Xin được quan sát người quan sát
(Đọc Phê bình ký hiệu học - Đọc văn như là hành trình
tái thiết
Trong nói và viết, Lã Nguyên - La Khắc Hòa đều có khả năng
chiếm lĩnh không gian. Chuyện đời, chuyện học thuật, qua cái nhìn, qua giọng
nói, qua chất văn của ông đều trở nên cực kỳ sinh động. Những ý tưởng dù trừu
tượng đến đâu cũng trở thành hình khối, chúng chạm vào người đọc, gây ngạc
nhiên, gây ấn tượng và tất nhiên áp đảo người đọc ngay tức thì, trạng thái như
khi ta ngồi xem một phim hành động.
Sức mạnh ấy từ đâu đến? Câu hỏi ấy nhiều lần hiện lên, khi
tôi đọc công trình nặng ký của Lã Nguyên: Phê bình ký hiệu học- Đọc văn
như là hành trình tái thiết ngôn ngữ. Trả lời câu hỏi này, tôi nghĩ là tôi đang
quan sát một “người quan sát”. Vì sao tôi không dùng các khái niệm học thuật
thông thường như “nhà nghiên cứu” hay “nhà phê bình” trong trường hợp này? Bởi
từ khi gặp Lã Nguyên - La Khắc Hòa ngoài đời, tôi ấn tượng nhất là đôi mắt của
ông (và sau đó là chất giọng đầy giễu cợt). Hơn nữa ký hiệu học, cũng như các
trường phái phê bình thuộc xu hướng văn bản, với tinh thần khách quan tối đa
trong khả năng cho phép, thường khuyến khích việc ghi nhận hơn là đánh giá. Với
công trình này, bằng góc nhìn ký hiệu học, Lã Nguyên đã quan sát văn học Việt
Nam, từ khía cạnh vi mô (các yếu tố trong văn bản) để đưa ra những kết luận
mang tính vĩ mô (về tác giả, trào lưu, giai đoạn, căn tính văn học Việt…).
Quan sát/ đọc văn học theo kiểu thông thường (nghĩa là hoàn
toàn không tuyên bố gì về góc nhìn/ hướng tiếp cận) là một cách làm khá phổ biến
trong không gian học thuật Việt Nam. Dị ứng với lý thuyết, ngày xưa Hoài Thanh
(nhà phê bình tài hoa một thuở của chúng ta) đã từng bộc lộ. Trước 1975, trong
đời sống văn học miền Nam, các lý thuyết văn học Đông Tây được du nhập và thảo
luận với một tinh thần cởi mở, cùng với sự đa dạng phong phú của đời sống sáng
tác, kết quả là có nhiều công trình nghiên cứu văn chương đạt đến tính khoa học,
nghệ thuật và hiện đại (mà những thành tựu ấy vẫn chưa được ghi nhận trong lịch
sử văn học Việt Nam, cũng như chưa đến với đại đa số công chúng hôm nay). Gần
đây, trong không gian trường học, đặc biệt là đại học, các lý thuyết văn học được
giảng dạy. Hàng loạt các tiểu luận, luận văn, luận án được tiến hành trên những
cách đọc có tuyên bố về căn cứ lý thuyết. Nhưng có lẽ phần lớn các công trình
in đậm tính chất trường quy này vẫn chỉ là những phác thảo mang tính thực tập
bước đầu.
Theo tôi, sức mạnh của công trình Lã Nguyên đến từ một chuỗi
các yếu tố, chủ quan, khách quan, gần, xa.
Những năm tháng ở Liên Xô, ông đã tích lũy được nhiều kiến thức
giá trị, bên cạnh khả năng ngoại ngữ, đặc biệt là ông đã tập trung đi vào một
hướng chuyên sâu (mà theo tôi là hướng mà nước Nga có khả năng đóng góp tốt nhất
trong tiến trình lý thuyết thế giới): tiếp cận văn chương bằng các gợi ý của
ngôn ngữ học. Ký hiệu học của Nga, với các tên tuổi M. Bakhtin, Y. Lotman… sẽ
không thể nào có được như hôm nay, nếu không có những quan niệm về văn chương
“cách tân nhất thế kỷ” của những nhà Hình thức Nga. Trên con đường bám chắc vào
chất liệu, vào việc nhào nặn ngôn ngữ, vào cách viết, những người trước và sau
đi theo xu hướng này đều xác tín là họ có khả năng làm cho việc nghiên cứu phê
bình văn học trở thành một khoa học thực sự.
Vậy là lâu nay lớp lớp công trình nghiên cứu văn chương trong
lịch sử nhân loại không có đạt đến tính khoa học sao? Không ai dám chắc. Bởi vì
bản thân khoa học trong việc đọc văn chương cũng là một khái niệm có nhiều hệ
giá trị khác nhau và có tính lịch sử. Chỉ có thể thấy rõ một điều là, nếu anh đọc
văn chương như một người có nghề, trước hết, anh sẽ phải am hiểu những quy luật
của chữ, anh phải chạm đến những quy ước và mô thức về cách viết, và anh phải
chứng minh điều ấy ra trên một hệ vấn đề nhất quán, cứ như người thợ mộc nói chắc
chắn về chất gỗ, người thợ nề nói về tỷ lệ cát, đá, ciment, vôi vữa vậy.
Các trường phái phê bình theo xu hướng xem văn bản là trung
tâm đã chinh phục giới cầm bút, làm nên những bước tiến không ngừng từ cuối thế
kỷ 19 đến nay, bởi chúng kế thừa tu từ học (xưa) và những thành tựu to lớn của
ngôn ngữ học (nay) trên một tinh thần vừa chuyên sâu, vừa tích hợp. Là kết tinh
của việc đọc, nghĩa là xuất phát từ sự tiếp xúc với sáng tác, trong quá trình vận
động, bản thân mỗi trường phái lại có vô số những xu hướng khác nhau, phê bình
ký hiệu học cũng không phải là ngoại lệ. Lã Nguyên tuyên bố mình chọn chỗ đứng
của phê bình ký hiệu Nga, cụ thể là trường phái Tartus - Moskva của Y. Lotman
(mà ông có ý dịch để giới thiệu ở phần “Phụ lục”).
Một ý thức sáng rõ, nhất quán về chỗ đứng quan sát và phương
pháp tiến hành là ưu điểm rõ rệt của công trình này. Để người đọc không bỡ ngỡ
(vì thấy mọi điều quá mới) hay sốt ruột (vì nghe lại những điều khá quen thuộc,
nặng nề) Lã Nguyên đã khéo léo mời chúng ta cùng bước vào cuộc quan sát dài (những
407 trang sách in khổ lớn) với ông bằng một “Thay lời nói đầu”có tên là Ký
hiệu học và phê bình văn học (6 trang). Ở đó, bức tranh Ký hiệu học hiện
lên, rất thoáng, với những thông tin và luận giải xác đáng, đặc biệt là hiệu
năng và tính khoa học của những phát hiện từ phê bình ký hiệu học [1]. Theo ông, ưu thế của
phê bình ký hiệu học xuất phát từ mấy lý do: bản chất của ký hiệu (tên
gọi, ý nghĩa và nghĩa, làm nên tính quan niệm, tính tham chiếu và tính quy ước); đặc
trưng của ngôn ngữ nghệ thuật (mô típ mang chức năng giao tiếp; là “nghệ
thuật nói gián tiếp”; tác động gián tiếp; nói bóng, nghĩa là sử dụng các thủ
pháp tu từ); văn bản nghệ thuật là thiết chế có “phẩm chất trí tuệ”,
là hiện tượng đa ngữ, mang tính vị ngữ, là những hình tượng - ký hiệu mơ hồ. Cho
rằng văn bản nghệ thuật là “ngôn ngữ nội tâm”, “rất giống với cổ vật khảo cổ”,
Lã Nguyên nói rõ: “Mọi cố gắng của chúng tôi đều hướng tới mục đích “khảo cổ học
tri thức”, nhằm vào việc tái cấu trúc các hệ thống ngôn ngữ đặc thù làm nên các
loại hình diễn ngôn trong văn học nghệ thuật của một giai đoạn lịch sử và trong
sáng tác của một số nhà văn, nghệ sĩ”, công việc ấy sẽ được tiến hành “dưới ánh
sáng của ký hiệu học diễn ngôn và thi pháp học lịch sử”, nhằm đưa ra những “nhận
xét”, “kết luận” “dưới dạng những giả định khoa học” [2]. Khởi điểm hành trình
quan sát của Lã Nguyên là đi từ thực tiễn văn học, mời gọi mọi người cùng quan
sát: “không có ý định khảo sát lịch sử để minh họa cho những khái quát lí thuyết
đã có sẵn ở đâu đó về chủ nghĩa hiện đại”; “cùng bạn đọc nghiền ngẫm, phân tích
thực tiễn sáng tác của văn học Việt Nam thời đổi mới để rút ra những khái quát
lịch sử” [3].
Một đời làm nghề giáo và nghiên cứu, Lã Nguyên - La Khắc Hòa
đã quan sát rất kỹ các hiện tượng văn học ở miền Bắc Việt Nam thế kỷ XX, hơn thế,
ông còn có những trải nghiệm trực tiếp trong đời sống, thấm thía, mừng vui về
những đổi thay. Như GS.Trần Đình Sử đã nói tinh tế trong Lời Bạt: “Sự
giải mã của Lã Nguyên đối với văn học giai đoạn trước (…) có ý vị như một phản
tỉnh, một tái nhận thức, một lời chào biệt” (…) Sự giải mã đối với Nguyễn Huy
Thiệp, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Xuân Khánh… lại có ý vị khác. Nó là giải mã đồng thời
là chào mừng, mời gọi một ngôn ngữ mới, thúc giục chúng nảy sinh” [4].
Công trình này là tập hợp những bài nghiên cứu được công bố từ
1987 đến 2017: Ba mươi năm cho một hướng đi, kiên trì, say mê, nồng nhiệt. Cùng
với khát vọng duy trì tính khách quan hệ thống vốn có của phê bình ký hiệu học,
trong ông còn có một trực giác nghệ thuật (tiên thiên/hậu nghiệm) sắc bén và một
chất hài hước bẩm sinh, để ông không chịu thu mình vào các mô thức quy phạm có
trước mà luôn chực phóng mình vào những khám phá bất ngờ, cả trên ý tưởng và từ
ngữ.
“Tiếng nói thời đại” (6 bài) và “Ngôn ngữ nhà văn” (8 bài),
đã hợp thành một cấu trúc khoa học mang rõ tinh thần dõi theo “lời”, đi từ
không gian cộng đồng đến thế giới cá nhân, và cả hai tương chiếu, soi sáng cho
nhau, làm nên bức tranh sống động của một dòng văn học đang mải miết chảy thoát
khỏi cái áp lực to lớn của “con đập thủy điện” một thời để trở lại nhịp nước tự
nhiên.
Bài thứ nhất, Văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa như một
hệ hình giao tiếp nghệ thuật, ngay từ đầu, Lã Nguyên xác định “lý do chọn
lựa chất liệu khảo sát” của mình (thơ Tố Hữu) là: “thực tiễn sáng tác lại chứng
tỏ, văn học hiện thực chủ nghĩa là nền văn học của thi ca” và “Tố Hữu được xem
là lá cờ đầu của nền thi ca hiện thực xã hội chủ nghĩa Việt Nam” [5]. Tiếp đó, sau khi phân
tích hàng loạt tác phẩm ở các thể loại, Lã Nguyên đã phát hiện ra những mô thức
trong văn học hiện thực chủ nghĩa: những cặp nhân vật, “nô lệ - quần chúng”/
“cán bộ- người Đảng”; kết thúc có hậu; “Chủ thể phát ngôn đích thực là người
chiến thắng” [6]. Từ khái
niệm đã quen thuộc văn học sử thi, Lã Nguyên đi đến việc phát hiện các ký
hiệu, xâu chuỗi và xoáy vặn chúng, để tìm cho kỳ được cái mạch ngầm chi phối
chúng là sức sống của ý thức hệ và tương quan quyền lực. Theo ông, những diễn
ngôn trôi đi trong “tọa độ không - thời gian” sẽ không thể nào làm nên một cuộc
đối thoại giữa tác giả - nhân vật - người đọc được, như bản chất thường thấy của
văn học; cũng như mọi cái trong dòng văn học này đã trở thành “quá khứ lý tưởng”,
“nền văn học được đóng khung trong thế giới của những cái khởi nguyên” và “cự
ly gián cách tuyệt đối” [7].
Một trong những nhược điểm của xu hướng phê bình văn bản nói
chung, và phê bình ký hiệu học, nói riêng, là thường chăm chú vào “nội thất”,
vào chi tiết, vào cấu trúc nội tại của văn bản (text), mà xem nhẹ các văn cảnh
(context), Lã Nguyên đã rất trung thành với tinh thần ký hiệu học, nghĩa là bám
sát vào hệ thống ký hiệu trong văn bản, soi chúng bằng kính lúp, nhưng vẫn hết
sức coi trọng bối cảnh, nhiều khi ông dùng đến kính viễn vọng để nhìn đến quá
khứ/ tương lai, Đông/Tây, Việt Nam/ Thế giới. Ví dụ rõ nhất là trong bài Vị
thế của văn học trên sân chơi văn hóa trong tiến trình lịch sử, Lã Nguyên
đã mở đầu bằng việc khẳng định cần “phân tích thấu đáo bối cảnh văn học”, bởi
vì theo ông, bối cảnh văn học nằm ở “vị thế của văn học như một tiếng nói quyền
lực trên sân chơi văn hóa” và “văn học như một thực tế diễn ngôn”, “trên sân
chơi văn hóa, văn học đang bị đẩy ra khu vực ngoại vi”; vì vậy ông cố gắng
“Trình bày theo trục lịch sử, từ cổ - trung đại, qua hiện đại đến
thời đương đại của chúng ta” [8]. Trên tinh thần ấy, bài
viết này đã lần lượt xem xét “vị thế văn học trên các tương quan:
1. Lời nghệ thuật và toàn bộ hoạt động tinh thần của xã hội.
2. Lời nghệ thuật và lời xã hội.
3. Lời nghệ thuật và tiếng nói ngoài lời” [9].
Có thể nói đây là bài viết rất đáng chú ý với nhiều luận điểm mang tính đúc kết và những nhận định có tầm khái quát.
1. Lời nghệ thuật và toàn bộ hoạt động tinh thần của xã hội.
2. Lời nghệ thuật và lời xã hội.
3. Lời nghệ thuật và tiếng nói ngoài lời” [9].
Có thể nói đây là bài viết rất đáng chú ý với nhiều luận điểm mang tính đúc kết và những nhận định có tầm khái quát.
Hào hứng và xác tín nhất là bài viết Nhìn lại các bước
đi. Lắng nghe những tiếng nói (Về văn học Việt Nam thời đổi mới 1975-1991), có
lẽ vì đây là giai đoạn mà Lã Nguyên có điều kiện quan sát trực tiếp. Mở đầu bằng
hàng loạt câu hỏi rất xác đáng, Lã Nguyên lần lượt trả lời, rành mạch. Các cột
mốc nhỏ (1975-1985, 1985-1991, 1991- nay) và tính chất của chúng được trình bày
thuyết phục. Từ những phân tích so sánh (được ý thức và tuyên bố rõ) về lời trong
văn học, ông khẳng định sự “thống ngự” của một “giọng nói to”, có từ trước, với
dòng văn học sử thi và tiếp tục với văn học thời đổi mới “nói rất nhiều
và nói rất to” (tr.100), trong đó “có người thích nói
to và người buộc phải nói to”; “Tiếng hát hùng
tráng thành tiếng cười trào tiếu, giễu nhại”[10]. Theo ông, bên cạnh đó
có những “tiếng nói nhỏ, nói thầm (Nguyễn Minh Châu, Bảo Ninh, Nguyễn Bình
Phương, Châu Diên, Trần Dần, Lê Đạt, Dương Tường, Hoàng Hưng… nhưng “chưa thể
lôi cuốn sự chú ý của đông đảo người đọc”[11]. Những đoạn văn như thế
này, cho thấy nhà nghiên cứu cảm thông với người viết và hiểu văn học Việt biết
chừng nào: “Tôi rất tâm đắc với câu nói nổi tiếng của nhà thơ Edmond Jabès
(1912-1991): “Chữ bầu lên nhà thơ”, nhưng kinh nghiệm lại mách bảo tôi, chừng
nào đám đông còn bị sỉ nhục và nỗi đau của cái dạ dày vẫn còn là nỗi đau da diết
nhất của con người, thì chừng ấy tâm trạng đại chúng bầu lên nhà
thơ. Cho nên, tiếng nói chủ đạo, mang tính chất bao trùm, chi phối khuynh
hướng vận động của văn học Việt Nam từ 1945 cho đến nay vẫn là tiếng nói cộng đồng.
Trước 1975, nó là tiếng nói giữ trật tự ở bên trên. Sau năm 1975, nó lại là tiếng
nói có phần hỗn loạn ở bên dưới. Tiếng nói của cộng đồng chỉ có thể là tiếng
nói to”[12].
Với Văn xuôi hậu hiện đại Việt Nam: Quốc tế và bản địa,
cách tân và truyền thống, từ tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Đặng
Thân, Lã Nguyên khẳng định Việt Nam đã có văn học hậu hiện đại và đó là yếu tố
nội sinh. Những căn cứ được nêu ra: “Bức tranh thế giới bằng ngôn từ và mô típ
truyện kể”. Đó là bức tranh “hỗn độn”: “động rừng”, “loạn cờ”, “không có vua”
“sự hỗn độn chung cục của một thế giới tàn mạt”, mô típ: “ra đi” và “chờ đợi”;
nhân vật thì “vong thân, thất thố, lạc loài”. Theo ông, “Nguyễn Huy Thiệp và Phạm
Thị Hoài là những nhà văn đầu tiên xóa bỏ triệt để các nguyên tắc kỵ húy từng
thống trị trong văn chương Việt Nam từ sau 1945. Cuộc nổi loạn này chắc chắn có
nguồn cội từ sự “hoài nghi các đại tự sự” và “chen cả đôi chút sắc điệu của chủ
nghĩa hư vô”. Nhưng chính tác phẩm của Đặng Thân mới làm nên bước ngoặt:
“tiểu thuyết 3.3.3.9 [Những mảnh hồn trần], là bước ngoặt quyết đoán của
văn học hậu hiện đại Việt Nam”; bời “hàng loạt cách tân vô tiền khoáng hậu”, “tạo
ra một không gian văn bản làm thay đổi tận gốc chức năng và tương quan của
bộ ba liên chủ thể “nhà văn nhân vật người đọc”. Lã Nguyên khẳng định: “sáng
tác của Đặng Thân đã trả lại vị trí hàng đầu cho chức năng trò diễn trong
hoạt động thẩm mĩ” với hàng loạt yếu tố: tác giả- nhân vật- người đọc đối
thoại trực tiếp, “ranh giới giữa hình tượng tác giả và tác giả
tiểu sử cũng bị xóa bỏ”; các nhân vật “cùng một lúc đóng hai vai: vai
truyện kể và vai diễn trò; “không gian văn bản có cấu trúc phức tạp:
trò diễn, cuộc diễn trò: “sàn diễn đa thoại”. Ông gọi 3.3.3.9 [những mảnh
hồn trần] “là hậu tiểu thuyết, “phi tiểu thuyết”, hoặc “phản tiểu thuyết”,
vì nó đã “sử dụng rộng rãi các nguyên tắc kết cấu và thủ pháp nghệ thuật hậu hiện
đại như phân mảnh, liên văn bản, trích dẫn, giễu nhại, carnival…”; “văn bản
có cấu trúc ngữ nghĩa đa trị, cực kỳ phức tạp”: “hình tượng phúng dụ”,
“hệ thống ngoại đề”; “nhãn quan giá trị hậu hiện đại”: “hoài nghi các đại tự sự”,
“tự phân tích bất tận”, “giễu nhại toàn trị”. Cuối cùng ông kết luận: “Theo
tôi, cho đến hôm nay, đây vẫn là cuốn tiểu thuyết giễu nhại toàn trị đầu
tiên và duy nhất ở Việt Nam”, “với kiểu tổ chức văn bản của đồng
dao và câu đố”, với “không gian trò diễn của sân khấu dân gian tiền
văn học và hình thức liên văn bản của văn học trung đại”[13].
Viết về các nhà văn, Lã Nguyên thể hiện rõ giọng văn đối thoại.
Ở đây chất phê bình rõ nét. Và cái tôi của nhà phê bình ấy truyền cho chúng ta
cảm giác thực của ông, khi tiếp xúc với văn bản. Như trường hợp Nguyễn Tuân: “Mỗi
lần ngồi trước trang văn của ông, mọi giác quan của tôi tựa như bị cưỡng bức,
bị áp đặt”, và ông tìm cách lý giải: “Thì ra, mọi sự độc đáo của văn Nguyễn
Tuân có gốc gác ở hình tượng nghệ thuật, chứ không phải ở các mô típ
truyện kể, hay yếu tố trò diễn” [14]. Cho rằng trang viết của
Nguyễn Tuân chủ yếu tựa vào mô tả, và sử dụng nhiều “hình dung từ”, những ví dụ
của Lã Nguyên có thể làm ta hơi phân vân về cách định danh từ loại[15]. Xác định văn Nguyễn
Tuân đi từ “bút lạnh” qua “văn nóng”, “hình tượng trong tác phẩm của Nguyễn
Tuân vẫn không vượt ra ngoài trường nghĩa của bốn phạm trù quen thuộc với mĩ học
truyền thống phương Đông: kỳ - quái - chí - tuyệt” [16], những phân tích của
Lã Nguyên cực kỳ thu hút, bởi những dữ kiện cụ thể và chi tiết, đặc biệt là khi
ông luận về khái niệm “Kỳ thú” [17].
Theo thiển ý, ba luận điểm mang tính khái quát sau có thể còn được thảo luận thêm: (1) “trong văn học trước 1945, đề tài về những người dưới đáy là phát hiện riêng của văn học hiện thực phê phán. Nguyễn Tuân có công đi đầu, mở ra đề tài về kẻ bên lề, dân ngoại biên”; (2) “Truyện kỳ nhân, kỳ thú là sản phẩm của ý thức hệ lãng mạn, thể hiện quan niệm về con người cá nhân, cá thể. Truyện kể về kỳ quan và quái nhân là con đẻ của tư tưởng hệ quốc gia thời chiến” (3) “Sự vắng bóng của cái trí, cái lý và cái thường nhật là đặc điểm nổi bật của thế giới nghệ thuật trong sáng tác của Nguyễn Tuân”[18].
Theo thiển ý, ba luận điểm mang tính khái quát sau có thể còn được thảo luận thêm: (1) “trong văn học trước 1945, đề tài về những người dưới đáy là phát hiện riêng của văn học hiện thực phê phán. Nguyễn Tuân có công đi đầu, mở ra đề tài về kẻ bên lề, dân ngoại biên”; (2) “Truyện kỳ nhân, kỳ thú là sản phẩm của ý thức hệ lãng mạn, thể hiện quan niệm về con người cá nhân, cá thể. Truyện kể về kỳ quan và quái nhân là con đẻ của tư tưởng hệ quốc gia thời chiến” (3) “Sự vắng bóng của cái trí, cái lý và cái thường nhật là đặc điểm nổi bật của thế giới nghệ thuật trong sáng tác của Nguyễn Tuân”[18].
Với Nam Cao, Lã Nguyên cũng mang lại nhiều khám phá thuyết phục,
sau khi xác định quan niệm truyện ngắn có thể là một “dòng sông” (như tiểu thuyết).
Những điều ông tìm thấy ở Nam Cao là: Phá vỡ “tính “cố sự”, tìm chất liệu mới,
không tuân theo quy luật nhân quả. “Gút không được nhấn mạnh” mà thay bằng những
phó từ chỉ sự đột ngột; “tình trạng cân bằng tiền biến cố”; “kết cấu vòng
tròn”; “mạch trần thuật phi truyện kể”. Duy có luận điểm sau có lẽ cần thận trọng:
“Ở Việt Nam, Có lẽ Nam Cao là nhà văn đầu tiên tạo ra những tác phẩm văn học
không chỉ kể câu chuyện của mình, mà còn là câu chuyện về mình. Truyện
ngắn của ông vì thế thể hiện đầy đủ nhất những đặc trưng của tiểu thuyết hiện đại”[19].
