Là một chuyên gia hàng đầu về nghiên cứu, dịch thuật, giới
thiệu lý thuyết văn học, nhưng mỗi khi ứng dụng, thực hành lý thuyết, ông đặt
lý thuyết ở chế độ ẩn, chỉ để hiển lộ những diễn ngôn phê bình hào sảng, sáng,
sang. Những hiện tượng văn học Việt Nam, cũ hay mới, dưới lăng kính phê bình ký hiệu học của ông, ngôn ngữ của chúng đều được tái thiết, trở nên năng sản vô
cùng. Một ngày giữa tháng 10, tại Tuyên Quang, trong không gian Trại viết 2018
do VNQĐ tổ chức, ông đã dành cho bạn đọc tạp chí những chia sẻ nghề nghiệp thú
vị. Ông là nhà giáo, dịch giả, nhà nghiên cứu phê bình Lã Nguyên – bút danh của PGS.TS La
Khắc Hòa.
– Ông đã bén duyên nghiên cứu phê bình và dịch thuật như
thế nào?
+ Tôi biết nhiều người đến với phê bình bằng tài năng và sự
tinh tế được trời đất phú cho. Họ viết phê bình hệt như người sáng tác làm thơ,
viết truyện. Giữa sáng tác và phê bình ở đây chỉ khác nhau một điểm. Sáng tác
là sự trải nghiệm trực tiếp đời sống. Phê bình là sự trải nghiệm đời sống gián
tiếp qua sáng tác của nhà văn, nhà thơ. Nhà thơ, nhà văn nhào nặn người đời
thành nhân vật của tác phẩm. Nhà phê bình biến nhà văn và nhân vật của nhà văn
thành nhân vật của mình. Không được trời phú cho năng khiếu như thế, tôi đành đến
với nghề bằng sự biết. Tôi làm nghề dạy học. Tôi đến với nghiên cứu phê bình
văn học và dịch thuật một cách tự nhiên, như là sự tất yếu của người làm công
việc gieo trồng tri thức này. Năm 1968, sau khi tốt nghiệp đại học, tôi được giữ
lại trường làm giảng viên. Từ đó, muốn làm tốt công việc giảng dạy, tôi buộc phải
học ngoại ngữ, phải đọc và dịch tài liệu nước ngoài. Cứ thế, sau nhiều năm nghiền
ngẫm và tích lũy tri thức, đến một lúc nào đó, tôi có niềm khát khao được
“nói”, được chia sẻ với học trò và đồng nghiệp sự hiểu biết và sự đọc của mình.
Và thế là, từ giữa những năm tám mươi của thế kỉ trước, khi công cuộc Đổi mới
diễn ra rầm rộ, tôi bắt đầu công bố một số bản dịch và những bài phê bình đầu
tiên. Đã gần nửa thế kỉ, VNQĐ là một trong những nơi tôi “chọn mặt gửi vàng”.
Tôi vẫn chưa quên, một trong những bài viết đầu tiên ít nhiều gây được tiếng
vang của tôi đã may mắn được đăng trên VNQĐ, số tháng 10/1987.
– Chúc mừng ông vừa trình làng một công trình mới toanh với
cái tên rất kích thích: Số phận lịch sử của các lí thuyết văn học. Ông có
thể thuyết minh ngắn gọn về cuốn sách này của mình?
+ Cảm ơn bạn. Có thể nói cuốn sách này là công sức, tâm huyết
và là kết quả của gần 40 năm quan sát, nghiền ngẫm của tôi. Gần sáu trăm trang
sách khổ lớn được chia thành 3 phần. Phần thứ nhất nghiên cứu mĩ học và lí luận
văn học Nga thời hậu xô-viết. Phần thứ hai mô tả hoạt động tiếp nhận tư tưởng
văn nghệ phương Tây vào Việt Nam sau 1986. Phần thứ ba khảo sát hai hệ thống lí
thuyết văn nghệ ở Việt Nam giai đoạn nửa đầu thế kỉ XX, phân tích một số vấn đề
thời sự nổi lên trong đời sống lí luận, phê bình văn học, khái quát những thành
tự đáng kể trong việc đưa lí thuyết vào thực tiến nghiên cứu của một số học giả
tiêu biểu hiện nay. Logic kết cấu của cuốn sách được chi phối bởi một tư tưởng
chủ đạo: nền lí thuyết văn nghệ mà Việt Nam xây dựng suốt thế kỉ XX là thân
cành mọc lên từ cội rễ của nền mĩ học Mác – Lênin và lí luận văn học xô-viết
chính thống. Khi Liên Xô và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa tan rã, cái cội
rễ kia giống như bị bật gốc, toàn bộ thân cành của nó bị rung chuyển dữ dội.
Nghĩa là mọi đổi mới của nền lí luận văn học Việt Nam từ sau 1986 đều ít hay
nhiều, trực tiếp hay gián tiếp liên quan tới cuộc cách mạng diễn ra trong mĩ học
và lí luận văn học của quốc gia vĩ đại này.
Cho nên, tuy lấy nhan đề là “Số phận lịch sử của các lí thuyết văn học”, nhưng cuốn sách của tôi không phải là công trình nghiên cứu hàn lâm. Nó trước hết là công trình nghiên cứu nhiều vấn đề thời sự của đời sống mĩ học và lí luận văn học diễn ra ở Việt Nam và những gì có liên quan tới Việt Nam trong suốt thế kỉ XX, đặc biệt là từ 1986 đến nay. Đọc cuốn sách của tôi, độc giả sẽ nhìn thấy số phận lịch sử của nhiều lí thuyết văn học với ý nghĩa như vậy. Họ sẽ thấy nhiều lí thuyết đã đến với chúng ta, thấy không ít lí thuyết đã bỏ chúng ta mà ra đi, thấy chúng đến hay đi đều chẳng dễ dàng gì, không phải hễ đến là được hoan nghênh, chẳng phải cứ đi là có sự bịn rịn, thấy con đường đến với Việt Nam của chúng chẳng phải bao giờ cũng trải đầy hoa. Sáng nay, nhân viên phát hành của nhà xuất bản gọi phôn cho tôi, nói cuốn sách đang bán “chạy”. Tôi rất mừng và thầm hỏi, được như thế liệu có phải do độc giả quan tâm tới tính thời sự của cuốn sách?
Cho nên, tuy lấy nhan đề là “Số phận lịch sử của các lí thuyết văn học”, nhưng cuốn sách của tôi không phải là công trình nghiên cứu hàn lâm. Nó trước hết là công trình nghiên cứu nhiều vấn đề thời sự của đời sống mĩ học và lí luận văn học diễn ra ở Việt Nam và những gì có liên quan tới Việt Nam trong suốt thế kỉ XX, đặc biệt là từ 1986 đến nay. Đọc cuốn sách của tôi, độc giả sẽ nhìn thấy số phận lịch sử của nhiều lí thuyết văn học với ý nghĩa như vậy. Họ sẽ thấy nhiều lí thuyết đã đến với chúng ta, thấy không ít lí thuyết đã bỏ chúng ta mà ra đi, thấy chúng đến hay đi đều chẳng dễ dàng gì, không phải hễ đến là được hoan nghênh, chẳng phải cứ đi là có sự bịn rịn, thấy con đường đến với Việt Nam của chúng chẳng phải bao giờ cũng trải đầy hoa. Sáng nay, nhân viên phát hành của nhà xuất bản gọi phôn cho tôi, nói cuốn sách đang bán “chạy”. Tôi rất mừng và thầm hỏi, được như thế liệu có phải do độc giả quan tâm tới tính thời sự của cuốn sách?
– Có một vấn đề mà trong những cuộc trò chuyện văn chương,
tôi đã đặt ra cho vài chuyên gia: Đâu là những điểm bất khả thủ, những giới hạn
của một vài lí thuyết văn học, đặc biệt là khi chúng được bứng trồng vào thổ
nhưỡng văn học Việt Nam? Nhân đây, ông có thể đưa ra câu trả lời của riêng mình?
+ Nếu bạn hỏi về lí thuyết nói chung, thì vấn đề sẽ đơn giản
và tôi có thể trả lời ngay, rằng không một lí thuyết nào là chân lí tuyệt đối,
lí thuyết nào cũng có những điểm khả thủ và nhiều điểm hạn chế. Cho nên ngày
nay trong nghiên cứu khoa học, người ta thường ưu tiên sử dụng quan điểm tổng hợp
và hướng tiếp cận đa ngành, liên ngành. Nhưng nếu bạn nêu câu hỏi về một lí
thuyết cụ thể nào đó, thì tôi e sẽ khó nhận về câu trả lời như đón đợi. Bởi vì
ta chỉ có thể nhận ra mặt bất khả thủ của từng lí thuyết từ điểm nhìn thực tiễn,
điểm nhìn lịch sử, chứ không phải từ điểm nhìn hạn hẹp mang tính chủ quan của mỗi
cá nhân. Cho nên chẳng dễ gì để nhận ra đâu là điểm khả thủ, đâu là mặt hạn chế
của một lí thuyết cụ thể nào đó. Ví như nếu tính khởi đầu của học thuyết phản
ánh là thuyết “bắt chước” (mimésis) của Aristotle và điểm phát triển rực rỡ nhất
của nó là phản ánh luận của Lenin, thì học thuyết này từng tồn tại hai nghìn ba
trăm năm và suốt hơn hai nghìn năm, cả nhân loại xem mệnh đề “văn học phản ánh
hiện thực” là chân lí. Mãi đến giữa thế kỉ XX, nhân loại mới nhận ra ý thức của
con người bất cập vật, giữa ý thức và sự vật bao giờ cũng có hàng rào trung
gian là ngôn ngữ. Trong ý thức của chúng ta, thế giới là một mô hình đã được mã
hóa, đã được gọi tên và trong giao tiếp, ý nghĩa của lời nói hóa ra không phụ
thuộc vào vật quy chiếu, mà phụ thuộc vào chủ thể phát ngôn. Chỉ đến khi có
phát hiện này, đến khi nhân loại chứng kiến “bước ngoặt ngôn ngữ” và “bước ngoặt
diễn ngôn” diễn ra trong tư duy khoa học, thì lí thuyết phản ánh mới trở thành
lỗi thời, bất cập. Cho nên tôi nghĩ, còn quá sớm để nói nữ quyền luận, phê bình
sinh thái, hay hậu thực dân luận là các lí thuyết bất khả dụng đối với Việt Nam
như có ai đó đã từng quả quyết.
Nếu có dịp đi từ Bắc vào Nam, từ Đồng Đăng tới Mũi Cà Mau, từ trung ương tới tận xã huyện, đâu đâu ta cũng thấy quá trình đô thị hóa đang diễn ra hối hả, bằng mọi giá. Tôi không tin là không có vấn đề sinh thái ở một đất nước như thế và một khi đã xuất hiện vấn đề sinh thái tự nhiên và sinh thái xã hội, thì chắc chắn văn học nghệ thuật không thể đứng ngoài cuộc. Cho nên, tôi càng không tin rằng ở nước ta sinh thái học và phê bình sinh thái là bất khả dụng đối với khoa nghiên cứu phê bình văn học.
Nếu có dịp đi từ Bắc vào Nam, từ Đồng Đăng tới Mũi Cà Mau, từ trung ương tới tận xã huyện, đâu đâu ta cũng thấy quá trình đô thị hóa đang diễn ra hối hả, bằng mọi giá. Tôi không tin là không có vấn đề sinh thái ở một đất nước như thế và một khi đã xuất hiện vấn đề sinh thái tự nhiên và sinh thái xã hội, thì chắc chắn văn học nghệ thuật không thể đứng ngoài cuộc. Cho nên, tôi càng không tin rằng ở nước ta sinh thái học và phê bình sinh thái là bất khả dụng đối với khoa nghiên cứu phê bình văn học.
Còn nhớ mấy năm trước tôi đọc bài nghiên cứu của Laura Adams,
cộng tác viên khoa xã hội học Đại học Harvard, Chủ tịch Hội Nghiên cứu Trung Á
– Âu (Central Eurasian Studies Society). Nội dung chính của bài thể hiện ngay ở
câu hỏi được dùng làm nhan đề: Lí thuyết hậu thực dân liệu có khả dụng với
khu vực Trung Á? Khu vực Trung Á mà tác giả bài báo khảo sát chủ yếu là
các nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ. Và đây là kết luận của bà: “Câu trả lời
là khả dụng, dĩ nhiên cần nghiên cứu vấn đề sâu sắc và căn bản hơn […] Lí
thuyết hậu thực dân cung cấp tấm thấu kính cần được thử nghiệm ở khu vực chúng
ta nghiên cứu. Công cụ mới này có giá trị ở chỗ nó cho phép không chỉ khám phá
bản chất hậu thực dân của vùng Trung Á – Âu ngày nay, mà còn cho thấy sự khác
biệt giữa xã hội của nó với các xã hội hậu thực dân khác. Hơn nữa, nghiên cứu về
các xã hội Trung Á sẽ giúp hoàn thiện lí thuyết hậu thực dân bằng cách áp dụng
nó vào một phổ rộng hơn các đế chế, nhất là những nơi mà sự thống trị không
theo phương thức tư bản chủ nghĩa”. Vậy thì dựa vào đâu để quả quyết, rằng hậu
thực dân luận là lí thuyết bất khả dụng đối với Việt Nam, một nước bị phong kiến
phương Bắc thống trị hàng ngàn năm, bị thực dân đô hộ suốt trăm năm, rồi bảy
mươi năm đứng trong phe xã hội chủ nghĩa, hệ tư duy của thực dân, đế quốc đè nặng
trong ý thức con người, không dễ gì một sớm một chiều rũ bỏ được. Tình hình đối
với nữ quyền luận, tôi nghĩ cũng như vậy.
Ta đều biết, Việt Nam không có truyền thống sáng tạo lí thuyết,
từ thời trung đại cho đến nay, mọi lí thuyết văn học đều được tiếp nhận từ bên
ngoài. Tiếp nhận tư tưởng văn nghệ bao giờ cũng là quá trình lựa chọn, không ít
lí thuyết có thể được tiếp nhận vội vã theo mốt thời thượng, nhưng chẳng có gì
để chúng ta phải lo lắng, bởi thời gian và thực tiễn là cỗ máy sàng lọc nghiệt
ngã, các lí thuyết có giá trị ứng dụng sẽ đơm hoa kết trái, những lí thuyết
không phù hợp với thung thổ đời sống văn học nước ta sẽ bị đào thải. Về điểm
này, tôi tin vào sự lựa chọn sáng suốt của công chúng văn học và của các nhà
khoa học văn chương chân chính.
– Kí hiệu học mặc dù ra đời sớm nhưng cho đến thời điểm này lại
có vẻ như là một lí thuyết phê bình rất có tương lai. Ở Việt Nam, thời gian gần
đây xuất hiện những công trình dịch thuật, giới thiệu lí thuyết cũng như phê
bình ứng dụng, thực hành kí hiệu học đáng chú ý của Trịnh Bá Đĩnh, Đỗ Hải
Phong, Trần Đình Sử, Lê Huy Bắc, Mai Thị Hồng Tuyết…, và gần nhất là của ông –
cuốn Phê bình kí hiệu học – đọc văn như là hành trình tái thiết ngôn ngữ.
Giữa ông và các tác giả vừa kể, xuất phát điểm và đường hướng nghiên cứu phê bình
kí hiệu học hẳn là không giống nhau. Ông nói gì về một vài công bố của đồng
nghiệp?
+ Việt Nam có độ trễ rất lớn trong việc tiếp nhận các lí thuyết
văn nghệ hiện đại, kí hiệu học không phải là ngoại lệ. Nó được giới thiệu và ứng
dụng ở Việt Nam từ những năm 1970, nhưng để lại ấn tượng mờ nhạt trong kí ức
người đọc. Cứ ngoảnh lại ta sẽ thấy, vào cuối những năm 1980, khi phong
trào đổi mới văn nghệ diễn ra rầm rộ, cả giới sáng tác lẫn giới nghiên cứu phê
bình vẫn loay hoay với thuyết phản ánh và thuyết biểu hiện, một lí thuyết có
nguồn cội từ thời cổ đại, một lí thuyết phát triển ở thế kỉ XVIII. Mãi đến những
năm đầu của thế kỉ XXI, giới nghiên cứu, trong đó có chúng tôi, mới nói tới “bước
ngoặt ngôn ngữ”, “bước ngoặt diễn ngôn” và từ đó mới bàn về văn hóa và văn học
như là hoạt động giao tiếp và những cấu trúc biểu nghĩa. Dăm năm trở lại đây,
kí hiệu học được đưa vào giảng dạy trong một số trường đại học có đào tạo ngành
văn và thế là phê bình theo hướng kí hiệu học được chú ý rộng rãi. Trong tay
tôi hiện có ba cuốn sách cùng mới ra mắt độc giả: Hình tượng văn học như
là kí hiệu (Nxb Khoa học xã hội) của Mai Thị Hồng Tuyết, Từ kí hiệu đến
biểu tượng (Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội) do Trịnh Bá Đĩnh chủ biên
và Kí hiệu học văn học (Nxb Giáo dục) của Lê Huy Bắc. Cuốn thứ nhất vốn
là luận án tiến sĩ được thực hiện ở tổ bộ môn chúng tôi (tổ bộ môn Lí luận văn
học, khoa Ngữ văn, trường Đại học sư phạm Hà Nội – PV) dưới sự hướng dẫn
khoa học của GS.TS.NGND Trần Đình Sử. Cuốn thứ hai là tuyển tập bài
viết về “biểu tượng”. Cuốn thứ ba trình bày lí thuyết và một số cách đọc văn bản
mà tác giả gọi là kí hiệu học. Hai cuốn sách này là những công trình chuyên
sâu, không thể đọc theo cách thông thường, mà phải nghiên cứu kĩ mới hiểu được.
Tôi chưa có điều kiện làm được như thế, nhưng mới đọc mỗi cuốn vài lần, đã thấy
nhãn quan tri thức quả được mở rộng rất nhiều. Chẳng hạn, Charles Sanders
Peirce (1839-1914) là người khai tâm cho tôi về kí hiệu học. Tôi thuộc nằm lòng
định nghĩa và cách phân chia kí hiệu thành ba loại của ông: hình hiệu (icon), chỉ
hiệu (index) và biểu hiệu (symbol). Nhờ cuốn sách của Trịnh Bá
Đĩnh tôi vỡ ra là có thể nghiên cứu “từ kí hiệu đến biểu tượng”. Đọc M.Bakhtin,
J.Kristeva, R.Barthes, tôi chỉ thấy các vị nói về “liên văn bản”, nay nhờ cuốn
sách của Lê Huy Bắc, tôi biết thêm khái niệm chưa thấy ở đâu: “liên kí hiệu”.
– Đã đến lúc không còn mấy ai muốn đọc những bài bình tán tản
mạn chủ quan không lí thuyết, tuy nhiên, người ta cũng không hứng thú với những
bài phê bình nệ lí thuyết, dùng tác phẩm để minh hoạ cho lí thuyết. Tôi thích đọc
phê bình của ông. Ở đó, lí thuyết đã được đặt ở chế độ ẩn, chỉ hiển lộ những
văn bản phê bình hào sảng, sáng, sang. Những hiện tượng văn học Việt Nam, cũ
hay mới, dưới lăng kính phê bình kí hiệu học của ông, ngôn ngữ của chúng đều được
tái thiết, trở nên năng sản vô cùng. Ông nói thêm gì về câu chuyện phê bình có
lí thuyết, phê bình làm lợi cho lí thuyết, phê bình làm giàu cho tác phẩm?
+ Cảm ơn bạn. Tôi rất tâm đắc với câu nói nổi tiếng về mối
quan hệ giữa lí thuyết và lịch sử của nhà dân chủ – cách mạng Nga
N.G.Chernyshevski (1828-1889), đại ý, nếu không có lịch sử thì không có lí thuyết,
nhưng nếu không có lí thuyết thì không thể có ngay cả một chút ý niệm về lịch sử.
Tôi tin mỗi người viết phê bình đều có một chút ý niệm nào đó về tác phẩm, về
văn học. Nghĩa là khi đã viết phê bình, ai cũng chịu sự dẫn dắt của một thứ lí
thuyết nào đó. Tuy nhiên, người viết thường nhắm vào những mục đích khác nhau.
Với đa số các nhà phê bình, khen chê, phẩm bình trở thành mục đích chính yếu của
sự viết. Cho nên, nhiều người ngại viết vì sợ sự đụng chạm. Lối viết này quả
không cần nhiều lí thuyết, mà chỉ cần có sự tinh tế và nắm vững một vài thủ
pháp kĩ thuật của người viết tiểu phẩm. Trong một bài về Đặng Tiến, nhà nghiên
cứu Hoàng Ngọc Hiến khái quát: “Cách phê bình thơ của Đặng Tiến chung quy lại vẫn
là diễn nghĩa, bàn góp, tán rộng […] Số phận người viết phê
bình ở nước ta trở đi trở lại vẫn là ba cái trò diễn, bàn, tán.
Hơn nhau ở chỗ biết diễn, biết bàn, biết tán.
Không biết diễn thì thành diễn thuyết dạy tác giả, độc giả;
không biết bàn thì thành bàn suông hoặc nói leo, không
biết tán thì thành tán phét” (xem: Tạp chí Nhà văn,
6/2009). Tôi không viết phê bình vì mục đích khen chê như thế. Mỗi bài viết của
tôi bao giờ cũng giải quyết một nhiệm vụ văn học sử nào đó, hoặc là khái quát
những đặc điểm loại hình của một giai đoạn văn học, hoặc là xác định vị trí của
nhà văn trong tiến trình lịch sử. Để giải quyết nhiệm vụ ấy, dĩ nhiên tôi phải
tìm được cơ sở lí thuyết và sử dụng các thao tác nghiên cứu khoa học. Nhưng các
thao tác khoa học và cơ sở lí thuyết chỉ có ý nghĩa khi chúng giúp tôi đọc văn
học dưới một ánh sáng mới để làm lộ ra những lớp ý nghĩa mà độc giả và cả người
sáng tác nhiều khi cảm thấy bất ngờ. Với cách làm như thế, tôi hi vọng, như bạn
nói, phê bình sẽ làm giàu thêm cho lí thuyết, làm giàu cho văn học.
– Tuy nhiên, trong một vài trường hợp, chẳng hạn như bài viết
về Đặng Thân, vì hào sảng quá nên khiến một số người cho là ông… quá khích. Ông
nói gì về câu chuyện này?
+ Ôi ôi, tôi biết! Tôi biết nhiều người không “chịu” Đặng
Thân! Nhưng xin đừng quên, Đặng Thân và văn học có yếu tố hậu hiện đại ở ta nói
chung là một câu chuyện phức tạp. Trên thế giới cũng vậy, hiện tượng này luôn
chia đôi dư luận thành hai cực đối lập: “pro et contra”. Thử ngoảnh lại xem dư
luận xã hội từng diễn ra sôi nổi thế nào khi Ma Net và 3.3.3.9
[Những mảnh hồn trần] của Đặng Thân ra mắt độc giả? Thử thống kê xem đã có
bao nhiêu bài báo, bao nhiêu cuốn sách nhắc tới Đặng Thân, bao nhiêu luận văn
cao học, luận án tiến sĩ ở các trường đại học từ Bắc vào Nam viết về Đặng Thân?
Ngay khi dư luận về văn xuôi Đặng Thân lắng xuống, thì thơ Đặng Thân vẫn tiếp tục
được chú ý ở hải ngoại. Tôi đánh giá cao những cách tân văn xuôi của Đặng Thân,
nhất là ở bình diện kĩ thuật. Dĩ nhiên, người viết phê bình khó loại bỏ hoàn
toàn tính xu hướng. Có nhiều tác gia, tác phẩm, tôi viết như là sự chia tay.
Nhưng cũng có nhiều trường hợp, trong đó có Đặng Thân, tôi viết như là sự chào
đón. Mọi sự “chào đón” hay “chia tay” đều phải chờ thời gian kiểm nghiệm rồi mới
có thể đánh giá về sự đích đáng, chuẩn xác của nó.
– Cơ thể thực tiễn văn học Việt Nam không ngừng trương nở,
không còn tương thích với tấm áo lí luận văn học đang được dạy trong nhà trường,
từ phổ thông đến đại học. Bài toán này cần được giải như thế nào, theo ông?
+ Từ sau năm 1986, hoạt động tiếp nhận các lý thuyết văn nghệ
nước ngoài diễn ra rất sôi nổi, dường như mọi lý thuyết văn học hiện đại nhất đều
đã được tiếp nhận vào Việt Nam. Nhưng trong nhà trường, từ phổ thông đến đại học,
học sinh và sinh viên đang phải học một thứ lý thuyết theo những cuốn giáo
trình vô cùng lạc hậu. Tôi nghĩ, người phải đứng ra giải bài toán này chỉ có thể
là Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng những cơ quan nhà nước quản lý giáo dục và đào tạo.
– Ông đã dành trọn cuộc đời công chức của mình cho việc dạy học.
Dạy văn, trong bối cảnh hiện nay, còn là một công việc có khả năng tiếp
truyền cảm hứng, năng lượng nghiên cứu phê bình cho ông không?
+ Bối cảnh hiện nay của việc dạy – học văn là gì? Ấy là nhiều
trường cao đẳng, đại học trên phạm vi toàn quốc đã giải tán khoa ngữ văn để sáp
nhập chúng vào khoa xã hội và nhân văn. Quy mô đào tạo ngành ngữ văn đang bị
thu hẹp. Nguyên nhân là theo học ngành văn, người ta không tìm được việc làm,
chứ không phải là tình yêu với môn văn bị khô cạn. Chừng nào học trò còn yêu
môn văn, giảng đường vẫn còn là nơi truyền cảm hứng cho việc dạy học và nghiên
cứu văn học.
– Tại Trại viết Tuyên Quang 2018 của Tạp chí VNQĐ, ông đã
hoàn thành bài viết Người Nga nghĩ về việc viết lịch sử văn học và họ viết
lịch sử văn học như thế nào? Bài viết này cung cấp cái nhìn tham chiếu như
thế nào đối với việc nghĩ và viết lịch sử văn học Việt Nam, thưa ông?
+ Từ bài viết nói trên của tôi, độc giả có thể rút ra kết luận,
rằng ở Việt Nam, cho đến nay, vẫn chưa có những bộ lịch sử văn học theo đúng
nghĩa và ý nghĩa của nó. Chắc chắn viết lại các bộ lịch sử văn học theo quan điểm
hiện đại sẽ là công việc đòi hỏi giới nghiên cứu, các nhà giáo và cả xã hội phải
bỏ nhiều công sức, tâm huyết và cả điều kiện vật chất.
– Trân trọng cảm ơn ông!
Sapo giữa bài:
“Sự giải mã của Lã Nguyên đối với văn học giai đoạn trước
không phải là giải mã của kẻ đương thời, mà là giải mã của người thời đại sau,
khi dòng thác kí hiệu của một thời đã đi qua, nó có ý vị như một phản tỉnh, một
tái nhận thức, một lời chào biệt. Sự giải mã đối với Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị
Hoài, Nguyễn Xuân Khánh… lại có ý vị khác. Nó là giải mã đồng thời là chào mừng,
mời gọi một ngôn ngữ mới, thúc giục chúng nảy sinh. Chính ở đây thể hiện bản chất
của phê bình”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét