Cuối thu, quê nhà lại dậy lên một thứ
âm thanh quen thuộc của ếch nhái. Đêm nằm trong khu vườn ứa mật, cỏ trải
làm một manh chiếu mềm, sương thu rót rượu, và tiếng nhái vẳng lên như người
ngồi gõ phách trong cuộc hát ả đào xa xưa. Mấy năm đi xa chừ mới về, lòng
tôi như quặn lên mỗi khi gặp phải tiếng quê trong đêm thanh vắng.
Mùa thu, sau cơn mưa chiều thường có
một chút trăng nhạt núp bóng mây đêm. Thỉnh thoảng trăng mới hé ra như hợm
mặt trong trò chơi trốn tìm của trẻ con. Và khi ấy, loài nhái ở dưới đồng
kéo nhau gọi trăng ra bằng chính thứ âm thanh của chúng. Hồi còn nhỏ, có
nhiều đêm đang ngủ chợt nghe nhái đồng thanh cất lên. Lúc ấy chẳng biết vì
sao. Cho đến khi trở lại quê hương và nằm ngủ bên song cửa mùa thu, tôi dõi
tai đưa mắt nhìn về phía nương nhà mới phát hiện ra rằng nhái là loài đi
tìm tri kỷ trong đêm. Có thức đêm mới chứng kiến sự nhiệt tình và niềm mê
chơi của nhái. Khi vỡ lẽ ra điều đó cũng vừa lúc tôi biết đến niềm thân
giao của tình bạn nơi miền thôn dã. Chính bạn bè tôi nơi mảnh làng bé nhỏ
này đã sống với nhau như thế, trong đêm gọi nhau ra đồng và tâm sự hết nỗi
mình cho nhau nghe.
Ngay ở cách kêu thôi đã thấy nhái rất
nhiệt tình. Nó ép toàn thân để cho cơ bụng co bóp và phát ra tiếng kêu. Hầu
hết tim động vật đều có bốn ngăn, riêng tim ếch nhái thì chỉ ba ngăn. Thế
nhưng, liệu có loài nào nhiệt tình hơn nhái trong những đêm khuya được. Và
tôi ngẫm lại một triết lý hiện hữu của cuộc sống: trái tim vĩ đại không phải
là trái tim to mà là sự bao dung và nhiệt huyết.
Giữa những ngày ngồi rỗi trên cánh đồng
làng, tôi luôn chờ đợi một tiếng gọi từ dưới chân cỏ. Tiếng nhái đã trả lời
tôi với nỗi đam mê của tuổi trẻ, không gì khác ngoài tình yêu với thiên
thiên và sinh vật dại.
Sâu trong mùa đông, tiếng nhái càng
nghe rõ ràng và kéo dài suốt đêm cho tới tận sáng tưng tửng trời. Nhiều đêm
nằm ngủ, nhái chợt lôi tôi dậy chỉ để hát cho nghe cái điệu cũ rích xa xưa ấy,
thế mà vẫn thích. Những giá trị phi vật thể của quê nhà luôn được giữ gìn,
khó có bảo tàng nào vĩnh cửu hơn không gian bao bọc giữa lũy tre và cánh đồng.
Đấy chính là lý do vì sao qua bao tháng năm mà tiếng nhái vẫn vẹn nguyên.
Họ nhà nhái gáy tiếng giống kiểu của
dế, kêu một hồi rồi nghỉ phút chốc lại vang lên. Nếu như dế là chàng ca sĩ
cuối hạ đầu thu thì nhái là nhạc công vắt từ mùa thu sang mùa đông. Trên
cánh đồng quê hương, bốn mùa đều có những âm thanh dân dã. Cánh đồng là một
quán tiệc thoáng đãng và miễn phí. Sự giàu có của người quê là ở chỗ ấy,
tâm hồn luôn được ướp trong dư hoa thôn dã và ru bằng tiếng gọi đồng quê.
Ếch nhái có cơ chân rất khỏe, búng
xa thì không bằng châu chấu nhưng độ bền lại cừ hơn. Chính vì thế mà các vận
động viên, các võ sinh đều luyện cơ chân bằng cách nhảy ếch, tức ngồi xuống
và dùng cơ bắp búng lui tới. Con người là loài học lỏm giỏi nhất, và phần lớn
những kiến thức vận động đều học từ loài vật. Chẳng thế mà hầu hết các bài
quyền thuật võ Thiếu Lâm đều mang tên loài vật. Cũng bởi điệu búng dẻo như
bay đó nên dân nhậu gọi món ếch là phi tiễn.
Thuở nhỏ, thỉnh thoảng tôi đi bắt
ếch nhái cùng bạn bè. Dùng cây đèn dầu hỏa chế thành chiếc đèn soi. Mắt
nhái thường bị đóng đèn nên rất dễ bắt. Đêm ra đồng, tiếng nhái vang lên từ
bốn phía, đi để nghe âm thanh ấy thôi đã đủ sướng. Nhưng đến khi giết nhái
mới dễ sợ. Con nhái cứ chắp hai chân lại như van lạy xin tha. Từ bận ấy tôi
bỏ luôn trò bắt nhái, bạn bè ở làng dần dần cũng không mặn mà với thú ấy nữa.
Bao tháng năm trôi qua, tiếng nhái vẫn
vẳng lên sau hè, lang bạt giữa cánh đồng quê hương.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét