Ngô Tự Lập sinh năm
1962 tại Hà Nội, nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu văn học, dịch giả… Hội viên
Hội Nhà văn Việt Nam.
|
Một số tác phẩm đã xuất bản:
– Tặng người nhóm lửa, tập thơ, NXB Văn Hóa,
1991; Thế giới và tôi, tập thơ, H.: Văn hoá thông tin,
1997; Chuyến bay đêm tháng sáu, tập thơ, H.: Văn hoá Thông tin,
2000….
– Vĩnh biệt đảo hoang, tập truyện, NXB Văn Hóa, 1991; Tháng có 15 ngày, tập truyện, NXB Văn Hóa, 1993; Mùa đại bàng, tập truyện, NXB Công an Nhân dân, 1995; Mộng du và những truyện khác, tập truyện, NXB Văn Học, 1997; Giấc ngủ kỳ lạ của ông Lương Tử Ban“, Hội Nhà Văn, Hà Nội, 2005…
– Vĩnh biệt đảo hoang, tập truyện, NXB Văn Hóa, 1991; Tháng có 15 ngày, tập truyện, NXB Văn Hóa, 1993; Mùa đại bàng, tập truyện, NXB Công an Nhân dân, 1995; Mộng du và những truyện khác, tập truyện, NXB Văn Học, 1997; Giấc ngủ kỳ lạ của ông Lương Tử Ban“, Hội Nhà Văn, Hà Nội, 2005…
– Văn chương như
là quá trình dụng điển (chuyên luận), Tri Thức, Hà Nội, 2008; Những
đường bay của mê lộ, H.: Nxb. Hội Nhà văn, 2003; Gương mặt kẻ
khác (tiểu luận), H.: Phụ nữ, 2009
– Chiếc bát mang hình thế giới (Werner
Lambersy), Ngô Tự Lập dịch,H.: Văn học, 2001; Đôi mắt lụa: Truyện ngắn
thế giới chọn lọc (Francoise Sagan, Tahar Ben Telloun, Anberto Moravia…;
Người dịch: Ngô Tự Lập, Ngô Bích Thu, Ngô Huy Bội, H.: Văn học,
1998; Hoa máu: Những truyện ngắn hay nhất thế giới, Người dịch: Ngô
Tự Lập, Ngô Huy Bội, H.: Văn hoá, 1994
Giải thưởng: giải “Tác phẩm tuổi xanh” của
báo Tiền Phong (1991), giải “Hoa Phượng Đỏ” của Hội VHNT Hải Phòng
(1992), giải sáng tác về “Biển và Hải Quân” của Bộ tư lệnh Hải quân (1990), giải
thưởng sáng tác văn học của NXB Hà Nội (1993), giải thưởng truyện ngắn hay 2003
của báo Người Lao Động TP Hồ Chí Minh (2003), giải thưởng cuộc thi tiểu
luận “Về trí thức và phát triển” của tạp chí Khoa Học và Tổ Quốc (2003),
Giải “Bông Hồng Vàng” về truyện ngắn của Hội Tấm Lòng Vàng (1994), Tặng thưởng
về dịch thuật văn học của tạp chí Văn Nghệ Quân Đội (1990)…
Truyện ngắn của Ngô Tự Lập
Hố nhỏ đã thành hố lớn, rồi thành ao cạn, còn xung
quanh đất cao dần lên mãi, chất ngất lưng chừng trời.
Nhưng dù có cao nữa, tới tận đỉnh trời, thì lão
cũng phải đào cho kì cùng, phải làm rõ thực hư – bấy lâu nay lão nằm mơ hay tỉnh?
Nếu tỉnh thì mọi chuyện xảy ra lâu lắm rồi, từ khi
lão mới ngoài ba mươi, nhà lão chưa bị bão cuốn đi, còn chỗ này là cây ổi dại,
cao ngang đầu người, quả sần sùi như bị mụn cơm, thỉnh thoảng lão buồn tay hái
về chấm muối, ăn chát xít.
Đàn ông ngoài ba mươi tuổi chưa có vợ coi như dở
hơi. Lão không có tiền cưới vợ, nhưng đào đá ong khoẻ nhất vùng. Lão tưởng chiếc
thó(1) có thể làm được tất cả, vì thế vẫn thường tơ tưởng đến cái lúm đồng
tiền sâu như tổ cùng cùng(2) trên má cô Bống, con gái ông Cả Lễ.
Trong làng người ta hay đem lão ra làm trò cười.
Nhưng lão chẳng thấy có gì đáng cười. ừ thì lão quanh năm sù sụ đôi giày lính
(bấy giờ còn chưa há mõm). Nhưng đâu phải cứ đi giầy là nóng. Cha lão cũng suốt
đời đi đôi giày ấy – ông cướp được của Tây hồi theo nghĩa quân Đề Thám. Đôi
giày khiến lão lúc nào cũng nhớ đến cha. Rồi cả chuyện lão ở trần cũng vậy. Nghề
đào đá ong có khác gì đánh vật, suốt ngày mồ hôi mồ kê như tắm, quần áo dài chỉ
tổ vướng. Vả lại, tiền công mỗi ngày mỗi hạ, đến hai bữa cơm độn sắn khô với mắm
tép còn chưa đủ, nói gì đến áo với chả quần.
Ngôi nhà lá một gian hai chái, nằm tách biệt bên
kia sườn đồi. Lão nấu cơm trong nhà, uống nước mưa bằng gáo dừa, lót ổ rơm thay
chõng. Không biết ngày trước do làm nghề đào đá nên cha lão dựng nhà ở đây hay
do tình cờ ở gần vỉa đá mà làm nghề ấy. Năm lên mười, mẹ mất, lão cũng bắt đầu
cầm cán thó.
Lão không có bạn, nhưng trong làng cũng không ai
ghét lão. Thỉnh thoảng lại có người ra tìm, nhờ làm giúp những công việc nặng,
tỉ như đầm nền nhà, sửa chuồng lợn… Lão ngắc ngắc cái đầu. Như thế nghĩa là đồng
ý, và vui lắm. Công xá khỏi phải lo, một bữa cơm rượu là xong. Dân làng cũng
nghèo, thường chỉ có rượu với lạc rang. Lão không thuộc hạng bợm rượu, bất quá
vài chén con. Nhưng lão thích cảnh khề khà trên chiếu, chân xếp bằng tròn,
nghĩa là giống những người đàn ông khác. Không nói với ai, nhưng nếu lâu lâu
không thấy người ra lão lại bồn chồn, có ý chờ.
Hôm sửa chuồng bò cho nhà Cả Lễ, lão gặp may. Con
gà mái mơ tưởng mất trộm (bà Cả Lễ đã chống nạnh đứng chửi độc suốt một buổi
chiều) hoá ra bị rù chết ngoài bờ tre, kiến bâu đầy, chuột khoét cả hai mắt. Cả
đời lão mới được ăn thịt gà một lần, hồi cha mất. Thịt lợn cũng chỉ ngày Tết mới
dám mua nửa cân bạc nhạc gọi là. Con mái mơ đã già, dai ngoách, nhưng uống rượu
hoá lại hợp. Chỉ có thằng Túc lăn ra sân, khóc vào vạo đến sưng cả mắt. Cô Bống
từ dưới bếp te tái chạy lên dỗ em, cho nó cái chân lỗ chỗ những tổ mò. Đó chính
là lần đầu tiên lão trông thấy cái lúm đồng tiền trên má cô Bống.
Vỉa đá lộ thiên, cách bờ suối không xa. Lão xếp đá
thành kiêu, cạnh đoạn hào do cha để lại. Con đường mòn men theo bờ suối. Về
phía hạ lưu, xuống dốc Cổn, nghe nói rồi còn đi xa nữa, ra tận biển. Bấy giờ
còn Phượng Sò. Lão già chột mắt, giọng the thé, quanh năm bẳn gắt như mắm tôm.
Cứ hai ngày một lần, lão lộc cộc đánh xe bò lên – chiếc xe cũng rệu rã và sặc
mùi rượu như chính lão – chở đá đi bán cho phu mỏ.
Một hôm lão nghe tiếng thằng Túc. Vẫn tiếng khóc
hôm con gà mái mơ của nó bị vặt lông. Hoá ra nó đi tìm bê lạc. Lão vừa trông thấy
con bê ấy lởn vởn đâu đây. Con bê tuyệt đẹp, mũi hếch, xoáy trên mông mượt như
một khóm vậy nà.(3)
Lão bất giác nhớ đến vị ngọt của thịt gà. Lão bảo:
– Túc, mày có thích ăn bánh đa khoai không?
– Bánh đa khoai như của bà Song bán ngoài gốc đa ấy
à?
– ừ, dưng mà to hơn, có nhiều vừng nữa. Mày thích
thì xuống suối mà lấy, chỗ hòn đá trắng kia kìa.
Mắt thằng Túc vụt ráo hoảnh. Nó quên bẵng con bê lạc,
chạy biến xuống chân đồi.
Dĩ nhiên làm gì có bánh đa khoai dưới đó.
Con bê đang nép mình dưới gốc ổi dại. Khi lão túm lấy
tai nó, nó tỏ vẻ mừng rỡ, cọ cọ khóm vậy nà vào đầu gối lão. Nó vẫn chưa biết sợ.
Lão vung chiếc thó lên. Thậm chí không nghe cả tiếng xương sọ vỡ. Con bê ngã vật
xuống đất, bốn chân từ từ duỗi ra. Cặp mắt ốc nhồi đau đáu nhìn lão như kinh ngạc.
– Chú Tảo, sao giết bê của cháu!
Tiếng kêu thảng thốt của thằng Túc khiến lão giật
mình. Hai tay giật bắn, lão từ từ đứng dậy. Không biết mặt lão lúc đó ra sao,
nhưng thằng Túc vụt nín bặt rồi bất ngờ vùng chạy. Lão như bừng tỉnh. “Nó là em
cô Bống” – Lão chỉ kịp nghĩ vậy. Lão chộp lấy chiếc thó, đuổi theo. Thằng Túc
không chạy nổi. Nó bò, tay chân cào cấu như bị bóng đè. Cái gáy nó bé tẹo, loe
toe những sợi tóc vàng cháy vì phơi nắng.
Trời ơi! Con quỷ nào đã khiến lão trở nên độc ác và
khát máu? Đến tận bây giờ lão vẫn không sao quên được hình ảnh thằng Túc nằm
sóng soài trên mặt đất, chân tay doãi ra, chẳng khác nào một con chim non bị
ném từ cành cao xuống. Máu rỉ ra hai bên mang tai. Chỉ một nhát cán thó
đã là quá thừa với nó.
Lão bế thằng Túc lên tay. Người nó mềm và ấm, có cảm
tưởng đang ôm một con chó cún. Bây giờ thì chính lão bị bóng đè. Bập bỗng như
đi trên mây, lão leo ngược sườn đồi, bới đất, chôn thằng Túc dưới gốc ổi.
Lão không quên xoá sạch dấu vết trước khi xuống suối.
Nước lạnh làm người ta bình tĩnh lại. Cỏ và cành khô không thiếu. Lão nhóm lửa
ngay cạnh cây ổi. Con bê vẫn đau đáu nhìn. Hai nhát thó sùn sụt vào mông nó, giữa
khóm vậy nà, lóc ra tảng thịt còn nóng hổi, đỏ lòm, ròng ròng máu. Lão róc một
cành ổi làm xiên.
Khói bốc lên nghi ngút. Dĩ nhiên lão không biết rằng
đó vẫn là thứ khói lửa mà tổ tiên đã nhóm hàng nghìn năm về trước, khi rừng
nguyên sinh còn trải ra bạt ngàn hai bên bờ dòng Nhị Hà đỏ ngầu như máu.
Trong sương mù, không gian dần dần ngả sang màu lam
xám. A ha, nước miếng tứa ra đầy miệng. Lần đầu tiên lão được nếm thịt bò. Lão
vẫn nhớ đó là một tảng thịt. Hai hàm răng to khoẻ đầy bựa cắm ngập vào lớp cơ
nhùn nhũn vừa kịp ám khói.
Ngay lập tức lão nôn ộc ra như người say rượu. Mùi
gì gây rợn xông lên không sao chịu nổi. Lão ngồi phịch xuống đất. Xung quanh
lênh láng mật xanh mật vàng. Lão cảm thấy người lạnh toát, nhơm nhớp, ruột gan
lộn tùng phèo. Bên kia đồi trời hoàn toàn lặng gió. Chẳng hiểu sương hay một cột
khói im lìm?
Đột nhiên lão rùng mình, lão sực nghĩ đến mùi thịt
người. Trong làng người ta thường lưu truyền câu chuyện rùng rợn về ai đó
chuyên bắt trẻ con về nấu cháo. Những ý nghĩ khủng khiếp nối nhau. Lão khạc nhổ,
oẹ khan, cảm thấy vị mặn của máu tứa ra trong cổ họng. Chính lão cũng không nhớ
mình đã kéo xác con bê xuống suối như thế nào. Điều chắc chắn là lão đã quên
không cởi giầy. Nước suối lầy nhầy, đen thẫm. Lão dìm con bê xuống giữa tảng đá
phủ đầy rêu trơn nhẫy.
Đêm ập xuống rất nhanh cùng với một trận mưa dữ dội.
Đúng là trời còn thương lão.
Nửa đêm, trong tiếng mưa rơi, lão nghe tiếng người ồn
ào đi tìm thằng Túc. Rõ cả tiếng khóc thút thít của cô Bống con nhà Cả Lễ. Nhà
lão không có cửa, đám người cầm đuốc kéo vào nhà, nước rỏ tong tong xuống nền đất.
– Tôi chẳng nhìn thấy thằng Túc, cũng chẳng thấy
con bê nào sất! – Lão giả đò ngái ngủ.
May mà không ai để ý đến chân lão đang run bần bật.
Không một ai nghi ngờ. Tiếng chân người lép nhép xa dần – họ đi về phía dốc Cổn.
Phải hai ngày sau lão Phượng Sò đánh xe lên lấy đá ong mới trông thấy xác con
bê trôi mãi xuống hạ lưu, gần tới Thiệu Bàn.
Nhưng lão vẫn không thể yên tâm. Lúc nào đám người
cũng có thể bất thần quay lại. Mùi gây thì vẫn không hề giảm bớt, mặc dù sườn đồi
đã được mưa gột sạch. Nhiều khi bất giác, lão hoảng hốt quay lại đằng sau. Lão
run lên mỗi lần nhìn thấy từ đằng xa thấp thoáng bóng người.
Cuối cùng, lão hiểu rằng mùi gây bốc lên từ gốc ổi.
Đúng là mùi thịt người. Dưới đó thằng Túc đang thối rữa. Lão không còn dám vặt ổi
về chấm muối nữa. Lão lấy đất đồi đắp lên. Công việc thoạt đầu giống như người
ta vun gốc, nhưng rồi ụ đất cao dần, lút cả ngọn cây.
Đến nước ấy thì dân làng đều phải nghĩ rằng lão hoá
điên. Người ta bắt đầu đem lão ra làm ngoáo ộp doạ trẻ con. Không ai nhờ lão sửa
chuồng bò nữa, chỉ còn Phượng Sò chột mắt là dám đến gần lão mà thôi. Lão quên
hẳn lối vào làng. Ban ngày đào đá ong, ban đêm lão lại hì hục vác đất đắp gò.
Công việc giống như món cháo lú giúp lão quên đi tất cả. (Cũng có thể chính thời
gian mới là món cháo lú, nhưng đồng thời lại tạo dựng thói quen?)
Không biết tự bao giờ tóc lão đã kịp bạc trắng. Đôi
giày rách hẳn, lão đặt lên bàn thờ. (Giá như ngày trước dân làng lại tha hồ đàm
tiếu). Tay bắt đầu run, nhưng lão vẫn không thể rời cán thó. Mỗi bữa lão vẫn cố
ăn hết ba lưng cơm độn sắn. Phượng Sò chết lâu rồi. Thằng Bản thay cha hai tuần
một lần đánh xe lên lấy đá.
Đất đồi cằn cỗi nhưng bát ngát. Lão trồng thêm sắn
quanh lều, tự thái lát, phơi trên bãi cỏ. Chiều, lão xuống suối bắt cá. Cá suối
nhiều vô kể, bơi từng đàn lấp lánh. Lão lần vào các hốc đá ven bờ. Thỉnh thoảng
lão may mắn vớ được một con cá ba gai đã mù cả hai mắt vì già yếu, da trắng nhợt
như ngâm nước vôi, đang thoi thóp những ngày tháng cuối cùng.
Lão vẫn không ngừng việc đắp gò. Và lão vẫn nhớ cái
tổ cùng cùng trên má cô Bống nhà Cả Lẽ. Một hôm lão quanh co hỏi qua thằng Bản.
Nó ngẩn người rồi phá lên cười:
– Cô Bống ấy à? Sắp xuống lỗ rồi. Kia kìa, cháu nội
cô ấy đấy!
Lão ngẩng lên và đánh rơi chiếc thó. Trước mắt lão
là thằng Túc. Nó đang vào vạo khóc. Vẫn mái tóc loe hoe cháy nắng. Hóa ra nó đi
tìm bê lạc.
Lão định nói rằng chẳng nhìn thấy con bê nào sất,
nhưng bỗng nhìn thấy máu phun ra lênh láng dưới chân. Một ngón chân cái bị lưỡi
thó chặt đứt, chỉ còn lại mẩu da lủng lẳng. Lão vội vàng lê vào rệ cỏ, bứt lá rịt
vào vết thương. Bấy giờ lão mới lại nhớ đến thằng Túc. Nhưng nó đã không còn ở
đó.
Lần đầu tiên trong đời lão ốm. Trong người gai gai ớn
lạnh, lão về nhà sớm, nấu cháo, nhưng miệng đắng ngắt, không sao nuốt nổi. Bên
tai không ngừng văng vẳng tiếng khóc của thằng Túc. Mà có phải thằng Túc thật
không? Chẳng lẽ nó từ dưới đất chui lên?
Lão ngồi phắt dậy. Hay tất cả chỉ là một giấc mơ,
còn thằng Túc bây giờ đang ngồi gặm chân gà? Thế thì may cho lão quá! Ngày mai
lão lại có thể vào làng, có thể nhìn thấy cái lúm đồng tiền trên má cô Bống. Biết
đâu, sẽ có người nhờ đắp nền nhà. Lão lại được ngồi xếp bằng trên chiếu, khề
khà uống rượu với cánh đàn ông.
Ý nghĩ ấy khiến lão khoẻ ra. Lão nằm xuống định bụng
chờ đến sáng sẽ ra đào gò đất. Cầu trời, đừng có thằng Túc nào dưới đó. Nếu quả
thật, tất cả chỉ là một giấc mơ thì lão lại sống y như cũ.
Nhưng lão không thể chờ đến sáng. Chưa bao giờ lão
cảm thấy đêm dài như vậy. ổ rơm hình như có rệp. Lão ngồi dậy tìm thó, lần mò
ra gò đất.
Mặt trời lên cao lão mới dừng tay. Bụng cồn cào vì
đói. Lão quay về lều, ăn qua loa mấy củ khoai sống. Buổi trưa, lão nảy ra một
sáng kiến. Lão đem cả thúng khoai và vại nước xuống hố, ăn uống tại chỗ rồi lại
bắt tay ngay vào việc.
Hố nhỏ đã thành hố lớn, rồi thành ao cạn, còn xung
quanh – đất cao chất ngất lưng chừng trời.
Chiều ngày thứ năm, lão tìm thấy một bộ rễ cây đã mục.
Đất bên dưới xôm xốp, lấm tấm trắng như rắc muối. Chẳng có thằng Túc, chẳng có
gì ở đó. “Vậy là thằng Túc còn sống!” – Lão mừng rỡ khóc rống lên như trẻ nhỏ.
Đột nhiên lão sực nhớ đến một điều hệ trọng. Lão chặt
một mẩu rễ cây, đưa lên mũi ngửi. Rễ cây đã mục, không thể biết có phải là rễ ổi
hay không. Vẻ hân hoan trên mặt lão vụt tắt. Lão thẫn thờ một hồi lâu. Rồi lão
lại vồ lấy thó. Chiếc thó chưa bao giờ phản bội. Nó sẽ giúp lão đào đến tận
cùng. Lão phải làm rõ thực hư, bấy lâu lão nằm mê hay tỉnh?.
15/12/1992
(1) Thó: dụng cụ đào đá ong.
(2) Cùng cùng: một loài côn trùng làm tổ dưới
đất.
(3) Vậy nà: một loại rong nước ngọt.
Truyện ngắn của Ngô Tự Lập
Tặng anh Huỳnh
Cả làng Hoạch không một ai biết rằng đêm ấy thằng
Hùng, con trai bà Hai Vách đã trở về.
Lúc ấy gà vừa gáy canh tư.
Bà Hai Vách nhận ra tiếng bước chân thằng Hùng khi
nó vừa tới chân đồi. Những bước chân bây giờ mạnh mẽ khiến đất đồi rung lên từng
đợt nhưng vẫn láu ta láu táu như xưa, hệt như lúc nó mới tập đi chập chững
trong tay bà.
Bà nhào dậy, vặn to ngọn đèn dầu hoả rồi lập cập ra
mở cửa.
Đã bao đêm bà chờ đợi giây phút này, mặc dù bốn năm
trước bà nhận giấy báo tử của nó. Bấy giờ cả xóm kéo sang chia buồn, an ủi. Với
bản tính nhút nhát, bà không nói gì, chỉ cảm ơn mọi người, nhưng sau đó dứt
khoát không nhận tiền tử tuất. Làm sao thằng Hùng của bà đã chết được cơ chứ.
Nó còn trẻ lắm, khoẻ lắm, ai cũng khen là hiếu thảo. Nó sẽ trở về cho mà xem.
Bà biết nó nhất định sẽ trở về.
Nó sẽ trở về để sớm bật dậy, vươn vai như một con
gà trống choai chưa đủ lông cánh, xách hai thùng nước chạy một mạch từ dưới
chân đồi lên. Nó cày giỏi, gặt giỏi, đường cày thẳng băng mà ngọt. Buổi chiều
nó vác búa đi đánh gốc bạch đàn làm củi và không bao giờ quên kiếm đoạn rễ chay
cho mẹ nhai trầu.
Chẳng hiểu sao bà lại tin rằng thằng Hùng sẽ trở về
vào ban đêm. Vì thế ban đêm bà rất ít ngủ. Bà thắp ngọn đèn dầu, để sẵn trên
bàn thờ, dưới tấm ảnh chồng. ở đấy bao giờ cũng có một cặp bánh chưng. Thằng
Hùng thích ăn đồ nếp. Hồi còn ở nhà có lần ngày Tết nó chén hết bay một chiếc
bánh đại. Cái miệng nó nhai nhoay nhoáy, trông mà phát thèm. Bà còn dành sẵn vại
gạo nếp trong nhà. Lo là lo thằng bé về bất thần, chứ còn bà thì cần gì, vài
lát sắn mèo trừ bữa cũng xong. Dầu, gạo nếp và đỗ xanh ngốn hết phần lớn số tiền
bán hoa quả trong vườn.
Bốn năm nay, bà Hai Vách không nhớ đã bao lần gói
bánh chưng để thay cho cặp bánh cũ đã mốc meo trên bàn thờ.
Bốn năm nay ngọn đèn dầu chong chong thức đợi.
Nhà bà Hai Vách nằm trên đỉnh dốc Mù Chang. Dân trong
vùng đã quen đêm đêm từ dưới chân dốc nhìn lên thấy ngôi sao nhỏ nhấp nháy cô
đơn nhưng ấm áp. Người ta xót xa mà nói: “Tội nghiệp bà già. Anh ấy làm sao còn
t rở về được nữa!”.
– Anh ấy làm sao còn trở về được nữa! – Chiều tối
hôm đó dân làng lại nói với nhau như thế. Họ không thể ngờ được rằng niềm tin của
bà mẹ già đã đúng.
Hùng hiện ra trước cửa. Thằng Hùng đây, thằng tí
nhau của bà đây. Nó mặc bộ quân phục màu cỏ úa, ba lô trên vai, chiếc mũ có
ngôi sao lấp lánh, cao quá, chững chạc quá, đúng như bà tưởng tượng.
Hai mẹ con ôm lấy nhau mà khóc thoả thê.
“Nó đã đói ngấu rồi còn gì!”. Bà Hai Vách bóc bánh
rồi ngồi ngắm con ăn. Tổ cha nó, cái miệng nhoay nhoáy, trông mà phát thèm!
Lúc bấy giờ trời đã gần sáng, dân làng Hoạch đang
ngon giấc. Đêm hôm đó cũng như mãi mãi sau này không ai biết rằng thằng Hùng đã
trở về.
Hai mẹ con bà Hai Vách không bao giờ còn xa nhau nữa,
ngôi sao nhỏ cũng thôi nhấp nháy đêm đêm trên đỉnh dốc Mù Chang.
Hôm sau dân làng đưa bà đi bằng một chiếc xe tang.
Lễ mai táng vừa xong thì trời đổ mưa. Dân làng ngạc
nhiên: điều đó chứng tỏ họ vừa tiễn biệt một con người hạnh phúc.
24/7/1990
Truyện ngắn của Ngô Tự Lập
Tiếng chim gióng giả gợi nhớ mùi rơm khô xác, rồi
chân trời bừng lên, hừng hực màu đỏ lửa. Một ngày mới đang đến, tôi biết, sẽ lộng
gió và chói nắng.
Hình như nắng gió đã từng là niềm hân hoan đâu đó
trong tiềm thức xa xôi, khi tôi còn bé dại, nằm trong lò rèn của cha nhìn ra
khe cửa. Nhưng bây giờ tôi không chịu nổi, cả gió lẫn mặt trời. Chúng làm tôi mệt
mỏi. Chắc chắn rồi tôi sẽ phải chốc chốc lại hoá thành bụi nước, bốc lên cao
xanh, nghỉ lấy hơi giữa thinh không vô tận. Tôi chỉ thích mặt trăng. Thứ ánh
sáng dịu hiền khiến vạn vật lung linh huyền ảo. Những đêm trăng như thế chính
là lúc tôi chập chờn phiêu du trong vũ trụ.
Thường ngày tôi trở về khi con đường mòn bắt đầu lấp
lánh sáng lên trong nắng sớm. Thân xác tôi ở chân núi Đụn, dưới tảng đá đầu voi
màu xám chì đã bị cỏ lau um tùm che lấp. Nói vậy kể cũng chưa đúng hẳn. Đôi
chân đã cháy thành than dưới gầm xác xe tăng, còn cái đầu văng ra bờ suối. Nước
lũ cuốn ra sông Cái cùng vô số cành cây bị pháo chặt, nó trôi, khi nổi, khi
chìm, nhưng không ra đến biển. Nó mắc lại trên bãi bùn cửa Vẹm, giữa hai gốc
sú, mỗi hốc mắt giờ có một con tôm sắt già trú ngụ.
Thân xác là nhà của tôi, một căn nhà tuyệt diệu,
tuy không còn nguyên vẹn, nhưng yên tĩnh và vắng vẻ. Mấy tháng đầu chỉ có lũ quạ
đói phát hiện ra. Chúng lăn xả vào chân tảng đá, đánh lộn nhau. Những tiếng kêu
om sòm vọng vào vách núi. Nhưng làm sao lay chuyển được hòn đá nặng! Chúng đành
hậm hực bỏ đi, nhường kho báu cho bầy giun đất. Thú thực, kiểu ăn nhí nhách của
loài giun có làm tôi khó chịu. Cũng may, khi thấy chẳng còn gỡ gạc được gì thêm
từ mấy mẩu xương, chúng cũng lũ lượt theo nhau cuốn gói.
Rồi mùa hạ ập xuống. Rồi cỏ mọc trùm lên.
Bây giờ thì sự lãng quên tuyệt đối hoạ hoằn lắm mới
bị làm xao động bởi tiếng gáy của lũ gà rừng vô tư hoặc bước chân rón rén của một
con thú lạc đàn.
Lãng quên – đó là niềm an ủi. Bạn bè cùng tiểu đội
chẳng đứa nào được thế. Không thể nhận biết từng người, người ta đành gom xác họ,
những mảnh thịt xương vung vãi, đem ghép với nhau hú hoạ, gói vào túi ni lông,
chở về nghĩa địa ở ngoại ô thị trấn, chỗ dòng suối nhập vào sông Cái.
Những dòng chữ đỏ trên bia mộ, vàng mã, hoa tươi –
với chúng tôi tất thảy đều vô nghĩa. Chúng tôi đâu có cần ăn mặc, tiêu pha.
Chúng tôi không sợ bệnh tật, chết chóc, cũng như chẳng bao giờ ham muốn, hận
thù. Cả quá khứ cũng không mảy may làm chúng tôi xúc động.
Chúng tôi chỉ có một thói quen: Mỗi năm một lần về
đâu tụ họp. Công sự đã hoá một cái vũng bèo ong nông choèn, thậm chí chật chội
với cả bầy nòng nọc. Cái xác xe tăng không còn ở đó. Hồi đầu năm, dân sắt vụn
mò lên, cắt xẻ, đưa nó xuống tàu. Cùng với chút tro tàn từ đôi chân tôi, nó
đang lên đường lênh đênh sang Nhật.
Chúng tôi không hò hẹn, cũng chẳng có ngôn ngữ để
chuyện trò. Những ai khẳng định rằng đã trông thấy chúng tôi, chẳng qua là bịa
đặt. Chúng tôi như thời gian, làm gì có hình hài. Chúng tôi chỉ linh cảm thấy
nhau, chín thằng, nghĩa là gần đủ mặt, chỉ trừ Hạo Lệch. Nhớ cái đêm mưa gió,
nó lướt thướt bò về, lưỡi cứng lại, không nói được, nhưng vẫn khư khư trong bụng
củ chuối rừng. Thì ra nó sục đi tìm cái ăn, rồi dẫm phải mìn lá. Ôi, sự no đói
khốn khổ. Sự no đói – mà có thời chính tôi cũng bị dày vò – rồi Hạo sẽ thấy, sẽ
không còn dày vò nổi nó.
Không, quá khứ không mảy may làm tôi xúc động, mặc
dù tôi cũng chẳng thể quên. Mười năm là ba ngàn sáu trăm ngày. Ba ngàn sáu trăm
ngày con đường mòn đột nhiên rung chuyển. Chính là chiếc xe tăng ấy, nó hiện ra
từ sau khúc ngoặt, cái bóng đen run rẩy trườn qua thung lũng. Bấy giờ nó đã từng
gieo rắc niềm sợ hãi. Bấy giờ, những người lính lần đầu tiên nhận ra mình là
con của đất, quỳ mọp xuống, cũng từng run như cái bóng đen kia.
Trái lựu đạn nóng bỏng trong tay, tôi bò trên đất ẩm
– gánh nặng trách nhiệm, bản năng tự vệ hay lòng khao khát chiến công?… Cho đến
khi cột lửa bùng lên chói lọi, giống hệt màu bình minh kia… Và tảng đá đầu voi ập
xuống…
Những xác người ngã xuống, chồng lên nhau, lần lượt,
như chuối đổ, trong ánh lửa bốc cao từ chiếc xe tăng, để rồi những lưỡi lê điên
cuồng bổ xuống, xả ra từng mảnh.
Nhưng không có Hạo. Đất đã trùm lên, cứu nó.
Những đám lửa hãy còn leo lét, lần đầu tiên chúng
tôi chập chờn quanh miệng chiến hào. Lần đầu tiên chúng tôi đợi Hạo.
Hạo cũng không quên. Mỗi năm một lần, chúng tôi
nghe những bước chân tập bễnh của nó tiến lại từ sau khúc ngoặt, chỗ ngày nào
hiện ra chiếc xe tăng. Ba lô nó đầy những đồ vàng mã: lựu đạn, quân phục, chín
cái bi đông… Nó vẫn nhận ra tảng đá đầu voi. Nó vừa đốt hương vừa khóc. Nước mắt
quánh lại, toàn muối, rớt xuống cánh bèo ong.
Chiều muộn Hạo mới đi. Rừng đêm nuốt lấy bóng dáng
đơn độc, nhỏ nhoi của nó. Hạo không biết rằng bạn bè đang đợi, những vẫn mong
nó quên đi mà sống. Cả tiểu đội chỉ còn mình nó. Giá như tấm huân chương có thể
làm vơi đi đôi chút nhọc nhăn!
Chúng tôi đã chờ mười năm. Chúng tôi sẽ chờ mười
lăm năm, hai mươi năm nữa. Sự mong mỏi của thời gian và quên lãng. Sớm hay muộn,
rồi Hạo sẽ trở về tiểu đội. Chẳng ai có thể sống mãi trên trần thế.
Truyện ngắn của Ngô Tự Lập
Những người dân Hòn Nhĩ nhớ mãi trận bão năm 192…
không phải vì nó lạ, cũng không phải vì nó mạnh, mặc dù nó đích thực là một cơn
bão lạ – đổ vào đúng ngày ba mươi Tết, khi mùa bão đã chấm dứt từ lâu – và đích
thực là một cơn bão mạnh – sau khi dừng chân trên đảo, nó tràn vào đất liền, đã
yếu đi mà vẫn còn quật đổ hàng vạn cây cối, hàng nghìn ngôi nhà, ném hàng trăm
tàu thuyền lên bờ, nhấn chìm cả một vùng đồng bằng xuống biển. Dân đảo đời kiếp
kiếp sinh ra và lớn lên giữa lòng biển cả, họ chẳng còn ngạc nhiên trước những
điều kì lạ cũng như sức mạnh ghê gớm của thiên nhiên. Điều làm cho họ nhớ là
ngoài những cây cối, xác người và súc vật, mảnh tàu đắm cùng đủ thứ rác rưởi
khác, cơn bão còn ném lên đảo một người dân mới – thằng Ba Nghệch.
Thực ra Ba Nghệch cũng là một thứ rác rưởi mà thôi,
mặc dù trước khi trở thành dân Hòn Nhĩ hắn đã làm việc trên chiếc “Hải Mã” do
tôi làm thuyền trưởng.
Năm ấy Ba Nghệch hăm bốn tuổi, cao to, đen nhẻm, mặt
vuông, trán thấp, cằm bạnh như mang rắn hổ – đúng là một con bò đực đần độn
nhưng trung thực. Quê hắn ở Sơn Hạ, vùng quê của thuốc lào đen và những tay
thuyền trưởng nổi tiếng ngổ ngáo mà đa tình. Ba Nghệch không cha không mẹ. Hắn
lớn lên như thế nào chẳng ai hay. Khi người ta bắt đầu để ý đến hắn cũng là khi
người ta đã bắt đầu kinh sợ hắn. Mới mười tám tuổi đầu Ba Nghệch đã khét tiếng
là một tay ăn trộm liều mạng, đến nỗi ngay cả những phường đã bạc đầu trong nghề
đào tường khoét gạch cũng phải kiềng mà nhường hắn làm đại ca. Thế nhưng cũng
có người nói rằng có những bà già độc thân, những kẻ lâm nạn được hắn cứu giúp.
Mỗi người nói một đằng. Chẳng rõ đúng sai ra sao nhưng ai cũng sợ hắn.
Hai lời đồn đại hoá ra đều đúng cả. Ba Nghệch đúng
là một tay trộm cắp chuyên nghiệp liều mạng, có điều hắn hoàn toàn không ý thức
được tính chất của công việc ấy. Chưa bao giờ hắn suy ngẫm xem hành động mình
làm là đúng hay sai. Thì có ai dạy hắn bao giờ đâu! Hắn đã không chết yểu, đã lớn
lên được là nhờ những đồ ăn cắp, bắt đầu từ miếng bánh, bắp ngô, sau đến cái quần,
manh áo, rồi đồ vàng bạc. Hắn ăn cắp một cách tự nhiên, ăn cắp để sống và khuây
khỏa. Đó là công việc làm ăn của hắn. Trong tiềm thức, hắn thấy công việc ấy
cũng chính đáng như công việc của bất kì ai.
Những con thú dù tranh nhau ăn vẫn không mất lòng
thương đồng loại. Ba Nghệch cũng là một con thú trơ trọi giữa loài người. Hắn sống
đến đâu hay đến đó, trộm cắp được thì tiêu xài phung phí, gặp kẻ nghèo hèn thì
cưu mang. Hắn chẳng ham giàu, không sợ chết – chỉ có bọn tham giàu mới sợ chết
– thành ra hắn liều. Liều thì được người ta sợ, bí quyết của hắn chỉ có vậy.
Có lẽ cuộc đời Ba Nghệch sẽ cứ thế mà trôi đi cho đến
khi chết vì rượu ở một xó xỉnh nào đó Nếu hắn không vô phúc (hay có phúc) mà gặp
được Vân Lùn, tức Vân Lì, tức Vân Cá Mập, người về sau đã giới thiệu hắn
lên tàu tôi.
Trước đó, khi Vân Lì còn làm thuyền trưởng chiếc
“Dragon” năm trăm ngựa tốt nhất Tùng Quảng, chúng tôi đã từng có một thời gian
dài mánh mung với nhau. Cứ hai tháng một lần chúng tôi hẹn nhau ở Hòn Đôi. “Hải
Mã” bốc sang “Dragon” các loại hàng xa xỉ, vải, gạo và trái cây khô để nhận dầu,
than cục và đồng vụn. Cha này hơn tôi đúng một giáp, người lùn tịt, vai rộng,
chân vòng kiềng, mặt gãy và lạnh tanh như đá cuội, cả ngày không mở miệng trừ
khi phát giá hàng và ra khẩu lệnh. Làm ăn với nhau thật nhưng gặp ông tôi luôn
có cảm giác rờn rợn. Nghe nói Vân Lì đã từng nện gãy cổ một thằng mạch lô(1) vì
tội ngủ quên giữa phiên gác khi tàu neo ở Vụng Giải. Vụ ấy làm chủ tàu tốn khá
nhiều tiền của mới bịt đi được. Tuy vậy ông ta không dám thải Vân. Là chủ tàu
nhưng ông ta vẫn có phần sợ Vân. Kiếm được một tay thuyền trưởng như vậy đâu phải
dễ – Vân Lì thuộc lòng từng viên đá, từng doi cát ngầm dưới đáy biển suốt từ
Thuận Bình đến Trà Hoa. Ngoài ra, còn một lí do nữa buộc chủ tàu phải giữ Vân lại:
ở Sơn Hạ, Vân Lì khét tiếng với những ngón đòn hiểm hóc khiến tất cả đám dân
anh chị ở Hòn Chông đều kiềng mặt. Trong cuộc cạnh tranh đến chóng mặt giữa các
hãng tàu, cái tên Vân Lì sẽ là lời cảnh cáo của ông ta đối với những đối thủ
đang nảy nòi đông đúc như ruồi.
Cuộc đời riêng của Vân Lì tôi chỉ biết qua những lời
đồn đại.
Nói cho công bằng thì tuy vẻ ngoài lì lợm nhưng
chưa bao giờ Vân tỏ ra hung bạo, ít ra là chưa bao giờ tôi trông thấy. Có người
nhận xét: Cá mập ngấy thịt người rồi thì còn hiền quá cá heo! Cũng có lí! Vân
còn có biệt hiệu là Cá Mập. Điều này hoàn toàn không phải vì Vân có tài săn cá
mập, mặc dù tôi biết chắc chắn ông ta đã từng vận lộn với chúng không chỉ một lần,
mà vì Vân luôn luôn đeo bên mình chiếc vuốt hổ có khắc hình cá mập. Đó là bùa hộ
mệnh của ông. Việc đeo bùa hộ mệnh bây giờ có vẻ lạ lẫm nhưng thời đó chẳng làm
ai ngạc nhiên. Dân biển ai cũng có một chiếc bùa hộ mệnh và được gọi bằng một
biệt danh gắn liền với nó. Bùa hộ mệnh của tôi chẳng hạn, là chiếc móng quạ.
Một lần tôi để ý thấy con số 60 trên cái vuốt hổ của
Vân Lì, bèn hỏi nó có nghĩa gì. Vân bảo: “Tao sống đến sáu mươi tuổi”. Tưởng
nói chơi nhưng đến năm năm mươi nhăm tuổi Vân Lì đột nhiên tuyên bố từ giã nghề
đi biển.
– Lênh đênh thế đủ rồi, năm năm cuối đời tao về quê
cha đất tổ. – Ông nói vậy rồi sau bữa rượu ngán chần(2), gói chiếc áo vằn với
hai chục đồng bạc, trở về Sơn Hạ, giũ bỏ tất cả: biển khơi, con tàu, tuổi xuân,
sức lực và những lời đồn đại.
Bấy giờ, biết chuyện, tôi chỉ thấy nực cười. Đúng
là lão gàn, đầu hai thứ tóc rồi mà còn tin những chuyện nhảm nhí. Mà dù có tin
thì cũng cứ ở lại với biển, sống chết trên sóng nước cho thoả, việc gì phải mò
về để rục xương ở cái xứ khỉ ho cò gáy của ông ta! Phải mãi về sau này tôi mới
hiểu ra rằng mọi thứ đều có cội nguồn. Con người cũng vậy, cuối cùng sẽ phải trở
về nơi đã sinh ra họ.
*
Ngôi nhà của Vân Lì nằm trên sườn đồi, tận rìa
làng, mái lợp cỏ tranh, tường chình đất đỏ, xung quanh có rào đá bao bọc, kiểu
thường thấy ở những vùng bán sơn địa. Sau trận đậu mùa trước đó ba năm họ hàng
thân thích của ông chỉ còn lại đứa cháu gái ngoài ba mươi tuổi, gọi Vân bằng
chú, thân hình gầy đét, mặt rỗ như tổ ong, không chồng, suốt ngày quàu quạu. Nếp
sống của Vân Lì thay đổi hẳn. Ông vận chiếc áo bằng vải thô, do đứa cháu gái tự
dệt và nhuộm chàm, từ sáng sớm đến tối mịt cặm cụi làm vườn, sửa nhà như một
lão nông thực thụ. Chỉ có rượu là ông không bỏ, có lẽ không muốn bỏ. Ông uống
rượu như uống nước, uống rượu thay nước. Những khi nhớ biển rượu đem lại cho
ông cái cảm giác bồng bềnh quen thuộc. Ông thường uống rượu vào buổi chiều, sau
một ngày làm lụng quần quật như trâu lăn, mặc chiếc áo vằn, ngồi bắt chân chữ
ngũ trên mảnh chiếu con ở đầu hè, mắt đăm đăm nhìn đồng lúa rập rờn như sóng.
Lúc đó ông có trông thấy thằng Ba Nghệch lảng vảng qua lại hay không? Có lẽ là
có, nhưng rõ ràng là ông chẳng thèm để ý đến hắn, cổng rả vẫn để tanh bành ra đấy,
thậm chí khi đứa cháu gái thì thào Vân Lì cũng cứ phớt như không.
Chuyện ấy không lọt qua mắt những người thóc mách.
Dân làng thấp thỏm chờ cuộc đụng độ.
Thế rồi một hôm Vân Lì say rượu, đập vỡ cong tương ở
gốc cau và thượng cẳng chân, hạ cẳng tay với đứa cháu gái. Hàng xóm biết vậy vì
thấy cô ta mặt mày thâm tím, ngực lấm tấm nước tương, sang xin vôi và lá khoai,
chắc làm thuốc rã rượu. Đứa cháu dìu chú vào nhà, đặt nằm trên chiếc phản mộc,
bôi vôi vào gan bàn chân và đổ nước khoai vào cái miệng đang thở phì phì. Chỉ
có cô ta biết rằng chiếc áo vằn không cánh mà bay.
Nửa đêm hàng xóm đột nhiên kinh động vì một tiếng
rú rùng rợn, ngắn và lạnh như cật nứa cứa vào bắp thịt. Người ta nhận ra giọng
Ba Nghệch và lờ mờ hiểu ra mọi chuyện. Cho đến sáng không ai chợp mắt nhưng
cũng chẳng dám ra đường, chỉ cài chặt then cửa, đoán già đoán non và thì thào về
Vân Lì đủ chuyện: Những miếng võ bí truyền, những cuộc trả thù tàn khốc. Vỏ
quýt dày có móng tay nhọn. Đáng đời Ba Nghệch, vô phúc vớ phải tay không vừa.
Có lẽ những câu chuyện ấy đều được thêu dệt thêm cho li kì, nhưng tính công bằng
nghiệt ngã của Vân Lì thì có thật, tôi biết rõ như vậy. Ba Nghệch đang sống đêm
cuối cùng của đời hắn.
Nhưng Ba Nghệch không hay biết điều đó, mặc dù hắn
không hề ngủ. Khi bị ném như một bó củi xuống sàn và nghe tiếng chốt cửa lạch cạch
đóng lại, hắn rờ tay lên ngực. Máu từ vết thương ở xương quai xanh vẫn còn ri rỉ,
thấm đẫm chiếc áo vằn lính thuỷ. Con thú lần đầu bị cầm tù chợt hiểu ra tình thế,
thở hồng hộc, lồng lộn một cách tuyệt vọng trên sàn nhà xây bằng đá hộc. Mũi hắn
ngửi thấy mùi nước đái ngựa nồng nặc, chân hắn đạp lên những đống phân khô, tai
hắn ong ong tiếng muỗi đàn, tay sờ soạng trên bốn bức tường ghép bằng gỗ nguyên
cây, chỉ bóc vỏ, vẫn còn chìa ra những vấu lớn xù xì. Húc bằng đầu không nổi, nắm
đấm như cái vồ của hắn cũng chẳng làm những khúc gỗ suy suyển chút nào, Ba Nghệch
bèn lấy móng tay mà cào. Những móng tay của hắn dày, cứng như mảnh sành, nếu
bình tĩnh mà tách từng thớ gỗ thì cũng khá được việc. Nhưng đầu hắn làm gì có
óc mà nghĩ. Hắn cứ hùng hục cào như người ta dùng bàn cạo mà cạo gỉ. Vài cọng
xơ gỗ rơi xuống chân càng khích lệ hắn. Hắn làm việc như điên dại, cho đến khi
móng tay trỏ tuột phựt ra, mắc lại trong đám sợi gỗ bờm xơm. Hắn nấc lên vì đau
đớn, vội đưa ngón tay mất móng lên mồm mà hút. Dòng máu mằn mặn tứa ra mồm khiến
hắn bình tĩnh lại và sực nhớ đến hàm răng.
Buổi sáng, khi Vân Lì lại gần chuồng ngựa thì Ba
Nghệch đã dùng răng cắn xé, mở được một khe hở đủ để thò đầu ra ngoài. Cảnh tượng
thật khủng khiếp: một cái đầu bù xù như tổ quạ, những cái răng chìa ra to như
răng ngựa, hai hàng lợi bị gỗ cào rách tướp vẫn đang ròng ròng máu.
Mắt Vân Lì sáng lên vì phấn chấn. Những thợ săn cá
mập lão luyện cũng phấn chấn như thế khi gặp được con mồi dữ tợn. Ông từ từ tiến
lại gần.
Nhưng khi mặt đối mặt với Ba Nghệch, khi ánh mắt
ông chạm phải ánh mắt hắn thì Vân Lì giật mình lùi lại, không tin vào mắt mình.
Trước mặt ông là cặp mắt của một người vô tội! Đúng vậy, vô tội! Giận dữ,
thậm chí điên dại, nhưng vô tội. Trong cuộc đời bôn ba, ngang dọc, Vân chưa từng
gặp cái nhìn nào như thế, mặc dù đã chạm trán với đủ loại kẻ thù, nhiều lắm,
ông không thể nhớ nổi, cũng như không sao nhớ nổi trong đời mình có bao nhiêu
chuyến ra khơi. Tất cả những cặp mắt ấy – dù căm giận hay khiếp nhược, đần độn
hay gian giảo – đều ngập trong những tia hối hận chỉ làm ông khinh bỉ. Chúng,
lũ súc vật ấy, ý thức hoàn toàn rõ ràng về việc làm của mình, nhưng lòng tham
và tâm địa tàn bạo khiến chúng mờ mắt, tự giác lao vào tội ác. Chính vì thế mà
khi bị sa lưới chúng hối hận, van xin.
Vân Lì lại tiến lên. Ba Nghệch vẫn lồng lộn nhìn
ông, răng nghiến ken két, mắt vằn lên những tia máu đỏ ngầu. Đúng, ông không nhầm.
Đó là đôi mắt của một con thú dữ, hung hãn nhưng vô tội.
Ông ném con dao xuống đất và mở cửa.
Chẳng biết Vân Lì đã giảng giải cho Ba Nghệch những
gì về nhân cách, nhưng khi ông ta dẫn hắn đến giao cho tôi thì Ba Nghệch đã trở
thành một gã đàn ông hiền như đất. Trên tàu ngoài tôi ra không ai biết gì về
quá khứ u mê và bẩn thỉu mà chính hắn đã quyết một lòng đoạn tuyệt. Có người bảo
Ba Nghệch dở hơi, kẻ khác lại nói hắn lai cái. Hãy thử tưởng tượng một thằng mạch
lô không rượu, không thuốc, không cờ bạc, cũng chẳng thèm để ý những ả chèo
thuyền “mua mọi thứ cần bán, bán mọi thứ cần mua”, lả lơi và sấn sổ như quỷ cái
giữa đám đàn ông bỗ bã và sấn sổ như quỷ đực. Những lúc ấy Ba Nghệch lẳng lặng
bỏ ra ngồi một góc, cặm cụi học chầu dây hoặc những công việc thủy nghiệp khác.
Hắn tập chăm chỉ đến nỗi không ai nỡ cáu giận khi thấy sự vụng về của hắn. Mà
dù có cáu thì hắn cũng không hề phật ý, chỉ nhe răng, không biết cười hay mếu,
càng nhẫn nại hơn. Cuối cùng tôi hiểu rằng cái đầu củ chuối của hắn không thể
tiếp thu những kiến thức dù sơ đẳng ấy. Ba Nghệch không thể trở thành thủy thủ
được. Hắn chỉ có ích mỗi khi xảy ra ẩu đả với đám đàn ông say rượu ở các cảng,
mà đó là chuyện cơm bữa, nguyên nhân nhiều khi rất ngớ ngẩn, phần lớn có liên
quan đến mấy ả bán ô-vi-lơ(3) và ngán chần.
Bấy giờ Ba Nghệch đã ở trên tàu được non một năm. Chiều
hăm tám Tết, “Hải Mã” nhổ neo ở mũi Ba Gà, định rấn một mạch về Hòn Chông trước
giao thừa. Trời mù, biển cũng động rồi, sóng không dưới cấp sáu. Nhưng chúng
tôi không ngán. Máu về ăn Tết át đi mọi lo ngại. Vào dịp cuối năm những con tàu
đã rã rời vì sóng gió bị cuốn hút về bến cảng chẳng khác gì lũ chim mỏi cánh bị
hút về tổ lúc hoàng hôn.
Trong lịch sử ngành hàng hải đã có bao nhiêu thuyền
trưởng chôn vùi sự nghiệp của mình dưới đáy biển vì những cái tặc lưỡi như vậy?
Vừa ra khỏi doi cát ngầm, tới chính ngang Hòn Diều,
tôi cho tàu nhằm hướng chính bắc, quất hết tốc lực. “Hải Mã” rung lên, thở hồng
hộc. Những dãy núi ven bờ nhào đi nhanh chóng. Sóng mỗi lúc một mạnh… Từ trên
đài chỉ huy tôi lo ngại nhìn mũi tàu chốc chốc lại chìm đi dưới đám bọt nước trắng
xoá. Dù sao cũng không thể nghĩ đến chuyện quay lại.
Cả ngày hôm sau thời tiết không khá hơn. Tàu đi chậm
đến sốt ruột vì ngược gió, ngược nước.
Gần trưa ngày ba mươi, sương mù dần dần tan. Mặt trời
hiện ra, đỏ ngầu như máu. Biển chuyển sang màu nước dưa.
– Bão mất rồi – Đám mạch lô kêu lên khi trông thấy
cá heo xuất hiện hàng đàn cách tàu chưa đầy năm chục mét.
Làm gì có bão vào mùa này nhỉ? Nhưng bão đang đến gần
thật. Một đám mây lạ xuất hiện phía chân trời rồi nhanh chóng toả ra hình nan
quạt. Không khí bỗng chốc ngột ngạt và nóng bức như giữa mùa hè.
Lúc đó “Hải Mã” đang ở giữa mũi Sào và Hòn Cóc. Tiến
thoái lưỡng nan, cách duy nhất là chạy vào Hòn Nhĩ, một cù lao nhỏ cách tuyến
hàng hải chừng mười lăm hải lí về phía tây. Tôi chưa lần nào đến đó. Tránh bão ở
một nơi xa lạ thì thật mạo hiểm, nhưng dù sao cũng còn hơn là phơi lưng giữa biển.
Tôi cho tàu quay mũi. Có kịp không? Chỉ có trời biết. Bọn mạch lô huýt sáo và
cười đùa vui vẻ. Cười đùa trong nguy hiểm – đấy là biểu hiện tuyệt vọng. Dân biển
lúc bình an thì uống rượu và văng tục, gặp việc dễ thì cãi cọ phồng mang trợn mắt,
có khó khăn thì mắm môi im lặng, còn khi tuyệt vọng thì vui vẻ cười đùa – lúc
đó còn bụng dạ nào nữa mà uống rượu và văng tục, có cách giải quyết nào đâu mà
bàn cãi, còn im lặng thì khủng khiếp quá, và biết để làm gì?
Con tàu, cơn bão và bóng đêm đến Hòn Nhĩ cùng một
lúc. Trong trường hợp này chớ dại thả neo. Chẳng có xích neo nào chịu đựng nổi
những cú giật ghê người như thế. Tôi lợi dụng ánh chớp để xác định vị trí, cho
tàu chạy vòng quanh đảo. Đó là một trò chơi đuổi bắt căng thẳng và không cân sức.
Hòn đảo ở giữa, một bên là con tàu nhỏ nhoi, bên kia – cơn bão như một gã khổng
lồ đáng sợ. Chúng tôi chèo chống, vật lộn, kinh hãi và tuyệt vọng. Tôi không nhớ
được gì cụ thể. Tất cả như một cơn ác mộng. Về sau, tôi lấy làm kinh ngạc: tại
sao chúng tôi thoát chết?
Không biết cơn bão kéo dài bao lâu, nhưng đột nhiên
nó dừng lại, dường như sực nhớ là đã vướng chân ở hòn đảo nhỏ với con tàu bướng
bỉnh này quá lâu, bèn hướng vào đất liền, giận dữ lao đi, để lại một trận mưa sầm
sập như trút nước.
Tôi không dám cho tắt máy ngay, cử người kiểm tra
kĩ các khoang, chỉ khi tin chắc rằng cơn bão đã tan hẳn mới hạ lệnh thả neo.
Tàu bị hư hại nhẹ, hơn nữa giao thừa cũng đã qua rồi, tôi quyết định lại.
Hôm sau, trời tạnh ráo và ấm áp. Đó cũng là điều
bình thường ở vùng này – thời tiết đã sang xuân. Hòn đảo nằm phơi mình dưới nắng.
Nếu không kể những thứ rác rưởi ngổn ngang trên bãi cát thì phong cảnh bình yên
như đêm qua chẳng có chuyện gì xảy ra.
Cũng như tất cả các đảo cát ở miền Trung mà tôi có
dịp ghé qua, Hòn Nhĩ có rất ít màu xanh. Tôi trông thấy thấp thoáng vài tàu dừa
xơ xác. Một xóm nhỏ, thưa thớt mấy ngôi nhà vách đất thấp lè tè, mái lợp lá dừa,
được chèn kĩ bằng đủ thứ gỗ, ván và cây cọc để chống chọi với gió bão. Một đám
đông chừng hai chục người, phần lớn là đàn bà và trẻ con, mặc những chiếc quần ống
rộng, áo nhuộm chàm, tụ tập sát mép nước, chỉ trỏ về phía tàu, điệu bộ rất tò
mò. Mấy đứa con trai táo tợn nhất nhảy ùm xuống nước, mặc cho những bà mẹ huơ
tay lên trời giận dữ, bơi ra tận tàu, quẫy nước tung toé như cá heo, bám lấy
xích neo và hét lên bằng thứ tiếng địa phương trọ trẹ rất khó nghe.
– Đầu tầu ở đằng nào mấy chú hề?
Trên bờ đám người đông dần đến khoảng bốn chục, sau
đó tản bớt đi, nhưng cũng chỉ có người lớn ra về, còn lũ trẻ vẫn ở lại, tiếp tục
la hét đến tối mịt. Về sau tôi biết rằng đó là gần như toàn bộ dân cư trên đảo.
Sự tò mò của dân đảo là chuyện dễ hiểu, tôi cũng đã
gặp nhiều lần. Dân đảo, trừ những người đàn ông thường phải đi khơi xa và thỉnh
thoảng ghé vào đất liền, suốt đời không rời hòn đảo nhỏ. Hòn Nhĩ xa tuyến hàng
hải, lại ở giữa hai cảng lớn là Ba Gà và Hòn Cóc, nên tàu bè ít khi ghé vào. Có
lẽ đó là lần đầu tiên họ được trông thấy một chiếc tàu to như vậy.
Dân Hòn Nhĩ sống bằng nghề đánh cá. Đó là một nghề
hết sức bấp bênh và nguy hiểm. Hàng năm những người đàn ông trên đảo ra khơi từ
giữa tháng giêng đến cuối thu. Hầu như vụ cá nào cũng có người thiệt mạng. Đảo
luôn luôn thiếu đàn ông, mỗi người phải nuôi năm sáu miệng ăn. Đàn bà chỉ việc
đẻ đái, nuôi con và muối cá. Hết vụ cá, dân đảo chất cá muối lên thuyền, chở
vào đất liền đổi lấy khoai khô, muối, dầu, vải và những đồ dùng cần thiết khác,
chỉ để lại cá nhâm, loại cá mình dẹt, lắm xương và nhiều vảy. Đời sống của dân
đảo rất kham khổ, quanh năm chỉ có khoai khô với cá nhâm muối. Những năm thời vụ
không thuận lợi, khoai khô cũng không đủ. Gạo là thứ xa xỉ chỉ dành cho người ốm
và dịp giỗ Tết.
Năm ấy coi như không có Tết. Ngay từ hôm mồng một
chúng tôi đã bắt tay vào công việc. Chỉ cần sửa chữa những gì không thể trì
hoãn để tiếp tục hành trình. Ra Bắc, rằm tháng giêng ăn Tết lại, sau đó hẵng
hay.
Số thực phẩm dự trữ được bảo quản cẩn thận là thế
mà vẫn bị nước mặn làm hỏng phần lớn, rượu cũng đã hết. Việc bổ sung tôi giao
cho Ba Nghệch. Chính việc này đã dẫn hắn đến với Chắt.
Chắt là một người đàn bà ba mươi mốt tuổi với những
nét đặc trưng của dân miền biển: da đen, môi dày, đôi vai rộng, quen gánh vác
những công việc nặng nhọc. Vì Chắt cao lớn và có dáng đi lừng lững như đàn ông
nên dân đảo gọi cô là “Chắt Đực” để phân biệt với một cô Chắt khác là Chắt Còi.
Nhà Chắt Đực ở cuối xóm. Cô sống bằng nghề nấu rượu, hoạn lợn và muối cá thuê.
Nghề muối cá đàn bà trên đảo ai cũng làm, còn hai nghề kia với ngôi nhà là những
thứ cô thừa hưởng ở người cha đã chết vì đắm thuyền tám năm về trước, khi cô mới
hăm ba tuổi. Mẹ “Chắt Đực” chết từ khi cô còn ẵm ngửa.
Hôm ấy Chắt cùng đám đàn bà con gái đi xem tàu về,
đang định rủ nhau đến nhà cụ Chòm xem các ông bà già chơi tam cúc. Ba Nghệch vừa
dưới xuồng lên, vai khoác chiếc bao tải, tay xách thùng rượu bằng gỗ có quai đồng,
bước huỳnh huỵch theo sườn đảo thoai thoải dốc. Chắt bảo:
– Anh gì có mua cá mều không nờ?
Ba Nghệch ngẩn người. Chắt bảo:
– Đây này! – Nói rồi vỗ bồm bộp vào con “cá mều” của
cô bạn đứng bên cạnh và cười ré lên. Ba Nghệch đỏ bừng mặt nhưng thinh thích. Lần
đầu tiên trong đời Ba Nghệch đỏ mặt. Lối đùa tục tĩu và chân thật của Chắt khơi
dậy trong lòng hắn bản năng giống đực. Đã bao giờ hắn được đàn bà chòng ghẹo
như vậy đâu! Người ta chỉ khiếp sợ hoặc kinh tởm hắn. Hai cách xử sự này kích
thích tính man rợ của cả con thú lẫn con người.
Ba Nghệch lí nhí:
– Tôi mua rượu, mới lại gà, mới lại rau.
Chắt bảo:
– ở đây không có rau, gà phải đến cụ Chòm, còn rượu
thì theo tôi.
Chắt nói rồi xăm xăm đi trước. Ba Nghệch theo sau.
Dọc đường hắn nhìn cái đuôi tóc bé tí tẹo, vàng như lông bò trên lưng Chắt, lại
nhìn bờ vai vạm vỡ, lại nhìn hai cái mông bè bè, đâm bối rối.
Vào nhà, Chắt bảo Ba Nghệch ngồi xuống cái ghế con
rồi nói:
– Chẳng mấy khi anh đến chơi nhà, lại ngày Tết ngày
nhất, mời anh uống rượu, ăn bánh với tôi cho vui! – Nói rồi đi xuống bếp.
Ba Nghệch đảo mắt nhìn quanh. Đồ đạc trong nhà chẳng
có gì ngoài hai cái chum to, một cái đã vỡ, phải hàn lại bằng thứ keo gì đó màu
vàng xỉn. Giữa nhà có bàn thờ đắp bằng đất, trên đặt hai cặp bánh chưng, chùm dừa
xanh, giữa bày bát hương đã tắt hết. Một con mèo già gần trụi hết lông đang ngủ
say sưa trên chiếc phản nứt nẻ kê bên trái bàn thờ. Dưới gầm phản có cái chậu gỗ
đựng con dao nhỏ, cái kéo, cái kim lớn đã xỏ dây và lọ thuốc. Đó là đồ nghề hoạn
lợn.
Chắt bê lên một cái hũ nút lá dừa khô, hai cái bát
sành, một đĩa tôm kho, trên rắc mấy cọng rau tựa như rau ngổ, sau đó lấy một
chiếc bánh trên bàn thờ xuống, đặt lên ghế con, rót rượu ra bát. Ba Nghệch chối
đây đẩy:
– Tôi không uống rượu đâu!
Chắt cứ chìa cho Ba Nghệch một bát:
– Anh đừng từ chối, giông đấy! – Nói rồi cũng bưng
một bát, uống ừng rực. Rượu khoai chua loét, đục như nước gạo, không lấy gì làm
nặng, nhưng đã lâu không uống rượu nên Ba Nghệch cũng thấy lâng lâng. Hắn bạo
lên, bảo:
– Chị uống được nhiều nhỉ.
Chắt đáp:
– Làm nghề nào ăn nghề ấy.
Ba Nghệch liếc trộm vào ngực Chắt:
– Chị xinh gớm!
– Nhà anh cũng khoẻ gớm.
Ba Nghệch ngồi im một lúc rồi đột ngột bảo:
– Này!
Chắt ngẩng lên. Ba Nghệch ôm choàng lấy thân hình vạm
vỡ của Chắt, vật ngửa cô ta ra đất. Chắt không chống cự, chỉ ú ớ gì đó không
rõ. Một lúc sau hai đứa hổn hển đứng dậy. Chắt khép ngực áo đứt cúc, bảo:
– à quên, chưa bóc bánh – Nói rồi bóc bánh, cắt làm
tư, lấy đũa xiên cho Ba Nghệch một miếng.
Bánh độn khoai, nhân chỉ có vài hạt vừng. Ba Nghệch
ăn hết hai miếng ngon lành. Chắt hỏi:
– Anh lấy tôi chứ?
Ba Nghệch đáp như mất hồn.
– Để xem đã.
Thực ra ngay từ lúc đó Ba Nghệch đã gắn bó đời mình
với Chắt, người đàn bà đã đem đến cho hắn niềm hạnh phúc bình đẳng làm người và
tình yêu chân thật.
Công việc sửa chữa tưởng ít, ai dè kéo dài đến mồng
chín mới hòm hòm. Buổi sáng Ba Nghệch chèo thuyền vào bờ, đổi lấy một con lợn gầy
trơ xương, nặng gần ba chục kí. Tôi cho giết thịt và quyết định sáng hôm sau, mồng
mười, sẽ nhổ neo ra Bắc. Đám mạch lô thảy đều hồ hởi – chúng đã chán ngấy tận cổ
hòn đảo cằn cỗi và thứ rượu khoai chua loét rồi. Riêng Ba Nghệch không nói năng
gì, chỉ cau có và văng tục. Điều này chẳng khiến ai để ý – lầm lì và cục súc là
bản tính của hắn. Vì vậy ai nấy đều bất ngờ khi hắn xin ở lại đảo cưới vợ.
– Lại bão đến nơi rồi, Ba Nghệch đã biết nói đùa! –
Bọn mạch lô ồ cả lên. Nhưng tôi nhìn vào mắt Ba Nghệch, nhận thấy sự biến đổi lớn
lao và hiểu rằng hắn không nói đùa. Một chút dịu dàng trên bộ mặt to bè, một
tia vui trong đôi mắt trắng dã, một thoáng run rẩy của cặp môi dày nứt nẻ – tất
cả đều nói lên hạnh phúc.
Thôi cũng mừng cho hắn. Số mệnh đã làm một sự lựa
chọn tuyệt vời khi ném Ba Nghệch lên Hòn Nhĩ. Không có nơi nào thích hợp hơn với
hắn. Cù lao nhỏ xa đất liền này sẽ giúp hắn quên hẳn quá khứ. Những công việc nặng
nhọc và đơn giản phù hợp với sức vóc cường tráng và cái đầu đần độn của hắn.
Nhưng còn một điều quan trọng nhất: ở đây hắn sẽ được sống giữa những con người
lương thiện, tốt bụng và chân thật. Trên các cù lao khắc khổ của miền Trung này
dân cư sống với nhau như trong gia đình lớn. Từ nhà nọ đến nhà kia không hề có
rào dậu, cổng ra gì, thành ra câu tục ngữ “Yêu nhau rào dậu cho kín” hoá ra vô
nghĩa. ở Hòn Nhĩ đã từ lâu không xảy ra trộm cắp vặt. Tôi đã có dịp trò chuyện
với cụ Chòm, người đàn ông cao tuổi nhất đảo, đã từng làm phu mỏ trong đất liền,
lại đi lính cho Pháp, cái gì cũng biết, bây giờ suốt ngày khò khè trong xó bếp
vì bệnh hen. Cụ Chòm kể:
– Hồi mới lên chín mười tuổi, tôi được xem dân đảo
hành hình Tảo Chột. Tảo Chột cũng là dân chài, thế mà đột nhiên ăn trộm rượu của
ông Lai Kỳ, tức là cụ của con bé Chắt Đực bây giờ. Người ta cắt gân gót chân
Tào Chột, buộc đá vào cồ rồi thả xuống biển – cụ Chòm đưa bàn tay xương xẩu mô
tả kích thước hòn đá rồi chép miệng: – Quân ấy sống thì thế nào cũng đẻ ra quỷ
sứ thôi!
Chuyện ấy dân đảo nghe đi nghe lại đến thuộc lòng,
thậm chí còn bắt chước cả cách chép miệng của cụ Chòm.
Thực ra tốt bụng và chân thực là những đức tính
chung của dân miền biển. Trong cuộc sống khắc nghiệt giữa thiên nhiên hung bạo,
sự giả dối và ích kỉ, xưa nay vốn đồng nghĩa với nguồn gốc chia rẽ, là những điều
không thể nào tha thứ được. Nó sẽ dẫn đến cái chết của cả cộng đồng.
Tôi hoãn nhổ neo và ngay hôm đó theo Ba Nghệch lên
bờ. Các thủ tục được tiến hành chóng vánh. Dân đảo không cầu kì, nếu không kể
việc bắt cô dâu chú rể phải tuyên thệ bằng một bài đồng dao hết sứ ngô nghê.
Sau đám cưới, rất to đối với dân đảo – ai cũng được chén thoả thê cơm, rượu và
mỡ lợn – nhưng quá nhỏ đối với dân tàu – vì chỉ có ngần ấy thứ – chúng tôi để lại
cho vợ chồng Ba Nghệch một số đồ dùng rồi nhổ neo. Tất cả dân cư trên đảo ra tiễn.
Ba Nghệch dắt vợ lội xuống nước, khóc hu hu. Tàu đi xa rồi tôi lấy ống nhòm
nhìn lại vẫn thấy vợ chồng hắn đứng ngâm mình dưới nước. Tôi thầm cầu Trời phù
hộ cho hắn. Mong sao cuộc sống lương thiện sẽ gột rửa quá khứ khỏi đời hắn như
nước biển trong xanh gột rửa những rác rưởi trên bãi cát trắng sau lưng hắn
kia.
Sau chuyến đó “Hải Mã” thôi chạy tuyến Bắc – Nam,
vì thế tôi không có dịp ghé vào Hòn Nhĩ. Tuy vậy thỉnh thoảng tôi cũng dò hỏi
được đôi chút tin tức về Ba Nghệch. Hai vợ chồng hắn sống hoà thuận, cần cù, lại
có sức khoẻ nên ngày càng khấm khá. Hình như hạnh phúc cũng có thể góp phần mở
mang trí tuệ con người. Ba Nghệch đã học được nghề đi biển. Hai vợ chồng sắm một
chiếc thuyền. Đến vụ Ba Nghệch đi khơi cùng đàn ông trên đảo. Chắt vẫn nấu rượu,
lại nuôi được đàn lợn, đời sống chẳng có gì đáng phàn nàn.
Bốn năm sau, có mối hàng mới, “Hải Mã” trở lại tuyến
cũ. Tôi quyết định ghé thăm vợ chồng Ba Nghệch. Thật bất ngờ, tôi được nghe một
kết cục bi thảm sau đây:
Lấy nhau được hơn hai năm thì Chắt có thai. Hai vợ
chồng mừng rỡ chờ đón đứa con đầu lòng. Chắt đã gần băm tư mới có thai lần đầu,
yếu lắm, người mệt mỏi, xanh rớt. Ba Nghệch bảo vợ ở nhà, một mình gánh vác mọi
việc.
Một hôm đang ăn cơm trưa, Chắt chợt để ý đến ngón
tay trỏ tuột móng của chồng, hỏi bị làm sao. Ba Nghệch đã lâu quên bẵng chuyện
cũ, nghe hỏi giật bắn mình, buông bát. Chắt im lặng nhưng hôm sau lại hỏi, lần
này về vết sẹo ở xương quai xanh. Ba Nghệch càng thêm lúng túng. Hắn đã nhiều lần
được nghe câu chuyện của cụ Chòm, biết rõ định kiến của dân đảo nên hiểu rằng
không thể nào nói thật. Nhưng hắn cũng không biết nói dối. Hắn văng tục, tránh
nhìn vợ, bỏ ra khỏi nhà.
Thái độ của chồng làm Chắt sinh nghi. Thói xấu tò
mò khiến người ta suy diễn. Đàn bà chửa lại hay hoang tưởng, nỗi ngờ vực của Chắt
dần biến thành sự sợ hãi. Chắt ngày đêm nơm nớp, thường mơ thấy mình đẻ ra quỷ
sứ ba đầu sáu tay. Càng gần đến ngày sinh Chắt càng thêm hoảng loạn, nhiều lúc
như điên dại, khóc lóc, van vỉ chồng nói ra sự thật. Ngược lại, Ba Nghệch ngày
càng lì lợm, cục cằn.
Hôm ấy Ba Nghệch về nhà không thấy vợ đâu. Linh
tính mách bảo hắn chạy ra bến buộc thuyền. Chắt khi đó đã có chửa tháng thứ bảy,
bước đi lảo đảo như người mộng du. Ba Nghệch đuổi kịp vợ trên sườn đảo, đúng chỗ
ngày nào Chắt đã chòng ghẹo hắn.
– Mình đi đâu! – Hắn ngăn vợ lại.
– Sơn Hạ! – Chắt đáp.
Ba Nghệch ngã phịch xuống như một cây chuối đổ.
Ba Nghệch lại uống rượu – thứ rượu khoai mà Chắt đã
cất trước lúc ra đi. Bây giờ hắn uống nhiều hơn cả khi còn ở Sơn Hạ.
Được bốn ngày thì rượu hết, còn đời hắn kéo dài hơn
một ngày. Hôm sau dân đảo cắt gân gót chân Ba Nghệch, buộc đá vào cổ và ném xuống
biển.
– Đáng kiếp! – Cụ Chòm chép miệng và ai nấy đều
chép miệng theo: – Quân ấy sống thế nào cũng đẻ ra quỷ sứ thôi.
Hải Phòng 5/1990
(1) Thuỷ thủ – tiếng Pháp bồi.
(2) Ngán: một loài động vật thân mềm, gần giống
sò.
(3) Hột vịt lộn.
BỨC TƯỜNG CUỐI CÙNG
Truyện ngắn của Ngô Tự Lập
Sợi dây xích vô hình
Như chuỗi ngày vô tận
Lũ chó săn có thể chạy tới chân trời.
N.T.L.
I
Hắn đứng dé chân chèo, dòng mồ hôi đùng đục lẫn cát
trên lưng ròng ròng chảy. Đôi mắt hắn từ bảy năm rồi đã hết nhìn thấy dòng mồ
hôi đùng đục ấy. Nhưng bỗng hôm nay hắn lại nhìn thấy. Dưới nắng, dòng mồ hôi lấp
lánh cầu vồng bảy sắc. Đôi tay sau ngần ấy năm trời vẫn chưa hết mảnh dẻ. Kiểu
tay học trò. Dù đã đen cháy. Dù vết sẹo hôm cứu thằng Lộ bị đổ cây giờ phồng
lên, tím đỏ màu cà dái dê. Những lớp nhựa cây chồng lên nhau, loang lổ như bản
đồ địa hình.
Hắn nhìn những vết nhựa cây, mơ hồ nghĩ đến một thứ
nhựa khác. Khô. Cứng. Đông lại trong mạch máu, trong tim hắn. Thứ nhựa không thể
mô tả được, dù hắn cảm nhận rất rõ. Như người ta cảm nhận nỗi đau. Như người ta
cảm nhận nỗi hận thù.
Nhưng đó không phải là hận thù, cũng không phải nỗi
buồn hay tuyệt vọng. Có lẽ đó là sự vô cảm. Hắn nhìn, cũng như nhìn dòng mồ hôi
trên cánh tay. Nhìn mà không thấy, nghe mà không hiểu. Đôi tay hắn đã trở thành
một thứ công cụ, giống như chiếc rìu trên tay hắn. Chiếc rìu Thượng đuôi cá
chép, thép xanh biếc.
Thật ra hắn đâu có lựa chọn. Hắn đâu có quyền lựa
chọn. Cả chiếc rìu, cả chỗ nằm, cả cái bát men sứt miệng. Hắn đâu có lựa chọn để
đến đây. Nói vắn tắt, hắn chẳng hề có quyền chọn bất kỳ thứ gì. Cái rìu là thứ
may mắn. Điều may mắn duy nhất của hắn từ bảy năm nay.
Bảy năm, chính hắn cũng đã trở thành một thứ công cụ.
Như một thứ công cụ, hắn bổ những nhát rìu ngắn,
thành thục, chắc nịch. Đã có nhiều lần hắn chủ tâm đếm số nhát rìu. Lần nào
cũng bỏ cuộc. Nếu hắn có đồng hồ, có lẽ hắn đã đếm số nhát rìu trong một giờ, rồi
nhân lên. Nhưng hắn không có đồng hồ. Mà đầu óc hắn luôn có vấn đề. Hồi đầu hắn
còn đau khổ, còn dằn vặt. Về sau hắn lại đâm đãng trí. Như lúc này…
Trên đầu, mặt trời hừng hực như đổ lửa.
Rừng huyết đàn lưa thưa, trải dài ven bãi cát.
Bãi cát chạy dài đến chân trời.
Bảy năm trước, người ta chở bọn hắn đến đây bằng một
chiếc tàu gỗ ba buồm.
II
Nửa tháng trời lăn lóc trong cái hầm tàu sặc sụa
mùi thuốc trừ sâu, mùi rượu, mùi da súc vật lẫn với mùi thức ăn nôn tởm lợm. Cả
bọn, không thằng nào không say sóng. Sau này nhớ lại, hắn còn thấy kinh hoàng.
Hắn tin rằng ai chưa từng say sóng không thể hiểu hết thế nào là đau khổ.
Nóc hầm tàu làm bằng sắt tây đã mọt rỉ tơi tả, mỗi
cú tàu lắc, rỉ sắt đổ xuống đầu như mưa rào. Bọn hắn trải chiếu ngay trên sàn gỗ
nhớp nháp. Nhiều thằng nôn ngay ra sàn tàu. Hắn cũng nôn. Đầu tiên nôn thức ăn,
rồi nôn ra mật xanh mật vàng, cuối cùng chỉ nôn khan. Nhưng rất lạ, khi đã nôn
hết, khi toàn thân đã hoàn toàn rã rời, hắn bỗng thấy tỉnh táo. Lúc đó hắn vẫn
còn nhiều dằn vặt lắm. Hắn nằm dựa lưng vào cái phao bọt biển, lòng ngổn ngang
nhìn những thân thể người ngổn ngang. Trong bóng tối hầm tàu nhập nhoạng, trong
tiếng rỉ sắt rào rào đổ xuống.
Những người đồng cảnh với hắn kia, họ từ đâu đến?
Vì lý do gì? Họ có biết họ sẽ đi đâu không? Hay cũng như hắn, họ bị dẫn lên tàu
như những con cừu. Không, hắn không tin như thế. Hắn không biết điều gì đang xảy
ra với hắn, nhưng hắn biết chắc chắn trường hợp của hắn là một sự nhầm lẫn. Sự
nhầm lẫn từ đâu? Hắn không biết. Nhưng hắn tin chắc rồi người ta sẽ hiểu ra. Họ
sẽ phải xin lỗi hắn. Người ta thậm chí sẽ phải bồi thường cho hắn. Nhưng những
người kia, chẳng lẽ cũng lại là nhầm lẫn. Làm sao người ta có thể nhầm lẫn với
chừng ấy con người?
Có thể cha hắn sẽ tìm ra manh mối. Có thể ông đã
tìm ra manh mối? Người ta đã nói gì với ông?
Hắn nhớ hôm cuối cùng gặp cha. Nói đúng hơn là lần
cuối cùng trông thấy ông. Hắn đứng trong hàng rào, bên cạnh là người quản giáo.
Qua những mắt lưới hình lục lăng, hắn nhìn thấy ông từ xa. Vừa đi ông vừa nhớn
nhác tìm. Chưa bao giờ hắn thấy ông như thế. Ông cuống quít một phần vì ông chỉ
có mười phút để gặp con, nhưng có lẽ một phần vì sợ tình cha con làm ông quên mất
câu dặn dò ông chuẩn bị sẵn từ nhà. Ông sợ không kịp nói điều mình muốn nói.
Họ đã nói gì với ông? Họ đã nói gì về hắn? Lòng hắn
quặn lại. Tóc ông lơ thơ, xõa trắng xuống trán. Không phải vầng trán rộng và
thanh thản mà hắn quen thuộc từ khi chưa nói sõi. Trông ông già sọm đi đến mười
lăm tuổi.
– Con cố gắng hối cải. Đừng bao giờ cãi lại các anh
quản lý…
Hắn nghẹn đắng trong cổ. Hắn đã mong chờ ông cháy bỏng
đến chừng nào. Hắn mong chờ ông đến không phải để nghe những lời giáo huấn.
– Con không làm gì nên tội… – Hắn gào lên như thế.
Người quản giáo dường như đã lường trước, tóm ngay
lấy cổ hắn, đẩy vào phía trong. Hắn giãy rụa tuyệt vọng. Vô ích. Hắn chỉ nghe
văng vẳng những lời cha hắn nghẹn ngào:
– Con ơi, cố gắng hối cải…Các anh ấy khoan hồng…
III
Mấy chục con người như bừng tỉnh trước rừng huyết
đàn mơn mởn, phủ kín bờ cát, chạy sát tới bờ biển. Bọn hắn cũng ùa chạy lên bãi
biển. Tiếng lá rền rĩ trong gió cát. Tiếng rền rĩ không bao giờ ngừng, nghe như
tiếng trẻ con khóc, buồn dứt thịt. Lúc đó hắn chợt nghĩ như thế. Bây giờ, khi hắn
tin đó thực sự là tiếng khóc thì đã quá muộn, tiếng khóc đã trở thành ký ức xa
xôi. Bây giờ trên cả một triền đảo rộng bát ngát chỉ còn trơ lại những cái gốc
đen đủi nhô lên trên cát trắng.
Người ta dẫn bọn hắn đến một cái trại làm bằng gỗ
huyết đàn, mái lợp phên nứa. Mỗi người một cái chõng cũng bằng gỗ huyết đàn.
Hai cái giá dài chạy dọc vách, được ngăn ra từng khoang. Hắn đặt những đồ đạc
cá nhân lên đó.
Một đống rìu trước trại. Bọn hắn xếp hàng, lần lượt
lên nhận. Số phận run rủi cho hắn cây rìu Thượng. Chính hắn khi ấy cũng không
biết rằng ở đây cây rìu tốt là một báu vật. Nhờ nó, hắn sẽ đỡ bao nhiêu công sức.
Buổi sáng, bọn hắn dậy trước khi mặt trời mọc, tập
trung ăn trước trại, uống nước lá trong một cái chảo lớn rồi xách rìu ra
đi.
Huyết đàn là thứ cây thân trắng như bạch dương, vỏ
trắng mịn như da thịt đàn bà. Hắn không sao quên được nhát rìu đầu tiên. Gỗ huyết
đàn mềm và ẩm ướt, thớ đỏ au như thớ thịt. Nhựa cây cũng đỏ, vì thế gọi là huyết
đàn. Hắn giật bắn cả người khi thân cây non tơ rùng mình nghiêng xuống…
Bấy giờ hắn vẫn còn hy vọng. Hắn phản đối, nài nỉ,
cầu xin. Hắn khóc. Hắn chỉ còn thiếu quỳ mọp xuống để mà giải thích. Còn họ thì
lắc đầu. Họ xua tay, chỉ về phía rừng huyết đàn.
– Hãy lao động. Chỉ có lao động mới làm con người
trở nên cao thượng – Tay đội trưởng nói vậy, có lẽ đã một nghìn lần.
Chưa bao giờ hắn trông thấy một khuôn mặt hiền từ một
cách bất động như thế. Giọng trầm trầm, mắt chớp chớp chân thành và xúc động,
anh ta buồn bã lắc đầu.
– Không phải thế! Các anh nhầm rồi! Không phải thế!
– Hắn gào lên, nước mắt ràn rụa trên mặt, có lẽ cũng đã một nghìn lần.
Không phải thế! Các anh nhầm rồi! Không phải thế!
Họ lại lắc đầu. Không ai đáp lại.
Một hôm, đột nhiên hắn hiểu ra. Người đội trưởng ấy
có quyền nghe, nhưng anh ta không có quyền hiểu. Ai có quyền hiểu? Chẳng có ai
cả. Chẳng ai có quyền hiểu gì hết. Chính hắn cũng không hiểu điều đang xảy ra với
mình. Cũng như những người đang chặt gỗ với hắn kia, họ không hiểu điều gì đang
xảy ra với họ. Ai hiểu? Ai hiểu? Chỉ có những con sóng lừng lững trườn lên bãi
cát.
“Hãy lao động. Chỉ có lao động mới làm con người trở
nên cao thượng” – Những tiếng ấy vang lên ong ong trong tai hắn.
Đã bảy năm nay, từ sáng sớm khu rừng đã vang lên tiếng
rìu cắc bụp, cắc bụp. Những tiếng rìu chắc nịch, thành thục và vô cảm. Như tiếng
rìu của hắn. Những đường rìu loang loáng. Những bộ mặt đen hốc hác. Những cái
gáy cạo trọc.
Bảy năm nay bọn hắn dậy trước khi mặt trời mọc. Sau
những cái xua tay của họ, hắn vác rìu ra đi. Chiếc rìu Thượng sắc như nước, cán
đen bóng như sừng.
IV
Cũng như hắn, những cây huyết đàn tội nghiệp kia có
tội tình gì?
Hôm đầu tiên, sau nhát rìu đầu tiên ấy, hắn thấy
chóng mặt. Rồi đột nhiên đau bụng. Một cơn đau bụng quằn quại khiến hắn phải ngồi
phịch xuống đất mà thở hổn hển hồi lâu. Khi cơn đau dịu đi, hắn ôm quần đi lên
đỉnh đồi.
Dãy nhà tiêu nằm bên kia đồi, hắn phải vòng qua cái
chòi trên đỉnh. Hắn quằn quại lê lên đó. Tiếng chó sủa vang. Lũ chó săn được nhốt
trong chòi. Chó Lu, sau này hắn biết thế.
Có thể cái chòi đã từng là một ngôi nhà, nhưng mái
đã bị gió bão cuốn đi từ bao giờ không ai biết nữa, chỉ còn lại bốn bức tường
xây bằng đá hộc. Ông đầu bếp ngày hai lần lên đó, đem cho lũ chó săn những thức
ăn thừa và thứ cháo loãng nấu bằng vỏ sắn. Gọi là chó săn, thực ra đó chỉ là một
thứ chó Lu đần độn, chân và đuôi ngắn, mõm như mõm lợn. Và người ta cũng nuôi
chúng như một thứ lợn thịt. Thỉnh thoảng, sau khi bốc xong một tàu gỗ, hoặc vào
những ngày mưa bão không đi làm được, hoặc những khi tay đội trưởng nổi hứng,
người ta giết một con chó và say sưa đến tận chiều.
Dãy nhà tiêu đắp bằng đất đỏ, vách cũng làm bằng
cành huyết đàn. Gió biển thổi vào ù ù, ném cát ràn rạt vào mông. Hắn ngồi mới
được vài phút thì giật bắn người. Một con rắn lớn rơi bịch ngay trước mặt.
Một con rắn hổ mang. Hắn cảm thấy toàn thân lạnh toát. Hắn nghẹt thở, bất giác
lùi lại, lùi mãi, ép mạnh đến nỗi những cành huyết đàn trên vách hằn sâu vào
lưng. Mười phút. Mười lăm phút, hoặc có thể hơn. Hắn đứng lom khom, hai tay bám
vào hai cành cây khô, mắt không một giây rời khỏi con vật. Hai mang bành ra như
bàn tay người lớn, con vật ngẩng đầu nhìn hắn như muốn tìm hiểu một vật gì kỳ lạ.
Không tiến lên, nó cũng chẳng hề có ý định bỏ đi. Khe khẽ lắc lư cái đầu kỳ dị
với đôi mắt nhỏ xíu, nó như đang ngẫm nghĩ về một điều gì xa xôi. Hắn buột miệng
thì thầm “Rắn ơi, tao có tội tình gì đâu”.
Thật kinh ngạc, cái đầu con rắn dừng lại. Hình như
nó hiểu ra một điều gì đó. Con rắn nhìn hắn một hồi lâu rồi nhẹ nhàng trườn đi
lúc nào không biết.
Từ hôm đó, đi đâu hắn cũng mang theo chiếc rìu.
Hôm đó, hắn nghĩ mình gặp may. Nhưng về sau, hắn lại
nghĩ thực sự con rắn kia đã hiểu. Có khi đó chính là rắn thần. Có lẽ thần không
hài lòng khi con người đến tàn phá vương quốc của thần. Hắn tự nhủ sẽ không chặt
thêm một cây nào nữa. Những cây huyết đàn kia có tội gì? Cũng như hắn, hắn có tội
tình gì?
Nhưng hắn đã không thể nào thoát nổi sợi dây xích
vô hình, một sợi xích dài vô tận. Sợi dây xích của nỗi sợ. Của sự hèn nhát. Của
thói quen. Và của cả niềm hy vọng. Ngày nào bọn hắn cũng dậy cùng tiếng kẻng đầu
tiên vang lên từ phía nhà bếp. Ăn sáng. Uống nước trong cái chảo. Rồi đi. Những
bước chân chuệnh choạng vì thiếu ngủ.
Chiếc rìu Thượng loang loáng bổ xuống, những nhát
rìu ngắn, ngày càng thành thục, chắc nịch. Ngọn núi gỗ trước trại mỗi ngày cao
thêm một chút, cho đến khi được bốc xuống tàu, rồi lại cao dần như núi…
Từ lâu hắn không còn phản đối. Không còn nài nỉ.
Không còn cầu xin. Thậm chí không còn nhớ nữa. “Hãy lao động. Chỉ có lao
động mới làm con người trở nên cao thượng” – Tay đội trưởng vẫn lặp đi lặp lại
bằng cái giọng trầm trầm quen thuộc, nhưng hắn không còn nghe nữa. Hắn nhìn những
gốc huyết đàn đen đủi nhô lên trên cát trắng.
Bãi cát rộng mênh mông, chạy dài ven bờ biển.
Biển rộng vô cùng.
V
Cổ khô và bỏng rát. Hắn nhổ một bãi nước bọt vào
lòng bàn tay. Bãi nước bọt trắng đục, rơi lả lả như vôi bột.
Hắn nhặt một chiếc vỏ ốc, ném về phía biển. Nó quay
tròn, quay tròn rồi rơi xuống cát, không tiếng động. Những con sóng vẫn lầm lì
trườn lên bãi. Dưới chân hắn, cái rìu nằm chỏng trơ.
Đột nhiên hắn cảm thấy một sự im lặng kỳ lạ. Không
còn tiếng sóng vỗ, không còn những tiếng rìu. Không còn tiếng gió thổi. Không
còn bất kỳ tiếng động nào.
Trong những giây đầu tiên, hắn không kịp hiểu điều
gì đã xảy ra. Và có lẽ hắn cũng không bao giờ hiểu được. Thậm chí hắn cũng
không kịp sợ hãi. Hắn chỉ cảm thấy kinh ngạc, một cảm giác gần giống như là sự
tê liệt. Hình như hắn vừa kêu lên, nhưng hắn không nghe thấy tiếng mình. Hình
như hắn gọi to một ai đó, nhưng chính hắn cũng không biết mình vừa gọi ai. Tiếng
kêu mất hút trước khi ra khỏi miệng hắn, tan biến vào thinh không, không vọng lại
bất cứ một dư âm gì. Xung quanh là một bầu im lặng tuyệt đối. Một sự im lặng
tuyệt đối mà chưa từng có ai trên đời này được biết. Không còn tiếng sóng vỗ,
không còn những tiếng rìu. Không còn tiếng gió thổi. Không còn bất kỳ tiếng động
nào.
Đến lúc ấy, một cơn sợ hãi mới choàng lấy hắn. Chân
tay bủn rủn, hắn gần như khuỵu xuống. Một ý nghĩ khủng khiếp vụt đến trong đầu:
hay là hắn đã chết? Hắn đã chết? Trời ơi, hắn đã chết thật rồi. Hắn đã chết! Hắn
đã chết. Chắc chắn là hắn đã chết. Bầu im lặng rùng rợn kia chính là bầu im lặng
trong mồ!
Trong cơn hoảng loạn, hắn nhìn ra xa. Thật kỳ lạ, hắn
vẫn nhìn thấy rõ mồn một tất cả mọi thứ xung quanh: cánh rừng, bãi biển, con đường
mòn dẫn về cửa trại và đi ngược lên sườn đồi. Hắn vẫn hình dung thấy những đường
rìu loang loáng, những bộ mặt gầy đen, những cái gáy cạo trọc. Hắn vẫn trông thấy
dòng nhựa đỏ như máu ràn rụa trên lớp vỏ huyết đàn.
VI
Vậy sự im lặng kỳ lạ này nghĩa là gì?
Hắn vùng dậy. Hắn chạy. Hay đúng là hắn đã chết thật
rồi? Hắn chạy mà cảm thấy đất dưới chân đang sụt lở. Đôi chân không còn nghe
theo ý hắn. Hắn chạy. Chạy mãi. Hoá ra hắn chạy đến với những đường rìu. Từ xa,
hắn nhận ra cái dáng nhỏ thó của thằng Lộ.
Những khuôn mặt bám đầy bụi than, tóc bết lại vì mồ
hôi, những khuôn mặt người chưa từng gần gũi, nhưng thảy đều quen thuộc đối với
hắn, đang trắng bợt ra dưới nắng chiều và gió cát. Cả khuôn mặt thằng Lộ cũng vậy.
Thằng Lộ trở thành bạn hắn, thằng bạn duy nhất của hắn, từ khi hắn cứu nó khỏi
một thân cây đang từ từ đổ xuống. Ở cái trại này không ai cởi mở với ai. Thế
nhưng sau đận ấy, Lộ cũng kể cho hắn đôi điều. Mồ côi cả cha lẫn mẹ từ thời
chưa biết mặc quần, Lộ lớn lên bằng thịt chuột đồng. “Nhưng vì sao mày phải đến
đây?” Cả thằng Lộ cũng chẳng biết.
-Lộ, mày có nghe không, tao nói…- Hắn cố sức để gào
lên như vậy.
Thằng Lộ không nghe thấy gì. Nó thản nhiên quay đi,
đến ngồi trên một gốc huyết đàn. Khuôn mặt nó từ từ quay, lặng lẽ như quay một
chiếc bản lề. Như thể nó đã điếc đặc. Hoặc không còn hiểu được tiếng người.
– Không phải thế! Không phải thế!
Những tiếng gầm thét không sao thoát được ra khỏi
miệng. Hắn nhảy xổ đến, tóm lấy cổ thằng Lộ làm nó giật bắn người. Hắn đấm, đá,
hắn cào cấu như điên như dại, còn thằng Lộ lúng túng chống đỡ. Nó hoa chân múa
tay như một con rối, nhưng miệng vẫn không hề mấp máy. Và hắn cũng không nghe
tiếng thét của chính mình. Hắn hoàn toàn không còn cảm giác về âm thanh. Mọi âm
thành đều đã biến mất, như thể hắn đã không còn tồn tại.
Nắng đã tắt. Bầu không khí đầy hơi nước đã bắt đầu
mờ đục, nhưng bầu trời thì vẫn còn trong vắt, cái trong vắt vô cùng vô tận, cái
trong vắt đến rợn người.
Hắn ngã phịch xuống đất. Chưa bao giờ hắn thấy trời
xa đến thế. Hắn chưa bao giờ tin vào Chúa Trời, nhưng bây giờ cầu mong có một Đấng
linh thiêng toàn năng. Chúa Trời, liệu Chúa Trời có nghe những tiếng kêu khốn
khổ của hắn hay không?
VI
Đột nhiên, hắn nhớ đến tay đội trưởng. Hắn muốn
nghe thấy giọng nói của anh ta, cái giọng trầm trầm và xúc động mà mới đầu hắn
đặt biết bao hy vọng. “Hãy lao động. Chỉ có lao động mới làm con người trở nên
cao thượng”. Hắn biết rằng bấy lâu nay anh ta vẫn còn nhắc đi nhắc lại câu nói ấy,
tuy đã lâu lắm hắn không còn để ý.
Hắn ngồi bệt trước cửa trại, ngay trên đống gỗ. Hắn
chờ. Thực ra thì hắn có thể chạy tắt qua cánh rừng để đến gặp anh ta, nhưng hắn
không còn đủ sức. Mà có đủ sức, hắn cũng không còn đủ can đảm. Hắn muốn òa
khóc, nhưng nước mắt không sao ứa ra được. Những giọt nước mắt đã lâu không lắm
không còn chảy trên gò má hắn. Những giọt nước mắt cuối cùng đã rơi, đã khô, đã
thấm sâu vào cát dưới đống gỗ cao như núi. Đống gỗ chính tay hắn chặt.
Rừng huyết đàn ngày trước tiến sát đến chân đồi sau
trại, trùm lên những tảng đá trắng tinh. Trại ngày trước lút trong vòm lá. Bây
giờ trước trại, tiếp theo núi gỗ là một bãi trống rộng mênh mông. Đống gỗ cũng
tỏa ra mùi nhựa huyết đàn, thứ mùi tanh tưởi như mùi cá chết.
Hắn cảm thấy cái bóng của tay đội trưởng từ trước
khi anh ta xuất hiện chỗ ngoặt của con đường rừng. Anh ta đã già, bây giờ hắn mới
nhận ra điều đó. Lưng anh ta còng hẳn xuống. Cánh tay cầm rìu của anh ta đã nặng
nề, gần như buông thõng. Theo sau anh ta là thằng Tòng, thằng Bảo rồi đến những
người khác. Họ đi lầm lũi thành hàng một, chậm chạp, ủ dột. Không thấy thằng Lộ
đâu.
Trong lòng hắn bỗng lại trào lên một niềm hy vọng vô
căn cứ, dù hai hàm răng run lên từng đợt. Hắn mơ hồ chờ đợi một điều gì đó, có
thể là một sự thay đổi trên khuôn mặt anh ta – dù sao thì anh ta cũng là một
con người. Ít nhất, anh ta cũng có thể nói câu nói muôn thưở của mình, với cái
giọng trầm trầm, với cái xua tay buồn bã.
Họ đi đến cạnh núi gỗ thì dừng lại. Hắn chợt nhớ đã
là cuối tháng. Ngày mai tàu sẽ đến bốc hàng.
Không còn chịu đựng nổi nữa, hắn lao xuống từ đống
gỗ. Hắn vấp, hắn ngã rồi lại vùng lên, lại chạy. Những thân gỗ lăn xuống phía
sau lưng. Hắn lao đến trước mặt đám người. Bãi cát mênh mông đã hóa màu đỏ rực
trong ánh hoàng hôn cháy đỏ. Cả khuôn mặt hắn cũng đỏ.
Nhưng hắn bất giác lùi lại như khi hắn lùi lại trước
con rắn độc. Tất cả các khuôn mặt đều bất động. Thằng Tòng, thằng Bảo. Những
không mặt như đúc bằng đá.
Người đội trưởng nhẹ nhàng gỡ tay hắn. Thản nhiên,
cả đoàn người đi qua trước mặt.
VIII
Hắn nhổm dậy khi trời đã tối. Phải một lúc lâu sau
hắn mới biết phải làm gì. Dưới ánh trăng, hắn chạy về trại. Vẫn bầu im lặng
rùng rợn. Hắn thắp lên một ngọn nến và đứng sững giữa những chiếc chõng. Hai
mươi bảy chiếc cả thảy. Những chiếc màn nâu nhầu nát, loang lổ, tanh tanh mùi
nhựa cây và mồ hôi, giờ lẫn vào bóng đêm, chỉ mờ mờ lay động trong ánh sáng chập
chờn đỏ quạch của thứ nến rẻ tiền. Những chiếc rìu lớn chất đống ngay dưới
chân. Hắn đặt cây nến lên một khúc gỗ, xách rìu, từ từ tiến lại. Chẳng rõ sự
kinh tởm hay lòng căm thù khiến máu trong người hắn sôi lên. Bằng tất cả sức lực
của mình, hắn bổ một nhát vào chiếc thùng cứu hoả. Nước phọt ra như xối. Những
con người đã hoá đá kia, hắn phải cho chúng một bài học, hắn phải cho chúng biết
rằng im lặng cũng là một tội ác, và tội ác phải được trả bằng tội ác.
Chỉ bằng một cú nhảy hắn đã đến sát chiếc chõng gần
nhất. Lúc vung tay lên, hắn chợt nhận ra thằng Lộ và chỉ một khoảnh khắc đó
cũng đủ cho thằng Lộ thoát chết. Lưỡi rìu chặt đứt thành chõng khiến nó đổ sập
xuống rồi cắm ngập vào nền đất. Hắn lay mạnh, nhổ chiếc rìu lên. Thằng Lộ văng
ra khỏi chiếc chõng, toàn thân mềm như bún, nằm sóng soài trên nền đất. Đầu ngẹo
sang một bên, miệng sùi bọt, nó vẫn tiếp tục ngủ.
Tới lúc này thì hắn hoá điên thực sự. Vừa gào thét
không thành tiếng, hắn vừa lồng lộn chạy khắp trại như một con thú bị thương. Hắn
nhảy thoăn thoắt qua những súc gỗ, dẫm vào vũng nước lênh láng từ chiếc thùng cứu
hoả, đạp lên những chiếc chõng, đạp lên cả những thân người đang mê mệt ngủ.
Một chiếc chõng hiện ra ngay trước mặt. Hắn vung
rìu lên và nó đổ sập xuống! Một chiếc chõng nữa. Một chiếc nữa. Những cái màn
rách toạc. Chẳng mấy chốc, cả cái trại tan hoang như sau một trận đánh.
IX
Hắn đứng hồi lâu trong cái trại ngổn ngang đổ nát.
Mặt trăng đã lặn, nhưng ánh sao mờ mờ cũng đủ để hắn nhận ra những thân người dọc
ngang đủ kiểu. Họ vẫn ngủ như chết. Ngoài cửa sổ là con đường mòn dẫn lên đỉnh
đồi. Đột nhiên hắn sực nhớ đến cái trại chó.
Hắn không biết mình đã ra khỏi trại như thế nào. Dưới
bầu trời đầy sao, con đường mòn lấp lánh sáng. Hắn đi như chạy, tay vẫn không rời
chiếc rìu. Đó không còn là thói quen đơn thuần, mà đã trở thành một cách
tự cân bằng.
Chẳng mấy chốc hắn đã lên đến đỉnh đồi. Gió lồng lộng
thổi, ném từng đám cát vào mặt, nhưng bốn phía vẫn im phăng phắc. Hắn bỗng cảm
thấy lo ngại. Hắn dừng lại mấy giây, nhưng rồi cũng lấy hết sức can đảm để bước
qua cái cửa vòm.
Đúng như hắn lo ngại, lũ chó không còn ở đó. Chỉ có
mùi phân chó bốc lên nồng nặc. Chúng biến đi đâu?
Hắn quẳng cái rìu xuống đất rồi từ từ tiến lại gần
bức tường cho đến khi mặt hắn chạm vào đá lạnh. Cái đầu của con rắn hổ mang hiện
ra, lắc lư nhìn hắn.
Chính hắn cũng không biết mình đã nói gì với bức tường,
nhưng đột nhiên hắn cảm thấy nó khe khẽ cựa mình. Hắn không còn dám tin vào những
giác quan của mình nữa. Ngay lúc đó có tiếng đá đang nứt ra khô khốc. Đó là thứ
âm thanh đầu tiên hắn lại nghe thấy. Tiếp theo là một tiếng động long trời lở đất.
Bức tường đổ ập xuống như thể nó được làm bằng cát. Những tảng đá lớn loang
loáng lăn xuống chân đồi và trước mặt hắn hiện ra một khoảng trời nước bao la lấp
lánh sao.
Gió ào ạt thổi lến khiến hắn như say. Hắn
quay sang bên cạnh và tiếng thì thầm của hắn lại làm bức tường thứ hai đổ xuống.
Khoảng trời rộng ra hơn nữa. Những vì sao nhiều hơn và sáng hơn cả trong những
cơn mơ.
Nhưng khi bức tường thứ ba đổ xuống thì hắn hoảng sợ.
Hắn mơ hồ cảm thấy như mình đang phạm vào một tội lỗi khủng khiếp. Hắn đang đứng
giữa đỉnh đồi, trên đầu là trời sao, ba phía cũng là trời sao nhấp nhánh. Chỉ
còn lại bức tường cuối cùng.
X
Hắn vùng chạy. Nhưng chỉ được mấy bước, hắn lại
nghe mặt đất rung lên.
Phía sau lưng, bức tường cuối cùng đã đổ.
NTL
GÃ TRỐN LÍNH
Truyện ngắn của Ngô Tự Lập
Tất cả chúng tôi đều run. Mồ hôi toát ra đầm đìa.
Giữa, Nhẫn và Út đã bị gập chặt lại, còn Cái chìa ra, chỉ có tôi đơn độc trên
cái thớt gỗ. Cái thớt mốc vẫn còn mùi thịt lợn ôi, lờm lợm.
Đơn độc, tôi chỉ còn biết phó mặc cho số phận. Đây
là lần thứ ba trong ngày, ngày thứ ba trong tuần. Mà đã có lần thứ ba, ngày thứ
ba, thì may ra cũng sẽ có lần thứ tư, ngày thứ tư. May hơn nữa, còn có ngày thứ
năm. Và biết đâu, thứ sáu, thứ bảy. Biết đâu, ông chủ đột nhiên đổi ý.
Cái gặp may, Giữa, Nhẫn và Út cũng gặp may. Tôi cảm
thấy cay đắng, nhưng không hề ghen tị. Số phận là thế, đời tôi nhiều vinh dự
thì cũng nhiều nguy cơ.
Tay trái, ông chủ cầm con dao pha cán gỗ. Sống dày,
lườn đen, lưỡi xanh, con dao ấy sắc như nước. Giống hệt bên tay phải, cả năm
ngón trái toát mồ hôi hột. Cái Trái và Trỏ Trái run nhất. Vì không quen. Lần đầu
tiên cầm dao, run là phải. Mà nói đúng ra, đây đã là lần thứ chín – lần thứ ba
trong ngày, ngày thứ ba trong tuần.
Bình thường, cầm dao là việc của tay phải, trước hết
là của tôi và Cái Phải. Suốt đời mình, tôi làm gì thì hầu như bao giờ cũng cùng
làm với Cái Phải. Dĩ nhiên, trong nhiều việc, như việc cầm dao, cũng ít nhiều
có sự trợ giúp của Giữa, Nhẫn và Út. Tôi muốn nói là Giữa Phải, Nhẫn Phải và Út
Phải.
Công việc của chúng tôi lặp đi lặp lại hết ngày này
đến tháng khác. Mỗi khi có khách, một bà to béo chẳng hạn, hay một ông gầy như
que củi, hay một chị bụng to như cái thúng, đại loại thế, ông chủ quẳng súc thịt
đỏ hỏn lên mặt thớt và cầm dao. Gân căng lên, tôi miết chặt lấy cán gỗ. Như một
ánh chớp, con dao pha bổ xuống tảng thịt. Sụt! Thật nhẹ. Thật ngọt.
– Nửa cân chẵn, ông chủ nói, quấn miếng gói thịt bằng
một mảnh ni lông và trao cho khách hàng.
Cầm dao, đó là một công việc cao thượng. Anh không
những phải cắt miếng thịt sao cho gọn, đẹp, ngon mắt, mà còn phải chính xác. Nửa
cân, một nhát dao. Hai cân, cũng một nhát dao. Hai nhát là vứt.
Cầm dao là một công việc cao thượng còn vì một lý
do khác. Anh phải biết điều chỉnh. Nhỏ thôi, nhưng phải biết điều chỉnh. Khách
quen không giống khách sơ. Với khách quen anh cắt nhỉnh thêm tí chút. Với khách
sơ, anh cắt hụt tí ti. Cầm dao là việc mang đầy tình người.
Cầm dao, đó là việc của tôi với Cái Phải, nhưng lúc
này, lại là việc của Trỏ Trái và Cái Trái. Đây là lần thứ ba, ngày thứ ba, Trỏ
Trái và Cái Trái cầm dao. Mới chỉ là cầm, chứ chưa bao giờ chặt thịt. Mà nói
chung, anh ta chưa chặt bất kỳ một thứ gì. Như thế thì run là phải.
Tôi vẫn hy vọng ông chủ sẽ đổi ý, hay ít nhất là
hoãn lại đến ngày mai. Nhưng tôi cũng lờ mờ cảm thấy lần này sẽ là lần định mệnh.
Tôi không thể giải thích tại sao, nhưng cảm giác ấy rất rõ. Có thể vì tay ông
chủ run hơn, nhưng điều đó tôi cũng không dám chắc.
Ông từ từ hạ con dao xuống. Lưỡi dao lạnh chạm vào
lưng khiến tôi rùng mình.
Thú thật, tôi vốn là kẻ nhát gan, cứ nhìn thấy lưỡi
dao sáng loáng là hoảng. Hơn ai hết, tôi biết rõ tất cả những ngón nghề của hắn
ta. Những mũi rạch, những đường thái, những vết cắt, những cú chặt, những nhát
xả, và cả những đòn trở sống lưng gớm ghiếc. Ngón nào cũng lạnh lẽo, chết chóc.
Cũng may, tôi luôn luôn là người cầm dao.
Trước kia, ông chủ không bao giờ chạm lưỡi dao vào
lưng tôi, mặc dù vào bụng thì thường xuyên. Đúng hơn là ông gại gại bụng tôi
vào lưỡi dao, có khi để thử xem dao có sắc không, có khi chỉ vì thói quen. Da bụng
tôi dày, tiếng gại vào dao khột khột, khạp khạp, cao thấp khác nhau. Nếu dao
cùn, ông gại vào thanh đá mài. Nhưng chuyện đó chỉ xảy ra có một lần. Nói
chung, con dao này sắc như nước.
Ông để lưỡi dao yên lặng hồi lâu trên lưng tôi, khẽ
ấn, giữ yên, nghiêng một bên, nghiêng về bên khác, rồi khẽ ấn nữa. Lớp da mỏng
trên lưng tôi đau nhói, như sắp đứt.
Ông cứ đứng nhứ thế hồi lâu, rồi đột ngột nhấc dao
lên, thở dài. Tôi thoáng mừng thầm. Giống hệt hôm qua, khi ông nhắm mắt lại, thở
dài, toàn thân tôi lạnh buốt. Tôi đợi ông lắc đầu, gạt cái thớt sang một bên rồi
vào bếp, cất dao lên giá. Vậy là sẽ có ngày thứ tư. Biết đâu còn có ngày thứ
năm. May hơn nữa, thứ sáu, thứ bảy. Biết đâu, ông chủ đột nhiên đổi ý.
Đột nhiên ông đấm cái “rầm”. Bằng một động tác quyết
liệt, tay trái ông bổ xuống một nhát trời giáng. Con dao cắm ngập vào cái thớt
gỗ. Cái thớt gỗ nhớp nháp, nồng nặc mùi mỡ lợn ôi, nảy lên vì giật mình trên mặt
bàn cũng dính đầy mỡ lợn.
Miệng nghiến ken két, ông chủ đi lòng vòng quanh
bàn, lòng vòng trong phòng. Ông lại gần giá đồ nghề, lần lượt cầm từng con dao
lên ngắm nghía. Tần ngần, ông đưa tôi vào miệng, cắn nhè nhẹ giữa hai hàm răng,
day day như dò hỏi. Tôi chợt nhớ những ngày xa xưa, khi còn nhỏ, ông vẫn dùng
răng cắn và day tôi như thế mỗi lần có điều gì sợ hãi.
Năm lên bốn ông bị ốm. Một bệnh gì đó không rõ,
nhưng có vẻ rất trầm trọng vì ông thở khò khè, không ăn uống gì được. Mẹ ông dẫn
ông đến thầy thuốc. Ông chủ tôi khóc ngằn ngặt trong khi ông thầy thuốc vẫn nhẹ
nhàng dỗ dành. Ông ta ngửa lòng bàn tay ông chủ, bôi cồn lên bụng tôi, chỗ đầu
ngón, rồi bất ngờ cắm phập một chiếc kim dài đúng vào cái hoa văn xoáy tròn.
Tôi co rúm người lại. Ông chủ tôi thét lên một tiếng rùng rợn, rãy rụa tuyệt
vọng, nhưng ông thầy thuốc không chịu tha. Ông ta bóp mạnh khiến máu chảy ra
thành dòng, đen như máu cá. Đến tận bây giờ tôi vẫn còn nhớ cái cảm giác máu
trong mình bị vắt ra đau buốt đến tận xương tuỷ. Khi máu đen đã ra hết, ông thầy
thuốc ấp lên bụng tôi một miếng bông tẩm cồn, cười rất tươi: “Xong rồi, như con
kiến đốt thôi mà!”. Ông chủ tôi vẫn khóc. Ông vứt miếng bông xuống đất, đút tôi
vào miệng và mút.
Có thể lúc này ông không nghĩ đến chuyện ấy. Ông để
tôi lướt nhẹ trên hàm răng thô và khấp khuểnh. Hồi lâu sau, ông ra sau nhà, vẫn
dùng tay trái, cầm chiếc rìu lên ngắm nghía. Chiếc rìu dùng lâu năm, cán bóng lộn,
nhưng lưỡi cũng sáng loáng như lưỡi dao. Ông thấm nước bọt vào bụng tôi, quệt
lên lưỡi rìu rồi khe khẽ lắc đầu.
Trở vào nhà, ông mở cái hộp gỗ nhỏ, vẫn cố không để
tôi chạm vào. Cái hộp cũng đen đủi và nồng nặc mùi mỡ ôi. Trong hộp ngoài ít tiền
lẻ chỉ có hai tấm ảnh đã ố vàng. Ông nhìn chăm chú vào hai tấm ảnh, thở dài, và
lại lắc đầu.
Tôi gần như tê liệt khi ông đóng cái hộp, đứng dậy.
Trong khi đó, ông có vẻ đã bình tĩnh trở lại. Chậm rãi, ông lại gần cái bàn nghề,
dùng tay trái lay nhổ con dao vẫn còn cắm ngập vào cái thớt. Ông lay rất lâu,
nhưng khi nó vừa lỏng ra thì ông nâng lên một cách dứt khoát.
Ngay cả lúc ông gầm lên trong cổ họng tôi vẫn chưa
hiểu chuyện gì xảy ra. Máu phun ra đỏ cả mặt thớt. Tay trái ông chủ rút từ túi
quần ra một cuộn gạc, quấn chặt lấy vết thương.
Tôi không hiểu gì cho đến khi tay trái ông chủ nhặt
tôi lên, gói vào một miếng vải trắng.
Trong cổ họng, ông vẫn gầm gừ vì đau đớn, nhưng môi
ông nở một nụ cười hãnh diện.
MỘT SỐ TÀI LIỆU CÓ LIÊN QUAN:
Nội chiến bảy năm: “Cuộc chiến giữa người Tumsi và
người Dumsi dưới thời vua Soliva (1901-1957) là một trong những xung đột chủng
tộc đẫm máu nhất trong lịch sử. Người Tumsi sống bằng nghề săn bắn và khai thác
rừng ở phía Tây dãy Siva, người Dumsi trồng ngô và đánh cá ở vùng đồng bằng
phía Đông. Thực ra người Tumsi và người Dumsi đều thuộc chủng Msi với khác biệt
về tiếng nói không đáng kể. Trừ một số từ địa phương, bất kỳ người Tumsi và người
Dumsi nào cũng có thể giao tiếp với nhau dễ dàng. Năm 1931, Soliva, một chủ trại
ngựa gốc Tumsi, đảo chính lật đổ vua Domba đệ Tam, lên ngôi và thi hành chính
sách bài Dumsi. Vì mục đích chính trị, sự khác biệt ngôn ngữ bị chính quyền
Soliva cường điệu bằng cách áp dụng lối viết từ phải sang trái cho người Tumsi,
trong khi người Dumsi vẫn tiếp tục sử dụng lối viết trừ trái sang phải. Làn
sóng tàn sát và cướp bóc lan tràn khiến chỉ trong năm năm đầu tiên cầm quyền của
Soliva, đã có ít nhất nửa triệu người Dumsi bị giết hại. Mùa xuân năm 1939,
Dzombu, một chủ đồn điền trồng ngô cùng em trai là Dzombi cầm đầu một nhóm nông
dân miền Đông tấn công các tỉnh lỵ ven biển rồi nhanh chóng tiến sát đến chân
dãy Siva. Tự xưng là những người khôi phục triều vua Domba đệ Tam, đồng thời áp
dụng chính sách lấy của cải của người giàu chia cho dân nghèo, họ được ca ngợi
như những vị cứu thế và uy tín tăng lên rất nhanh. Tuy nhiên, Dzombu và quân đội
của ông ta nhanh chóng tỏ ra cũng tàn ác không kém, đặc biệt là đối với người
Tumsi ở những vùng ông ta chiếm được. Chính Dzombu đã giết chết em trai vì mâu
thuẫn nội bộ. Soliva và những người Tumsi bị mất quyền lợi không chịu bó tay.
Cuộc chiến nhanh chóng chuyển thành cuộc tranh giành quyền lực giữa Dzombu và
Soliva. Kể từ đầu cuộc chiến đến mùa thu năm 1946, khi Dzombu bất ngờ bị sát hại,
tổng số người chết trực tiếp hoặc gián tiếp trong cuộc chiến ước tính lên tới
4,5 triệu người”.
(Tibet-Leo Newman, Cuộc chiến tranh bảy năm,
Paris: Harold, 1971, t. 17).
Thương vong: “Trong suốt cuộc chiến, cả hai bên đều
áp đặt một chế độ quân dịch đặc biệt hà khắc đối với dân chúng. Mặc dù thống kê
chưa đầy đủ, có nhiều bằng chứng để tin rằng ít nhất mỗi bên có hàng trăm ngàn
người bỏ mạng tại chiến trường, hàng triệu người khác bị thương vong và hàng
triệu dân thường đã chết vì những nguyên nhân liên quan trực tiếp đến các cuộc
hành quân. Báo cáo mật của các tướng lĩnh thân cận gửi Soliva cho thấy chỉ
trong mùa xuân năm 1939, quân nổi dậy của Dzombu đã giết 10200 binh lính và hơn
1000 cảnh sát của Soliva. Những cuộc giao tranh trong những năm sau đó còn khốc
liệt hơn gấp bội. Cao điểm là năm 1942, khi hai bên tập trung lực lượng cho trận
quyết đấu ở chân dãy Siva. Các báo cáo khác nhau cho thấy trong trận này Soliva
mất 45000 lính, còn phía Dzombu là 39000″.
(Tibet-Leo Newman, Đã dẫn, t. 95)
Bệnh dịch: “Nguy cơ tử trận và thương vong cao
không phải là lý do duy nhất khiến tỉ lệ hao binh cực kỳ cao của hai bên tham
chiến. Trong vòng bảy năm, ít nhất bốn lần xảy ra đại dịch, đặc biệt là trận sốt
mắt đỏ khiến cho khoảng 50% binh lính của cả hai bên mắc bệnh, trong đó tỷ lệ tử
vong lên tới 15%”.
(Dzumbuti, Y học thời chiến, New York:
Medibooks, 1960, t. 29).
Bắt lính: “Mới đầu, quân Dzumbu chủ yếu bao gồm
những người tình nguyện, đa số là nông và ngư dân, nhưng khi chiến tranh lan rộng,
nhất là sau khi Dzombu tuyên bố khôi phục ngôi vua Domba, ông ta bắt đầu áp dụng
chế độ quân dịch bắt buộc. Soliva thì đã áp dụng chế độ quân dịch từ trước.
Phương pháp bắt lính của cả hai bên nói chung là không khác nhau. Thông thường,
chỉ tiêu cho mỗi làng là cứ năm người đàn ông phải có một người đăng lính. Tuy
nhiên, trong nhiều trường hợp, phương pháp vây ráp chớp nhoáng để bắt lính cũng
được áp dụng khi cần thiết”.
(Tibet-Leo Newman, đã dẫn, t. 116).
Đào ngũ: “Tỷ lệ đào ngũ của quân Dzombu lúc
cao điểm là 17%. Tỷ lệ đào ngũ của quân Soliva được coi là thấp hơn nhưng chắc
chắn không dưới 12%. Lý do chính là nguy cơ tử vong cao, điều kiện khắc nghiệt,
và thói hung bạo của các cấp chỉ huy…Những kẻ đào ngũ bị bắt lại thường bị đối
xử rất tàn bạo, một số bị hành quyết không xét xử”.
(Hmumbi, Vấn đề đào ngũ trong Chiến tranh Bảy
năm, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 257).
Trốn lính: “Hình thức trốn lính phổ biến nhất là tự
gây thương tích”
(Hmumbi, đã dẫn).
Vụ thảm sát sông Silver: “Thực ra đây chỉ là một
trong rất nhiều cuộc thảm sát trong bảy năm nội chiến. Ngày 12 tháng Bảy năm
1941, những người nông dân trồng ngô trên bãi sông Silver cách thị trấn
Dzombong khoảng năm dặm về phía bắc phát hiện rất nhiều xác người trôi xuống từ
phía thượng lưu. Chính quyền sở tại huy động dân chúng vớt lên được ít nhất 800
thi thể đàn ông trần truồng, bị trói giật cánh khuỷu và bắn vào gáy. Tất cả đều
bị chặt ngón trỏ tay phải”.
(Báo cáo của Uỷ ban nghiên cứu tội ác chiến
tranh, bản in roneo, thư viện quốc gia Siva, F6-P299.G73.B2354,7).
NTL
GIẤC NGỦ KỲ LẠ CỦA ÔNG LƯƠNG TỬ BAN
Truyện ngắn Ngô Tự Lập
Bay mải miết, bay trong câm lặng…
Gần sáng, không biết lần thứ mấy, ông Lương Tử Ban
lại ngồi dậy và quyết định thử bài thuốc của dân biển(1).
Ký ức mờ tối và ẩm ướt bảo Lương Tử Ban rằng ông đã
thức gần trắng đêm.
Những buổi tối mùa hè nóng nực và ẩm ướt như thế
này, cái trần nhà mà bình thường ông vẫn có thể với tay tới càng thấp xuống.
Ánh sáng hắt từ ngọn đèn đường soi rõ từng đàn bọ xít bay tíu tít vào ra. Chúng
vào qua những lỗ gác cốp pha sát trần có từ khi xây dựng ngôi nhà mà chẳng hiểu
vì sao người ta không trát lại.
Nhìn chăm chăm vào bầy bọ xít trên trần, ông tự hỏi,
như một thói quen, chúng ở đâu đến?
Lương Tử Ban đã trải qua một cuộc đời chìm nổi, chẳng
ai biết đã qua những đâu, nhưng chẳng còn gì trên đời mà ông không biết. Thế mà
ông lại luôn luôn ngạc nhiên về lũ bọ xít này.
Phải có một lý do gì để chúng đến đây, như mật mời
gọi ong bướm, như phân súc vật quyến rũ bọ hung.
Một lần ông đã dùng chổi đập. Đó là một sai lầm chết
người. Mùi hăng của những con bọ chết lập tức dâng lên nghẹt thở nhưng lại
kích thích đồng loại của chúng kéo đến. Chúng tràn vào căn phòng như một cơn
lũ.
Suốt đêm đó ông phải ngủ ngoài thềm.
Lương Tử Ban thử ngoáy đầu.
Những đốt sống cổ, những khớp xương vai kêu răng rắc.
Đúng lúc đó ông quyết định thử bài thuốc của dân biển.
Ông ngả tấm lưng ê ẩm xuống nền gạch và chợt hiểu
ra rằng bài thuốc đó hoàn toàn không phải là đồn đại. Một cảm giác khoan khoái
tràn ngập thân thể ông. Hơi lạnh của đất mơn trớn những chỗ da thịt lộ ra khiến
ông có cảm giác như người đang khát được một hơi nước mát.
Nhưng còn một điều gì đó khác nữa làm ông ngỡ ngàng.
Điều gì?
Ông nhìn quanh và chợt hiểu ra: trần nhà dường như
cao hơn. Những con bọ xít trên trần trở nên bé li ti như một bầy kiến. Ông cũng
không còn nhìn rõ những cái lỗ cốp pha đen đủi trên tường.
Ông nhắm mắt lại thưởng thức sự khoan khoái, rồi từ
từ mở mắt ra để minh chứng cho sự khoan khoái ấy.
Đúng, niềm khoan khoái này, khoảng không gian tự do
này là có thật. Để có nó, đâu có phải là điều khó khăn. Vậy mà đến tận hôm nay
ông mới phát hiện ra!
Trong cuộc đời, nhiều khi ta bỏ qua những niềm hạnh
phúc chỉ vì lười biếng và thụ động. Ông thầm nghĩ.
Ông cố tạo ra trong đầu một khoảng trống rỗng. Và
ông tạo được thật. Một khoảng trống rỗng lâng lâng ông chưa từng biết trong cuộc
đời trần tục của mình.
Phải một lúc lâu sau nghĩ ý nghĩ mới trở lại. Và lập
tức ông nhớ ra một điều hệ trọng. Một ý nghĩ khiến ông mỉm cười:
– Này, Lương Tử Ban ơi, anh có thể làm gì nữa
không?
– Có chứ.
– Vậy anh định làm gì?
– Anh thử đoán xem.
– Hãy xem nhé. Hãy xem rồi biết!
Lương Tử Ban tự nói với mình như thế, vừa nói vừa mỉm
cười đắc thắng.
Ông lấy con dao rựa dưới gầm giường, cậy mấy viên gạch
lát nền.
Gạch cũ, bở bùng bục. Ông đào như một sự nhấm nháp,
không vội vã nhưng cũng không lười biếng, giống như cách người ta nhấm nháp một
cốc rượu ngon.
Chẳng mấy chốc ông đã dọn xong một khoảng rộng bằng
chiếc chiếu con.
Chà! Ông reo lên khoái trá.
Cái gì thế kia. Cái trần nhà của ông đấy ư?
Đâu có, đó là một bầu trời.
Còn lũ bọ xít?
Chúng đã biến rồi. Chúng đã biến thành những vì sao
nhỏ.
Những vì sao đen.
Những vì sao đen.
Chà chà! Ông lại reo lên lần nữa. Ông chống tay lên
rồi thả cho rơi xuống.
Những hòn cuội và đá nhỏ lổn nhổn dưới lưng khiến
ông cảm thấy như đang được tẩm quất. Ông cởi hết quần áo.
Một hai, ba!
Một hai, ba!
Đã quá. Một thứ tẩm quất tuyệt diệu. Ông lăn qua phải,
qua trái, nằm sấp rồi nằm ngửa. Ông đấm lịch bịch xuống đất như những võ sĩ tập
đấm trước khi vào trận.
– Này, Lương Tử Ban ơi, anh có định làm gì nữa
không?
– Có chứ.
– Vậy anh định làm gì?
– Anh thử đoán xem.
– Hãy xem nhé. Hãy xem rồi biết!
Lương Tử Ban lại tự nói với mình như thế, vừa nói lại
vừa mỉm cười đắc thắng.
Ông ra thềm, xách vào cái cuốc chim. Trong lòng,
ông cũng vui như một con chim.
Khi vui, những nhát cuốc nhẹ nhàng như múa.
Càng xuống sâu đất càng ẩm và mềm. Lương Tử Ban ơi,
đất ẩm và mềm! Chẳng mấy chốc ông đã đào xong một cái hố sâu ngang bụng.
Thử xem nào, ông quẳng cái cuốc chim, thử nằm xuống
hố.
Chà! Cái gì thế kia. Cái trần nhà của ông đấy ư?
Đâu phải, bầu trời đó chứ, một bầu trời lồng lộng. Một bầu trời cao lồng lộng…Với
những vì sao đang rì rào rì rào hát xa xăm.
Nhưng phải đào thêm nữa…
Lương Tử Ban vừa làm vừa hát thầm. Ông hoàn thành
công trình của mình khi trời đã tang tảng sáng. Ông nằm xuống, thiếp đi một giấc
ngon lành.
Đó là giấc ngủ lạ lùng nhất trong đời ông.
Những kẻ không am tường hoàn toàn sai lầm khi loan
tin Lương Tử Ban tự đào huyệt chôn mình.
NTL
(1): Bài thuốc của dân biển: Người thuỷ thủ nọ mắc
một căn bệnh lạ, chân tay mềm nhũn, thuốc gì cũng không chữa khỏi. Người ta buộc
phải chở anh ta về quê, coi như đem về để chôn cất. Lúc được cáng lên bờ, anh
ta bỗng tỉnh lại, đòi đi bộ. Chiều lòng kẻ hấp hối, người ta đặt anh ta xuống.
Thế rồi như có phép lạ, chân vừa chạm đất bệnh tình của anh ta biến mất. Anh ta
trở lại tàu và còn đi biển thêm hai mươi năm nữa.
BẢNG CHỮ CÁI
Truyện ngắn của Ngô Tự Lập
Cái tên không quan trọng,
giờ càng thêm vô nghĩa
giờ càng thêm vô nghĩa
N.T.L.
Có lẽ tôi đã ngủ rất lâu trước khi bị lay dậy một
cách dữ dội. Tôi cố nằm thêm, mặc dù đó không phải là thói quen của một người
lính cũ. Thường thì tôi bật dậy ngay. Trước khi tôi vào lính, cha tôi, một đại
tá từng trải ba cuộc chiến tranh, chỉ dặn mỗi một câu: “Hãy chồm dậy ngay tiếng
còi báo động đầu tiên!”. Lời dạy của ông tôi làm theo trong suốt thời gian tại
ngũ và cả khi giải ngũ. Nhưng có những lúc ta không làm chủ được mình. Tôi thấy
mình đau ê ẩm và phải một lúc khá lâu sau tôi mới chậm chạp mở mắt.
Đột nhiên tôi linh cảm thấy điều gì đó :
– Ai?
Một người đàn ông ngồi yên trên ghế từ bao giờ, ung
dung như ông ta vẫn ngồi yên như thế đã lâu lắm, trên chiếc ghế đẩu đã tróc sơn
mà ngày trước cha tôi vẫn ngồi khi đàm đạo với tôi. Tay ông ta thu thu vật gì
đó màu xám trên đầu gối. Tiếng quát thất thanh của tôi cũng hoàn toàn không làm
ông ta bối rối.
– Thế nào, tỉnh chưa? Xin lỗi vì đã đánh thức anh…
– Không, không có gì – tôi nói theo thói quen, mặc
dù trong bụng vừa bực bội vừa đầy nghi ngại.
“Ai nhỉ” – Tôi tự hỏi và lúc đó mới nhận ra rằng
mình đang ở trong thư viện. Tôi muốn nói cái thư viện cá nhân trên tầng xép với
rất nhiều sách quý cha tôi để lại và tôi đã bỏ ra cả tháng trời để kiểm kê, sắp
xếp. “Đó là cái thư viện trật tự và chuyên nghiệp nhất Hà Nội” tôi vẫn hãnh diện
tuyên bố với bạn bè như thế – Thú thực, đôi lúc tôi cũng nói vống số lượng của
nó lên với một niềm tin ngây thơ rằng con số sẽ chứng minh cho sự uyên bác của
chủ.
Thực ra ông ta vào nhà tôi không phải là điều khó
khăn. Nhà tôi luôn mở cửa và cũng không có hàng rào. Tôi căm ghét các loại hàng
rào. Tôi từng sống với người Ducơmi và tôi đem về đây quan niệm sống cao thượng
của họ. Trong ngôn ngữ của họ không có từ hàng rào. “Nhà tôi nhỏ nhưng không có
hàng rào. Bạn hãy đến, rồi hãy đi, như gió”. Tôi có câu thơ như thế.
Hành lang giữa nhà tôi nằm theo hướng đông-tây, trừ
một khoảng thời gian ngắn ngủi giữa trưa, ánh nắng có thể rọi vào chói lọi.
“Ai nhỉ?” Tôi lại tự hỏi và kín đáo liếc nhìn ông
già trong lúc ra kéo rèm cửa sổ.
Mặt ông ta rất dài, gầy, tóc thưa thớt, râu bạc trắng,
mệt mỏi nhưng chẳng có vẻ gì là độc ác. Bộ pijama rất cũ, ố vàng,
trông như may bằng những mảnh giấy xé ra từ một cuốn sách cũ.
Không gian hoàn toàn im ắng, bên ngoài trời tối đen
như mực. Tôi ngước nhìn đồng hồ, nhưng nó đã chết từ bao giờ chẳng rõ.
Tôi quay lại, chưa kịp hỏi thì ông già đã nói:
– Anh mời tôi đến mói chuyện về bản thảo cuốn từ điển
Việt-Bồ-La…
Ông ta nói và chìa cái gói trên đầu gối. Thì ra đó
là tập bản thảo. Ông lật trang bìa, lấy ra một lá thư.
Cả nét chữ lẫn chữ ký đúng là của tôi, nhưng tôi
không sao đọc nổi. Sao mình lại viết một cái giấy mời cẩu thả đến thế này nhỉ?
Tôi cảm thấy ngượng ngùng. Mình đã gửi thư này từ bao giờ? Và quyển từ điển Việt-Bồ-La
nào? Một ý nghĩ hài hước thoáng trong đầu: “Chẳng lẽ ông ta là Alexandre de
Rodes?”.
Nhưng tôi trấn tĩnh được ngay.
– À, cháu nhớ rồi – Tôi nói dối – xin lỗi, cháu
đang ngái ngủ. Bác uống trà nhé…
Tôi pha trà thật nhẩn nha, cố kéo dài thời gian.
Ông già nói:
– Nhưng xin lỗi anh, hôm nay tôi muốn bàn chuyện
khác, tuy cũng ít nhiều liên quan đến cuốn từ điển. Anh cho phép chứ? Tôi xin
trình bày ngắn gọn…
– Vâng, xin mời bác…
– Thế này, liệu chúng ta có thể bỏ trật tự hiện nay
của bảng chữ cái đi không?
– ?
– Anh biết rõ đấy, có rất nhiều điều tai hại, hay
thậm chí nhiều tai họa, chỉ vì bảng chữ cái bắt đầu bằng chữ A.
– Cái gì? Thay đổi trật tự bảng chữ cái?
– Đúng thế.
– Nhưng bác đang làm từ điển cơ mà?
– Chắc bác muốn nói đến chuyện tranh cãi về chữ E
trong sách “Tiếng Việt” lớp 1 chứ gì? – Tôi cắt lời – Thú thật với bác, cháu ớn
đến tận cổ chuyện chữ E chữ A ấy rồi.
Tôi đứng phắt dậy xổ ra một tràng đầy phẫn uất:
– Các ông bà tham gia cuộc tranh cãi ấy hoàn toàn
nhầm lẫn giữa trật tự của bảng chữ cái với việc dạy chữ nào trước. Dạy chữ E, D
hay X trước thì có ảnh hưởng gì đến bảng chữ cái nào!
– Anh không hiểu ý tôi. Chính tôi cũng ớn đến cổ cuộc
cãi vã đó. Tôi muốn kiến nghị việc khác hẳn. Tôi muốn thay đổi trật tự bảng chữ
cái. Nói đúng hơn, tôi muốn có một bảng chữ cái dân chủ hơn.
Tôi hoàn toàn không hiểu ông ta nói gì.
– Thế này nhé – ông ta nói – Nếu trong một đất nước
mà anh làm vua cứ làm vua mãi, anh đi cày cứ đi cày mãi, thì có thể gọi là dân
chủ được hay không?
– Xin lỗi, cháu không muốn nói chuyện chính trị.
– Không, đây không phải là chuyện chính trị. Đây là
vấn đề dân chủ của các con chữ.
– Lại còn vấn đề đó nữa!
– Chứ sao. Tại sao chúng ta cứ phải trói buộc sự vật
vào một trật tự nào đó. Tại sao…
– Thôi được rồi – Tôi tìm cớ hoãn binh – Mời bác uống
trà đã. Chuyện đâu có đó.
Ông già vui vẻ đồng ý, hình như cũng định tìm cách
nào đó giải thích rõ hơn.
Trong lúc chúng tôi uống trà, tôi hết nhìn ông lại
nhìn cái thư viện được sắp xếp ngăn nắp của mình.
– Thưa bác, bây giờ cháu xin hỏi. Nếu không sắp xếp
theo trật tự ABC thì cuốn từ điển Việt-Bồ-La bác định làm thế nào?
– Làm thế nào đâu phải là điều khó. Làm thế nào là
câu hỏi tiếp theo của câu hỏi làm gì. Vậy chúng ta làm gì? Chúng ta phải thay đổi
trật tự bảng chữ cái, hay nói đúng hơn là không được giữ một trật tự cố định của
bảng chữ cái. Điều đó vô cùng quan trọng nếu chúng ta ý thức được tác hại của
việc cố định một trật tự của bảng chữ cái…
Một lần nữa tôi lại nhìn lên những giá sách. Chẳng
hiểu tại sao lúc đó tôi bỗng nổi đoá.
– Nói thật với bác nhé, cháu không thấy có gì là
tác hại trong việc bảng chữ cái có một trật tự xác định. Ngược lại là đằng
khác. Không có nó thì làm sao có tất cả những thứ này? – Tôi chạy đến giá sách
và lôi xuống cơ man nào là từ điển, bách khoa toàn thư, danh bạ điện thoại,
danh sách hội đồng hương…- Làm sao, bác làm sao với tất cả những thứ này? Bác
hãy gọi tên một tác giả đi, cháu sẽ lấy xuống trong chớp mắt!
Ông già ngừng lại, nhưng hoàn toàn không thất vọng.
Đợi đến khi tôi ngừng, ông mới khẽ khàng:
– Anh ngồi xuống đi, tôi hỏi nhé. Anh ngày xưa đi
tàu, có biết Tùng Quảng không?
Lúc đó tôi mới nhận ra sự bất nhã của mình, bèn ngượng
nghịu ngồi xuống.
– Bác người Tùng Quảng à?
– Không, tôi người Sơn Hạ nhưng tôi có một kỷ niệm ở
đó, thời Cả Then, chắc anh không biết.
Tôi có nghe nói nhiều đến tên Cả Then, nhưng chỉ biết
đại khái ông là thủ lĩnh của một cuộc khởi nghĩa đánh Tây, bị bắt và giết một
cách dã man. Nhưng những cái tên quen thuộc khiến chúng tôi trở nên thân tình
hơn.
– Hồi đó tôi mới hai mươi bảy tuổi, – ông già nói –
đang học trường Sư phạm, nhưng đã tấp tểnh viết văn, làm báo và ngay từ hồi đó
đã viết dở cuốn từ điển Việt-Bồ-La này. Năm ấy, sau khi nghĩa quân Cả Then định
dùng cỏ khô tẩm nhựa thông đốt tàu Tây bị lộ, Tây cho người lùng sục dữ lắm. Cả
Then về sau cũng bị Tây bắt, đem treo cổ. Đêm hôm đó, chúng tôi vừa lên giường
thì nghe ồn ào rồi lính tráng ở đâu ập đến, dựng dậy. Vừa bừng tỉnh thì những
cái báng súng đã thúc vào lưng đau điếng kèm theo những tiếng quát nạt, sừng sộ.
“Thằng Cả Then đâu? Thằng Cả Then đâu, khai ra không chết cả nút”. Người
ta trói cánh khuỷu đám đàn ông lại, sắp thành hàng giữa sân, còn đám đàn bà thì
đuổi cả vào nhà bếp, khoá trái cửa.
– Thằng Cả Then đâu? – Họ dí đèn vào mặt từng người.
Chúng tôi run như cầy sấy, sợ đến vãi đái. Một anh sinh viên năm thứ nhất,
chúng tôi gọi là dân “tò he”, đứng cạnh khóc lóc, van lạy như mưa. Nhưng chúng
tôi nào có biết mô tê gì mà khai. Đánh đập chửi bới một hồi, họ lôi chúng tôi
vào nhà ăn, chỗ đám đàn bà đang chúi vào một góc vì sợ hãi. Trên chiếc bàn đặt
chiếc đèn bão, cuộn dây thừng và khẩu súng trường lấp lánh lưỡi lê. Một người
đàn ông to lớn, giọng khàn khàn tuyên bố đếm đến mười, nếu không khai chỗ ẩn
náu của Cả Then thì sẽ lôi từng người ra chém, “xem gan chúng mày to đến đâu”.
Những thời khắc sau đó căng thẳng và kéo dài như vô
tận. Tim tôi đập thình thịch. Nhưng những tiếng đếm ngược khô khốc cuối
cùng cũng chấm dứt. Người ta hạ lệnh đem danh sách cùng một thanh kiếm sáng
loáng ra, đặt lên bàn cạnh khẩu súng và cuộn dây thừng. Người đầu tiên bị gọi
tên là tôi. Chưa kịp định thần, tôi đã bị hai thanh niên lực lưỡng tóm chặt lấy
tay, đẩy mạnh ra trước chiếc bàn đặt chiếc đèn bão.
Tôi muốn kêu nhưng cổ nghẹn lại. Nỗi uất hận dâng
lên trong ngực. Rồi một cảm giác mát lạnh lướt qua sau gáy rất nhanh trước đầu
tôi rơi xuống đất và tiếng đám đàn bà rú lên.
Đúng lúc đó cả nhà ăn nhốn nháo. “Bắt được rồi, bắt
được rồi”. Hoá ra người ta đã bắt được Cả Then trốn trong hiệu đánh giày ở ngay
đầu phố.
– Vậy tên bác là…
– “Cái tên không quan trọng…”, anh có một câu thơ
như vậy đúng không? Quan trọng là từ đó tôi đành bỏ dở cuốn từ điển…Nếu như tên
tôi không bắt đầu bằng chữ A…
Chẳng người làm thơ nào không xúc động khi có người
thuộc thơ mình.
– Vâng, bây giờ thì cháu hiểu rồi…
– Thì tôi cũng chỉ cần có thế. Thống nhất được với
nhau rồi, chúng ta sẽ có cách.
– Vâng, đúng là không thể xem thường được.
– Đúng thế, không thể xem thường được.
Ông già nói thế rồi đứng dậy.
– Dù sao thì cũng muộn rồi. Tôi để lại cuốn từ điển
anh xem nhé. Lần sau ta sẽ bàn cụ thể.
Tôi đưa ông già xuống cầu thang. Ông đi rất nhanh.
– Anh khá lắm. Tuổi trẻ phải thế. Cũng như tôi ngày
trước. “Nhà tôi nhỏ nhưng không có hàng rào. Bạn hãy đến, rồi hãy đi, như gió“.
Có phải thơ anh không nhỉ?
Chẳng người làm thơ nào không xúc động khi có người
thuộc thơ mình.
Tôi mở cửa cho ông già và rùng mình vì lạnh. Mãi
lúc đó tôi mới chợt nhớ rằng ông già đã chết.
– Không thể như thế được – Tôi tự nhủ và chạy lên tầng
mái.
Cuốn từ điển vẫn nằm đó nhưng đã cũ đến mức không
còn đọc được chữ nào.
Trên bìa chỉ có một vết xám đen. Hình như là vết
máu.
NTL
TỘI LỖI ĐẦU TIÊN CỦA THÁNH MAH GAHN
Truyện ngắn của Ngô Tự Lập
Con đường ra khỏi quá khứ
Những cột mốc quen giờ không sao đọc nổi
Tiếng thời gian như tiếng thở dài…
N.T.L
Tôi viết những dòng này trong lúc đầu óc hoàn toàn
minh mẫn, không phải vì khiêm tốn hay muốn giáo huấn điều gì, mà chỉ như một lời
tâm sự.
Trong mấy thập kỷ qua nhân dân yêu mến và tin cậy,
có lúc đến mức sùng bái, tôi lấy làm xúc động nhưng tự thấy mình còn chưa xứng
đáng. Tôi cũng hiểu rằng những tình cảm ấy không phải đơn thuần dành cho cá
nhân tôi, mà là dành cho một biểu tượng của dân tộc. Nhân dân cần có một biểu
tượng cho sự nghiệp vĩ đại của mình, và nếu không có tôi, chắc chắn một người
khác sẽ trở thành biểu tượng. Vì thế, Thánh Mah Gahn và tôi thật ra chỉ đơn thuần
là một sự trùng hợp về danh xưng, hoặc cùng lắm là một sự lựa chọn của lịch sử
mà thôi.
Niềm tự hào của tôi là được gắn cuộc đời mình với sự
nghiệp chung của nhân dân. Tôi cũng là một con người, có lúc hay lúc dở, có lúc
đúng đắn có lúc sai lầm, nay điểm lại thấy mình đã làm tất cả những gì có thể
làm được. Về điểm này tôi không có gì ân hận.
Tuy nhiên, phải nói thật rằng buổi đầu không phải
tôi đã ý thức được ngay những việc cần làm. Tôi rời nhà ra đi vì nhiều lý do
khác nhau, trong đó có một lý do có thể nói là khá tầm thường nhưng đối với tôi
thì vô cùng đau xót. Trong suốt năm chục năm qua tôi thầm nhủ đó là một tội lỗi.
Nhưng cũng chính nó đã khiến tôi thức tỉnh về mục đích của cuộc đời mình.
Những cuốn sách viết về tôi thường ít nhiều có tô vẽ
thêm tuy các sự kiện và ngày tháng cơ bản là chính xác. Tôi là con thứ hai
trong một gia đình có bốn con. Cha mẹ tôi làm nghề buôn bán nhỏ, tuy có khả
năng cho các con ăn học nhưng không lúc nào dư dật. Bốn chị em tôi mỗi khi đi học
về đều phải giúp mẹ làm thảm bẹ ngô. Bẹ ngô sau khi tước nhỏ, phun nước, sấy
diêm sinh cho mềm và trắng, được chúng tôi bện thành những sợi dài, bó thành từng
bó trăm thước một. Hàng tháng chúng tôi giao cho lái buôn, chở đến xưởng làm thảm,
nghe nói rồi họ chở đi đến tận nước Anh. Tay chân chúng tôi lúc nào cũng trắng
bợt, phải quấn rẻ cho đỡ đau. Chị gái tôi bỏ học sớm, theo nghề mẹ nhưng không
căn cơ nên cũng luôn nghèo túng. Hai em trai đi lính chết trong chiến tranh.
Trong gia đình, tôi là đứa trẻ hiền lành, chăm chỉ và được coi là hiếu thảo nhất.
Vì luôn luôn là học sinh giỏi nhất trường tiểu học thị trấn, tôi trở thành niềm
tự hào và hy vọng của cha tôi. Tôi còn nhớ, cứ chiều thứ bảy, trong lúc chị và
hai em đang bện thảm, ông lại gọi tôi vào phòng làm việc, lấy xuống quyển “Thập
Kinh” bìa bọc vải đã sờn.
– Ngày trước, cứ chiều thứ bảy, ông lại giảng “Thập
Kinh” cho bố” – Ông nói, giống như một thói quen hơn là nói với tôi.
Năm mười hai tuổi, tôi được gửi ra học ngoài thị
xã.
Những gì xảy đến với tôi sau đó khó ai có thể nào
lường trước được. Năm mười bốn tuổi, đang học lớp chín, tôi được bố đột ngột gọi
về. Hóa ra ông gọi về lấy vợ. Thời bấy giờ, người ta cưới vợ gả chồng cho con từ
rất sớm, có khi từ lúc mới lên năm sáu tuổi. Tôi không hề có khái niệm gì về cuộc
sống gia đình, cũng chưa hề có hiểu biết gì về quan hệ nam nữ, nhưng mẹ tôi dỗ
dành, nếu đồng ý bà sẽ mua cho đôi giày nhung đỏ. Tôi đồng ý chỉ vì muốn có đôi
giày.
Nhưng ngay trong đêm tân hôn, tôi bỗng hiểu rằng
mình là người may mắn. Đêm đó tôi hiểu ra sự quyến rũ lớn nhất và vẻ đẹp kỳ diệu
nhất mà tạo hoá ban tặng con người. Vợ tôi kém tôi một tuổi. Da nàng trắng như
một thứ men sứ tinh xảo nhất, đôi vú với hai núm nhỏ lấp ló dưới mái tóc mềm chảy
xuống ngực. Giữa cặp đùi dài, mịn màng nhưng săn chắc, âm hộ nàng lồ lộ dưới đám
lông mịn, xanh nõn như rêu. Nó làm trí não tôi rối bời, nó trói chặt tôi vào
căn phòng nơi từng góc giường, mảnh chăn đều hoá thành những đam mê huyền diệu.
Một đêm khuya, khi nàng đã ngủ, tôi rón rén ngồi dậy,
khe khẽ vén tấm chăn mỏng và bỗng thấy âm hộ nàng giống như một con mắt lớn với
đôi mi dày dịu dàng đang thiếp ngủ. Khi tôi khẽ nâng hai chân nàng lên, một khoảng
tối sâu thẳm mộng mị mở ra dưới đám rêu xanh và trên một mi mắt phớt hồng tôi
phát hiện một nốt ruồi xinh xắn đen như hạt cải. Ngay lúc đó nàng giật mình tỉnh
dậy. Sự thẹn thùng của nàng càng làm cho tôi ngây ngất. Tôi ôm ghì lấy nàng, gỡ
bàn tay nhỏ xinh của nàng, đặt môi mình vào cái hạt cải nhỏ. Những giọt nước mắt
nóng bỏng sánh như mật tràn ra. Ôi, con mắt lớn của nàng, ôi đám rêu xanh! Tôi
khao khát vùi mặt mình vào đó cho đến khi đất trời tan thành cát bụi.
Nửa tháng sau ngày cưới, tôi trở lại trường nhưng
đã thay đổi hoàn toàn. Tôi không còn thiết vui đùa với chúng bạn, không còn tâm
trí để học hành và cũng chẳng nhớ mình để ở đâu đôi giày đỏ. Trong đầu óc tôi
chỉ còn quay cuồng những hình ảnh trong phòng the. Nỗi ám ảnh dục tình khiến
tôi nhiều lúc phải cấu chặt lấy cạnh bàn mà rên rỉ. Đầu óc tôi khi đó đã bị đầu
độc đến nỗi mọi người đàn bà xuất hiện trước mặt tôi đều hoá thành loã lồ. Tôi
phải cố gắng lắm mới không lao vào ôm ghì lấy họ mà cắn xé, hôn hít. Đôi lúc
tôi thở hồng hộc như một con thú dữ. Cuộc sống của tôi trở thành một cuộc vật lộn
tuyệt vọng. Một lần, trong một cơn khát, tôi lấy cớ gì đó, ra khỏi lớp, nhảy
lên xe trạm về thẳng nhà và lao ngay vào phòng, bế xốc vợ lên giường như bế một
đứa trẻ. Chỉ sau khi thỏa nguyện, tôi mới nhớ đến chào cha mẹ.
Cha tôi không hề nói một lời, nhưng chuyện ấy làm
cho tôi vô cùng xấu hổ và ân hận, tự hứa sẽ không bao giờ lặp lại.
Bước ngoặt trong cuộc đời tôi xảy ra năm tôi mười
tám tuổi. Tôi vừa nhận bằng tốt nghiệp trung học thì cha tôi ốm nặng. Tôi về đến
nhà thì ông đã được đưa vào nhà thương thị trấn. Cả gia đình ngồi ngoài
phòng đợi, trừ vợ tôi lúc đó có thai đã được bảy tháng. Mọi người oà khóc khiến
tôi cũng không cầm được nước mắt. Sau khi mặc chiếc áo blu trắng, tôi được dẫn
vào một căn phòng hẹp tường đã long lở hết sơn thay cho ông cậu đang ngồi túc
trực bệnh giường bệnh.
Nhà thương thửa ấy rất nghèo nàn. Cha tôi nằm bất động,
khuôn mặt gầy trắng bợt và cả bộ râu trắng thân thuộc đều gần như lẫn vào tấm
chăn vải trắng. “Cha ơi!” – tôi gọi thì thầm. Nước mắt ràn rụa, tôi khẽ nắm lấy
tay ông, nhưng một chị hộ lý bước vào, nhắc tôi để yên cho ông nghỉ.
– Anh là con trai trưởng phải không. Mấy hôm nay cụ
chỉ nhắc tên anh….
Tôi quay phắt và bàng hoàng cả người. Trong thoáng
chốc, tôi thấy nàng đang đứng trước mặt, hoàn toàn khỏa thân. Phải một lúc lâu
sau tôi mới ra khỏi cơn mộng mị.
Đêm hôm đó gia đình tôi ở lại nhà thương. Chúng tôi
phân công nhau, phụ nữ ở ngoài, còn nam giới mỗi người trực bên cha tôi hai tiếng.
Phiên trực của tôi bắt đầu lúc nửa đêm. Đó là một đêm nóng bức khác thường.
Không khí ngột ngạt càng trở nên không chịu nổi bởi mùi ê te và thuốc sát
trùng. Cha tôi vẫn không tỉnh. Bác sĩ nói rằng ông có thể ra đi bất cứ lúc nào.
Tôi ngồi xuống chiếc ghế đẩu đầu giường và cố cầm tờ báo lên đọc. Nhưng giữa những
dòng chữ lung linh mờ ảo, tôi không thể nhìn thấy gì ngoài hình ảnh vợ tôi trần
truồng trên chiếc đi văng tôi vẫn bế nàng lên. Trong thâm tâm tôi vẫn có một mặc
cảm khi nghĩ về nàng. Tôi thấy mình có lỗi, bởi thực ra tôi không sao nhớ được
khuôn mặt nàng. Rất nhiều lần tôi cố gắng hình dung, nhưng chỉ thấy âm hộ nàng
hiện ra giữa cặp đùi dài. Từ dưới cái bụng căng tròn xanh tái của nàng, con mắt
lớn ấy, con mắt với đôi mi dày mọng ướt và dịu dàng ấy, với khoảng tối mộng mị
mời mọc từ dưới đám rêu xanh khiến tôi lên cơn sốt, thực ra đã nhìn thấu tâm
can tôi.
Vừa hết phiên trực, tôi lao ra khỏi phòng. Giữa đêm
khuya, áo phong phanh, tôi chạy về nhà. Dọc đường phố vắng lặng mọi chạc cây đều
hoá những cặp đùi run rẩy. Không để vợ tôi kịp hoàn hồn, tôi lao vào phòng, chốt
chặt cửa và lăn xả vào một trận cuồng hoan. Tôi không thể nhớ được gì trong cái
đêm tội lỗi ấy ngoài tiếng rên rỉ của vợ và tiếng đấm cửa dữ dội vọng đến từ
đâu đó xa xăm.
Khi tôi mở cửa ra ra thì trời đã gần sáng. Sự im lặng
kỳ lạ khiến tôi chột dạ, vội vã trở lại nhà thương.
Những tiếng khóc xé lòng vang dậy khi tôi chạy vào
cổng. Cha tôi đã tắt thở.
Không gì có thể diễn tả được nỗi đau đớn và ân hận
của tôi lúc đó. Nhưng nỗi đau của tôi còn nhân lên khi hôm sau vợ tôi bị sảy
thai. Những tai biến phẫu thuật khiến nàng không bao giờ còn có con được nữa.
Năm sau, tôi rời nhà ra đi. Trên ngưỡng cửa, tôi
nói với vợ một câu mà lúc đó chính tôi cũng chưa hiểu hết: “Em ạ, còn bao nhiêu
là đau khổ trên đời, chúng mình thật là tội lỗi”.
Thấm thoắt đã năm chục năm trôi qua, vợ tôi cũng đã
mất hơn chục năm rồi. Tất nhiên không thể nói rằng chỉ vì chuyện ấy mà tôi ra đi,
nhưng quả thực trong suốt đời tôi đó là một nỗi ám ảnh. Lúc này nói ra được,
lòng tôi cũng vợi được phần nào. Tôi vô cùng cám ơn vợ tôi, cả quãng đời còn lại
cô ấy là niềm tin lớn nhất, là chỗ dựa tinh thần vững chắc nhất của tôi.
Lúc này, ở cõi vĩnh hằng, cầu xin vong linh cha tha
thứ cho con.
CUỘC THẢM SÁT
Truyện ngắn của Ngô Tự Lập
Bóng tối
Như hơi ấm thoảng mùi mồ hôi
Thầm ngợi ca nụ cười thủy chung mệt mỏi
N.T.L
Chúng tôi đang bơi thành vòng tròn, như một cách
luyện tập. Thứ dung dịch nhầy nhầy, màu trắng đục và âm ấm. Lúc ấy, bọn chúng
tôi mới sinh được nửa ngày.
“Tối nay anh về sớm nhé”
“Ờ, để xem đã…dạo này bận tối tăm mặt mũi”
“Ứ, tối nay anh về sớm đấy. Em nấu canh cua, anh về
sớm kẻo nguội”
Tôi vẫn bơi thành vòng tròn rồi quay ngoắt lại. Thú
thật, tôi bắt đầu có cảm tình với người phụ nữ. Giọng cô ta thật hiền.
Anh ta đã ngồi lên xe, nổ máy.
“Cô ta sẽ là một người mẹ tốt” – Tôi nghĩ và một lần
nữa quẫy đuôi, bơi ngược lại.
Cuộc đời chúng tôi ngắn ngủi nhưng sứ mệnh thật lớn
lao. Chúng tôi biết mình phải làm gì mà chẳng cần ai dạy bảo. Chúng tôi sẽ được
phóng vào một đường hầm tối, nóng bỏng và ẩm ướt. Chúng tôi sẽ phải bơi ngược
dòng cho đến cuối đường hầm. Dĩ nhiên, không một ai trong lũ chúng tôi hình
dung ra đường hầm, không một ai hình dung ra nơi phải đến. Chúng tôi cũng biết
trước rằng không phải ai cũng đến được cuối đường hầm – hầu hết sẽ kiệt sức
trong cuộc đua ngược dòng khốc liệt. Nhưng kẻ nào đến đích thực sự là vị anh
hùng. Anh ta sẽ hoà nhập nửa kia của mình đang chờ sẵn. Một cuộc hoá thân huyền
diệu. Và thế là bắt đầu sự phôi thai một con người.
Tôi vẫn bơi chậm rãi, phần để giữ sức, phần không
muốn chúng bạn nhận ra quyết tâm vô bờ bến của mình. Không nói ra, nhưng tôi
tin chắc mình sẽ nắm phần thắng. Vì thế, tôi lại thầm nghĩ đến giọng nói của
người phụ nữ kia. “Đứa bé sẽ có một người mẹ tuyệt vời”.
Trong văn phòng cũng có những giọng phụ nữ, mỗi giọng
một khác. Họ nói rồi đi. Có một giọng the thé, chua đến mức làm tôi nhăn mặt. Và
cô ta cười nữa. Cười rất to, rất lâu, như thể không sao dừng lại được.
Cuối giờ, giọng the thé nói: “Em về trước nhé”. Rồi
lại cười. Tiếng cười vang lên trong hành lang rồi nhỏ dần. Dưới cầu thang, từ
ngoài cửa sổ, nắng chiều hắt lên vàng rực.
Anh ta dọn dẹp đồ đạc khá lâu. Năm giờ, anh ta vào
toa-lét, đái, huýt sáo, vệ sinh hạ bộ, đánh răng, sỉ mũi vào chiếc khăn giấy.
“A lô, em đấy à. Chán quá, anh lại phải tháp tùng Cụ
đi họp rồi. Thôi, em cứ ăn trước vậy nhé”. Sau đó là tiếng hôn gió.
Tôi không nghe đầu dây kia nói gì nhưng nhận thấy một
khoảng lặng. Có thể là tiếng thở dài.
Trong cái quán nhỏ lộng gió bên hồ tôi nhận ra ngay
giọng cô ta. Giọng nói và tiếng cười the thé.
“Sư tử nhà đâu?”
“Sư tử nhà thì ở nhà chứ ở đâu”
“Thế mà cho đi?”
“Đâu có dễ thế. Anh bảo bận họp”.
“Anh họp thế đấy hả? Hả?!”
“Ừ, thế đấy, thì sao nào!”
“Thì em phạt. Thì em bắt đền”
“Đền này, đền này”
Tiếng cười the thé lẫn với tiếng cười của anh ta bị
kìm nén, khục khục trong cổ họng.
“Thế em không là sư tử chắc?”
“Còn lâu. Em hơi bị hiền đấy”.
“Cái gì cơ? Em thử nói lại xem nào?”
“Em là hiền nhất. Em là chim bồ cầu”.
“Thế à. Thế mà bây giờ anh mới biết. Bồ câu thử gầm
xem như thế nào nào?”
“Không chơi với anh nữa. Anh tệ lắm”.
“Ừ… ờ…Thì thôi. Anh đùa một tí thôi mà”.
Sau đó là tiếng rúc rích.
– Hai cứt chồn ở đâu nhỉ?
– Đây, đây!
Người phục vụ mò mẫm đặt hai cốc cà phê cùng mảnh
giấy lên bàn rồi đi ra.
“Này, nếu anh chết thì em làm gì?”
“Nói bậy, đổ cứt vào mồm đổ đái vào mồm”
“Nhưng anh hỏi thật mà”
“Em không nói chuyện với anh nữa…”
“Thôi được, nhưng nếu em chết thì…”
“Thì anh làm gì?”
“Thử đoán xem?”
“Chịu”
“Thì anh sẽ mua một bao mùn cưa. Em biết để làm gì
chưa? Anh sẽ nhồi em thành một cô búp bê và đặt trước cổng công ty. Nhớ là
không có quần áo đâu nhé!”
“Khiếp, ngượng chết đi được”
“Ngượng gì, lúc ấy em biết gì đâu mà ngượng”
“Vẫn ngượng”
“Không ngượng”
“Vẫn ngượng”
“Thôi được. Nhưng cái chỗ này thì khó nhồi lắm
đây…”
“Này này, cái tay bậy bạ…” – Cô ta cười khúc khích.
Chúng tôi vẫn bơi trong cái dung dịch lầy nhầy, màu
trắng đục. Nhiệt độ và áp suất đều tăng lên rất nhanh.
“Đôi xịp Thái em mặc vừa không?”
“Anh không nhận ra à? Nhưng mà em thích một cái
đen, một cái đỏ cơ”.
“Thôi, để lần sau. Để anh gạ xếp, cuối năm lại đi.
Mà này, lão ấy có biết không?”
“Xì, lão gà gô ấy thì chỉ chúi mũi vào thư viện, biết
gì. Đến tóc vợ còn chả biết dài hay ngắn nữa là”.
“Hầy, thế bọ mới có suất chứ”.
Anh ta cười khùng khục.
“Có bao giờ em mơ thấy tay anh ở đây không?
“Hừ, hang hùm đấy!”
“Ừ, hang hùm, nhưng mà có nhớ không?”
“Ờ…nhớ…”
Một khoảng im lặng khá dài.
“Môi em mềm thật đấy”
“Chứ còn gì nữa, môi xịn đấy”
– Cô ấy sẽ là một người mẹ tuyệt vời – Tôi vẫn cố
nghĩ về người phụ nữ có giọng nói hiền từ.
Nhưng tôi không còn đủ thời gian để nghĩ thêm gì nữa.
Áp suất tăng cao đến mức tôi tối tăm mặt mũi. Tôi cố vẫy đuôi nhưng vô ích.
“Thế hai cái này có xịn không?”
“Xịn…xịn…chết rồi, đổ hết cà phê rồi…”
“Tí thôi, kệ nó”
Bây giờ thì tôi không thể nghĩ gì được nữa. Nóng.
Ngột ngạt. Tiếng cười nhỏ dần, biến thành tiếng thở hổn hển đứt quãng lẫn với
những tràng rên rỉ. Rồi những cơn sóng trào kỳ lạ ào ào cuốn chúng tôi đi.
Đột nhiên, đất trời rung chuyển. Từng đợt, từng đợt
liên tiếp. Tôi thấy mình bị phóng ra như một viên đạn.
“Đây rồi, cái thời khắc ấy đã đến” – Tôi nghĩ.
Nhưng cái thời khắc ấy mãi mãi không đến. Trong
tích tắc, chúng tôi nhận ra mình bị ném vào một lớp màng dày. Cả lũ chồng đống
lên nhau. Mùi cao su xông lên tởm lợm. “Hoá ra là thế, mình cũng từng nghe
nói!”- Ý nghĩ ấy thoáng qua như một ánh chớp.
Tôi đã từng nghe nói, nhưng lần đầu tiên được biết
cũng là lần cuối.
Trời trở lạnh. Cái dung dịch lầy nhầy trắng đục dần
dần đặc quánh lại. Đêm hôm đó cả lũ chúng tôi chung nhau một cái quan tài.
Chiếc bao cao su nằm dưới gầm bàn cho đến sáng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét