Cõi thơ Minh Đức Triều Tâm Ảnh
Minh
Đức Triều Tâm Ảnh sinh năm 1944 tại Hương Thủy, Thừa
Thiên Huế là một bậc tài hoa đủ điệu: Làm thơ, viết văn, viết
biên khảo, viết thư pháp, nghệ nhân tạo vườn cảnh, đồng thời là
một nhà sư theo truyền thống Phật giáo Nguyên thủy Nam tông với pháp
hiệu Giới Đức. Xuất gia năm 1973 ở Vũng Tàu rồi làm du
tăng khất sĩ qua nhiều xứ miền Sài Gòn, Đà Lạt, Nha Trang, Đà Nẵng… Cuối
năm 1974 dừng gót lữ phong trần dưới chân đèo Hải Vân, lập cảnh
chùa Huyền Không thơ mộng bên triền núi, nhìn ra biển trời lộng gió
trùng khơi gần Lăng Cô xanh thẳm. Năm 1978 vì sự đổi thay của thời cuộc, Huyền
Không đành chấp nhận dời về Hương Trà, Huế, nhà thơ cùng với sư
Pháp Tông và Huệ Tâm tạo dựng vườn thiền mới theo phong cách Nhật Bản ngoạn
mục bên một con sông lau lách, cạnh làng quê yên ả dặt dìu:
Chùa quê trăng ngủ mái rêu
Đất nghèo hoa nở sớm chiều tự do
Qua sông ta chẳng lụy đò
Hú dài một tiếng bỏ bờ rong chơi
Chơi rong một trận bồng bềnh trên sóng gió bể
dâu cho đến năm 1989, hưởng ứng phong trào trồng cây
xanh, Minh Đức Triều Tâm Ảnh lên núi cao, vào tận rừng sâu
heo hút Hòn Vượn, chọn một khu đất hoang sơ rộng rãi có triền đồi,
hồ nước, lập nên phong cảnh Huyền Không Sơn Thượng. Bằng con mắt
thẩm mỹ, dưới bàn tay nghệ sĩ sắp đặt tài tình đã biến
nơi hoang dã, thiên nhiên thành cảnh trí thanh
nhã đẹp lạ lùng. Giữa khung cảnh núi rừng tịch mịch, tĩnh lặng, thấp
thoáng vài mái thảo am, ẩn hiện mấy nhịp cầu ván gỗ qua hồ nước xanh
ngần, phất phơ trúc biếc, thảo hoa và có lẽ đó cũng là một tác phẩm nghệ
thuật tuyệt vời, ấn tượng nhất ở nơi sơn cùng thủy tận này. Hồn
thơ, hồn nhạc hòa quyện cùng hồn thiêng sông núi mỹ lệ, để thi sĩ tiêu
dao ngày tháng từ thuở nọ cho đến bây giờ. Thơ và hơi thở cùng chan
chứa giữa lòng núi trầm sâu tĩnh lặng:
Lắng nghe hơi thở vào ra
Ngàn năm thân thế sương sa đầu cành
Lắng nghe hơi thở mong manh
Sợi thương sợi nhớ dệt thành mộng con
Lắng nghe hơi thở mỏi mòn
Trái tim nhịp đập mãi còn lang thang
Lắng nghe hơi thở dịu dàng
Câu thơ đại định non ngàn vắng không
Rỗng rang nhập cảnh giới tâm nguyên thiền định,
thở bầu không khí khoáng đãng vùng thượng sơn, bồng tênh trên tinh thần hân
hoan là niềm cảm hứng, sức sáng tạo dào dạt, bền bỉ suốt
bao nhiêu năm trường vẫn liên tục trào dâng không ngớt thơ văn bát
ngát diệu thường:
Tháng ngày ăn móc uống sương
Lá đùa nắng nhẹ rễ vươn gió ngàn
Non sâu ẩn giả mơ màng
Gặp thời hợp tiết cao sang hiển màu
Bước ra thấy núi tọa thiền
Bước vô thấy Phật an nhiên mỉm cười
Trong ngoài chẳng thấy chữ lời
Mình còn ham viết bụi rơi cửa sài
Viết và viết miên man, sáng tạo và sáng tạo không
ngừng nghỉ, vì dường như thi nhân đã chạm được mạch ngầm tâm tư, cảm
xúc vi diệu cùng niềm hạo nhiên chi khí làm bừng dậy, cháy lên rực ngời
ngọn lửa thi ca trong tim hồn rộn rã, hòa âm thâm viễn mênh
mông:
Chữ qua sông nghĩa qua sông
Mượn cây bút sậy vượt dòng văn thơ
Đèo mây trăm cụm dật dờ
Vượt qua vượt tít hoang sơ thế tình
Từ ngày đem lửa lên non
Đốt kinh soi chữ lối mòn mù sương
Nhen tim ấm áp khu vườn
Đồi đông hạo khí tùng vươn ngọn tùng
Tùng xanh, trúc biếc, thông ngàn quyện vờn gió lộng không
gian tịch mịch, lồng bóng hồ trăng thanh tịnh cùng hợp tấu, ngân nga
quá nhiệm mầu, vô lượng nghĩa thanh tân mới lạ, hòa chan diệu ảo
bao nhạc khúc thiên nhiên:
Chuông sương tỉnh thức non triền
Kinh chiều cây cỏ an thiền đã lâu
Trăng khuya chữ trắng sơn đầu
Lời vô lượng nghĩa nhiệm mầu thắng hương
Tri âm chút gió thanh lương
Cỏ cây tươi thắm am hương ngát ngào
Tri âm chim lượn non cao
Thả rơi chiếc bóng hồ ao thấy mình
Thi nhân lấy núi rừng hoang dã làm bạn tâm đầu
ý hợp cố tri, vì thế ngày đêm nhàn nhã tha hồ trao gởi xiết bao
nỗi niềm tâm sự, cứ mênh mang trút xuống, tuôn trào nguồn mạch phong
quang sáng tạo và kết tinh thành những tác phẩm tâm
tình sinh động, độc đáo vô lường. Trước những tác phẩm đồ sộ,
dày cộm dài mười mấy ngàn trang đủ thể loại biên khảo, truyện ngắn, truyện
dài, thi ca như: Chèo Vỡ Sông Trăng, Đá Trắng Chiêm Bao, Lửa
Lạnh Non Thiêng, Chữ Cháy Bờ Lau, Giun Dế Hư Vô Và Hạt Lửa Xanh, Bụi
Trăng Và Lửa, Đá Rác Và Cỏ Thơm, Miền Mây Trắng, Tình Mẹ Mùa Báo Hiếu, Đóa
Hồng Vàng Của Phật, Kinh Lời Vàng, Sương Khói Đường Thi (thơ) Ngàn Xưa Hương
Bối, Bức Tranh Thay Đổi Thế Giới, Người Trồng Hoa Và
Chàng Tu Sĩ, Một Cuộc Đời Một Vì Sao, Một Cuộc Đời Một
Vầng Nhật Nguyệt, Chuyện Của Thiền, Thanh Gươm Ba La Mật, Hành
Hương Tâm Linh, Thắp Lửa Tâm Linh (truyện) Học Phật Căn Bản,
Người Cư Sĩ Ưu Việt, Rèn Luyện Thơ Văn, Phật Học Tinh
Yếu, Sử Phật Giáo Thế Giới, Sử Phật Giáo Ấn Độ và Trung
Quốc, 38 Pháp Hạnh Phúc, Tiếng Hú Trên Đỉnh Cô Phong (biên khảo)… mang chở nội dung tư tưởng nhân văn và Phật học phong
phú, vô cùng giá trị, vì thế Viện nghiên cứu Phật giáo
Nguyên Thủy Dallas-fort Worth ở Texas Hoa Kỳ đã trân trọng tuyên
dương, cấp phát văn bằng danh dự Tiến sĩ Văn chương cho thi
nhân vào năm 2011.
Trong các tác phẩm đó, nổi bật lên là tập
thơ Đá Rác Và Cỏ Thơm (5 tập) gồm 1000 bài lục bát và truyện
dài Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt (6 tập) dài
hơn ba ngàn trang, viết về cuộc đời và tư tưởng Đức Phật.
So với Ánh Đạo Vàng của Võ Đình Cường hay Đường Xưa Mây Trắng của Nhất
Hạnh thì Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt của Minh
Đức Triều Tâm Ảnh dài nhất, tái hiện lại được toàn bộ sinh
hoạt xã hội Ấn Độ từ thời Đức Phật ra đời đến xuất
gia và thành đạo. Đây là một công trình vĩ đại, chứa đầy
tâm huyết, phải có tấm lòng tha thiết say mê văn học Phật giáo mới thực
hiện nổi. Văn chương, nghệ thuật, thi ca phải chăng là
tiếng hát của con người từ muôn thuở đến muôn nơi trên mặt
đất? Tiếng hát ấy đã bay dậy rung ngân qua cung bậc nhân sinh vừa ngậm
ngùi, trầm thống vừa hùng tráng thênh thang, hòa quyện nhau trong cõi
lòng tâm can, chan chứa giữa mộng đời vĩnh viễn thiên
thu:
Thương đời hạt bụi phiêu du
Thương mình trăm chuyện lu bù thế gian
Lên non nhặt ánh trăng vàng
Đề câu thơ tặng hạc ngàn qua chơi
Từ tình thơ nguyên vẹn đó, từ những cảm hứng xuất
thần nhập diệu, thi nhân bước xuống dòng sông tâm thức,
lung linh tĩnh lặng mà Chèo Vỡ Sông Trăng trên con thuyền hồn phiêu
nhiên qua khắp mọi miền sông dài biển rộng, rong chơi thong thả và ung
dung nhàn hạ. Đã tự bao giờ, người thi sĩ lên đường dấn mình vào
cuộc khám phá cánh đồng vô tướng, khu rừng huyền mặc tâm
linh. Chuyện ấy khác hẳn với chuyện chinh phục vũ trụ hay khai
khẩn thiên nhiên, bởi vì cảnh giới đó không thể chỉ trỏ, cầm nắm
gì được cả mà chỉ thầm trực nhận, cảm nhận ra thôi, nên ghềnh và
thác, suối và đèo ở đây là thác ghềnh của tâm cố chấp vào âm
thanh, là đèo núi của tâm nô lệ dính mắc vào sắc tướng, cần
phải vượt qua và vượt qua:
Qua sông bèn gọi con đò
Nôn nao lá rụng hai bờ sắc không
Qua sông giữa cuộc phiêu bồng
Khi thấy được mọi sự ở đời như trăng lồng trong bóng nước chảy
trôi thì bao nhiêu phiền não, khổ đau trĩu nặng oằn vai trong cõi
người ta bỗng chốc tan biến và tất nhiên, nhà thơ liền thấy nhẹ nhõm cất
bước tung tăng, chẳng còn chi nặng nề trầm trọng âu sầu. Sầu tư
chi nữa, khi biết liền lập tức cái phù du ảo mộng của muôn
sự việc ở đời một cách rốt ráo “vạn pháp giai không, duyên
sinh như huyễn” rồi, nhất là cảm nhận được cái mặt mũi xưa
nay của chính mình từ lúc chưa sinh ra đời, thành thử tự
nhiên mỉm cười tỉnh thức, vững chãi thảnh thơi:
Hóa ra chỉ thở và cười
Là trăm niềm nỗi một đời xa bay
Hóa ra tỉnh thức phút giây
Là ta thấy rõ mặt mày chưa sinh
Thấy là thấy liền tức khắc, chẳng đợi mai mốt, tương lai
