Những phong tục, tập quán tốt đẹp của ngày Tết
Nguyên Đán từ lâu đã trở thành một nhu cầu tâm linh, nhu cầu văn hoá trong đời
sống người Việt. Nét truyền thống từ ngàn xưa đã làm nên một bản sắc văn hoá
Tết Việt Nam.
1. Thờ cúng tổ tiên vốn là tín ngưỡng
sâu thẳm nhất trong tâm thức Việt. Tết cổ truyền Việt Nam trước hết
là tết của gia đình, họ hàng, thân tộc. Đã thành tập quán, “tháng Giêng
ăn tết ở nhà”, dù ai ở bất cứ đâu, làm bất cứ nghề gì, hàng năm mỗi dịp
năm hết tết đến đều tha thiết được trở về sum họp gia đình. Theo quan niệm
dân gian thì ba ngày tết có ba cuộc gặp gỡ hết sức quan trọng ngay trong một
nhà. Trước hết là cuôc gặp gỡ với các vị thần linh. Thần linh ở đây không cao
xa, huyền bí như ở các đền, miếu mà là 3 vị gia thần: Tổ sư (tổ nghề), Thổ
Công (ông Địa) và Táo Quân (thần Bếp). Cuộc gặp gỡ thứ hai là
ông bà, cha mẹ hoặc những người thân đã quá cố về chung vui với con cháu. Cuộc
gặp thứ ba là cuộc họp mặt gia đình. Như vậy, đối với mọi người dân Việt, Tết
là ngày hội đoàn tụ, đoàn viên thiêng liêng, ấm cúng.
2. Trong mỗi gia đình, bàn thờ tổ
tiên có vai trò, vị trí rất quan trọng. “Sự tử như sự sinh, sự vong
như sự tồn” - đạo lý ấy của nhân dân ta hầu như đã kết đọng lại trong
hình thức tưởng niệm trên chiếc bàn thờ.
Hoa quả trên bàn thờ là hương sắc và vẻ đẹp tinh
khiết của cảnh vật ngày xuân. Ở Nam bộ có mâm ngũ quả gồm
năm loại trái cây là mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài và sung,
ngụ ý mong năm mới được sung túc hoặc chỉ cầu vừa đủ xài. Người
ta thường chưng cúng những loại trái cây hàm chứa những ý nghĩa như:
- Mận, điều, táo: gạo nếp đầy bồ.
- Lê: làm việc gì cũng trơn tru, suông sẻ
như ý.
- Lựu: con đàn cháu đống, sung túc.
- Đào: học đâu đỗ đó, thăng quan tiến chức.
- Bưởi: người già khoẻ mạnh, sống lâu.
- Thơm: gia đình quyền quí, cao sang, tiếng
thơm muôn đời.
- Quýt, tắc: tài lộc phát hưng.
Thêm vào đó là trái dưa hấu, một phát
hiện của An Tiêm - nhà khai hoang thời Hùng Vương và cũng là ông tổ của nghề
trồng dưa đỏ. Cúng dưa hấu hàm ý xanh vỏ đỏ lòng, con người lao động
tự lực cánh sinh. Trên thân trái dưa chưng trên bàn thờ thường dán mảnh giấy
đỏ viết chữ Phúc (có phước) hoặc chữ Cát (tốt lành) trông
rất đẹp mắt. Ngoài ra còn có đĩa trầu, quả cau và bình vôi,
tượng trưng cho tình nghĩa mặn nồng, keo sơn gắn bó.
Thức ăn truyền thống được dâng cúng trên bàn thờ
tổ tiên ngày Tết là bánh chưng, bánh giày; ở miền Trung có đòn bánh
tét. Tục rằng Tiết Liêu - con thứ 18 của vua Hùng Vương - nằm mộng thấy thần
nhân (biểu tượng của trí tuệ siêu việt) dạy cho cách lấy gạo nếp gói
thành bánh; cái hình vuông tượng trưng cho đất, trong ruột
có trân cam mỹ vị, bọc ngoài bằng lá xanh rồi nấu chín, gọi là bánh
chưng; lại lấy nếp nấu chín giã thành bột dẻo trắng tinh, nặn thành hình
tròn, tượng trưng cho trời, gọi là bánh giày; cả hai ngụ ý công đức
sinh thành lớn lao của cha mẹ. Món bánh của Tiết Liêu được vua chấm đầu bảng
trong cuộc thi chọn hiền tài. Nhờ đó, chàng được vua cha truyền ngôi cho. Và
cũng từ đó, bánh chưng bánh giày trở thành biểu tượng đón xuân
không thể thiếu của người dân Việt. Bánh tét cũng là món ăn truyền
thống trong dịp lễ tết hay khi giỗ kị của người dân Trung và Nam bộ.
Cũng được làm từ nếp, đậu xanh, thịt heo nhưng bánh chưng miền Bắc
được gói bằng lá dong còn bánh tét được gói bằng lá chuối, bánh chưng được
gói vuông vức còn bánh tét được gói thành những đòn dài - hai đòn bánh được cột
thành một cặp, với mong muốn một năm mới toàn vẹn đủ đầy, gia đình được sum họp,
hạnh phúc.
3. Ngày Tết, dân ta có thú chơi hoa đào, hoa
mai. Đào có một cành chủ, xoè nhiều nhánh như đuôi công hoặc bó đuốc,
búp hoa nhỏ, cánh hồng khoe sắc thắm, là đặc sản của xứ Bắc. Đào mang cốt
cách người quân tử bất khuất. Thời kháng chiến chống Pháp, tại nhà tù Sơn La,
nhà cách mạng Tô Hiệu đã trồng đào ngay trong nhà giam để nhắc mình luôn giữ
khí tiết kiên cường và vững tin vào tương lai tươi đẹp. Cây mai ở
miền Nam có thân cứng, nhánh toả mảnh khảnh, gân guốc, hoa màu vàng
nở rộ vào tháng Chạp và đầu tháng Giêng âm lịch. Mai mang nét tổng hợp giữa
cương và nhu, ngoại diện khắc khổ nhưng nội tâm sâu sắc, lãng mạn. Hoa mai được
xem là biểu tượng của mùa xuân tươi trẻ, rạo rực sức sống.
Điểm xuyết trên những cành đào, cành mai chưng
bày trong nhà ngày tết là những cánh thiệp mừng xuân (xuân thiếp) với
nội dung là những lời ước nguyện cho năm mới như vạn sự như ý, ngũ
phúc lâm môn (năm điều phúc đến nhà), phong đăng hoà cốc (chúc
nhà nông) hoặc nhất bản vạn lợi (chúc nhà buôn); hoặc trên tường,
trên cột treo, dán những liễn đối bằng giấy hồng điều đỏ thắm, viết chữ Nho bằng
mực tàu đen hay kim nhũ vàng óng ánh. Câu đối đã một thời là nét đẹp
trong đời sống văn hoá của người Việt, là một phần hữu cơ của Tết Việt khái
quát trong bộ sáu: “Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ ; Cây nêu, tràng pháo,
bánh chưng xanh”.
4. Tết Nguyên Đán tuy bắt đầu từ mồng một
tháng Giêng nhưng thực ra người Việt, nhất là ở nông thôn, đã sửa soạn Tết
ngay từ đầu tháng Chạp. Người xưa lấy 7 ngày trước và 7 ngày sau (từ 23 tháng
Chạp đến mùng 7 tháng Giêng) làm thời gian ăn Tết. Trong không khí tất bật
của những ngày cuối năm, ngưòi ta vẫn không quên phong tục cổ truyền: ngày 23
tháng Chạp âm lịch đưa ông Táo về Trời. Trong tín ngưỡng dân
gian, ông Táo (còn gọi là Táo Quân hay vua Bếp) là
sứ giả nhà Trời chuyên coi việc bếp núc, củi lửa của trần gian đồng thời xem
nhân tình tốt xấu thế nào trong từng gia đình để hàng năm về Trời báo cáo.
Dân ta làm lễ cúng tiễn ông Táo (còn gọi là tết ông Táo) với niềm hy vọng
Ngài sẽ báo cáo cho Ngọc Hoàng biết những điều tốt đẹp, nhờ đó gia chủ được
hưởng thêm nhiều phúc thọ.
Các cụ xưa có câu: “Đói ngày giỗ cha, no ba
ngày tết”, quanh năm làm ăn vất vả, mỗi dịp xuân về tết đến dù có khó khăn đến
mấy, gia đình nào cũng cố lo tết chu đáo hơn ngày thường. Chí ít cũng phải có
vài cặp bánh chưng, nồi thịt nấu đông, ít cây giò chả, thẩu dưa hành, củ kiệu.
Sau khi sắm sửa tết xong, người ta có tục đi tảo mộ, thắp hương khấn mời
gia tiên về hưởng tết. Có nơi thay vì đi thăm mộ trước tết, người ta đợi đầu
xuân, sau khi hoá vàng tiễn các cụ mới cùng nhau đi viếng mộ.
Chiều ba mươi Tết người ta sửa lễ cúng gia
tiên, truy niệm về nguồn cội, tổ tông, rước ông bà về cùng chung vui với
gia đình. Ông bà đây là những người đã khuất, được mời về dùng cơm dâng cúng
với tấm lòng thành kính của con cháu.
5. Tết Nguyên Đán là lễ hội mở đầu cho
một năm mới, là tết cả (lễ hội to nhất) trong các lễ hội cổ truyền
của Việt Nam. Tết do chữ tiết (là thời tiết)
nói trại ra; Nguyên là chỗ khởi đầu, là đầu tiên; Đán là buổi
sớm mai,lúc mặt trời mới mọc.
Theo sử Trung Quốc, âm lịch có từ đời nhà Hạ và lấy
tên 12 chi đặt cho 12 tháng. Tháng Dần (tháng đã hết tuyết ở trung
du Hoàng Hà) được chọn làm tháng đầu năm. Ở Việt Nam, vì thời tiết cũng
gần giống như ở Trung Quốc (hai nước chỉ cách nhau có một múi giờ) nên xưa
kia tổ tiên ta cũng lấy kiến Dần làm tháng đầu năm tức tháng Giêng.
Ăn Tết vào đầu tháng Dần là rất hợp lý vì lúc đó
mùa đông vừa qua, tiết lạnh vừa hết, ngày xuân ấm áp tới, hoa cỏ đua tươi,
muôn vật hồi sinh nẩy nở. Tết và Xuân đã hoà quyện vào
nhau. Theo Hán tự, Xuân có nguồn gốc ở từ Xuẩn, nghĩa là cựa
quậy, do đó Xuân có nghĩa là sự sinh sôi, là sức sống. Con người, cỏ cây, bầu
trời, mặt đất đều có chung một sức sống mới trước thềm xuân.
Tết Nguyên Đán bắt đầu từ lúc giao thừa.
Giao thừa là thời khắc thiêng liêng, giao tiếp giữa hai năm cũ mới. Theo từ
nguyên, giao thừa là “giao lại cái cũ, tiếp lấy cái mới”. Dân
gian tin rằng có 12 ông hành khiển điều hành mọi công việc trần
gian, mỗi năm một ông. Hết nhiệm kỳ, ông cũ bàn giao công việc cho ông mới.
Cũng vì ý nghĩa này nên có lễ trừ tịch. Trừ tịch là giờ phút cuối cùng của
năm cũ sắp bắt qua năm mới, giữa giờ Hợi ngày 30 (hoặc nếu tháng thiếu thì
ngày 29 tháng Chạp) năm trước và giờ Tí ngày mồng một tháng Giêng năm sau. Ý
nghĩa của lễ này là đem bỏ đi hết những điều xấu dở cũ kỹ của năm sắp qua để
đón những cái mới mẻ tốt đẹp của năm mới sắp tới. Lễ trừ tịch thực chất là
nghi thức tống cựu nghinh tân, được cử hành rất trang trọng từ tư
gia đến các đình, chùa. Những năm về trước, trong giờ phút thiêng liêng ấy,
chuông trống đánh vang, pháo nổ râm ran không ngớt. Nhà nhà cỗ bày trước sân
gồm hoa quả, đèn nến, bánh mứt, nước dừa xiêm… Gia chủ khấn vái cầu mong sang
năm mới gia quyến được an khang, phát tài sai lộc.
Cúng giao thừa ở nhà xong, người ta kéo nhau đi lễ
các đình, chùa, đền, miếu... để cầu phúc, cầu may. Trước cửa đình, cửa chùa
thường có những cây đa, cây đề, cây si cổ thụ, cành lá xùm xoà, khách đi lễ
có tục mỗi người bẻ một nhánh gọi là hái lộc, với hy vọng cành lộc sẽ
đem lại mọi điều tốt đẹp, may mắn trong năm mới.
Ba ngày Tết người ta đi thăm bà con xóm
làng, bạn bè thân thuộc. “Mồng một tết cha, mồng hai tết mẹ, mồng
ba tết thầy”. Đến thăm mỗi nhà, trước lễ bàn thờ gia tiên, sau rồi chúc
tết gia chủ, nói chuyện, ăn trầu, hút thuốc. Ai cũng vui vẻ, chứa chan
hy vọng trước mùa xuân. Gặp nhau, người ta đều cầu chúc cho nhau những điều tốt
đẹp nhất, gói gọn trong năm chữ “Phúc, Lộc, Thọ, Khang, Ninh”.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét