Văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư
Sự nghiệp văn nghệ của Lưu Trọng Lư (1911-1991) với tư cách nhà thơ, nhà văn, nhà hoạt động sân khấu Việt
Nam thế kỷ XX, thoạt nhìn, cho đến những năm đầu thế kỷ XXI, tưởng chừng như đã
được ghi nhận và đánh giá ổn thỏa; nhưng nhìn kỹ, lại thấy nhiều nét trái ngược.
Chẳng hạn, theo một nề nếp
“phân vùng” có từ thời bao cấp, Lưu Trọng Lư được nghiễm nhiên coi như một
“nhân sự” thuộc giới sân khấu nên giới chức quản lý văn học đôi khi tặc lưỡi bỏ
qua ông, hoặc người ta xem ông chỉ như nhà thơ để khỏi phải tính (!) đến ông
như người viết văn xuôi, viết truyện, bất chấp cái thực tế là: số truyện ngắn
truyện dài Lưu Trọng Lư đã viết và đã in ra trong toàn bộ đời văn của mình nhiều
gấp vài ba lần số tập thơ hay số vở kịch ông đã viết, đã dàn dựng. Chẳng những
mảng truyện dài truyện ngắn của Lưu Trọng Lư bị quên mà thôi, cả mảng tiểu luận
phê bình của ông cũng bị quên; thế nhưng đôi khi được nhắc lại thoáng qua, khá
tình cờ − ví dụ một bài ông viết về Truyện Kiều hay một bài khác về
thơ văn Nguyễn Công Trứ, − thì không cần phải có cặp mắt thật xanh, người ta
cũng cảm thấy vẻ đặc sắc của cả giọng văn lẫn ý kiến tác giả!
Chỉ tính về phương diện người
viết truyện thôi, trong dư luận phê bình, Lưu Trọng Lư đã trải qua một lịch
trình từ thăng xuống trầm, từ chỗ được đánh giá cao đến chỗ dần dần bị coi nhẹ.
Giữa tháng 9/1933 tại Huế ra
mắt tập Người sơn nhân, ấn phẩm thứ nhất của nhóm Ngân Sơn tùng thư, do
Lưu Trọng Lư và Hoài Thanh chủ trương, trong đó Hoài Thanh giữ vai trò người chủ
biên với một số tuyên ngôn và lời dẫn giải; còn lại, tất cả các sáng tác thơ,
văn, tiểu luận trong tập này đều của Lưu Trọng Lư (3 truyện ngắn, 15 bài thơ mới,
1 tiểu luận). Chẵn một tháng sau, trên tuần san Phụ nữ thời đàm ở Hà
Nội đã có bài của chủ bút Phan Khôi điểm bình ấn phẩm này, tuy Phan Khôi còn
chưa biết Lưu Trọng Lư là ai. Riêng truyện Người sơn nhân, tiếp đó
còn trở thành tâm điểm cho sự so đọ khác biệt về đánh giá giữa Nguyễn Thị Kiêm
trên Phụ nữ tân văn ở Sài Gòn và Thụy An trên Phụ nữ thời đàm ở
Hà Nội. Phan Khôi cho rằng Người sơn nhân (của Lưu Trọng Lư) và Hồn
bướm mơ tiên (của Khái Hưng) là hai tác phẩm văn học khá nhất trong năm
1933. (1)
Những năm tiếp liền sau đó,
các sáng tác truyện ngắn truyện vừa của Lưu Trọng Lư xuất hiện nhiều hơn (trên Tiểu
thuyết thứ bảy trong các năm 1934-35, trên Hà Nội báo các năm
1936-37), cũng gây được chú ý nhiều hơn.
Trong loạt bài mang tiêu đề
chung Văn học Việt Nam hiện đại đăng nhiều kỳ trên tuần báo Loa ở
Hà Nội từ tháng 7 đến tháng 10/1935, nhà phê bình Trương Tửu đánh giá cao các
truyện Người sơn nhân, Ly Tao tuyệt vọng, Tiếng địch trong rừng sim (tức Khói
lam chiều), coi Lưu Trọng Lư là một trong 3 nhà văn có lối tả cảnh mới mẻ nhất,
tính đến thời điểm ấy (theo ông: sự tả cảnh ở Thế Lữ có tính cách kỳ thú /pistoresque/;
ở Lan Khai có tính cách xúc cảm /émotionnel/; ở Lưu Trọng Lư có tính
cách thần bí /mystique/)… “Bốn truyện Người sơn nhân, Tiếng địch
trong rừng sim, Hương Giang sử, Ly Tao tuyệt vọng đã thiết lập cho ông một
vị trí chức sắc trong làng văn hiện đại”. (2)
Khi truyện Khói lam chiều được
in thành sách riêng (1936), báo chí văn nghệ Hà Nội có khá nhiều bài khen ngợi,
và nhân đó, đã đánh giá rất khả quan về tương lai tác giả.
Thế nhưng, sang đến đầu những
năm 1940s, vị trí của Lưu Trọng Lư trong thể loại tiểu thuyết, bỗng nhiên như bị
hạ thấp xuống rõ rệt, dưới cái nhìn của giới phê bình. Đáng kể nhất về mặt này
là ý kiến Vũ Ngọc Phan trong sách Nhà văn hiện đại (1942) theo
đó, về thơ thì Lưu Trọng Lư là “một thi sĩ có biệt tài”, nhưng về văn xuôi tự sự
thì Lưu Trọng Lư lại là “một nhà tiểu thuyết rất tầm thường”! (3)
Khỏi phải dẫn chứng và chỉ
ra chi tiết những dấu ấn quy phạm, ấu trĩ, định kiến trong các lý lẽ của nhà
phê bình Vũ Ngọc Phan ở cuốn Nhà văn hiện đại. Những định kiến như thế
đã không còn có ý nghĩa gì trước các quan niệm lý thuyết hiện đại về tâm lý
sáng tác, về trần thuật học. Ta chỉ cần lưu ý đến ảnh hưởng của sự đánh
giá này − nói riêng về trường hợp tiểu thuyết Lưu Trọng Lư − đến những ứng xử của
các giới nghiên cứu văn học và xuất bản sách văn học những thập niên sau
này, thậm chí đến tận ngày nay.
Ngay đầu những năm 1960s tại
miền Nam, khi viết bộ Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, nhà nghiên cứu
Phạm Thế Ngũ, ở đoạn đề cập những tiểu thuyết gia viết cho nhà Tân Dân, đã hầu
như hoàn toàn tin cậy để sử dụng lại nhận định nói trên của Vũ Ngọc Phan về nhà
tiểu thuyết Lưu Trọng Lư.(4)
Trong điều kiện đặc thù của
đời sống văn nghệ ở miền Bắc những năm 1960-70, phần lớn các tác phẩm thuộc di
sản văn học công khai trước 1945 đều bị hạ thấp giá trị; sang đến cuối những
năm 1980s, một số ký ức về “văn chương tiền chiến” ít nhiều được phục hồi,
song, vốn liếng tài liệu về cái “quá khứ tiền chiến” kia tựu trung chỉ gói
trong hai cuốn Thi nhân Việt Nam 1932-1941 (1942, Hoài Thanh-Hoài
Chân) và Nhà văn Việt Nam (1942, Vũ Ngọc Phan), được in lại và thường
được dùng như tài liệu gốc (!), tài liệu tra cứu (!), mà không cần kiểm định mức
độ chính xác của những dữ kiện và nhận định trong hai cuốn sách đó, vốn chỉ là
những tác phẩm phê bình văn học. Ta quên mất rằng, ở những cộng đồng văn chương
giàu kinh nghiệm, người ta từng chứng kiến cái thực trạng: phần lớn những ý kiến
phê bình văn học mà đương thời dường như xem là chuẩn xác, đều sẽ tự chứng tỏ là
ngày càng sai lạc đi, trong thời gian về sau.
Tất nhiên, Lưu Trọng Lư, − kể
cả ở lĩnh vực văn xuôi − cũng vẫn còn được nhắc nhở tới, dù chỉ đôi dòng; và dẫu
sao đây cũng chưa là trường hợp phải chịu những tệ hại và bất công nhiều nhất,
nếu so với hàng chục, hàng trăm tác gia “tiền chiến” khác, nhất là những tác giả
mà đương thời còn chưa kịp được giới phê bình nhắc tới, và cho đến nay di sản
sáng tác, di sản trứ thuật may ra chỉ còn nằm trong những chồng sách báo cũ
đang nát vụn dần, ít ai biết tới!
Mục từ “Lưu Trọng Lư” ở Từ
điển văn học (1983) kể tên 4 tác phẩm văn xuôi của tác gia này (Người sơn
nhân, Khói lam chiều, Chiếc cáng xanh, Chiến khu Thừa Thiên), bên cạnh các tác
phẩm thơ và kịch. Hai chục năm sau, sự mô tả trong từ điển ấy vẫn chưa đổi khác.(5)
Trong số những tác gia được
ưu ái hưởng quy chế làm tuyển tập văn học của nền xuất bản thời bao cấp
(1960-90), Lưu Trọng Lư cũng đã được tính đến (người ta biết, Lưu Trọng Lư là
quan chức trong nền văn nghệ chính thống thời VNDCCH và CHXHNCVN), nhưng thuộc
hàng sau, tức là được làm khá muộn. Rốt cuộc, một tuyển tập mỏng nhẹ đã ra mắt
vào năm 1987, trong đó chỉ có khoảng 150/452 trang khổ nhỏ (13x19 cm) giành cho
văn xuôi tự sự, với các truyện Con chim sổ lồng, Khói lam chiều, Chiếc
cáng xanh (trích), Chiến khu Thừa Thiên (trích) và hai đoạn
trích tùy bút.(6)
Gần đây hơn, trong nỗ lực khắc
phục chất “quan liêu đại khái” cố hữu của nền nghiên cứu văn học chính thống thời
bao cấp, một số công trình kiểm kê, mô tả diện mạo sách báo văn học theo thể loại
đã được thực hiện. Nhờ thế, một số trường hợp bị lãng quên, trong đó có văn
xuôi tự sự Lưu Trọng Lư, được vớt vát ít nhiều. Chẳng hạn, cuốn Từ điển
tác phẩm văn xuôi Việt Nam (từ cuối thế kỷ XIX đến 1945) đã có 7 mục từ mô
tả 7 tác phẩm tự sự của Lưu Trọng Lư (Người sơn nhân, Huyền không động, Con đười
ươi, Nàng công chúa Huế, Huế một buổi chiều, Chiếc cáng xanh, Cô Nhung), kèm
theo một thống kê 15 tác phẩm (cùng thể loại, trong đó có 7 tác phẩm kể trên) của
tác gia này. (7)
2.
Trong khi chuẩn bị thực hiện
một sưu tập các tác phẩm tự sự của Lưu Trọng Lư, tôi và bạn Hoàng Minh, − một bạn
trẻ ở Câu lạc bộ những người yêu sách báo cũ, thành phố Hồ Chí Minh, − đã tiến
hành sưu tầm ở các thư viện lớn trong nước, và một phần ở các sưu tập của giới
những người chơi sách báo cũ. Mặc dù chưa thể nói là đã tìm lại được hết những
tác phẩm văn xuôi tự sự của Lưu Trọng Lư từng in trên sách báo đương thời tác
giả, nhất là trong khoảng những năm 1933 – 1945, ta vẫn có thể nói rằng Lưu Trọng
Lư là một trong những tác giả có số lượng tác phẩm văn xuôi tự sự khá phong
phú, dưới dạng tác phẩm in sách hoặc tác phẩm đăng báo.
Xin nêu cụ thể.
Trên Tiểu thuyết thứ bảy (tuần
báo văn chương của Nxb. Tân Dân, xuất bản ở Hà Nội từ 2/6/1934 đến 1945) trong
các năm 1934-42, sơ bộ đã thấy có một loạt tác phẩm Lưu Trọng Lư: các đoản
thiên tiểu thuyết Con vú em, Chiếc áo rét, Con sáo, Em hãy còn thơ, các
truyện dài Hương Giang sử, Tiếng địch trong rừng sim (tức Khói
lam chiều), Trớ trêu, Giặc Tàu Ô, Chiếc cáng xanh; chưa kể một số
vở kịch, bài thơ, một số tiểu luận cổ vũ phong trào thơ mới.
Trên Phụ nữ thời đàm, tập
mới (tuần báo, xuất bản tại Hà Nội, 1933-34, chủ nhiệm Nguyễn Văn Đa, chủ
bút Phan Khôi) Lưu Trọng Lư có một loạt đoản thiên tiểu thuyết: Cô bé hái
dâu; Chân ái tình; Anh Neo; Bạn tôi; Cái đời người xẩm; Cái chết hiếu danh; chưa
kể thơ và tiểu luận.
Trên Tân thiếu niên (tuần
báo, xuất bản tại Hà Nội, 1935, chủ bút Lê Tràng Kiều), Lưu Trọng Lư có truyện
dài Động Phong Nha (đăng 3 kỳ: số 1: 26/1; số 2: 2/2; số 3: 9/2, về
sau in Phổ thông bán nguyệt san số 81: 16/4/1941 với nhan đề Cô
bé hái dâu, cùng trong một số với truyện dài Cô Nhung) và truyện ngắn Thi
sĩ (số 1: 26/1), chưa kể một vài bài luận, ví dụ bài về thơ Phạm Huy Thông.
Trên Hà Nội báo (tuần
báo, xuất bản tại Hà Nội, 1936-37, chủ nhiệm Lê Cường, chủ bút Lê Tràng Kiều)
Lưu Trọng Lư và Vũ Trọng Phụng là hai tác giả được đăng tải nhiều nhất. Với Lưu
Trọng Lư là một loạt truyện dài: Trà Hoa nữ; Cầu sương điếm cỏ; Người nữ tỳ
của bà chúa Liễu; Tàn tạ (về sau in sách với nhan đề Cô Nguyệt), Công
chúa Lã Mai; Cô Nhung; Gió cây trút lá; và một loạt truyện ngắn: Bó
lan trắng; Ly Tao tuyệt vọng; Người mua hoa; Nàng Vân may áo cho chồng; Sầm Sơn
vui thú xiết bao; Tình trong giây lát; Cái vò sữa của cô Perrette; Một lần tôi
đi qua; Bạn tôi cưới vợ; chưa kể một số thơ, tiểu luận, bài tranh luận, viết
chung hoặc ký tên riêng.
Trên tuần báo Sông
Hương (Huế, 1936-1937, Phan Khôi sáng lập, chủ nhiệm kiêm chủ bút) có truyện
dài Tiếng võng đưa ký 2 bút danh Thúy Na và Tràng Kiều (về sau
sẽ in Phổ thông bán nguyệt san với nhan đề Cô gái tân thời chỉ
ký một tác giả Lưu Trọng Lư)
Trên Đông Dương tạp
chí, tục bản (tuần báo, Hà Nội, 1937-39, chủ nhiệm Nguyễn Giang, chủ bút
phần tiếng Việt Vũ Trọng Phụng) Lưu Trọng Lư có truyện dài Bến cũ;
Trên Hà nội tân văn (tuần
báo, Hà Nội, 1940-41, chủ nhiệm Vũ Đình Dy, chủ bút Vũ Ngọc Phan) Lưu Trọng Lư
có truyện dài Chuyến tàu định mệnh (chính là truyện Em là gái
bên song cửa);
Trên Phổ thông bán nguyệt
san của nhà xuất bản Tân Dân ở Hà Nội (ra mỗi tháng 2 số từ 01/12/1936 đến
1945, có lúc tách thành 2 loại, sau nhập lại một loại), mà người đọc đương thời
xem mỗi số như một cuốn sách riêng, chỉ tính đến s. 81 (16/4/1941) tác phẩm Lưu
Trọng Lư đã chiếm trọn 8 kỳ:
− s. 14 bis, 16/01/1938:
mang tên Con đười ươi (gồm 2 truyện Con đười ươi; Con voi già của
vua Hàm Nghi);
− s. 21 bis, 16/8/1938: mang
tên Từ thiên đường đến địa ngục (gồm 2 truyện Từ thiên đường đến
địa ngục; Tàn một kiếp);
− s. 25, 16/11/1938: mang
tên Nàng công chúa Huế (gồm 2 truyện Nàng công chúa Huế; Cầu
sương điếm cỏ);
− s. 33, 16/4/1939: mang tên Huế
một buổi chiều (gồm 1 truyện Huế một buổi chiều);
− s. 37, 16/6/1939: mang tên Cô
Nguyệt (gồm 1 truyện Cô Nguyệt);
− s. 47, 16/11/1939: mang
tên Một người đau khổ (gồm 1 truyện Một người đau khổ);
− s. 54, 1/3/1940: mang tên Cô
gái tân thời (gồm 1 truyện Cô gái tân thời);
− s. 81, 16/4/1941: mang tên Cô
Nhung (gồm 2 truyện Cô Nhung; Cô bé hái dâu);
Về các ấn phẩm in thành sách
riêng, trước 1945 còn thấy những cuốn của Lưu Trọng Lư:
− Người sơn nhân (Ngân
Sơn tùng thư, Huế, 1933)
− Những nét đan thanh (Ngân
Sơn tùng thư, Huế, 1934)
− Huyền Không động (Hội
ký, Nam Định, 1935, gồm 3 truyện Huyền Không động; Người nữ tỳ của bà chúa
Liễu; Lã Mai công chúa)
− Chạy loạn (Librairie
Centrale, Hà Nội, 1939)
− Khói lam chiều (Phương
Đông, Hà Nội, 1936)
− Một tháng với ma (Lê
Cường, Hà Nội, 1940)
− Sơn nhân (Trung
Lập, Hà Nội /?/, 1940)
− Chiếc cáng xanh (tủ
sách “Những tác phẩm hay”, Nxb. Tân Dân, Hà Nội, 1941)
− Em là gái bên song cửa (Cộng
Lực, Hà Nội, 1942)
− Dòng họ (Hương
Sơn, Hà Nội, 1943)
− Hổ với Mọi (tủ
sách Phổ thông tuổi trẻ, Tân Dân, Hà Nội, 1944)
− Ngoài vườn trăng dãi (in
chung với Lê Tràng Kiều) [hiện chưa tìm thấy văn bản]
Từ sau tháng 8/1945, Lưu Trọng
Lư chỉ có 2 tác phẩm tự sự là truyện ký Chiến khu Thừa Thiên (1952,
tái bản 1955), viết về thời kỳ đầu kháng chiến ở Thừa Thiên; và Truyện cô
Nhụy (trích đăng Tạp chí Văn nghệ, s. 44, tháng 1/1961, in thành sách
riêng, Nxb. Văn học, 1962), trên thực tế là viết lại câu chuyện của Khói
lam chiều theo lối kể khổ của phụ nữ nông dân thời cải cách ruộng đất
và/hoặc thời chống mê tín dị đoan.
Từ giữa những năm 1960s, Lưu
Trọng Lư hầu như hoạt động chuyên về sân khấu, cũng vẫn còn làm thơ và viết tùy
bút, bút ký, nhưng không còn viết truyện ngắn truyện dài nữa.
3.
Lưu Trọng Lư được xem trước
hết như một nhà thơ; nhưng thế giới thơ Lưu Trọng Lư thật ra không tách rời, mà
ngược lại, có sự tiếp nối với thế giới văn xuôi do ông sáng tạo, đó là cuộc sống
trong các truyện ngắn truyện dài ông viết. Nhiều khi, một vài ý tưởng xúc cảm
chỉ in gọn trong một vài câu thơ đoạn thơ, sẽ có âm vang rộng dài hơn, mà không
chỉ một lần, trong các truyện ngắn truyện dài.
Chẳng hạn, đoạn thơ ông viết
về người mẹ:
Tôi nhớ me tôi, thuở thiếu
thời
Lúc người còn sống tôi lên
mười
Mỗi lần nắng mới reo ngoài nội
Áo đỏ người đưa trước dậu
phơi
(Nắng mới)
Thì trong văn xuôi, nét hồi ức
ấy khá nhiều lần được ông nhắc lại; chẳng hạn hai đoạn văn này, nơi mà hồi ức
riêng tư của tác giả đã cung cấp chất liệu cho hư cấu:
Những ánh nắng xanh trải ở
trên đám cỏ và như reo thành một khúc nhạc nhí nhảnh.
Lan nhìn quanh quẩn và nói với
Hải:
− Em say nắng mất rồi!
− Cứ mỗi lần có nắng sớm thế
này, thì anh lại nhớ đến mẹ anh. Thủa bấy giờ, anh mới lên mười, nhưng anh còn
nhớ rõ cái dáng điệu cùng cái nét mặt của mẹ anh. Mẹ anh hiền lành lắm, thùy mị
lắm. Bà có một cái hàm răng đen bóng và luôn luôn cười với anh. Bà có một cái
áo cổ y đỏ bà không bao giờ mặc cả, trừ một lần, là khi cưới vợ cho anh cả của
anh. Thế rồi thôi, quanh năm bà cứ để yên trong rương. Nhưng cứ mỗi bận có nắng
sớm, thì bà lại lấy ra phơi ở dậu... Anh còn thấy rõ như mới hôm qua cái dáng
điệu của bà từ trong nhà đi ra sân, lấy vạt áo che lên đầu, bà đứng hồi lâu bên
dậu mồng tơi để giăng ra cho thẳng cái áo cổ y của bà. Anh làm sao quên được
cái màu đỏ ấy!
− Thế mẹ mất đã mấy năm rồi
anh?
− Đã mười mấy năm!
(Gió cây trút lá)
… Và người ta đã bắt đầu
khâm liệm cho mẹ tôi. Trời ôi! Tôi quên làm sao được vòng khăn nhiễu tam giang,
cái quần áo cổ y, và đôi vòng bạc… mà người ta vừa đeo khoác vào cho cái chết ấy!
Cái áo cổ y ấy, cái khăn nhiễu tam giang ấy, đó là những đồ mà ông mệ ngoại tôi
đã sắm cho mẹ tôi… Mẹ tôi có lẽ chỉ mặc một bận khi về nhà chồng, và than ôi! Một
bận nữa là khi về… cõi đất. Mắt tôi quên làm sao được cái khăn nhiễu ấy, và mầu
áo ấy, mỗi khi có cơn nắng mới, mẹ tôi đưa ra phơi trước dậu.
Thoạt trông thấy mẹ tôi
trong cái bộ áo liệm ấy, thì sự cảm động và thương xót của tôi lại tăng thêm gấp
bội. Một cảm giác vừa thoáng qua trong tâm trí tôi: tôi thấy như mẹ tôi không
thể chết được. Tôi tưởng như còn diễn lại trước mắt tôi, một cảnh tượng hàng
ngày: giữa những hôm mưa lạnh, ẩm ướt, bỗng rớt vào một ngày nắng ráo, mẹ tôi
thường mở rương ra, lấy một bộ áo, – vâng – chính cái bộ áo cổ y ấy, để đưa ra
phơi ở trên một hàng dậu.
Trong trí tôi lúc bấy giờ,
cái mầu cổ y tím sẫm gợi cho tôi một sự tương tự: cái màu sắc đầm thấm, đen sẫm
của cả một đời người đàn bà không kiêu hãnh, không ham muốn.
(Chiếc cáng xanh)
Những ai thông thuộc thơ mới
Lưu Trọng Lư sẽ tìm thấy những tương đương mang tính bổ sung độc đáo giữa thế
giới thơ và thế giới truyện Lưu Trọng Lư tại nhiều trường hợp khác nữa.
Tựu trung Lưu Trọng Lư đều gọi
các sáng tác văn xuôi tự sự của mình là “tiểu thuyết” (dù là “đoản thiên tiểu
thuyết” tức truyện ngắn, hay là “tiểu thuyết”, “truyện dài”) và triển khai
chúng trong khá nhiều kiểu tác phẩm. Có những truyện thuộc loại thần tiên, ma
quái (Hương Giang sử; Trà Hoa nữ; Người nữ tỳ cuả bà chúa Liễu; Công chúa Lã
Mai; Con đười ươi; Một tháng với ma). Có những truyện viết theo truyền thuyết,
dã sử (Con voi già của vua Hàm Nghi; Chạy loạn). Nhưng thông thường là loại
truyện mà ta có thể gọi là truyện tâm lý xã hội hoặc truyện thế sự, với đề tài
là cuộc sống thông tục đương thời tác giả; ở đây, yếu tố tự truyện, − tức những
dữ liệu về bản thân, về tuổi thơ, về gia đình tác giả, − thường xuyên được sử dụng,
khi thì như chất liệu cho tác phẩm hư cấu, khi thì như đối tượng của trần thuật.
Thời đầu, ngòi bút viết truyện
của Lưu Trọng Lư dường như thích dong ruổi theo các câu chuyện thần tiên, có lẽ
vì nó phù hợp với lời văn kể chuyện ước lệ mà ông thường sử dụng, cũng gần gũi
giọng điệu thơ lãng mạn của ông, kể cả khi viết loại truyện ít chất ma quái
(như Người sơn nhân) lẫn khi viết loại truyện truyền kỳ (Ly Tao tuyệt vọng;
Tàn một kiếp)… Có lúc ông đã nêu “lý thuyết” sáng tác thể tài này, mà ông gọi
là truyện thần kỳ: “một chút ít Edgar Poe pha lẫn với Bồ Tùng Linh; cái đầu lâu
ghê rợn của phương Tây dưới cái ánh sáng xanh dịu của ngọn nến phương Đông; tất
cả sự hoang đường của Liêu Trai chí dị, cạnh những điều nhận xét sáng suốt
của Flammarion”.[8]
Đề tài hầu hết những truyện
thần tiên này của Lưu Trọng Lư đều là tình yêu: những tình yêu không bị giới hạn
bởi ranh giới tiên-tục, thần-người, thầy tu-gái điếm, v.v…, những tình yêu như
là tham vọng sống sục sôi, làm thành động lực vô song của nhân vật, khiến họ thậm
chí sẵn sàng đối mặt với cái chết, đối mặt những trừng phạt tàn khốc (Công chúa
Lã Mai; Con đười ươi).
Nhưng đây dù sao cũng chỉ là
một phương diện thuộc năng lực sáng tạo của Lưu Trọng Lư, cái năng lực mà, khi
tiếp nhận được những chất liệu cốt truyện nhất định, tuy ít nhiều đặc biệt
nhưng không phải là thần kỳ, ông vẫn có thể khá dễ dàng để viết nên những thiên
truyện không kém ly kỳ (Chạy loạn, Hổ với Mọi).
Một phương diện khác của
ngòi bút viết truyện Lưu Trọng Lư chính là khả năng cảm nhận và biểu hiện đời sống
đương thời. Những tác phẩm loại này, với thời gian, có lẽ còn được ghi nhận
thêm rằng chúng chứa đựng một loại giá trị như những bằng cứ về màu sắc cụ thể
của đời sống ở thời đại mình, − điều mà ngay đương thời người ta còn chưa thấy
rõ. Đó, chẳng hạn, là dáng nét cụ thể của giới học sinh Hà thành những năm 1930
(trong tiểu thuyết Cô Nhung, Em là gái bên song cửa, Cô gái tân thời), của
nam nữ học sinh xứ Huế (trong một loạt truyện Huế một buổi chiều, Gió cây
trút lá, Cô Nguyệt, Cô bé hái dâu); những dáng nét đời sống đương thời này ở
tác phẩm Lưu Trọng Lư có lẽ còn rõ rệt hơn thậm chí so với không ít tác phẩm của
các tác gia trong Tự Lực văn đoàn, hoặc so với một vài đàn anh trong số những
người cùng cộng tác với nhà Tân Dân như Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, − những
người lớn tuổi hơn Lưu Trọng Lư nên khó có thể có được cảm nhận tinh nhạy về đời
sống của những lớp người trẻ trung đương thời.
Ở tác phẩm tự sự của Lưu Trọng
Lư, người ta có thể cảm nhận được màu sắc, dáng vẻ cuộc sống thiên nhiên và con
người ở ba vùng đất mà ông từng sống và viết về chúng: vùng thôn quê đồi núi Quảng
Bình quê hương ông; thành phố Huế; và thành phố Hà Nội.
Vùng quê Quảng Bình được Lưu
Trọng Lư mô tả trong Cầu sương điếm cỏ, − câu chuyện
thương tâm về hai đứa trẻ mất mẹ do nạn lụt, lang thang kiếm sống, không biết
có ngày mai; trong Khói lam chiều, − câu chuyện cũng thương tâm không kém
về bi kịch tình yêu nơi thôn dã như là hậu quả của những tập tục lạc hậu; trong Con
voi già của vua Hàm Nghi, − truyện về giới nhà nho bất đắc dĩ phải gắn
phần đời sau của mình với “thanh gươm yên ngựa”, tham gia phong trào “đánh tả đạo”
và phong trào Cần Vương, cuối thế kỷ XIX; trong một loạt tiểu thuyết Bến
cũ, Chiếc cáng xanh, − những câu chuyện hư cấu nhưng dựa sát vào hồi ức tuổi
thơ của chính tác giả; trong Dòng họ, − cuốn tự truyện kiêm tiểu luận
về nhân tố gia đình, dòng tộc đối với đời sống mỗi người Việt; trong Cô bé
hái dâu, − cuốn tiểu thuyết bằng thư, triển khai một ý tưởng mượn thoáng
qua từ André Gide, đặt vào khung cảnh một cuộc tỏ tình bất thành trong động
Phong Nha, để diễn đạt cái nuối tiếc của sự ngập ngừng, “đánh mất tình yêu
trong phút chốc”…
Thành phố Hà Nội sớm đi vào
truyện Lưu Trọng Lư, với không gian Thư viện, trường học, những nữ sinh Đồng
Khánh tinh nghịch, những nhóm lưu học sinh thuê chung nhà trọ, những cuộc hẹn
hò du ngoạn chùa Láng, Hồ Tây…; với những tình tự trong sáng thuở học trò, thường
là khởi đầu của những tấn kịch tình yêu riêng tư bị cản trở bởi hôn nhân do gia
đình sắp đặt. Dường như điều có thể gọi là “ấn tượng người nhập cư” đã khiến
Lưu Trọng Lư sớm diễn tả sắc nét hơn ai những không gian chật hẹp trong phố cũ
Hà Nội, khi mà khoảng không bên trên lòng đường vẫn có thể kết nối những con
người sống ở hai bên phố (Em là gái trong khung cửa), hoặc, những cầu thang hẹp
và tối vẫn có thể là nơi “kỳ ngộ” nhất thời của hai kẻ tha phương (Mẹ con),
v.v…
Nhưng chính thành phố Huế
vài ba thập niên đầu thế kỷ XX mới là không gian được Lưu Trọng Lư mô tả chăm
chú hơn cả, có chiều sâu hơn cả.
(1) Xem
các bài: a/ Chương Dân: Tiểu phê bình về sách vở: “Người sơn nhân” của
Ngân Sơn tùng thư, tác giả Lưu Trọng Lư // Phụ nữ thời đàm, Hà Nội, s. 5
(15/10/1933), tr. 6-8; b/ P.K.: Lời bạt sau bài “Đọc bài phê bình ‘Người
sơn nhân’ của cô Nguyễn Thị Kiêm” của cô Thụy An // Phụ nữ thời đàm, Hà Nội,
s. 15 (24/12/1933), tr. 5-7; c/ Phan Khôi: Lời phụ sau bài phê bình ‘Hồn
bướm mơ tiên’ của ông Trần Thanh Mại // Phụ nữ thời đàm, HN, s. 18
(14/1/1934), tr. 11-15;
(2) Trương
Tửu (1935): Văn học Việt Nam hiện đại, in lại trong sách: Tuyển
tập nghiên cứu phê bình, / Nguyễn Hữu Sơn, Trịnh Bá Đĩnh biên soạn/ Hà
Nội: Nxb. Lao động – Trung tâm văn hóa-ngôn ngữ Đông Tây, 2007, tr. 146-154.
(3)
Vũ Ngọc Phan (1942): Nhà văn hiện đại, phê bình văn học, tái bản, Nxb. Khoa học
xã hội, Tp.HCM., 1989, tr. 672-689.
(4)
Phạm Thế Ngũ (1961): Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập III:
Văn học hiện đại 1862-1945, tái bản, Đồng Tháp: Nxb. Đồng Tháp, 1996, tr.
559-560.
(5)
Xem mục từ “Lưu Trọng Lư” do Nguyễn Văn Long viết, trong Từ điển văn học, Đỗ Đức
Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu… biên soạn, t. I, Hà Nội: Nxb. Khoa học xã
hội, tr. 418-419. Từ điển văn học, bộ mới (Nxb. Thế giới, H. – Tp. HCM., 2004)
cũng của nhóm soạn giả trên, mục từ “Lưu Trọng Lư” hầu như không có thay đổi gì
so với bản in 1983 dẫn trên.
(6)
Chi tiết, xem: Lưu Trọng Lư, Tuyển tập (thơ, văn xuôi, kịch thơ)/ Nguyễn Văn
Long sưu tầm, tuyển chọn, giới thiệu, Hoàng Trung Thông viết lời bạt / Hà Nội:
Nxb. Văn học, 1987, 452 tr. 13x19 cm.
(7)
Xem trong: Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam (từ cuối thế kỷ XIX đến
1945) / Vũ Tuấn Anh-Bích Thu chủ biên/ Hà Nội: Nxb. Văn học, 2001, tr. 234-6,
300-3, 473-6, 476-9, 713-6, 716-8; tr. 1118.
Trong thế giới các truyện
về Huế của Lưu Trọng Lư có phạm vi đời sống của những nam thanh nữ tú kiểu mới,
học trường Pháp-Việt, đọc những tác phẩm mới nhất của văn chương Pháp, gặp gỡ
nhau tại những nhà vườn rộng rãi, đến với tình yêu như những kẻ hoàn toàn tự
do (Huế một buổi chiều). Ngay trong giới này, Lưu Trọng Lư không quên những kẻ
thất cơ lỡ vận, sa chân vào cảnh đời trụy lạc; nét riêng của Lưu Trọng Lư, −
so với Vũ Trọng Phụng, người cùng thời cũng nhiều năm gắn bó với Hà nội
báo và nhà Tân dân − là họ Vũ nhìn hiện tượng mại dâm chủ yếu ở
phương diện sự tha hóa xã hội, còn họ Lưu lại chú trọng phương diện cá nhân cụ
thể của những phụ nữ sa cơ lỡ bước. Không ngẫu nhiên ông chọn mấy trường hợp
những “cô lái đò sông Hương” − những gái bán hoa − như họ vốn là con quan gặp
nạn (Gió cây trút lá) thậm chí vốn là công chúa của vương triều (Nàng công
chúa Huế); ông không chỉ nhìn thấy số kiếp “sống làm vợ khắp người ta” của họ,
mà còn nhận ra, đôi khi một cách nghịch lý, nét nghệ sĩ tài hoa cùng tâm hồn
thanh khiết, khát vọng tự do của họ; − đây là thứ tự do cá nhân, tự do nhân
cách, nó tương phản với tình cảnh trụy lạc mà họ lâm vào, nó cho thấy Lưu Trọng
Lư nhấn vào nét bi kịch trong tâm hồn họ hơn là vào trạng thái trụy lạc thảm
hại của họ.
Trong thế giới truyện ngắn
truyện dài Lưu Trọng Lư cũng đậm nét không kém là không gian Huế như biểu tượng
tập trung của chế độ quân chủ quan liêu lỗi thời, “cái xứ đi đâu một bước
cũng chạm phải không quan lớn thì quan bé, cái xứ bài ngà, kim khánh, mũ cánh
chuồn, áo thụng xanh, xà cạp đỏ”, cái xứ vẫn là đất sống của những viên quan
hiểu rõ mình đã bước vào thời “kim tiền vạn năng”, sẵn sàng biến quan trường
thành thương trường, sống bằng chạy chức, chạy quyền, chạy án, kiếm tiền từ sự
oan khuất của kẻ khác, chiếm đoạt tài sản của họ, biến những nữ sinh đang tuổi
hoa mộng, kể cả đứa cháu gái của vợ, thành thê thiếp của mình (Cô Nguyệt); đất
Huế ấy, nhiều chàng trai cảm nhận được chút ít tư tưởng mới đã rời bỏ nó để
ra đi (Từ thiên đường tới địa ngục), v.v…
Về thế giới nhân vật trong
truyện của Lưu Trọng Lư, có một nét khá nổi bật là ông thường xây dựng những
nhân vật chính như là những con người thất bại. “Quan lớn Lê”, − nhân vật của
dã sử, của truyền thuyết địa phương, tìm đường đến hộ giá vua Hàm Nghi, sau sự
kiện kinh thành thất thủ, đang lẩn lút trong miền rừng núi, rồi vua bị kẻ dưới
trướng chỉ điểm cho quân Pháp bắt, nghĩa quân Cần Vương tan rã, “quan lớn Lê”
trốn vào rừng sâu, có thể sẽ trở thành “người sơn nhân” − rõ ràng là một anh
hùng thất bại.
Rất nhiều nhân vật của các
truyện thế sự, truyện tình yêu, đều được Lưu Trọng Lư mô tả thành những kẻ thất
bại.
“Thằng Đối” yêu “con
Vịnh”, nhưng bị cha mẹ ngăn cấm, Đối bỏ đi lên nguồn buôn bán, Vịnh có mang bị
làng phạt vạ, buộc phải lấy thằng Mõ; rồi Đối chết ở nơi tha phương, Vịnh ôm
hận nuôi con (Khói lam chiều); đó là hai nạn nhân của những phong tục lạc hậu
nơi làng xã.
Nhung và Đông yêu nhau
trong môi trường học trò Hà Thành, nhưng cha Nhung, một viên thư lại nhỏ
trong triều Huế nhân về thăm nhà và phát hiện những dấu hiệu kiểu “gái tân thời”
trong nhật ký của con gái, đã quyết định đưa nàng vào Huế rồi ép gả nàng cho
một viên tri huyện trẻ; Đông tìm cách gặp lại Nhung nhưng nàng xin chàng quên
mình đi để được làm một kẻ tầm thường (Cô Nhung).
Thiệu yêu Quỳnh, cô gái
quê theo Công giáo; sau khi Thiệu được bổ tri huyện, được cha mẹ cưới cho cô
vợ con quan, chàng không dám phản kháng, chỉ lặng lẽ tìm gặp Quỳnh; hai người
đã toan bỏ quan, bỏ đạo để đi trốn với nhau, nhưng khi Thiệu đến thì Quỳnh đã
tự tử bằng thuốc độc (Bến cũ).
Nhà thơ Liên và nữ sinh Cẩn
cùng từ Huế ra Hà Nội trên một “chuyến tàu định mệnh”, họ quen biết nhau,
thân thiết nhau, rồi yêu nhau trong không gian phố cũ Hà Thành chật hẹp,
nhưng rồi Cẩn phải từ bỏ tình yêu, từ bỏ Hà Nội trở về Huế để nhận lỗi trước
gia đình và tự kết liễu đời mình, chỉ vì nàng đã trót yêu một thi sĩ đã vợ
con đề huề (Em là gái bên song cửa).
Đề tài “Romeo và Juliet” gợi
hứng cho rất nhiều câu chuyện tình dưới ngòi bút Lưu Trọng Lư, có khi ông đưa
thẳng sự tích Tây Âu này vào truyện (đoạn Cẩn và Liên vào rạp Majestic ở Hà Nội
xem phim này trong Em là gái bên song cửa, tình tiết kỹ nữ Lan mượn
cuốn “Roméo et Juliete” của bác sĩ Hải trong Gió cây trút lá, v.v.).
Theo cách thức này, tình yêu càng kỳ ngộ, càng gặp trắc trở lại càng tự chứng
tỏ tính “đích thực” của mình, và sự cản trở, hủy hoại nó càng đáng bị lên án.
Những nữ nhân vật chính kể
trên (Nhung trong Cô Nhung, Quỳnh trong Bến cũ, Cẩn trong Em
là gái bên song cửa) đều được mô tả như những thiếu nữ tân thời, học trường
Pháp Việt, muốn được sống theo văn hóa mới, tự lập, tự lựa chọn người yêu,
nhưng bị cha mẹ buộc quay vào lối sống cũ, họ không dám hoặc không đủ sức chống
lại, đành miễn cưỡng tuân phục, “nhắm mắt đưa chân”. Lưu Trọng Lư ở đây đã lặp
lại và làm đậm thêm bi kịch của nàng Tố Tâm (trong tiểu thuyết cùng tên, Tố
Tâm, viết 1922, in 1925, của Hoàng Ngọc Phách); đây là giai đoạn đầu của
những con người cá nhân, − những “con người mới” của thời đại, − trước khi họ
có thể đi tới giai đoạn sau, phản kháng quyết liệt hơn, trong thế giới tiểu
thuyết của Khái Hưng (Nửa chừng xuân), Nhất Linh (Đoạn tuyệt). Ta nhớ rằng
các tác phẩm tự sự của Lưu Trọng Lư và của Khái Hưng, Nhất Linh là những sáng
tác cùng thời; việc Lưu Trọng Lư đưa thế giới nhân vật “con người mới” của
mình trở lại giai đoạn Tố Tâm có thể là lý do khiến các tác phẩm của ông
không gây tiếng vang như tiểu thuyết của hai nhà văn trong Tự Lực văn đoàn,
nhưng đây lại như một thứ “ánh xạ” cho thấy sự chuyển biến chậm trễ, quẩn
quanh của con người và xã hội Việt Nam.
Sự thất bại của các nhân vật
chính ở văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư không chỉ được giải trình như hậu quả những
cản ngại từ họ hàng, gia đình hay từ khác biệt tôn giáo. Huy rơi “từ thiên đường
xuống địa ngục” không chỉ vì đời sống vợ chồng chàng bị mẹ chàng giám sát gắt
gao, không chỉ vì bản thân chàng bị cha mẹ buộc phải đi làm quan trong khi ở
chàng đã nảy sinh những “tư tưởng xã hội” do tiếp xúc với chủ nghĩa Mã Khắc
Tư (marxisme), mà còn chủ yếu vì chàng đã “thoát ly” gia đình một cách rất
tùy hứng, không tìm thấy cách sống và lý tưởng nào khả dĩ khi rời xa gia đình
(Từ thiên đường đến địa ngục); đây là thất bại của sự “nổi loạn” quá non nớt,
khờ khạo, của một kẻ “tiên thiên bất túc”.
Không ngẫu nhiên Lưu Trọng
Lư thường đưa thư tín vào văn bản tiểu thuyết: đây từ lâu đã được xem là cách
rất tốt để thể hiện thế giới tâm lý, tư tưởng của nhân vật. Việc Liên (tiểu
thuyết Cô bé hái dâu) thú nhận lầm lỗi của mình ở thời khắc quyết định −
ruồng rẫy Dương, trốn chạy Dương khi Dương bày tỏ tình cảm với Liên trong
không gian hang động kỳ thú, kết cục là đánh mất tình yêu, − chỉ qua thư từ
“cô bé hái dâu” ấy viết cho bạn, mới tỏ rõ mức độ ân hận, mức độ thất bại của
nhân vật.
Lưu Trọng Lư hình dung ra
nhiều kiểu thất bại. Không chỉ việc nhân vật chính bị mất người yêu, bị tình
phụ, phải chọn cái chết, mới cho thấy thất bại của con người.
Trong Cô gái tân thời,
anh chàng Lương thật sự thích cô bé Yến là em gái Hiến bạn chàng, nhưng trước
sự săn đón của Vinh, cô gái tân thời con nhà giàu mà gia đình mai mối, Lương
“tặc lưỡi” quên Yến để lấy Vinh. Rồi Lương toan tính dùng tiền bạc của ông bố
vợ giàu có để làm báo mà chàng cho là một sự nghiệp có ý nghĩa xã hội to lớn.
Nhưng chàng đã không biết cách chèo chống tờ báo trước sự cạnh tranh. Chàng
nhanh chóng dẹp tờ báo, mở tiệm khiêu vũ, rơi dần vào các thói ăn chơi hành lạc.
Rồi vợ chồng chàng được hưởng thừa kế gia sản bố vợ, trở nên giàu có. Đến lượt
tham vọng mở báo lây sang vợ chàng, nhưng chàng đã truyền nỗi hoài nghi tác dụng
của nghề báo sang cho vợ, khiến vợ chàng nhanh chóng đi tới quyết định đóng cửa
tờ báo chính vào lúc nó được coi như điểm tựa của một phong trào nữ quyền
đang lên. Họ trở lại sống cuộc sống tầm thường của những trọc phú, nhiều lạc
thú nhưng ít lý tưởng. Đây là một chuỗi dài những “tụt dốc” về lý tưởng sống,
từ thanh cao trong sáng tụt dần xuống tầm thường dung tục.
Với những kẻ thất bại như
Huy (Từ thiên đường đến địa ngục) như vợ chồng Lương (Cô gái tân thời), ngòi
bút tác giả ngày càng lộ một nụ cười mỉa mai. Mỉa mai những kẻ thất bại vì những
động cơ hành động quá tùy hứng, nông nổi, vì chất lý tưởng hết sức hời hợt ở
họ.
4.
Trong cộng đồng văn học Việt
Nam trước năm 1945, hoạt động văn học của Lưu Trọng Lư ban đầu gắn với nhóm
Ngân Sơn tùng thư ở Huế (1933) gồm một số thành viên: Lưu Trọng Lư, Hoài
Thanh, Thái Can, v.v… Nhưng nhóm này, − cũng như tình trạng chung của văn
nhân thi sĩ thành Huế đương thời − không đủ sức trở thành một trong những
trung tâm hoạt động văn học, nên hầu như chỉ một năm sau đó, từ 1934, Lưu Trọng
Lư đã chuyển hướng cộng tác ra Hà Nội.
Có lúc ông tham gia nhóm Hà
Nội báo (1936-37) của chủ nhân Lê Cường; bên cạnh các bạn viết Lê Tràng
Kiều, Huy Thông, Vũ Trọng Phụng, Thái Can, Trần Bình Lộc, v.v… và một vài tờ
báo văn chương khác, như Phụ nữ thời đàm tập mới do Phan Khôi làm
chủ bút (1933-34); Đông Dương tạp chí tục bản do Nguyễn Giang chủ
trì và Vũ Trọng Phụng là thư ký tòa soạn phần tiếng Việt (1937-38); Hà Nội
tân văn của chủ nhiệm Vũ Đình Dy và chủ bút Vũ Ngọc Phan (1940-41).
Nhưng tựu trung nơi ông gắn bó lâu dài và thường xuyên là các ấn phẩm của nhà
xuất bản Tân Dân, từ Tiểu thuyết thứ bảy (1934-44), qua Phổ
thông bán nguyệt san (1938-44), đến Tao đàn (1939).
Hầu như Lưu Trọng Lư không
cộng tác gì với các cơ quan của Tự Lực văn đoàn (các báo Phong hóa, Ngày
nay, nhà xuất bản Đời nay).
Thế nhưng những sự việc vừa
nêu chủ yếu chỉ thuộc về phương diện liên kết cộng tác trong việc công bố,
đăng tải tác phẩm, chứ không trực tiếp chi phối thị hiếu, xu hướng sáng tạo
văn chương.
Nếu như các thành viên Tự
Lực văn đoàn có chung một số tôn chỉ xã hội và nghệ thuật, thì giữa những
nhà văn cộng tác với nhà Tân Dân lại không hề có những cam kết đồng thuận
chính thức nào về bất cứ điều gì; họ dường như mặc nhiên chấp nhận những khác
biệt của nhau cả về thái độ xã hội lẫn quan niệm nghệ thuật. Chẳng hạn, tồn tại
bên cạnh một Vũ Trọng Phụng ưa dùng tả chân để tố cáo, phê phán, thì Lưu Trọng
Lư vẫn có thể đưa đẩy ngòi bút của mình theo những đề tài mộng mơ, trữ tình,
thậm chí lãng mạn. Một vài tác phẩm văn xuôi tự sự của Lưu Trọng Lư thậm chí
có những nét gần gũi sáng tác của Khái Hưng, Nhất Linh, Thạch Lam, trong khi
sáng tác thơ Lưu Trọng Lư vốn đã có những nét khá gần gũi sáng tác thơ của Thế
Lữ, Huy Cận, − những nhà thơ của văn đoàn Tự Lực.
Trong giới nghiên cứu văn
học sử, không ít học giả đã từng gắn sáng tác của các tác gia Tự Lực văn đoàn
với chủ nghĩa lãng mạn (romantisme). Sự xác định này chỉ tương đối rõ rệt cho
mấy nhà thơ trữ tình trong Tự Lực như Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, nhưng vị tất
đã thỏa đáng nếu áp dụng cho nhà thơ trào phúng Tú Mỡ, cũng là một thành viên
khác của Tự Lực. Đối với văn xuôi tự sự của các tác giả Tự Lực, − xin nhớ lại,
− trong khi hầu hết học giả ở miền Bắc Việt Nam những năm 1960-70 muốn coi đó
là tiểu thuyết lãng mạn, thì một vài học giả Nga Xô-viết tiếp cận các sáng
tác này lại muốn xem đó như những sáng tác thuộc chủ nghĩa tình cảm
(sentimentalisme). Chiều hướng nhận định này không chỉ là kết quả sự đọc kỹ của
họ, mà còn đáp ứng sơ đồ lý thuyết về một quá trình văn học sử thông thường,
theo đó chủ nghĩa tình cảm được xem như bước đi tới chủ nghĩa hiện thực
(réalisme) ở các nền văn học dân tộc; mà dấu hiệu của “tiến bộ nghệ thuật”,
trong tư duy của học thuật suốt nhiều năm dài nằm trong ảnh hưởng của trung
tâm Xô-viết, lại là việc một nền văn học dân tộc tiến về phía “chủ nghĩa hiện
thực”!
Đó là chưa tính tới một thực
trạng không kém “đặc thù” khác trong đời sống văn nghệ những năm 1950-70 ở miền
Bắc, khi mà hầu hết di sản văn chương “tiền chiến” đều bị hạ giá trong cái
nhìn chính thống, thì định ngữ “lãng mạn” thậm chí còn là dấu hiệu để tăng tiến
sự hạ bậc, và tự nhiên, những chủ nhân của phần di sản bị “yểm bùa” kia rất
không muốn bị gắn thêm nhãn mác; đồng thời những nhà phê bình được tiếng cứng
rắn lại vẫn sẵn lòng áp dụng lối định giá quá khứ theo cái ghế hiện tại, ngấm
ngầm miễn giảm những định ngữ nguy hại cho những nghi can xưa mà nay đang là
quan chức của nền văn nghệ chính thống (có thể Lưu Trọng Lư ít nhiều được hưởng
sự chiếu cố này!); sự định giá trong phê bình nghiên cứu văn nghệ quá khứ
theo các chuẩn ý thức hệ hiện tại, lại thấm qua những ngóc ngách của mỗi sự
chiếu cố hoặc trách phạt đơn lẻ, rốt cuộc đã mất đi tính phổ quát thực sự của
quan niệm lý thuyết. Rốt cuộc, chuyện có hay không có một khuynh hướng lãng mạn
trong văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, diện mạo, đặc tính của nó ra sao,
v.v… − điều đó cho đến nay vẫn là những vấn đề văn học sử chưa hề được giải
quyết nghiêm túc.
Tạm rời xa những khung tư
duy văn học sử lý thuyết đã được đề xuất mà với thời gian càng ngày càng bộc
lộ tính quy phạm, trở lại những hiện tượng văn chương vốn sinh động, giàu sự
khác biệt mà cũng nhiều cạnh khía tương đồng, ta vẫn có thể duy trì một nhận
định, theo đó, một phần đáng kể sáng tác tự sự của Lưu Trọng Lư, − cũng tương
tự sáng tác thơ của ông, − bộc lộ một khunh hướng phong cách lãng mạn khá rõ
rệt. Lãng mạn, ở thế giới tiểu thuyết Lưu Trọng Lư, không chỉ biểu lộ ở sự tập
trung quá rõ vào các chuyện tình yêu, trong đó dang dở nhiều hơn hạnh đạt;
“lãng mạn” ở văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư còn lộ rõ thậm chí ở ngay ngôn từ tự
sự của ông, một ngôn từ thường trực khả năng “lên cơn sốt” xúc cảm với những
cơn sóng tràn bờ, mở đường cho độc thoại của nhân vật hoặc các trường đoạn mô
tả tâm lý nhân vật và “ngoại đề trữ tình” của chính người kể chuyện. Tất
nhiên sự phóng túng, muốn vượt thoát các khuôn khổ, ở văn tự sự của ông, lại
như trái với những xử lý thường là dè dặt cho sự phát triển tính cách: các nhân
vật của ông thường tự kết liễu hoặc đầu hàng hoàn cảnh thay vì dám vượt qua
giới hạn. Nhưng chính sự xử lý kiểu này lại không trái với “nguyên tắc” lãng
mạn nói chung: độ chênh giữa thực tại và lý tưởng vẫn được tô đậm. Phần lớn
các nhân vật của Lưu Trọng Lư đều có thể được coi là các “nhân vật lãng mạn”,
họ ôm ấp những giá trị tốt đẹp trong lòng đến tận những giây phút cuối, nhưng
không đủ sức để biến chúng thành thực tế; đối mặt sự đời thô kệch, những mộng
đẹp đều tan vỡ.
Tóm lại, theo tôi, lãng mạn
là nét phong cách khá nổi bật ở văn xuôi tự sự trước 1945 của Lưu Trọng Lư. Tất
nhiên điều này không ngăn cản việc ở phần sáng tác này của ông, ta còn có thể
tìm thấy những minh chứng về sự tố cáo những biểu hiện phi nhân tính, phản xã
hội ở cuộc sống đương thời, − tức là những thuộc tính thường vẫn được gắn cho
văn chương “tả thực phê phán”. Lại cũng có thể tìm thấy ở mảng sáng tác này của
ông những trường đoạn, thậm chí gần như nguyên vẹn cả một tác phẩm cho thấy
những tập tục sinh hoạt của cư dân Việt, từ tục phạt vạ gái chửa hoang (Khói
lam chiều) đến tục chặn đường đám đón dâu để xin “cheo” (Chiếc cáng xanh), hoặc
những quan hệ dòng tộc theo phụ hệ giành ưu thắng trong gia tộc (Dòng họ),
v.v… nhưng cũng không dễ để có thể coi Lưu Trọng Lư như nhà văn phong tục.
5.
Trở lên là một số nhận xét
sơ bộ về mảng văn xuôi tự sự trước 1945 của Lưu Trọng Lư, nhân hoàn thành một
sưu tập các tác phẩm loại này của ông.
Đây dĩ nhiên mới chỉ là những
nhận xét rất sơ lược.
Điều chủ yếu chúng tôi đã
làm, với tập sách này, là giới thiệu lại một phần di sản của ngòi bút Lưu Trọng
Lư, đã từng bị quên lãng suốt hơn nửa thế kỷ. Sưu tập này có thể làm phong
phú hơn những hiểu biết về Lưu Trọng Lư, không chỉ như nhà thơ, nhà viết kịch
và hoạt động sân khấu, mà còn như một tiểu thuyết gia.
Việc khôi phục lại được những
phần đã bị bỏ quên hoặc mất mát của mỗi tác giả luôn luôn đem lại niềm vui
cho người nghiên cứu sưu tầm. Còn việc chính di sản ấy có thể chứa đựng những
ý nghĩa, giá trị như thế nào, - ấy sẽ là công việc của các giới nghiên cứu về
sau.
Hà Nội, 18/01/2011
|
Lại
Nguyên Ân
|
eva airline vietnam
đại lý bán vé máy bay đi mỹ
số điện thoại hãng korean air
vé máy bay giá rẻ đi mỹ khuyến mãi
mua vé máy bay đi canada
Cuoc Doi La Nhung Chuyen Di
Ngau Hung Du Lich
Tri Thức Du Lịch