hay vô lượng kiếp sau. Ồ cái mặt mũi thật ấy ở ngay nơi chính mình,
hãy nhận lấy đi thôi, đừng có vọng tưởng, chạy tìm kiếm bên
ngoài tận đâu đâu nữa. Xưa nay cũng nhiều cuộc lữ vạn
lý du mù mịt rồi, thi nhân rong ruổi dặm ngàn viễn xứ, cứ trầm tư khắc khoải,
mải mê kiếm tìm trong vô vọng quắt quay… Bây giờ thì dường như
đã thấp thoáng thấy hiện mặt mày ban sơ nên dừng
gót phiêu bạt giang hồ, trở về với cái thân yêu, cái
bây giờ và ở đây:
Đã đi khắp thế gian này
Niềm vui nỗi khổ tựa tày chiêm bao
Tiền thân mặt mũi hư hao
Về chùa gặp lại trăng sao lòng mình
Mải mê giữa chốn chợ chiều
Vai đau tóc lấm đã nhiều gian truân
Ta bèn rũ áo phủi chân
Dặm không đủng đỉnh chiếc thân nhẹ hều
Nhẹ hều, nhẹ nhõm, nhẹ thênh trên con đường mây trắng phong
quang, thi nhân vẫn nhẹ nhàng như sương như khói, thong dong giữa tuế
nguyệt phiêu bồng. Lòng vô vi vô trú, ngao du suốt bốn mùa
mưa nắng, lãng đãng qua lại chốn phù sinh, nhịp nhàng lên xuống, vào
ra thanh thản như chơi:
Xoa tay việc đạo việc đời
Nghe từ cõi bụi vẳng lời giác không
Vẫn thân thế vẫn phiêu bồng
Nắm tay đại dụng chơi rong tháng ngày
Ngày tháng hòa âm nhập cuộc. Cuộc chơi ở đây chính là cuộc lữ thi
ca qua khắp biển rộng sông dài giữa vũ trụ mênh mông. Không có một
thi nhân nào từ vạn cổ đến nay mà không lấy nhật nguyệt thiên
địa, trăng nước gió mây làm chỗ giao du qua lại, bởi vì mặt trời, mặt
trăng, mặt đất trần gian ngút ngàn sông biển, mây gió bao la kia là ẩn
ngữ thi ca, hàm dung tất cả tinh túy, mật ý mà người thi sĩ
muốn bày tỏ với cõi tạm trần ai:
Như mây lãng đãng sông dài
Và như hoa nắng trên vai ửng màu
Và như tóc trắng trên đầu
Hạo nhiên gót lữ qua cầu nhân sinh
Bốn phương gọi gió mát về
Tâm trong cảnh lặng bồ đề ngát hương
Mở ra cánh cửa yêu thương
Nụ cười hơi thở mộng trường mang mang
Giữa nhân sinh trường mộng, mỗi người
trong chúng ta có lẽ ít nhiều đều chạm mặt với nỗi buồn cô
đơn khốc liệt, riêng với những tâm hồn thi nhân thượng đẳng, họ sẵn
sàng đón nhận sự cô đơn như đón nhận một tri âm, tâm đắc, ăn nằm
với cô đơn một cách thân mật, đậm đà. Chính sự cô
đơn là nguồn cảm hứng sáng tạo vô biên, khi người nghệ
sĩ thưởng thức được hương vị cô liêu thoảng ngát trong lòng:
Lên non xanh liễu cuộc bồng
Cô liêu sương khói người không thấy người
Đạo tình quên nghĩa quên lời
Chung trà mây nước nụ cười bối hương
Cô liêu đứng giữa sa mù
Nửa lòng lạnh trắng nửa thu nhạt mờ
Cô liêu đá cô liêu thơ
Và cô liêu nữa chơ vơ bốn bề
Cô liêu, cô đơn rờn lạnh quạnh vắng hoang liêu, người
thi sĩ thì thầm khuya sớm chuyện chi mà trăng tỏ rạng ngời nỗi
lòng thiết tha như thế, để cho thỉnh thoảng xuống núi chơi rong,
có bài thơ sương khói làm quà tặng cho dâu bể vô thường, lòng bồi hồi gió
cát và mỉm nụ cười với hoa cỏ khơi vơi:
Thơ về phố chợ rong chơi
Đề câu quán khách dặm lời khói sương
Có khi chữ lấm tro hường
Có khi bụi trắng cúng dường bể dâu
Dẫu như mây hiện giữa trời
Chút tình trăng nước tạc lời làm vui
Mười phương gió cát bồi hồi
Mười phương hoa cỏ nụ cười mênh mông
Trên dặm trường sương gió ra đi, thi nhân vô phân biệt
trí giữa quên và nhớ cũng như giữa có và không, giữa mộng và thực, giữa sống
và chết, giữa mê và ngộ… Hai trạng thái chỉ cách nhau kẽ
tóc đường tơ nhưng thực ra, chẳng khác nhau gì cả mà hòa nhập tương
dung, tương tức ra vào:
Đạo tình nửa nhớ nửa quên
Chừ ta ở lại giữa miền bụi bay
Thơ còn mây trắng phương tây
Thì lòng thi sĩ tháng ngày còn xanh
Đạo đời một mối khôn phân
Tình thiên thu nọ mà gần mà xa
Dòng lên dòng xuống cũng là
Đầu nguồn cuối biển sương pha mấy màu
Mấy màu sương pha hỡi dòng đời suối đạo? Thôi chớ bận tâm, đừng
có mơ màng mộng mị chi thêm nữa mà hãy bất động, rỗng rang với
lòng như thị như nhiên. Tuyệt diệu làm sao! Bước đi không
chỗ trú của đạo và thơ giữa ta bà huyễn mộng phù du:
Ngàn xưa Đạo xuống thảo lư
Trăng vàng ghé đọc tương tư mấy mùa
Ngàn sau Thơ xuống hiên chùa
Chỉ nghe lá rụng gió lùa lạnh hiu
Dìu dặt thần hồn giữa trăm miền quyến
rũ đầy âm thanh và màu sắc mà nhà thơ chẳng mắc dính, buộc ràng,
trói cột vào bất cứ gì vì đã giã từ, buông xả sạch trơn hết rồi. Đến
nỗi bỏ luôn phồn hoa đô hội, trút hết mộng mị thị thành để
đơn thân độc mã, một mình một bóng lặng lẽ, âm thầm
lên tận chốn non cao giữa rừng sâu rú thẳm, cắt cỏ lợp tranh, trồng hoa vàng gầy
trúc biếc, dựng lên cảnh thần tiên Huyền Không Sơn Thượng. Một cảnh
giới thuần túy thiên nhiên, phưỡng phất ngợp đầy chất thiền vị thi
ca giữa trời thơ đất mộng, bồng tênh lênh láng lãng đãng sương
mù và mây trắng chập chùng bay lượn suốt sớm trưa chiều tối phiêu
diêu. Tiêu dao tiêu sái, nhàn nhã thưởng ngoạn trăng ngàn,
bàng bạc ngân nga hòa quyện suốt đêm ngày :
Gánh mộng lên non thả gió bay
Đem thơ vào núi gởi cho mây
Thân ta sương khói phiêu bồng cõi
Giữa chốn nhân gian đầy hỗn độn, lộn nhào đảo
hoán mọi giá trị tinh thần, nhất là giá trị đạo đức, hầu
như sụp đổ tan hoang hết trơn rồi, chẳng biết trách ai đây? Thôi thì, thi nhân
nhẹ nhàng vứt bỏ ngoài tai những chuyện đời thị phi, xem thường mọi
sự như được và mất, khen và chê, sướng và khổ, danh thơm và tiếng xấu…
nên lặng lẽ từ tạ, giã biệt bỏ đi. Có chi đâu mà vướng bận dính mắc,
chẳng có gì phải hy vọng mong cầu:
Tạ từ xuôi ngược bể dâu
Tạ từ danh tướng sắc màu thế gian
Non sâu đã lặng tiếng đàn
Đêm đêm nguyệt trúc gió ngàn vô thanh
Hai bờ trang giấy vô hư
Chữ bơi ở giữa tưởng tư cuộn dòng
Ta bèn giọt mục sang sông
Đỡ phiền bát nhã đỡ công sắm đò
Bỏ lên non cao, tìm vào rừng sâu rú thẳm với phong độ khinh
an, thoát vượt mọi tham si, thi nhân lắng nghe cung đàn vô
thanh thong thả vọng về. Để rồi, mỗi sớm tinh sương óng ả hay những
buổi chiều tà hoang lương, cô tịch, bình yên rảo bước, dạo vòng quanh qua
nhịp cầu Lãm Thương dịu ngát hương sen rồi rong rêu qua hồ Thủy Nguyệt xanh
ngần bóng núi trầm hùng, nhẹ mỉm cười với mấy vần thơ đung đưa thư
pháp bên hiên Am Mai Trúc hay thỉnh thoảng, đôi khi cùng tâm sự với hoa
vàng trúc biếc, lung linh huyền ảo dưới ánh trăng ngà long lanh lấp
lánh:
Qua vườn thăm thảm cỏ xanh
Thăm câu lục bát thăm cành liễu trơ
Có khi trăng động mặt hồ
Bóng hồn lẫn với bóng thơ bồng bềnh
Bốn mùa xanh biếc trúc ơi!
Ruột không tiết thẳng đứng trời hạo nhiên
Quanh năm nhả khí cao hiền
Còn tung xác lá án thiền tặng ta
Đá sỏi hỏi han, chia sẻ niềm hạo nhiên chi khí, trúc biếc hiền
từ nhẹ hát lời ca. Hóa thân làm cỏ lau xào xạc ven
sông, làm hồn hoa cỏ may lay động bóng chiều tà óng ả, làm giọt sương mai óng
ánh, làm đá tảng triền đồi, hòa âm vang những lời vu vơ thơ nhạc
cõi ban sơ phơi phới:
Vu vơ ngồi thở vu vơ
Vu vơ đi đứng vu vơ nói cười
Vu vơ mượn chữ mượn lời
Vu vơ cấu tứ đất trời vu vơ
Có khi tâm đá thốt lời
Có khi hồn cỏ dạo chơi thung triền
Cũng là thơ cũng là thiền
Sương treo công án một miền lá xanh
Xanh ngát ngàn thông lồng lộng giữa truôn đồi mây
gió hoang vu, không còn phân biệt chuyện đời, chuyện đạo, biết
bao chuyện đúng sai, phải trái, thị phi… Chỉ biết rằng chút thân bèo bọt
này đã trải qua vô lượng kiếp, trùng trùng sinh diệt giữa biển trầm
luân, nghiệp báo lưu linh rồi:
Hôm qua mộng thấy tụng kinh
Tỉnh ra mới biết chính mình là trăng
Bao nhiêu cát của sông Hằng
Là bấy nhiêu kiếp đã từng tử sinh
Thấy sinh tử như những bọt sóng nhấp nhô nổi trên mặt
biển hiện tượng, có sinh có diệt đồng thời cũng nhận biết bản
thể của sóng là nước, vốn không sinh không diệt thì lòng trạm
nhiên rỗng lặng, chẳng còn sợ hãi gì nữa. Bụi hồng khói đỏ, cỏ
vàng lá xanh hay niết bàn sinh tử, thiên đường địa ngục…đều tùy
duyên biểu hiện chập chùng như hoa đốm giữa hư không mà
thôi. Vậy thì, hãy sống trọn vẹn, hít thở bầu trời tự tánh
Không rỗng lặng, tuyệt nhiên chẳng nên hoài công, phí sức tiêu
diệt hoa đốm làm chi nữa. Vì thế, cuộc đời người thi sĩ
kia tự nhiên thanh thoát, sáng ngời như một bài thơ bất tuyệt
giữa đỉnh cao và hố thẳm tâm linh đã về đã tới:
Bài kinh đi suốt cuộc đời
Đêm nghe gió nổi tiếng lời sạch không
Chừ đây một cõi phiêu bồng
Chỉ còn ta đứng mênh mông bóng mình
Muôn xưa bóng bọt đăng trình
Muôn sau bóng bọt tấp ghềnh chiêm bao
Chiêm bao và thực tại đều huyền đồng trong một trạng
thái tự tại tự do. Có lẽ thường xuyên sống trong thực
tại mới mẻ đang là như thi đó, cho nên thi nhân vẫn im lặng sáng
tỏ, buông bỏ xuống hết trăm công nghìn việc, vắng vẻ mọi nỗi ưu
phiền:
Trần gian trăm việc tạm yên
Thơ đề góc núi đầy hiên nắng vàng
Gió trăng thế sự không bàn
Giấc thiền lặng lẽ nhẹ nhàng tình không
Rỗng rang nhàn nhã, bao nhiêu khê, tế toái chuyện thế
gian chẳng còn bận tâm, luận bàn chi thêm nữa cho mệt, chỉ còn
biết hứng thú làm thơ, thường xuyên viết thư pháp, đàm đạo, uống trà
cùng hư vô hố thẳm và lắng nghe trăng khuya đọc thơ chơi giữa ngàn
sao chiếu diệu vời:
Trăng khuya tìm đọc thơ rơi
Núi rừng đã ngủ đất trời còn ta
Mời hư vô cạn chung trà
Giọt sương thinh lặng la đà hiên văn
Còn hoa thì bướm tìm về
Còn kinh còn chữ tỉnh mê còn bàn
Còn lý sự còn lan man
Ra sông úp chiếc đò ngang khỏe liền
Tuyệt diệu là khỏe liền như thế đó mà có mấy ai thực
hiện được gì đâu? Thôi thì, một khi lãnh hội được điều ấy rồi
thì cứ việc thong dong, thoải mái đến đi, vì đã thấy được Phật
tính siêu tuyệt huyền hòa:
Ai từ sắc tướng tìm ta
Ai từ âm tiếng gọi ma cõi ngoài
Ta là hơi thở lai rai
Là trăng là gió như lai bốn mùa
Bốn mùa đều biểu hiện Như lai tự tính giữa trời
đất, nhật nguyệt, thiên nhiên. Tiếng thơ lang thang trong thế giới phiêu
lãng của ngôn từ, đốt cháy lên từng con chữ, từng khái niệm hữu
vi, vô vi làm bừng sáng tư tưởng thượng thừa, vượt
thoát nhị nguyên, huyễn ảo chiêm bao:
Dấu chân trên cỏ hôm nào
Vẫn còn sương ướt lời chào cố tri
Kẻ hữu vi người vô vi
Mênh mang mây nước cuộc đi cuộc về
Tay cầm một đóa đông phương
Niềm vui hoa nở con đường hữu duyên
Nước mây chan chứa đạo thiền
Yêu thương khổ đế não phiền trăng soi
Trần ai còn khổ đế, ta bà còn khổ lụy là
thi nhân vẫn còn tiếp tục làm thơ và hành thiền. Tiếng thơ ấy
đang cưu mang một tính mệnh quê hương Việt Nam lớn
lao như lời nhận xét tinh tế của thi sĩ Phạm Công Thiện: “Đọc
đi đọc lại mấy lần, mấy chục bài thơ của Triều Tâm Ảnh, tôi có linh cảm rằng
thi sĩ đang cưu mang một Tính Mệnh lớn lao mà có ít thi
sĩ Việt Nam nào hiện nay có thể đủ trầm lặng đạo lực cưu
mang nổi. Không phải vì những tên tuổi bi tráng như
Nietzsche hay Rimbaud mà tác giả yêu thích đã khiến tôi nhận
xét như trên mà vì chính những gì loáng thoáng đằng sau những
dòng thơ kỳ diệu của thi sĩ.
Thi nhân ở đây đồng thời cũng là một đạo nhân.
Thi nhân đang đứng giữa trung tâm điểm cơn bão tố địa cầu, đứng giữa
Triêu dương của Đông phương và Tịch dương của Tây phương, đứng
giữa Tây nhập và Đông khởi của Hoa Nghiêm Kinh… Như những đám
mây trôi nổi ở vùng mặt trời lặn, tôi xin gởi đôi dòng linh
cảm này về thi sĩ và tạ ơn được đọc những bài thơ sâu sắc tuyệt
đẹp, ít thấy trong thi ca Việt Nam hiện đại.”
Cõi thơ Minh Đức Triều Tâm Ảnh hay cõi
thơ thanh thoát an nhiên đó đã khơi mở biết bao cảm hứng cho
những nghệ sĩ thi nhân, nhất là cảnh giới kỳ tuyệt Huyền
Không Sơn Thượng kia, như có một thần lực vô hình, chiêu cảm những
bước chân du tử, lang thang sĩ, những hành nhân, thi sĩ đi về hân
hoan, nôn nao hồn reo vui rộn rã:
Huyền Không Sơn Thượng rất xa
Đã qua làng xóm còn qua núi đồi
Ở đây vườn cảnh xanh tươi
Lan rừng nở rộ chim trời hót vang
Đợi làn mây tía qua hiên
Chung trà hương sói kết duyên bạn bầu
Khói sương ý hợp tâm đầu
Lá hoa cười nói chữ câu xóa liền
Huyền Không Sơn Thượng ơi! Lang thang sĩ này cũng từng
về nơi chốn ấy nhiều lần rồi, thường lặng lẽ một mình lên nằm mắc võng
đong đưa giữa hai đầu nhật nguyệt một vài hôm để lắng nghe tiếng thơ
tịch mịch, vang rền mênh mang khắp đất trời. Có bận đi với thi sĩ Trần Đới, Phạm
Thư Cưu, Hải Tuệ, Kiều Trung Phương, vài lần cùng với Nguyễn Văn Nho, chọn
một đêm rằm lên ngắm trăng Huyền Không Sơn Thượng. Sương khuya lãng
đãng hòa quyện trăng ngàn xanh biếc lùa vào thảo am ngan ngát hương
trầm, chỉ còn nghe gió thiên thu đồng vọng trong giọng ngâm thơ của
Nguyễn Văn Nho truyền cảm, âm vang xao động quanh bờ suối hoa vàng và
tôi cũng đọc một bài thơ mới vừa cảm tác tặng cho mấy cành trúc la đà, xào
xạc phất phơ:
Mờ sương khói quyện trên đồi núi
Lữ khách về thăm chốn non xa
Huyền Không Sơn Thượng ồ diễm tuyệt
Về đây như về tới quê nhà
Xả buông xuống hết bên ghềnh đá
Rung động hồ xanh cảnh thanh bình
Nghe chim suối hót hòa hoa cỏ
Trăng ngàn bàng bạc giữa lung linh
Ngưng thần lặng nắm cây tâm bút
Vẽ một trời thơ ngát phiêu nhiên
Nghiêng hồn bay vút cô phong đỉnh
Chạm đáy thiên thu cõi nhiệm huyền
Dạo gót quanh sườn Am Mai Trúc
Ven rừng tịch mịch lối thanh lương
Bước chiều phiêu lãng ngàn mây trắng
Lặng cảm điều chi quá diệu thường
Thơ Minh Đức Triều Tâm Ảnh trích trong các tác phẩm:
Chèo Vỡ Sông Trăng. Hội Văn Học Nghệ Thuật Thừa
Thiên Huế xuất bản 1993
Chữ Cháy Bờ Lau. Thuận Hóa xuất bản 2004
Giun Dế Hư Vô Và Hạt Lửa Xanh. Văn Học xuất
bản 2008
Bụi Trăng Và Lửa. Văn Học xuất bản 2011
Đá Rác Và Cỏ Thơm. Văn Học xuất bản 2013.
Tâm Nhiên
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét