Gần đây, có một số ý kiến cho rằng nền văn học Việt Nam
thời Trung đại, nhất là từ đầu thế kỷ 18 trở về trước, rất yếu kém, vì sáng tác
của các tác gia thời đó còn rất khiêm tốn (xem, chẳng hạn như, Tạp san Việt với
chủ đề “Văn học Việt Nam bước vào thế kỷ 21” [1]). Tuy nhiên, phần lớn những nhận
xét như thế thường mang tính định chất và có khi dựa vào quan điểm chủ quan của
tác giả. Thực vậy, cho đến nay, chưa có một phân tích định lượng một cách có hệ
thống nào để cho thấy nhận xét trên có cơ sở hay không. Một câu hỏi hiển nhiên
là tại sao mức độ sáng tác của những người làm văn nghệ thời trước lại kém.
Ngoài vài nguyên nhân khả dĩ liên quan đến đề tài sáng tác, một giả thuyết có
thể đặt ra ngay là số lượng người làm nghề sáng tác trong các thế kỷ trước chưa
nhiều.
Giả thuyết đó nảy sinh ra vài câu hỏi khác mang tính định lượng
mà tôi hằng thắc mắc là: có bao nhiêu tác gia Việt Nam trong thời kỳ lập quốc
cho tới nay, thân thế họ ra sao, có bao nhiêu người là nữ, họ đã sáng tác và để
lại được bao nhiêu tác phẩm lớn, v.v... Thật là khó mà trả lời một cách chính
xác cho những câu hỏi như thế, vì một phần nó nằm ngoài chuyên môn của tôi, và
một phần sử liệu về văn học của nước ta chưa được soạn thảo một cách có hệ thống.
Nhưng may thay, mới đây, soạn giả Lại Nguyên Ân cùng với Bùi Văn Trọng Cường đã
sưu tầm tiểu sử và sáng tác của một số tác gia tiêu biểu từ nguồn gốc đến thế kỷ 19, và hệ thống hoá trong cuốn sách Từ điển Văn học Việt Nam (TĐVHVN) [2]. Những
tác gia này được xem như là những người đã đặt nền móng cho nền văn học nước
nhà trước thế kỷ 20. Thực ra, TĐVHVN không những trình bày tiểu sử của các tác
gia, mà còn có nhiều thông tin liên hệ đến các tác phẩm cùng các hiện tượng
đáng chú ý của tiến trình văn học dân tộc. Sách còn có những mục từ giải thích
các thể loại thơ, văn, hát.
Vì thấy sách cung cấp những thông tin có thể dùng để trả lời những tò mò trên của tôi, nên tôi đã thử làm một vài phân tích thống kê về các dữ kiện trên [3]. Bài viết này chỉ nhằm tóm lại kết quả của phân tích đó nhằm cống hiến cho độc giả có một cái nhìn định lượng, nhưng tổng quan, về các tác gia và tác phẩm Việt Nam thời trước thế kỷ 20.
Vì thấy sách cung cấp những thông tin có thể dùng để trả lời những tò mò trên của tôi, nên tôi đã thử làm một vài phân tích thống kê về các dữ kiện trên [3]. Bài viết này chỉ nhằm tóm lại kết quả của phân tích đó nhằm cống hiến cho độc giả có một cái nhìn định lượng, nhưng tổng quan, về các tác gia và tác phẩm Việt Nam thời trước thế kỷ 20.
Số lượng
Theo TĐVHVN, tính từ đầu thế kỷ 1 đến cuối thế kỷ 19, Việt
Nam có 276 tác gia [4]. Số lượng tác gia tăng dần theo thời gian. Trong những
thế kỷ 2 đến 12, mỗi thế kỷ chỉ thấy có 1 đến 5 tác gia. Vào thế kỷ 13 đến thế
kỷ 17, có 111 tác gia (tức là 40% trong tổng số tác gia). Sau thời kỳ này, số
lượng tác gia tăng lên đến 71 người vào thế kỉ 18 và 78 người vào thế kỷ 19;
như vậy, chỉ trong hai thế kỷ này số lượng tác gia chiếm gần 54% tổng số kể từ
ngày khởi lập.
Tính theo niên đại, người mở đầu cho nền văn học Việt Nam là quan Thái thú người Trung Hoa, Sĩ Nhiếp, sinh năm 137 và mất năm 226. Sĩ Nhiếp có công truyền bá việc học chữ Hán và do đó Nho học vào nước ta vào thời Bắc thuộc. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu sử học có khi không đồng ý về ý nghĩa việc làm của ông. Có người cho là ông việc làm của ông là nhằm vào việc duy trì nền đô hộ của đế chế Hán, nên không được xét đến trong tiến trình lịch sử và văn hóa Việt Nam. Nhưng cũng có người suy tôn ông là “Nam bang học tổ”, tức là “Ông tổ việc học ở nước Nam”. Gần đây, tài liệu nghiên cứu của một số nhà nghiên cứu văn học ở Việt Nam cho thấy Sĩ Nhiếp là một ông quan cai trị tốt (“hương lại”), và việc làm của ông nên được ghi nhận như là một nghĩa cử cho nền văn học nước nhà.
Tính theo niên đại, người mở đầu cho nền văn học Việt Nam là quan Thái thú người Trung Hoa, Sĩ Nhiếp, sinh năm 137 và mất năm 226. Sĩ Nhiếp có công truyền bá việc học chữ Hán và do đó Nho học vào nước ta vào thời Bắc thuộc. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu sử học có khi không đồng ý về ý nghĩa việc làm của ông. Có người cho là ông việc làm của ông là nhằm vào việc duy trì nền đô hộ của đế chế Hán, nên không được xét đến trong tiến trình lịch sử và văn hóa Việt Nam. Nhưng cũng có người suy tôn ông là “Nam bang học tổ”, tức là “Ông tổ việc học ở nước Nam”. Gần đây, tài liệu nghiên cứu của một số nhà nghiên cứu văn học ở Việt Nam cho thấy Sĩ Nhiếp là một ông quan cai trị tốt (“hương lại”), và việc làm của ông nên được ghi nhận như là một nghĩa cử cho nền văn học nước nhà.
Suốt từ thế kỷ 3 đến thế kỷ 6, sách không liệt kê một tác gia
nào. Thế kỷ 7 có một tác gia, nguyên là một nhà sư, hiệu là Đại Thừa Đăng,
không rõ tên thật cùng năm sinh, nhưng chỉ biết ông mất nào năm 601. Ông là một
nhà sư đi chu du nhiều nơi, qua các nước Trung Hoa, Sư Tử (Sri Lanka ngày nay),
Ấn Độ, v.v… và qua đó quen biết nhiều bạn bè trong Phật giáo. Một trong những
người bạn thân của ông là Đạo Hy, một nhà sư Trung Hoa. Khi Đạo Hy qua đời, Đại
Thừa Đăng có viết một bài thơ chữ Hán để khóc bạn có tựa đề là Điếu Đạo Hy.
Theo giới nghiên cứu văn học Việt Nam, đây có thể là sáng tác văn học sớm nhất
của người Việt mà hiện nay còn được biết.
Thế kỷ 8 và 9 có một tác gia tên là Khương Công Phụ, người gốc
Thanh Hóa, không rõ năm sinh và năm qua đời, chỉ biết ông sống vào thời kỳ đất
nước ta chịu sự cai trị của Nhà Đường (tức thế kỷ 8 và 9). Ông theo nho học,
sang Trường An (kinh đô Nhà Đường) ứng thi và đỗ đầu khoa Hiền Lương Phương
Chính năm Canh Thân (780) đời Đường Đức Tông. Sau này ông làm quan cho Tàu đến
chức Gián nghị Đại phu, Đồng trung Thư môn Hạ bình chương. Về sau, ông bị truất
phế làm Biệt giá ở Tuyên Châu, đến đời Thuận Tông lại được bổ làm Thứ sử ở Cát
Châu, rồi mang bệnh và chết tại Tuân Hoá, Khâm Châu; tại đây còn có đền thờ.
Tác phẩm duy nhất của Khương Công Phụ là Bạch vân chiếu xuân hải phú (bài phú
Mây trắng chiếu biển xuân) chữ Hán. Tác phẩm này được Lê Quý Đôn nhận xét là “lời
văn đẹp đẽ”. Đây là một trong số rất ít những tác phẩm thành văn vào loại xưa
nhất của tác gia người Việt hiện còn giữ được.
Từ thế kỷ 10 đến thế kỷ 12, số lượng tác gia vẫn chưa nhiều:
chỉ 13 người. Trong số này có Ngô Chân Lưu (tức Khuông Việt, 933 – 1011), Nguyễn
Vạn Hạnh (? – 1018), vua Lý Thái Tổ (974 – 1028), Mai Trực (tức Viên Chiếu, 999
– 1091), Lý Thường Kiệt (1019 – 1105, Lý Trường (Mãn Giác, 1052 – 1096), Từ Lộ
(Đạo Hạnh, ? – 1117), Lê Thị Ỷ Lan (? – 1117), Pháp Bảo (thế kỷ 12), Dương
Không Lộ (? – 1119), Nguyễn Công Bật (sống vào thế kỷ 11 hay 12), vua Lý Nhân
Tông (1066 – 1128), và Nguyễn Nguyên Ức (tức Viên Thông, 1080 – 1151).
Sau thời kỳ này, số lượng tác gia Việt Nam vượt lên con số 16
(thế kỷ 13), 21 người (thế kỷ 14), 36 người (thế kỷ 15), 19 người (thế kỷ 16),
19 người (thế kỷ 17). Trong thế kỷ 18, con số các tác gia tăng lên 71 người và
đạt mức cao nhất vào thế kỷ 19 với 78 tác gia.
Giới tính
Giới tính
Trong số 276 tác gia, chỉ có 11 người là nữ. Những vị này là:
Lê Thị Ỷ Lan, Ngô Chi Lan (? – 1401), Đoàn Thị Điểm (1705 – 1748), Lê Ngọc Hân
(1770 – 1799), Hồ Xuân Hương (Thế kỷ 18-19), Nguyễn Thị Hinh (tức Bà Huyện
Thanh Quan, (Thế kỷ 19), Công chúa Nguyễn Tĩnh Hoà (1829 – 1882), Công chúa
Nguyễn Vĩnh Trinh (1824 – 1892), Công chúa Nguyễn Trinh Thận (1826 – 1904),
Nguyễn Nhược Thị Bích (1830 – 1909), và một nhà sư hiệu là Pháp Tính (? –
1701).
Trong danh sách nhỏ này, ngoài Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương,
Nguyễn Thị Hinh, và Lê Ngọc Hân ra, các tác giả khác còn ít được biết đến trong
công chúng. Ngô Chi Lan là một nhà thơ, nguyên quán ở làng Phù Lỗ, huyện Kim
Hoa (nay là Kim Anh), tỉnh Phúc Yên. Có sách chép rằng bà là con nuôi của Nguyễn
Thị Lộ (vợ lẽ của Nguyễn Trãi). Bà sống vào thời Lê Thánh Tông (1460 – 1497),
thuở nhỏ thông minh, đọc nhiều, và khi trưởng thành có tiếng là người làm thơ
hay. Bà thường được vua Lê Thánh Tông vời vào cung hầu thơ, và còn được phong
chức Phù gia Học sĩ, tức chuyên lo chuyện lễ nghi, văn chương cho các cung nữ
trong triều đình. Tác phẩm của Ngô Chi Lan còn sót lại cho đến thế kỉ 15 (nhưng
nay đã thất lạc) là tập thơ chữ Hán Mai trang tập, gồm 7 bài thơ vịnh cảnh, vịnh
sử. Bà được coi là một nhà thơ nữ đầu tiên có những đóng góp đáng kể cho nền
văn học nước nhà thời xưa.
Lê Thị Ỷ Lan (không rõ tên thật) nguyên quán làng Thổ Lỗi, lộ
Bắc Giang (nay là ngoại thành Hà Nội), nguyên phi của Lý Thánh Tông, và mẹ của
Lý Nhân Tông. Theo truyền thuyết, khi vua Lý Thánh Tông kinh du qua làng Thổ Lỗi,
các cô thôn nữ đang hái dâu tràn ra đường xem xe vua, nhưng chỉ riêng có một cô
gái đứng bên gốc lan mà hát, không màn đến việc diện kiến nhà vua. Vua Lý Thái
Tông cho là người có bản lĩnh, nên đưa về cung lập làm phu nhân, đặt tên Ỷ Lan
(có nghĩa là “dựa gốc lan”). Một số sách vở và tài liệu cho thấy bà có tham gia
vào việc triều chính, khuyên vua ban hành chính sách cấm giết trâu bò bừa bãi.
Khi vua đi đánh giặc, bà là người đứng ra lo việc nội chính rất vững vàng. Bà
là người sùng đạo Phật. Tác phẩm của bà để lại là một bài kệ ngắn luận bàn về
hai phạm trù “sắc” và “không” trong đạo Phật.
Công chúa Nguyễn Tĩnh Hoà là con gái thứ 34 của vua Minh Mệnh,
em ruột Tùng thiện vương Miên Thẩm và công chúa Mai Am Nguyễn Trinh Thận. Bà có
năng khiếu thơ văn trong giới cung đình, và còn rành cả nhã nhạc. Bà còn để lại
một tập thơ Huệ Phố thi tập, gồm 260 bài thơ tức cảnh, đề vịnh, cảm hoài. Thơ của
bà được anh trai (Tùng thiện vương) khen là “lời gọn gàng, ý lưu loát, văn trôi
chảy, điệu mạnh mẽ.”
Chị của Nguyễn Tĩnh Hoà là Nguyễn Trinh Thận, con gái thứ 25
của vua Minh Mệnh. Bà học giỏi, đọc nhiều, và có tiếng là làm thơ vừa thanh, vừa
khỏe, tự nhiên mà trau chuốt. Tác phẩm bà còn để lại là Diệu liên tập, in hai lần
vào năm 1867 và 1883. Tập thơ này gồm 227 bài thơ viết bằng chữ Hán, cũng chủ yếu
và vịnh cảnh vật, sử, cảm tác, xướng hoạ, khóc anh chị em trong triều đình …
Nguyễn Nhược Thị Bích (còn có tên là Nguyễn Thị Bích), nguyên
quán ở Ninh Thuận (tức Bình Thuận ngày nay), từng được vời vào cung và được
phong chức Thượng nghi viện sự, “tài nhân”, “mỹ nhân”, “quý nhân”, “tiệp dư” dưới
thời của vua Tự Đức. Bà là người dạy học cho Kiến Phúc và Đồng Khánh (khi hai
người này chưa lên ngôi vua). Bà còn tham gia biên soạn sắc dụ cho bà Từ Dũ (tức
mẹ của vua Tự Đức) và bà Trang Ý (vợ vua Tự Đức). Sáng tác đáng kể và còn lưu lại
đời sau của Nguyễn Nhược Thị Bích là Hành thục ca, gồm 1018 câu lục bát, chữ
Nôm, nội dung kể lại các sự kiện ở triều đình Huế từ khi người Pháp vào Việt
Nam.
Bà Hương Chân (sống vào thế kỷ 17), phật danh là Pháp Tính,
có thể là người soạn cuốn Chỉ Nam ngọc âm giải nghĩa, tức là Từ điển Hán Nôm đầu
tiên ở nước ta. Thực ra, có bằng chứng cho thấy quyển này đã có từ đời Sĩ Nhiếp,
nhưng mãi đến thế kỷ 17 mới được Pháp Tính chọn từ và sắp xếp lại cho có hệ thống
như một cuốn từ điển.
Trong số 188 tác gia có thể xác định được năm sinh và năm qua
đời, tuổi thọ trung bình của 188 tác gia này là 62 tuổi. Khoảng 25% (trong số
188) tác gia có tuổi thọ dưới 50 tuổi, và 25% tác gia thọ trên 72 tuổi. Người
có tuổi thọ ngắn nhất là Ngô Thì Ức, sinh năm 1709 và mất năm 1736, tức chỉ thọ
27 tuổi. Người có tuổi thọ cao nhất là Huỳnh Quỳ, sinh năm 1828 và mất năm
1926, tức thọ 98 tuổi. Huỳnh Quỳ, còn có danh hiệu là Tú Quỳ, là một nhà thơ sống
vào đời vua Minh Mệnh, quê quán ở Quảng Nam, nhưng tổ tiên di cư từ Hà Tĩnh.
Ông là tác gia của khoảng 300 đơn vị tác phẩm, gồm những bài văn tế và phú, và
thơ vịnh thuộc loại trào lộng.
Điều tương đối thú vị là những tác gia nguyên quán ở Nghệ An, Huế, và Nam Định có tuổi thọ trung bình thấp hơn (khoảng 56-59 tuổi) những đồng nghiệp của họ thuộc các vùng khác của đất nước như Hà Nội (63 tuổi), Bắc Ninh (64), Hưng Yên (63), và Thanh Hóa (64).
Điều tương đối thú vị là những tác gia nguyên quán ở Nghệ An, Huế, và Nam Định có tuổi thọ trung bình thấp hơn (khoảng 56-59 tuổi) những đồng nghiệp của họ thuộc các vùng khác của đất nước như Hà Nội (63 tuổi), Bắc Ninh (64), Hưng Yên (63), và Thanh Hóa (64).
Quê quán và quốc tịch
Phần lớn các tác gia có nguyên quán ngoài Bắc (166 người). Miền
Trung có 75 tác gia, và miền Nam có 13 tác gia. Số còn lại không xác định được
nguyên quán. Tuy đến từ nhiều vùng khác nhau trong nước, nhưng nguyên quán của
phần đông các tác gia tập trung ở một số tỉnh như sau: ở miền Bắc có Hà Nội (34
người), Hải Dương (26), Bắc Ninh (25 người), Hà Tây (25), Nam Định (21), và
Hưng Yên (13); ở miền Trung: Thanh Hóa (21), Nghệ An (17), Hà Tĩnh (13), và Huế
(13); ở miền Nam: Gia Định (6).
Thực ra, nói là 276 “tác gia Việt Nam” cũng không hẳn chính
xác, vì trong số này có 3 tác gia có quốc tịch nước ngoài: Girolarmo Majorica
(1591 – 1656), Alexandre de Rhodes (1591 – 1660), và Sĩ Nhiếp (137 – 226).
Dòng họ
Trong số các tác gia, có tất cả 51 họ. Trong số này, họ Nguyễn
chiếm đa số, với 80 (tức 29%) tác gia. Tiếp theo là các thường gặp phải là: Trần
(19 tác gia, hay 7%), Lê (18 tác gia, hay 6.5%), Ngô (16 tác gia, hay 6%), Phạm
(14 tác gia, hay 5.1%), Vũ (12 tác gia, hay 4.3%), Phan (10 tác gia, hay 3.6%),
và Đặng (3.6%).
Một số tác gia xuất phát từ một dòng họ như họ Phan Huy có đến
4 người trong từ điển. Đứng đầu họ này là Phan Huy Ích (1751- 1822), con cả của
Tiến sĩ Phan Huy Cận (1751 – 1822). Những người trong dòng họ Phan Huy khác là:
Phan Huy Thực (1778 – 1844) và Phan Huy Chú (1782 – 1840), là hai con của Phan
Huy Ích; và Phan Huy Vịnh (1800 – 1870), con của Phan Huy Thực.
Ngoài giòng họ Phan Huy, một họ khác có nhiều người nổi tiếng
hơn là họ Ngô Thì. Người đứng đầu trong danh sách họ này là Ngô Thì Ức (1709 –
1736). Người thứ hai là Ngô Thì Sĩ (1726 – 1780), con của Ngô Thì Ức. Ngô Thì
Sĩ cũng là bố vợ của Phan Huy Ích. Người thứ ba và có lẽ là người nổi tiếng nhất
trong họ này là Ngô Thì Nhậm (1746 – 1803), con của Ngô Thì Sĩ. Em của Ngô Thì
Nhậm là Ngô Thì Chí (1753 – 1788) và Ngô Thì Trí (1766 – ?) cũng là những danh
sĩ nổi tiếng có tên trong Từ Điển. Ngoài ra, còn có Ngô Thì Hương (1774 – 1821)
là con thứ của Ngô Thì Sĩ; Ngô Thì Du (1772 – 1840), cháu gọi Ngô Thì Sĩ bằng
bác; và Ngô Thì Hiệu (1791 – 1830), không rõ quan hệ với các Ngô Thì Sĩ ra sao.
Trong các vị vua Việt Nam, có lẽ vua Minh Mệnh là người có
nhiều con nhất, và họ cũng có mặt khá đông trong hàng ngũ tác gia. Trong nhóm
con trai có Nguyễn Miên Thẩm (1819 – 1870, con thứ 10), Nguyễn Miên Trinh (1820
– 1897, con thứ 11), Nguyễn Miên Bửu (1820 – 1854, con thứ 12); và trong nhóm nữ,
có Nguyễn Trinh Thận (con gái thứ 25) và em là Công chúa Nguyễn Tĩnh Hoà (con
gái thứ 34) là những nhà thơ được chú ý.
Tất nhiên, sách không thể thiếu hai cha con Nguyễn Phi Khanh
và Nguyễn Trãi, và hai cha con Nguyễn Hữu Hào và Nguyễn Hữu Dật, cũng là những
tác gia nổi tiếng trong nền văn học cổ Việt Nam. Ngoài ra, trong gia phả của
Nguyễn Du, ngoài ông ra, còn có Nguyễn Nghiễm (thân phụ, 1708 – 1775) và Nguyễn
Hành (cháu gọi Nguyễn Du bằng chú, 1771 – 1824).
Nghề nghiệp
Trong tổng số tác gia, có 271 người có thể xác định nghề nghiệp.
Và trong số 271 tác gia này, có đến 69% (hay 187) là quan chức. Phần còn lại
là: nhà sư (7% người); nhà thơ ( trên dưới 7% người); vua, chúa (5%), và một số
ngành nghề khác như nhà văn, nhà khảo cứu, tướng lãnh, thầy giáo, v.v...
Trong số các tác gia mà nghề nghiệp chính là tu sĩ gồm có Đại
Thừa Đăng (? – 601), Ngô Chân Lưu (933 – 1011), Nguyễn Vạn Hạnh (? – 1018), Mai
Trực (999 – 1091), Lý Trường, tức Mãn Giác (1052 – 1096), Pháp Bảo (? – 1111),
Nguyễn Nguyên Ức (1080 – 1151), Dương Không Lộ (? – 1119), Trần Tung, tức Tuệ
Trung Thượng sĩ (1230 – 1291), Đồng Kiên Cương (1284 – 1330), Thường Chiếu (? –
1203), Lý Đạo Tài (1254 – 1320), Pháp Tính (? – 1701), và Hương Hải Thiền sư
(1769 – 1832).
Một số khác là linh mục như Philip Bỉnh (1759 – 1832),
Alexandre de Rhodes, và Lữ Y Đoan (? – 1678). Trong nhóm sau này, ngoài tác gia
nổi tiếng là Alexandre de Rhodes, hai tác gia Philip Bỉnh và Lữ Y Đoan rất ít
được nhắc đến, tuy công của họ không phải là nhỏ. Linh mục Philip Bỉnh (không
rõ họ), nguyên quán Hải Dương, theo dòng Tên, và khi dòng này bị Toà thánh La
Mã bỏ rơi, ông đã bỏ sang sống ở Bồ Đào Nha và sau này chết ở đó. Về văn học,
có thể nói Philip Bỉnh là tác gia đầu tiên để lại tác phẩm bằng chữ Quốc Ngữ.
Ông là người viết cuốn Sách sổ sang chép các việc, Chuyện Anam Đàng Ngoài, và
Chuyện Anam Đàng Trong. Lữ Y Đoan (không rõ họ), còn có tên là Louis Đoan, người
quê Quảng Ngãi, thụ phong linh mục năm 1676, lúc đã ngoài 60 tuổi. Ông là tác
giả của Sấm truyền ca (1670), một tập thơ lục bát viết bằng chữ Nôm, nhưng là một
phóng tác 5 quyển đầu của Kinh Thánh.
Trong số 13 tác gia có gốc vua, chúa, có đến 6 người thuộc
nhà Trần: Trần Thái Tông (1218 – 1277), Trần Thánh Tông (1240 – 1290), Trần
Nhân Tông (1258 – 1308), Trần Anh Tông (1276 – 1320), Trần Minh Tông (1300 –
1357), và Trần Nghệ Tông (1321 – 1395). Đời Nhà Lý có hai vị vua là tác gia: Lý
Thái Tổ (974 – 1028) và Lý Nhân Tông (1066 – 1128). Phần còn lại là các vị thuộc
nhà Lê, nhà Nguyễn, và Chúa Trịnh: Lê Thánh Tông (1442 – 1497), Nguyễn Hồng Nhậm
hay Tự Đức (1829 – 1883), Trịnh Doanh (1720 – 1767), và Trịnh Sâm (1737 –
1782).
Trong số các tướng lãnh kiêm tác gia gồm có: Lý Thường Kiệt
(1019-1105), Trần Quốc Tuấn (1232 – 1300), Trần Quang Khải (1241 – 1291), Phạm
Ngũ Lão (1256 – 1320), Nguyễn Hữu Dật (1604 – 1681), và Nguyễn Hữu Hào (1647 –
1718). Trong danh sách này, có lẽ hai người sau được ít người biết đến. Nguyễn
Hữu Hào là con của Nguyễn Hữu Dật, người làng Gia Miêu, huyện Tăng Sơn, tỉnh
Thanh Hoá. Cả hai cha con đều là võ tướng Đàng Trong của chúa Nguyễn, và từng
đánh thắng quân Trịnh nhiều lần. Về sáng tác, Nguyễn Hữu Hào viết nhiều hơn
cha. Tác phẩm của Nguyễn Hữu Hào còn lưu lại [và chỉ tình cờ được phát hiện đầu
thế kỷ 20] là truyện thơ nôm Song tinh truyện. Thực ra, đây chỉ là một bản diễn
Nôm của truyện Định tình nhân của một tác giả người Trung Hoa. Điểm đáng chú ý
của Song tin truyện là những diễn tả hồn nhiên về mối quan hệt thầm kín trong đời
sống vợ chồng, một điều được xem là cấm kỵ thời đó. Nó cũng là một chứng tích về
sự phát triển của văn học ở Đàng Trong.
Trong số các tác gia được xếp vào nhóm “Nhà thơ” và “Nhà
văn”, phần lớn là các nhà thơ (19 người), và chỉ có 4 người có thể cho là nhà
văn. Trong nhóm nhà thơ “chuyên nghiệp” gồm có (xếp theo niên đại): Lê Cảnh
Tuân (? – 1416), Lê Đức Mao (1462 – 1529), Ngô Chi Lan (thế kỷ 15), Ngô Thì Ức
(1709 – 1736), Ngô Thế Lân (1726 – ?), Hồ Xuân Hương (? – 1801), Nguyễn Hành
(1771 – 1824), Phạm Thái (1777 – 1813), Nguyễn Huy Hổ (1783 – 1841), Nguyễn
Miên Thẩm (1819 – 1870), Nguyễn Miên Bửu (1820 – 1854), Nguyễn Miên Trinh (1820
– 1897), Huỳnh Quỳ (1828 – 1926), Nguyễn Văn Lạc (1842 – 1915), Trần Cao Vân
(1866 – 1916), Trần Tế Xương (1870 – 1907), Nguyễn Hàng (thế kỷ 16), Bà Huyện
Thanh Quan (tức Nguyễn Thị Hinh), và Vũ Quốc Trân (thế kỷ 19). Những người được
liệt kê là nhà văn gồm có: Trần Thế Pháp (thế kỷ 14), Linh mục Lữ Y Đoan (? –
1678), Trương Vĩnh Ký (1837 – 1898), và Nguyễn Văn Cẩm (tức Kỳ Đồng, 1875 –
1926). Cần phải nói thêm rằng, như thấy trong danh sách này, do không xác định
được chính xác năm sinh và nghề nghiệp chính, nên có thể một số người không sống
bằng nghề chính là văn chương, mà có thể là quan chức hay hưởng bổng lộc triều
đình (nếu là người thuộc hoàng tộc). Có thể nói trong danh sách này, không một
ai sống bằng nghề chữ nghĩa cả.
Tác phẩm
Trong suốt từ năm 1101 đến cuối thế kỷ 19, các tác gia Việt
Nam đã sáng tác hay biên soạn được 132 tác phẩm [5]. Tuy nhiên, chỉ riêng thế kỷ 19, có đến 68 tác phẩm (tức 51%); trước đó, số lượng rất khiêm tốn, như thế kỷ 18 có 22 tác phẩm, thế kỷ 16 và 17 có 14 tác phẩm, và phần còn lại (28 tác phẩm)
trong suốt từ thế kỷ 12 đến thế kỷ 15.
Trong số 132 tác phẩm này, có 63 (hay 48%) được viết bằng chữ
Hán, phần còn lại là chữ Nôm (62 tác phẩm, hay khoảng 47%) và Quốc ngữ (7 tác
phẩm, hay 5.3%). Phần lớn tác phẩm viết bằng chữ Nôm chỉ xuất hiện khá nhiều kể
từ thế kỷ 16 trở đi. Chẳng hạn như trong thời gian hai thế kỷ 16 và 17, có 14
tác phẩm (tức 64%), nhưng 9 được viết bằng chữ Nôm; tỷ lệ này giảm xuống còn
41% trong thế kỷ 18, nhưng tăng lên 63% trong thế kỷ 19.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng văn học chữ Nôm đã xuất hiện từ
thế kỷ 13 hoặc sớm hơn nữa. Nguyễn Thuyên, Nguyễn Sĩ Cố, Chu Văn An … là những
tác gia dùng chữ Nôm đầu tiên, nhưng sáng tác tác của họ không còn lại bao
nhiêu. Tác phẩm chữ Nôm xưa nhất của Việt Nam còn tồn tại cho đến ngày nay là
Quốc Âm Thi Tập (1442, đời Lê) của Nguyễn Trãi. Tác phẩm này gồm có 254 bài
thơ, trong đó có những câu thơ 6 chữ xen lẫn 7 chữ khá phổ biến. Cũng trong thế
kỷ 15, Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập là một thi phẩm khác còn tồn tại cho đến ngày
nay. Thi phẩm này do vua Lê Thánh Tông và một số quan văn biên soạn. Sách gồm
có 283 bài thơ, phần lớn được viết theo thể 7 và 8 chữ (thất ngôn bát cú), vịnh
cảnh Tàu và Việt Nam, và ca ngợi triều đình.
Về các sáng tác bằng chữ Quốc Ngữ, trong thế kỷ 17, chỉ có một
tác phẩm duy nhất, Phép giảng tám ngày (1651). Trong khi thế kỷ 18 vắng bóng
tác phẩm Quốc Ngữ, thế kỷ 19 là giai đoạn “cực thịnh”, với 6 tác phẩm được viết
bằng chữ Quốc Ngữ: Sách sổ sang chép các việc (1822), Chuyện nước An Nam Đàng
Ngoài chí Đàng Trong (1822), Chuyến đi Bắc kỳ năm Ất Hợi 1876 (1881), Thầy
Larazo Phiền (1887), và Đại Nam quốc âm tự vị (1895-1896). Trong phần này còn
phải kể đến tờ báo Gia Định báo (1865 – 1909) và tạp chí Thông loại khóa trình
(1888-1889), có ảnh hưởng lớn đến văn chương chữ Quốc ngữ trong thế kỷ 19, nhất
là nhất là tờ Gia Định báo. Cả hai ấn phẩm đều do Trương Vĩnh Ký (1837 – 1898)
khởi xướng và làm chủ bút, riêng Gia Định báo có thời do Huỳnh Tịnh Của làm chủ
bút.
Một vài nhận xét
Đi tìm nguồn gốc tác phẩm và tiểu sử tác gia là một việc làm
khó khăn, đòi hỏi người biên soạn phải am tường lịch sử và có sự hiểu biết sâu
sắc về văn học. Để soạn cuốn TĐVHVN, soạn giả đã tham khảo các nguồn tài liệu
chính như sách Đại Việt thông sử, Nghệ văn chí, Kiến văn tiểu lục của Lê Quý
Đôn; Văn tịch chú, Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú; Việt Nam
văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm; các tác phẩm nghiên cứu của Trần Văn Giáp,
Đỗ Đức Hiểu, Trần Nghĩa; và các tạp chí nghiên cứu văn học, văn hoá, Hán nôm… ở
trong nước từ năm 1960 đến 1997. Qua cách viết và trình bày trong Từ điển, tôi
cảm thấy soạn giả là những người cẩn thận và có một sự dè dặt cố hữu của người
làm khoa học.
Phải nói ngay rằng cuốn Từ điển Văn học này không phải là một
công trình hệ thống tất cả các tác gia và tác phẩm trước thế kỷ 20; nó chỉ là một
tác phẩm mang tính giáo khoa (được ấn hành bởi Nhà xuất bản Giáo dục), mà đối
tượng chủ yếu là sinh viên và học sinh. Vì thế, những tác gia và tác phẩm của họ
được trình bày trong Từ điển này là kết quả của một sự lựa chọn có hệ thống, tức
là soạn giả chỉ chọn những tác gia quen thuộc nhất mà thôi. Thực vậy, qua trao
đổi cá nhân, nhà phê bình văn học Nguyễn Hưng
Quốc có cho tôi biết nếu căn cứ vào cuốn Văn học Việt Nam thế kỷ 10 đến giữa thế
kỷ 18 của tác giả Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, và Mai Cao Chương (Nhà xuất bản
Đại học và Trung học Chuyên nghiệp, Hà Nội, 1978), chỉ riêng đời Nhà Lý (thế kỷ 11) đã có hơn 40 nhà sư làm thơ; đời Nhà Trần và Hồ (thế kỷ 13-14), có hơn 60
tác giả … Ngoài ra, theo cuốn Lược truyện các tác gia Việt Nam, Tập I, do Trần
Văn Giáp chủ biên (Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1971), tổng cộng từ thế
kỷ 11 đến cuối thế kỷ 19, có đến 735 tác gia sáng tác bằng chữ Hán và Nôm.
Tuy nhiên, dù các thông tin và dữ kiện trong TĐVHVN chưa đầy
đủ, và có thể là chưa hoàn hảo, nhưng chúng cũng có thể cung cấp một bức tranh
tổng quát về số lượng tác gia và tác phẩm thời trước thế kỷ 20 ở Việt Nam, nhất
là những con số tương đối.
Nhưng dù không đầy đủ, một điều mà ai cũng có thể ghi nhận là
số lượng tác gia Việt Nam, dù là 1000 người đi nữa, trong suốt 2000 năm lập quốc
là một con số rất khiêm tốn. Thực ra, số lượng tác gia chỉ đông đảo kể từ thế kỷ 16 trở đi, chiếm khoảng 60% trong tổng số. Trong số này, phần đông là quan chức,
vua chúa, tướng lãnh, và nhà sư . Ngay cả một số ít tuy mang danh hiệu là “Nhà
thơ”, nhưng trong thực tế chưa chắc là những người sống bằng nghề làm thơ, mà
có thể là những quan chức hay ẩn sĩ. Chẳng hạn như ba anh em Nguyễn Miên Thẩm,
Nguyễn Miên Trinh, và Nguyễn Miên Bửu, tuy danh hiệu là Nhà thơ, nhưng họ sống
vì bổng lộc của triều đình, không phải bằng chữ nghĩa. Ngay cả Trương Vĩnh Ký,
có lẽ là một người tận tụy nhất với chữ nghĩa thời thế kỷ 19, nhưng trước khi dấn
thân vào viết sách báo, ông cũng từng làm thông ngôn, dạy học, và làm quan để sống.
Một lực lượng làm nghề văn chương bán chuyên nghiệp như thế
có thể giải thích con số khiêm tốn về số lượng tác phẩm (132) của Việt Nam
trong thời trước thế kỷ 20. Tính trung bình, mỗi thế kỷ cả nước chỉ có khoảng 7
tác phẩm. Và nếu tính theo số lượng cho mỗi tác gia, có thể nói năng suất còn
quá thấp! “Năng suất” sáng tác cũng rất thấp. Suốt từ thế kỷ 12 đến 18, cứ 10 tác
gia, Việt Nam có khoảng 3 tác phẩm. Tuy nhiên, đến thế kỷ 19, Việt Nam 78 tác
gia và sáng tác được 68 tác phẩm đủ loại; tức là, năng suất có phần tiến bộ hơn
các thế kỷ trước đó.
Nhìn qua nội dung các tác phẩm văn chương trong các thế kỉ
trước, có thể nói là phần lớn những sáng tác chỉ nhắm vào ca ngợi thiên nhiên,
quê hương, tình yêu, đạo đức làm người, tạp ghi, trào phúng, v.v... chứ chưa có
những tác phẩm nào mang tính khai phá, hay đề xuất một tư tưởng mới. Về thể loại,
phần lớn những sáng tác là thơ, rất ít sáng tác văn xuôi. Và phần lớn những
sáng tác này cũng rất ngắn. Chưa có một tác phẩm nào của Việt Nam thời trước thế
kỷ 20 với hàng chục ngàn câu thơ, mà phần đông chỉ là những bài thơ trung bình
độ năm chục chữ. Tiểu thuyết trong thế kỷ 19 cũng chỉ gói gọn trong khoảng hai
hay ba trăm trang.
Ngoài ra, mức độ lưu truyền các tác phẩm thời trước thế kỷ 20
chắc chắn là rất hạn chế, bởi vì số người biết đọc chữ Hán hay Nôm lúc đó chắc
không nhiều. Chưa ai làm thống kê để biết có bao người biết đọc và viết chữ Hán
hay Nôm thời đó, nhưng dựa vào khuynh hướng số người biết đọc và viết trong những
năm đầu thế kỷ 20, có thể nói con số người thạo chữ Hán hay Nôm trước thế kỷ 20
chỉ khoảng 5% [6]. Vì thế, có thể nói rằng phần lớn những tác phẩm thời trước
chỉ lưu truyền trong giới biết chữ. Những số liệu này cũng xác nhận những nhận
xét của Nguyễn Hưng Quốc [7] rằng thời trước thế kỷ 20, văn học Việt Nam chủ yếu
là một nền văn học tài tử.
Đại đa số các tác gia là nam giới, và điều này chắc cũng
không có gì đáng ngạc nhiên vì, vào các thế kỷ trước, nam giới được xã hội ưu
tiên và do đó có cơ hội phát triển tài năng. Tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh rằng
ngay từ thế kỷ 12 và 13, nữ giới đã có mặt trên văn đàn Việt Nam qua sự đóng
góp của Lê Thị Ỷ Lan và Ngô Chi Lan. Tất nhiên, trong các thế kỷ sau này, không
thể nào không kể đến những Lê Ngọc Hân, Hồ Xuân Hương, và Bà Huyện Thanh Quan.
Những số liệu tác gia trong bài này còn cho thấy một số định
kiến người ta thường hay nghĩ có thể không chính xác. Chẳng hạn như Hà Nội thường
được xem là thủ đô của ngàn năm văn vật, nhưng nếu tính theo số lượng các tác
gia thì sự xưng tụng này không hẳn đúng. Thật vậy, chí tính trong số 276 tác
gia trong Từ điển, chỉ có 12% là nguyên quán ở Hà Nội, thấp hơn con số của vùng
Thanh-Nghệ Tĩnh (Thanh Hóa - Nghệ An - Hà Tĩnh) cộng lại. Nam Định cũng từng nổi
tiếng là một vùng đất của văn học, nhưng trong thực tế, số lượng tác gia từ Nam
Định còn thấp hơn các vùng đất khác như Hải Dương, Bắc Ninh, và Hà Tây.
Tuổi thọ trung bình của dân số Tây Âu vào các thế kỷ 12 đến
17 thường dưới 50 tuổi, thậm chí dưới 40 tuổi [8]. Tuy nhiên phần đông các tác
gia Việt Nam thời trước thế kỷ 20 có tuổi thọ khá cao (trung bình 62 tuổi).
Ngay từ thế kỷ 10 và 11, tuổi thọ trung bình của các tác gia là 72 tuổi! Điều
này cho thấy các tác gia Việt Nam thời trước thuộc thành phần trung lưu và có
thể hưởng nhiều đặc ân trong xã hội thời đó.
Tóm lại, trong suốt 2000 năm hiện diện cùng thế giới, Việt
Nam có một lực lượng tác gia rất khiêm tốn. Trong số này, phần lớn là quan chức
nam giới, thuộc giai cấp trung lưu, và quan trọng hơn, nghề nghiệp chính của họ
không phải là hoạt động văn học. Những yếu tố này có lẽ là một lời giải thích về
số lượng sáng tác rất nhỏ và phẩm chất cũng không mấy cao trong các thế kỷ trước.
Cho nên, có thể nói rằng nền văn học Việt Nam trước thế kỷ 20 là một nền văn học
vừa nghèo nàn, vừa mang tính nghiệp dư.
Chú thích và tài liệu tham khảo:
1. Tạp san Việt, số 6, năm 2000.
2. Từ điển Văn học Việt Nam, do Lại Nguyên Ân biên soạn, có sự
cộng tác của Bùi Văn Trọng Cường. Hà Nội: Nhà Xuất bản Giáo dục, 1999. Sách gồm
800 trang, khổ 14.5 x 20.5 cm.
3. Cũng như hầu hết các phân tích định lượng, trước hết tất cả
các tác gia và các thông tin liên quan đến giới tính, quê quán, năm sinh và năm
qua đời được đưa vào máy vi tính. Việc làm này (data entry) được kiểm tra một
cách cẩn thận.
4. “Tác gia” ở đây là cụm từ dùng để chỉ những người viết
văn, thơ, hay tác phẩm nghệ thuật.
5. “Tác phẩm” ở đây chỉ kể những công trình sáng tác được in ấn
thành tập. Do đó, số lượng tác phẩm dùng để phân tích trong bài viết này không
kể đến những bài thơ rải rác, dù còn lưu lại và biết đến sau này. Chẳng hạn như
bài thơ Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt, hay những bài thơ tương tự của nhiều
tác gia khác không kể đến như là những đơn vị tính toán trong bài phân tích
này. Những tác tác phẩm của sáng tác dân gian như An Dương Vương, Cây khế,
Chàng Lía, Chu Mãi Thần, Đam Săn, Đẻ đất đẻ nước, Kim Nham, Liễu Hạnh, Ông Giống,
Man Nương, Sọ Dừa, Sơn Tinh Thủy Tinh, Tấm Cám, Trạng Quỳnh, Trầu Cau, và Tuần
Ty Đào Quế cũng không dùng trong bảng thống kê.
6. Xem bài “Một nền văn học nghiệp dư” in trong cuốn Văn Học
Việt Nam, Từ Điểm Nhìn Hậu Hiện Đại của Nguyễn Hưng Quốc, nxb Văn Nghệ,
California, 2001, tr. 323-344.
7. Xem bài “Văn học trong một nước mù chữ” của Nguyễn Hưng Quốc,
sđd, tr. 267-284.
8. Theo Clinics in Geriatric Medicine, số đặc biệt về tuổi thọ
và quá trình lão hóa (Aging process), số 1, năm 1985, trang 15-29.
Nguyễn Văn Tuấn
Nguồn: http://tuanvannguyen.blogspot.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét