tôn giáo cũng đưa đến cứu rỗi; nhưng mỗi
bên có những khác biệt đặc thù. Nhà văn Nga Dostoievski từng viết trong truyện Thằng
Khờ (L'Idiot) "cái Đẹp sẽ cứu rỗi nhân loại / la beauté sauvera le
monde", một câu nói được xem như lời sấm và được các nhà lý luận nghệ thuật
sử dụng lại. Câu nói của Dostoievski như muốn xác quyết cái mối liên hệ thiết yếu
cần có giữa cái Đẹp mỹ thuật, âm nhạc, văn-chương v.v. với tìm kiếm tâm linh và
không gì khác sẽ cứu con người. Như vậy phải sống và tin trước khi làm một cái
gì, như sáng tạo văn thơ, để cho tha nhân đọc được, thấy được, hiểu được, cái
"Đẹp bên trong" nơi nhà văn thơ, khiến cây bút đó trở thành chứng
nhân sống động. Một nhà văn người Nga khác, Alexandre Soljenitsyne, nạn nhân chế
độ toàn trị, giải Nobel Văn-chương năm 1970, một tiếng nói lương tâm sáng giá của
thời hiện đại, ông vừa mới mất năm 2008, đã phải rời bỏ quê hương để sống lưu
vong và để được tự do sáng tác, đã nhiều lần lên tiếng chống lại nghệ thuật trừu
tượng, vì theo ông, nghệ thuật phải là một đảm bảo hoàn toàn thật sự khả tín về
sự thật và cho phép lương tâm chúng ta tỉnh thức một cách cụ thể và khách quan
trước những gian dối có hệ thống của nền văn hóa vật chất và lợi nhuận. Nếu
không có cuộc sống tâm thức này, cái hèn hạ sẽ tiếp tục con đường của nó trong
ý thức chúng ta. Cả hai nhà văn người Nga tuy sống vào hai thời điểm khác nhau
nhưng có cùng nhận thức từ kinh nghiệm sống về văn-nghệ và mỹ thuật: một lời
chân lý còn nặng hơn cả thế gian cộng lại!
Hiện-đại về đề tài còn là những
vấn đề của hôm nay, những đổi thay hoàn cầu ảnh hưởng đến con người: môi
trường ô nhiễm, tai họa thiên nhiên, tham vọng con người khiến sự hiện hữu, tồn
tại của nhân sinh bị đe dọa. Làm thân lưu vong hay tị nạn hay vì lý
do gì khác, thì thân phận đã hoàn toàn xa lạ, xa lạ với người bản xứ,
nhưng đồng thời chính mình bị cái khác, cái của người lôi cuốn, bắt phải nhìn,
học hỏi và tiếp nhận làm của mình. Tình cảnh căn cước nhà văn di trú, lưu vong
hình thành từ phản ứng lại những nhóm và thành phần khác của xã hội, như
Jean-Paul Sartre khi nghiên cứu về căn cước (identité) người Do thái đã nói rằng
tình cảm chung nhóm hình thành từ cái nhìn của người khác (1).
Với nhà văn ở hải-ngoại, cảm
hứng nảy sinh từ việc đào sâu những vấn đề, khía cạnh của cuộc sống ở xứ
người, như nơi tạm dung hay một quê hương mới, sống bên lề hay nhập dòng chính,
sống thân phận di trú, thiểu số trong một ghetto hay như một công dân toàn diện.
Những suy nghĩ về quê hương mới, về không gian mới mở ra, cái không gian đó rộng
hẹp ra sao, có gì đặc sắc, làm phong phú thêm hay gây vấn đề cho người Việt-Nam,
cụ thể ở Boston đây hay Paris, Little Saigon, Sydney, Montréal, Rome, v.v.; hay
rộng lớn hơn của 'thế giới' Việt-Nam hải-ngoại, như một 'cõi nhân sinh'!
Nhân vật dĩ nhiên sẽ đa
dạng hơn, có người Việt thuần và có người vẫn da vàng nhưng đã hội nhập từ thân
xác đến tư tưởng, nếp sống; có người Việt bảo thủ và người Việt khai phóng; và
có những nhân vật người bản xứ, với họ và qua họ mà tác-giả có thể cụ thể hóa
thành con chữ những gì muốn nói và trình bày, cho tha nhân người Việt và người
bản xứ nếu tác-phẩm viết bằng ngôn ngữ bản xứ (Anh, Pháp, Đức, v.v.). Đây là hiện-đại
và hoàn cầu hóa về ngôn ngữ sử dụng, một khía cạnh khác của văn hóa Việt-Nam
hôm nay! Đã có những tác-phẩm của người Việt sống ở ngoài nước đi vào con đường
này, nhưng trở nên trội bật và có giá trị văn-chương hãy còn rất ít! Trong những
ngày đấu năm 2010, một nhà văn Pháp-thoại ở Québec, Kim Thúy được xem như là khám
phá mới với tác phẩm đầu tay Ru. Mới vì từ hoàn cảnh bi thương và nếp
sống hội nhập không lựa chọn đã có những cái nhìn và cảm xúc rất văn chương và
rất khác, rất lạ lẫm/ exotique với thế giới tiểu thuyết Pháp và Québec!
Về thể loại, hiện-đại
theo nghĩa "hôm nay" chứ không phải là chủ nghĩa hiện-đại (rồi hậu hiện-đại)
dù rằng cụm từ "hôm nay" hàm chứa tính hiện-đại, nhưng "hôm
nay" còn thêm nghĩa hoàn cầu hóa, "đổi mới", "cập nhật"
và "hội nhập" để theo kịp thời đại và tâm thức người đọc hôm nay. Đổi
mới, làm mới văn học nghệ thuật, dĩ nhiên là những định luật thiết yếu đế hướng
về phía trước. Chúng ta thường nghe nói nhiều những trường-phái tư tưởng và
văn-học Hậu hiện-đại, Hậu thực dân, Tân Hình thức, Tân Tự-do, Nữ quyền, v.v.;
tất cả theo thiển nghĩ là những phương tiện tốt cho công việc làm văn-học nghệ
thuật, đã và sẽ có những công trình tuyệt vời về nghệ thuật. Nhưng không phải
cái gì mới cũng hay và thời gian là vị giám khảo công bằng nhất. Nếu theo dõi
các sinh hoạt văn-nghệ Việt-Nam chúng ta đã thấy những bài thơ văn phát sinh từ
những kỹ thuật điện toán, đa phương tiện hay làm dáng đến kỳ quái, dung tục, cả
vô văn hóa và mất cả nhân-bản. Có thể nêu ra những thể loại bị lạm dụng: thơ,
tiểu thuyết lịch sử, hồi ký, v.v., hoặc nói khác đi, người làm văn nghệ là kẻ
đã sử dụng cho mục đích ngoài văn chương – song song với những hiện tượng như
báo chí thông tin biến thành flyer quảng cáo! Mặt khác, các blog tản
văn tản mạn, viết nhanh, biến giai thoại (anecdote), tin đồn thành ‘biến cố’,
‘dữ kiện lịch sử’ văn học’, các ‘bút ký’ kiểu cắt/dán, ‘trích’ rồi ‘ngưng
trích’, chiều theo thị hiếu và nếu không thì cũng khiến cho thị hiếu đọc, viết
và biên khảo dễ dãi, mất giá trị khách quan và thì giờ mọi người. Có thể nói
văn-chương nghệ thuật là tặng vật mà người văn nghệ sĩ đem đến cho người thưởng
ngoạn, cho cuộc đời. Nhưng có người chỉ chú ý đến nội dung và tư tưởng, có người
lại chỉ trau chuốt hình thức và dễ chạy theo trào lưu nhất thời.
Tính hiện-đại cũng được hiểu
là rời bỏ, là đối chọi với truyền thống, cổ điển, nhưng cái Đẹp thường là phổ
quát, như một giá trị 'bền vững'. Lấy thí dụ nghệ thuật khỏa thân không phải thời
nay mới có. Cái khác nhau, đó là thời nay khỏa thân tràn lan khắp nơi và đủ thể
cách, cả dung-tục, sát mặt đất trong khi ngày xưa thì nhắm đến cái Mỹ toàn thiện.
Lầm lẫn phương tiện với mục đích, đó là lý do đã gây nên biết bao chiến tranh,
đổ vỡ xã hội và thất bại, bị xóa bỏ trong văn-chương nghệ thuật. Không phải hễ
cứ nói hiện đại hoá là tức khắc có sự nghiệp hiện đại hoá; ở mỗi tác-giả mỗi kết
quả, thành tựu khác, đích thực có mà như trò hề cũng có. Hiện đại hóa phải mang
nội dung văn hoá , chứ không là hiện đại hoá đa tạp, giả tạo.
Về nội dung, văn-học hiện-đại
cần đến luân lý và ý thức, it ra của thời đại mình. Mọi canh tân đều cần đến
luân lý làm người và là người có tâm thức, có hồn. Thời Tự Lực văn đoàn đầu thế
kỷ XX các nhà làm văn-nghệ đã chủ trương và họ đã làm mới văn-học nhưng luôn có
một luân lý tiềm ẩn đằng sau, dù theo khuynh hướng hiện thực hay lãng mạn. Luân
lý bắt đầu đổ vỡ vào thời Sáng Tạo những năm cuối thập niên 1950 ở miền Nam đã
chủ trương phá bỏ văn học tiền chiến, theo siêu thực, tự do. Rồi khoảng hai thập
niên gần đây, nhiều nhà văn trong và ngoài nước còn đi xa hơn, khai thác những
bản năng xác thịt và tư tưởng, tâm hồn hoang đàng, lệch lạc. Làm như càng ngày
con người càng rời xa nhân bản, có thể vì theo thời, ham vui, hoặc thiếu đức
tin làm nền tảng. Thiển nghĩ, con chữ và nghệ thuật đã bị lạm dụng!
Rồi đến những va chạm giữa mới
và cũ, giữa những kẻ (và tổ chức) vẫn canh gác đồn bót của những cái gọi là
'thành tựu của chủ nghĩa', là 'vô địch chiến thắng', và những kẻ đã chán ngấy
luận điệu của đạo đức giả, gian lận bên kia và thành trì chống đến cùng của bên
này. Lúc nào thì cũng có những ầm ỹ về chính trị đằng sau quan điểm và ý
thức văn nghệ của một số trí thức và văn nghệ sĩ, cả những tiếng cho
rằng là chỉ có văn hóa dân tộc mới đáng chú trọng, đề cao. Qua tác
phẩm, nhà văn tìm kiếm những chất liệu mới từ văn hóa truyền thống, nhưng đồng
thời phải biết tránh để truyền thống chế ngự không lối thoát. Sống và viết ở hải
ngoại, nhà văn không thể không mở rộng tầm nhìn ra thế giới ngay bên
cạnh mình và cả và thế giới. Nhà văn hải ngoại có thể tìm thấy nguồn gốc văn
hóa ở bất cứ nơi nào họ sống, và cũng có thể mang văn hóa truyền thống đến nơi
sinh sống mới của họ - như nhà văn miền Bắc đã tìm thấy dân tộc và môi trường
văn hóa ở bên này vỹ tuyến 17 sau khi đất nước qua-phân năm 1954, và đã làm
giàu văn hóa miền Nam. Đây là cách tốt nhất để kết hợp truyền thống với môi trường
bản xứ đất nước mới hoặc ngoài đất nước gốc, và từ đó có thể gặt hái được thành
công hơn ở hải ngoại. Đã có thời nhà văn phải chết hoặc bị cấm viết vì những phạm
húy và đụng chạm này. Miền Nam đi trước trên đường tự do làm nghệ thuật,
miền Bắc và cả nước chập chững từ sau 1987 và đi xa hơn nữa gần đây, với sự xuất
hiện của những tiếng nói thức giả, nổi loạn, độc lập hơn. Người nghệ sĩ thơ văn
chủ trì tự do sáng tạo luôn bị những thế lực bên ngoài làm cho chùn bước. Mặt
khác, muốn có tự-do, kể cả tự do sáng tạo, là phải phân biệt rõ Thiện và ác, và
được hay thua đều ảnh hưởng đến vận mạng con người và tự do. Sáng tác nghệ thuật
là diển tả một cái gì, một sự việc hay tâm tư một người, là kể lại một chuyện
gì, ... nhưng hành vi sáng tạo đó nên được chủ định, hướng dẫn bởi Chân Thiện Mỹ.
Nếu "sáng tạo" để cổ võ hay duy trì cái Ác, cái xấu, gian dối, ngu
si, v.v. thì con người sẽ đánh mất giá trị sáng tạo và nhân bản, trở thành
phương tiện nhất thời, và của sự Ác! Các nhà văn Tiền phong có thể mang nỗi ám ảnh
về Tồn tại, về một thế giới "bất an" và "lo âu".
Kỹ thuật là bận tâm của
các tác-giả và nghệ sĩ, vì người đọc và người thưởng ngoạn nghệ thuật chỉ muốn
thưởng thức cái được sáng tạo ra hoặc được viết ra! Như vậy, ngôn-ngữ và kỹ thuật
văn-chương trở nên quan trọng, là cái riêng của mỗi tác giả, trong cách kể,
cách viết, trong không khí mà tác phẩm tạo nên được! Sức mạnh của bài thơ, bài
văn hay tác-phẩm nghệ thuật là ở ý tưởng, mục đích, ở hình ảnh và ở nội dung, sứ
điệp được chuyên chở hay nhắm tới. Một tác phẩm thành công theo thiển ý là khi
có thể giúp người thưởng ngoạn hiểu biết, yêu mến và thực thi được những lý tưởng
Chân Thiện Mỹ trong cuộc đời. Nhưng trước khi viết hay sáng tác, văn nghệ sĩ
nên biết mình là ai, việc đó tùy thuộc vào việc nhận diện thực-thể, nội dung nền
tảng là cái luôn hiện đại hóa, cập nhật hóa. Cơ cấu xã hội, văn hóa luôn sinh
hóa, tiến tới phía trước để sống còn, trường tồn, vượt qua được những bế tắc và
vấn đề trực diện. Nhà làm văn-nghệ cũng không thoát ra được vòng vây hiện-đại
đó, nói như nhà lý luận văn-học Roland Barthes: "văn-học là chính cái tự
dạy, tự nhận chân" ("la littérature, c'est ce qui s'enseigne")
(2). Viết và làm nghệ thuật, là sống cuộc sống hiện thực, dù ở hải-ngoại hay
trong nước, hôm nay và sau này! Viết là một biểu hiện cụ thể cái sống sinh động,
biểu hiện của cuộc đi tìm ý nghĩa cho cuộc sống con người, cũng là cuộc tìm kiếm
Chân Thiện Mỹ - như một sứ mạng. Sống như một người Việt hiện đại, hôm nay và
như một người có văn hóa. Sống và truyền đạt lại cho đời những rung động, tình
càm, tư tưởng xuôi cùng chiều với chân lý của đời sống hoặc đáp ứng, phản hồi lại
thực tại và con người: có thể kết luận đó chính là sứ mệnh của nhà văn Việt-Nam
hiện nay!
2- Ảnh hưởng và ngoại thuộc
Văn-chương dù mang những giá
trị tự tại, nhưng nay mà nói rằng giá trị đó bất biến, vĩnh cữu, thì thiển nghĩ
đó là một ý tưởng lỗi thời và lạc lõng. Văn-chương như bông hoa, tới mùa thì nở
thắm, tỏa hương, nhưng muốn được vậy, cần có phân bón và bàn tay chăm sóc.
Văn-học chữ quốc-ngữ Việt-Nam ta đã bắt đầu với những tiếp xúc văn hóa Tây
phương qua thể-loại, kỹ thuật và bút pháp. Những tiếp xúc đó đã ảnh-hưởng trong
đường hướng và kỹ thuật sáng tác của nhà văn; nhưng cũng từ đó, văn hóa và ảnh
hưởng đã biến thành văn-học trở nên công cụ cho những chủ nghĩa văn-hóa thực-dân,
rồi hậu thực-dân và hậu ngoại-thuộc.
Từ Nguyễn Trọng Quản, Hồ Biểu-Chánh
đến các thế hệ nhà văn hôm nay luôn có những dằng co giữa nhu cầu hiện-đại hóa
và ý thức dân tộc, giữa đặc tính Việt và 'của người' có tính phổ quát, toàn cầu
và tính hiện-đại liên hệ mật thiết ít nhiều với văn-hóa thực-dân. Cái chính là
văn-hóa tức là những gì còn lại sau khi quên hết, sau khi đã hấp thụ, tiếp nhận,
nhưng là một văn-hóa có ý thức vì nô lệ văn-hóa là chuyện thường thấy với những
tâm thức thuộc-địa, tùng phục 'mẫu quốc'.
Từ những năm 1920 đến 1945
là thời mà văn-học Việt-Nam đã tỏ rõ chịu ảnh hưởng mạnh của văn-học Pháp nhất
là ở miền Bắc, tiếp theo là thời nhà văn Việt-Nam phản ứng lại ảnh hưởng của
văn-học Pháp, xã hội rồi tinh thần quốc gia ở trong miền Nam. Các ảnh hưởng về
quan điểm sáng tác về thế giới quan, nhân sinh quan và các thẩm mỹ học cũng như
ảnh hưởng về các phương pháp sáng tác, thể loại, đề tài, chủ đề kết cấu, hình
tượng, ngôn ngữ nói chung đều đã được hiện-đại hóa theo thời đại. Hoàn cảnh văn
hóa, lịch sử và địa lý của lãnh thổ khiến người Việt-Nam tiếp xúc và đón nhận
nhiều ảnh hưởng khác nhau: bản xứ, Trung-Hoa, Âu Mỹ, cộng sản, Nga Xô,... Văn-học
Việt-Nam hôm nay chóa ngợp trước những phong trào đến từ nhiều nước (nữ quyền,
hình thức, Tân hình thức, hậu hiện-đại, hậu cấu trúc,...), có cái mới, có cái
cũ người mới ta, và đang bị những ảnh-hưởng ngoại lai thử thách, chi phối.
Dòng văn học hải ngoại dĩ
nhiên thuộc văn học Việt Nam và người Việt viết tiếng gì thì cũng là
của người Việt. Ngôn ngữ chỉ là một phương tiện, trong văn chương người ta đi
tìm cái đẹp và cái tâm của người viết, cái chân dung và tâm tình của con người.
Cho đến thập niên 1970, 1980, các nhà văn học sử thường có quan niệm văn học nước
nào phải viết tiếng nói nước đó, đó là lý do khiến các nhà văn Việt Nam viết tiếng
Pháp như Phạm Duy Khiêm (Nam et Sylvie 1957,...), Phạm Văn Ký
(Fleur de jade 1943, Frères de sang 1947,...), ... bị các nhà văn học sử Việt
Nam không nói tới và họ được các nhà văn học sử Pháp xem là nhà văn ở các nước
thuộc địa hoặc nước Pháp hải ngoại (outre-mer). Vả lại, đối với người đọc Pháp,
họ là những tác giả của-lạ (exotique)! Muốn hiểu Phạm Quỳnh, Nguyễn Tiến Lãng
(Chemins de la révolte 1953, ...), Lê Hữu Khoa (Prison, corps, exil, animalite
1990), Vi Huyền Đắc, Võ Long Tê, Lý Thu Hồ (Printemps inachevé 1962,...), Đinh
Linh (Fake House 2000), Kim Lefèvre (Métisse blanche, 1989), Linda Lê (từ
Calomnies 1993 tới Aubes 2000),... không thể không đọc những nghị luận hoặc thơ
văn của họ viết bằng tiếng Pháp, Anh! Phải có cái nhìn đa văn hóa, khai phóng
như những chính sách văn hóa đa diện, đa văn hóa, khoảng một thập niên nay, nhiều
nước đã mở rộng đón những nhà văn nghệ gốc thiểu số với những tác phẩm bằng
ngôn ngữ gốc của họ. Chẳng hạn Canadiana được giới chức thẩm quyền văn hóa
Canada xem là gia tài văn hóa của Canada bao gồm những sáng tác và công trình
văn hóa bằng lưỡng ngữ Pháp-Anh chính thức của đất nước này, xuất bản ở trong
nước, mà còn bao gồm cả những tác phẩm do người Canada xuất bản ở ngoài nước
cũng như cả những tác phẩm bằng tiếng gốc do người Canadian gốc thiểu số xuất bản
tại Canada.
Người Việt chúng ta từ hơn một
phần tư thế kỷ nay vì hoàn cảnh đã sinh sống ở nhiều nước trên địa cầu và dần
dà các thế hệ sinh sau viết bằng ngôn ngữ của đất nước tạm dung hoặc mới kể từ
đây, có thể tự nhiên hơn, có thể không có lựa chọn khác. Do đó muốn hiểu biết
tâm tình con người Việt Nam không thể không tham khảo các tác phẩm viết bằng ngôn
ngữ ngoài Việt Nam này! Riêng người Việt, chúng ta chưa có dịp phát triển một
văn tự riêng, trước mượn chữ Hán, sau pha chế ra Nôm rồi quốc ngữ, nay vì hoàn
cảnh, người Việt ở đâu lại dùng tiếng nước đó mà sáng tác!
Nếu nhìn về tương lai, sau hội
nhập chính trị, xã hội sẽ đến hội nhập văn hóa và văn chương như không thể
tránh. Văn học Việt Nam sẽ phải bao gồm những tác phẩm bằng tiếng Pháp, Anh,
Na-Uy, Đức, Ý, Tây ban nha, v.v. vì qua đó người viết và người đọc sẽ tìm thấy
con người và tâm hồn Việt Nam, như chúng tôi đã nói đến ở phần cuối chương tổng
quan cuốn Văn-Học Việt Nam Thế Kỷ XX: Một Số Hiện Tượng Và Thể Loại (2004).
Đây cũng là thiếu sót của chúng tôi trong tập sách này, đã chỉ có thể nói đến
văn học chữ quốc ngữ!
Thiển nghĩ nếu tác phẩm phản
ánh con người Việt Nam, nói lên tâm tình Việt, thì đó là tiểu thuyết Việt-Nam vậy!
Gia tài văn hóa lịch sử, cộng thêm những văn-hóa do cọ xát với ngoài, khác. Nói
khác đi, nội dung Việt và hình thức hiện-đại, học ở người! Và rồi cái gì tồn tại
với thời gian không thể không có căn bản dân tộc hoặc Việt Nam! Nếu trong truyện
cổ, huyền thoại, vai trò của cốt truyện, tính điển hình và mục đích luân lý hay
văn hóa là quan trọng, thì ở thế kỷ XX và sau đó, văn-học Việt-Nam khi hiện đại
hoá, đã đề cao vai trò của bút pháp, kỹ thuật và tác giả; nói chung là nâng cao
cá tính và tính độc đáo!
Văn-học Việt-Nam hiện đại
làm nên bởi những văn nghệ sĩ có tâm hồn dân tộc; nhiều người nhận chịu ảnh hưởng
các khuynh hướng ở Âu Mỹ, có người thì không. Nhưng qua quá trình lịch sử cộng
với nhiều biến động, cũng như sự kiện hiện diện của người Việt ở khắp năm châu,
khiến nền văn-học đó đã phải mở rộng cửa để vươn ra với nhân loại về ý tưởng,
tiếp xúc - tức là với thời gian thì những cái gọi là bản sắc dân tộc hết còn có
thể thu hẹp, co mình mà phải đa chiều và đa-dạng ra. Lúc đầu, tiểu thuyết hiện-đại
có sứ mạng văn-chương và mục đích cho tập thể, có lúc tiểu thuyết trở thành một
hiện tượng xã hội, lúc khác có tính thời sự, đấu tranh, và nói đến tiểu-thuyết
tức là đồng thời không thể không bàn đến yếu tố giải trí, thẩm mỹ, từ đó nảy nở
tính "văn-chương" là một phạm trù văn-học quan trọng chưa thể khai
thác hết trong bài này.
3- Chuyện làm mới văn chương
Cách tân văn học không dễ vì
trước hết phải rời bỏ chỗ cư trú an toàn như Nguyên Sa thời thập niên 1960 đã
quay trở lại phê phán và từ khước (một số) những cách tân của văn-học 'hôm nay'
của Sáng Tạo ngay trước đó (Ông có thành công hay không lại là một chuyện
khác). Mặt khác, nhà thơ văn nước ta dễ bị óc thiển cận địa lý chi phối: hễ người
cùng địa phương đều nhất hết, thiên hạ những nơi khác không ra gì; thành thử đọc
những bài viết về tác-giả và tác-phẩm của những người cùng địa phương, người đọc
phải đề cao cảnh giác (họ khen nhau cũng là tự khen)! Từ mâm chiếu địa phương
đi đến quan liêu văn hóa và hội viên đồng hội 'chính thức' (lẵng lặng mà nghe
'chúng' khen nhau)! Phe nhóm ghetto văn nghệ hay phân chia biên giới quốc-gia -
cộng-sản cũng là làm văn nghệ kiểu 'ghetto', một cộng đồng khép kín, vẫn tinh
thần làng xã ngày xưa thời trạng Quỳnh được nối dài! Muốn cách tân cuối cùng
còn có nghĩa là phải vượt qua sự có mặt thường trực và trội bật của những bóng
ma và cái chết của lịch sử văn-học (hể nói đến thơ là những Xuân Diệu, Nguyên
Sa, v.v. cứ phải xuất hiện chận tầm nhìn, văn thì phải như ông A bà B, v.v. Rồi
nào những 'gánh nặng' lịch sử, văn hóa, ... Muốn làm mới, phải ra khỏi những
vũng lầy đó!
Thường thì nhà văn viết vì
nhu cầu ... viết, mấy người nghĩ đến sứ mạng văn nghệ. Rốt cùng thì ngay lịch-sử
cũng là sản phẩm của tưởng tượng, của những 'mode' tưởng tượng, của những cách
cắt nghĩa, viết lại, và thường được nhìn với cặp kính màu. Do đó
văn-chương cần liên tục cách tân vì chính lịch-sử vẫn luôn được viết lại, nghĩ
lại. Không những nền kinh tế toàn cầu ngày càng bị ảo hóa, hay ma-đầu hóa (khủng
hoảng kinh tế tài chánh của Hoa-Kỳ từ 2008!) mà văn-chương cũng ra
"ma", nếu không là văn-chương của cái chết. Văn-chương chết vì ngoài
những ám ảnh, vũng lầy nói trên, còn là vì văn hóa chết, tinh thần chết, nhường
chỗ cho vật chất và tính toán, tham vọng của con người. Mà văn-chương chết sẽ
đưa đến kiệt quệ tinh thần!
Vậy thì văn-chương có còn là
thứ cần thiết không và cần thiết cho ai? Văn-chương có giá trị hay có thể hiện
hữu tự tại không? Nhìn thị trường chữ nghĩa gần đây, nhiều người thấy
văn-chương đã tự thu hẹp lại, chỉ còn là lịch-sử, là hồi ký, là đời tư, là tự
thú cá nhân nếu không là văn nghệ kiểu karaoke và báo chợ: hồi ký, bút ký, du
ký và những sản phẩm tầm phào đã giết sáng tạo và thưởng thức văn-chương. Ngay
các ấn phẩm của Dương Thu Hương, Bảo Ninh, Nguyễn Huy Thiệp, v.v. nếu có được dịch
ra tiếng nước ngoài thực ra cũng chỉ là để thỏa mãn tính tò mò (voyeurisme)
chinh trị mà không là thuần túy văn-chương. Thiển nghĩa nếu văn chương được
quan niệm như là ý thức về hiện hữu và tồn tại, thì vấn đề bớt nặng nề.
Văn-chương là mặt nổi của thực hữu, viết ra được tức cũng tỏ ra có được sức mạnh
và có hành động, ra tay vì dù là sản phẩm tinh thần nhưng không thể tách nó ra
khỏi đời sống thực hữu.
Ai cũng biết trong
văn-chương, kỹ thuật, ngôn-ngữ khá quan trọng, bên cạnh nội dung, làm nên
văn-chương. Ngôn ngữ thoát khỏi quy ước và tinh thần để tự do, canh tân, thì sẽ
đạt đến một phạm trù khác của tư tưởng. Thi ca có là văn-chương hay không là ở
ngôn-ngữ, thi tứ, kỹ thuật; phải tạo ra biến cố ngôn từ trong tâm trí người đọc.
Về phần tiểu-thuyết, người viết đến với thể loại tưởng là dễ này còn phải nắm vững
kỹ thuật kết cấu và điều quan trọng là tác-giả còn cần có giọng văn riêng, có
phong cách diễn ngôn đặc thù. Có người viết theo lối viết tiểu thuyết của Mỹ,
Pháp, la-tinh hay đề cao kỹ thuật nay có vẻ cần thiết hơn nội dung của tiểu
thuyết, v.v. Có người dùng một câu chuyện để ngụ ý, nhắn nhủ hoặc bất kể người
đồng thời vì nhắm viết cho con người thời sau hay ở một không gian khác, v.v.
Người viết và người đọc có
thể là đôi bạn song hành (và cả đi ngược chiều), nhưng người viết có vai trò bước
những bước khởi đầu. Có thể mỗi nhà văn có một số độc giả riêng của mình. Họ
thường cùng đi chung với nhau trên từng chặng đường, có khi thích thú gặp gỡ
nhau vì một tình tiết, một lời nói. Trong đủ đề tài từ chiến tranh, cách mạng,
xã hội, lịch sử, đến những thay đổi của con người và tập thể. Làm văn học mạng,
cởi bỏ cấm kỵ về giới tính, tính dục, v.v. nhưng thái quá thì lại trở nên nhàm
chán, dễ bị người đọc quay lưng, quên lãng, và cả phủ nhận. Có người viết không
cần tồn tại xa xôi, họ chỉ cần có mặt trong 'văn bút' hay một danh sách nào đó.
Những người này không cần tính văn học mà chỉ cần 'tác-phẩm' trở thành hàng hóa
bán chạy, ra mắt, có mặt. Thị trường sách ngày càng thu hẹp; nhiều người xưa mê
đọc sách bao nhiêu thì ngày nay họ sợ sách bấy nhiêu. Người khác nghĩ mình có
tâm huyết và hoài bão bảo tồn văn hóa dân tộc hay gìn giữ tiếng Việt nơi xứ người;
thứ bảo tồn vẫn là chiến thuật của quan văn trong nước khi phê bình nhà văn nghệ
nào rời lề! Dù nhà văn nay hết mong kiếm tiền lấy vồn bằng cách bán sách, nhưng
nếu can đảm làm mới hoặc văn-chương được chăm sóc thì đây là cuộc thám hiểm
trong vùng giá trị và chứng tỏ sức mạnh của văn bản: văn chương phải lay động đến
nền tảng những lịch sử, văn hoá và tâm thức của người đọc. Trong những đặc điểm
của công việc hiện đại hoá có yếu tố quan trọng là tiến trình đó không mang
tính chất tĩnh, không là thành tựu do đó cần có sự liên tục - cũng là đặc tính
của văn hoá. Văn hoá mang ý nghĩa vun trồng, trong nỗ lực, trong việc làm chớ
không nằm trong lời nói suông.
Văn học Việt Nam hải
ngoại đã được kiến dựng với một lịch-sử và nhiều thành quả và được đón nhận kể
cả người trong nước. Dù hơi bi quan nhưng thiển nghĩ dòng văn học Việt Nam ở
ngoài nước nếu đã là những tác phẩm sáng tạo đích thực sẽ nhập dòng chung lịch
sử văn học, sẽ đóng góp và trở thành văn-học của một Việt-Nam tương lai. Con
người làm nên lịch sử văn học, không biên giới trong ngoài và Internet không
gian ảo nhưng là phương tiện thông tin thực hữu. Không sợ mạng giết sách in,
chi sợ không còn ai đọc văn-chương, in ấn cũng như mạng. Internet là phương tiện,
nhưng đồng thời đã tầm thường hóa văn-chương, cơ hội trẻ trung hóa nhưng thường
dừng ở bề nổi, thử nghiệm, thiếu chiều sâu. Các tác phẩm có giá trị nghệ thuật
vẫn hiếm hoi. Văn-chương không còn biên giới, những hình thức làm và phổ-biến
tác-phẩm mới, độc giả mới và phương tiện đến với dộc giả cũng mới. Và còn phải mở
ra với thế-giới, nội dung, tư tưởng cũng như văn bản văn chương!
Sống như một người Việt hiện
đại, hôm nay và như một người có văn hóa. Sống và truyền đạt lại cho đời những
rung động, tình càm, tư tưởng xuôi cùng chiều với chân lý của đời sống hoặc đáp
ứng, phản hồi lại thực tại và con người: có thể kết luận đó chính là sứ mệnh của
nhà văn Việt-Nam hiện nay!
Nói đến hôm nay hay tương
lai của văn học hải ngoại, thiển nghĩ có thể nêu lên những trở ngại và khó khăn
sau, trong số có những cái ngày càng trầm trọng:
- Trong-ngoài, trong-trong,
ngoài-ngoài phủ nhận nhau: ở ngoài không bàn đến trong, nếu có thì nhắm đề
cao đối kháng hay tản mạn về những trò kiểm duyệt cho in hay phát giải thưởng
xong rồi quay ra ... cấm, cho giải rồi yêu cầu rút lại hay đe dọa, ở trong xem
như pha cộng đồng văn nghệ của người Việt hải ngoại, nhưng chụp giựt nhân tài,
‘ngôi sao’ của ngoài, nhận vơ hoặc mua chuộc!
- Hiện tượng phe phái,
áo thụng vái nhau và tinh thần địa phương hãy còn đậm đà gây hiểm
nghèo và thui chột cho văn nghệ chung.
- Văn học ngoài (cũng
như trong) đều hãy còn nhiều đồn bót canh gác và có kẻ lợi dụng việc
canh gác để thao túng, phá phách những công trình (và nhân sự) văn nghệ chân
chính.
- Chính trị hóa văn học đưa
đến suy thoái vì chính trị là chuyện thời sự, phù du, trong khi văn học là
chuyện lâu dài. Tại sao không bỏ chính trị qua một bên để vinh
danh những bản sắc dân tộc và nhân bản là một cách chống cộng cao hơn, lâu dài
hơn? Tập Thơ đến từ đâu của Nguyễn Đức Tùng xuất bản trong nước năm
2009 rốt cùng cũng chỉ là một trái banh tung thử, một thứ thủ thuật chính trị của
con người và đi ngược giòng nước văn hóa của dân tộc luôn giải bỏ cái ‘ác’ và
tương thuận theo lẽ Trời, thiên nhiên và con người.
- Hiện nay văn đàn hải ngoại
thiếu những tạp chí văn học thuần túy cũng vì một số những lý do vừa nêu trên.
Những Văn Học, Hợp Lưu, Văn, Thế Kỷ 21, v.v. đã phục vụ xong
giai đoạn. Các tạp chí văn-chương khác đang có mặt thì hoặc để chứng tỏ một sự
hiện diện nào đó, hoặc thật sự sinh hoạt văn-chương hoặc nhắm phục vụ một mục
đích có thể ngoài văn-chương nghệ thuật.
Nói một cách cụ thể hơn thì
về nhân sự, nhà văn, thơ, nhà nghiên cứu, đã và đang lão hóa, mất cảm hứng, bớt
và mất tin tưởng vào công việc văn học nghệ thuật. Còn về xuất bản thì các ấn-phẩm
giảm số lượng và bị thu hẹp dần trên thị trường sách vở, đồng thời bị những thư
viện số hóa, ebooks, Internet tràn ngập, che lấp. Cạnh đó, nếp sống ở hải ngoại
khiến truyền thống văn hóa yêu sách vở không phát triển thuận tiện lại vừa phải
theo nếp sống và tuổi tác, việc dọn nhà, thu gọn, thay đổi chỗ ở (ra condo, nhà
già, v.v.). Về các sinh hoạt nói chuyện và ra mắt sách thì ngày càng giảm đi và
mất hết ý nghĩa cần có.
Như vậy, văn-chương hải ngoại
(và cả nước Việt Nam) 20, 40 năm nữa rồi sẽ ra sao? Tiểu-thuyết, thi ca
ngày mai sẽ thế nào? Sinh hoạt văn nghệ, văn hóa đi về đâu? Thiển nghĩ câu
trả lời đã nằm trong những công trình, tác-phẩm văn-chương của hôm nay. Nếu chỉ
có thể viết đi dùng lại những nhân vật và kỹ thuật làm nhàm chán người đọc thì
vô tình người làm văn học nghệ thuật làm hại cả văn-học vì làm mất độc giả đã
hiếm hoi (so với dân số) và người thưởng ngoạn nghệ thuật (nhưng nhà văn nhà
thơ cũng có thể ngưng viết, gác bút, để đất lại cho người khác hoặc chính mình
một thời gian sau trở lại với những công trình, tác-phẩm đúng nghĩa là sáng tạo,
là nghệ thuật, là văn-chương!). Tương lai văn-học sẽ/vẫn còn ngày nào nhà văn
xem văn-chương là sứ mệnh và thứ nữa, còn, ngày nào tinh túy Việt-Nam còn, còn
có cái gì Việt-Nam! Nếu không sẽ là văn-chương không quốc tịch vì đã hội nhập
hoặc bị đồng hóa!
Nhưng nghĩ cho cùng, văn
chương còn có ý nghĩa gì khi đất nước Việt Nam đang dần mất tự chủ, độc
lập và những sự phá hoại, hủy hoại, ‘từ chức’ ngày càng lan rộng?.
Chú thích:
1- Jean-Paul Sartre. Réflexions
sur la question juive (Paris, Gallimard, coll. Folio Essais, [1946],
1954), p. 88.
2- Roland
Barthes. "Réflexions sur un manuel", Le bruissement de la langue. Essais
critiques IV, Paris, Seuil, 1984, p. 49.
3/2010
Nguyễn Vy Khanh
Trả lờiXóaeva air ticket
giá vé máy bay đi mỹ khứ hồi
lịch bay của korean airlines
giá vé máy bay đi mỹ giá rẻ
vé máy bay đi canada giá bao nhiêu
Nhung Chuyen Di Cuoc Doi
Du Lich Tu Tuc
Kien Thuc Du Lich