I/ Nhân bàn về một cuốn tiểu thuyết có ý nhưng đọc không
hay, không in được, nhà văn Bùi Ngọc Tấn bữa nọ chợt nói với tôi một nhận
xét:
- Ấy viết văn xuôi là cái chuyện tốn chi tiết lắm.
Ôi điều đó thì đúng quá rồi, người không viết văn xuôi
cũng đã hình dung được phần nào! Song hôm nay tôi vẫn muốn dẫn câu nói
kia ra đây, để nhân thể bàn về chi tiết trong thơ.
Tiếp theo Bùi Ngọc Tấn, chúng ta có thể dự đoán là làm thơ
thì không vất vả thế, ở đây sức ép của các chi tiết mà các nhà văn xuôi thường
phải chịu,- sức ép ấy không mạnh, và người ta đỡ lo hơn. Thế nhưng
xin đừng ngộ nhận là không quan trọng. Ngược lại - không phải cốt nói một
điều giật gân hoặc để trộ đời, khi bảo với nhau: chính vì
ít, mà chi tiết trong thơ lại càng quan trọng. Qua các chi tiết đã có thể
thấy ngay diện mạo một con người.
Tôi càng thấy rõ hơn điều này khi đọc Đồng Đức Bốn (dưới
đây viết tắt là ĐĐB).
Thử làm một cuộc thống kê những từ ngữ thường xuyên
trở đi trở lại trong thơ Bốn. Toàn những rạ rơm, cây cải, hoa dong riềng,
bờ tre, bụi dứa, mùa sen, vườn cau, bụi tầm xuân, múi bưởi đào, dây
tơ hồng, mảnh sành, gai rào. Thiên nhiên ở đây
là chớp bể mưa nguồn, bèo dạt mây trôi rồi nắng
rét, rồi con gió chen ngang, gió giông bão tố. Còn con người thì quẩn
quanh với những việc chăn trâu đốt lửa, lên chùa, đón hội, đánh bạc; hết tìm
cái vu vơ họ lại tính chuyện không đâu, mà dù có bán buồn
mua vui thì chẳng qua cũng chỉ chín xu đổi lấy một hào.
Còn nhớ có lần một nhà thơ trạc tuổi bọn tôi tự hào
khoe là vừa đưa được chi tiếtxe hồ lô trộn bê tông vào thơ và
ra cái điều vậy là thơ hiện đại lắm. Đưa được một vài chữ Hán lạ hoặc vài
tiếng Anh đọc theo âm Việt, người ta thấy thơ mình sang hẳn lên. Học mót
được vài thuật ngữ lấy từ các ngành khoa học, hý hửng như tìm được miền đất mới. Theo những cách tính toán kiểu ấy thì ĐĐB và những người yêu thơ ĐĐB hẳn
xin chịu. Hình như anh đã làm một cuộc vận động ngược, tức là luôn luôn tìm
cách trở lại với những từ ngữ đã quá quen thuộc của đời sống.
Vả chăng trong cuộc trở lại ấy, điều quan trọng là người ta
tìm thấy cái gì.
Tôi muốn nói cái tinh thần của đời sống nó toát ra từ thơ từ
nhiều bài thơ của ĐĐB: Cổ sơ. Cũ kỹ. Quê mùa. Hoang dại.
Từ hồi Thơ mới, nhiều nhà thơ thường trở lại với quá khứ
để tìm ở đấy những vẻ đẹp. Không phải chỉ có Nguyễn Tuân mà hàng loạt văn thi
sĩ tiền chiến từ Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, qua Xuân Diệu, Huy Cận gặp nhau ở
một điều là lý tưởng hóa quá khứ. Không nói đâu xa, thử nhìn vào
chàng thi sĩ được coi là quê hơn ai hết: Nguyễn Bính. Trong
cuộc phiêu lưu kiếm sống giữa thị thành, tác giả Tâm hồn tôi, Mười hai bến
nước, Mây Tần… luôn luôn cho người ta thấy rằng thực ra ngày xưa gia đình
ông sống nền nếp và phong lưu lắm, bản thân ra dáng con nhà lắm, chẳng qua bây
giờ thất cơ lỡ vận nên mới khổ thế. Trong một bài thơ như Thanh đạm, người
ta còn được chứng kiến cảnh đối ẩm, với lại những phút cao hứng
”cây nguyệt nằm suông mãi, tôi xin đàn người nghe“. Một bằng chứng
nữa là dù được tiếng chân quê hơn đời, nhưng thơ Nguyễn Bính nhìn kỹ thấy còn
nhiều chữ Hán, ở đó nhan nhản những mộng viễn hành, bức ngọc thư,
hàn vi, lữ hành, tha hương, chung tình, đa đoan, tràng
giang, giang hồ rồi lại cả vinh quy, ngự uyển, với mỹ
nữ, lãnh cung … nữa.
ĐĐB thì khác. Cái quá khứ kia không phải chỉ là hồi ức thường
xuyên trở lại, mà nó là một phần của hiện tại quanh anh. Nhất
là nó chẳng có gì rực rỡ là bóng lọng, là cao sang quý phái,
tức chẳng có gì là nên thơ. Trăng trong thơ ĐĐB là trăng gầy trăng
cong, sào là sào gẫy, diều là diều đứt dây, con người xưng
tôi trong thơ có lúc tự nhủ mình là một kẻ
không quê. Dường như anh sẵn sàng nói rằng mình chẳng có gì để
khoe với mọi người cả.
Trong nhiều trường hợp, hoang dại ở đây xem như đồng
nghĩa với lang thang, mất gốc, không vào khuôn khổ nào, một tình trạng
trì trệ không nảy nòi lên được về chất lượng nên đành bò ra ăn lan ra về số lượng. Nó, cái sự hoang dại trọn vẹn ấy có mặt trong thơ ĐĐB khắp
mọi chỗ và làm nên một miền khí hậu riêng có phần không giống ai,
dù chẳng ở ai không có.
Chỉ một lần nhà thơ kể chuyện mình. Nói chuyện
với cỏ dại. Song cả những khi không dùng đến cái từ cụ thể ấy, thì cảm
giác hoang hủy bơ vơ của cỏ dại vẫn trở lại. Nó ở những câu thơ nghe hơi rờn rợn Chân đạp đât đầu đội trời - ở đâu không có con người
thì đi, nó lại ở cả những câu thơ tự nhiên nhi nhiên kiểu như củ
khoai nướng để cả chiều thành tro hoặc mẹ ra bới gió chân cầu. Một
lần tả cảnh lũ lụt, ĐĐB viết “ối mẹ ơi đê vỡ rồi - Mộ
cha liệu có lên trời được không“. Đằng sau lối nói lu
loa, là lời thú nhận về sự bất lực vô phương cứu chữa.
Không hiểu sao tôi đọc những câu tác giả viết như đùa : Ngậm ngùi thịt chó bánh đa - Chiều nay lại thấy bà già xin
ăn, hoặc Chợ làng mở dưới gốc đa - Nhà quê đem mấy
con gà bán chơi mà cứ thấy bùi ngùi.
Xa vắng hiu hắt ngang trái bơ vơ, cái không khí ấy bàng bạc
trong ĐĐB, bất kể nông thôn hay thành phố.
II/ Trong các thứ tiếng phương Tây, từ culture (mà
ngày nay ta dịch gọn là văn hóa), trước khi có nghĩa dạy dỗ mở
mang khai hóa giáo hóa (Theo Đào Duy Anh, Pháp Việt từ điển),
còn có một nghĩa gốc là cày cấy trồng trọt thâm canh làm kỹ một việc gì đó. Hãy
nhìn vào các thứ cây ăn quả hiện nay. Thoạt đầu đó là những thứ cây dại phải qua bàn tay tác động của con người rồi những đặc tính xấu
của chúng mới bị hạn chế những ưu thế của chúng mới được phát huy đầy đủ.
Thế nhưng ở đây có một khía cạnh không những thuộc về
khẩu vị, mà còn liên quan đến nhận thức của loài người về khả năng của mình.
Sau bao thành công trong việc lai ghép hoặc biến đổi mã di truyền, tạo ra
các thứ giống cây mới có nhiều ưu thế, thì con người ở đâu cũng không
quên một sự thật -, ấy là trong khi thua kém các loại cây thuần hoá về nhiều mặt,
thì các giống hoa dại quả dại lại có hương vị riêng mà bàn tay nhân tạo không
bao giờ làm ra nổi và do đó cái hoang dại kia vẫn đầy sức cám dỗ.
Oái oăm là ở chỗ ấy!
Suy rộng ra còn có thể nói dù thay đổi bao nhiêu theo hướng
hiện đại thì chất hoang dại vẫn còn một phần nằm mãi trong tâm trí chúng ta, mỗi
khi bắt gặp nó, ta không tránh khỏi run rẩy như chợt nhận ra cái bản
lai diện mục của mình.
Các nhà nghệ thuật cảm thấy điều này rất rõ. Trong nghệ thuật
hội hoạ thế kỷ XX, có hẳn những trường phái khai thác vào cái hoang dại nguyên
sơ của thế giới, lấy nó đối lập với những tìm tòi duy lý, người ta
mệnh danh những trường phái này là hoang dã, ngây thơ…
Tuy không phổ biến song ở ta một số người đã có ý đi
vào cái hoang dại đó. Chỉ có điều nhà văn VN vốn không mạnh về bề dày văn hoá,
nên đi vào hoang dại trước tiên không do tìm tòi lâu dài, mà như là ngẫu
nhiên bắt gặp: Không thể đến với sách vở hàn lâm thì trở về với nó. Chợt nhận
ra từ lâu nó đã thuộc về mình mà không hay biết, nhưng nay nó
là cả một xu thế hiện đại thì tội gì không theo. Nếu khôn ra gán thêm cho nó một ít màu sắc lý luận thì càng oai.
Phải nhận, giữa đám người trở về nguồn bất đắc dĩ đó, hoang dại
của ĐĐB đậm đà hơn, rõ nét hơn. Hóa ra hoang dại cũng muôn màu
muôn vẻ. Nó cũng thuộc về thời đại với nghĩa tuỳ từng thời gian mà
nó lại có những sắc thái mới, và do đó đủ sức làm nên những
phong cách.
III/ ĐĐB thường công khai nói rõ mối quan hệ của
mình với Nguyễn Huy Thiệp (NHT). Người ta được biết rằng NHT không chỉ
thường xuyên đứng ra giới thiệu ĐĐB, mà sự thực là đã sớm có mặt trong phòng
thí nghiệm sáng tạo của người bạn thơ. Không khó khăn gì cũng có thể dự
đoán, ở đây có một lý do sâu xa, ấy là giữa chất văn của Thiệp và chất
thơ của Bốn có sự gần gũi.
Khi NHT mới xuất hiện tức là vào năm 1988, người viết bài
này đã sớm cảm thấy trong văn của tác giả Tướng về hưu có một
thứ chất mới, tức cái chất kỳ dị. Nếu như văn của nhiều người khác
là một thứ văn học trò ngoan ngoãn lễ phép, thì sắc thái thẩm mỹ ở Thiệp
là phá cách, là phi quy phạm, giống như một thứ động vật hoang dã
hoặc một thứ cây chưa được thuần hóa chưa được trồng trong vườn nhà. Thậm chí,
nếu được đẩy sự liên tưởng đi thật xa, người ta còn có thể nghĩ nó là sự kết hợp, đúng hơn là sự lang chạ, của những yếu tố khác hẳn
nhau, đại thể cũng na ná như việc Tôn Ngộ Không trong truyện Tây
du ra đời từ một hòn đá nơi các nàng tiên thường đến tắm (xem
bài Tưởng tượng về Nguyễn Huy Thiệp của chúng tôi, in trong Những
kiếp hoa dại)
Hôm nay, tôi lại muốn nói: Không ai giống hẳn ai, song trong
những người gần nhất với Thiệp, có Bốn.
Nói cho đúng ra Thiệp quá độc đáo, không ai theo
được và ai động bắt chước là bị lật tẩy. Cái hoang dại trong văn
hóa VN thông thường hơn, mềm mại hơn. Nó thường mang sắc thái ngây
thơ, mờ mờ nhạt nhạt. Nó bâng quơ, nó có vẻ gặp đâu hay đấy. Đây là một bài thơ
của Nguyễn Bính, bài Bên sông, in trong tập Tâm hồn tôi
Có hai em bé học trò
Xem con kiến gió đi đò lá tre
Nứa trôi từng một thôi bè
Nắng sang bãi cát bên kia có chiều
Thoáng như một lớp phù kiều
Chim đàn nối cánh bay vèo ngang sông
Thuyền buôn đã mấy ngày ròng
Nằm suông, lái chửa ăn xong giá hàng
ĐĐB cũng vậy. Bốn không có lối khai thác cái chất
hoang dại kia theo cái kiểu dữ rằn oan nghiệt như NHT. Anh làm mềm
nó đi một chút. Mang cho nó một bộ mặt ngơ ngác.Tức cũng là làm cho nó gần gũi
thêm với đời thường. Được cái, vẻ hoang dại ở Bốn là hoang dại
thứ thiệt, chứ không cố làm ra vẻ vậy, và là nước cốt, chứ không tráng
hàng qua loa, hoặc pha phách như ở một vài nhà thơ khác.
Giữa một nền thơ phát triển đến mức lạm phát, người ta chỉ tồn
tại được khi có một giọng thơ riêng để khỏi lẫn vào tiếng ồn đang
gây nhiễu chung quanh. Nhiều người hiểu thế, cũng như họ hiểu sự hoang dại có
thể làm nên một ưu thế thật mạnh. Thế nhưng họ chỉ tìm tòi một dạo rồi bỏ.
Còn ĐĐB, một lần tìm thấy là anh khơi mãi vào cái mạch ấy để tạo
ra một nguồn thơ riêng. Anh đã đi tới cùng trên con đường của mình,
đến mức, gần đây, người ta cảm thấy thơ anh đơn điệu và dừng lại. Nhưng
dù có thế thì cũng chẳng sao. Cũng như nay, nói dại, NHT có viết dở đi nữa, thì
cũng chẳng sao. Những gì mà anh viết hôm qua đã đủ làm nên một tác giả.
IV/ Bây giờ ta hãy cùng nhìn kỹ vào cái giọng thơ lục bát
mà ĐĐB đã hình thành riêng cho mình. Lịch sử văn học đã biết tới những bậc bậc
thày kỳ tài còn in dấu trên thể thơ này. Trong sự đa dạng của một thiên truyện viết bằng văn xuôi như Truyện Kiều, lục bát của
Nguyễn Du thật đã hiện ra muôn hồng nghìn tía, nhưng cảm tưởng
chung là đến với ông, lục bát đã như một cái gì được thuần hóa. Tuy thỉnh thoảng
cũng xen vào những câu lạ kiểu như vó câu khấp khểnh bánh xe gập ghềnh,
song chủ yếu lục bát trong Truyện Kiều là thuần thục rành rẽ và
phải nhận ở đó, cả người mê sự sang trọng của thơ Đường lẫn người mê vẻ mộc mạc của ca dao đều được thỏa mãn.
Duyên dáng tự nhiên là lục bát của Tản Đà.
Cổ kính chắc chắn đường bệ đấy là lục bát của Huy Cận
trong Đẹp xưa, và rộng ra là trong Lửa thiêng.
Tuy nhiên từ sau Tản Đà, người cống hiến nhiều nhất cho
lục bát là Nguyễn Bính. Trong các tập thơ của mình, Nguyễn Bính mang lại cho lục bát khi thì một vẻ ỡm ờ, khi thì đoan trang, và bao giờ cũng
tràn đầy nhạc điệu. Cả trong những câu thơ như buột miệng mà nói ra (Em van anh đấy anh đừng yêu em), lẫn những câu đùa đầy dụng
công (Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm), người
ta vẫn thấy một cái gì như là dẻo mồm tức quá khéo, dù đã khéo đến mức tự
nhiên.
Cái lối tạo ra lục bát một cách trúc trắc, từng đôi câu sáu
tám không vang lên một cách nhịp nhàng mà có vẻ lập cập khó khăn - cái lối
ấy chỉ mới có từ hồi sau 1945. Nguyễn Đình Thi và nhiều người khác đã
tham gia vào quá trình này, ở đây tôi chỉ dẫn ra một người bạn cùng tuổi là
Xuân Quỳnh. Vốn rất tự nhiên trong việc bẻ vần ghép chữ, mà không hiểu sao,
trong một đôi khi sử dụng lục bát, Quỳnh vẫn cứ làm cho nó ngang ngang,
ví dụ bài Về những thói quen của chị mở đầu bằng mấy câu như
sau “Con sông quen chảy xuôi dòng - Mùa mưa nước lũ
quen dâng từ nguồn - Bên bồi thì cứ bồi luôn - Còn bên lở vẫn
lở thường quanh năm“. Ôi lục bát gì mà đuồn đuỗn thế này! Sau tôi mới hiểu
chính là Xuân Quỳnh đã cố ý làm thế để tránh đi cái nhịp nhàng đều đều đã
nhàm chán của một thể thơ quá phổ biến.
Trở lại với ĐĐB, phải liều mạng lắm người ta mới dám viết những
câu ngang phè đại loại:
Rét lòng khát ngọn lửa nhen
Mà áo đỏ áo đỏ em đâu rồi (VTN nhấn mạnh)
Thế nhưng đó chính là những câu thơ làm cho người đọc không đọc
lục bát theo kiểu trôi tuồn tuột, mà phải dừng lại ngẫm nghĩ, cũng tức là nhà
thơ đạt được cái hiệu quả mà người cầm bút nào cũng mong muốn.
Dễ dàng nhận xét là nhiều bài thơ ĐĐB không có được cái sự liền mạch, mà hình như do từng mảng ghép lại, mỗi
mảng là một đôi sáu tám hoặc hai đôi liền. Viết cái gì thì cũng vậy
mà làm thơ càng dễ vậy, kỵ nhất là cái lối câu nọ gọi câu kia, đưa đẩy
chuyển tiếp kết quả thành một thứ thuận miệng giống như người quen chân
đi mãi, nhiều khi vẫn đi đấy mà không biết mình đi đâu. Trong một thể như
lục bát điều đó càng dễ xảy ra. Không có kết cấu, nó quá tự do, nhưng
cũng chứa đầy cạm bẫy trong cái tự do đó. Do một sự may mắn nào đó, ĐĐB
có duyên sớm ngộ thấy cái sự mòn mỏi của nó, nên cố tìm cách tránh. Lục
bát ở đây không nhịp nhàng nối tiếp mà cứ giật cục
như cái gì ngắc lại nghèn nghẹn nơi cổ. Thứ lục bát đó tôn thêm cảm
giác quê mùa hoang dại chung của thơ ĐĐB mà đoạn trên đã
nói. Nói cho to tát cũng tức là ở nhà thơ này có một sự
quyến quyện giữa nội dung và hình thức, hoặc nói theo chữ nghĩa đương thời
tức là sự nhất quán của thi pháp.
V/ Thuở nhỏ tôi sống ở làng Thuỵ (tên đầy đủ là Thuỵ Khuê), một vùng ngoại ô phía bắc Hà Nội, đàn ông thì đi làm Nhà
da, Máy giặt, Bia Ô mền (Bia Hà Nội hiện nay) hoặc công nhân Xe điện, còn đàn bà chuyên hàng quà, bán rong các phố,
quà rong ở đây cụ thể là các loại xôi, ngoài ra là sắn luộc khoai luộc
v.v…
Khoai luộc của làng Thuỵ thì ngon lắm.
Những năm năm mươi sáu mươi của thế kỷ trước, phố phường Hà Nội
chưa đầy bụi và ngạt khói xe máy như bây giờ. Khoai luộc chảy mật đặt
trên mẹt của dân làng Thuỵ nhởn nhơ gánh bán rong các phố không ai cho là
bụi bẩn, nên ai trông cũng thèm, cả các cô môi son má phấn Hàng Ngang Hàng Đào
cũng gọi mua.
Nhưng ngoài món khoai cổ điển đó, với cái gốc con nhà nghèo,
tôi nhớ một món khoai lạ của các bà các cô làng Thuỵ. Khoai luộc mới sôi thì đã
vớt ra và đổ vào nước lạnh, bởi vậy chỉ vừa chín tới và cắn vào còn sồn sột,
nên gọi là khoai sượng. Cố nhiên là chỉ những thứ khoai còn nhỏ, những củ
nhách củ kẹ, bán nắm bán mớ, mới được dùng để làm loại quà rẻ tiền này. Song có
lẽ chính vì như thế nó lại có cái vẻ ngọt riêng, ngai ngái ngầy ngậy gần với
khoai sống.
Không hiểu sao, khi đọc thơ ĐĐB tôi lại hay nhớ tới thứ
khoai sượng nay đã tuyệt chủng kia.
Nhưng tôi cho rằng sẽ làm nghèo ĐĐB đi nhiều nếu xem
việc anh khai thác yếu tố hoang dại chỉ có ý nghĩa một biện pháp nghệ thuật, một
cách ranh ma đổi mốt nhằm câu khách, mà không thấy rằng cái chính ở
đây là một cách nhìn nhận, một cách bắt lấy cái thần của đời
sống.
Thử nhớ lại hai bài thơ không rạ rơm chút nào của Bốn,
bài Chiều mưa trên phố Huế và bài Xích lô đường Bà Triệu.
Trong con mắt người làm thơ, cảnh phố Huế nào có khác chi chợ quê,
cũng hàng thì bán đứng bán ngồi chen nhau, xe cúp dàn hàng ngang mà đi
đấy, nhưng vẻ hiện đại không che nổi áo rách. Giữa đường Bà Triệu ồn ào, nhà thơ nhạy cảm vẫn thấy toát lên một chút
gì đó tịch mịch xa vắng. Bởi vậy, cái chuyện cô đơn ngay giữa đám đông là không
tránh khỏi và cảm tưởng cuối cùng được cô kết lại bằng cái câu rất sái: Xong rồi chả biết đi đâu - Xích lô Bà Triệu ra cầu Chương
Dương.
Thế nghĩa là gì? Dù đã chuyển sang thời hiện đại, song
cảnh tượng ở đây chỉ là một biến thể của những chăn trâu đốt lửa với
lại bắt gió chân cầu đã nói ở trên. Chua xót. Bế tắc. Bơ
vơ. Hoang dại vẫn hoàn hoang dại.
VI/ Sau khi để cho đời sống nó nhập vào hồn mình, và phác
hoạ khuôn mặt nó theo cách mình hiểu, diễn tả nó theo như cái cách mà
mình vẫn nhìn, nhà thơ nhà văn nào cũng không tránh khỏi tự bộc lộ, tức đưa ra
hình ảnh riêng, cho người đọc tiếp xúc với một kiểu người kiểu suy nghĩ
riêng, là chính tác giả.
Ở đây không chỉ có phong cách cá nhân mà còn có những nét những
khía cạnh tạm gọi là phong cách thời đại. Ví dụ theo sự quan sát của tôi, có thể
tạm xếp loại mấy kiểu tâm thế thi sĩ hiện thời:
1) thi sĩ giáo huấn
2) thi
sĩ hùng ca
3) thi sĩ ngây thơ như trẻ nhỏ, biết nhìn ra chất
thơ ở chỗ người đời bỏ qua
4) thi sĩ hóm hỉnh
5) thi sĩ dự
phóng, nhìn thấu lẽ đời v.v... và v.v...
Tôi không dám nghĩ rằng những cái tên trên đây đã chính
xác, song chắc là trong chân dung các thi sĩ hợp thời không ít thì
nhiều có những cái đó. Mà ĐĐB thì không rõ vô tình hay cố ý, nhưng đúng
là cứ trật ra khỏi những cái khuôn khổ mà nhiều người đã tự nguyện chấp nhận và góp phần hoàn chỉnh ấy, để gần như đứng một mình. Tung
tẩy phá phách làm tình làm tội người khác thế nào không biết, nhưng đó là chuyện
ngoài đời, còn vào đến thơ, cái tôi của Bốn là một cái tôi hậm hụi bất lực. Dường như không sao tìm được sự cân bằng trong tâm lý. Cũng như chẳng
biết cư xử ra thế nào cho phải. Thấy chung quanh tầm thường vớ vẩn, mà mình thì
cũng chẳng hơn gì, lại có lỗi ở chỗ không biết làm sao tác động tới đời, khiến
cho nó trở nên tốt hơn vừa ý mình hơn. Giữa vô vàn những lo toan - lo nghèo
lo đói lo khổ lo không được hiện đại, - lại thêm còn cái lo nữa, lo
lạc lõng, không ai nghe mình. Mấy chữ mồ côi thường xuất hiện.
Trăng mồ côi. Bão mồ côi.Cây mồ côi. Mà con người đến chết vẫn có
thể tiếp tục mồ côi (Trở về với mẹ ta thôi - Lỡ mai chết lại mồ côi
dưới mồ). Tâm lý mồ côi đó là gì nếu không phải là tình trạng người
ta mất đi những chỗ dựa chắc chắn về tinh thần, không có cái để tin yêu và kính trọng?!
Trước một đời sống ngổn ngang và có thể nói là
tàn bạo nữa, con người trong thơ ĐĐB như vậy là đang đi dần
tới một thái độ tạm gọi là vừa phải: không huớ lên hớn hở một cách
trẻ con, mà cũng không lảng đời kệ đời; không tự nhấc mình vượt
lên trên hoàn cảnh rồi chửi bới tùm lum, hoặc cười cợt vô trách nhiệm, mà cũng không làm bộ làm tịch, ra cái điều đang mải mê với những triết lý sâu sắc. Thơ chỉ còn là một lời tự an ủi.
VII/ Rút lại thì tôi muốn bảo ĐĐB là một giọng thơ
dân gian hiện đại.
Dân gian là một khái niệm rất rộng. Là một cảm giác dang dở về đời sống. Là sự lạc quan tất yếu thành ra một thứ bản năng. Lại cũng là một
nỗi buồn xa vắng khôn nguôi. Là sự hòa quyện giữa hy vọng và thất vọng. Là lòng ham sống là ý chí vươn lên đấu tranh cho đời sống ngày một tốt đẹp. Mà
lại cũng là một sự hư vô buông xuôi gần như đồng nghĩa với tự cho
phép muốn làm gì thì làm -, con người thì bao giờ cũng thế thôi, quá bận
tâm đến họ làm gì cho mệt. Bởi vậy dân gian là trong sáng vô tư,
nhưng cũng là hư hỏng đàng điếm tuỳ tiện “chí phèo“… Đấy đại khái dân gian có
lắm sắc thái như vậy, và chúng ta còn đang nỗ lực để hiểu thêm về
nó.
Riêng về ĐĐB, tôi muốn lưu ý là trong cái vẻ đều
đều gióng một của mình, anh vẫn là một tính cách pha trộn. Trong giọng
thơ này, cái già cỗi mệt mỏi tồn tại ngay bên cạnh cái trẻ trung,
cái ham muốn bồng bột nẩy nở đấy mà cũng tàn lụi ngay đấy, để rút lại nhường
chỗ cho cái ngu ngơ bất lực bao trùm.Vừa chấp nhận đầu
hàng, bỏ qua tất cả, mà lại vừa tham lam càm quắp, cò kè tính toán,
vơ véo nhặt nhạnh, nâng niu lấy từng niềm vui nho nhỏ.
Bởi cho rằng giữa một thời buổi khó khăn như thời chúng ta đang sống, một thái độ có vẻ rất mềm rất hoạt như thế là cách
tốt nhất để con người tự vệ, nên lúc rỗi rãi tôi thường vẫn tìm đến với
thơ ĐĐB. Gạt đi cái phần ngang ngược thô thiển nó là điều không thể khác được với một con người có hoàn cảnh cụ thể như tác giả, thơ Bốn đôi
khi vẫn là cái cớ giúp tôi tìm thêm lòng ham sống lẫn thấm
thía cả cái vô nghĩa của đời sống.
Làm đất đất phải nở hoa - Làm tôi, buồn cái
người ta vẫn buồn - với câu thơ bâng quơ nghe như một tiếng thở
dài đó, dường như ĐĐB đã thú nhận: chẳng qua anh cũng chỉ như mọi người.
Mà làm sao khác được cơ chứ! Luật đời đã định.
Trong khi khai phá và trình bày nỗi niềm hoang dại nơi mình,
người thi sĩ đã giúp chúng ta tìm thấy một phần cái ta sẵn có mà lâu nay chót
quên lãng và mặc dầu vẫn sống đủ với nó, song hầu như lại chưa bao giờ
nghiêm túc suy nghĩ về nó. Cuộc đời thì ngắn và mỗi chúng ta thì bơ vơ lắm.
2003 - 2005
Vương Trí Nhàn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét