Thời gian gần đây, trong khi
dịch chương cuối cuốn tuyện The Mother-of-Pearl Men của tác giả Mark
Frankland [1], tôi cần tra cứu
thêm về tiếng hát ca sĩ Việt Nam trong thập niên 60 ở Sài Gòn, nên đã phát hiện
được vài điều tôi thiển nghĩ khá thú vị, xin thử ghi ra đây.
“Tiếng hát gọi nhạn trong
sương” (Phương Dung), “Tiếng hát dâng hiến tâm tình” (Thái Thanh), “Tiếng hát
khói hương chiều niệm” (Thanh Thúy), “Tiếng ca đầm thấm ý tình” (Ngọc Minh),
“Tiếng hát khát vọng không nguôi” (Carol Kim), “Tiếng ca đẹp man rợ” (Khánh
Ly), là những “niệm khúc” của Hồ Trường An viết về sáu tiếng hát, trong số 106
tiếng hát “nghệ sĩ thời danh” do ông ghi nhận [2]. Những hình ảnh
“thơ mộng” đã được tận dụng, nếu không muốn nói lạm dụng, để tấn phong trong buổi
lễ đăng quang. Những vòng vương miện có ghi từng khẩu hiệu riêng, đã được mang
ra đặt trên đầu các danh ca. Chúng khiến tôi bối rối, vì tôi nghĩ mình là một
thính giả điếc. Sự hoang mang càng tăng khi các ca sĩ hát cùng một bản nhạc.
Thúy Nga được trao “Tiếng
hát mang nắng hạ trở về”. Julie Quang được tặng “Tiếng hát lồng bóng đền Taj
Mahal”. Do vậy, khi nghe lại băng nhạc của hai ca sĩ này hát “Mùa thu Ðông
Kinh”, tôi chẳng còn biết nó là mùa gì nữa, thu hay hè, mùa chết hay mùa sống?
Nhưng tại sao tiếng hát của cô ca sĩ có cái tên nửa Pháp nửa Việt mang trong
người hai dòng máu Việt Ấn phải đến từ một ngôi mộ – dẫu là cái lăng tẩm cẩm thạch
trắng tuyệt đẹp của một ái phi? – đến từ bãi tha ma, thay vì từ đời sống, từ đời
sống từng ngày của một thành phố tấp nập của Ấn Ðộ như Bombay, Calcutta,
Karachi, hay thậm chí đến từ Bollywood, kinh đô điện ảnh của những phim ca nhạc
tình cảm? Xin hỏi: một thính giả Ấn Ðộ, nếu được nghe tiếng hát Julie Quang sẽ
cảm thấy gì? Taj Mahal? Hay cơm nị cà ri dê? Hay chẳng cảm thấy gì cả? Khi Lệ
Thu và Khánh Ly hợp ca “Tiếng sáo Thiên Thai”, người nghe đã được một ly
“cocktail” có chất đắng man rợ của rượu cần (Khánh Ly), trộn lẫn với chất ngọt
khởi phụng đằng giao của rượu tiên (Lệ Thu)? Tiếng hát Khánh Ly đẹp man rợ, đẹp
như tiếng hú, đẹp như tiếng đọc các câu thần chú của thổ dân châu Phi và Bắc Mỹ?
Hay nó là tiếng ca đến từ sự tuyệt vọng rã rời của tuổi trẻ hoang vu trong thời
chinh chiến?
Khi nhìn lướt qua – tôi
không có cam đảm và thì giờ đọc hết hai cuốn sách dày hơn 800 trang gọp chung của
Hồ Trường An, mà vì tò mò tôi đã gởi mua mấy năm trước rồi để qua một bên, mỗi
cuốn giá 18 đô la, vị chi tất cả là 36 đồng tiền là núm ruột hải ngoại, tốt hơn
nên tiết kiệm gởi về quê hương làm giàu cho nhà nước ta, góp phần vào việc chiếm
đất dân nghèo, đuổi ngư dân ra khỏi các đảo nhỏ để xây cất những chỗ du hí năm
sao cho khách ngoại tới thưởng thức văn hóa ẩm thực, xem quê hương ta đẹp không
có ăn mày, nước ta giàu không có hàng rong, gái ta xinh nên chê chồng mít – khi
lật nhanh qua các trang viết đó tôi chỉ để ý và dừng lại ở hai đoạn – trong số
6 trang dành riêng cho tiếng hát Thúy Nga. Xin trích dẫn nguyên tác cùng lời nhại
một bài hát tuyên truyền cho bầu cử:
Nguyên tác:
Rủ nhau đi bầu, rủ nhau đi bầu
Tay cầm lá phiếu tự do
Băn khoăn không biết bầu cho người nào? Lời nhại:
Rủ nhau đi cầu, rủ nhau đi cầu
Tay cầm miếng giấy thật to
Băn khoăn không biết chùi cho thằng nào?
Rủ nhau đi bầu, rủ nhau đi bầu
Tay cầm lá phiếu tự do
Băn khoăn không biết bầu cho người nào? Lời nhại:
Rủ nhau đi cầu, rủ nhau đi cầu
Tay cầm miếng giấy thật to
Băn khoăn không biết chùi cho thằng nào?
và “Khúc ca ngày mùa” của
Lam Phương:
Nguyên tác:
Cười lên đi trăng sắp tàn bóng xế
Hát lên đi để nung lòng nhân thế Lời nhại:
Cười lên đi cho răng vàng sáng chói
Hát lên đi giống ma gào ma đói
Cười lên đi trăng sắp tàn bóng xế
Hát lên đi để nung lòng nhân thế Lời nhại:
Cười lên đi cho răng vàng sáng chói
Hát lên đi giống ma gào ma đói
Hồ Trường An viết: “Chu choa
ơi, bao nhiêu là vận sự nhảm nhí tầm phào lẫn vận sự thơ mộng chứa chan vây
quanh hai bài ‘Khúc ca ngày mùa’ và ‘Mùa lúa chín’ dễ thương kia và chung quanh
tiếng hát độc đáo của Thúy Nga, người ca sĩ có mái tóc thề rất đẹp lãng mạn ấy!…
Cho nên khi nghe tiếng Thúy Nga hát bài ‘Khúc ca ngày mùa’ của Lam Phương, khán
thính giả bốn phương (tôi nhấn mạnh, NÐT) nồng nhiệt đón tiếp giọng
chị như đón tiếp một loài chim lạ từ thần thoại (tôi nhấn mạnh, NÐT)
bay vào khu vườn ca nhạc đương thời.” Hồ Trường An viết tiếp: “Những bài dân ca
của Lam Phương, của Hoàng Thi Thơ thuở đó theo thể điệu mambo vẫn không phải là
dân ca thuần túy, nhưng chúng rất hợp với cảm quan quần chúng (tôi nhấn
mạnh, NÐT). Cho nên quần chúng cứ xem tiếng hát của Thúy Nga như là tiếng dân
ca.” Xin hỏi: Quần chúng nào? Thần thoại nào? Khán thính giả bốn phương nào?
Hồ Trường An thay vì suy gẫm
về các lời nhại, thì chỉ bôi bác, chửi bới “mấy anh chàng đá cá lăn dưa… đầu đường
xó chợ sửa lời lại và cứ hát ong ỏng khắp hang cùng hẻm cụt…”, làm như thể lăn
dưa đá cá và sống lẩn lút trong các ngỏ cụt là một tự do lựa chọn. Thành thực
mà nói, ta cũng phải công nhận các lời nhại chẳng những không nhảm nhí, mà còn
thể hiện đúng một thực tế không thể phủ nhận, có tính hiện thực hơn các ca khúc
viễn mơ kia. Thực ra, ai đã ong ỏng cả ngày? Các anh chàng xấu số thất nghiệp
trong các ngỏ cụt của đô thành, hay các nàng ca nhi được phát sóng từ sáng đến
tối giữa thành đô? Lời nhại có thể đã thực sự do “mấy anh chàng đầu đường” ứng
khẩu. Nhưng chúng cũng có thể do bàn tay của mấy ông “Việt cộng nằm vùng” muốn
phá cuộc bầu cử. Nhưng cũng có một điểm đáng ca ngợi. Ðó là cái trí nhớ vượt bực
của Hồ Trường An, nhớ rõ từng chi tiết nhỏ nhặt về nữ trang, mái tóc, màu áo,
điệu bộ của ca sĩ trong các buổi trình diễn hình như luôn luôn có mặt ông, và
hai cuốn chân dung kia có thể rất hữu ích, nếu ta đọc chúng với óc phê bình.
Hồ Trường An viết: “Thuở đó
là thời kỳ miền Nam tự do (tôi nhấn mạnh, NÐT) của chúng ta (tôi
nhấn mạnh, NÐT) có chuyện bầu cử Quốc hội… Tôi như nghe văng vẳng tiếng hát của
nữ danh ca Thúy Nga qua bản ‘Mùa lúa chín’ của Thu Hồ đã từng thu vào dĩa Việt
Thanh, được cất lên vào buổi sáng mùa hè ở một làng quê thơ mộng (tôi
nhấn mạnh, NÐT) tỉnh Vĩnh Long.” Theo các lời tôi đã trích dẫn, tất nhiên “mấy
anh chàng đá cá lăn dưa” không thuộc “chúng ta”, không thuộc “quần chúng”,
không thuộc “khán thính giả bốn phương”.
Hồ Trường An hình như là một
người Nam kỳ trăm phần trăm. Ông ta có trí nhớ vượt bực như đã kể, nhưng sao
ông ta lại quá ngây thơ về đời sống nông dân ở Nam bộ đến thế? Nhìn chung, toàn
bộ “dân ca” viết theo nhạc mới của ta, nếu không lếu láo thì cũng ngụy tạo, lý
tưởng hóa và thi vị hóa tối đa nông thôn cho bùi tai “quần chúng” đô thành.
Ngày mùa ở thôn quê từ cổ chí kim chưa hề là khúc ca dưới anh trăng vàng, có tiếng
hát của trai gái múa ca theo nhịp chày giã gạo. Ở đồng bằng Nam Bộ thì chỉ là nỗi
lo và nỗi buồn khôn nguôi của tá điền ngồi chờ chủ điền và tài phiệt tới chia
phần, chừa lại cho họ một ít thóc chưa đủ nấu cháo để nuôi thân và nuôi gia
đình sống qua ngày, chờ tới ngày lại phải đi vay thêm lúa mượn thêm tiền của chủ
điền và Tàu khựa để làm mùa tới. Thóc thì được bọn tài phiệt ở Chợ Lớn hoặc lưu
trữ để chi phối giá cả trên thị trường, hoặc gửi ngay đến các nhà máy xay lúa.
Có nhiều tá điền nghèo đến đỗi con cái không có tên họ đàng hoàng, không có
khai sinh khi họ đem con ra “thế” cho chủ điền để trừ món tiền nợ cũ hầu vay mượn
thêm. Nếu tình hình nông thôn đã không như vậy trước 1945 – có thể còn tiếp tục
nhưng có phần đỡ hơn sau 1954 với chiến dịch người cày có ruộng, dù nông dân vẫn
phải đóng thuế cho cả hai bên, chính quyền và kháng chiến – thì đã không có sự
lợi dụng giai cấp bần nông để làm cuộc “cách mạng vô sản” của Hồ Chí Minh.
Theo thiển ý của tôi, Hồ Trường
An hình như đã làm một chuyện ngược đời: chửi mắng những cái đáng để suy gẫm;
ca tụng những cái lẽ ra cần phải đặt thành vấn đề: cường điệu, kiểu thức hóa –
để tránh nói “cải lương hóa” hiểu theo nghĩa xấu – tiếng hát của ca sĩ ta, vì
chúng đã làm hỏng nhiều tiếng ca có thể hấp dẫn hơn. Nói cách khác: ca tụng các
gia vị đã bị nhiều ca sĩ ta lạm dụng khi nấu nướng một bài ca – bài ca hay bản
nhạc là vật liệu chính. Người nghe, hay chí ít là tôi, sẽ thoải mái biết bao nếu
ca sĩ ta chỉ hát một cách tự nhiên bình thường, nếu Thái Thanh bớt “dâng hiến
tâm tình”, nếu Phương Dung bớt “gọi nhạn trong sương”, nếu Lệ Thu bớt “khởi phụng
đằng giao”, nếu Hoàng Oanh bớt “sân trường phượng thắm”, nếu Elvis Phương bớt
“ngày xanh tuổi hồng”, nếu Duy Quang bớt “man mác gió sơ thu”, nếu Chế Linh bớt
“khua động lòng cổ tháp”, nếu Jo Marcel bớt “gấm mượt nhung mềm”.
Nhiều ca khúc lãng mạn ướt
át của ta – phần lớn các tình khúc của ta nếu không đẫm lệ thắm khăn hồng thì
cũng đầy nước mắt mùa thu – qua tiếng ca Duy Quang hay Elvis Phương đã trở
thành những cơn mưa xối xả khiến người nghe, hay chí ít là tôi, đâm ngượng
không dám nghe hết cả bài. Một thí dụ: “Tiếng hát trên sông Lô” (Phạm Duy) – tiếng
ca rất dễ thương của một người “bán hàng rong” trên sông nước (do Phạm Duy vào
vai), êm ái chảy xuôi dòng trong một buổi sáng trời quang “sau lúc phong ba”;
nhưng than ôi, qua tiếng hát Elvis Phương nó trở thành nức nở nghẹn ngào tê tái
rất ư là… “ngày xanh tuổi lệ”.
Nguyễn Ngọc Ngạn, người viết
lời giới thiệu cho hai cuốn Chân dung, mà cũng là người chủ lễ (MC) các
chương trình ca nhạc Thúy Nga thu vào dĩa DVD, đã trích dẫn chính lời Hồ Trường
An để thanh minh: “Quyển sách này không nhắm cung cấp tài liệu cho nhà nhạc
học. Nó chỉ ghi lại những rung động của tôi đối với những giọng hát trong đó có
những ấn tượng, những mường tượng được diễn tả bằng cảm nghĩ có tính cách chủ
quan”. Nguyễn Ngọc Ngạn viết tiếp: “Vâng! Ðúng như thế! Viết bằng kỷ niệm viết
bằng cảm xúc… Chân dung những tiếng hát không phải là những trang
biên khảo, những dòng luận án. Nó là cảm nghĩ theo lối ‘đem tâm tình viết lịch
sử’, như một người yêu văn nghệ, đứng trong cánh gà trông ra sân khấu, nhìn ngắm
nghệ sĩ bằng góc độ mà mình chọn lựa.” Tôi rất đồng ý. Tuy nhiên, yêu văn nghệ
cái kiểu đó chẳng khác gì cha mẹ nuông chìu con cái. Nếu Hồ Trường An không viết
cho nhà nhạc học, thì chí ít ông cũng phải viết cho độc giả và cho thính giả,
nhất là những thính giả trẻ có thể đã chào đời ở hải ngoại không biết nhiều về
một đất nước đã xa xăm: các “ấn tượng” của Hồ Trường An có thể trở thành những
“sử liệu”, ảnh hưởng không nhỏ và không tốt đối với giới trẻ sau này.
Tôi không biết “ngài” nào đã
sáng chế khẩu hiệu “đem tâm tình viết lịch sử” bộc lộ sự tự mãn tâm đắc
ranh ma, nhưng đã được chấp nhận như chân lý để mang ra biện minh cho những cái
sai bậy, thậm chí những lời tuyên truyền có chủ đích. Nó cũng tương tợ như khẩu
hiệu “viết cho vui vậy mà”.Viết cho vui với mục đích để khôi hài, tự nó
không có gì đáng trách. Nó minh bạch, khác hẳn với lối viết lươn lẹo mập mờ bọc
lớp vỏ hài hước của vài cây bút xuất hiện khá thường xuyên trên vài tờ báo vi
tính, thực ra rất nghiêm chỉnh, không chủ tâm khôi hài tí nào cả, nhưng khi bị
phanh phui thì làm bộ ngây thơ cười trừ, tuyên bố xuề xòa “viết cho vui vậy
mà”. Hoặc gian xảo hơn, giả đò khiêm tốn xin lỗi cám ơn người chỉ giáo, nghĩa
là vô thưởng vô phạt, để rồi hôm sau lại chứng nào tật nấy tiếp tục… viết tâm
tình cho vui. Khác với nhà văn tiểu thuyết, người viết sử luôn luôn phải sử dụng
các phương pháp nghiên cứu khoa học khách quan trăm phần trăm, với các quan điểm
khác biệt nhau từ mọi phía càng nhiều càng tốt, để đối chứng. Thử nghĩ: nếu ai
ai cũng đem tâm tình viết lịch sử thì bỏ mẹ… lịch sử! Tôi đã tán rộng để độc giả
suy gẫm. Bây giờ xin trở lại với chủ đề. Tất nhiên Hồ Trường An viết Chân
dung chỉ vì yêu những tiếng hát ngày xưa. Ông không có mục tiêu nào khác
khi đi tìm thời gian đã mất. Ðiều đó rất minh bạch, tôi thành thật cám ơn ông
đã công phu hoàn tất công việc khó khăn đó.
Cuối cùng, điều khôi hài
(hay đáng khóc?) là Hồ Trường An đã không trông tiếng hát mà bắt hình dong, mà
đã ngắm ca nhi để minh họa (hay để bịa ra?) những tiếng hát li kì. Khai thác
màu da của Julie Quang (“Tiếng hát lồng bóng đền Taj Mahal”), của Kim Anh (“Tiếng
hát mềm vóc lụa Tô Châu”), nhưng đã nhìn ra chỗ khác với tiếng hát Dalena, một
nữ ca sĩ gốc Mỹ hát nhạc Việt (“Tiếng hát huyền thoại”). Khi “bí thư” ta cứ lôi
“huyền thoại” hay “thần thoại” ra trám vào chỗ trống là… chắc ăn. Ca sĩ thì hằng
hà sa số như sao sa trong rạp hát; chữ nghĩa thơ mộng cái kiểu đó thì chỉ ngần ấy
thôi. Nhà văn Hồ Trường An liệu sẽ còn đủ lời lẽ để viết thêm những khẩu hiệu
bay bướm mượt mà nữa chăng? Cuối cùng, nếu ta liên kết lời ca tụng của Hồ Trờng
An và lời ca tụng của Thụy Khuê [3] dành cho tiêng hát Thái
Thanh, chúng ta sẽ được một tiếng hát “dâng hiến tâm tình… lên trời”.
Ôi trời, còn tiếng hát nào
cho tôi không nhỉ?
Tôi, kẻ chỉ mơ ước được nghe
một tiếng ca bình thường, trần tục, đơn giản - như một tiếng rao hàng lẻ loi
trong đêm thanh vắng.
đặt vé máy bay eva airline
săn vé máy bay đi mỹ giá rẻ
ve may bay korean air
đại lý vé máy bay đi mỹ
Vé máy bay đi canada
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Ngau Hung Du Lich
Tri Thuc Du Lich