Một chiều thu
Thành đưa tay dụi mắt khi gió chiều đã hiu hiu trước cửa
sổ cạnh đầu giường. Tính ra, một năm làm xa nhà, Thành chỉ về thăm quê được đôi
lần. Lần nào cũng nằm quá giấc trưa.
Buổi chiều ở đây dịu lắm, chẳng thấy khí trời vẩn đục màu
khói bụi, không nghe rít bên tai tiếng còi xe những giờ tan sở. Thành quên bẵng
đi cái cảm giác hối hả những ngày đi làm cửu vạn. Ừ thì chuyện mưu sinh!
Thành-một kỹ sư thất nghiệp đổ về Sài Gòn cũng chẳng khác bất kỳ người dân tứ xứ
nào, nhọc nhằn bán sức. Ở chỗ làm của mình, Thành còn chứng kiến không ít phụ nữ
đã ở ngưỡng tứ tuần mà vẫn phải bốc hàng đến vẹo cả cột sống. Chỉ có điều,
Thành đau khổ vì nghĩ mình thấp hèn, còn họ thì không. Dù cái đau khổ ấy chỉ bằng
một phần nghìn nỗi tù túng ngày Thành ra trường, nằm dài ở nhà, không một xu
dính túi và “muối mặt” khi nghe người trong làng kháo nhau về sự bất tài của
mình. Giờ, trừ tiền ăn tiêu, mỗi tháng, anh vẫn dư được vài trăm ngàn đồng gửi
về cho mẹ. Mẹ tuy chưa già nhưng sức đã yếu, mắt lại mờ hẳn một bên, đến xem ti
vi còn khó. Thành là con một, chỉ cậy vào chị Thu hàng xóm lúc tối lửa tắt đèn
chạy sang...
Những ngày đông, trong lúc đứng chờ xe hàng ở cổng chợ, Thành
bập điếu thuốc vào môi cho đỡ cóng, cứ ngỡ mình là một lao động phổ thông
“chính hiệu”, chưa từng vắt óc trên giảng đường. Đợt này về, Thành định bụng sẽ
không quay lại, để rời bỏ cái nghề cửu vạn đêm, để không còn phải ám ảnh vì những
giờ oằn mình thức trắng và nhất là không phải kéo sụp chiếc mũ lưỡi trai xuống
quá nửa mặt, cắm cúi đi trên phố. Nhưng một xã ven đô như quê anh cái nghèo còn
đeo bám, không làm thì lấy gì nuôi mẹ, nuôi thân?
Thành rảo bước ra đầu ngõ. Cây mẫu đơn nhà ai đã đơm mấy nụ
phơn phớt đỏ trên cành. Tiếng gió thu khe khẽ. Từ hôm về đến giờ, Thành chưa đi
thăm lại xóm làng, quên rằng mình đã từng thông thuộc mọi kẽ ngách nơi đây.
Trong trí nhớ của anh, làng quê chỉ là dăm bảy nóc nhà và hàng cây chơ vơ trong
ráng chiều hoai hoải tím. Một nỗi buồn mun mút đến vô cùng. Dường như càng bước
ra đường, Thành càng thất vọng về chính mình. Tâm tư ấy tràn cả vào lồng ngực,
chẳng thể nào ngăn nổi. Quang cảnh của chốn quê nghèo chiều nay sao đổi khác
nhiều quá? Nắng đổ vàng trên thềm những ngôi nhà ngói cũ, lũ trẻ con đi học về
tíu tít gọi nhau. Gió thổi lên ngực anh se sắt. Ngẩng lên tìm hướng khác quay về.
Bỗng anh đứng khựng lại, sửng sốt khi bắt gặp hình ảnh ông cụ với xe bán ổi
ngay ở mảnh đất bỏ hoang trước mặt mình. Là ông sao, người bán ổi dạo gần 20
năm về trước? Thành không tin! Làm gì có ai trung thành với nghề bán ổi dạo cơ
chứ. Đó không phải là một nghề.
Hàng ổi nom vắng khách. Thành tiến lại gần, cúi đầu chào:
- Bác Minh phải không ạ?
Ông Minh tháo chiếc kính đã cũ mèm, nheo mắt, muốn nhìn cho
ra chàng trai trước mặt nhưng tỏ vẻ bất lực. Ông gật đầu và cười hiền:
- Mua ổi không cháu, còn 2 xâu.
Trời ơi! Đúng bác ấy rồi, Thành rơm rớm mừng như thể vừa gặp
lại người thân sau bao ngày xa cách. Thành không thể đoán được những vết chân
chim hằn trên gương mặt ông cụ bây giờ đã che giấu đi bao nhiêu đổi thay của
mùa, bao nhiêu cơ cực của cuộc đời. Gần 20 năm trôi qua, hình ảnh bác cặm cụi
chở xe ổi đi khắp các hang cùng ngõ hẻm của vùng đất này và tiếng rao: “Ai ổi
không” là một phần ký ức thời thơ ấu của những đứa trẻ nghèo trong xóm. Còn nhớ,
với Thành, những xâu ổi quẹt với muối ớt cay cay ngày ấy là một thức quà xa xỉ.
Dăm bữa nửa tháng mới được một xâu, có hôm trả vài trăm đồng, có hôm xúm xít đổi cả hàng tá lon, chai... nhặt được cùng đám bạn. Bác nay già thật rồi, râu tóc bạc đi cả và đoán chừng vẫn còn lẻ bóng. Thành đỡ lấy 2 xâu ổi trên đôi bàn tay lốm đốm vết đồi mồi của ông lão, tiện lời, hỏi một câu vụng về:
Dăm bữa nửa tháng mới được một xâu, có hôm trả vài trăm đồng, có hôm xúm xít đổi cả hàng tá lon, chai... nhặt được cùng đám bạn. Bác nay già thật rồi, râu tóc bạc đi cả và đoán chừng vẫn còn lẻ bóng. Thành đỡ lấy 2 xâu ổi trên đôi bàn tay lốm đốm vết đồi mồi của ông lão, tiện lời, hỏi một câu vụng về:
- Bây giờ bác sống cùng với ai ạ, sao chưa nghỉ ngơi hở bác?
Ông Minh trầm ngâm một đoạn, bóng dáng xiêu vẹo trong gió chiều,
nét buồn phảng phất nơi mắt sâu như soi rõ dư vị của một đời cần lao. Thành thấy
mình lỡ lời.
- Thời niên thiếu, bác chỉ lo cùng gia đình chạy giặc. Bố mẹ
của bác mất cùng một ngày, bác mồ côi nên chẳng được học hành bao nhiêu, làm việc
gì cũng khó. Nhưng nghề bán ổi này cũng vui cháu ạ. Bán dạo đã thành cái nghiệp
của bác rồi. Một ngày ngồi nhà cũng không yên...
- Ngày bán vài xâu ổi thế này, bác đủ sống chứ ạ?
- Ừ, chẳng vợ con gì nên vừa đủ đấy cháu.
Hóa ra, bán ổi dạo cũng là một nghề ư? Trước mắt Thành bây giờ
rõ là một người đàn ông đã đi quá nửa đời người, vẫn vui vẻ với nghề bán rong.
Vậy mà, trong những ngày lăn lộn kiếm sống ở phương xa, anh vẫn mơ tưởng đến một
lúc nào đó sẽ có một nghề sáng rỡ, xứng với tài năng của mình. Lúc ấy, càng
nghĩ về viễn cảnh tươi đẹp đó, Thành càng chán ghét cái nghề “vừa ráo mồ hôi là
ráo tiền” của mình. Chiều nay, Thành thấy mình đổi khác.
Nhìn mớ tóc bạc của ông lão phất phơ trong gió chiều, Thành bỗng
thấy thư thái trong lòng. Anh chào bác Minh rồi bước đi. Nửa đường còn quay lại
nhìn thêm lần nữa. Có gì như đang sáng lên trong tâm hồn Thành ngay lúc ấy. Anh
đột nhiên quay lại:
- Cháu mời bác về nhà ăn với mẹ con cháu một bữa cơm. Nhà
cháu ở ngay đầu ngõ. Nhà còn ít rượu chuối, bác cháu ta nhâm nhi.
Bác Minh gật đầu rồi chỉ vào xe hàng, bảo:
- Bác dọn hàng đã.
Thong thả ra về, ngang qua giàn bông giấy phủ kín một mảng tường
rêu, Thành thấy tất thảy cảnh vật xung quanh mình như sáng lên. Một nguồn xúc cảm
trong trẻo cứ chảy khắp cơ thể Thành, quấn chặt vào quần áo, tóc tai khiến anh
càng thêm thấm thía. Chiều đã muộn lắm. Thành ngẩn nhìn đồng hồ rồi rảo bước thật
nhanh. Con đường làng trước còn u ám nay bỗng thanh mát lạ thường. Ngẫm lại,
suýt chút nữa Thành đã tự giết mình bằng nỗi mặc cảm thường nhật. Từ giờ trở
đi, Thành không thấy mình đớn hèn nữa. Một người đàn ông như bác Minh có thể
dành cả đời cho nghề bán ổi dạo, vẫn tươi cười hãnh diện. Vậy tại sao Thành lại
không thể thôi cái ý nghĩ rằng nghề cửu vạn là một nghề thấp hèn, đáng xấu hổ.
Cuộc sống chẳng thể nào có quá nhiều sự lựa chọn. Thành nghĩ vậy và bắt đầu chấp
nhận mình, thấy dễ chịu với chính mình, dù thấu trong tim vẫn mong có ngày được
trở thành một kỹ sư đúng nghĩa.
Sương đã xuống, bữa cơm nhà Thành tối nay có ba người. Thành
không thấy đói nhưng cũng ráng ăn thêm bát nữa, cố để bác Minh thật tự nhiên. Mẹ
Thành gắp miếng cá nục hấp bỏ vào chén bác Minh, ân cần nói:
- Trưa nào không về thì ghé lại tôi ăn cơm. Ông đừng ngại.
Tiếng cười nói vang vang dưới ánh đèn tù mù. Chừng lúc sau,
Thành tiễn bác Minh ra đến tận cổng. Đầu tuần tới, Thành sẽ vào lại Sài Gòn, chủ
các xe hàng đã điện suốt chiều giờ.
Lữ Hồng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét