Thứ Ba, 12 tháng 2, 2019

Văn học nghệ thuật Quảng Trị 1

Văn học nghệ thuật Quảng Trị 1
  
1- VĂN HỌC 
1.1- Văn học dân gian: 
Quảng Trị là vùng đất tuy chưa phải lâu đời so với lịch sử dựng nước của dân tộc nhưng lại là nơi chứng kiến bao sự kiện trọng đại của đất nước. Từ sau đám cưới công chúa Huyền Trân, Quảng Trị trở thành nơi hội tụ tinh hoa văn hóa truyền thống của dân tộc nói chung và của các vùng miền trong cả nước nói riêng. 
Văn học là cách thể sống của con người trong quá trình thích ứng với tự nhiên và cải biến tự nhiên ấy, đồng thời hoàn thiện các mối quan hệ giữa người với người trong những cấp độ khác nhau trong cơ cấu cộng đồng. Nói khác đi, sự vận động muôn hình muôn vẻ của chính bản thân cuộc sống con người cũng chính là sự vận động của đời sống văn học. 
Đứng chân trên một “ngã ba đường”, từng chứng kiến bao tiến trình phân - hợp, hợp - phân của các cộng đồng tộc người trong khu vực, đồng thời cũng là nơi gặp gỡ của nhiều nền văn hóa cổ (Đông sơn, Hoa Hạ, Ấn Độ, Chămpa)… và cũng là nơi diễn ra cuộc giáp mặt giữa hai nền văn hóa Đông Tây trong những bối cảnh bi hùng của thời cận đại, hiện đại… Những yếu tố lịch sử - địa lý đặc trưng ấy của vùng đất Quảng Trị dưới giác độ nghiên cứu văn hóa học và folklore học, bức tranh hay diện mạo văn hóa dân gian người Việt trên vùng đất mới khai phá chưa lâu thì những yếu tố gốc, tức nền văn hóa dân gian ngàn đời của người Việt từ vùng đất sinh tụ lâu đời của mình là châu thổ sông Hồng, sông Mã, vùng đồng bằng Bắc bộ tuy đã hóa thân, biến đổi trên vùng quê mới nhưng vẫn giữ được những “mẫu số chung” của nền văn học dân gian dân tộc Việt đồng thời vẫn tỏa sáng những sắc thái dân gian đặc thù của thiên nhiên và đặc biệt là những ngôi làng người Việt tiểu nông, trồng luá nước ở nơi ở mới. Về cơ bản nó vẫn là bản sao của xóm làng miền Bắc, được bao bọc trong các lũy tre làng. Một quy luật phổ quát là những lưu dân Việt dù đã mang theo những vốn liếng tinh thần và những truyền thống văn hóa cội nguồn bền vững đến đâu thì khi quần cư ở nơi ở mới, nhất là giao tiếp với những cộng đồng cư dân bản địa thì phải hòa nhập, tái tạo nên nếp sống mới, phong tục tập quán mới và các giá trị văn học nghệ thuật dân gian mới. Nói chung là tái tạo nền văn hóa mới của mình phù hợp với hoàn cảnh lịch sử và sinh thái tự nhiên, cụ thể nơi vùng đất sinh tụ mới. Vùng đất cát trắng gió Lào với bao khắc nghiệt của thiên tai địch họa nên con người ở đây trở nên rắn rỏi, cương nghị, dẻo dai, đạp bằng mọi khó khăn để tồn tại, để tạo dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc. Những con người mang vác sứ mệnh thiêng liêng của dân tộc mang gươm đi mở cõi, đứng chân nơi “đầu sóng ngọn gió” là những con người can trường, trọng nghĩa khí, nhân hậu, thủy chung, cởi mở, bao dung, độ lượng. 
Có thể nói, văn học dân gian người Việt Quảng Trị vẫn bảo lưu, tích cực hóa và phong phú hóa không ngừng những đặc điểm phổ quát và vững bền của văn học dân gian người Việt cổ. Điểm lại văn học dân gian Quảng Trị, rất dễ nhận thấy nó có đầy đủ các thể loại vốn có trong văn học dân gian của dân tộc song độ dày mỏng thì chênh, rất không đồng đều. 
1.1.1- Các thể loại tự sự: 
Ở thể loại tự sự phần thần thoại hầu như vắng bóng. Lịch sử một đi không trở lai! Việc sáng tạo các thể loại thần thoại và sử thi không thể nào trở lại với lưu dân Việt ở nơi ở mới cũng là điều dễ hiểu. Quảng Trị không phải là vùng đất cổ, chỉ mới được sáp nhập vào đất nước ta vào đầu thế kỷ XIV, sau đám cưới Huyền Trân công chúa. Vì vậy, “để giải thích nguồn gốc sự vật và ca ngợi những lực lượng thiên nhiên như biển, núi, nước, đất, cây cỏ, chim muông, gió, mưa, bão, sấm sét, mặt trời, mặt trăng… loại thần thoại này thấm sâu vào sinh hoạt tinh thần của người Lạc Viêt…”[1] đã không còn chỗ đứng trên vùng đất mới. Truyện kể “Sự tích đảo Cồn Cỏ và động Lòi Reng” là một mẫu truyện hiếm hoi có hơi hướng thần thoại, kể về một người rất khỏe tên là Thồ Lồ. Ông có nhiệm vụ đào đất, đắp núi. Có lần gánh một gánh đất quá nặng, đòn gánh bị gãy, hai sọt đất văng ra hai phía. Sọt văng về phía núi thành động Lòi Reng, sọt văng về phía biển thành đảo Cồn Cỏ, cái đòn gánh văng lên trời thành cái mống...
Hình ảnh ông Thồ Lồ gợi cho ta liên tưởng đến những nhân vật thần trong thần thoại Việt Nam, những vị thần khổng lồ lần đầu tiên xuất hiện trên trái đất, có nhiệm vụ đào sông, đắp núi cho con người sinh sống. Song mảnh vỡ gần như duy nhất ấy không khỏa lấp được khoảng trống là thần thoại trong hệ thống. Ngược lại, vốn truyện thần thoại Việt cổ còn lưu giữ trong ký ức những lưu dân đi mở cõi sẽ được phát huy, nó vẫn chiếm giữ một phần quan trọng trong hành trang mang theo như là những nền tảng tinh thần cho cốt cách tư duy của họ, góp phần tạo nên tiền đề cho sự sáng tạo nhiều truyện kể dân gian mới, đặc biệt là truyền thuyết, tức các truyện kể suy nguyên về các nhân vật anh hùng văn hóa và anh hùng giữ nước trên con đường đấu tranh với thiên nhiên và xã hội không kém phần cam go.
So với thần thoại thì truyền thuyết phong phú hơn nhiều. Công việc khai phá là sự chen lẫn giữa cái lạ và cái quen. Phương thức canh tác vẫn là nghề trồng lúa nước đã quen thuộc từ đời ông cha, song thiên nhiên, núi non, sông nước thì lại khá lạ lùng. Câu ca dao cổ sau điển hình cho tâm trạng của nhiều lớp cư dân đặt chân lên vùng đất mới: “Đất chi đất lạ đất lùng/ Nghe con chim kêu cũng sợ, con cá vẫy vùng cũng run!”. Truyền thuyết dân gian trên vùng đất mới đã ghi lại những cuộc thử thách lớn lao này. Truyền thuyết kể trực tiếp về một số các nhân vật anh hùng của thời mở đất, những nhân vật tiền hiền, hậu hiền có khi có danh tánh cụ thể của các vùng đất, những vị anh hùng hảo hán có sức mạnh phi thường, những con người “phá sơn lâm, đâm Hà Bá”, săn bắt cọp, thuần dưỡng voi; những con người giàu nghĩa khí, can trường, đứng lên chống áp bức bất công và chống giặc ngoại xâm luôn là đối tượng được truyền thuyết xưng tụng, tôn vinh. 
Người dân Quảng Trị cho đến hôm nay vẫn truyền nhau những truyền thuyết vốn được lưu truyền từ bao đời nay, như: “Nguồn gốc Câu Nhi”; “Nguồn gốc Như Lệ”; “Sự tích phủ Toàn Thắng”; “Sự tích Miếu Quán”; “Sự tích tháp Dương Lệ, tháp Trung Đơn”; “Sự tích Trảo Trảo phu nhân” làng Ái Tử; “Sự tích đền Thanh Tương Hầu”; “Sự tích Ông Dời ông Cụt” làng Nhan Biều; “Sự tích chùa Phật Lồi”; “Sự tích miếu hai danh tướng họ Trần”; “Sự tích chùa Như Phước”; “Chuyện tượng Nghè”; “Sự tích bàu Voi”; “Sự tích Thần Đá làng Phương Sơn”; “Sự tích các vị thần làng An Lợi; “Sự tích Thành hoàng làng An Mô”… đều là những truyền thuyết tiêu biểu, khá phổ biến trong dân gian cốt lưu lại cho người đời sau hiểu được nguồn gốc, những sự việc của những người đầu tiên khai phá dựng nên làng mạc. Những truyền thuyết sáng tạo văn hóa, gắn với việc lý giải các địa danh ấy là những minh chứng về một vùng đất thiêng, nơi tổ tiên của họ đã sống và chiến đấu với thiên tai địch họa để xây dựng nên xóm nên làng. Qua các truyền thuyết, người ta còn thấy toát lên niềm tự hào về non sông đất nước, về địa linh nhân kiệt, về sức mạnh, chí khí và phẩm chất của con người Quảng Trị. Ngoài truyền thuyết, nhiều anh hùng khai phá nơi vùng đất mới thường đi vào tín ngưỡng thờ phụng các tiền hiền, hậu hiền nơi đình làng. Đó là một cơ chế tinh thần nhằm củng cố sức mạnh cố kết cộng đồng làng/ xã. Sức mạnh xã hội và thẫm mỹ của hiện tượng xã hội này quan trọng tới mức về sau Nhà nước phong kiến phải dùng cách sắc phong cho các vị đó là Thành hoàng để cài đặt uy tín của các vương triều vào đời sống làng/ xã. 
Truyện cổ tích lưu hành ở Quảng Trị rất phong phú bởi các nguồn chủ chốt sau. Đó là các truyện cổ tích hàng đầu của văn hóa Việt cổ như Tấm Cám, Trầu cau, Cây khế, Cây tre trăm đốt, Sọ Dừa, Sự tích ông Táo… ra đời từ rất xa xưa đã được “mang vác” theo và lưu hành rộng rãi nơi vùng đất mới. Bên cạnh kho tàng truyện cổ tích của người Việt cổ “mang vác” theo như đã nói, ở nơi ở mới nhiều thế hệ con dân Quảng Trị còn sáng tạo thêm hoặc “chế biến”, lưu truyền một số truyện cổ tích cùng chủ đề trên thông qua sự giao lưu, tiếp biến văn hóa đa dạng, lâu dài trong khu vực. Nội dung truyện cổ nhìn chung vẫn là những môtíp trong kho tàng truyện cổ Việt Nam, phản ánh tâm tư, nguyện vọng của con người, đề cập những tình cảm riêng tư trong sinh hoạt cá nhân, gia đình và xã hội; đề cao đạo nghĩa, lòng nhân ái, yêu chính nghĩa, ghét gian tà, lên án cái ác, hẹp hòi ích kỷ, tôn vinh cái cao thượng. Nhiều truyện nêu bật các đức tính chung thủy, hiền hậu, đảm đang, siêng năng, cần kiệm. Hệ tư tưởng nho giáo có ảnh hưởng sâu sắc trong các truyện cổ nay có thêm các yếu tố triết lý Phật giáo được dân gian hóa cao độ theo quan điểm nhân văn của dân chúng. 

Truyện “Vác mía tìm dâu” kể chuyện ông già đi tìm dâu thảo bằng việc thử tài là nhờ cô gái nấu cơm mà chỉ có gạo và bó mía. Với sáng kiến dùng bả mía thay củi để thổi chín cơm, cô đã trở thành nàng dâu giỏi có đủ khả năng để cảm hóa được người chồng vốn ăn chơi lêu lỏng. Câu chuyện khiến người nghe cảm động về cái sự đảm đang khôn khéo và bản lĩnh của nàng dâu trong việc chăm sóc và xây dựng giang san nhà chồng. Truyện “Vợ ngoan làm quan cho chồng” cũng là một minh chứng về việc ca ngợi sự lanh lợi, khôn ngoan của người phụ nữ, truyện có khuynh hướng đạo lý. Truyện “Ông lão và người con trai” đề cao lòng hiếu thảo của con cái với cha mẹ. Sự thành thực, hiếu đễ của hai người con trai đã cảm ứng đến trời đất, kết quả là hai anh em đều được trời giúp và trở lại sống hạnh phúc bên cha già trong lúc những kẻ dã tâm phải đền tội. Truyện “Cây đa bến cộ” ca ngợi lòng thuỷ chung son sắt của cô lái đò với chàng khoá sinh xứ lạ. Truyện “Kén rể” ca ngợi chàng trai gốc gác nông dân chất phác, nhờ siêng năng mà lấy được vợ. Trong khi thi tài với một anh giỏi bắn cung và một anh giỏi làm thơ, anh chỉ dựa vào sức khỏe và chạy nhanh vác chiếc trống đồng băng qua một quãng đường dài về đến đích trong khi thơ của anh kia chưa làm xong, mũi tên của anh nọ cũng chưa bắn hết. Truyện “Ba cô gái nhà giàu và anh ngọng” lại là dạng truyện chống phong kiến cường hào, chống thói hợm hỉnh của bọn nhà giàu. Ba cô con nhà giàu có thói kiêu ngạo, học thói trưởng giả đã bị đám trai tráng trong làng sập mưu nên đành phải ngủ chung với anh nói ngọng, khi biết ra, lão nhà giàu một phen xấu hổ trước dân làng…  
So với truyện cổ dân tộc Kinh thì truyện cổ miền núi Quảng Trị phong phú, đa dạng hơn. Một số truyện cổ tích ở đây có tính chất suy nguyên luận như “Sự tích sao hôm, sao mai “(Pakô), “Tình nghĩa gà vịt” (Bru - Vân Kiều). Các truyện “Vợ chồng Ta-năng” (Bru - Vân Kiều), “Prơ-nhia học khôn” (Pakô) phản ánh sinh hoạt xã hội, có mục đích khuyến giáo đạo lý làm người, đề cao sự chung thuỷ, phê phán những hạng người xảo trá, lừa đảo trong quan hệ gia đình, xã hội. Truyện “Dàng A Lịch” là câu chuyện người đội lốt lợn có nội dung như những truyện cổ người đội lốt thú vật gớm ghiếc, xấu xí của dân tộc Kinh. Chính những hình thù quái dị ấy là một phương cách để thử lòng chung thủy, kiên trinh của người bạn đời của mình, thể hiện nhân sinh quan của người miền núi, rằng đừng nên đánh giá nhân cách con người qua bộ dạng bên ngoài... 
Truyện cổ thần kỳ miền núi khá hấp dẫn ở những yếu tố người thần, vật thần. Truyện “Con voi thần” hấp dẫn ở nội dung độc đáo, thể hiện sự chất phác cùng sự dung dị trong nếp sống, nếp nghĩ của dân tộc miền núi. Tư tưởng bao trùm lên các truyện cổ là điều thiện thắng điều ác, tình yêu chung thủy, trong sáng luôn được đề cao, những kẻ thống trị tàn bạo luôn bị lên án, cuối cùng bị trừng phạt. Nghệ thuật xây dựng truyện được cấu trúc trên hai tuyến nhân vật chính diện và phản diện, từ đó truyện bộc lộ chủ đề. Biện pháp gây hấp dẫn không chỉ là nêu bật những mâu thuẫn đối kháng giữa hai tuyến nhân vật mà còn nằm trong các tình tiết nhằm phục vụ cho ý đồ trên. Truyện cổ Pakô mượt mà hơn ở những lời hát thay lời đối thoại. Những lời hát ấy biểu lộ nội tâm phong phú, thầm kín của những con người ở núi rừng hoang dã: Ôi! Akay ơi!/ Buổi sáng em ra rẫy/ Lấy lá môn múc nước suối trong/ Em đứng soi bóng mình/ Sao thấy cả bóng anh (Cây bầu Pút). 
Nhìn chung, truyện cổ tích đã phản ánh được ước mơ, lý tưởng cũng như đạo lý, nhận thức và tình cảm của con người trước thiên nhiên và xã hội. Đó là việc đề cao vai trò của con người, đề cao đạo lý làm người, ước mong một cuộc sống thanh bình, hạnh phúc và mọi người thương yêu nhau, cùng nhau xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc. 

Trong kho tàng truyện kể dân gian Quảng Trị, dòng văn học trào phúng (truyện cười và chuyện trạng) là thể loại phát triển đa dạng phong phú nhất. Nó khôi hài, thâm thúy, hóm hỉnh, sâu sắc và phân bố đều khắp trên trên các thể loại nhưng nổi bật nhất vẫn là ở thể loại tự sự. Chúng được sử dụng như là một thứ vũ khí sắc bén chống lại giai tầng ăn trên ngồi tróc, bất tài, tham lam, gian ác; phê phán dí dỏm hoặc mỉa mai chua chát những thói hư tật xấu trong dân chúng; và mĩm cười khôi hài nhẹ nhàng, chua xót trước những nghịch lý thường gặp trong đời sống thường ngày như là một “phương pháp tinh thần hiệu nghiệm để chữa trị, sửa sang phong hóa cộng đồng”, từ đó mà giữ được tinh thần lạc quan và lòng tin yêu cuộc sống. 
Truyện Chủ tớ đối đáp, kể về ông chủ giàu có nhưng keo kiệt, bắt đầy tớ đi mua rượu mà không đưa tiền, đầy tớ hỏi chủ đáp: “Không tiền mua được rượu mới tài, có tiền ai mua mà chẳng được!”. Anh đầy tớ kia mang chai đi hồi lâu rồi kẹp chai không về, chủ hỏi đầy tớ đáp lại: “Chai không rượu uống được mới tài, có rượu thì ai mà chẳng uống được!”… Chủ tớ đối đáp” hay “Còn dài ngày ăn” đều là những truyện cười đả kích châm biếm thói hà tiện của giai cấp bóc lột. Phần lớn truyện cười tập trung vào việc phê phán những thói hư tật xấu của người nông dân; nụ cười châm biếm ở đây nhẹ nhàng, thấm thía. Răng giỗ không bay sang? là một trong những môtip truyện như thế. Ở làng nọ một hôm, ông hàng xóm nọ có giỗ mà cố tình không mời ông hàng xóm kia chỉ vì có tật tham ăn. Thấy cỗ bàn nhà bên soạn ra linh đình, chờ mãi không thấy ai sang mời, máu tham ăn nổi lên ông quyết định châm lửa đốt chuồng lợn của mình. Nhà hàng xóm có giỗ sợ cháy lan chạy ra can ngăn: “Bác đốt vậy tàn lửa bay sang cháy lây nhà tui thì sao?” Ông kia tỉnh bơ đáp: “Tàn lửa răng mà bay sang được! Tàn bay sang được răng giỗ nhà bác không bay sang nhà tui?..”. 
Truyện Xì xẹt thể hiện sự nhanh nhạy trong ứng xử của người nông dân. Truyện kể một ngày trước đám cưới, chàng rể kia đến thăm nhà vợ. Đến nơi anh thấy một người mặc yếm đang lúi cúi cho lợn ăn, tưởng là vợ chưa cưới của mình nên vỗ vỗ vào mông và nói: “Tối mai hai đứa mình xì xẹt hè!”… Người kia đứng lên, té ra đó là bà mẹ vợ, chàng rể sợ quá bỏ chạy về nhà, dứt khoát không cưới vợ nữa. Gạn hỏi mãi, ông chú mới biết sự tình vội chạy sang nhà bà xu lễ phép thưa: “Sáng nay bên nhà có bảo cháu sang thưa chuyện với ông bà là cưới cháu nhà có sắm thêm mấy phong pháo đốt xì xẹt cho vui. Không biết cháu qua thưa chuyện có rõ ràng chi không nên tôi qua để thưa lại với ông bà…”. Bà xu liền nghĩ chắc mình nặng tai không nghe rõ bỏ qua, đám cưới diễn ra suôn sẻ. 
Truyện “Cha vợ làm gì rể làm nấy” lại có ý chê trách sự ngớ ngẩn khù khờ của chàng rể và cũng là cách phê phán tục tảo hôn. Truyện “Anh chàng hai vợ” lại thể hiện thái độ châm biếm tục đa thê. Có anh chàng hai vợ, tối nào anh cũng bị nhốt ở phòng trong, trong khi vợ bé ngủ ở nhà dưới mà bà vợ cả kê giường nằm ngay ở cửa phòng canh gác. Chị vợ bé mong chờ chồng đến với mình mãi không được, buồn tình chị hát: Thuyền ơi có nhớ bến không/ Bến đây đêm đợi ngày mong thuyền hoài… Nghe vậy anh chồng cũng bồn chồn: Thuyền đây nhớ bến luôn luôn/ Muốn qua thăm bến sợ giới đồn cấm nghiêm. Nghe hai người đối đáp bà vợ cả gợi ý: Thuyền đà nhớ bến luôn luôn/ Ưa sang thăm bến thì vô đóng thuế đồn rồi sang. Anh chồng cáu tiết đáp trả: Thuyền đây vốn liếng bao nhiêu/ Ghé vô đóng thuế e xiêu cột buồm!... Các truyện “Lợn đực hết”, “Xèo xẹt”, “Ba nẹt tre được vợ”, “Phương thuốc hiệu nghiệm”, “Khoai từ khoai tía”, “Làm dọi”, “Ở với ông”... đều là những truyện “cười ra nước mắt” trong kho tàng truyện kể dân gian Quảng Trị. 

Giai thoại cũng là mảng đề tài rất phong phú. Giai thoại hay và được nhiều người nhớ là những câu chuyện về những con người tài trí thông minh trong các cuộc hò đối đáp. Họ là những người bình dân, làm ruộng, làm thợ nhưng thông minh, lịch lãm và xứng đáng là những nghệ nhân dân gian ưu tú. Ví như tài nghệ của ông thợ Bài trong tình huống bị thách hò một câu mà nội dung phải có đủ các con vật như con gà, con chó và có cả vầng trăng cùng một cặp nam nữ yêu nhau. Hò được thì được thưởng tiền nhưng không phải vì tiền mà thợ Bài hò ngay: Lắng tai nghe kê minh khuyển phệ/ Vầng trăng tỏ rõ đã vội xế đêm đông/ Anh ra về rồi em có nhớ nghĩa anh không/ Giấc mơ hồ điệp nhớ nghĩa vợ chồng mô đây? Hoặc câu hò đối đáp giữa bà Tùng và Cửu Hoãn. Bà Tùng tỏ ý coi thường ông Cữu Hoãn người làng Tân Trúc nên chơi chữ: Trai Tân Trúc trồng tre thở hoi hóp! Ông Hoãn cũng không vừa vặn gì: Gái Điếu Ngao xúc hến hát nghêu ngao! trước sự thán phục của công chúng. Thợ Thiềm cũng là một tay hò đối đáp nổi tiếng thông minh nhanh nhẹn được lưu truyền rộng rãi trong dân gian nhưng nhiều lúc cũng phải sa cơ, phải chịu thua trước những gương mặt nữ nhi sáng giá. Là giai thoại nhưng nhân dân ta rất tự hào, lưu truyền từ đời này qua đời khác thành một kho tàng văn nghệ dân gian gắn với những con người thông minh trí lự như là niềm tự hào của nhân dân về những người con xứ sở. 
Có những giai thoại tập trung vào một vài nhân vật như ông Tuyn, làng Bích Giang xã Cam Hiếu, Cam Lộ; Xạ Trạch làng Ninh Xá, huyện Gio Linh và cụ Đoan làng Võ Thuận, Triệu Phong. Họ là những nhân vật tiếu lâm ngoại hạng cùng thời, mỗi người mỗi phong cách không ai giống ai. Các cụ chưa ai gặp ai bao giờ nhưng đã bổ trợ cho nhau, gặp gỡ nhau nhau trên cái tinh thần tự do chủ nghĩa, coi trời bằng vung, ngông nghênh ngang ngạnh từ thuở lọt lòng cho đến lúc xuôi tay nhắm mắt nên đã lưu lại trong dân gian một kho tàng giai thoại trào phúng thông minh đồ sộ. Cái tài của những nghệ nhân sáng tạo nên hệ thống truyện kể hóm hỉnh và lôi cuốn này ở Quảng Trị thời cận, hiện đại là ở chỗ họ đã cống hiến cho người nghe nhiều tình huống phóng đại biết rõ mười mươi là vô lý rồi mà vẫn háo hức nghe và tin. Đặc trưng chung của hệ thống chuyện trạng chính là nhân vật trung tâm, tức người sáng tạo ra truyện đồng thời cũng là người kể truyện. Chìa khóa chính là ở điểm này. Để thưởng thức trọn vẹn cái duyên, cái hay, cái đặc sắc của chuyện trạng thì phải nghe trực tiếp các nghệ nhân, tức các nhân vật trung tâm ấy kể, làm khác đi truyện sẽ trở nên… nhạt thếch! Dưới đây đơn cử trường hợp cụ Tuyn. 
Cụ Tuyn, họ tên đầy đủ là Nguyễn Tuyn (1911-1968), cụ ít học song thuộc lớp tân thời. Thời trai tráng ông cụ đi lính Pháp sang Lào. Thời chống Pháp cụ về sinh sống ở làng, hành nghề thầy cúng, năng đi đây đi đó cũng vì bản tính thích ngao du. Bù lại Bích Giang là ngôi làng cổ kính, phong hóa. Làng có sáu họ, họ Hoàng là họ tiền khai khẩn đến Nguyễn nhất, Phan, Nguyễn tư, Nguyễn năm và Nguyễn sáu. Cụ là trưởng họ Nguyễn sáu nên ở làng quen gọi cụ bằng cái tên Trưởng Sáu. Quê hương cụ Tuyn tuy là vùng đất nông nghiệp, bán sơn địa nghèo nàn sỏi đá song đa số người dân nơi đây đều có đầu óc trào phúng. Ngoài truyện cười, một thứ đặc sản tinh thần đặc sệt phong vị dân gian của vùng đất, thì tiếng cười ở đây còn tiềm ẩn dồi dào phong phú từ trong ca dao, hò vè, truyện kể dân gian; nó bộc lộ tinh thần lạc quan và trí lự của vùng đất. Đâu phải dư ăn dư mặc mới cười, nghèo mà vẫn cứ cười mới lạ! Có điều người nghèo thì giàu cái cười châm biếm, đã kích. Họ đã kích cái thói hà tiện của quan lại phong kiến; châm chích ngay cả thói hư tật xấu của chính mình là người nông dân tay lấm chân bùn. Tất cả đều được cụ Tuyn tiếp nhận và nâng cao, xin được dẫn một vài mô-típ phổ biến trong kho tàng hàng trăm giai thoại ấy. 

Việc cụ thường xuyên chống đối quan lại, trong dân gian có rất nhiều câu chuyện, ví như “Quan huyện mắc mưu ông hội tề” là một ví dụ. Quá nhiều lần quan huyện huy động các làng nộp tre làm hàng rào, cụ Tuyn bấy giờ làm hội tề muốn giúp dân làng mình ngầm chủ trương không nộp. Khi kiểm tra sổ thu thấy các làng trong xã đã nộp xong trừ Bích Giang chưa nộp cây nào, quan huyện gọi hội tề lên quát: - Tại sao Bích Giang không nộp tre? Ông cụ thản nhiên: - Dạ tui nộp rồi! Không những nộp đủ mà còn đánh dấu đỏ vào từng bó nữa, mời quan ra coi. Nói rồi ông cụ dẫn quan huyện ra sân chỉ vào những bó tre ngày hôm trước đã phết sơn đỏ vào và ghi tắt hai chữ B.G. tên làng cụ... Quan huyện chịu thua. Cả làng Bích Giang không những thoát nạn mà còn hả hê cười cho đến tận bây giờ! 
Đặc biệt là những câu chuyện cụ phản kháng cái trật tự gọi là "manh chiếu giữa làng", như chuyện “Có văn rồi yết!”. Lệ thường mỗi khi tế lễ ở đình Trung, đầu hôm làng có bài văn gọi là “túc yết” mời thần linh, ông bà về dự. Sáng sớm hôm sau vào lễ chính, làng có bài văn “đọc chúc”, tất cả đều phải viết ra trên sớ. Đêm ấy ông hội chủ, trưởng các họ tộc cùng ông văn lễ bày các chiếu cờ ra đánh, ham cờ mà bỏ qua việc viết sớ đọc chúc, thay bằng việc khấn trầm. Cụ Tuyn biết mà làm thinh. Đợi khi vào lễ, đại cổ, tiểu cổ vừa khởi động xong, ông hội chủ quỳ xuống khấn trầm, cụ lên tiếng: - Thưa làng, phải đình tế lễ lại ngay! Cớ răng (vì sao) đầu hôm lễ túc yết có văn sớ mà sáng nay lễ chính không có văn?.. Ông hội chủ quay lại hội ý lần nữa, thống nhất khấn trầm nhưng cụ Yuyn vẫn cứ cứng đầu: - Thưa chú bác, thưa làng! Ông hội chủ khấn trầm giữa đình Trung chú bác có ai nghe ông khấn như thế nào không? Vừa rồi giữa tui và ông có điều thắc mắc nên thưa làng, biết đâu ông hội chủ lấy việc khấn trầm để chưởi ông bà tôi thì làng biết tai hại như thế nào không?... Trước lý lẽ thẳng băng của cụ làng buộc phải đình lễ, có văn rồi yết!. 
“Người mất hai đồng, kẻ mất ba!” cũng là giai thoại cụ chơi khăm bà bán hàng sành sứ chén đọi ngoa ngược chợ Phiên Cam Lộ. Vào chợ, cụ cầm cái bình đất lên săm soi tỳ vết khá kỹ càng rồi hỏi: - Bình ni mấy tiền? O bán hàng: - Năm đồng! Cụ dợm giá: - Hai đồng được không? O bán hàng chanh chua, chì chiết: - Hai đồng! Mới được cái vòi!.. Cụ Tuyn “ngây ngô” đồng ý, rút trả hai đồng, bẻ ngay cái vòi rồi trả lại o bán hàng cái bình sứt. Giữa chợ, o kia lồng lên, bắt ông cụ vào ủy ban xã Cam Thái (cạnh chợ Phiên) xét xử. Cụ đồng ý: - Ờ thì đi!.. Gặp cụ, Ủy ban xã biết ngay là đã gặp một “khách hàng” tinh quái, cao thủ đành xử hòa. Coi như trong vụ mua bán này người mất hai đồng, kẻ mất ba!... 
Ở thời đại nào, lứa tuổi nào thì việc chọc ghẹo phụ nữ cũng là đề tài trung tâm, nhất là đối với những con người tài năng và hóm hỉnh. Ở làng Quật Xá có một cái giếng dành riêng cho phụ nữ tắm truồng vào những buổi chiều tà, những đêm trăng thanh gió mát. Qua lại trong vùng cụ biết, quyết đùa phen chơi. Bẻ cành cây bên đường làm gậy, đội cái nón trụp mặt, cụ ông đi đứng như một lão mù, lần mò tới giếng. Đám con gái í ới: - Có ông nào bị mù đi lạc đường bay ơi!.. - Dạ thưa, tui đi đường xa đang khát, tai nghe có tiếng gàu múc nước lần đến, xin mấy o miếng nước. Đám con gái tin cụ mù thật, khúc khích cười, múc nước đưa ông. Tay bưng gàu nước, uống vài ba ngụm cụ khà..., tỏ ra khoái trá rồi khen: - Chà cha, nước giếng làng này mát quá, uống vào tui thấy sáng mắt ra… Đoạn ông mở mắt ra hỏi tỉnh queo: - Thì ra các bà các cô tắm truồng đấy à!.. Đám con gái bỏ chạy tóa lỏa… Theo bước chân cụ ra đường, lại bắt gặp vô số giai thoại khác. Hàng trăm giai thoại kiểu như: “Thôi thì cho mày tất”, “Chơi khăm bốt cảnh sát Đông Hà”, “Cho tui xin lên Cam Hiếu”, “Cho tui xuống xe”, “Giả mù được đãi chầu rượu”, “Quỵt bà chủ quán”, “Không nội không ngoại gì nữa sất”, “Che bụ (vú) được thưởng”, “Tui bị đau răng”, “Móc dù”, “Xẩm xẩm rấm ai?”, “Dà mạ” (nhà mẹ) cũng cháy nữa là “dà con” (dạ con)!", “Cắt tóc kiểu hết trơn” v.v… đều là những câu chuyện cười ra nước mắt. 

Không ai khác, các cụ là những con người bình dị, bình thường như những nông dân khác nhưng luôn ẩn chứa trong mình một sự bùng nổ. Ở những con người này luôn thường trực, chứa đựng nội hàm của động từ "phá", phá cái xiềng xích cũ thay vào đó cái mới. Thông qua những trò đùa dai dẳng như vậy, rõ ràng cụ đã công khai cười nhạo thói tục đạo đức quy chuẩn gò bó của xã hội đương thời. Không phải là con người như thế, không thể với những cái chức vị nhỏ nhoi như là trưởng xâu (cái chân sai vặt), “Trưởng sáu” (trưởng cái họ cuối cùng ở làng) hoặc cao như hội tề (trưởng làng) hay đi lính sang tận bên Lào (cũng là một thứ đánh thuê)… mà cụ dám chống đối, phản kháng lại cái trật tự hủ lậu của quan lại thực dân phong kiến ở những manh chiếu giữa làng theo kiểu ấy được. Suy cho cùng, ở bất kỳ thời đại nào thì lịch sử cũng tìm cách sinh ra những con người ưu tú (ngày nay gọi là nghệ nhân ưu tú), những con người tài hoa đại diện cho thời đại của mình. Một khi đó là trí khôn, là sự lựa chọn của lịch sử thì không ai cưỡng lại được. Vài trăm năm sau chưa dễ đã xuất hiện thêm một một vài người kiểu như cụ Tuyn, thợ Thiềm, cụ Xạ Trạch, cụ Đoan… vì những con người sinh ra để mang vác cái sứ mệnh sản sinh ra một thứ đặc sản tinh thần của vùng đất như thế thường xưa nay hiếm. Bây giờ trình bày thêm về chuyện trạng Vĩnh Hoàng. 
Vĩnh Hoàng là ngôi làng cổ có tên trong Ô Châu cận lục ra đời cách đây hơn 500 năm, sau cuộc “Nam phạt” của nhà Lý. Gia phả họ Huỳnh (Hoàng) lưu giữ ở làng cho biết, trong dòng người phía Bắc đi mở cõi có ông Huỳnh Đại La người xứ Hoan Châu cùng con trai đã dừng chân ở nơi này; một nơi chốn bấy giờ hoang sơ nhưng đất đai phì nhiêu, non sông cẩm tú, chim chóc muông thú ngập tràn. Sau đó, các dòng họ khác như Trần, Nguyễn, Tạ… lần lượt đến đây gây dựng nên làng quê trù phú. Tên làng Huỳnh Công ghi nhận công lao khai phá đầu tiên của họ Huỳnh nói trên không có gì là lạ. Từ làng Huỳnh Công ban đầu, ranh giới làng dần dà được mở rộng về các hướng, hình thành thêm mười tám thôn khác nhau tạo nên một xã Vĩnh Hoàng mênh mông. Đến năm 1955, Ủy ban hành chính Khu vực Vĩnh Linh tách Vĩnh Hoàng thành bốn xã Vĩnh Tú, Vĩnh Thái, Vĩnh Trung, Vĩnh Nam như bây giờ. Địa danh “làng Vĩnh Hoàng” thực chất là làng Huỳnh Công (gồm ba thôn Huỳnh Công Tây, Huỳnh Công Đông và Huỳnh Công Nam) thuộc xã Vĩnh Tú ngày nay. Có điều lạ là trong cái địa phương rộng lớn này thì chỉ có mỗi làng Huỳnh Công có ngón nghề kể chuyện trạng nên gọi chuyện trạng Vĩnh Hoàng hay chuyện trạng Huỳnh Công thực chất cũng chỉ là một mà thôi. Nhưng do thói quen ban đầu gọi là trạng Vĩnh Hoàng nên cứ định danh là Vĩnh Hoàng, không cần biết rằng trên bản đồ hành chính cái tên “Vĩnh Hoàng” đã giải thể, mất đi từ năm 1955. 
Lại nói về xã Vĩnh Tú, nơi có chuyện trạng Vĩnh Hoàng có nhiều đặc sản. Trước tiên là dưa, thứ dưa đặc trưng, “đen trùi trũi, to vật vã, vỏ cứng như đá nhưng ruột đỏ tươi”, mềm và ngọt thì “ríu cuống lưỡi”. Thứ đến có bàu Thủy Ứ. Đây là một bàu nước tự nhiên, đồn là sâu không có đáy, quanh năm không bao giờ cạn. Bàu Thủy Ứ còn là một kho cá tôm bất tận, đến bây giờ vẫn có những cá thể to ngoài sức tưởng tượng, dân làng gọi bằng “cụ”: “cụ Đô”, “cụ Chép”, “cụ Rô”… , có “cụ” còn biết “gáy oang oác như gà”. Ở đây cái sự nghèo cũng biến thành đặc sản nổi tiếng. Kiểu như “ăn cơm bữa diếp”, “đói rạ mắt”, “quần chó táp đứng” hay câu ca phận nghèo “Áo rách chi lắm áo ơi/ Áo rách trăm chỗ không nơi rận nằm” cũng chính là từ mảnh đất này sinh ra. 
Đối mặt với cuộc sống khắc nghiệt thiếu thốn trăm bề, thay vì mang tâm lý bi quan tuyệt vọng thì người dân Vĩnh Hoàng lại có một phong cách sống khí khái, tự tin sôi nổi, lạc quan yêu đời thông qua những kỹ năng trào lộng bậc thầy. Qua đầu óc hài hước và sự liên tưởng thú vị, họ đã biến những khó khăn thành những câu chuyện cười. Dẫu đã bị phóng đại hàng trăm hàng ngàn lần, hoặc sẽ không bao giờ xảy ra, hoặc không bao giờ con người có khả năng làm được nhưng nghe vẫn thấy thật có lý, biết là trạng mà cứ thấy chân thật. Bao câu chuyện li kỳ trong kho tàng chuyện trạng Vĩnh Hoàng đều được bắt nguồn thiên nhiên và con người Vĩnh Hoàng hiện ra quê mùa, dân dã, chất phác và hồn nhiên, tươi đẹp.
Từ những trảng dưa, từ củ sắn, củ khoai, trái ớt, con cá, con tôm, đực chép, đực tràu, đực rô, đực trâu, đực cọp… tất cả đều sinh chuyện, đều có thể phát sinh ra nhiều câu chuyện hài hước, độc đáo, thú vị, bất ngờ. Tuy có biến đổi qua thời gian, kho tàng chuyện trạng Vĩnh Hoàng vẫn định hình ở ba loại hình cơ bản. Đó là những câu chuyện trạng liên quan đến quá trình lao động, sản xuất, sinh hoạt thường ngày từ khi mới lập làng; chuyện trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ; chuyện xảy ra ở thời kỳ đổi mới, thậm chí vừa xảy ra ở thì hiện tại. Có rất nhiều câu chuyện tiêu biểu trong kho tàng chuyện trạng Vĩnh Hoàng kể không bao giờ hết. Bọ đi cày ruộng khuya, nhập nhèm sáng tối bọ cải luôn ông cọp với con bò cày đôi. Gần về sáng thấy có sự lạ, không biết răng hôm ni đôi bò trở chứng lồng dữ ri? Bọ tới tháo cày, cho đôi bò ăn cỏ sớm, rứa là đực cọp cong đuôi chạy bán sống bán chết vô rú (chuyện Cải cọp cày). Đi cắt tranh về lợp nhà, khi đem phơi “chộ” mấy cái đuôi cọp lẫn lộn trong mấy bó tranh, “máu me một vằn hai vện trông mà gớm ghiếc, ròi lằng (ruồi, nhặng) bu đen” (Bứt tranh bứt nhầm đuôi cọp). Quả dưa đỏ to đến nỗi đàn quạ khoét vỏ chui vô ăn, bọ ngồi bên, cứ thò tay vô “bắt bọp, bắt bọp” (giết) mỏi cả tay, từ sáng đến tối vẫn không hết quạ (Bắt bọp). Một bụi khoai lang quá tươi tốt, khi thu hoạch người dân lần theo ngọn của nó. Đi hết buổi, cuối cùng mới biết mình đã ra đến đất Quảng Bình (Ngọn khoai lang bò hai tỉnh). Ấn tượng nhất trong môtip các câu chuyện về đặc sản quê nhà này vẫn là câu chuyện Cá đô bảy món, xin chép lại nguyên văn để bạn đọc cảm nhận được sự hóm hỉnh, tếu táo, lôgic; không lôgic không thành chuyện trạng [2]: Rảnh rỗi, bọ xách cần câu ra bàu Thủy Ứ kiếm chút cá cải thiện. Bọ móc mồi lấy đà quăng cần một phát, ai dè chạc (dây) câu chạy ro ro, không xuống bàu mà qua tận bên rú Hàn. Đang nghĩ, lỡ hắn mắc cột cây thì ai qua gỡ cho, thì ở mô một lạo chuốc chuốc (chim cuốc) đã lao ra đớp mồi chạy, chưa được mấy bước thì một ả chồn chắc rình rập nãy giờ, chộp luôn. Bọ xâm mắt nhưng cũng mừng thầm, không câu được cá thì có chuốc chuốc với chồn rồi. Rứa là bọ bình tĩnh, trặc (giật) cần câu, lôi cả hai con xuống bàu. Mới được một đoạn thì, oa chà, từ dưới bàu, một đực tràu đại chang (to lớn), trốôc (đầu) nổi lên đen thui như cái nồi bung, lao lên ngoạm luôn ả chồn lặn mất tăm. Hoảng quá, bọ trặc cần, vật chắc với đực tràu. Hắn kéo, bọ trì, thi gan rứa, từ sáng đến chiều. Chạc cước câu căng như dây đờn (đàn), gió thổi qua kêu tửng từng tưng. Cuối cùng đực tràu đọa, bọ lôi lên bờ, kéo về nhà, bọ lấy cuốc xợt (chắn) vảy, cho mỗi người trong xóm một cái làm quạt… Bọ mổ bụng đực tràu lôi ra ả chồn, mổ bụng ả chồn lôi ra lạo chuốc chuốc, mổ bụng lạo chuốc chuốc thì ôi thôi lủ khủ là cá, tôm, tép... cả rổ. Vị chi hôm đó nhà bọ mần được bảy món: tép rang, cá rán, lòng xào sả, chồn giả cầy, thịt hong, cháo lòng và lẩu (Cá đô bảy món). Kể xong câu chuyện, tác giả còn bình thêm: “Rõ ràng trên thực tế, chim cuốc thường ăn cá, ăn tôm, chồn ăn chim, ăn chuột,… nhưng không thể có sự ngẫu nhiên kỳ lạ để cùng một lúc bọ tóm được nhiều đến vậy. Chưa kể đến chuyện không thể có “đực tràu” nào to như thế (nuốt cả con chồn) và khỏe như thế (vật nhau với người). Thế nhưng cả câu chuyện, qua lời bọ kể, lại là một sự hợp lý hợp tình nghe thật… sướng lỗ tai” [2]. Chuyện trạng thời chống Pháp chống Mỹ có rất nhiều, truyện nào cũng thăng hoa, cũng tràn đầy tinh thần lạc quan, xem việc đánh giặc, đối đầu với thằng giặc cũng nhẹ nhàng như đi làm đồng. Ấy là chuyện một hôm bọ ra đồng, thấy “đực” trực thăng “vè vè liệng liệng” sát rạt trên đầu, tức máu, bọ dùng… cuốc khoèo cẹng (cánh) nó xuống, giằng co một hồi, bọ mệt, thả cuốc, máy bay mất đà, bổ chúi vô độông cát, tởn đến tra (già) cũng không dám mò tới nữa (Vít cổ tàu bay). Dân quân làng Huỳnh Công đào địa đạo, Khu đội Vĩnh Linh gọi lên báo cáo kết quả, họ bảo không biết bao nhiêu mà kể, chỉ biết rằng khi đào xong thì gặp mấy anh to cao râu ria xồm xoàm, nói xì xồ xì xà. Hỏi ra mới biết là gặp con cháu của… Fidel Castro, nghĩa là đào đến đất nước Cu Ba rồi (Địa đạo xuyên lục địa). Vợ chồng nọ đi trực dân quân, tranh thủ ghé về hầm coi mấy đứa con nhỏ ngủ ngáy thế nào. Lần lượt sờ đầu thấy ba đứa con đều mát mẻ, riêng đứa ngoài cùng, không biết con cái nhà ai lại lạc vô nằm chung đang sốt nóng hầm hập. Bật đèn lên coi thì hoá ra là… một quả bom khoan máy bay Mỹ vừa thả xuống, không biết cách chi lại chui tọt vô hầm ngoan ngoãn nằm với mấy đứa trẻ. Vậy là hai vợ chồng lặng lẽ khiêng “đứa con dư” ra vứt ngoài vũng trâu nằm (Đứa con dư)… Tương tự, những câu chuyện sáng tác vào thời kỳ đổi mới, vừa xảy ra ở thì hiện tại cũng không kém phần ly kỳ.
Kể về cây cao su, một thế mạnh về phát triển cây công nghiệp của xã, có chuyện anh cán bộ xã lên huyện họp, giữa đường bị bể ruột xe máy, liền nhấc cả bánh xe nhúng vô chén mủ cao su trong vườn, “rứa là chạy ngon ơ ra Hồ Xá, vèng mấy vòng quanh xã nữa mà nỏ chộ (không thấy) hư hỏng chi thêm”. Chuyện thằng cu con khuya đi đổ mủ cao su, sáng về nửa người phía dưới trắng bạch, nửa người trên thì đen. Hỏi vì răng, bảo mủ chảy nhiều quá, đầy cả vườn, lội vô ngập ngang lưng quần mới ra ri đây… Cuối cùng, một vấn đề vừa thuộc về nội dung vừa là thủ pháp nghệ thuật ít được các nhà nghiên cứu để ý tới cần lưu ý. Khác với tiếng cười đả kích, phê phán hoặc chê bai (cái ngu dốt trọc phú của bọn tham quan ô lại hay những thói hư tật xấu trong nội bộ của người nông dân) như chuyện cười ở các nơi khác, xuyên suốt nội dung toàn bộ kho tàng chuyện trạng Vĩnh Hoàng thuần túy chỉ biết ca ngợi những điều thật bình dị của cuộc sống hàng ngày, không hề có nhân vật phản diện, không có cái xấu cái ác cần lên án, đả kích. “Đực” cọp nó đe dọa đời sống dân làng; “lạo” giặc lái, phi công Mỹ tàn ác hung hãn như thế khi gặp người dân Vĩnh Hoàng, đã được cái tinh thần lạc quan yêu đời của làng trạng quy phục một cách rất tự nhiên. Có thể nói, chuyện trạng Vĩnh Hoàng là một loại hình văn hóa hòa hợp, thích nghi với tự nhiên; là “thiên nhiên thứ hai” do làng nói trạng sản sinh ra. 

Nói về cách dựng chuyện, kể chuyện và dẫn dụ người nghe, tức là những thủ pháp nghệ thuật đặc sắc của chuyện trạng Vĩnh Hoàng, Trần Thanh Hải chỉ ra hai phương thức không thể thiếu, đó là phương thức phóng đại và việc sử dụng phương ngữ. 
1- “Người nông dân luôn sử dụng phương thức phóng đại đối với mọi chi tiết, sự vật; không sử dụng phép so sánh trực tiếp, mà lại sử dụng phương thức phóng đại gián tiếp, nên luôn đặt người nghe vào sự liên tưởng, để hiểu cái chất “trạng” ẩn trong đó. “Bọ nói về quả dưa đỏ bọ trồng được, to lắm, nhưng gián tiếp bằng hình ảnh đạn bắn vào mắc kẹt không ra được, thằng cu ăn dưa bị gãy mấy cái răng vì nhai phải đầu vỏ đạn; Bọ nói về những quả ớt khổng lồ, gặp gió đung đưa rổn rảng, nên khi đi thăm đồng từ xa bọ tưởng… bầy voi vô phá, khua ngà lung tung. Một củ sắn để lâu ngày quên đào lên, con trâu bờm của bọ dẫm phải sụp vô trong ruột, mắc kẹt luôn, thế là từ trâu đen thành trâu trắng vì bột sắn phủ lên kín người… 
2- “Một điều kỳ lạ nữa trong cách kể chuyện trạng Vĩnh Hoàng là mọi vật đều bị bọ biến thành đực hết: “đực rạ” (cây rựa), đực bò, đực trâu, đực tràu (con cá lóc), đực coọc (con cọp, hổ), đực nhà, đực tàu bay Mỹ, đực trốôc cúi (cái đầu gối), thậm chí là đực… mệ (người phụ nữ lớn tuổi); mà thực ra những thứ này phải gọi là cái, là con. Thế nhưng cái từ “đực” nặng trình trịch và không lấy gì làm tế nhị ấy khi đặt trong câu chuyện và cách kể của bọ lại nghe rất thích thú, rất đặc trưng. Đó chính là những nét đặc biệt riêng có của chuyện trạng Vĩnh Hoàng… Giọng nói của người dân Vĩnh Hoàng rất nặng, cách phát âm luôn mất thanh ngã, chỉ sử dụng thanh hỏi (?), ngữ điệu thay đổi nhanh ở đầu câu, kéo dài ở cuối câu, kết thúc mỗi câu luôn sử dụng các thán từ: hấy, há, ui dà, đó nơ, đó tê… nhấn nhá rất đặc trưng, âm điệu trầm bổng theo từng tình tiết câu chuyện, cùng với thái độ, sự biểu cảm trên nét mặt, kết hợp các cử động về chân tay, cách di chuyển, dáng điệu… tạo nên sự tổng hoà của những câu chuyện trạng thật ngộ nghĩnh, dân dã với sức hút kỳ lạ lôi cuốn người nghe… Chuyện của bọ nhất quyết phải có những eng, ả, đực, lạo, hấy há, răng, rứa, mô, tê, ri, cấy dông (vợ chồng), cơn (cây), cươi (sân), rọng (ruộng), đàng (đường), nác (nước), lả (lửa), đòn triêng (đòn gánh), keng (canh), trốc (đầu), rọt (ruột), cẳng (chân), mẹng (miệng), trốc cúi (đầu gối), cùn (quần), đùi, lẻ (gậy), lịp cời (nón), giăng nạp (bờ rào), bạng chắc (đánh nhau), chạc (dây), lái (lưới), ló (lúa), bù (bầu), bín (bí), chứa (quả thơm, dứa), bầy choa (chúng tao), lộ mô (chỗ mô), ròi (ruồi), lằng (nhặng), tắn (rắn), trùn (giun), ếc (ếch), náng (nướng), lọc (luộc), tra (già), nậy (lớn), chộ (thấy), côi (trên), đưới (dưới), đọa (mệt)… bày ra tràng giang đại hải mới thực sự đánh đố người nghe. Những đoàn khách ngoại tỉnh đến Vĩnh Linh luôn muốn nghe chuyện trạng Vĩnh Hoàng.
Khi về hỏi họ hay không? Quá hay. Vui không? Quá vui, nhưng… chẳng hiểu gì hết. Có bấy nhiêu tiêu chí, có thể nói là ngặt nghèo dành riêng cho các nghệ nhân kể chuyện trạng, nên không phải ai ở làng Huỳnh Công cũng có thể kể được chuyện trạng. Cách đây vài chục năm đã hiếm, nay chỉ dăm bảy bọ (người). Kể chuyện trạng hay phải là “bọ” chính hiệu sinh ra và lớn lên nơi này, với chất giọng ồ ồ khàn khàn vì nước chè đặc và thuốc vấn sâu kèn, với cách sử dụng ngôn ngữ địa phương nhuần nhuyễn và la liệt trong câu chuyện. Bắt được thằng phi công Mỹ nhảy dù, bọ dân quân hô to: Cổi lịp cời! Bỏ ốông chối xuống!, thằng Mỹ lắc đầu lia lịa, bọ quát tiếp: Mi vèng côi trời có chộ bầy choa mần chi đưới ni khôông? Thằng Mỹ ngẩn tò te. Bó tay. Bọ hỏi thế thì đến bố nó sống lại cũng không hiểu nổi! (Tạm dịch: Cởi mũ, bỏ điện đàm xuống! Mày bay trên trời có thấy chúng tao làm gì dưới này không?) Nhưng phương ngữ đặc trưng của người Vĩnh Hoàng và của chuyện trạng Vĩnh Hoàng là phải vậy, càng đậm đặc ngôn ngữ địa phương càng hay” [2]. 
Hầu hết các nhà nghiên cứu đều thống nhất, trạng Vĩnh Hoàng là báu vật sống, là hòn ngọc quý hiếm có một không hai trong kho tàng văn hóa dân gian cả nước. Cần có các giải pháp căn cơ hơn để bảo tồn và phát huy giá trị hòn ngọc quý hiếm này. 
Trong thể loại tự sự còn có Vè. Khi nói đến Vè, người ta thường nghĩ đến lối đọc thơ bốn chữ có nhịp, hơn một chút là có kèm theo một chiếc phách gõ vào đầu nhịp một cách đều đặn. Ví dụ: Ve vẻ vè ve/ Nghe vè con gái/ Chân tay mềm mại… (những chữ gạch dưới biểu thị nhịp đầu phách). Lối kể Vè trên phổ biến ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, nhưng từ sông Gianh trở vào, Vè được phân chia thành hai loại là Vè bốn chữ và Vè song thất lục bát. Vè bốn chữ gọi là kể vè hay nói vè; vè song thất lục bát gọi là hát vè (ở đây chỉ trình bày phần kể vè; riêng hát vè trình bày ở mục các loại hình diễn xướng dân ca). 
Có thể phân loại nội dung của vè ra thành các nhóm cơ bản sau: 
Vè ca ngợi sự phong phú của sản vật, thổ sản địa phương như các bài vè trái cây, bánh trái, tôm cá, vè con kiến… mà tiêu biểu nhất là bản tổng kết có tính phương ngữ dài nhất nước về những đặc sản mang dấu ấn, hương vị mộc mạc của quê nhà Quảng Trị: Nem chợ Sãi, Vải La Vang, Lựu Thượng Phước, Nước độc Kim Giao, Gạo Phước Điền, Chuông Sắc Tứ, Khoai từ Trà Bát, Quạt chợ Sòng, Cá bống Bích La, Gà Trà Lộc, Môn độn An Đôn, Tôm đồng Mai Lĩnh, Bánh ít Đạo Đầu, Trầu nguồn Khe Gió, Cỗ Trung Đơn, Thơm Bồ Bản, Nghệ vàng An Lộng, Xôi thống Hải Thành, Gạch Trí Bưu, Lựu Triệu Phước… 
Đúng như tên gọi, vè sinh hoạt xã hội có một phạm vi phản ánh khá rộng lớn, trở thành một hệ thống gương soi từ cung cách làm ăn (Vè tính ruộng, Vè giữ trâu, Vè đốt than, Vè chăn vịt, Vè đám cưới, Vè con kiến, Vè chơi Tết… …), về đạo lý, trường học làm người (Vè dạy vợ, Vè dạy con gái, Vè khuyên con đừng đánh bạc, Vè con gái, Vè làm vợ nhỏ, Vè ve gái, Vè mụ nhác, Vè ăn hàng, Vè chửa hoang...). Ngoài ra còn có các bài vè nói ngược, ở đó sự thông thái dân gian được thể hiện sắc nét trong nơi chân lý được thông báo dưới dạng nghịch đảo và khi tiếp nhận bao giờ cũng kèm theo nụ cười khi được giải mã… Nội dung những bài vè thế sự thường mang tính xã hội sâu sắc. Thử nghe đoạn vè ăn hàng: Ve vẻ vè ve/ Nghe vè ăn nợ/ Đàn bà đi chợ/ Bắt dông trả hoài./ Bánh ít giun khoai/ Bánh xoài giun đậu/ Bán hai tiền cấu/ Bới ba mươi đồng./ Mua hai đồng lòng/ Một đồng bánh tráng/ Miệng hỏi sang sảng/ Bún bán đầu mô./ Bún bán đầu hồ/Chỏ vào bánh gói/ Vừa đi vừa nói/ Mua về cho con/ Mở ra chộ ngon/ Mở họng ra ních...
Đoạn vè làm vợ nhỏ: Ve vẻ vè ve/ Nghe vè con gái/ Mặt thắm má hồng/ Không đặng đời chồng/ làm tôi vợ mọn./ Ở ngoài nói rứa thì thôi/ Làm tôi vợ mọn không biết ngồi chỗ mô./ Phần bán phần mua/ Anh chẳng dám nhủ./ Phần lo gia sự/ Anh nỏ dám quyền:/ Ăn rồi gánh nước cho liên/ Đem về nấu nướng, trăm phần ấm no/ Chị xem như đứa ở mùa... Kết cục là sự ra đi không hề tiếc nuối “chồng chị trả chị, tôi về tay không” và bài học cũng thật bạc bẽo, bẻ bàng “có tiền xin chị một đồng, tôi sang tôi trả cho ông đưa đò”... 
Ở nhóm thứ ba là vè tố cáo tội ác phong kiến thực dân và nỗi khổ dân đen như vè bắt lính, vè chống Pháp, vè kháng chiến và vè địch vận. Hàng trăm bài vè kháng chiến phản ánh nỗi khổ của người dân trong các cuộc chiến tranh xâm lược và nêu bật tinh thần chiến đấu ngoan cường của người dân ở một vùng đất có truyền thống đấu tranh như Quảng Trị là tài sản quý giá ông cha ta trả giá bằng xương máu và tù đày còn được nhiều người ghi nhớ như Vè cu-li, Vè Quảng Trị, Vè đi lính đánh thuê... nói lên những cảnh ngộ điêu đứng, khổ cực lầm than của người dân Quảng Trị vấp phải cảnh đi làm cu-li, đi làm đồn điền thân như nô lệ, đi lính đánh thuê bỏ xác ở các trời Âu… và kêu gọi con cháu lầm đường lạc lối trở về. 
Tiêu biểu, nổi bật nhất trong các bài vè tố cáo tội ác phong kiến thực dân và nỗi khổ dân đen là vè “Mẹ Hẹ”, một sáng tác độc đáo, hình thức sáng tác theo lối thoại kịch với lời đối đáp của hai nhân vật là cô Hẹ (Mẹ Hẹ) và quan huyện. Nội dung bài vè kể lại câu chuyện cô Hẹ vào tuổi xuân tình phơi phới đã bị quan huyện phỉnh phờ, chiếm đoạt. Khi cô Hẹ mang bầu, tên quan huyện ấy tàn nhẫn đuổi cô ra khỏi nhà. Cô Hẹ nuốt hận trở về nhà mẹ. 
Chuyện không dừng lại ở đó vì sau khi sinh nở, cô Hẹ ngày càng xuân sắc, quan huyện lại giở trò phỉnh phờ tán tỉnh. Cô đã vạch trần thói sở khanh, bạc tình bạc nghĩa của tên quan huyện bằng một ngôn ngữ cay chua, đậm đà sắc thái địa phương mà không phải bài vè nào cũng thể hiện được: 
“Mẹ Hẹ: - Tui ở ngoài nong ngoài nia, ngoài Sòng, ngoài Sãi, ông Hương ông Xã, ông đi nói tui, ông kia nói tui có giá bạc triệu... mà tui nỏ có ưng. Vì nghe lời cụ nói tiếng to, tiếng nhỏ, giọng kèn giọng quyển, tù tu tù tít, tù tít tù ti, nên chi tui mới về với cụ. Chao ơi! Tui có mần hư, mần hao, mần đổ, mần bể chi mô có mà cụ đánh sấp, đánh ngửa cho thẹn thùng thân tui. Tui đã biết trước: sá chi tui đây ba thước vải thưa, có mô mà dám sánh với cụ. Cụ có cái áo sê tra nút vàng... Đó hàng dinh liễu, đây tui phường thú quê. 
Huyện: - Đứa mô mà dấn dá, dấn dỏi... trước cửa công đường giống tiếng con mẹ Hẹ rứa hử mẹ Hẹ? 
Mẹ Hẹ: - Thưa với cụ, trình với cụ, vậy mà tui đây. 
Huyện: - Phú đỏa cả kiếp mày! Bữa hôm qua tau bảo qua nhà mà nhàn ca, mày không qua, mày nói lý, mày nói lẽ, mày làm bẽ mặt tao rứa hử Hẹ, hử hử Hẹ?...”. 
Vè “Mẹ Hẹ” là điểm nổi bật, là một trong số các bài vè chống lại các thế lực phong kiến thường gọi là “người trên ở chẳng chính ngôi, khiến cho kẻ dưới chúng tôi hỗn hào”. Người dân đánh tới tấp vào các bậc chức sắc trong làng, trong xã, trong huyện cũng chỉ vì trong xã hội có quá nhiều “điêu hào”. Một ông quan nhà thơ là Nguyễn Công Trứ vào năm 1828 đã có Sớ điều trần tâu lên vua triều Nguyễn: “Quan lại nhũng tệ chỉ hai, ba phần; còn điêu hào làm hại tới bảy, tám phần, cướp của giết người, hiếp vợ cướp con, mà trên vẫn không biết đến” [3]. Gậy ông đập lưng ông, đây chính là cái gậy cho người nghệ sĩ dân gian vịn vào đó để đứng lên phát biểu quan điểm xã hội và thẩm mỹ của mình nhằm vun đắp cho người dân lao động phải sống như thế nào cho xứng đáng với đạo lý của làng nước, từ đó mà thấm nhuần tinh thần nhân văn chủ nghĩa sâu sắc. Nhóm thứ tư là loại vè giải trí nghe có vẻ vô thưởng vô phạt, mục đích cốt để giải trí, nhưng ẩn chứa đằng sau trò chơi này là những “mẹo mực”, là cách mà người lớn gieo vào tư duy con trẻ những hiện tượng, những nghịch lý, những câu hỏi chứa đựng sẵn những mầm móng như những bài “toán đố” cần giải mã.
Nhắc đến những bài vè giải trí làm chúng ta nhớ đến trước những năm 1954, lớp trẻ lớn lên ở các vùng quê Quảng Trị nhất là Triệu Phong thường nghe mẹ và chị hát đố hoặc có khi đem ra hát ru nhiều câu hò có nội dung kiểu vừa nêu. Nghe xong các bài toán bằng thơ ca hò vè ấy, nhiều câu hỏi phái sinh thôi thúc lời giải đáp. Bài dễ giải ngay được, bài khó phải mất mấy ngày; bài không giải được, đem đi hỏi nhau khiến mỗi ngày mỗi phổ biến thêm sâu rộng. Người đặt những câu hò và ca dao toán ấy là ông Thượng Đại Hòa, làm quan đến chức Thượng thư, giỏi chữ nghĩa đã đành, còn nổi tiếng giỏi về toán pháp và lịch học nữa đã có một dụng ý rất tốt là đưa toán vào cuộc sống, khơi gợi ý thức khoa học trong quần chúng nhân dân, điều mà trước đó cha ông ta từng làm trong các bài vè, tục ngữ, câu đố. 
Hãy nghe lại bài “Vè nói láo” để thấy cái hóm hĩnh, ngộ nghĩnh của con người Quảng Trị trong nghèo khổ, vất vả gian lao nhưng vẫn lạc quan tin yêu cuộc sống, nhất là tinh thần “thực học” như vừa nói: “Ngồi buồn nói chuyện láo thiên/ Hồi nhỏ tui có lên khiêng ông trời./ Ra đồng thấy muỗi bắt dơi/ Bọ hung làm giỗ đi mời ông voi./ Nhà tui có một củ khoai/ Cắt năm thúng lớn hẳn hòi còn dư./ Nhà tui có bụi khoai từ/ Bới lên một củ lăn hư cả vườn./ Tui vừa câu được con lươn/ Lấy thịt quết chả, lấy xương đẽo chày./ Nhà tui có cái giàng xay/ Đầu cong bịt bạc, đầu ngay bịt vàng./Nhà tui có một cái ang/ Đổ lúa bảy làng thêm nước còn lưng./ Nhà tui có một bụi gừng/ Bới lên một củ ước chừng đòn xeo./ Nhà tui có một con mèo/ Bữa mô thèm thịt lên đèo bắt nai./ Nhà tui có một cái chai/ Đựng tám thùng mắm thêm hai thùng dầu./ Ông già tui có bộ râu/ Bứt lấy một sợi đem câu cá chình./ Nói ra chị em chớ khinh/ Thiên hạ nói láo chớ mình chi tui!”. 
Qua Vè, người Quảng Trị nói chung đã thể hiện quan niệm, nhận thức về những hiện tượng có trong tự nhiên, thiên nhiên, về đất nước con người, về đạo lý ở đời, về nhân tình thế thái, về kháng chiến gian lao anh dũng, về truyền thống đấu tranh anh hùng bất khuất, về mọi khía cạnh sinh hoạt đời thường và vui chơi giải trí. Lời văn chất phác, cấu trúc thô sơ nhưng tình nghĩa và trí lự. Qua vè, người đọc nhận chân ra tính cách con người Quảng Trị khá rõ nét. 1.1.2- Các thể loại suy lý: 
Tục ngữ và câu đố là hai thể loại suy lý phổ biến rộng rãi. Cũng là hành trang mang theo từ “cố hương”, tục ngữ là kho tàng tri thức và kinh nghiệm thực tế về của nhân dân về thời tiết, về lao động sản xuất nói chung và về đời sống xã hội. Có điều khác với cố quận là kho tàng kinh nghiệm thực tế này đã được thay thế bởi môi trường lao động ở nơi ở mới. 
Tục ngữ phản ánh kinh nghiệm của nhân dân về thời tiết, về các hiện tượng tự nhiên: 
- Chớp ngã Cồn Tiên, mưa liền một trộ 
- Sấm Đầu Mầu không cầu cũng đến 
- He vàng thì gió he đỏ thì mưa 
- Cò ăn ruộng sâu thì nắng, cò ăn ruộng cạn thì mưa 
- Cu cú tắm thì ráo, Trảo Trảo tắm thì mưa 
- Mây xanh thì nắng, mây trắng thì mưa 
- Ráng vàng thì nắng, ráng trắng thì mưa 
- Trăng quầng thì hạn, trăng tán thì mưa 
- Rét tháng ba bà già chết cóng 
- Trời nắng mau trưa, trời mưa mau tối 
- Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng 
- Ngày tháng mười chưa cười đã tối 
- Gió heo may, chuồn chuồn bay thì bão 
- Mống dài trời lụt, mống cụt trời mưa 
- Kiến cánh vỗ tổ bay ra 
Bão táp, mưa sa gần tới 
- Tháng bảy kiến đàn, đại hàn gần tới 
- Kiến đen tha trứng lên cao 
Thế nào cũng có mưa rào rất to 
- Chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng, bay vừa thì râm
- Sấm tháng mười, cấy giữa cươi (sân) cũng có lúa v.v… 

Về kinh nghiệm sản xuất, kiểu xem thời tiết trong năm phục vụ cho việc sản xuất, cách chọn giống má để gieo trồng lẫn kinh nghiệm chọn giống gia súc gia cầm: 
- Làm mùa tháng năm xem rằm tháng tám 
- Đậu mười hai, khoai mười một 
- Thiếu tháng hai mất cà, thiếu tháng ba mất đỗ 20 
- Khoai ruộng lạ, mạ ruộng quen 
- Tỏ trăng mười bốn được tằm 
Tỏ trăng hôm Rằm thì được lúa Chiêm 
- Mồng Chín tháng Chín không mưa Thì con bán cả cày bừa đi buôn - Đói thì ăn môn ăn khoai, chớ thấy ló ( lúa) lổ giêng hai mà mừng 
- Năm trước được mùa cau, năm sau đau mùa lúa 
- Miệng mỏ dài, tai lá mít 
- Sừng khít tai, bốn cẳng giò nai 
- Xoáy đóng ngang vai 
Cày hôm cày mai 
Cày hoài không xuể (chọn giống trâu tốt). 
- Nuôi gà phải chọn giống gà 
Gà gì bé giống nhưng mà đẻ mau 
Nhất to là giống gà nâu 
Lông dày thịt béo về sau đẻ nhiều (chọn giống gà) v.v… 
Những bài học được đúc kết từ thực tế cuộc sống về đời sống xã hội: 
- Chữ nghĩa bề bề cũng thua nghề trong tay 
- Chạy lóc xóc không bằng góc vườn 
- Nhiều nghề cá trê húp nác (nước) 
- Có đức mặc sức mà ăn 
- Cái nết đánh chết cái đẹp 
- Con ơi, ta bảo con này 
Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan 
- Dâu dữ mất họ, chó dữ mất xóm giềng 
- Cưới vợ xem tuổi đàn bà, làm nhà xem tuổi đàn ông 
- Chồng giận thì vợ bớt lời 
Cơm sôi bớt lửa một đời không khê v.v… 
Về hình thức nghệ thuật, các câu tục ngữ ở Quảng Trị thường hợp vần theo lối vần lưng và vần ôm. Ví như bài vè dài giới thiệu sản vật tiêu biểu của từng địa phương từ Nem chợ Sãi, vải La Vang... đến Nắng Đông Hà/ Đàn bà Hội Yên thì đã giới thiệu quá chuẩn về miền gái đẹp và nắng gió Quảng Trị rồi. Chính nhờ vần lưng, vần ôm này mà những câu tục ngữ ngắn gọn này chúng ta hiểu bao quát hơn và sâu sắc hơn văn hóa vật chất lẫn văn hóa tinh thần của vùng đất Quảng Trị. 
Tương tự, người miền núi cũng bày tỏ kinh nghiệm của họ: 
- Đừng mau phai như hoa Toang-a-rát 
- Đừng chóng bạc như vôi 
- Xách bầu phải xem quai 
- Địu con phải xem vải buộc 
- Làm cỏ phải xem cán nắm... 
Câu đố ở Quảng Trị cũng là thể loại phong phú, đủ mọi chủng loại từ những họat động lẫn các bộ phận cơ thể con người, về các con vật, các loại cây trái và vô vàn các sự vật hiện tượng khác trong tự nhiên. Nó như một pho sách độc đáo về nhận thức thực tế khách quan, đồng thời cũng là pho tài liệu xã hội học sâu sắc về đấu tranh xã hội chứa đựng trong những ẩn ngữ hai mặt hết sức thông minh và hiểm hóc góp phần rất hiệu quả vào cuộc đấu tranh xã hội của nhân dân lao động. 

Phương thức cơ bản để tạo ra câu đố là phương pháp ẩn dụ. Bằng lối cấu tạo ngôn ngữ hết sức mềm dẻo, uyển chuyển để ghép những hiện tượng rất khác nhau lại với nhau, tao ra những trường nghĩa đa dạng mà vẫn giữ được tính hợp lý đủ để tồn tại. Tính ngụ ý, ước lệ của của lối cấu tạo ẩn dụ ngôn từ này đặt cơ sở hợp lý cho phương pháp so sánh trong cấu tạo câu đố. Với cách thức này, nhân dân ta đã sử dụng ngôn ngữ ẩn dụ thiên biến vạn hóa tạo nên nhiều câu đố mà cấu tạo đặc trưng của nó là “những ẩn ngữ hai mặt”. Nó có khả năng châm chích, bêu rếu, đả kích hoặc đề cao các hiện tượng xã hội một cách thú vị và hiểm hóc. Nó thể hiện trí tuệ tập thể vô cùng thông minh, lợi dụng triệt để đặc trưng của câu đố là nói những chuyện nhỏ nhặt như miếng trầu, cái cày, cây tre... để tỏ thái độ, quan điểm của chính mình với sự đời. Ở đó, những nét đặc trưng của sự vật/sự việc mỗi lần đem ra đoán đố cũng là quá trình lặp đi lặp lại câu đố, đay đi đay lại những lời ca ngợi hoặc tố cáo, phỉ báng. Đó cũng là quá trình diễn xướng để cái vỏ ngôn ngữ câu đố phát huy tác dụng (từ những câu đố náu mình trong những nụ cười vô tư lự có tính cách tiêu khiển đến dạng câu đố tham gia vào cuộc đấu tranh xã hội thâm trầm, tinh tế, kín đáo, giàu sức chiến đấu). 
Ở cấp độ đầu tiên thường mang tính chất ngợi ca: 
- Khen ai nho nhỏ 
Mắt tỏ như gương 
Tối trời như mực 
Biết người thương ra chào. (Câu đố về con chó giữ nhà). 
- Đầu rồng, đuôi phụng cánh tiên 
Ngày năm bảy mụ tối ngủ riêng một mình. (Con gà trống). 
- Hai cây cao đã nên cao 
Một người dưới rào xa đã nên xa 
Ba người họp lại một nhà 
Kết duyên phu phụ duyên đà mặn duyên! (Cau, trầu, vôi) 
- Da non mà bọc lấy xương 
Lửa cháy trên đầu chúa chẳng thương 
Đêm năm canh tiêu hao mình thiếp 
Nghĩ đến đoạn trường nước mắt nhỏ sa (Cây đèn sáp). 
- Một mẹ sinh đặng ngàn con 
Trai có gái có, tài khôn rõ ràng 
Mặt trời đã xế vàng vàng 
Con xa ngái mẹ lại càng thương thay 
Cách nhau đã bốn năm ngày 
Con lại gặp mẹ mừng thay là mừng. (Chợ Phiên Cam Lộ). 
- Bốn ông đập đất 
Một ông phất cờ 
Một ông vơ cỏ 
Một ông bỏ phân? (Con trâu). 
Con trâu là đầu cơ nghiệp nên ở câu đố trên con trâu được các nghệ nhân dân gian hết lời ca ngợi, đặt nó trong một khung cảnh lao động rộn ràng, đến cả việc con trâu đi ỉa cũng không bị chê bai dung tục mà ngược lại còn được mỹ lệ hóa một cách rất hóm hỉnh. 
Đố tục giảng thanh cũng là một thủ pháp sáng tác câu đố mà ở đó những nghệ nhân dân gian vận dụng tối đa tính ngụ ý, ước lệ của của lối cấu tạo ẩn dụ ngôn từ với sự liên tưởng: 

- Trên lông dưới cũng lông 
Đến đêm thì lại nằm chồng lên nhau. (Hai mí con mắt). 
- Ông nằm dưới bà nằm trên 
Ông xỏ c... lên bà rên hừ hừ. (Cái cối xay). 
- Trong da ngoài cũng da 
Đút vô thì cứng rút ra thì mềm. (Đôi giày). 
- Trong hang trong hóc 
Lốc nhốc bò ra 
Cả huyện cùng nha 
Chẳng ai bắt được?... 
(Là cái gì trong hang hóc, lốc nhốc bò ra rành rành mà tất cả các quan nha đều bó tay không bắt được? Lời giải câu đố là “Cái rắm”!). Cái bất ngờ của lời giải đáp như quả bom giáng một đòn trí mạng không phải không nguy hiểm đối với bọn quan lại ăn hại đớn hèn. Một câu đố hết sức bình dân nhưng vô cùng mẫn tiệp, thể hiện trí tuệ lẫn tâm hồn giàu có của những người dân lao động chân lấm tay bùn. 
Ở cấp độ cao hơn là đấu tranh xã hội, câu đố trở nên thâm trầm, tinh tế và giàu sức chiến đấu hơn: 
Mình mặc áo thâm 
Cổ quàng khăn trắng 
Hễ mở miệng ra 
Cả làng la mắng. 
Là câu đố về loài quạ báo hiệu cái chết khi được giải mã. Nhưng toàn bộ ngôn từ lẫn hình bóng không ai không nghĩ đến một vị chức sắc nào đó vênh vênh váo váo ở ngay làng xã của mình! Bằng cách cấu tạo như thế, nhiều câu đố đã đi vào nhiều khía cạnh khác nhau của cuộc đấu tranh xã hội. Gom tất cả các câu đố loại này chúng ta sẽ có được một pho tài liệu xã hội học đặc sắc phản ánh cuộc chiến đấu không trực diện nhưng độc đáo và sâu sắc của người dân lao động. Ví như: 
- Cha truyền con nối 
Hành tội người ta 
Chẳng đậu thủ khoa 
Đậu đầu thiên hạ. 
Là con chấy, là lũ chấy rận nhưng với lối lập ngôn như thế này không ai không liên tưởng đến tội ác của bọn áp bức dốt cường hào. Hoặc: 
- Chồng đi trước phá cửa phá nhà 
Vợ đi sau bắt cả già lẫn trẻ. 
Là cái lược sưa và lược dày nhưng sao nó giống đám quân cướp ngày đến lạ! 
- Một cái xương sống 
Một đống xương sườn. 
Là cái mái nhà tranh, cái cơ thể sống cơ cực của người nông dân chân lấm tay bùn! 
- Con đóng khố, bố cởi truồng
Là măng và cây tre, cả hai cùng cảnh ngộ khố rách áo ôm! 
- Không vay mà trả” 
Là ‘sưu thuế” bất công; là cướp bóc, “cướp ngày” vô tội vạ nhưng không thể không nộp! 
- Bằng một bước mà bước không qua. 
Là nói về cái bóng của con người ta. Câu đố tả thực ở chỗ, cái bóng bao giờ cũng lẻo đẻo theo ta, chỉ cần bước rán lên một bước nữa thôi sẽ vượt lên khỏi cái bóng. Vậy mà trên thực tế, con người ta mãi mãi không bước qua nổi cái bóng của mình! Đó mới chỉ là phần nghĩa đen. Cái bóng trong trường hợp này còn có một ý nghĩa ẩn kín, trớ trêu của thân phận người. Cái khổ cái nghèo sao cứ đeo đẳng mãi người ta như hình với bóng, cố dấn lên một bước để rủ bỏ cái nghèo mà bó tay, hoàn toàn bất lực. Quả là khi giải xong câu đố này không biết nên cười hay nên khóc! 

Một vật dụng quen thuộc khác nữa cũng được đem ra đố: 
Bộ tịch quan anh xấu lạ lùng 
Khom lưng uốn gối cả đời cong 
Lưỡi to mà sức ăn ra khoét 
Cái kiếp theo đuôi có thẹn không?”. 
Là người nông dân ra đố cái cày. Ở đây tác giả câu đố chỉ lẫy, vẻ ra hình dáng lẫn vài đặc điểm cơ bản của cái cày, nhưng ngôn từ chữ nghĩa, nhất là sự phóng đại một cách có ý thức đã đẩy trường liên tưởng người nghe hướng về một kênh khác, đó chính là chân dung những “quan anh”, những vị tai to mặt lớn. và khi câu đố có lời giải đơn giản là cái cày thì màn hạ, nút thắt được mở, cao trào nổ ra bằng những tràng cười thì các nhân vật “tai to mặt lớn” đồng thời cũng đã bị hạ bệ đích đáng. 
Vật đố thường là những sự vật, những hiện tượng bình thường trong cuộc sống, trong thiên nhiên song tác giả câu đố đã dụng ý dụng công, bao giờ cũng chứa đựng, ẩn dấu những ám chỉ sâu kín, mẹo mực, vi diệu. Những người tham gia vào trò chơi này phải dụng công, phải suy nghĩ thật sâu xa mới nắm bắt được những ẩn ý, mới thấm thía cái sự thâm trầm và phần nào hiểu được tính cách con người ở vùng đất nghèo khó nhưng những tư chất như thông minh, hài hước và khôn khéo luôn luôn có thừa. 
1.1. 3- Các thể loại trữ tình: 
Trong các thể loại văn học dân gian, ca dao là thể loại trữ tình có trữ lượng lớn, lưu truyền rộng rãi và nội dung của nó cũng đa dạng, phong phú hơn bất cứ thể loại nào. Ca dao là tiếng nói trữ tình dào dạt và sâu lắng nhất, gói gém bao nhiêu niềm thương nỗi nhớ, những lời hẹn ước thề nguyền đôi lứa, động viên nhau vượt qua mọi trở lực khó khăn trong cuộc sống. Đồng thời ca dao cũng hàm chứa những lời lẽ phê phán thâm hậu về lẽ đời, tình người, về việc đối nhân xử thế. Kể cả việc phản ánh kịp thời những tâm tư tình cảm sâu lắng của người dân đối với công cuộc kháng chiến kiến quốc, với Đảng và Bác Hồ vĩ đại. Nó là tấm gương phản chiếu đậm nét tính cách, tâm hồn của người dân Quảng Trị qua những bước thăng trầm lịch sử. Thử tìm hiểu một vài câu ca dao rất quen thuộc ở một số lãnh vực vừa nêu: 
- Măng giang nấu cá ngạnh nguồn 
Đến đây nên phải bán buồn mua vui. 
Một số vị thức giả cũ ở Quảng Trị cho rằng, câu ca này ra đời từ sau ngày chúa tiên Nguyễn Hoàng vào trấn ở Thuận Hóa, đóng dinh ở Ái Tử. Để xây dựng trấn phủ, hàng ngày quân lính vốn là người xứ Thanh - Nghệ phải vào các khu rừng hai bên bờ sông Thạch Hãn chặt tre đốn gỗ. Lúc mới bắt đầu cuộc sống trên quê mới lòng họ tuy nhớ về quê cũ nhưng không thể không “bán” đi nỗi nhớ mà “mua” từng tí chút niềm vui trong cuộc sống mới. Tình cảm mà cũng phải mặc cả bán mua, bớt một thêm hai! Nhưng trên hết đó là những lời động viên nhau vượt qua mọi trở lực, khó khăn để xây dựng cuộc sống trên quê hương mới. 
- Chiều chiều ra đứng ngõ sau 
Nhớ về quê mẹ ruột đau chín chiều 
Tôi không có ý phân tích câu ca dao trên, chỉ nêu lên vài câu hỏi: Ai đứng ngõ sau? Tại sao đứng ngõ sau mà không đứng ngõ trước? Sao lại chiều chiều mà không tối tối? Tại sao lại ngó về quê mẹ mà không ngó về quê cha? Và vì sao lại chín chiều? Hoài cố nhân chăng?... Câu trả lời chính là sự cảm nhận của mỗi người nhưng cái âm hưởng thắm đượm tình cảm của nó đã vượt qua cõi duy lý hằn vào tâm khảm làm cho chúng ta không thể ngoại trừ đây là nỗi lòng của nhiều thế hệ cư dân “đi mở cõi” nhớ về vùng đất nguồn cội lâu đời của mình bên kia đèo Ngang xa vời vô vọng!.. 
- Không thơm cũng thể hương đàn 
Không trong cũng thể nước nguồn Hàn chảy ra. 

Câu ca trên có thể hiểu thô rằng, (lòng chúng tôi) nếu không thơm ngát thì cũng là hương, hương bạch đàn; nếu không trong ngần thì cũng là nước nguồn Hàn chảy ra, chảy xuống. Câu ca của người dân Quảng Trị không chỉ tự hào về phẩm chất của con nước dòng sông Thạch Hãn, mà còn để nhắc nhở con em mình mai này lớn lên đi đâu ở đâu, làm gì phải luôn giữ gìn cái tâm cho trong và thơm như nước dòng sông quê mẹ. Nhà thơ Lương An cho rằng, có hiểu tấm lòng của nhân dân ta đối với dòng sông quê hương trong câu ca dao mới quý trọng cái chất sắt đá (thiết thạch) rèn luyện nên tính cách con người Quảng Trị trong những tên làng ven sông như Trinh Thạch, Đá Đứng, Như Lệ (vững chắc như đá mài, đá cứng; không phải lệ là nước mắt), Lập Thạch… và cái chất liêm khiết như ước vọng muôn đời đọng lại trong những tên làng không xa dòng nước như Thanh Liêm, Giáo Liêm (dạy dỗ điều liêm), Vệ Nghĩa (bảo vệ điều nghĩa), Trọng Đức (coi trọng đạo đức)… Quả là một câu ca dao vàng ngọc! 
- Trăm năm dầu lỗi hẹn hò 
Cây đa bễn cũ con đò khác đưa 
Cây đa bến cũ còn lưa 
Con đò đã thác năm xưa kia rồi. 
Lại là thiên tình sử thấm đẫm nước mắt của cô lái đò trên bến Ô Lâu với một thầy khóa thi đỗ đã quên lời thề hẹn ước năm xưa… Và bao nhiêu câu ca dao khác nữa đều là những viên ngọc quý hiếm về tình yêu quê hương đất nước, tình yêu lứa đôi, tình nghĩa vợ chồng, những câu ca dao sáng tác trong quá trình khai phá, xây dựng và bảo vệ quê hương trên đất mới, những thành quả lao động được tạo dựng nên bằng mồ hôi, công sức, cả máu xương của nhiều thế hệ cha ông vẫn còn tỏ ra sức sống bền vững của nó. 
Bên cạnh cuộc sống lao động vất vả với bao lo toan, con người thường dành một phần lớn cuộc đời cho tình cảm. Ca dao về tình yêu đôi lứa vốn là loại hình có dung lượng lớn nhất trong thể loại trữ tình này. Trong tình yêu, người Việt nói chung là trọng thuỷ chung, cao thượng, ghét dối trá, lên án sự bội bạc. Những tình cảm ấy được bộc lộ chân chất, lãng mạn, tình tứ và sâu kín trong ca dao nhưng cũng không kém phần mãnh liệt. Nỗi lòng của một người đang yêu: 
Ai đi đường tắt một mình 
Phất phơ chéo áo như hình người thương. 
Gặp nhau với bao hân hoan, mừng rỡ: 
Bấy lâu ni chàng lênh đênh bốn biển, thiếp lận đận non cao 
Nay chừ thấy mặt mừng sao hỡi mừng! 
Vượt qua mọi trở lực gian khó, đùm bọc lo toan: 
Thân phụ người ta giàu, người ta nhờ thân phụ 
Thân phụ mình nghèo thì thân lại lập thân 
Em thì buôn tảo bán tần 
Anh cày sâu cuốc bẫm lần lần nuôi nhau. 
Hoặc chê trách: 
Chàng ràng như con cá nọ quanh nơm, 
Nhiều con anh rạng biết chơm con nào! 
Oán hờn: 
- Đêm năm canh em nằm không ngủ, 
Ngày sáu khắc rục rũ không tươi. 
Khóc lên thì sợ bạn cười, 
Bầm gan mà chịu với người người ơi!..  
- Em gặp anh đây há lẽ không chào, 
Chừ nghiêng vành nón nước mắt dào như mưa!.. 

Ai đã đi qua một thời yêu đương hẳn biết tình cảm bị dồn nén mãnh liệt, sâu xa như thế nào. Con người ta dù thầm kín, kín đáo đến đâu cũng không thể không bộc lộ mạnh mẽ ra bên ngoài khi tan vỡ. Chỉ đọc lại một câu ca dao này thôi vẫn còn nghe đau nhói: 
Em đương vút nếp hông xôi 
Nghe anh lấy vợ thúng trôi nếp chìm… 
Có rất nhiều nỗi niềm, tâm trạng điển hình như thế trong ca dao là chất liệu dồi dào cho hát đối đáp, hò đâm bắt, các làn điệu dân ca, điệu lý, hát vè, ca cảnh… (sẽ trình bày thêm ở phần nghệ thuật diễn xướng). 
Cũng như văn chương bác học, văn học dân gian từ khi có Đảng, có Bác Hồ chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam đã chuyển hướng, tập trung vào phản ánh công cuộc kháng chiến kiến quốc. Thơ ca dân gian trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ lẫn thời bình ở Quảng Trị đã phản ánh kịp thời, sinh động những tâm trạng điển hình như thi đua yêu nước, tăng gia sản xuất, nhập ngũ tòng quân, tiếp lương tải đạn, ca ngợi chiến công, công ơn Đảng và Bác Hồ; là khát vọng thống nhất non sông chứa chan tình cảm đoàn tụ dân tộc đến công tác địch vận, đấu trí với kẻ thù, phê phán cái xấu, cái lạc hậu, bảo thủ, quan liêu trong hai cuộc kháng chiến. Đây là bước ngoặt có tính đặc thù và mới lạ của kho tàng văn học dân gian từ khi có Đảng rất đáng được biểu dương, ghi nhận. Một vài ví dụ: Thi đua tòng quân giệt giặc: 
Sông sâu còn lấy thước đo 
Tấm lòng yêu nước biết đo bằng gì 
Đầu quân giết giặc khó chi 
Trai đi cứu nước còn gì vinh hơn. 
Tăng gia sản xuất: 
- Công anh gác giặc đầu thôn 
Công em gặt vội dấu chôn kỹ càng 
Công anh đuổi giặc khỏi làng 
Công em gánh thóc quân lương lên rừng  
Đo công biết lấy chi lường 
Một mười một chín ta mừng cả hai. 
Xóa mù chữ: 
- Đói cơm dốt chữ lo chung 
Dân khôn giặc sợ, dân no giặc gờm. 
- Ai về trên chợ Thủy cần 
Hỏi thăm cô Tú đánh vần được chưa 
Đánh vần năm ngoái năm xưa 
Năm nay quên hết là chưa thuộc bài v.v… 
Ca dao hò vè địch vận chính là tiếng lòng yêu quê hương dân tộc, có sức lay động, khêu gợi tình cảm sâu kín của mỗi con người. Thông qua thơ ca dân gian, tiếng hò như một lời phân giải chính tà cho những ai còn lầm đương lạc lối hãy mau trở về với dân tộc: 
Các anh ơi, một giọt máu đào hơn ao nước lạnh 
Anh nghe ai mà bàn lạnh hương tàn 
Mẹ già vô thở ra than 
Chẳng may con đã theo Việt gian thiệt đau lòng. 
Từ ẩn ức, các chị mở lòng, khuyên nhủ, bằng gương người thực việc thực: 
- Anh nghe chi lời ngoa huyền của giặc 
Nghe chi lời xuyên tạc của lũ chó săn 
Cụ Hồ rộng lượng ai bằng 
Anh coi tỉnh mình vừa rồi phóng thích 
Cả trăm tên lính ngụy cho về làng với vợ con. 
- Anh không nhớ sống một giờ thì thêm một tội 
Anh chừ đang phản lại với kháng chiến giống nòi 
Bỏ súng Tây mà về đi anh, lòng thành chờ đợi 
Bỏ súng Tây về đi anh, thắng lợi hưởng chung 
Về đây Chính phủ khoan hồng 
Mẹ già, con dại đêm trông ngày chờ. 

Mưa dầm thấm đất, kẻ lầm đường lạc lối từ lo lắng đến giải bày tâm sự: 
Anh lỡ bước theo Tây cũng biết thân này lưu lạc 
Nghe Tây thất bại ở thượng Lào, thấy trúc tàu ở Mỹ Chánh 
Mà lo không biết mất xác khi mô!.. 
Từ truyền thống nhân đạo bao dung, đánh kẻ chạy đi không ai đánh kẻ chạy lại của cả dân tộc, các mẹ các chị thúc giục: 
Anh ơi chớ có hững hờ 
Phản công sắp tới còn chờ đợi chi 
Bỏ con bỏ vợ ra đi 
Mấy năm theo giặc được gì hả anh? 
Em đây mang lấy ô danh 
Mẹ già thương nhớ như cành cây khô 
Anh ơi theo lệnh Cụ Hồ 
Trở gươm quay súng diệt đầu thực dân 
Trở lại ghi sổ tòng quân 
Xứng danh Nam Việt tinh thần nêu cao. 
Bước đường từ giác ngộ đến hạ quyết tâm buông bỏ vũ khí, bỏ hàng ngũ giặc quay về chỉ còn trong gang tấc. 
Trên hết vẫn là tấm lòng tôn kính, son sắt thủy chung của người dân Quảng Trị đối với Đảng, với Bác Hồ kính yêu. Có thể nói, hình ảnh Bác Hồ trong văn học dân gian Quảng Trị có sự gặp gỡ, tương tác, chồng khít lên rất nhiều phẩm chất, từ tư tưởng, đạo đức đến cốt cách của Hồ Chí Minh vĩ đại. Đó là tư tưởng yêu nước thương nòi, khát vọng cao cả cháy bỏng giành lại tự do độc lập cho dân tộc: 
Từ nhà Rồng Bác đã ra đi 
Bốn biển năm châu “tìm hình của nước” 
Ba mươi tư năm chỉ một điều mong ước 
Dân ấm no, nước độc lập hòa bình. 
Là lòng nhân ái thương yêu con người, coi trọng nhân phẩm, vì sự phát triển tự do và cơm ăn áo mặc cho mọi người:  
Bác đi khắp mọi nẻo đường 
Cùng dân tát nước lội mương thăm đồng 
Bác về dân được ấm lòng 
Tặng già vải lụa, nhi đồng áo hoa 
Hàng tiêu, vườn chuối, luống cà 
Có tình Bác đến nở hoa bốn mùa… 
Một lòng một dạ sắt son với Đảng, với Bác Hồ. Đây là niềm tin sắt đá của các bà mẹ miền Nam: 
Bấm tay mạ nhớ ngọn ngành 
Hai mùa lúa chín con mình về đây 
Đêm đêm mạ nhớ tỏ tường 
Ngàn năm mạ nhớ công ơn Bác Hồ 
Tuổi cao mắt mạ có mờ 
Dằn lòng son sắt mạ chờ Bác vô 
Đêm đêm nhẩm đọc i tờ 
Cầu sao viết được chữ Hồ Chí Minh 
Nêu lên lá phiếu đinh ninh 
Khắc sâu trong dạ mối tình Bắc Nam. 
Là tấm lòng của những người vợ bờ Nam có chồng tập kết: 
Lòng lại dặn lòng dù non mòn biển cạn 
Dạ lại dặn dạ dù đá nát vàng phai 
Dù cho trúc mọc thành mai 
Em đây quyết một lòng một dạ không theo ai mà chỉ theo Cụ Hồ. 

Khi đất nước bị chia cắt, câu hò cũng mang nặng nỗi đau chung của dân tộc: 
- Xa nhau nửa tấc gang thôi 
Vì ai không nói được nửa lời với nhau? 
- Chỉ một dòng sông mà đó trông đây nhớ  
Chỉ có bảy nhịp cầu mà duyên nợ xa nhau 
Thương nhau phải nhớ lời nhau 
Thương nhau chất nặng hờn sâu kẻ thù. 
Ngày bác đi xa, nỗi đau thương như “sét đánh lưng trời” và “Chiều Rú Lịnh mây giăng buồn ủ rủ/ Biển Cửa Tùng rầu rầu con sóng vỗ/Nước Hiền Lương đau đớn ngập ngừng trôi!”… Nhưng tư tưởng, tình cảm và những phẩm chất tốt đẹp của Người luôn luôn hiện hữu trong nếp nghĩ, cuộc sống thường nhật của người dân, gần gụi thiết thân đến nỗi chính họ nghi ngờ cả cái sự “đi xa” rồi của Bác: 
- Ai bảo rằng Bác đã đi xa 
Dưới bầu trời tháng tám 
Bác đội mưa đi chống lụt 
Dưới nắng hè tháng tư 
Bác chống hạn đào mương… 
- Ai bảo rằng Bác đã đi xa 
Suốt đời ta chẳng khi nào vắng Bác 
Bác có mặt giữa trang văn ta đọc 
Bác ở trong khung ảnh ta thờ 
Trong câu lý mười thương và giọng hát ầu ơ… 
Và còn bao nhiêu bài học quý giá khác mà vị cha già dân tộc đã nêu gương, nay nhân dân ta nhắc nhủ nhau học tập và làm theo theo cách riêng của mình. Bài học đại đoàn kết: 
- Dễ trăm lần không dân cũng chịu 
Khó vạn lần dân liệu cũng xong 
Lời Bác tạc dạ ghi lòng 
Ý Đảng lòng dân mà hợp lại thì lấp biển dời non cũng thành. 
Bài học cần, kiệm, liêm, chính: 
Đảng viên phải Cần, nhân dân phải Kiệm 
Cán bộ Liêm Chính là việc phải làm 
Quyết tâm quyét sạch lũ tham 
Để cho dân giàu nước mạnh an khang mọi nhà…  
Gần một thế kỷ qua, thơ ca dân gian Quảng Trị đã có những đóng góp nặng tình nặng nghĩa với dân tộc, với Đảng và Bác Hồ. Mạch nguồn ấy đích thực, tự nhiên như sông về với biển: 
Sáu mươi năm nước độc lập tự do 
Công ơn Bác đời đời tạc dạ 
Tròn một hội dân ấm no hạnh phúc 
Nghĩa tình Đảng mãi mãi ghi lòng… 
Bằng cái nhìn đồng đại và lịch đại cho phép ta có cái nhìn thấy “cây” và thấy cả “rừng”, thấu tới được vẻ đẹp tâm cảm và tâm hồn ở một số thể loại văn học dân gian vùng đất Quảng Trị trong đời sống văn hóa dân tộc. Có thể thâu tóm đôi dòng về những giá trị tư tưởng và triết lý, về sức sống và sức sáng tạo văn hóa từ kho tàng văn học dân gian Quảng Trị như sau: 
Như đã nói, văn học dân gian Quảng Trị là sự hội tụ tinh hoa văn học dân tộc, nó đủ sắc thái, đủ thể loại, đủ hình thức thể hiện với tất cả tình cảm chân chất, sâu kín của con người ở một vùng đất trải bao gian khó vì thiên tai địch họa, chiến tranh ly tán. Câu hò tiếng hát, truyện kể của con người nơi đây dù không ra ngoài mạch cảm xúc, triết lý và nhân sinh quan chung của dân tộc nhưng vẫn mang sắc thái, đặc trưng của một vùng đất. Nó đề cao những đức tính như nghị lực phi thường, tài năng lao động sáng tạo, trí khôn, đạo đức cao đẹp của những nhân vật có công lớn đối với cộng đồng trong công cuộc chinh phục tự nhiên nhằm xây dựng một “thiên nhiên thứ hai” trên vùng đất mới. Tất cả đều được thể hiện bằng sự hồn nhiên chân chất của tâm hồn; sự mộc mạc giản dị của lời ăn tiếng nói; sự rạch ròi dứt khoát giữa cái cao thượng và hẹp hòi, giữa cái thiện và ác, chính nghĩa và phi nghĩa, giữa trung hậu thủy chung và gian trá phản trắc. 

Nông thôn Quảng Trị dưới ách áp bức bóc lột của giai cấp địa chủ phong kiến và hệ thống quan liêu của chúng đã được phản ánh vào tất cả các loại hình văn học dân gian dưới những dạng uyển chuyển, phù hợp với đặc trưng của mỗi thể loại. Đó là lời giận dữ, là tiếng nỉ non trong ca dao dân ca, những bài vè; đó là điều răn dạy mang tính triết lý và thực tiễn trong tục ngữ; và đó cũng là tiếng cười thâm thúy sâu cay giàu tính triết lý và trí tuệ trong câu đố, hò vè… 
Tính tập thể và tính bền vững kết tinh trong các thể loại văn học dân gian là một trong những bằng chứng kiểu mẫu về sức sống và sức sáng tạo văn hóa bất diệt của nhân dân lao động. Những hoạt động sáng tạo của hàng ngàn nghệ sĩ dân gian đúc kết trong kinh nghiệm nghệ thuật của họ là ngọn nguồn vô tận (nhà thơ Xuân Diệu gọi là “văn nghệ Mẹ”) đã tiếp sức cho sự sáng tạo của các tài năng văn học dân tộc xuyên suốt trong tiến trình lịch sử. Vấn đề đang được đặt ra là làm sao giữ được vốn văn hóa quý giá ấy, đừng để những di sản của ngàn năm ấy bị quên lãng, bị mất mát, bị phai mờ hoặc hoà tan trong xu thế hội nhập. Những cơ quan chức năng, những nhà văn hoá hãy ra sức bảo vệ phát huy vốn văn hoá quý giá mà cha ông đã dày công sáng tạo. 
1.2- Văn học viết: 
1.2.1- Văn học trung cận đại 
So với các tỉnh vùng đồng bằng bắc bộ thì Quảng Trị là một vùng đất mới. Văn học dân gian Quảng Trị có từ rất sớm nhưng văn học viết thì xuất hiện muộn hơn và có thể không phong phú bằng. Nếu như văn học Việt Nam thời kỳ trung đại bắt đầu từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX thì Quảng Trị phải đến thế XVI mới có tác phẩm văn học thành văn đầu tiên với sự xuất hiện của Bùi Dục Tài, tiến sĩ khai khoa cho xứ Đàng Trong. Thời kỳ cận đại từ đầu thế kỷ XX đến cách mạng tháng Tám 1945. Đây là một thời kỳ rất quan trọng trong lịch sử dân tộc nói chung và lịch sử văn học nói riêng. Giai đoạn này ở Quảng Trị được bắt đầu với các tên tuổi như Phan Văn Dật và Chế Lan Viên trong phong trào thơ mới. Cố nhiên đây cũng chỉ là sự phân chia có tính chất ước lệ mà thôi. 
1.2.1.1- Giai đoạn từ thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XVIII 
Từ sau đám cưới Huyền Trân công chúa vùng đất Quảng Trị thuộc xứ “Ô Châu ác địa”. Mãi cho đến khi Nguyễn Hoàng vào trấn Ái Tử (1558) thì Quảng Trị mới là thủ phủ của xứ Đàng Trong. Như vậy trong một thời gian dài (1376 - 1558) Quảng Trị là vùng đất phên dậu, dân cư thưa thớt so với các tỉnh từ đèo Ngang trở ra, nhất là đối với vùng đất sinh tụ lâu đời của mình là châu thổ sông Hồng. Công việc chính ở vùng đất mới là khai hoang lập ấp xây dựng xóm làng, kinh tế được ưu tiên đặt lên hàng đầu nên đời sống văn hóa chậm phát triển cũng là điều dễ hiểu. Mặc dù dinh Cát Ái Tử (sau này dời đến Trà Bát, Cổ Thành) là hành dinh của chúa tiên Nguyễn Hoàng và nhiều đời chúa kế vị nhưng đó cũng mới chỉ là trung tâm chính trị quân sự. Khi đời sống người dân xứ Đàng Trong ổn định; kinh tế, văn hóa phát triển lên tầm cao mới thì các chúa Nguyễn có nhu cầu dịch chuyển hành dinh vào Phú Xuân. Quảng Trị không còn là thủ phủ, là trung tâm chính trị - văn hóa, tất yếu sẽ mất đi điều kiện để phát triển. Nhìn chung, ở thời kỳ này văn học thành văn cả xứ Đàng Trong vẫn còn rất thưa thớt, không riêng gì Quảng Trị. Ở giai đoạn này Quảng Trị có vài tác giả làm thơ văn, chủ yếu là thơ chữ Hán được người đời sau lưu truyền: 

- Đặng Dung (? - 1414), người huyện Hải Lăng, danh tướng dưới thời Hậu Trần, chức Bình Chương sự, đã cùng cha là Đặng Tất phù rập nhà Trần đánh giặc Minh cứu nước. Bị giặc bắt ông đã nhảy xuống sông tuẩn tiết. Tác phẩm hiện chỉ còn lưu hành mỗi bài thơ Cảm hoài, thể hiện rõ khí phách của người anh hùng, trong đó có hai câu thật hay được người đời truyền tụng: Quốc thù vị báo đầu tiên bạch/ Kỷ độ long tuyền đái nguyệt ma. (Dịch: Quốc thù chưa báo đầu đã bạc/ Mấy độ mài gươm dưới nguyệt rồi...). 
- Bùi Dục Tài (1477-1518) có hiệu là Minh Triết tiên sinh. 
Năm Tân Dậu (1501) Bùi Dục Tài vác lều chõng đi thi Hương. Thuở ấy, cả nước chia làm 13 xứ, trường thi Hương xứ Thuận Hoá đặt ở đâu không thấy sử sách chép lại, chỉ thấy Phan Huy Chú trong “Lịch triều hiến chương loại chí”(Khoa mục chí) cho biết ông Bùi Dục Tài đỗ Hương tiến trong số hạn định 30 hương tiến mà trường thi Thuận Hóa được phép lấy từ hàng ngàn sĩ tử. Mùa xuân năm sau, tháng 2 năm Nhâm Tuất (1502) Bùi Dục Tài lặn lội từ Hải Lăng ra đến Thăng Long thi Hội, thử thách văn tài với năm ngàn cống sĩ trong cả nước, những kẻ đã từng trải qua trường văn trận bút. Ở khoa thi Hội này có 61 người được lấy đỗ (82 người lấy một người), trong đó có Bùi Dục Tài 25 tuổi ở xứ Thuận Hóa xa xôi cách trở. 
Thi Đình thực chất là xếp hạng những người đã được chọn lọc qua kỳ thi Hội người trúng cách Bộ Lại tâu lên được dẫn đến sân điện Kính Thiên.Vua Lê Hiến Tông đích thân ra đề văn sách hỏi về công việc đế vương trị nước. Người đỗ trạng nguyên khoa ấy là ông Lê Ích Mộc người xã Thanh Lãng, huyện Thanh Đường, Hải Phòng. Trong 24 người ở bảng đệ nhị giáp tiến sĩ, có tên ông Bùi Dục Tài (tức Hoàng Giáp), 34 người còn lại đều đạt học vị đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân. Bùi Dục Tài và các vị tân khoa được mời vào sân rồng dự lễ xướng danh, được ban yến, ban mũ áo, cờ biển mang chữ “Đệ nhị giáp tiến sĩ” và “Sắc tứ vinh quy”, được khắc tên vào bia đá ở Văn Miếu, được phong trật tòng thất phẩm. Người đỗ đại khoa như ông được cả một huyện đi rước, long trọng gấp bội lần vinh quy năm trước. Thử hỏi trong tám ngàn xã (đơn vị hành chính tương đương lúc ấy) đã có mấy nơi vinh dự như làng Câu Nhi xứ Thuận Hóa. 
Ông Bùi Dục Tài ra làm quan lúc 25 tuổi, trải 15 năm, sử cũ chép rất vắn tắt: “Ông nổi tiếng văn học, làm quan trải các chức Hàn lâm Hiệu lý (1502). Tham chính đạo Thanh Hoa. Năm Hồng Thuận I, đời Lê Tương Dực (1509) ông được thăng chức Lại bộ Tả Thị Lang. Dưới thời Lê Chiêu Tông, niên hiệu Quang Thiệu (1546-1522), ông giữ chức Tham tướng. Khi trở về kinh lý ở xứ Thuận Hoá bị gian đảng sát hại”[4]. Gia phả họ Bùi ở Câu Nhi nói rõ hơn về cái chết của ông. Năm 1518, đời vua Lê Chiêu Tông, niên hiệu Quang Thiệu thứ 3 có bọn Đô Kiềm, Đô Chức nổi lên làm loạn nhiễu hại quân dân, triều đình giao cho ông kiêm chức Tham tướng đem quân đi dẹp loạn. Ông giết được tên Đô Kiềm còn Đô Chức chạy thoát nuôi chí báo thù. Khi mang quân trở về Thăng Long, ngang địa phận Bàu Đá, huyện Võ Xương (nay thuộc làng Cẩm Thạch, xã Cam Giang, huyện Cam Lộ, Quảng Trị) là nơi hoang vắng, gặp quân Đô Chức xuất trận bất ngờ. Biết bị mai phục vẫn dũng cảm đánh quân phản nghịch đến hơi thở cuối cùng. Nhân dân làng Cẩm Thạch dựng miếu lớn thờ ông tại chỗ. Là người tiết nghĩa trung quân ông được vua Lê Chiêu Tông truy tặng chức Lễ Bộ Thượng thư. Làng rước sắc phong và cả thi hài của ông đưa về chôn cất ở cồn cát Yên Biều, Câu Nhi, hưởng thọ 41 tuổi. Làng Câu Nhi dựng miếu thờ ông trong khuôn viên chùa lớn của làng. Năm Tự Đức thứ 11 (1858) nhân triều đình kiểm kê khen thưởng những người có công với nước, làng chép sự tích của ông nộp lên, được truy phong Tuấn lương tôn thần. 

Từ thi Hội đến thi Đình, ông nghè Câu Nhi đều được khen ngợi về văn ứng chế, nổi tiếng học vấn uyên bác. Bùi Dục Tài đã đem về cho quê hương Câu Nhi, cho xứ Thuận Hóa danh hiệu vẻ vang “Tiến sĩ khai khoa”, dựng mốc son học vấn khoa cử cho cả xứ Đàng Trong. Sự kiện này, về sau tác giả Dương Văn An ghi nhận: “Đặng Tất thắng trận Bô Cô quân uy lừng lẫy, Bùi Dục Tài đỗ Tiến sĩ khai khoa cho một địa phương danh tiếng tuyệt vời… Cái tài văn chương chính sự của Bùi Dục Tài thật là người giỏi của cả nước chứ không phải là người giỏi của xứ Ô Châu” hoặc Lê Quý Đôn ca ngợi: “Văn mạch một phương dằng dặc không dứt”... Chỉ tiếc rằng sự nghiệp văn chương ấy hiện nay còn lưu lại độc nhất một bài là bài biện Chế Đinh dĩ thát Tần Sở biện (Bài biện về việc làm ra chiếc gậy để đánh Tần Sở), viết chung với Hoàng giáp đồng khoa là Hạ Ngọc Chúc (người huyện Chương Đức, nay là tỉnh Hà Tây). 
Đây là tác phẩm phát triển tư tưởng nhân nghĩa, tư tưởng yêu nước yêu dân, chống ngoại xâm rất sâu sắc. Ông là đại biểu xứng đáng một thời cho tư tưởng nhân nghĩa Đại Việt: “Lúc bấy giờ, mặc dù đã hơn 70 năm đã qua từ khi bọn xâm lược ở phía Bắc bị đánh bại, nhưng trong tình hình chế độ phong kiến Đại Việt đang bắt đầu xuống dốc, nhà vua luôn thấp thỏm trước một cuộc xâm lăng mới nên thường hỏi kế chống của triều thần. Chủ đề “làm chiếc gậy để đánh Tần Sở” rút từ sách Mạnh tử, lúc Lương Huệ Vương hỏi về cách chống lại sự thôn tính của hai nước lớn, chính là được đặt ra từ tâm trạng ấy của vua tôi nhà Lê. Dựa vào tư tưởng nhân nghĩa của họ Mạnh, hai ông đã phát triển tư tưởng “lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo” của Lê Lợi, Nguyễn Trãi, để thuyết phục nhà vua thi hành một chính sách dựa vào dân, lấy dân làm gốc mới có thể dựng được nước và giữ được nước. Bài biện viết: Vững nước đâu phải do thành trì hiểm cố, khoan dân đâu phải do hào lũy vững bền, đè thiên hạ đâu phải do giáo gươm thừa thải. Người có đạo thì đông người phù trợ, kẻ vô đạo thì ít ai ngó tới. Đông người phù trợ thì thiên hạ thuận theo, ít ai ngó tới thì thân thích cũng bội phản. Đem người mà thiên hạ thuận theo đánh kẻ mà thiên hạ bội phản, không đánh thì thôi, đánh là tất thắng. Và hai ông cùng đem cái thực tế Lê Lợi lấy đức trung hậu, dấy đội quân nhân nghĩa, quét sạch khỏi đất nước trăm vạn quân cường Minh… để chứng minh cho luận điểm của mình. Viết như vậy, bởi hai ông, từ một tấm lòng thiết tha yêu nước, đã nhận thấy triều đình đang thực thi một chính sách xa dần chính sách nhân nghĩa và cần phải được nhắc nhở lại để tránh nguy cơ một sự đổ vỡ hoàn toàn. Song tiếc rằng, sau Lê Hiến Tông, các ông vua nối nghiệp đã mỗi ngày một thêm kiêu căng, xa xỉ, hoang dâm, khiến đất nước cũng mỗi ngày một thêm rối loạn về chính trị và tuột dốc về kinh tế” [5]. 
- Lê Tri Huyện, người Vũ Xương, sống vào thế kỷ XVI, xuất thân là một giám sinh được làm quan. Giữa lúc xã hội nhiễu nhương, bọn nghịch đảng quấy rối, ông từ quan ẩn cư tại gia, lấy thơ văn làm niềm vui. Tác giả sách “Phủ biên tạp lục” đánh giá thơ Lê Tri Huyện thể hiện rõ cốt cách của một người chính trực thanh liêm: 
“Tâm ngụ kinh luân đô thị phú 
Gia truyền thanh bạch vị vi bàn 
Tố hành tự ngã duy an mệnh 
Huyền ngọc y thùy uổng mỵ nhân" 
Tạm dịch: 
Kinh luân để dạ bao là của
Thanh bạch gia truyền chẳng phải nghèo
Nghĩa vụ ta làm theo vận mệnh
Mặc ai xu phụ, luống gieo neo. 
- Trần Duy Trung, người Đăng Xương (Triệu Phong), sống vào thế kỷ XVIII, là một thầy đồ dạy học ở Ái Tử, có tiếng giỏi thơ văn. Sách Ô Châu cận lục ghi, nhân sự việc tướng Hoàng Ngũ Phúc cầm quân đi đánh giặc ở Phương Nam, Trần Duy Trung làm bài thơ dâng tặng, lời lẽ ý tứ súc tích, thể hiện cái nhìn của một người có chí lớn: 

Lâm phong chỉnh chỉnh hướng Nam Kỳ 
Hạp cảnh mao nghê ủy sở tư 
Bạt thế yếm khan Tần pháp độ 
Bách niên phục đổ Hán uy nghi 
Cùng tuyền đống trập oanh lôi dạ 
Mãn địa khô miêu đắc vũ thì 
Nguyệt chỉ Phú Xuân thôi tiến phát 
Binh cơ quy tốc bất nghi trì. 
Tạm dịch: 
Giong cờ phơi phới thẳng vào Nam
Già trẻ cả miền thảy hả tâm
Tám chúa chán xem Tần pháp độ
Trăm năm lại thấy Hán uy nghi
Sâu co gặp sấm vừa vang tiếng
Lúa héo chờ mưa đã được thì
Xin thẳng Phú Xuân mà bước tới
Việc binh nên chóng chớ nên chờ. 
- Nguyễn Hữu Thận (1757- 1831), tự Chân Nguyên, hiệu Ý Trai, quê ở làng Đại Hòa, xã Triệu Đại, huyện Triệu Phong. Chín năm làm quan dưới triều Tây Sơn đến chức Hữu thị lang bộ Hộ. Năm 1801, Nguyễn Phúc Ánh chiếm lại Phú Xuân, ông phải ra “hiệu thuận”, tức là thuận theo triều đại mới và làm việc hết sức để “chuộc lỗi”. Sau những năm giữ chân Chế cáo ở Viện Hàn lâm, làm Thiên sự ở bộ Lại và cai bạ ở Quảng Nghĩa, ông được rút về làm Hữu tham tri bộ Lại, rồi Chánh sứ phái bộ tuế cống sang Trung Quốc (1809), Hộ Tào Bắc thành, Thượng thư bộ Lại, Thượng thư bộ Hộ, Hiệp trấn Bắc thành, Thượng thư bộ Binh. Con đường hoạn lộ tuy được thăng tiến chức nhưng năm 59 tuổi (1816) ông lấy lý do sức khỏe sa sút xin về hưu trí ở quê nhà, làm công việc cả đời ông ham thích là biên soạn sách. 
Nguyễn Hữu Thận là một nhà Nho, một ông quan tiêu biểu của chế độ phong kiến nhưng trong con người nhà Nho ấy, còn có một con người khác khiến ông đã vượt lên thời đại của mình: “Đó là một con người say mê khoa học nhiều hơn sách vở thánh hiền, có tinh thần thực học nhiều hơn tâm học, có ý thức cách tân hơn là bằng lòng với những gì đã có, muốn đạt đến chân lý trong thực tại cuộc sống hơn là trong những giá trị đạo đức đơn thuần”. 
Là nhà thiên văn và lịch học ông đã có công trong việc biên soạn lịch Hiệp kỷ thay lịch Vạn toàn, giúp cho nông dân cày cấy kịp thời vụ; là nhà toán học ông để lại bộ sách Ý trai toán pháp nhất đắc lục… Về văn học, ông là dịch giả cuốn sách Tam thiên tự lịch đại văn chú (ba nghìn chữ chú giải văn chương các đời của Từ Côn Ngọc, Trung Quốc), quyển sách dạy nhập môn chữ Hán qua những lời giáo huấn, những điển tích trong kinh sử, dịch thành câu có vần. Ngoài ra ông còn tham gia biên tập bộ sách Bách ty chúc tế của triều đình nhà Nguyễn và là tác giả một số bài thơ dưới hình thức ca dao do ông làm ra để cấy tinh thần khoa học vào cuộc sống được người dân truyền tụng cho đến bây giờ: 
Anh đi thì lý chưa trồng 
Anh về, lý đã đâm bông trăm ngành 
Mỗi ngành mười tám bông xanh 
Ba bông bốn trự đố anh mấy tiền? 
Đây chỉ là bài toán đố, đươc viết ra có vần có điệu, dễ thuộc dễ nhớ nhưng do âm vận trong sáng, tiết tấu nhịp nhàng, trữ tình tươi đậm nên chị em thường đem ra hát ru con. Các vị thức giả và người dân quanh vùng chợ Thuận đều cho đó là câu hát của nhà toán học kiêm nhà thơ bình dân Nguyễn Hữu Thận. 
- Nguyễn Công Tiệp (? - 1829), người huyện Hải Lăng, làm quan đời Tây Sơn, sau được Gia Long lưu dụng, lúc mất được tặng hàm Tham tri. Tác phẩm: Sĩ hoạn tu tri lục (ghi chép những người ra làm quan cần biết). Sách gồm 6 quyển nói về cương vực từng vùng, số làng xã, đình điền, thuế lệ, đường sá, quán trạm, quan chế... Ở phần phụ lục sách có một số bài thơ Nôm vịnh cảnh vật. 

Ngoài thơ của những tác giả quê ở Quảng Trị còn có thơ của các tác giả ngoại tỉnh. Phần lớn là thơ đề tặng những nhân vật lịch sử hoặc danh nhân Quảng Trị. Đó là thơ của nhiều nho sĩ ở kinh thành Thăng Long phúng điếu Hoàng Bôi (quê làng Câu Nhi, Hải Lăng, Quảng Trị), làm quan đời nhà Mạc, lúc lâm trận gặp nguy nan không đầu hàng giặc, anh dũng hy sinh. Hoặc như thơ của chúa Nguyễn Phúc Chu (thế kỷ XVII) tặng Trần Đình Ân, nhà khoa bảng nổi tiếng hưu trí tại làng Hà Trung (Gio Linh): 
Tính khí ôn hòa giữ mực trung  
Bốn triều giúp việc biết bao công 
Thành công mới chán mà thao tía 
Mộ đạo nên xa chốn bụi hồng 
Thương hạo bạc phơ hai mái tóc 
Hán thần vui thú một tơ đồng 
Chuyến này về xứ làm chi đó 
Nước biếc non xanh thoả tấm lòng. 
Bài thơ này hiện còn khắc tại bia mộ của Trần Đình Ân tại quê nhà. Về văn xuôi chữ Hán ở thời kỳ này không lưu giữ được nhiều, hiện chỉ còn bài Văn bia của Trần Đình Ân khắc trên đá tại chùa Bảo Đông ở làng Hà Trung là đáng giá. Trần Đình Ân sống vào thế kỷ XVII, quê Gio Linh, là nhà khoa bảng làm quan qua bốn triều đại từ Lê Thần Tông đến Lê Hy Tông, cuối cùng giữ chức Tham chính Chánh đoan sự thời chúa Nguyễn Phúc Chu. Trần Đình Ân giỏi thơ văn, sáng tác nhiều nhưng đáng tiếc chỉ còn lưu lại bài văn bia vừa nêu. Nội dung bài văn bia ghi lại sự nghiệp phục vụ “tứ triều quốc chính” và ý nguyện “sùng đạo hiếu thiện” của tác giả. 
Ngoài văn xuôi của các tác giả quê ở Quảng Trị còn có văn xuôi của các tác giả ngoại tỉnh. Tác giả các đầu sách “Ô châu cận lục” (Dương Văn An) và “Phủ biên tạp lục” (Lê Quý Đôn) là những tác phẩm văn xuôi tiêu biểu viết về Quảng Trị. Dương Văn An và Lê Quý Đôn tuy là hai nhà văn ngoại tỉnh, sống vào hai giai đoạn lịch sử cách xa nhau (một người vào giữa thế kỷ XVI và một người vào cuối thế kỷ XVIII), nhưng do hiểu biết sâu sắc về mảnh đất này nên đã có những chương sách ghi chép, miêu tả tỉ mỉ, chính xác về cảnh quan, địa lý, sông ngòi, sản vật, chợ búa, danh nhân, phong tục tập quán của các huyện Hải Lăng, Vũ Xương, Minh Linh (Vĩnh Linh) và một số địa phương khác của Quảng Trị. Ngoài giá trị văn chương, “Ô Châu cận lục” và “Phủ biên tạp lục” còn là nguồn sử liệu quý báu và hiếm hoi giúp chúng ta tìm hiểu nhiều mặt về đời sống kinh tế - xã hội của tỉnh nhà trong gần ba thế kỷ. 
1.2.1.2- Giai đoạn từ đầu thế kỷ XIX đến năm 1945 
Ở thời kỳ này Quảng Trị là một tỉnh của một nước Việt Nam thống nhất. Do ở gần kinh đô Huế nên đời sống văn hoá có điều kiện phát triển hơn. Trong thế kỷ XIX sự học ở các làng xã được khuyến khích, trường học mở mang, nhiều người tham dự các kỳ thi Hương, thi Hội ở kinh thành Huế, rất nhiều người đỗ đại khoa. So với nhiều tỉnh thành trong cả nước Quảng Trị được xếp vào vùng đất khoa bảng. Vào những năm 20 của thế kỷ XX khi chế độ thi cử phong kiến bị bãi bỏ thì phong trào học chữ quốc ngữ được đẩy mạnh. Nhiều người đã theo học trong các trường Pháp Việt ở Quảng Trị hoặc ở Huế. Cuối giai đoạn này có các phong trào yêu nước phát triển mạnh ở Quảng Trị. Trong điều kiện như vậy, văn học thành văn của Quảng Trị phát triển mạnh hơn, đa dạng hơn giai đoạn trước. Dưới đây là một số tác giả, một số hiện tượng văn học tiêu biểu: 
a- Văn học chữ Hán, chữ Nôm: 
Bộ phận văn học này phát triển mạnh trong thế kỷ XIX đến những năm đầu thế kỷ XX. Lực lượng sáng tác là các nhà nho đang làm quan hoặc làm nghề dạy học, thầy thuốc. Văn tự sáng tác là chữ Hán, chữ Nôm với các thể loại chính như thơ đường luật, văn bia, câu đối, văn tế và một vài thể loại khác [6]. 
- Nguyễn Cửu Trường (1806 - 1803), gốc người Gia Miêu, Thanh Hóa, nhập tịch làng Huỳnh Công, nay thuộc xã Vĩnh Tú huyện Vĩnh Linh. Đỗ Hoàng giáp năm 1838, làm quan đến chức Tuần phủ tỉnh Biên Hòa. 
Tác phẩm: Lịch đại sử luận (luận về lịch sử các triều đại Trung Quốc), bàn về các sự kiện lịch sử, các nhân vật từ đời Thái Tổ đến đời nhà Thanh (viết chung với Nguyễn Bá Nghi, người huyện Mộ Đức, Quảng Ngãi và Vũ Phạm Khải, người huyện Yên Mô, Ninh Bình), cùng làm việc vào cuối đời Thiệu Trị. 
- Nguyễn Văn Hiển (1827-18650, Tự Doãn Trai, người làng Mỹ Chánh, nay thuộc xã Hải Chánh, huyện Hải Lăng. Đỗ Hoàng giáp năm 1847, làm quan đến chức Tuyên phù sứ, đạo Phú Yên. 
Tác phẩm: Đồ bàn thành ký (ghi chép về thành Đồ Bàn, kinh đô Chămpa cũ ở Bình Định), ghi chép tên gọi, địa giới, lịch sử và một số bài ký, truyền thuyết về Thiên y tiên nữ, Liệt phụ Nguyễn Thị... 
- Trần Đình Túc (1809 - 1892), tự Trọng Cung (có tài liệu ghi là Cung Trọng), hiệu Hy Lỗ, người làng Hà Trung, huyện Gio Linh, đỗ Cử nhân năm 1842. Làm quan dưới triều nhà Nguyễn, từ chủ sự bộ Hộ, Tri phủ Vĩnh Tường, Tổng đốc Hà Nội đến Thượng thư. Ông đã cùng với Tuần phủ Nguyễn Trọng Hợp, Án sát Trương Gia Hội thương ước với phái viên Pháp trong việc lấy lại thành Hà Nội. Có công trong việc doanh điền sứ, chiêu mộ dân khai hoang lập ấp ở Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế và việc xin khai thông con sông Vĩnh Định. 
Trần Đình Túc là một tác gia lớn. Trước tác có tập thơ Tiên sơn thi tập, tập thơ núi Cồn Tiên này gồm 230 bài thơ văn. Về thơ chủ yếu là thơ Đường luật và một ít thơ Cổ phong [7]. Là thơ xướng họa hoặc viết về mối quan hệ bạn bè thân hữu là những nhà thơ tên tuổi đương thời như “Đề thơ lên vách tường điện Vân Quán của Tùng Quốc công” (tức Tùng Thiện vương), “Tiễn Phạm Phú Thứ về an dưỡng”, “Họa thơ Đặng Huy Trứ”... Thơ vịnh cảnh như “Biệt núi Nùng”, “Qua biển Đá Nhảy”, “Thôn cư ngẫu hứng”... Thơ vịnh việc như “Trung thu hứng tác”, “Nghe quan quân Hà Nội thu được thắng lợi”... Thơ tự vịnh về bản thân, gia đình mình và một số bài có tính chất suy nghiệm, triết lý về lối sống của một ông quan nhà nho. Rất tiếc cho đến nay chúng ta chưa có điều kiện dịch thuật toàn bộ tập thơ văn và xuất bản để giới thiệu rộng rãi trong công chúng. 
Ngoài ra, ông còn có một số bài thơ khác chép chung trong tập Du Hương Tích sơn thi tập và nhiều câu đối có giá trị như câu đối điếu Hoàng Diệu, Trần Thiện Chánh. 
- Phan Văn Huy (không rõ năm sinh năm mất), người làng Đạo Đầu nay thuộc xã Triệu Trung, huyện Triệu Phong. Cháu nội ngài Hậu quân Phan Văn Thúy. 
Tác phẩm: Cai dư kỳ thực (ghi chép sự việc lúc rãnh rỗi dưới bậc thềm), ghi chép về cuộc đời của mẹ ông là bà An Thường công chúa. Sách có lời đề tựa của quốc công Miên Ký viết năm 1881. 
- Hoàng Hữu Xứng (1831 - 1905), tự Bình Như (có sách ghi Bình Chi), hiệu Song Bích, người làng Bích Khê, xã Triệu Long, huyện Triệu Phong. Đỗ Cử nhân năm1852, làm quan đến chức Thượng thư. 
Tác phẩm: Đại Nam quốc cương giới vựng biên (biên chép tổng hợp về bờ cõi và biên giới nước Đại Nam) và một số bài thơ khác. 
- Nguyễn Như Khuê (chưa rõ năm sinh năm mất), người làng Phúc Lâm, nay thuộc xã Vĩnh Long, huyện Vĩnh Linh. Đỗ cử nhân năm 1864, làm quan đến chức Tri phủ Cam Lộ. 
Tác phẩm: Như Khuê thị học ngữ tập (tập học đòi về ngôn ngữ của Như Khuê). Tập có hai phần, phần đầu là thơ ngâm vịnh về Thuý Kiều như thăm mả Đạm Tiên, gặp Kim Trọng, khóc Từ Hải..., phần sau một số 43 thơ chữ Hán vịnh cảnh vật, một số bài văn phổ khuyến, ca khúc và văn chầu bằng quốc âm. 
- Nguyễn Trừng (chưa rõ năm sinh năm mất), Người làng Diên Khánh, nay thuộc xã Hải Dương, huyện Hải Lăng. Đỗ cử nhân năm 1878. 
Tác phẩm: Kỷ sửu như Tây nhật ký, tác giả ghi chép lại các sự việc trong chuyến đi sang Pháp cùng với Miên Triện, Vũ Văn Báo năm 1889. 
- Lê Đăng Trinh (1850-1909), Tự Hàm Chương, hiệu Bích Phong, người làng Bích La Đông, Triệu Đông, Triệu Phong. Đỗ Phó bảng năm 1875, làm quan đến chức Thượng thư. 
Tác phẩm: Bích Phong thi thảo, phần lớn trong tập là thơ đề từ, xướng họa và một số bài nói lên nỗi lòng của tác giả trước vận mệnh đất nước. 
- Nguyễn Tự Như, người huyện Gio Linh, sống vào nửa cuối thế kỷ XIX, đỗ tiến sĩ thời vua Thành Thái. Ông sáng tác nhiều thơ văn nhưng nay đã bị thất truyền. Hiện còn lưu lại bài văn tế bằng chữ Hán do ông soạn, thường được đọc trong những lần làng tế lễ ở quê hương ông. 
- Nguyễn Hữu Bài (1863-1935), hiệu Vĩnh Cao, người làng Cao Xá, nay thuộc xã Trung Giang, huyện Gio Linh (trước thuộc huyện Vĩnh Linh). Giỏi tiếng Pháp, làm quan đến chức Thượng thư. Năm 1902 được cử làm sứ bộ qua Pháp và năm 1922 làm hộ giá đại thần đưa vua Khải Định sang Pháp yêu cầu Chính phủ Pháp trao trả Bắc kỳ cho triều đình nhà Nguyễn. Năm 1932 khi Bảo Đại về nước chấp chính, ông xin về hưu nhưng không được chấp thuận. Vua Bảo Đại tấn phong cho ông là Phước Môn Quận công, năm 1933 mới về hưu trí tại Phước Môn (nay xã Hải Lệ, thị xã Quảng Trị) với chức vụ Cố vấn nguyên lão. 
Ông là người sáng lập ra Hội “Như tây du học bảo trợ” vào năm 1926 giúp cho nhiều sinh viên qua Pháp du học. Có công trong việc khai khẩn, trưng đất hoang lập ra ngũ môn từ Phước Sơn, Phước Sa (Vĩnh Linh), Phước Môn (thị xã Quảng Trị) đến Phước Tín, Phước Xuyên (Truồi, Thừa Thiên-Huế) chiêu mộ dân nghèo đến ở, giúp cho họ có cơ hội làm ăn sinh sống. Ông là người có đầu óc cách tân, tiêu biểu cho hàng ngũ quan lại Quảng Trị về tư duy kinh tế. Ông cũng là con người thẳng thắn trung trực. Cũng như quan Thượng Ngô Đình Khả không chịu phế vua, việc ông chống lại Khâm sứ Pháp đòi đào lăng vua Tự Đức lấy vàng bạc châu báu vào năm 1908 được người đời xưng tụng trong câu ngạn ngữ “Phế vua không Khả, đào mả không Bài”. 
Tác phẩm: - Thơ Nôm Phước Môn do Viện Đại học Huế xuất bản, hầu hết là thơ vịnh cảnh, tức sự, thù tạc, thể hiện một tình cảm quê hương đằm thắm, ví như “Khai bút năm Mậu Ngọ”, “Đêm nằm không ngủ”, “Giếng nước trời sinh”, “Vịnh cây hoa trước cửa”, “Vịnh cái cầu tre”, “Vịnh bình phong”, “Khuyên người đời”,“Vịnh cảnh Cùa”... và Lại An thi thảo, tập thơ chữ Hán, gồm thơ vịnh cảnh trong thời gian tác giả đi theo người Pháp hoạch định biên giới giữa Bắc kỳ và Trung Quốc trước năm 1896 và thời gian đi Pháp năm 1902. Ở tập thơ này có một số bài hé lộ tinh thần dân tộc của tác giả ở một giai đoạn lịch sử nhiều biến động và rối ren của đất nước. 
- Hoàng Hữu Kiệt (1885-1940), tự Châu Thần, hiệu Phúc Khê, người làng Bích Khê, xã Triệu Long, huyện Triệu Phong. Đỗ cử nhân năm 1915, đang làm tri huyện nhưng không thừa hành ý chỉ quan trên nên buộc thôi chức. 
Tác phẩm: Phúc Khê thi tập, gồm gần 200 bài thơ chữ Hán và quốc âm vịnh cảnh vật, thù tạc, nhiều bài thể hiện chính kiến, tinh thần dân tộc của tác giả trước thời cuộc. 
- Phan Văn Hy (1890-1970), tự Kỉnh Chỉ, người làng Nhan Biều, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong. Tốt nghiệp y sĩ Đông Dương (sau chuyển thành bác sĩ), là thầy thuốc Tây y nổi tiếng ở Quảng Trị. Từng giữ chức vụ Tỉnh trưởng tỉnh Quảng Trị trong chính phủ thân Nhật của Trần Trọng Kim. Khi vua Bảo Đại thoái vị, ông liên lạc với Ủy ban Dân tộc giải phóng Triệu Phong giao lại chính quyền, đưa cả gia đình lên chiến khu Ba Lòng, tiếp tục hành nghề bác sĩ. Trận càn cuối năm 1947, thực dân Pháp bắt ông đưa về thị xã Quảng Trị. Cuối đời ông đưa cả gia đình vào Sài Gòn mở phòng mạch tư và mất tại đó. 
Tác phẩm: Thơ Kỉnh Chỉ (thơ quốc âm đường luật). Phần lớn trong tập là thơ vịnh cảnh, thù tạc, tức sự, một số bài có tư tưởng xã hội ví như “Chơi Cửa Tùng” là bài thơ giàu cảm xúc, thắm đượm tình quê hương và ít nhiều mang một nỗi buồn hoài cổ được nhiều người nhắc đến: 
Qua Cửa Tùng chơi bóng đã chiều 
Cảnh Thừa lương trước gió buồn thiu 
Năm xưa bến Ngự đôi ghềnh đá 
Dấu cũ sân chầu mấy cụm rêu  
Quyên gọi luống đau lòng cố quốc 
Tùng reo như nhắc chuyện tiền triều 
Cuộc đời dâu bể nhìn thêm ngán 
Nhớ chúa thương ai ruột chín chiều. 
Ngoài ra ông còn có thơ in chung trong tuyển “Hương Bình thi phẩm” của Hoàng Trọng Thược và một số thơ bằng chữ Hán ở dạng bản thảo. 
Nói đến văn thơ chữ Hán, chữ Nôm ở Quảng Trị cần chú ý đến những bài văn bia, những bản hương ước, hối ước, các bài văn tế và câu đối hiện còn lưu giữ lại ở nhiều địa phương trong tỉnh. Trong các thể loại này có những bài có giá trị như bài văn bia ở làng Hà Trung do Trần Đình Phác soạn, hoặc bài văn bia “Đề phụ lữ phần bia” do Trương Khắc Hịch soạn ở làng Mai Xá. Bài hội ước “Hội đình quan hàm phương danh” ở làng Câu Hoan. Thể văn tế viết bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm có nội dung hết sức đa dạng: “Văn tế các vị khai khẩn của làng”, “Văn tế cha mẹ”, “văn tế vợ chồng”, “Văn tế cầu an”, “Văn tế thập loại cô hồn”... Tương tự, câu đối cũng chiếm một khối lượng đồ sộ, vừa bằng chữ Hán, vừa bằng chữ Nôm hiện đang được lưu giữ, thờ phụng tại các đình chùa, lăng miếu, nhà thờ họ lẫn các tư gia chưa được nghiên cứu, giới thiệu một cách đầy đủ, có hệ thống. Các thể văn này vừa là di sản văn học và văn hoá hết sức quý giá. Về văn học, nó phản ánh tình cảm, suy nghĩ của người Quảng Trị đối với quê hương, đất nước. Về văn hoá, nó chứa đựng trong đó lịch sử, truyền thống, học vấn và phong tục tập quán của vùng đất. 
b- Văn học chữ quốc ngữ: 
Bộ phận văn học này phát triển chủ yếu từ sau năm 1920 khi ở Quảng Trị có một lớp trí thức mới theo học ở các trường Pháp Việt, chịu ảnh hưởng của văn hoá phương Tây hoặc tham gia các phong trào yêu nước và cách mạng. Có thể khẳng định, đại diện cho bộ phận văn học giai đoạn này là Phan Văn Dật, Chế Lan Viên trong phong trào Thơ mới và nhiều chí sĩ cách mạng yêu nước. Riêng phần thơ văn của các chí sĩ cách mạng xin được trình bày theo tuổi tác, năm sinh năm mất: 
- Lê Thế Tiết (1900-1940), người làng Tường Vân, xã Triệu Vân, huyện Triệu Phong. Học ở Huế, năm 1925 ra làm Thừa phái ở Diễn Châu, Nghệ An, tham gia Hội Phục Việt (1926), là thành viên nhóm cộng sản đầu tiên ở Tích Tường, Cam Lộ. Tháng 4/1930, cùng với đồng chí Trần Hữu Dực và Nguyễn Hữu Mão, ông đã thành lập tỉnh Đảng bộ Quảng Trị và được cử làm Bí thư Tỉnh ủy đầu tiên của tỉnh Quảng Trị. Năm 1940 ông bị địch tra tấn dã man, hy sinh tại nhà đày Lao Bảo lúc tuổi đời mới ở bốn mươi. 
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, nhiều vị tiền bối cách mạng ở Quảng Trị trong đó có đồng chí Lê Thế Tiết sáng tác nhiều thơ văn. Nó là vũ khí đấu tranh và tuyên truyền cách mạng, song vì lý do hoạt động bí mật và bị tù đày mà thất lạc đi nhiều. 
Tác phẩm: 
- Diêm phù thạch ký - “Truyện tảng san hô muối”, tập tiểu thuyết bằng chữ quốc ngữ với nhân vật chính là một phụ nữ có học thức, lúc đi cứu cha bị giam cầm thấy được bao nhiêu người bị áp bức bóc lột tàn tệ nên đã giác ngộ và tham gia hoạt động cách mạng. 
- Thằng Cu Chim, là truyện vừa kể chuyện một em bé nhà nghèo từ cuộc sống gian khổ của mình mà giác ngộ cách mạng (Cả hai tác phẩm văn xuôi nói trên ghi theo lời con gái của ông là bà Lê Thị Diệu Muội, theo đó thì bản thảo đã thất lạc từ trước năm 1945). 
Hai bài thơ “Tự vịnh”, “Nhớ làng quê” là số ít trong những bài thơ của Lê Thế Tiết may mắn được các đồng chí trong tù nhớ lại. Bài thơ “Tạm biệt” là bài ông làm để chia tay lúc từ chức Thừa phái ở phủ Diễn đi làm cách mạng (gia đình còn lưu giữ được). Một phần tư tưởng, tình cảm, cốt cách và văn phong của ông thể hiện khá rõ qua bài thơ này: 
Trong thiên hạ biết ai ai biết 
Tương phùng tương đắc hóa tương thân 
Đã quen nhau xa cũng như gần 
Duyên bèo nước mà nhiều phần gắn bó 
Chật một nhà: học sinh, quan nho, tú cử 
Mái tây hiên hách chủ ân cần 
Mà nay ngày một xa dần 
Đoái cảnh vật khôn tan mộng tưởng 
Khái hậu Diễn thành lưu biệt hận 
Tư lai tùng kính các kinh phi 
Trăng Hồng Lam khi có hỏi nhau gì 
Nhờ thưa lại khách về nhưng có dặn  
Nước còn, non hẳn 
Hội tương phùng còn có lúc về sau 
Mà xem con tạo cơ cầu. 
- Nguyễn Vức (1906 - 1971), người làng Đại Áng, phường Đông Lương, Tp. Đông Hà. Tham gia cách mạng rất sớm, từ tổ chức Ái hữu dân đoàn sau hợp nhất thành Thanh niên cách mạng đồng chí Hội. Bí thư chi bộ Đại Áng, một trong 16 chi bộ đầu tiên ở Quảng Trị do đồng chí Trần Hữu Dực thành lập giữa tháng 3/1930 [8]. “Được bầu vào Ban chấp hành Tỉnh Đảng bộ tháng 6 - 1937. Khi đồng chí Trần Mạnh Quỳ bị bắt (9-1939), đồng chí Nguyễn Vức được Tỉnh ủy Quảng Trị bầu làm Bí thư” [9]. Nhưng cũng có nguồn tư liệu đáng tin cậy khác cho biết: “Tháng 8 - 1937, đồng chí Nguyễn Vức (Đại Áng) được cử vào Tỉnh ủy và đến tháng 10 - 1938, làm Bí thư thay đồng chí Hoàng Hữu Chấp bị bắt…”[10]. 
Do hoàn cảnh hoạt động thời tiền khởi nghĩa, về căn bản dựa trên nguyên tắc bí mật nên khó xác minh đầy đủ về cuộc đời hoạt động cách mạng của ông. Nhất là giai đoạn sau 1954, ông ở lại hoạt động bí mật ở miền Nam mà theo ông Lê Hoạch cho biết là theo chỉ thị của đồng chí Trương Công Kinh, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị lúc bấy giờ. Từ 1954 - 1971, ông thường xuyên bị địch bắt giam, quản thúc; chỉ có chi bộ bí mật ở địa phương nắm rõ hoạt động của ông thời kỳ này. Năm 1971 bị địch tra tấn dã man, ông lâm trọng bệnh, về nhà chưa đầy tháng sau thì mất, đã được truy tặng liệt sĩ. 
Sinh thời ông làm rất nhiều thơ phú, câu đối lúc ở trong tù và hoạt động trong lòng địch. Cũng một phần vì thơ phú bày tỏ chí khí, tâm huyết của mình mà ông bị tù tội. Nhân tết đến xuân về, ông dán ở cổng nhà mình câu đối: “Ngày Tết như ngày thường, chẳng có của ngon vật lạ/ Chơi xuân không chơi lắm, chớ quên cuốc bẩm cày sâu”. Chiều ba mươi Tết đang cày ruộng giữa đồng, ông bị tên Tháo cảnh sát về bắt cho rằng làm câu đối bôi nhọ chế độ. Vào quận Triệu Phong, ông đấu lý với tên Quận trưởng Ngô Đình Hoàng, con nuôi Ngô Đình Diệm: “Thưa ông Quận, hôm ni tui bị bắt vô đây lần thứ ba. Lần thứ nhất họ nói tui làm sai, họ bắt (ý nói làm cách mạng). Lần thứ hai họ nói tui đi sai, họ bắt (ông bị quản thúc không được ra khỏi địa phương). Lần thứ ba họ nói tui nói sai, họ bắt”… Sau hồi đấu lý Quận Hoàng đuổi khéo: “Thôi ông về đi”…, ông còn lấy cớ trời tối, phải bố trí chỗ ở lại qua đêm giao thừa “ăn tết” ở quận sáng hôm sau mới về. Bài thơ sau cũng do ông làm: “Vận nước trăm khe chảy về HỒ/Qua cầu không khéo bổ trúc NGÔ/ Bổ trúc ngô cũng nhờ người CỌNG/Người cọng vững vàng khó mà XÔ”. (Hồ: ám chỉ Cụ Hồ, Ngô: gia đình họ Ngô. Cọng: Tiếng địa phương là cõng nhưng hàm ý Trung cộng, cũng như Xô, ám chỉ Liên Xô). Ông bộ Thúy đem bài thơ này phổ biến, cả hai đều bị bắt. Về sau bài thơ này cũng như bài “Đồng khô hồ cạn” vượt tuyến ra đến Vĩnh Linh, nhiều người biết. Cũng như câu đối ghi ở đình chợ Thạch Hãn (chợ Tỉnh) mới tu sửa sau khi cướp chính quyền, có người cho là của ông Nguyễn Vức: “Bán mỡ, bán dầu đừng bán nước/ Buôn ngàn buôn vạn chớ buôn dân”... 
Năm 1999, khi làm Tuyển tập “Non Mai sông Hãn”-100 năm Thơ văn Quảng Trị, tôi may mắn gặp ông Nguyễn Trưng, một sĩ quan quân đội nghỉ hưu ở Lập Thạch cho xem bài văn tế bằng bút tích của ông Nguyễn Vức viết vào ngày 26 tháng tư năm Giáp Ngọ (tháng 5-1954), do ông Vức đọc công khai trong lễ truy điệu mẹ ông Nguyễn Trưng. Ông Vức là chỗ bà con, khóc người đang mất bằng cô (tiếng địa phương gọi o, và mụ là gọi thay con). Bà có năm con trai tập kết. Khi bà mất, năm người con đều đang chiến đấu ở chiến dịch Điện Biên Phủ. Một chút lai lịch, hoàn cảnh ra đời như thế để thấy lý tưởng mà ông gọi là “tấm lòng đỏ” lẫn khí phách cũng như tài nghệ văn chương của ông Nguyễn Vức bàng bạc trong một bài văn tế: “... Hỡi ôi! 
Luật tiến hóa cớ sao chẳng chuyển, giống da vàng chưa khỏi bước gian nan, 
Cuộc tuần hoàn lắm nỗi đau thương, đám mây bạc trông xa chừng vò vọ. 
Sáo ngã thuyền vừa lướt đập, trách ông xanh chi mà khéo vô tình, Cóc kêu trời nỏ thấu cho, tấm lòng đỏ biết cùng ai bày tỏ. 
Trên đời ai khỏi kiếp tồn vong, 
Nháy mắt đã chia người kim cổ. 
Nhớ O xưa: 
Ngôn hạnh có thừa, công dung sẵn đủ. 
Lối xã giao, đường xử thế, dưới trên đều hiểu lẽ thị phi, 
Tình bác ái, nghĩa tương thân, ăn ở cũng vào hàng quy cũ. 
Đóa hoa thơm nở miền Đại lãnh, chữ vu quy vịnh khúc đào yêu, Chiếc thuyền tình ghé bãi Thạch Giang, hoa cỏ rước (?) làm đôi ông mụ. 
Hai mốt tuổi kết duyên cầm sắt, đạo tề gia cũng đúng bậc khuê nghi, Năm mươi năm xây dựng tảo tần, tiếng khen ngợi đã vẻ vang làng họ. 
Cũng lắm lúc thức khuya dậy sớm, giúp gia nương nở mặt nở mày, Đã nhiều phen tay lấm chân bùn, dựng gia thất nên giàu nên có. Phận chính thứ trên hòa dưới thuận, lòng thương yêu rất đúng mực phân minh, 
Bảo các con xử thế tùy thời, gương gia huấn cũng nên trang tiến bộ. Dạy ba gái làm nghề canh cửi, phận nữ nhi khuya sớm ân cần, Khuyên năm trai lo việc học hành, thân nam tử làm tròn nghĩa vụ. Những ước: O là vàng mười đúng chữ, nấu nung nào sợ lửa than, Ai ngờ: Mụ như trái chín trên cây, bỗng chốc rơi theo mưa gió… Đoái là tiếc: Ba năm khói lửa O không gắng thêm vài ba tháng, hòa bình trở lại mạ gặp con, O thấy cháu, gia đình đầm ấm vẻ vinh quang, 
Luống thương cho: Mấy đoạn gian nan Mụ không chờ đợi bấy nhiêu ngày, chiến tranh chấm dứt, người đi Bắc, kẻ về Nam, tranh đấu đập tan cơn giông tố. 
Hay là O thấy chuyện đời rắc rối, quyết riêng mình vui thú tự do, 
Hay là Mụ ghét cuộc thế bất công, mong lánh bước tìm phương tế độ. 
Thôi thôi! 
Sao lặn mây tan, trăng mờ tuyết ủ, 
Hạc lánh non tiên, châu về Hiệp phố 
Nghĩ lại càng buồn nói ra thêm khổ. 
Cảm là cảm: Ông Huynh trưởng da đồi mồi tóc bạc, việc gia đình còn mong thế cậy em, 
Thương vì thương: Mấy em dại còn tuổi trẻ đầu xanh, đường sự nghiệp vẫn nương nhờ bóng Mụ. 
Mai sáng trông ra đường cái, thiếu tiếng O mà tấc dạ ngậm ngùi, Buổi chiều xem bến đò ngang, vắng bóng Mụ lụy càng rơi lổ đổ. 
Bữa nay: Các cháu từ tha hương đi xuống thăm O, bâng khuâng tưởng tình cốt nhục, ôm quan tài mà năn nỉ với hòm săng, 
Ngày mai: Mấy em ngoài quan ải trở về viếng Mụ, lạnh lùng nhớ đức cù lao, ngắm mộ địa mà thở than cùng cây cỏ… 
- Phan Văn Dật (1909-1987), quê làng Đạo Đầu, xã Triệu Trung, Triệu Phong. Học trường Quốc học Huế, vì gia cảnh nên đậu bằng Thành chung ông thôi học đi làm trước bạ tại Đà Nẵng vào năm 1927, đổi ra Huế năm 1939. Năm 1951 du học ở Pháp, tại trường Trước bạ Quốc gia Lyon. Về nước ông làm Chủ sự Trước bạ Huế và dạy văn ở các trường Quốc học, Đồng Khánh, Bách Khoa, Bình Dân. Từ năm 1959 chuyển sang giảng dạy ở Viện Đại học Huế... Viết văn từ năm 1924, đến năm 1927 có thơ đăng ở Nam Phong, Thần Kinh, Rạng Đông, Tràng An... dưới các bút danh Tiêu Lang, Thường Nga Phố. Đặc biệt thơ ông đã được tuyển vào “Thi nhân Việt Nam” của Hoài Thanh - Hoài Chân và “Việt Nam thi nhân tiền chiến” của Nguyễn Tấn Long. Trước tác: “Diễm hương trang” (Tiểu thuyết - 1935); “Bâng khuâng” (Thơ - 1936) và “Những ngày vàng lụa”, thi phẩm chưa xuất bản. 
Phan Văn Dật là một tác gia lớn, cùng với Chế Lan Viên, là một trong những nhà thơ nổi tiếng trong phong trào Thơ mới. Nếu như thành công nhất của Chế Lan Viên trước năm 1945 là đổi mới thơ ca (nói như Hoài Thanh: “Quyển Điêu tàn đã đột ngột xuất hiện giữa làng thơ Việt Nam như một niềm kinh dị”) thì ngược lại “Phan Văn Dật với tập Bâng khuâng đã nhìn cảnh vật ngày nay sau bức màn một tâm hồn xưa... Giữa lúc một luồng không khí mới thúc giục người ta thoát ly gia đình, Phan Văn Dật đã dám ca tụng cái tình anh em, cha con... Giữa cuộc đời náo động, người ngoảnh mặt làm ngơ và tự tạo cho mình một thế giới riêng, một thế giới lặng lẽ đầy mơ mộng” (Hoài Thanh - Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam tiền chiến). Thế giới ấy trong thơ Phan Văn Dật được nhắc đến một cách nâng niu, âu yếm. Đó là những mối tình xưa, những cảm hoài thời thơ ấu: 
Vào buổi bình minh, năm ấy xưa 
Trong vườn đào lý, phủ sương mờ 
Dắt tay hai trẻ tìm hoa rụng 
Mơ chuyện thần tiên, nghĩ vẩn vơ...  
Có thể nói, Phan văn Dật và Chế Lan Viên là hai nhà thơ tiêu biểu người Quảng Trị trong phong trào Thơ mới. Nhưng Chế Lan Viên đồng thời cũng là nhà thơ đại diện cho sự bế tắc của một thế hệ không tìm được lý tưởng sống. Ông đã khắc phục những yếu điểm này của thời đại để chiếm lĩnh những đỉnh cao trong các giai đoạn sau năm 1945 và sau 1975 (nhà thơ Chế Lan Viên sẽ trình bày ở phần sau). 
- Trần Hữu Dực (1910-1993), quê ở làng Dương Lệ Đông, xã Triệu Thuận, huyện Triệu Phong. Tham gia cách mạng từ 1925, lúc ông 15 tuổi. Thời tiền khởi nghĩa, bốn lần ông bị kết án tù, ba lần vào tù, tổng cộng 13 năm. Từng giữ những chức vụ quan trọng: Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị năm 1930-1931; Chủ tich UBHCKC Trung Bộ sau cách mạng tháng Tám; Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp; Bộ trưởng Phủ Thủ tướng; Phó Thủ tướng Chính phủ. 
Tác phẩm đã xuất bản: Hồi ký “Bước qua đầu thù”, “Những năm tuổi trẻ” và nhiều bài thơ viết trong lao tù thực dân thời tiền khởi nghĩa. Trong bộ phận văn học chữ quốc ngữ, có thể còn rất nhiều người dù chưa phải là nhà văn, nhà thơ chuyên nghiệp nhưng tác phẩm của họ thực sự có giá trị và có tác dụng tốt đối với phong trào yêu nước và hoạt động cách mạng thời bấy giờ. Đó là tên tuổi của các bậc cách mạng tiền bối như Lê Thế Hiếu với bài thơ “Kêu gọi quốc dân”; Nguyễn Xuân Luyện với bài “Tức cảm”... Thơ của các tác giả này thể hiện sâu sắc tinh thần yêu nước, tố cáo tội các của thực dân phong kiến, giãi bày những tình cảm riêng tư về tình mẫu tử, về tình bạn, tình đồng chí, tình cảm thiên nhiên với những xúc cảm sâu lắng và bằng một nghệ thuật rất thuần thục, vừa sử dụng những yếu tố thi pháp truyền thống, vừa có những cách tân tìm tòi mới mẻ của phong trào thơ mới. 
Sáng tác của các tác giả này góp một phần quan trọng vào dòng văn học yêu nước và cách mạng phát triển mạnh mẽ trước năm 1945. 
heo http://dostquangtri.gov.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Du Tử Lê, Từ Công Phụng - Con dế buồn tự tử giữa đêm sương! Du Tử Lê viết bài thơ 67, Khúc Thêm Cho Huyền Châu vào năm một ngàn chín tră...