Cảm nhận tập truyện ngắn thứ 10
“Những mùa ngâu”, nxb Hà Nội, 2017
của Nguyễn Hiếu
của Nguyễn Hiếu
Văn xuôi của Nguyễn Hiếu ở đây chỉ giới hạn trong 10 tập truyện
ngắn và 25 tập tiểu thuyết, chưa tính đến những kịch bản sân khấu, kịch bản
phim và truyện viết cho thiếu nhi. Có một vốn sống để viết khỏe, in nhiều như
thế, Nguyễn Hiếu cho bạn đọc hai ấn tượng nổi bật về mình. Thứ nhất, đó
là một vốn sống và trải nghiệm vô cùng phong phú, dồi dào. Thứ hai là một sức
viết ghê gớm mà bạn viết không ngại phong cho Nguyễn Hiếu danh hiệu “lực sĩ”.
Tôi thì muốn gọi tên dân dã, giản dị là “chàng lực điền trên cánh đồng văn
xuôi”. Gọi như thế vì thấy rằng nhà văn này sinh ở làng Chèm, và cái làng
ấy đã thành làng Chiện trong văn phẩm của anh. Những nhân vật mà anh thông thuộc, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc là những nhân vật của
làng. Lão Cu, cô Liễu, anh Tuệ, anh Dũng, ông Lẫm… trong các tiểu thuyết,
truyện ngắn trước đây. Và gọi như thế, cũng là muốn liên hệ đến gốc gác
làng của nhà văn từng bắt cua, mót lúa.
Mười
ba truyện ngắn trong tập thứ mười của Nguyễn Hiếu, người đọc vẫn có
thể gặp những câu chuyện xoay quanh làng Chiện, với những nhân vật như
lão Phỗng, lão Phềnh (Ghi chép của ông hoạn lợn nổi tiếng làng tôi), Lão Mạc (Mớ đời nhà lão Mạc), Thống Tèo, Vịnh thịt chó, Tư Tít (Rồi có lúc ai đó
làm vua), Ly, Lan (Cặp nhân tình đất), chị Lam, anh Lũi Phong Lai (Thủa ấy
người ta yêu nhau lắm). Tuy nhiên, tác giả không chỉ giới hạn trong không
gian làng Chiện. Người đọc có thể đến một thành phố cao nguyên (Chỗ nào thành
phố cũng có hoa), trở lại bến phà miền Trung thời đánh Mỹ (Đêm cuối cùng bên
sông), gặp một vị quan tòa trong tòa án thành phố (Chuyện ông Thẩm phán mặt
vuông chữ điền), tiếp xúc với nhóm phụ nữ bán bún chả, thịt chó, phở gà, nem chạo
trong cuộc đánh ghen tập thể (Ghi chép của người đàn bà bán bún chả có máu văn
chương), gặp gỡ với nhân vật trung úy Thịnh trong đội hình sự, một người
bắt phạm nhân lại bị tra tay vào còng số tám vì “vô tình đánh chết nghi phạm” (Giống chó xoáy Phú Quốc). Cũng có thể bất chợt xem “tập văn nghệ” của cặp
vợ chồng nhà nọ với hai diễn viên khác là cô osin và chú Điền (Đơn côi). Hoặc
chứng kiến tình cảnh dở khóc dở cười của nhân vật khi yêu đương, hẹn hò qua mạng
(Tình yêu FB facebook). Có nghĩa là nhà văn đã mở rộng đề tài, đề cập đến nhiều
không gian, nhiều mẫu người trong thời buổi kinh tế thị trường, lắm nhiễu
nhương, nhiều đảo lộn.
Có một
điều dễ nhận thấy là có hai truyện ngắn, Nguyễn Hiếu viết dưới dạng ghi
chép của nhân vật. Đó là “Ghi chép của người đàn bà bán bún chả có máu văn
chương” và “Ghi chép của ông hoạn lợn nổi tiếng làng tôi”. Thật ra, đây chỉ là
một thủ pháp nghệ thuật mà thôi. Mặc dù trong ghi chép thứ nhất, Nguyễn Hiếu có
xen vào lời của tác giả (đầu và cuối truyện), lại thêm cả lời bình của Y Trang
nữa cho rằng “ghi chép rất gần với thể loại kí của báo chí vì vậy dễ đọc mà
cũng dễ quên”. Tôi cho rằng nhận xét của Y Trang cần bàn lại, và nếu truyện
“dễ đọc, dễ quên” thì sao có thể coi là truyện thành công? Nếu không có lời bàn
và không có lời tác giả (LTG) thì những ghi chép của cô bán bún chả vẫn cứ là
truyện ngắn sinh động như thường. Ngôn ngữ “chợ búa” của cô bún chả nói về
việc thêm gia vị cho đỡ chán “Con dở hơi kia, cứ ngẫm mà suy ra. Trên đời này
cái gì để đỡ chán, đỡ lộ cái dở, cái ươn ra đều phải thêm gia vị hết. Mày cứ
xem trên tivi đấy. Trước cuộc họp nghiêm trang đến đâu chả có tí hát hò, nhảy nhót.
Bún, rồi chả cứ trần cù xì chấm nước mắm thì có ma nó ăn. Phải có dấm ớt, tỏi
vào” là thứ ngôn ngữ đặc biệt. Rồi cô quan sát các vị khách nói việc “tranh ghế”
trong cơ quan và âm mưu “hạ bệ” tay có ô dù chúa tham… Nhân vật cô bán bún chả
là một nhân vật độc đáo của Nguyễn Hiếu để lại ấn tượng mạnh. Mặc dù vậy, tôi
coi thú nhận “Càng đọc, càng thấy cô bún chả viết hay hơn ối nhà văn trong đó
có cả tôi” cũng là một cách thức để Nguyễn Hiếu thuyết phục rằng cô bún chả kia
có thực trong đời. Còn truyện “Ghi chép của ông hoạn lợn nổi tiếng làng
tôi” thì “ghi chép” có vai trò khiêm tốn hơn. Về dung lượng nó chỉ gần một nửa
số trang truyện ngắn. Về nội dung, nó chỉ là một phần trong bốn phần: Đám
tang, Cuộc gặp, Ghi chép, Gặp lại Phềnh bàn bạc. Bởi thế mà nhan đề
“ghi chép” và cả nội dung nữa, chỉ là một thủ pháp nghệ thuật để các truyện ngắn
của Nguyễn Hiếu không đơn điệu mà thôi. Không phải điều đó làm cho
truyện ngắn Nguyễn Hiếu gần với thể kí, lại còn là kí báo chí (hàm ý ít tính
văn chương).
Một thay đổi khác của Nguyễn Hiếu là nếu trước đây, truyện ngắn của tác giả thường
sử dụng yếu tố giả tưởng và trào tiếu như một thủ pháp nghệ thuật căn bản. (Nguyễn Văn Tùng: Truyện ngắn Nguyễn Hiếu - những nét đặc sắc, trong tập
Nguyễn Hiếu – Văn, nhà xuất bản Hà Nội) thì ở tập truyện mới này, chỉ có một
truyện sử dụng yếu tố giả tưởng là “Cặp nhân tình đất” và một truyện khác
“Vật quý ở quanh ta” viết theo giọng cổ tích. Tác giả đã đi thẳng vào những vấn
đề bức xúc của đời sống và việc tha hóa đạo đức với những con người bình thường
hoặc kì cục, nhưng là người có thật trong cuộc đời chứ không phải thông qua các
nhân vật truyện giả tưởng như Thần báo mộng, Ruồi có thể ăn được, Loài
gián, Bóng ảnh của đời, Tùy hứng… Chúng ta sẽ gặp vị thẩm phán trước vụ trọng
án mà người bạn thân đã chạy đủ các cửa, đã lo lót công phu. Tưởng là con tì
hưu quý giá trị giá hàng tỉ và tình bạn cố tri sẽ làm cho ông thẩm phán làm lệch
cán cân công lí.
Nhưng không phải thế. Kết thúc truyện có phần đột ngột nhưng hợp lí. Về kiểu dẫn dắt bạn đọc và kết thúc đột ngột ngoài dự đoán có thể thấy trong truyện “Rồi có lúc ai đó làm vua”. Tư Tít đề xuất chuyện rước vua sống, tài trợ toàn bộ kinh phí cho việc này, nhưng ông ta khôn ngoan viện lí do để không là người đầu tiên làm vua sống. Thống Tèo thầy cúng làm vua đầu tiên mắt mũi lem nhem, bị rơi vương miện làm trò cười cho cả làng. Vua Vịnh thịt chó khá hơn Thống Tèo, nhưng lại bị con bé ô sin bế con ra nhận bố reo to: “ Cu, cu…con thấy không. Bố con làm vua kia kìa. Oai không cu?”. Cứ nghĩ rằng Tư Tít tính toán, rút kinh nghiệm cẩn thận thì cuộc rước vua lần thứ ba sẽ thành công mĩ mãn. Nhưng thật bất ngờ là với tính toán kĩ lưỡng, cẩn thận của kẻ khôn ngoan như Tư Tít, nhưng vẫn không tránh khỏi…trục trặc còn tồi tệ hơn cả hai lần trước…Kiệu vua bị ném chất thải, lính khiêng kiệu vấp ngã, vua lăn xuống đường, khắp nơi bốc lên mùi xú uế…
Nhưng không phải thế. Kết thúc truyện có phần đột ngột nhưng hợp lí. Về kiểu dẫn dắt bạn đọc và kết thúc đột ngột ngoài dự đoán có thể thấy trong truyện “Rồi có lúc ai đó làm vua”. Tư Tít đề xuất chuyện rước vua sống, tài trợ toàn bộ kinh phí cho việc này, nhưng ông ta khôn ngoan viện lí do để không là người đầu tiên làm vua sống. Thống Tèo thầy cúng làm vua đầu tiên mắt mũi lem nhem, bị rơi vương miện làm trò cười cho cả làng. Vua Vịnh thịt chó khá hơn Thống Tèo, nhưng lại bị con bé ô sin bế con ra nhận bố reo to: “ Cu, cu…con thấy không. Bố con làm vua kia kìa. Oai không cu?”. Cứ nghĩ rằng Tư Tít tính toán, rút kinh nghiệm cẩn thận thì cuộc rước vua lần thứ ba sẽ thành công mĩ mãn. Nhưng thật bất ngờ là với tính toán kĩ lưỡng, cẩn thận của kẻ khôn ngoan như Tư Tít, nhưng vẫn không tránh khỏi…trục trặc còn tồi tệ hơn cả hai lần trước…Kiệu vua bị ném chất thải, lính khiêng kiệu vấp ngã, vua lăn xuống đường, khắp nơi bốc lên mùi xú uế…
Hầu hết
các nhân vật trong tập truyện ngắn này là những người không có địa vị cao,
nhưng đều có một cái gì đó “bất bình thường”. Lão Phỗng hoạn lợn, nhiều con rơi
vãi (Ghi chép của ông hoạn lợn nổi tiếng làng tôi) Lão Mạc ganh ghét mọi
người thành ra một kẻ độc ác đến con gái cũng không chịu nổi phải gào lên: “Bố
là đồ độc ác. Tôi ghét bố. Ghét nhất bố” (Mớ đời nhà lão Mạc). Ông Tư ô tô mỗi
lần ghé nhà lại tòi ra một đứa con. Ba Thú lấy em gái vợ ông Tư ô tô thì “con
chính thức… sáu đứa, con rơi vãi xấp xấp chừng đó”. Ba Thú “có tiếng là gã đàn
ông bất chấp tất cả để trở thành kẻ sát gái có hạng vùng đó” (Chỗ nào thành phố
cũng có hoa). Anh chàng Lũi xấu giai, chả biết hát hỏng gì nhưng lại có chân
trong đội cải lương, chủ yếu làm chân “vác tre bắc rạp”, may mà được cho đóng
vai Phong Lai “không phải hát nửa câu, chỉ hò hét là chính” (Thủa ấy người
ta yêu nhau lắm). Cô bán bún chả có máu văn chương thì nói đặc thứ ngôn
ngữ chợ búa chao chát nhưng thực lòng thương bạn, thương chồng (Ghi chép
của người đàn bà bán bún chả có máu văn chương). Cái sự bất bình thường ấy làm
cho nhân vật có hồn vía riêng không lẫn vào những người bình thường vô danh vốn
quá đông đảo trong đời sống.
Trong
các truyện ngắn mới của Nguyễn Hiếu, giọng điệu châm biếm, giễu nhại, phê phán
gần như là quán xuyến trong hầu hết các truyện. Nhà văn châm biếm thói háo
danh, cố in thành sách những thơ phú của người làng qua đoạn đối thoại giữa Phềnh
và nhân vật “tôi”:
- Tức là
chú định in tập này cho anh chú chứ gì?
- Hị hị.
Ông anh đúng là sáng dạ. Chứ còn gì nữa. Tiền nong không thành vấn đề. Cốt là
nó in ra được.
- Nhưng để
tôi phải xem nó thế nào đã chứ.
- Hị hị.
Ùi. Anh là nhà văn. Có gì anh sửa cho anh em. Nếu thấy còn mỏng thì anh viết
thêm vào, rồi đề tên anh em. Tất nhiên em không để anh thiệt đâu.
- Nhưng
dứt khoát phải in à?
- Vâng.
Cái này em học thằng Tản. Nó bảo người nổi tiếng đến đâu mà không có sách vở để
lại thì lâu lâu người ta cũng quên đi, thế cho nên…
(Ghi chép của ông hoạn lợn nổi tiếng làng tôi). Còn đây là lời
bàn về nội tình cơ quan của mấy tay công chức ăn bún chả:
“Hạ bệ
nó chứ”? Thằng ria rậm “Còn sao nữa? Thằng ấy chúa tham, nó mà lên trưởng phòng
thì bao nhiêu dự án nó ăn sạch. Nuốt không hết lại dúi cho con em nó bên tài vụ”.
Thằng chân lòng khòng giơ cao cọng tía tô lên như soi rồi thủng thẳng “Tôi sợ
nó có ô là ông bí thư”. “Ô cũng chơi, thời dân chủ rồi, cứ móc thật mạnh vụ nó
khai khống mấy tờ công lệnh”. “Xin ông, dân chủ con khỉ. Trên đã quyết thì giời
thay đổi” (Ghi chép của người đàn bà bán bún chả có máu văn chương).
Những chuyện “ông ăn chả, bà ăn nem”, chuyện “đâm bị thóc, chọc
bị gạo”, chuyện chạy án, chuyện hư hỏng chỉ vì muốn làm nghệ thuật, chuyện bày
trò rước xách, chuyện lủng củng, cãi cọ nhau chỉ vì tiền được phản ánh với thái
độ phê phán mạnh mẽ. Nhưng không chỉ có thế, Nguyễn Hiếu vẫn tìm thấy những con
người, việc làm tốt để ca ngợi và khẳng định. Đó là ông thẩm phán, là gia đình
nghi phạm Hoàng Vĩnh Danh (Chuyện ông Thẩm phán mặt vuông chữ điền), đó là con
bé Mai (Mớ đời nhà lão Mạc), là chị Lam, anh Quân (Thủa ấy người ta yêu nhau
lắm), là cô Chả, sau đổi thành Sen (Thành phố chỗ nào cũng có hoa).
Truyện
ngắn của Nguyễn Hiếu khá dài, thường ngổn ngang chi tiết, nhiều nhân vật và nhiều
tình huống đan cài. Có người vì thế mà nhận xét rằng văn Nguyễn Hiếu xô bồ, ôm
đồm, nhiều lời, bê nguyên xi những gì từ cuộc đời vào tác phẩm. Tôi không nghĩ
như vậy. Đúng là có một số chỗ rườm rà, hơi hơi “cà kê dê ngỗng”, nhưng cái tạng
của Nguyễn Hiếu là thế. Anh muốn đem hết những gì mình chứng kiến (đã nhiều),
mình biết nhờ đọc (lại càng nhiều) vào tác phẩm. Như tác giả từng bộc bạch về
chí nguyện của mình: “sẽ kể lại một cách trung thành nhất về xã hội này”.
Nguyễn Hiếu không chỉ kể, mà anh còn tả, còn phân tích, còn dựng lại cuộc đời
trong tác phẩm. Nhờ có cái duyên ấy, mà những chuyện sở trường liên quan đến
làng anh viết sinh động, cuốn hút. Ngay cả những mô tip đã thành nhàm như chuyện
chàng lái xe và cô bán hàng bên sông thời đánh Mĩ trong “Đêm cuối cùng
bên sông”, Nguyễn Hiếu vẫn có cách riêng để truyện của mình thuyết phục bạn đọc.
Nói
cho công bằng, có lẽ tại viết nhiều, viết khỏe, như là một người đẻ quá nhiều
cho nên Nguyễn Hiếu không có thời gian để chăm chút cho những đứa con. Thôi thì
những đoạn rườm rà không cắt gọt có làm cho truyện bị tãi, bị lỏng lẻo một
chút, cũng chẳng sao. Điều gây ức chế cho người đọc là những lỗi chính tả không
đáng có. Rồi thì một số câu văn ra ngoài chuẩn mực văn chương.
Nhân vật
thì đầu truyện là “con đĩ Liệu”, cuối truyện là con Liễu (Ghi chép của người
đàn bà bán bún chả có máu văn chương). Đầu truyện có cô Hanh xăm lông mày vợ
trung úy Thịnh, đến cuối truyện lại thành ra cô Hải (Giống chó xoáy Phú
Quốc). Vợ của lão Mạc vì là “Giống đàn bà không đẻ, không thay máu sẽ teo
tóp dần. Cô Đào đỏm đắn, trơn lông đỏ da ngày nào giờ thành bà Mạc thẳng đuỗn
như cá rô đực”. Thế nhưng con bé Mai tòi ra từ cô Đào sau nửa năm uống lá
lẩu thì sao? (Mớ đời nhà lão Mạc). Rồi chuyện cô Oản hàng xóm của lão Phỗng thọt
chân, mà nhanh, nhảy tách đến ngay cạnh Phỗng thì cứ cho là được
đi. Nhưng “ngoắt người một cái đã nhảy tách qua hàng rào khúc tần về
bên nhà mình” thì họa chăng đó là người vận động viên nhảy cao, quyết không thể
là cú nhảy của người đàn bà thọt.
Những
vụn vặt như thế ít nhiều ảnh hưởng đến cảm tình của người đọc. Thiết nghĩ
với vốn sống và vốn trải nghiệm ngồn ngộn, phong phú như thế, nếu chăm chút hơn
về văn chương, Nguyễn Hiếu sẽ gặt hái được nhiều thành quả hơn nữa. Nhưng điều
này không đơn giản với Nguyễn Hiếu, vì cây bút đa năng này có vẻ như không đủ
thời gian.
Hà Nội, tháng 7 năm 2017
Vũ Nho
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét