Vài nét đặc thù trong cú pháp tiếng Việt
Các chủ ngữ vô hình
Nhiều câu trong tuyệt tác Truyện Kiều của
thi bá Nguyễn Du chứa đựng những chủ ngữ vô hình, thiếu minh xác mà theo Đoàn
Phú Tứ (1949) như “ẩn hình ngay trong động từ, ta không vạch được
nó ra một cách rành rọt mà chỉ hội được nó, theo cái nghĩa của đoạn
văn mà thôi.” Ông Đoàn đưa ra thí dụ dưới đây:
Bóng hồng nhác thấy nẻo xa,
Xuân lan thu cúc mặn mà cả hai.
Người quốc sắc kẻ thiên tài,
Tình trong như đã mặt ngoài còn e.
Chập chờn cơn tỉnh cơn mê,
Rốn ngồi chẳng tiện rứt về chỉn khôn.
Bóng tà như giục cơn buồn,
Khách đà lên ngựa người còn nghé theo.
Dưới cầu nước chảy trong veo,
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.
Xuân lan thu cúc mặn mà cả hai.
Người quốc sắc kẻ thiên tài,
Tình trong như đã mặt ngoài còn e.
Chập chờn cơn tỉnh cơn mê,
Rốn ngồi chẳng tiện rứt về chỉn khôn.
Bóng tà như giục cơn buồn,
Khách đà lên ngựa người còn nghé theo.
Dưới cầu nước chảy trong veo,
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.
Rồi ông Đoàn đặt câu hỏi và tự trả lời, để chứng
minh cho “cái lợi của tính chất thiếu minh xác trong ngôn ngữ văn chương của
ta”:
“Ai nhác thấy? Đành là Kim Trọng, nhưng không nói
rõ, thì sao lại không có thể là cả chàng độc giả thư sinh nọ, cảm thông với
chàng Kim một cái liếc nhìn? Chập chờn cơn tỉnh cơn mêlà ai? Là người quốc
sắc hay kẻ thiên tài? Hay cả hai? Luận ra thì biết, song trước khi lý luận, tại
sao ta không có quyền nghĩ đến cả hai người? Bóng tà như giục cơn buồn: Nỗi
buồn của ai vậy? Của Kim Trọng hay của Thúy Kiều, hay của hai người? Hay
cũng là nỗi buồn của ta chăng? Và hai câu cuối: Dưới cầu … thướt tha có
phải chỉ là cái tình của Thúy Kiều gửi vào trong cảnh ấy, hay còn phảng phất cả
cái tình của người đọc sách nữa?”
Nhưng khi được dịch sang tiếng Pháp và tiếng Anh
thì các chủ ngữ vô hình bắt buộc phải xuất hiện. Nguyễn Văn Vĩnh (1943) thì cho
rằng chủ ngữ của chập chờn cơn tỉnh cơn mê chính là nàng Kiều cho nên
đã dịch câu ấy sang Pháp văn thành “Kiều flottait entre le rêve et la
réalité” và cũng cho rằng bóng tà như giục cơn buồn chỉ áp dụng cho
nàng mà thôi, qua câu dịch “La descente du soleil vers l’horizon semblait
provoquer chez elle un accès de mélancolie.” Bốn mươi năm sau (1983),
Huỳnh Sanh Thông trong bản dịch sang tiếng Anh đã nghĩ khác ông Nguyễn trong
hai ngữ cảnh nêu trên. Ông Huỳnh dùng chủ ngữ số nhiều để gồm cả nàng Kiều và
chàng Kim vào trong cơn tỉnh cơn mê ấy: “They hovered, rapture-bound,
‘tween wake and dream” và không cho nàng Kiều độc quyền thấy cơn buồn đang bị
bóng tà giục giã: “The dusk of sunset prompted thoughts of gloom.” Ông Đoàn chắc
hẳn tán đồng lối dịch của ông Huỳnh hơn lối dịch của ông Nguyễn, vì ông Đoàn
cho rằng ông Nguyễn “đã hiểu vội vàng, và cũng bị lầm vì cái thiếu minh xác của
ngôn ngữ.”
Đó là chuyện cũ. Hôm nay, tôi cũng xin chia xẻ cùng
quý vị một chút văn chương của người bạn đồng môn tài hoa của tôi, nhà thơ Lưu
Văn Vịnh, trong đó chủ ngữ vắng mặt, nhưng tôi vẫn hiểu văn và thơ bạn tôi rất
rõ, vì bạn tôi và tôi đều là người Việt. Thử hỏi trong hai câu lục-bát êm tai
được trình bầy thành ba dòng sau đây trích từ thi tập Oang Oang Lòng Chén Rỗng(2007): “Kề vai ở chốn phong sương/ Nhìn nhau đáy mắt/ Đoạn trường hiện ra” thì
ai và ai kề vai và nhìn nhau đáy mắt? Và trong tuyển tập Bốn
Lần Leo Núi Tản (2000), có câu bạn tôi viết về chuyến thăm Bích Câu lưu
loát trong sáng mà chẳng cần đến một đại từ nhân xưng (personal pronoun)
đóng vai chủ ngữ nào cả: “Cuối thế kỷ, một ngày cuối năm, viếng Bích Câu như tới
thăm giấc mơ của người xưa, tuy chẳng là cánh bướm, nhưng cứ bay vào những giấc
mộng lớn giấc mộng nhỏ, thì giấc mộng lũy thừa nhân lên sẽ mông lung bằng cả
cõi tiên vô tận …” Khi đọc đoạn này tôi thấy như tôi đang được cùng nhà văn họ
Lưu viếng Bích Câu, như thể chính bạn tôi và tôi đóng vai chủ ngữ cho các
động từ “là”, “viếng”, và “bay” vậy.
Nói một cách chung chung, chủ ngữ tiếng Việt thường
vắng mặt trong các trường hợp dưới đây:
Khi câu bắt đầu bằng một động từ hiện hữu như có hoặc
còn:
Có vấn đề rồi!
Còn nước còn tát.
Có người khách ở viễn phương. (Truyện Kiều)
Còn về còn nhớ đến người hôm nay. (Truyện Kiều)
Có vấn đề rồi!
Còn nước còn tát.
Có người khách ở viễn phương. (Truyện Kiều)
Còn về còn nhớ đến người hôm nay. (Truyện Kiều)
Khi câu là một tục ngữ:
Đi một ngày đàng học một sàng khôn.
Đi một ngày đàng học một sàng khôn.
Khi câu là một độc thoại:
Mệt quá rồi, nghỉ một chút. Lát nữa làm tiếp.
Mệt quá rồi, nghỉ một chút. Lát nữa làm tiếp.
Khi câu là một trao đổi giữa hai cá nhân mà chỉ ngữ
cảnh mới có thể xác định ai là ai:
Đang làm gì đấy? - Đọc sách.
Lãnh lương chưa? - Lãnh sáng nay rồi.
Đang làm gì đấy? - Đọc sách.
Lãnh lương chưa? - Lãnh sáng nay rồi.
Khi câu là một trao đổi giữa hai cá nhân chưa xác định
được mối liên hệ xưng hô phù hợp:
Đi đâu đấy mà đẹp thế kia? Cho hỏi thăm một chút được không?
Đi đâu đấy mà đẹp thế kia? Cho hỏi thăm một chút được không?
Khi câu là một trả lời cho một câu hỏi thuộc dạng
có/không (yes/no question):
Anh có muốn nghỉ không? - Muốn!
Bạn đã hiểu chưa? - Hiểu rồi.
Bồ chịu điều kiện đó không? - Chịu mạnh đi chứ!
Anh có muốn nghỉ không? - Muốn!
Bạn đã hiểu chưa? - Hiểu rồi.
Bồ chịu điều kiện đó không? - Chịu mạnh đi chứ!
Khi câu là một lời ra lệnh:
Hãy dựa tóc vào vai cho thuyền ghé bến Hãy nhìn nhau mà sưởi ấm trời mưa. (Nguyên Sa)
Hãy dựa tóc vào vai cho thuyền ghé bến Hãy nhìn nhau mà sưởi ấm trời mưa. (Nguyên Sa)
Mối liên hệ lỏng lẻo giữa các mệnh đề
Một số mệnh đề độc lập có thể được viết kề cận nhau
mà không thấy có những liên từ nối những mệnh đề ấy cho thêm rõ nghĩa, như
trong các thí dụ sau đây:
Trời mưa to quá, chúng tôi quyết định ở nhà.
Chúng tôi đến nơi, họ đang cãi nhau to tiếng, chúng
tôi hết sức can ngăn nhưng chẳng ăn thua gì, chúng tôi bỏ về, lòng buồn vô hạn.
Áo nàng vàng tôi về yêu hoa cúc
Áo nàng xanh tôi mến lá sân trường (Nguyên Sa)
Áo nàng xanh tôi mến lá sân trường (Nguyên Sa)
[Viết tiếng Anh theo kiểu Việt này thì sẽ bị các
giáo sư người Anh người Mỹ sổ toẹt, vì phạm lỗi run-on sentences trong
hai thí dụ đầu và incoherence hoặc dangling modifiers trong
thí dụ chót lấy từ thơ Nguyên Sa. Tất cả là do có sự khác biệt tu từ
(rhetorical difference) khá lớn giữa tiếng Việt và tiếng Anh].
Tiếng Việt có đầy đủ các liên từ diễn tả các mối
liên hệ giữa mệnh đề chính và phụ, như vì, bởi vì để chỉ lý do; để,
để cho để chỉ mục đích; giá, giá mà để chỉ giả thiết; nếu,
nếu như để chỉ điều kiện, vân vân. Khác chăng thì tiếng Việt có khuynh hướng
ít dùng liên từ hơn là các ngoại ngữ như tiếng Pháp, tiếng Anh. Nhưng, đây mới
là một nghịch lý thú vị của tiếng Việt: Khi một liên từ được dùng cho mệnh đề
phụ thì mệnh đề chính cũng có khuynh hướng sử dụng một tiểu từ để giữ quân bình
cho cấu trúc - tức là còn kỹ lưỡng hơn tiếng Pháp, tiếng Anh. Quả vậy, khi một
câu phức tạp tiếng Việt bắt đầu bằng mệnh đề phụ sử dụng một trong các liên từ vì/tuy/nếuthì
mệnh đề chính thường bắt đầu bằng một trong các “từ quân bình” (balance words) nên/nhưng/thì,
như trong các thí dụ sau đây:
(1a) Vì nó kiêu ngạo, nên nó
không có bạn.
(2a) Tuy họ nghèo, nhưng họ rất
hạnh phúc.
(3a) Nếu anh yêu em, thì anh phải
cưới em ngay!
Khuynh hướng kỹ lưỡng nêu trên cũng thấy trong văn
chương bác học:
Dẫu chẳng phải ngọc ngà kỳ dị,
Nhưng cũng trong ý nhị thanh tân. (Bần Nữ Thán)
Nhưng cũng trong ý nhị thanh tân. (Bần Nữ Thán)
Nếu thi gan với anh hùng thì thua. (Phan
Trần)
[Nếu vô tình để khía cạnh cú pháp này của tiếng Việt
ảnh hưởng lối viết tiếng Anh, người Việt chúng ta có khuynh hướng viết ra các
câu bất cập sau đây:
(1b) Because he is arrogant, so he
has no friends.
(2b) Although they are poor, but they
are very happy.
Tới đây tôi cần nói lên nhận xét là những người Việt
chúng ta thông thạo tiếng Pháp hoặc tiếng Anh thường cho ảnh hưởng văn pháp hai
thứ tiếng ấy vào tiếng Việt khiến cho câu văn tiếng Việt của họ đỡ bị chê là
không có chủ từ, hoặc chủ từ mù mờ, hoặc thiếu phần mạch lạc vì tránh dùng liên
từ trong câu phức tạp. Họ sẽ chuyển câu Trời mưa to quá, chúng tôi quyết định
ở nhà thành ra Vì trời mưa to quá, (cho nên) chúng tôi quyết định ở
nhà và câu Các anh cười khúc khích làm em ngượng quá thành ra Cái
cười khúc khích của các anh làm em ngượng quá.
Cấu trúc đề/thuyết (topic/comment)
Cấu trúc của một câu tối thiểu trong ngôn ngữ nào
cũng gồm hai yếu tố là chủ ngữ (subject) và vị ngữ (predicate).
Chủ ngữ thông báo một đề (topic) và vị ngữ cung cấp một thuyết (comment)
tức là một nhận định về đề ấy. Mối liên hệ chủ ngữ/vị ngữ và đề/thuyết được thấy
rõ rệt trong các câu Trời/mưa và Anh Tám/ mới lấy vợ hôm qua.
Nhưng không phải lúc nào chủ ngữ cũng trùng hợp với đề đâu. Chẳng hạn trong câu
(1) Chiếc xe này/chạy ngon lắm và (2) Chiếc xe này/tôi mua lâu rồi thì Chiếc
xe này vừa là chủ ngữ vừa là đề trong câu (1), nhưng chỉ là đề và đóng vai
túc từ cho động từ mua trong yếu tố thuyết của câu (2). Hơn nữa, đề luôn luôn
xuất hiện ở đầu câu, trong khi chủ ngữ có thể xuất hiện ở đầu hoặc cuối câu
(thí dụ, trong câu này thì chủ ngữ nằm ở cuối câu: Giữa rừng già xuất hiện
một bầy voi).
Đề cũng có thể được coi như một “chủ ngữ tâm lý”
trong câu vì nó sửa soạn trí tuệ cho sự đón nhận thông điệp của phần thuyết.
Tiếng Nhật luôn luôn đánh dấu chủ ngữ và đề bằng các tiểu từ (particles) ga và wa,
thí dụ:
Neko ga sakana o tabemashita.
[Mèo (chủ ngữ) cá (túc từ) đã ăn = Mèo đã ăn cá.]
[Mèo (chủ ngữ) cá (túc từ) đã ăn = Mèo đã ăn cá.]
John wa san-nen-sei desu.
[John (đề) tam-niên-sinh là = Còn về John, thì anh ấy là sinh viên năm thứ ba.]
[John (đề) tam-niên-sinh là = Còn về John, thì anh ấy là sinh viên năm thứ ba.]
Tiếng Việt cũng có khuynh hướng dùng cấu trúc đề/thuyết,
với tiểu từ thì đánh dấu cấu trúc này, như thí dụ dưới đây:
Chị Ba luôn buồn bã. Chồng chị thì / ngược
lại, lúc nào cũng vui.
Ngoài ra cũng có các cách giới thiệu cấu trúc đề/thuyết
sử dụng các phương tiện từ vựng và cú pháp đặc thù như trong các câu thí dụ sau
đây:
Cái anh chàng ấy hả/ trời ơi, keo kiệt lắm đấy!
Tám Mập và Út Sẹo có lấy nhau không/ xem hồi sau sẽ
rõ.
Nỗi nàng
tai nạn đã đầy
Nỗi chàng Kim Trọng
bấy chầy mới thương (Truyện Kiều)
tai nạn đã đầy
Nỗi chàng Kim Trọng
bấy chầy mới thương (Truyện Kiều)
Áo nàng vàng
ôi về yêu hoa cúc
Áo nàng xanh
tôi mến lá sân trường (Nguyên Sa)
ôi về yêu hoa cúc
Áo nàng xanh
tôi mến lá sân trường (Nguyên Sa)
Có lẽ vai trò “chủ ngữ tâm lý” của yếu tố đề trong
cấu trúc đề/thuyết đã giúp tiếng Việt vẫn dễ hiểu bất kể các nhược điểm như chủ
ngữ thiếu vắng hoặc mù mờ và sự lỏng lẻo trong mối liên hệ giữa các mệnh đề như
đã giải thích ở trên. Riêng trong thể lục-bát của thi ca Việt Nam, câu lục thường
đóng vai đề và câu bát đóng vai thuyết, như trong các câu thơ sau đây:
Trăm năm trong cõi người ta (đề)
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau (thuyết) (Truyện Kiều)
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau (thuyết) (Truyện Kiều)
Trước đèn xem truyện Tây Minh (đề)
Gẫm cười hai chữ nhân tình éo le (thuyết)
Hỡi ai lẳng lặng mà nghe (đề)
Dữ răn việc trước, lành dè thân sau (thuyết) (Lục Vân Tiên)
Gẫm cười hai chữ nhân tình éo le (thuyết)
Hỡi ai lẳng lặng mà nghe (đề)
Dữ răn việc trước, lành dè thân sau (thuyết) (Lục Vân Tiên)
Và qua nhận định này, đồng môn Lưu Văn Vịnh của tôi
cũng đã vô hình trung sử dụng cú pháp đề/thuyết khi viết câu hai câu lục-bát êm
tai nhưng cũng đượm mầu bi quan của anh:
Kề vai ở chốn phong sương (đề)
Nhìn nhau đáy mắt đoạn trường hiện ra (thuyết)
Nhìn nhau đáy mắt đoạn trường hiện ra (thuyết)
Liệu bạn tôi có đồng ý không?
Tài liệu tham khảo
Đoàn Phú Tứ (1949). “Đi Tìm Chủ Từ Trong Vài Đoạn
Văn Đoạn Trường Tân Thanh.”
In trong sách Nguyễn Du: Về Tác Giả Và Tác Phẩm (1999). Nhà Xuất Bản Giáo Dục, Việt Nam.
In trong sách Nguyễn Du: Về Tác Giả Và Tác Phẩm (1999). Nhà Xuất Bản Giáo Dục, Việt Nam.
Hà Như Chi (1970). Việt Nam Thi Văn Giảng Luận.
Nhà Xuất Bản Sống Mới, Saigon.
Huỳnh Sanh Thông (1983). The Tale of Kiều.
Yale University Press, New Haven and London.
Ng Đình Hòa (1997). Vietnamese – Tiếng Việt
Không Son Phấn.
John Benjamins Publishing Company, Amsterdam and Philadelphia.
John Benjamins Publishing Company, Amsterdam and Philadelphia.
Nguyên Sa (2000). Thơ Nguyên Sa Toàn Tập. Nhà
Xuất Bản Đời, Irvine, California.
Lưu Văn Vịnh (2000). Bốn Lần Leo Núi Tản. Hạ
Long Thư Các, Elridge, California.
Lưu Văn Vịnh (2007). Oang Oang Lòng Chén Rỗng.
Ổ Văn Hạ Long, Elridge, California.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét