Không biết tự bao giờ làng quê tôi có cái tục
lệ gánh nước đón giao thừa, nhà này gánh, nhà kia gánh, làng trên xóm dưới
các chị, các em nói cười ngặt nghẽo quảy thùng ra giếng gánh nước. Trong làng
có vài ba cái giếng nước, đêm giao thừa trở thành cái địa chỉ cho những cuộc
hội hè đông vui, chị em tha hồ cơ man chuyện tết. Nhà tôi xưa ở gần cái giếng
cổ sát bên bìa làng. Từ thuở tuổi thơ còn lũn cũn chạy theo mẹ giành phần cầm
đèn soi đường cho mẹ gánh nước (bởi không đêm nào tối bằng đêm ba mươi), tôi
đã nghe mẹ bảo, cả thời bà ngoại tôi còn nhỏ cũng đã thấy có tục gánh nước
đón giao thừa rồi. Cho đến khi trưởng thành được đi đây đi đó nhiều nơi, mới
thấy ở nhiều làng quê khác cũng có tục lệ này. Nó như một kỳ hẹn của mùa gieo
vào tâm hồn con người những giấc mơ đẹp. Hễ sắp sửa đến giờ giao thừa thì nhà
nào cũng lo súc rửa mái, lu, chum, vại cho sạch sẽ trước khi ra giếng gánh nước
về đổ cho đầy tràn vào tất cả. Đây là công việc "hệ trọng” không thể
quên, dù nhà nào có bận bịu nấu bánh trái hoặc mổ heo, thịt gà, hay là gì gì
nữa, trước giờ cúng giao thừa cũng phải cắt cử người lo gánh nước. Ý nghĩa của
cái tục lệ này chính là sự cầu phúc cho một năm mới bội thu mùa màng, của cải
làm ra tràn đầy như nước đổ vào nhà. Không hiểu một tập tục như thế có được
xem là một mĩ tục hay không, có điều sức sống bền bỉ của nó xem ra cùng thời
với cái giếng cổ làng tôi, nghĩa là đã những mấy trăm năm rồi! Có khi còn bắt
đầu từ đâu cái thuở người xưa đi mở đất lập làng. Nó cùng với bao nét văn hóa
đặc sắc sau lũy tre làng tồn tại trong vô thức cộng đồng như một tình yêu, một
đức tin, theo nhịp thời gian tết đến xuân về là như bao cuộc hội hè khác,
gióng giả cất lên tiếng gọi!
Đã từ lâu, chuyện về làng ăn tết với tôi là
sự lựa chọn không lấy gì thay thế được. Suốt bao nhiêu năm xa làng là bấy
nhiêu cái tết tôi trở về, ít ra là một đôi bữa. Quê nhà của tôi không chỉ là
cái hình thể địa lý đất đai màu mỡ ven sông, mà còn là tết, là tình yêu, là
ngút ngàn những thanh âm ngày xưa mẹ tôi đã gieo cấy trên cánh đồng bông vải.
Chỉ mỗi tiếng gáo dừa khua lanh canh vào mái nước là tôi lại gặp mẹ mình dậy
sớm vo gạo thổi cơm trước mỗi hừng đông. Chỉ mỗi tiếng gàu va vào thành giếng
khuya là tôi lại thấy em reo vui giữa hội hè cùng các chị các em gánh nước
đón giao thừa. Và còn những gì nữa, con đường làng thơm lừng hương nếp bánh
trái, hay vàng rực ven sông hoa cải hoa dưa, hay hối hả chuyến đò ngang chiều
ba mươi đưa người qua sông kịp về với tết... Chỉ có cái thế giới huyền nhiệm ấy
mới vẽ ra con đường làm nên cuộc hội ngộ với ngày xưa yêu dấu, mới đủ sức xóa
nhòa đi tuổi tác, biến tôi thành thằng oắt con luyên thuyên nói cười đến cay
xè con mắt chưa thôi.
Sinh ra ở một làng quê đất ba châu tân bồi,
khi tuổi tôi bắt đầu ê a trường làng thì những cánh đồng bông vải huyền thoại
"bông trắng như mây” đã dần hồi lùi vào cổ tích. Vậy mà từng câu chuyện
mẹ kể đêm đêm đã tạo dựng lại cho tôi cái thiên đường tuổi thơ thần thánh, mà
nếu thiếu đi không chừng tôi đã bước vô phương trên những con đường. Vọng thức
hay là hoài cổ tôi không rõ, nhưng đúng là có một cõi, một miền đã giũ sạch mọi
niềm ưu tư và ban phát xanh tươi bát ngát thấu tận tâm hồn. Làng Phường Đông
của tôi cũng như bao làng quê tơ tằm khác ở bên bờ hữu ngạn sông Vu Gia, chỉ
khác là làng tôi nằm sát ven sông chuyên canh cây bông và dệt vải. Đấy là thời
của mẹ tôi và nhiều thế hệ trước đó. Lớp tuổi tôi lớn lên thì những thanh âm
như: bắn bông, xe sợi, mắc cửi, thoi đưa... chỉ còn lưu lại vang hưởng trong
những khúc hát ru của mẹ "Thoi đưa êm ái bàn tay. Một khung cửi nhỏ
một cây mai vàng”. Cho dù là vậy, bao tiếng vang ngân từ cái thiên đường tuổi
thơ ấy hễ có dịp là trỗi lên xao xuyến bồi hồi. Cao trào nhất thường là mỗi lần
tết đến. Những chiếc áo mới mẹ may cho chúng tôi mặc tết là từ những cân sợi
vải mẹ miệt mài bắn bông xe sợi, và thức thâu đêm lên khung cửi dệt. Cố nhiên
là những tấm vải ta, vải thô, vải tám dệt ra là để chạy chợ bán buôn lo toan
cơm áo trước hết, nên cái phần chắt chiu cho con một tấm áo tết nào đâu phải
dễ gì. Tuổi thơ tôi cứ hồn nhiên tung tăng áo mới đâu hiểu mấy nỗi nhọc nhằn
đời mẹ. Đâu biết những ngày dài đạp nước - hồ sợi - xổ chẻ - đánh rời sợi
phơi phong cho khô rồi quay lại từng ống. Đâu biết những đêm vắng lê thê mẹ
ngồi suốt trên khung cửi dệt với độc một ngọn đèn dầu. Thời ấy làm gì có điện
đóm tưng bừng ánh sáng như bây giờ. Vậy mà thứ ánh sáng từ những ngọn đèn dầu
vàng úa xa xăm kia mới là thứ ánh sáng của vĩnh cửu, biết soi vào tận sâu thẳm
ngõ ngách tâm hồn, ưu du qua khắp bến bờ thời gian những tưởng chỉ còn có rêu
xanh và quên lãng!
Bây giờ thì tôi và cái tâm tưởng đa đoan của
mình đang chạy theo cuộc hội hè gánh nước đón giao thừa. Cái giếng cổ, có lẽ
giờ đây là Di sản duy nhất còn lại của làng tôi. Chạm vào từng phiến đá mòn
những dấu tay người, lại nghe vang ngân cái tiếng gàu của mẹ, của em va vào
thành giếng khuya xa vắng. Đấy là thứ âm thanh mà tôi gọi tên là "Tiếng
hồi âm của đất”, nó từ thăm thẳm trong lòng giếng sâu sẵn sàng hồi âm lại tất
cả tuổi tên mỗi khi nghe ai đó cất lên tiếng gọi. Tôi không còn nhớ nổi đã
bao nhiêu lần đứng lặng hàng giờ bên giếng cổ, sau cái trò chơi trẻ con gập
mình cho đầu cúi xuống khỏi miệng giếng, rồi hét to lên muốn vỡ cả giọng
"- Ngày xưa ơi”. Lập tức từ đáy giếng thăm thẳm khuất đầy rêu cỏ,
"ngày xửa ngày xưa” trả lời cho tôi hàng chuỗi thanh âm "ơi... ới”
như không hề muốn dứt. Đứng tựa vào thành giếng tôi lặng im một cách ngẩn ngơ
giữa khói sương trí nhớ chập chùng, loáng thoáng từng gương mặt thân yêu hiện
về. Có thể đấy là mẹ tôi áo chàm bạc màu đang lom khom múc nước. Có thể đấy
là em, là chị vây tròn thùng gánh quanh giếng hối hả, đợi chờ, to nhỏ chuyện
dài chuyện ngắn như đã quên khuấy công việc. Có thể đấy là tôi - cái thằng oắt
con cứ chen lấn người, cúi đầu bằng được vào giếng bày tỏ niềm vui bằng cách
hú lên một tiếng thỏa thích rồi bỏ chạy. Dần hồi lớn lên tôi hiểu ra, chuyện
các chị gánh nước đêm đêm, dẫu ngày thường hay ngày tết đâu chỉ là... gánh nước,
mà còn là gánh hẹn hò, gánh tình yêu. Ai đó đã viết nên thơ "Em ra
giếng gánh nước trong. Còn anh ra giếng để... không làm gì”. Thú thật là
tôi cũng đã từng bao lần ra giếng để... không làm gì. Ví như lúc này đây kề
bên giếng, nhắm con mắt tôi nhìn, tưởng tượng đã đời không hết ngày xưa!
Đứng tựa vào tấm bia đá trên nền giếng, nơi
khắc tên tuổi của những người đã góp công sức xây dựng cái giếng (cổ) làng
tôi, tháng năm đã bào mòn những tên tuổi ấy mất rồi. Ngắm những phiến đá đẽo
tròn đã nhiều chỗ khuyết mòn trên miệng giếng, dấu mòn vẹt ấy bây giờ cũng đã
khuyết bóng người từ lâu. Từ đáy giếng sâu cho đến vòng tròn cái bờ thành
trên nền giếng, những phiến đá như thế được ghép kín nối vào nhau một cách
tài tình qua những khe đá đã được đục xoi sẵn. Tất cả rêu xanh đã dày lên mấy
lớp. Tôi hiểu ra rằng, bất cứ nơi nào rêu xanh tươi tốt thì cũng chính nơi ấy
sự quên lãng sẽ tươi tốt. Mà cũng hợp lẽ thôi, bởi bây giờ làng tôi đang từng
ngày đi lên phố thị. Cái làng bông vải đẹp như thi ca ngày xưa đã chẳng còn
lưu lại mấy dấu vết, và cũng chẳng nghe ai nhắc đến tên bao giờ, huống là cái
giếng cổ nhỏ nhoi ở một góc bìa làng này. Sự hiện đại can dự vào tận bếp núc,
ví như nước nôi thì bơm điện, nước máy cứ kéo ống mở van xả vào tận... miệng,
hơi sức đâu mà gánh với xách. Cho dù vậy đến mùa nghe tết gọi, tôi vẫn đường
quen về làng. Đi loanh quanh trên cái nền giếng cỏ dại um tùm, nhìn giếng cổ
giống như cụ già ẩn dật giữa hoang vu. Ấy là, một phút sắt se mà tưởng ra.
Còn trước mắt tôi bây giờ, cái giếng cổ lặng im một cách bí ẩn như phớt lờ tiếng
thời gian đang xôn xao cùng cỏ dại - Một cụ già đã mấy trăm tuổi - chứng nhân
của làng tôi, đang thảnh thơi ngồi ngắm... sông cạn đá mòn!.
Nguyễn Nhã Tiên
Theo http://vannghedanang.org.vn/
|
Trả lờiXóaeva airlines
mua vé máy bay đi mỹ
korean air vn
đặt vé máy bay đi mỹ
giá vé máy bay từ tphcm đi canada
Nhung Chuyen Di Cuoc Doi
Du Lich Tu Tuc
Tri Thuc Du Lich