Tố Hữu là tác giả được Lã Nguyên ưu ái nhất, đã xuất hiện ở cả
hai phần của cuốn sách. Với cái tên Thơ Tố Hữu Kho “ký ức thể loại” của
văn học từ chương, Lã Nguyên đã đưa vào không gian Việt một nội hàm mới cho
khái niệm từ chương, và căn cứ học thuật của nó được ông chú thích từ tài liệu
tiếng Nga [20]. Khác với
lệ thường, ở đây tác giả không giới thuyết khái niệm từ chương, nhưng qua
toàn bài viết, chúng ta có thể nhận ra tác giả hiểu văn học từ chương là văn học
được xây dựng trên những công thức cố định, không bắt nguồn từ đời sống mà từ
“những tri thức khả tín (bất kiểm chứng)” [21]. Từ đó, Lã Nguyên đưa
ra một kết luận có tầm khái quát: Văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa “có xu hướng
quay về với các truyền thống từ chương” [22] . Khảo sát tần số
xuất hiện của từ ngữ trong thơ Tố Hữu, Lã Nguyên nói đến “ngôn ngữ nhà binh”,
“ngôn ngữ dòng tộc”, “ngôn ngữ hội hè”, những ngôn ngữ đã nói lên một cách nhìn
về thế giới rất đặc biệt, chi phối cách nghĩ, cách nói và cách viết của bao thế
hệ người Việt một cách mặc nhiên, mà chỉ có người ở ngoài không gian văn hóa ấy
mới nhận ra sự khác thường của nó. Đi sâu hơn về nghệ thuật sử dụng từ ngữ của
Tố Hữu, Lã Nguyên phát hiện ra 4 mô thức tu từ: Thệ, hịch, ca thi, đại
cáo. Có thể thấy, Lã Nguyên đã thể hiện rõ kiến thức và trường liên tưởng đáng
nể của ông ở sự dung hợp Đông Tây, các mô thức tu từ mà ông gọi là các “khuôn mẫu
từ chương” [23].
Về truyện ngắn Ma Văn Kháng, Lã Nguyên ghi nhận tác phẩm
Ma Văn Kháng có “hình hài diện mạo riêng”, “không phán truyền” do “có ý thức về
chỗ đứng”, “đào bới bản thể mình ở chiều sâu tâm hồn”, “đối thoại, tranh biện với
các ý thức xã hội, ý thức nghệ thuật của thời đại”, “cất lên từ mạch trần thuật,
ngôn ngữ nhân vật, từ những hình tượng”, “Có tư tưởng nghệ thuật riêng”;
“Ma Văn Kháng là nhà văn của cái đẹp trong dòng đời sinh hóa, bình dị, hồn
nhiên, cái đẹp trong hạnh phúc được làm người với ý nghĩa đích thực của
nó”;“thường miêu tả tướng hình”, “mạch lộ thiên thường là cái phù vân,
dang dở, luẩn quẩn”, “mạch ngầm là cái căn cốt của tính người, tình người”. Đặc
biệt, đoạn bình luận về “mạch nổi”, “mạch ngầm” trong văn Ma Văn Kháng rất hay [24].
Với ba tiểu thuyết Hồ Quý Ly, Mẫu Thượng
Ngàn và Đội gạo lên chùa của Nguyễn Xuân Khánh, Lã Nguyên nêu bật
những cách tân nghệ thuật như: “mở rộng khung”, tạo ra một không gian truyện
kể đa tầng, nhiều cấp độ”: “Lớp trên cùng, trùm lên trên tất cả là không gian của
cái chung cục, “Mạt pháp, mạt thời, mạt thế, mạt vận”; “Lớp thứ hai,
đan xen vào lớp thứ nhất, là không gian của cái khởi nguyên. Theo ông, sở
dĩ Nguyễn Xuân Khánh có được những cách tân này là nhờ ông chọn thể loại tiểu
thuyết lịch sử, “không bị ám ảnh độc giả”, không phải lách như nhiều nhà văn
khác. Tuy vậy, từ những xung đột mâu thuẫn, (“xung đột sử thi”, “xung đột đời
tư” “xung đột thế sự”, cùng mô hình thế giới nhị phân” trong tiểu
thuyết Nguyễn Xuân Khánh, Lã Nguyên kết luận: nhà văn “vẫn không vượt ra ngoài
khuôn khổ của “lối viết cổ điển” [25].
Cũng như Tố Hữu, Nguyễn Huy Thiệp chiếm nhiều trang trong tập
sách này. Ba bài viết kế tiếp nhau [26] cho thấy Lã
Nguyên nghiên cứu rất kỹ về tác giả này, ở đó, ông đưa ra những đúc kết thuyết
phục: Nguyễn Huy Thiệp tạo ra bước ngoặt: “tạo ra loại hình ngôn ngữ
không gian kiểu mới”, “không gian sinh hoạt”, “hệ hình truyện kể”, “mô hình
không gian khép kín, phân mảnh, xóa bỏ trật tự tôn ti, lấy “mạt thế” làm
“khung”, hệ hình ngôn ngữ sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp tiến sát tới ngôn ngữ hậu
hiện đại” [27].
Với quan niệm, cần “đụng chạm đến bản chất thẩm mỹ của văn học
“đổi mới”, “phải tìm đến một phạm trù mỹ học mang ý nghĩa tổng thể”, Lã
Nguyên tiếp tục khám phá các yếu tố hậu hiện đại trong tác phẩm của Nguyễn Huy
Thiệp và Phạm Thị Hoài. Trong trang viết Nguyễn Huy Thiệp, ông tìm thấy “cái vô
nghĩa” mô típ “ê chề” và mô típ “trớ trêu”, “ra đi” “ham hố”, “thất bại”, “nực cười”, “hài hước, nghịch dị”, “biến tất cả cái quen thuộc
thành cái lạ lùng, kỳ ảo”; “xung đột giữa lớp văn bản hình tượng với văn bản
ngôn từ” giữa vật và lời, “vênh lệch giữa vai xã hội và vai tính cách”, giả thể
loại, giễu nhại thể loại. Trong tác phẩm Phạm Thị Hoài, ông phát hiện “cái vô hồn” “đồ vật hóa, lố bịch hóa hình tượng con người”,
“cố ý xóa bỏ dấu hiệu nhận biết” từ cái tên, cái nhìn… Điểm chung của cả hai
nhà văn, theo ông, là đều liên văn bản, đứt mạch, nhại thể loại, gắn với
đồng dao câu đố Việt Nam.
Cuối cùng, tác phẩm duy nhất được Lã Nguyên đọc riêng
là Miền hoang của Sương Nguyệt Minh. Trên góc độ tự sự học, ông nhấn
mạnh điểm nhìn trần thuật và cấu trúc đối thoại liên văn bản, xuyên văn hóa [28].
Những lược thuật trên đây cho thấy công trình của La Khắc Hòa
mang lại vô số những thông tin và những ý tưởng rất đáng chú ý. Có thể nói, từ
trang đầu tiên đến trang cuối cùng, không một trang nào mà người đọc không nhặt
được những điều lý thú. Nghiêm nhặt về bố cục: mỗi bài luôn có “Dẫn nhập” hoặc
“Mở”, các nội dung chính và “Kết luận” hoặc “Mấy lời kết”. Sáng tạo trong cách
đặt các tiêu đề lớn nhỏ: Nhìn lại các bước đi. Lắng nghe những tiếng
nói; Thơ Tố Hữu - Kho “ký ức thể loại” của văn học từ chương… Rành mạch
về diễn giải, lồng ghép các nội dung lý thuyết trong từng trang phân tích vấn đề/
văn bản một cách tự nhiên, khúc chiết. Những câu hỏi nghiên cứu thường xuyên xuất
hiện, để từ đó tác giả trả lời: một cách viết rất động mang tinh thần mời gọi
cùng đối thoại, cùng suy nghĩ. Không chỉ hỏi và trả lời, nhiều lần tác giả còn
dõng dạc xác định chủ kiến của mình, như: Thế nào là nhà văn lớn? “Xin thưa,
tôi có chuẩn mực riêng để định giá” [29], cũng như không ngần
ngại bày tỏ cảm xúc mạnh với những từ cảm thán và lối văn khẩu ngữ hoàn toàn
thoải mái.
Những khám phá ấn tượng và câu chữ có hồn của Lã Nguyên đã
làm cho công trình này hấp dẫn tôi ngay lần đọc đầu tiên. Dù chưa được thâm nhập
sâu về phê bình ký hiệu học, tôi nhận ra sức mạnh ghê gớm của nó. Trên con đường
phát triển của mình, các nhà ký hiệu học cũng như các nhà cấu trúc luận đã nhận
ra rằng, đối tượng của cách đọc này rất rộng, đó là diễn ngôn, là văn bản nói
chung, bờ ranh của cái gọi là nghệ thuật mờ đi. Đôi khi với ký hiệu học hay cấu
trúc luận, người ta có thể viết được một bài phê bình rất hay, rất sang trọng về
một văn bản bình thường, xoàng xĩnh. Hình như đó là thách thức lớn nhất đối với
người quan sát văn chương bằng đôi mắt ký hiệu học, điều này có lẽ Lã Nguyên đã
vượt qua. Hình như trong niềm hứng khởi, giọng văn của Lã Nguyên đôi lúc cũng
khá vang. Chỉ xin ông chú ý hơn biên độ của khái niệm “văn học Việt Nam” để đưa
các luận điểm khái quát chắc nịch. Chỉ xin ông xác định lại nội hàm giới hạn của
một số thuật ngữ khoa học mà ông dùng, vốn đã định hình và phổ biến trong không
gian học thuật thế giới.
Quan sát Lã Nguyên, từ công trình Phê bình ký hiệu học - Đọc
văn như là hành trình tái thiết ngôn ngữ, tôi nhớ đến phong cách nghiên cứu của
thầy Trần Đình Hượu (chiêm nghiệm sự vận động của văn chương Việt trong cái
nhìn văn hóa và lịch sử) và phong cách phê bình của Trương Tửu - Nguyễn Bách
Khoa (táo bạo trong tiếp thụ và vận dụng lý thuyết đến từ phương Tây): hình như
trong ông có cả hai phong cách ấy?
Công trình Phê bình ký hiệu học - Đọc văn như là hành
trình tái thiết ngôn ngữ chắc chắn sẽ mở ra những cảm hứng đối thoại mới về văn chương và sẽ chuyền lửa cho những ai say mê chữ nghĩa.
Ghi chú:
Ghi chú:
[1] Lã
Nguyên (2018), Phê bình ký hiệu học - Đọc văn như là hành trình tái thiết
ngôn ngữ, NXB. Phụ nữ, Hà Nội: Lã Nguyên khẳng định: “Văn hóa học chính là ký hiệu học và ký hiệu học là con đường duy nhất giúp tiếp cận hữu hiệu các hiện
tượng văn hóa, bao gồm cả văn học nghệ thuật”; “Bước ngoặt ở nửa sau thế kỷ XX
được gọi là “bước ngoặt ngôn ngữ học”, tr.6. Theo thiển ý, hai nội dung này có
thể còn thảo luận (NTTX.)
[2] Lã
Nguyên (2018), Sđd, tr.9, 10.
[3] Lã
Nguyên (2018), Sđd, tr. 321.
[4] Lã
Nguyên (20018), Sđd, tr.403.
[5] Lã
Nguyên (20018), Sđd, tr.14. Theo thiển ý, nội dung câu này “thực tiễn
sáng tác lại chứng tỏ, văn học hiện thực chủ nghĩa là nền văn học của thi ca”
có thể còn được thảo luận (NTTX)
[6] Lã
Nguyên (20018), Sđd, tr.25.
[7] Lã
Nguyên (20018), Sđd, tr.37, 38, 39.
[8] Lã
Nguyên (2018), Sđd, tr. 63, 64.
[9] Lã
Nguyên (2018), Sđd, tr. 64.
[10] Lã
Nguyên (2018), Sđd, tr. 101, 107.
[11] Lã
Nguyên (2018), Sđd, tr. 113.
[12] Lã
Nguyên (2018), Sđd, tr.114.
[13] Lã
Nguyên (2018), Sđd, tr. 116, 117, 118, 119, 120, 121, 122, 124, 125, 130,
131.
[14] Lã
Nguyên (2018), Sđd, tr.138. Về cảm giác này, theo thiển ý của tôi, có
thể còn có yếu tố khác: Nguyễn Tuân đặc biệt chú ý chất văn hóa (tính nhân tạo)
nơi cái đẹp, và ông viết bằng con người văn hóa. Những ai thiên về cái tự nhiên
thì sẽ thấy phục hơn là yêu văn Nguyễn Tuân (NTTX.)
[15] Lã
Nguyên (2018), Sđd, tr.138: “Cánh B.52 rụng xuống một thôn hoa
Hà Nội”.“Ở đây “cánh” là danh từ, “B.52” là hình dung từ”.
[16] Lã Nguyên
(2018), Sđd, tr.138, 139.
[17] Lã
Nguyên (2018) Sđd, tr.146-157.
[18] Lã
Nguyên (2018), Sđd, tr. 153, 158, 170.
[19] Lã
Nguyên (2018), Sđd, tr.180, 182.
[20] Lã
Nguyên (2018), Sđd, Về bản chất từ chương…, chú thích tr.210. Theo
thiển ý, còn có một cách hiểu khác về khái niệm “từ chương”: lối văn chỉ coi trọng
hình thức, kỹ xảo, không chú trọng nội dung, không thiết thực. Thơ Tố Hữu là
thơ ca tuyên truyền, chủ trương giản dị dễ hiểu, tác động rõ rệt lên người đọc,
sẽ không tương thích với cách hiểu này. Vì vậy, nếu tác giả giới thuyết khái niệm
theo cách hiểu của mình thì sẽ thuyết phục hơn (NTTX).
[21] Lã
Nguyên (2018), Sđd, tr.192.
[22] Lã
Nguyên (2018), Sđd, tr.235. Từ “nguyên tắc đồng thuận, đồng
ca cho chiến lược diễn ngôn truyền thụ tri thức”, cho là văn học htxhcn
thuộc loại hình văn học từ chương (theo E. Chernoivanhenko, tr.210).
[23] Lã
Nguyên (2018), Sđd, tr. 231.
[24] Lã
Nguyên (2018), Sđd, tr. 236, 237, 238, 239.
[25] Lã
Nguyên (2018), Sđd, tr. 268, 269, 271, 272, 273, 274, 285.
[26] Văn
xuôi hậu hiện đại Việt Nam: Quốc tế và bản địa, cách tân và truyền thống; Nguyễn
Huy Thiệp và bước ngoặt của văn học Việt Nam sau 1975 và Những dấu
hiệu của chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học Việt Nam qua sáng tác của Nguyễn
Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài
[27] Lã
Nguyên (2018), Sđd, tr. 318.
[28] Lã
Nguyên (2018), Sđd, tr.368.
[29] Lã
Nguyên (2018), Sđd, tr. 137.
SG, 29/9/ - 7/10/2018
Nguyễn Thị Thanh Xuân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét