2. Văn học hiện đại
2.1- Lớp nhà văn trưởng thành từ thời chống Pháp
Sau cách mạng tháng tám, thực dân Pháp gây chiến hòng tiêu diệt nước cộng hòa non trẻ của ta và nhằm áp đặt trở lại chế độ thống trị thuộc địa. Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Quảng Trị cùng cả nước thực hiện cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Nằm trong địa bàn chiến trường Bình Trị Thiên khói lửa, cuộc kháng chiến của nhân dân Quảng Trị vô cùng gian khổ nhưng hết sức hào hùng được cả nước quan tâm, động viên cổ vũ. Chín năm kháng chiến chống Pháp ở Quảng Trị có chiến khu Ba Lòng, có cơ quan “Văn nghệ nguồn Hàn” là nơi tập hợp đông đảo văn nghệ sĩ địa phương và cả nước chi viện cho mặt trận Trị Thiên. Từ đây đã sản sinh ra nhiều nhà văn nhà thơ tên tuổi. Hiệp định Giơ ne vơ ký kết, đất nước chia cắt, con sông Hiền Lương - Bến Hải trở thành con sông tuyến, chiến trường Quảng Trị trở thành nơi đọ sức giữa hai thế lực cách mạng và phản cách mạng, là nơi hủy diệt tàn khốc nhất trong cuộc chống Mỹ cứu nước. Cả nước chia lửa, tăng cường lực lượng cho chiến trường Quảng Trị, trong đó có đông đảo các văn nghệ sĩ - chiến sĩ. Sáng tác của họ là một rừng hoa muôn sắc, từ văn học đến kịch bản sân khấu, điện ảnh, ca khúc... đạt đến đỉnh cao của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Trong bối cảnh chung đó, Quảng Trị có nhiều nhà văn, nhà thơ, văn nghệ sĩ tiêu biểu trưởng thành trong 2 cuộc kháng chiến vệ quốc thần thánh của dân tộc. Để giới thiệu một cách khái quát về đội ngũ và chân dung cụ thể của từng nhà văn nhà thơ đông đảo này người viết áp dụng một tiêu chí dung hòa, đó là ưu tiên hàng đầu các tác giả là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, kế đến là những tác giả đã định hình và nhất là lớp trẻ có triển vọng.
- Chế Lan Viên (1920-1989). Nhà thơ, nhà văn, nhà phê bình. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1957).
Tên thật Phan Ngọc Hoan, quê quán ở xã Cam Giang, Cam Lộ, Quảng Trị. Sinh trưởng trong một gia đình nghèo, năm bảy tuổi gia đình chuyển vào Bình Định, ông học tại Quy Nhơn. Tại đây ông sáng tác những bài thơ đầu tiên để gia nhập vào làng văn Việt Nam nên ông coi Bình Định như là quê hương thứ hai của mình. Học xong trung học ông đi dạy tư khắp các tỉnh miền trung và thành phố Huế. Năm 1937, lúc ông tròn 17 tuổi đang học năm thứ 3 trung học Quy Nhơn, Chế Lan Viên đã cho in tập thơ Điêu tàn. Ngay lập tức được công luận và người yêu thơ chú ý, sớm trở thành một trong những nhà thơ nổi tiếng của phong trào Thơ mới. Điêu tàn là một sự phủ định thực tại, quay về với thế giới ảo mộng, kỳ quái của những giấc mơ. Cùng với nhóm thơ Hàn Mạc Tử, Yến Lan, Quách Tấn, Chế Lan Viên đã nói lên sự bế tắc của mình trước cuộc sống thực tại. Năm 1939, ông ra học tại Hà Nội, sau vào Sài Gòn làm báo rồi lại về Xứ Thanh dạy học. Năm 1942, Chế Lan Viên cho ra tập Vàng sao, tiến một bước xa hơn vào thế giới siêu huyền bí, thể hiện sự bế tắc về nhân sinh và nghệ thuật thần bí, bi quan. Cách mạng tháng Tám thành công là bước ngoặt thức tỉnh và đổi đời cho nhiều nhà thơ nhà văn tiền chiến trong đó có Chế Lan Viên. Ông tham gia cách mạng tại Quy Nhơn rồi ra Huế cùng Hoài Thanh, Lưu Trọng Lư, Đào Duy Anh tham gia Đoàn xây dựng, cộng tác với báo Quyết thắng của Mặt trận Việt Minh Trung Bộ. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ông làm công tác báo chí ở liên khu IV lúc ở Thanh - Nghệ - Tĩnh lúc vào Bình - Trị - Thiên.
Trong chiến dịch Tà Cơn - Đường 9 Nam Lào, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 7 năm 1949). Có thể nói từ đây Chế Lan Viên thực sự trở về với cội nguồn dân tộc, đất nước, vứt bỏ mọi ảo tưởng siêu hình trước đây. Tập thơ Gửi các anh (1955) là những bài thơ sáng tác trong những năm kháng chiến chống Pháp thể hiện bước tìm tòi con đường nghệ thuật cách mạng của ông nhưng chưa thật ổn thỏa về tư tưởng. Phải đợi đến sau ngày hòa bình lập lại, trở về Hà Nội cho đến cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Chế Lan Viên cho ra đời bốn tập thơ Ánh sáng và phù sa (1960), Hoa ngày thường - Chim báo bão (1967), Những bài thơ đánh giặc (1972), Đối thoại mới (1973), những tác phẩm đánh dấu bước phát triển mới của ông trên hành trình thơ cách mạng. Đó là một chặng đường “phấn đấu của một tâm hồn để giữ gìn cái ánh sáng của tư tưởng Đảng: tinh thần lạc quan tự vượt mình để nghĩ đến mọi người” (Xuân Diệu).
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ ông từng tham gia trong ban lãnh đạo Hội Nhà văn Việt Nam (Ủy viên Thường vụ), nhiều lần là “đại sứ văn hóa” Việt Nam tham dự các diễn đàn văn hóa quốc tế ở Liên Xô, Ấn Độ, Pháp, Na Uy, Thụy Điển... Là đại biểu Quốc hội các khóa 4, 5, 6 và 7, Ủy viên Ban Thống nhất của Quốc hội khóa 4 và 5. Sau ngày đất nước thống nhất, ông về sống ở Tp. Hồ Chí Minh. Ở đây, tuổi cao sức yếu, ông vẫn chạy đua với thời gian để cho ra đời những tập thơ văn đích thực. Chế Lan Viên mất ngày 19-6-1989, sau một cơn đau nặng tại bệnh viện Thống nhất thành phố Hồ Chí Minh. Ba năm sau khi ông qua đời, tập Di cảo thơ I gồm hàng trăm bài thơ phần lớn chưa được công bố của ông ra mắt bạn đọc. Năm 1993, Di cảo thơ II tiếp tục được phát hành và là tác phẩm độc nhất được giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam vào năm 1994. Ông được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt 1 năm 1996. Giải A giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1995 (tập thơ Hoa trên đá)…
Tác phẩm chính:
Về thơ: Điêu tàn (1937), Gửi các anh (thơ, NXB Hội Nhà văn, 1955), Ánh sáng và phù sa (thơ, NXB Văn học, 1960), Hoa ngày thường - Chim báo bão thơ, NXB Văn học, 1967), Những bài thơ đánh giặc (thơ, NXB Thanh niên, 1972), Đối thoại mới (thơ, NXB Văn học, 1973), Ngày vĩ đại (thơ, NXB Thanh niên, 1976), Dải đất vùng trời (thơ, NXB Quảng Bình, 1976), Hát theo mùa (thơ, NXB Tác phẩm mới, 1986), Hoa trên đá (thơ, NXB Văn học, 1984), Ta gửi cho mình (thơ, NXB Tác phẩm mới, 1986), Di cảo I (thơ, NXB Thuận Hóa, 1992), Di cảo thơ II (thơ, NXB Thuận Hóa, 1993).
Thơ tuyển: Tuyển tập thơ Chế Lan Viên (Văn học, tập I, 1985), Tuyển tập thơ Chế Lan Viên (Văn học, tập II, 1990), Tuyển tập thơ chọn lọc (Nghĩa Bình), Nàng và tôi (Tuyển thơ tình, Văn học 1992), Thơ Chế Lan Viên (thơ tuyển Giáo dục, 1993).
Về văn xuôi: Vàng sao (1942), Thăm Trung Quốc (bút ký, NXB Văn học, 1963), Những ngày nổi giận (bút ký, NXB Văn học, 1966), Bác về quê ta (tập văn, NXB Nghệ An, 1972), Bay theo đường dân tộc (Văn nghệ, Giải phóng, 1976), Giờ của đô thành (bút ký, NXB Lao động, 1977), Nàng tiên trên mặt đất (NXB Kim Đồng, 1985).
Tiểu luận phê bình: Kinh nghiệm tổ chức sáng tác (Thép mới, 1952), Phê bình văn học (NXB Văn học, 1962), Suy nghĩ và bình luận (NXB Văn học, 1971), Nghĩ cạnh dòng thơ (NXB Văn học, 1981), Từ gác Khuê Văn các đến quán Trung Tân NXB Tác phẩm mới, 1981), Nói chuyện thơ văn (Chàng văn, NXB Văn học, 1960), Vào nghề (Chàng văn, NXB Văn học, 1962), Ngoại vi thơ (NXB Thuận Hóa, 1987). Nhận định về Chế Lan Viên, Hoài Thanh tác giả Thi nhân Việt Nam đã tiên lượng: “Quyển Điêu tàn đã đột ngột xuất hiện ra giữa làng thơ Việt Nam như một niềm kinh dị”. Điều đó không chỉ đúng và trúng đối với “Điêu tàn” mà đúng và trúng đối với toàn bộ tác phẩm của ông. Đã có hàng trăm đầu sách, luận văn thạc sĩ, tiến sĩ … tức hàng vạn trang sách của các nhà phê bình văn học trong và ngoài nước viết về ông và sẽ còn nhiều trang viết nữa. Tác phẩm của ông đề cập đến nhiều vấn đề, trên nhiều bình diện khác nhau, đặc biệt ở lĩnh vực nào ông cũng thành công. “Chế Lan Viên viết vì cái lớn, cũng viết vì những cái nhỏ, viết về Tổ quốc, chiến tranh, cách mạng, thời đại, cũng viết về tình yêu hoa cỏ, nỗi đau riêng. Anh viết thơ chính luận trường thiên ghi tạc tâm tình và biến thiên lịch sử cũng rất thành công trong thơ tuyệt cú…” (Mai Quốc Liên).
Chế Lan Viên là nhà văn hóa, nhà thơ lớn, là cây đại thụ trong làng thơ Việt Nam, vượt ra ngoài cái khuôn khổ chật hẹp của một địa phương như là Quảng Trị. Để ghi nhận công lao to lớn của ông, từ năm 2015 UBND tỉnh Quảng Trị đã chính thức lấy tên ông đặt tên cho một giải thưởng văn học nghệ thuật của tỉnh gọi là “Giải thưởng Chế Lan Viên”, năm năm trao thưởng một lần. Hiện tỉnh nhà cũng đang xúc tiến việc xây dựng Khu lăng mộ và nhà lưu niệm Chế Lan Viên trên quê nhà của ông.
- Hồng Chương (1921-1989), tên thật Trần Hồng Chương, quê ở làng Phương Sơn, xã triệu Sơn, huyện Triệu Phong. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1957). Sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo, thuở nhỏ ông học ở trường làng, sau vào học ở Huế. Năm 1937, Hồng Chương đã tham gia phong trào Dân chủ ở Huế, vào Đoàn Thanh niên Dân chủ, năm 1940 gia nhập Đoàn Thanh niên phản đế. Phụ trách báo Cứu quốc của Tỉnh ủy Quảng Trị năm 1940, xuất bản bí mật. Hai lần bị thực dân Pháp bắt giam. Lần thứ nhất bị bắt ở Huế (1939) và lần thứ hai đi đày ở nhà tù Buôn Ma Thuột (1941). Sau khi phát xít Nhật đảo chính Pháp năm 1945, ông thoát ngục về quê tham gia hoạt động chuẩn bị Tổng khởi nghĩa cướp chính quyền ở Quảng Trị. Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp chủ yếu ông làm công tác tuyên huấn thuộc Khu ủy Khu IV, tham gia Chi hội Văn nghệ Bình Trị Thiên.
Sau ngày hòa bình lập lại, ông ra Hà Nội công tác. Năm 1956 ông làm việc ở Ban biên tập tạp chí Học tập (nay là tạp chí Cộng sản), là Phó tổng và Tổng biên tập tạp chí Cộng sản và là Tổng thư ký Hội Nhà báo Việt Nam cho đến khi nghỉ hưu, mất tại Hà Nội.
Tác phẩm chính: Máu lửa đồng quê (tập thơ, 1948), Ngược đường số 9 (truyện, 1958), Một luồng gió mới (tiểu thuyết, 1959), Phương pháp sáng tác trong văn học nghệ thuật (lý luận phê bình, 1962), Văn nghệ cách mạng và cách mạng không ngừng (lý luận phê bình, 1959), Mấy vấn đề về lý luận và phê bình văn nghệ (lý luận phê bình, 1965), Mãi mãi đi theo đường lối văn nghệ của Chủ tịch Hồ Chí Minh (lý luận phê bình, 1971).
Trong những năm tháng tham gia cách mạng hoạt động bí mật, đặc biệt là thời kỳ bị tù đày tại các nhà lao Thừa Phủ, nhà tù Buôn Ma Thuột, ông sáng tác khá nhiều thơ. Các bài thơ như Cái đầu gối, Cục đường, Bão tố… phổ biến khá rộng rãi. Một số bài thơ có tiếng vang, trở nên quen thuộc với công chúng và đông đảo chiến sĩ cách mạng ở Khu IV vào những năm 1947 là bài Tráng sĩ hành sau đổi tên lại là Đội biệt động đường số 9. Bài thơ ca ngợi tinh thần dũng cảm chiến đấu của quân và dân vùng Chợ Cạn về sau được đặt tên cho tập thơ Máu lửa đồng quê. Về văn xuôi, bạn đọc quan tâm nhiều đến cuốn tiểu thuyết “Một luồng gió mới”. Ở đó, ông tập trung miêu tả phong trào cách mạng của quần chúng ngày càng dâng cao, và các hoạt động công khai hoặc bí mật của những người Cộng sản ở Huế trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ. Thành công nhất của Hồng Chương chủ yếu trên lĩnh vực lý luận phê bình. Nhiều tiểu luận của ông thể hiện một thái độ kiên định trên những vấn đề nguyên tắc và có tính chiến đấu sắc sảo khi đánh địch, đấu tranh với những luận điệu sai trái.
- Vĩnh Mai (1918-1981). Nhà thơ, bút danh khác: Búa Tạ. Tên thật Nguvễn Hoàng, quê làng An Tiêm, xã Triệu Thành, huyện Triệu Phong. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1957).
Thuở nhỏ, Vĩnh Mai học ở trường huyện, sau đó vào Huế học ở trường Phú Môn, đỗ bằng Thành chung. Ông là một thanh niên trí thức giàu lòng yêu nước, sớm giác ngộ cách mạnh. Từ năm 1936, ông đã tham gia hoạt động trong phong trào Thanh niên học sinh Dân chủ ở Huế. Năm 1939, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Từ tháng 9-1940, ông bị thực dân Pháp bắt giam tại nhà tù Buôn Ma Thuột cho đến tháng 3-1945. Sau khi ra tù, ông tham gia phong trào Mặt trận Việt Minh tỉnh Phú Yên, là Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Cách mạng Lâm thời huyện Tuy Hòa, Trưởng ty Thông tin Tuyên truyền tỉnh Phú Yên.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Vĩnh Mai đã từng kinh qua các chức vụ: Bí thư Thành ủy thành phố Huế (1946-1949); Phó bí thư Tỉnh ủy tỉnh Quảng Trị (1947-1949); Ủy viên Liên khu IV, phụ trách Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác, Liên khu IV từ 1949-1954. Từ 1955 là cán bộ Ban tuyên giáo, Ủy viên Ban Chấp hành Chi hội văn nghệ Liên khu IV. Từ năm 1955-1956 Chánh văn phòng của Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam. Từ 1956 trở đi là cán bộ biên tập tuần báo Văn nghệ, phụ trách tổ thơ của báo.
Tác phẩm chính: Khóc Hoài (thơ, 1946); Người dân quân xã (thơ, 1947), Tiếng hát hòa bình (thơ, 1954), Đôn và Thanh (truyện thơ, 1955), Lên đường (thơ, 1962), Tiếng hát (thơ, 1978), Đất đen và hoa thắm (thơ, 1982), Từ mùa xuân ấy (thơ, 1984); Chàng trai ấy (thơ tuyển, 1992).
Thơ của Vĩnh Mai chân thành, đôn hậu, cởi mở nhất là đối với những bài thơ viết về quê hương, bạn bè, đồng chí, lời thơ mộc mạc, nhưng xiết bao đau xót bởi đất nước và con người bị chiến tranh và kẻ thù tàn phá. Với tư cách là người cùng thời, nhạc sĩ Trần Hoàn có một nhận định chân phương và lý thú: “Thơ Vĩnh Mai không nhiều, nhưng đậm. Đậm một chất “chè Thái”, càng đắng càng ngọt, uống ít nhớ lâu, hương vị cứ bám mãi đầu lưỡi… Xuất hiện trước những nhà thơ khác lúc bấy giờ, với những kiểu cách bay bướm, mượt mà giàu âm điệu ví như những tấm lụa nhiều màu sắc óng ánh, thơ Vĩnh Mai như tấm áo vải ta, bền và dày, đậm đà trong màu nâu giản dị, thô ráp, nhưng lại hồn nhiên như một đóa hoa rừng...” (“Nhớ Vĩnh Mai”, Tuần báo Văn nghệ ngày 17-2-2001).
- Nguyễn Khắc Thứ (1921-1990), quê ở làng An Cư, xã Triệu Phước, huyện Triệu Phong. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1957). Nguyễn Khắc Thứ thuộc thế hệ những nhà văn thời chống Pháp, từng là cán bộ trong quân đội. Cũng như bao thanh niên trai tráng cùng lứa tuổi, ông hăm hở tham gia cách mạng từ khởi nghĩa tháng Tám 1945, khi học xong trung học được vài năm, được bổ sung làm trưởng hỏa xa miền Trung. Say mê văn chương từ thở học trò, ngay từ những ngày đó ông đã viết nhiều truyện ngắn, truyện dài và thơ nhưng chưa có dịp xuất bản hoặc đăng tải trên báo chí. Năm 1948, khi giặc Pháp càn quét đến quê ông, toàn bộ sách vở, trong đó có nhiều tác phẩm, truyện ngắn, thơ ca dưới dạng bản thảo đã bị đốt thành tro bụi.
Nguyễn Khắc Thứ là phóng viên quân đội ở mặt trận Bình Trị Thiên. Ngoài việc đi chiến dịch lấy tin tức, ông còn đảm nhiệm việc in ấn xuất bản tờ báo quân đội ở chiến trường Bình Trị Thiên khói lửa. Toàn bộ tâm huyết của nhà văn Nguyễn Khắc Thứ được ký thác và sẽ đọng lại lâu bền trong ký sự“Trận Thanh Hương”, ra đời năm 1955 nhưng đã được ấp ủ nhiều năm trước đó. Trận Thanh Hương đã đi vào lịch sử như một trận vận động chiến quan trọng ở chiến trường Bình Trị Thiên, không chỉ quân dân Bình Trị Thiên mà cả nước phấn chấn vì ta có thể đánh địch “giữa ban ngày”, mặt giáp mặt, súng đọ súng. Ta bắt hàng trăm tên tù binh giải đi thành hàng qua nhiều xóm làng để chuyển lên vùng chiến khu, khác với trước đó ta chỉ đánh những trận nhỏ có tính chất du kích thuộc chiến lược cầm cự. Với “Trận Thanh Hương”, tài năng và tên tuổi của Nguyễn Khắc Thứ đã được khẳng định, vượt ra khỏi Bình trị Thiên để đến với văn đàn cả nước.
Hòa bình lập lại, Đại đoàn 325 tập kết ra Bắc Đóng ở Quảng Bình. Vừa lúc Tổng cục Chính trị mở trại viết về anh hùng. Nguyễn Khắc Thứ được điều ra dự Trại trại sáng tác của Tổng cục Chính trị viết về các anh hùng quân đội. Tiểu thuyết “Đất chuyển” ra đời ở thời điểm này ít nhiều gây được tiếng vang.“Đất chuyển” kể lại một câu chuyện có thực, với những nhân vật có tình người và chiều sâu tâm hồn. Chỉ mấy tháng sau khi xuất bản, “Đất chuyển” được một nhà văn Trung Quốc dịch ra Hoa ngữ với tên gọi “Thổ địa hồi gia”; là một trong những tác phẩm văn học Việt Nam sớm được dịch ra tiếng nước ngoài. Dù vậy, trước sau Nguyễn Khắc Thứ vẫn là con người “phận mỏng cánh chuồn”, có thể nói là sự nghiệp văn chương giữa đường đứt gánh chỉ vì “yêu đương tiểu tư sản”.
Sau này nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh tiếc nuối: “Về Hà Nội là một dịp may. Lao được một ván cầu sang bến mà mở đường đi tiếp nữa. Oái ăm thay, với Nguyễn Khắc Thứ là nút thắt của một bi kịch. Bi kịch sau cùng của đời người”. Anh Trương Quang Đệ trong bài viết “Đôi chút kỷ niệm về nhà văn Nguyễn Khắc Thứ” đăng trên Văn nghệ cho biết, trong những năm tháng bị “Hạ phóng” xuống tham gia lao động ở một nông trường quân đội, rồi được điều về phụ trách kho sách của thư viện quân đội, Nguyễn Khắc Thứ đã hoàn thành một bộ truyện dài nhan đề “Khói lửa” vào giữa những năm 80. Tuy vậy ông vẫn chưa cho xuất bản, có lẽ ông cảm thấy có điều gì đó chưa ổn? Trước đó vào những năm 70, ông còn viết cuốn truyện dài lấy tên “Ngày cuối thu” nói về mối tình đầu của ông mà ông thương nhớ suốt đời. Nhưng đáng tiếc những tác phẩm đó chưa được xuất bản thì đã thất lạc đâu đó!.. Tác phẩm cuối cùng của Nguyễn Khắc Thứ là truyện ngắn “Hẹn hò”, ra mắt bạn đọc năm 1966 và sau đó người ta không thấy ông xuất hiện trên văn đàn nữa. Ngay cả những đồng nghiệp cùng thời và những người bạn chiến đấu vào sinh ra tử với ông cũng rất ít khi liên lạc được với ông kể từ sau ngày Hẹn hò ra đời.
Tác phẩm chính: Trận Thanh Hương (truyện ký, 1955), Đất chuyển (tiểu thuyết, 1958) và ba truyện: Bản án tử hình, Phá kho bom Tân Sơn Nhất, Hẹn hò (xuất bản, 1966).
Là người bạn thân từng được xem rất nhiều bản thảo của nhà văn Nguyễn Khắc Thứ, Trương Quang Đệ khẳng định: “... Có thể nói không ngoa rằng những gì sót lại chỉ là phần nổi của tảng băng khá lớn. Phần chìm của tảng băng có nguy cơ không bao giờ biết nữa...”.
- Lương An (1920-2004), tên khai sinh là Nguyễn Lương An, bút danh khác là Thạch nam, Nguyễn Lương Tài. Quê làng Tài Lương, xã Triệu Tài, huyện Triệu Phong. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1971).
Trước tháng Tám, học trường Quốc học Huế, tốt nghiệp Thành chung, sau đó học tiếp Ban tú tài. Cán bộ tiền khởi nghĩa hoạt động từ tháng 5 đến tháng 8 năm 1945 trong Thành bộ Việt Minh Huế; cán bộ tại ủy ban hành chính Trung bộ, ủy ban hành chính tỉnh Quảng Trị.
Từ 1949 trở đi hoạt động văn hóa - văn nghệ trong Tỉnh ủy, mặt trận Liên Việt tỉnh Quảng Trị, Liên khu IV, ban tuyên giáo Bình Trị Thiên cũ.
Tập kết ra Bắc, từ 1958-1972 làm Trưởng ban biên tập văn hóa văn nghệ báo Sinh hoạt văn hóa và báo Thống nhất (Hà Nội).
Năm 1973: Phó Trưởng ty Văn hóa Quảng Trị. Năm 1983: Ủy viên thường trực Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên. Năm 1984 nghỉ hưu và mất tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Tác phẩm đã xuất bản: Nắng Hiền Lương (tập thơ); Vè chống Pháp (tập nghiên cứu văn học dân gian Bình Trị Thiên); Thơ Tùng Thiện Vương Miên Thẩm (giới thiệu và nghiên cứu); Thơ Mai Am và Huệ Phố (tuyển chọn và dịch); Giọt máu chung (trường ca); Tuyển tập Lương An (2004).
Kể từ những sáng tác đầu tay đăng trên báo Tràng An (Huế) trước Cách mạng tháng Tám đến nay, nhà thơ Lương An đã hoạt động trên lãnh vực văn nghệ hơn 60 năm. Do tham gia cách mạng rất sớm, trong hơn nửa thế kỷ đó, ông phải làm nhiệm vụ quản lý, chỉ đạo phong trào văn hoá văn nghệ, thời gian dành cho việc nghiên cứu và sáng tác không bao nhiêu. Đông đảo bạn đọc thường nhớ đến ông với bài thơ Cô lái đò in trong nhiều Tuyển tập. Ông cũng khiêm tốn tự nhận rằng “tôi thấy bề dày về sáng tác và nghiên cứu của mình chẳng là bao” (Tự bạch trong cuốn “Nhà văn Việt Nam hiện đại). Bạn đọc ít biết đến ông một phần do ông rất cẩn trọng và cầu toàn trong việc công bố tác phẩm. Sự nghiệp sáng tác của ông tuy không dày dặn nhưng khá phong phú.
Đọc “Tuyển tập Lương An” do Nxb Thuận Hóa - Huế xuất bản năm 2004, ngoài tập thơ Nắng Hiền Lương đã xuất bản năm 1962, chúng ta còn được biết đến một Lương An rất tươi trẻ với những bài thơ viết trước cách mạng tháng Tám mà tác giả cũng chỉ nhớ được số ít bài. Nhiều bài thơ ông sáng tác từ năm 1962-1984 chưa có dịp công bố và truyện thơ Giọt máu chung dài hơn một nghìn câu viết về cuộc chiến đấu ở Tây nguyên. Một phần quan trọng trong tuyển tập là những bài nghiên cứu phê bình giới thiệu các tác phẩm, các danh nhân và các địa chỉ văn hoá phần lớn thuộc địa phận Quảng Trị và Thừa Thiên - Huế, cho thấy vốn hiểu biết sâu rộng và công phu thật đáng kính trọng của ông trong quá trình sưu tập tư liệu, dịch thuật và xây dựng tác phẩm.
Sự nghiệp của nhà thơ Lương An xứng đáng được bạn đọc vinh danh và Nhà nước truy tặng Giải thưởng cao quý.
- Lê Tri Kỷ (1924-1993). Tên khai sinh: Nguyễn Duy Hinh, quê ở làng Lưỡng Kim, xã Triệu An, huyện Triệu Phong. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.
Sau Cách mạng Tháng Tám, công tác ở ủy ban xã. Năm 1946 làm bí thư Thanh niên cứu quốc huyện Gio Linh. Nhiều năm công tác trong ngành công an ở các tỉnh và Trung ương. Đại tá Phó giám đốc NXB Công an nhân dân cho đến lúc nghỉ hưu.
Tác phẩm chính: Thủ phạm vụ án Ôn Như Hầu (ký sự, 1960); Cây đa xanh (truyện, 1961); Phố vắng (tập truyện ký,1965); Một người không nổi tiếng (truyện ký, 1970); Đất lạ (kịch bản điện ảnh, 1971); Biển động ngày hè (kịch bản sân khấu, 1976); Những tiếng nói thầm (truyện ký, 1978); Thung lũng không tên (kịch bản điện ảnh, 1971); Sống chìm (tập truyện ngắn, 1984); Câu lạc bộ chính khách (tiểu thuyết 2 tập, 1986); Không thiện không ác (tập truyện 1988); Cuộc tình thế kỷ (tập truyện 1992, tái bản 1994); Truyện ngắn Lê Tri Kỷ (tuyển tập, 1995)…
Giải thưởng văn học: Giải A của Hội đồng văn học về chiến tranh cách mạng và lực lượng vũ trang Hội Nhà văn Việt Nam 1994, tập truyện Cuộc tình thế kỷ. Giải A của Bộ Nôi vụ và Hội Nhà văn Việt Nam 1995, tập truyện Không thiện không ác.
Nhiều năm công tác trong ngành công an nên các trang văn của ông đầy ắp các sự kiện xảy ra trong ngành an ninh, công an với một giọng văn súc tích, nội dung cuốn hút được đông đảo công chúng mến mộ. Khi trao giải thưởng văn học của Bộ Nội vụ cho ông, Ban Tổ chức sáng tác của Hội Nhà văn Việt Nam đã có những đánh giá xác đáng: “... Nhà văn Lê Tri Kỷ chủ yếu viết về ngành công an bằng nhiều thể loại, nhưng thành công hơn cả là thể truyện ngắn... Truyện của ông vừa gợi được sự sáng suốt trong lý trí, vừa tạo được sự rung động đầy tính nhân văn thiết tha hướng thiện. Chiến sĩ công an trước hết cũng là con người, cũng đau đớn, buồn vui, hờn giận yêu ghét như mọi người, khiến ta cảm thông và gần gũi...”.
- Dương Tường (1926-1953). Nhà thơ, quê làng Cương Gián, xã Trung Giang, huyện Gio Linh. Hội viên Hội Văn nghệ Việt Nam năm 1952.
Nhà thơ Dương Tường tham gia cách mạng lúc 18 tuổi. Cách mạng tháng Tám bùng nổ, ông rời nhà trường, tham gia công tác vận động thanh niên. Ngày quân Pháp kéo ra Quảng Trị, ông lên chiến khu Ba Lòng làm các bộ Tỉnh đoàn thanh niên cứu quốc. Năm 1948, ông được cử đi dự lớp văn hoá kháng chiến Liên khu IV, học xong trở về công tác ở tỉnh nhà. Tháng 3-1949 nhóm Văn nghệ Nguồn Hàn (tổ chức đầu tiên của văn nghệ sĩ tỉnh Quảng Trị) thành lập, ông được cử vào ban phụ trách. Năm 1951, khi nhóm chuyển thành Phân hội Văn nghệ tỉnh Quảng Trị, ông được bầu làm Phân hội trưởng. Năm 1952, ông được kết nạp vào Hội văn nghệ Việt Nam, chuyển công tác về Ty Tuyên truyền và văn nghệ tỉnh kiêm Biên tập viên báo Tháng Tám cơ quan của Mặt trận Liên Việt. Ngày 24.6.1953, trên đường công tác ông đã hy sinh năm 26 tuổi, giữa lúc tư tưởng và tình cảm đang ở độ phát triển, thơ anh đang ở đà chín, giữ lúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đang tiến gần đến thắng lợi mở ra chân trời rộng lớn cho thơ ca. Anh được Nhà nước suy tôn liệt sĩ nhưng đã bỏ dở một sự nghiệp thơ ca đang tràn đầy hứa hẹn.
Đọc lại thơ những sáng tác trong vòng năm năm (từ 1948-1953) với khoảng 30 bài thơ cho thấy Dương Tường là một “hiện tượng thơ”, một tài năng thơ phát lộ rất sớm trong nhóm văn nghệ Nguồn Hàn. Nhà thơ sớm biết chắt lọc chất thơ từ mọi mặt sinh hoạt, chiến đấu và sản xuất của nhân dân để làm giàu nội dung thơ mình. Cái chất tươi mát, trữ tình, cách thể hiện mới mẻ, gia công tìm tòi và chọn lọc hình tượng, tìm ý và lời sáng tạo, tránh đường mòn trong thể hiện là phong cách, là những đóng góp nổi bật của Dương Tường vốn không có nhiều trong khuynh hướng “đại chúng hoá” của thơ Khu IV lúc bấy giờ. Những bài như “Vá lưới”, “Cây bí dân quân”, “Về làng”, “Tiếng cây dương Mỹ Thủy”, “Ai hay chừ tết anh về”… là những bài thơ thuộc nằm lòng của quân dân khu IV và người dân Quảng Trị cho đến tận bây giờ. Điều đó chứng tỏ thơ Dương Tường vẫn sống, có những bước đi buổi đầu nhưng vững chắc, đóng góp không nhỏ vào sự hình thành của thơ ca Bình Trị Thiên và Khu IV thời chống Pháp.
Khi mất, một số rất ít bài thơ của Dương Tường đã được đưa vào Tuyển thơ của Hội nhà văn Việt Nam. Chỉ tiếc một điều là chiến tranh, ly tán, đất nước vừa thống nhất thì nhập, tách tỉnh. Không ai, không một tổ chức nào kịp đứng ra sưu tầm một cách đầy đủ tác phẩm của nhà thơ từng “vang bóng” mà “yểu mệnh”, trong khi những bạn thơ văn của ông trong nhóm Văn nghệ Nguồn Hàn như Trường Sinh (Lê Chưởng), Hồng Chương, Vĩnh Mai, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Lê Tri Kỷ… chẳng còn ai ở lại trên đời để có cơ may sưu tầm, hiệu đính, xuất bản cho Dương Tường tập thơ lưu lại hậu thế.
- Phan Quang, sinh năm 1928, quê làng Thượng Xá, xã Hải Thượng, huyện Hải Lăng. Tên khai sinh: Phan Quang Diêu. Bút danh khác: Hoàng Tùng, Vị Hoàng, Yên Thanh, Hoàng Xá. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1980).
Nhà văn Phan Quang tham gia cách mạng từ tháng 7 năm 1945. Làm báo chuyên nghiệp từ năm 1948. Từng làm phóng viên báo Cứu quốc, Ủy viên Ban biên tập báo Nhân dân 1976-7982. Vụ trưởng Vụ báo chí 1982- 1987, Tổng biên tập tạp chí Người làm báo 1985-1987, Thứ trưởng Thông tin 1987-1988, Tổng giám đốc, Tổng biên tập Đài tiếng nói Việt Nam 1989- 2000. Đại biểu Quốc hội, Phó chủ nhiệm Ủy ban đối ngoại của Quốc hội nhiệm kỳ VIII, IX và X (1987-2002).
Tác phẩm chính: Đất rừng (truyện, 1955); Hẹn cưới (truyện, 1956); Mùa xuân (truyện, 1956); Đất nước một dải (ký, 1975); Lâm Đồng - Đà Lạt (ký, 1978); Hạt lúa bông hoa (ký, 1978); Đồng bằng sông Cửu Long (ký, 1981); Một mình giữa đại dương (truyện, 1984); Chinh Phục Himalaya (truyện, 1978); Người và đất (ký, 1988); Theo dòng thời cuộc (tiểu luận, 1995); Quê hương (ký, 2000); Về diện mạo báo chí Việt Nam (tiểu luận, 2001); Thơ thẩn Paris (ký, 2002); Những người tôi quý mến (chân dung, 2002); Phác thảo chân dung (2004); Bên mộ vua Tần (ký, 2004); Tuyển tập Phan Quang (ba tập, NXB Văn học, 1999); Quê hương (tập ký, NXB Trẻ, 2000). Ngoài ra còn nhiều tập in chung.
Về dịch thuật: Hoa lạ (truyện ngắn các nước Á Phi, NXB Thanh Niên, 1957); Hội chợ bán người (tập truyện ngắn các nước Á Phi, 1961); Những ngôi sao ban ngày (tập ký Nga, NXB Văn học, 1963); Nghìn lẻ một đêm (bốn tập, NXB Văn học, 1981-1982, tái bản nhiều lần); Trở lại với đời (tiểu thuyết Bỉ, NXB Tác phẩm mới, 1985); Mười hai sử thi huyền thoại (2004); Trà thư (2009)…
Trong lời tự bạch, ông tâm sự rằng “Ước mơ thời trai trẻ của tôi là làm văn học, song tổ chức phân công làm báo và thỉnh thoảng lại bước sang vườn văn”. Và rồi ông nhận ra rằng, báo chí và văn học là hai anh em sinh ra từ một mẹ ngôn từ. Báo hay văn đều lấy ngôn tự làm gốc… Nội dung và phương thức diễn đạt dù khác nhau, nhưng sự nghiệp một đời người chung quy thể hiện cùng một nhân cách. Là lời tự bạch nhưng đó cũng là bút pháp và văn phong của Phan Quang.
“... Ngòi bút của Phan Quang đã mở ra được dòng bút ký vừa giàu chất hiện thực vừa trữ tình gợi giữa hai bờ báo chí và văn học... Phan Quang luôn biết dựa vào kiến thức dân gian bù đắp với kiến thức sách vở. Và cuối cùng là sự quan sát trực tiếp, tự mình đánh giá và rút ra những nhận xét.” (Hà Minh Đức, Lời giới thiệu“Tuyển tập Phan Quang”). Nhà văn Ngô Thảo cũng có nhận xét: “Những bút ký ở tập I Tuyển tập như một chuyên luận khám phá về địa lý - lịch sử - tài nguyên - con người ở những vùng đất tác giả có dịp khảo sát trong nhiều thời kỳ khác nhau...”. Lê Phú Khải chỉ ra những yếu tố làm trang văn của Phan Quang sống động, cuốn hút người đọc: “Điều thú vị nhất là ta tái hiện được trong đầu mình hình ảnh của đất nước quê hương Bình Trị Thiên khói lửa, áo vá, cơm khoai mà dốc lòng đánh giặc từ những ngày đầu đánh Pháp. Đó là những con người chân đất, những con người Việt Nam bình thường, nhưng dám làm những việc phi thường, đứng lên đánh bại những đế quốc sừng sỏ nhất loài người. Nhà báo Phan Quang mà sự nghiệp báo chí của ông đậm đà chất văn, ông là một nhà báo có tầm cỡ, được người cùng nghề đánh giá cao và còn là một nhà văn nhạy bén, một thư ký của đời, ghi chép, sáng tạo điển hình đẹp về con người của thời đại Hồ Chí Minh” (Đọc Tuyển tập Phan Quang).
Về phương diện chứng nhân, là thư ký thời đại - thế mạnh của nhà báo, nhà văn Phan Quang, Chế Lan Viên đúc kết: “Bốn mươi năm làm báo. Phan Quang chịu khó bỏ sức, bỏ công, như thế sách của Phan Quang như là một tập sử biên niên...”.
- Hồ Sĩ Vịnh. Nhà lý luận phê bình văn học. Bút danh khác: Hiếu Giang, Đông Thanh. Sinh năm 1933, quê làng Nghĩa An, Phường Đông Thanh, Tp. Đông Hà. Hội viên Hội nhà văn Việt Nam (1990). Năm 1947-1950: quân báo viên tại huyện đội Gio Linh (Quảng Trị). Từ năm 1953-1955: học trung học phổ thông tại Quảng Trị và Hà Tĩnh. Năm 1956-1959: học Đại học Tổng hợp Hà Nội. 1959-1963: Nghiên cứu sinh tại Đại học Tổng hợp Lômônôxốp (Matxcơva); 1963-1971: Nghiên cứu viên Viện Văn học; 1972-1984: Cán bộ Nghiên cứu sinh tại Đại học Lômônôxốp, bảo vệ Tiến sĩ Ngữ văn (1985); 1990: Nghiên cứu viên cao cấp; 1990-1991 Thực tập sinh cao cấp tại Liên bang Nga; 1986-1996: Tổng biên tập tạp chí Văn hóa nghệ thuật; 2000-2006: Tổng biên tập tạp chí Văn hiến Việt Nam; 2002- đến nay: Viện trưởng Viện giáo dục hướng nghiệp Đông Nam Á (tổ chức phi chính phủ). Viện sĩ Viện Hàn lâm nghệ thuật phương Đông (Matxcơva, 2002)…
Tác phẩm chính: A.Puxkin (bút ký, chân dung, 1983); V.I. Lênin và sự hình thành người nghệ sĩ kiểu mới (1985); M. Gorki về văn nghệ dân gian (1986); Nghệ thuật và phong tục mùa xuân (chủ biên, 1987); Tư duy mới và phẩm chất văn nghệ sĩ (1989); Sự hình thành người nghệ sĩ kiểu mới trong văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa (tiếng Nga, 1985); Tìm về bản sắc dân tộc trong văn hóa (chủ biên, 1993); Văn hóa, văn học - Một hướng tiếp cận (1998); Văn hóa Việt Nam trong tiến trình đổi mới (1999).
Hồ Sĩ Vịnh đã đi qua một chặng đường học thuật 35 năm, với những thành tựu khá rực rỡ được giới lý luận phê bình và công chúng văn học ghi nhận. Đúng như Hồ Tôn Trinh nhận định: “Hồ Sĩ Vịnh là nhà nghiên cứu lâu năm, có những hiểu biết rộng, thường xuyên bám sát thực tiễn đời sống và thực tiễn vận động của văn hóa ở trong nước và ở nước ngoài. Anh đã vận dụng khá sắc sảo nhiều luận điểm của chủ nghĩa Mác để xử lý những vấn đề do anh chủ động nêu ra, xuất phát từ nhu cầu đời sống xã hội và nhu cầu học thuật.” (Lời giới thiệu tập sách Văn hóa, văn học - Một hướng tiếp cận).
Ngoài lý luận văn học, Viện sĩ Hồ Sĩ Vịnh còn có những đóng góp tích cực khác trong các chuyên luận chuyên sâu về văn hóa rất đáng được ghi nhận như bản sắc dân tộc trong văn hóa, nhất là văn hóa Việt Nam trong tiến trình đổi mới và hội nhập.
- Trần Công Tấn (1933), các bút danh khác: Tân Sắc, Trần Diệu Phong, Xombuon, Vanatha. Quê làng Thượng Trạch, xã Triệu Sơn, huyện Triệu Phong. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1969).
Sau Cách mạng tháng Tám thành công, Trần Công Tấn nhập ngũ. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, ông chiến đấu ở chiến trường Bình Trị Thiên và chiến trường Lào. Nhiều năm là lính trinh sát, tình báo và chỉ huy chiến đấu. Về sau ông làm công tác tuyên huấn, phụ trách công tác điện ảnh, chiếu bóng. Cùng với đơn vị ông có một thời gian dài là quân tình nguyện chiến đấu ở Lào và Campuchia. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ông hoạt động ở Hội văn nghệ Quảng Bình, trải qua những năm tháng đầy hy sinh gian khổ với các đơn vị vũ trang Quảng Bình và đất thép Vĩnh Linh rồi vào hoạt động ở chiến trường Bình Trị Thiên. Sau ngày đất nước thống nhất 1975, ông công tác ở Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên - Huế. Năm 1980, ông về công tác ở Tổng Cục Cao su, làm Tổng biên tập báo Cao su, rồi Vụ trưởng Vụ văn thể. Gần đây ông là phóng viên báo Đại đoàn kết thuộc ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Tác phẩm chính: “Con ngựa của tôi” (tác phẩm đầu tay in trên báo Quân đội địa phương năm 1948, NXB Kim Đồng in lại năm 1985, và NXB Văn học tái bản năm 1972); Thần voi và voi thần (tập truyện ngắn, 1958); Cô pháo thủ (truyện ký, 1966); Đường ra biển rộng (truyện ký, 1967); Tiếng nói dưới dòng sông (truyện ký, 1968); Dòng suối mát (tập truyện ngắn, bút ký, 1969); Chớp biển (truyện ký, 1970); Những bông cỏ mặt trời (truyện phim, 1971); Chỗ gặp nhau (tập truyện ngắn, 1972); Suối trong rừng (tiểu thuyết, 1980); Đa Ra nơi đâu (tiểu thuyết, 1980); Hoa Lục bình trôi (tập truyện ngắn, 1982); Mối tình tan vỡ (1988); Hoàng thân Souphanouvong và đất nước Triệu Voi (dịch thuật, truyện ngắn, bút ký, 1985); Thương thương (tiểu thuyết, 1997); Ba đời chồng (tập truyện ngắn, NXB Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh, 2002).
Giải thưởng văn học: Giải chính thức “Kỷ niệm sâu sắc trong đời bộ đội” do Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam trao cho tác phẩm “Thần voi và voi thần”; Giải tạp chí Văn nghệ Quân đội cho tác phẩm “Họp tổ Đảng”; Tặng thưởng của Hội phụ nữ Việt Nam và Hội Nhà văn Việt Nam cho tác phẩm “Những người thay áo cho rừng”; Giải thưởng của Tổng cục Lâm nghiệp và Hội Nhà văn Việt Nam cho tác phẩm “Chỗ gặp nhau”; Giải thưởng của báo Văn nghệ Giải phóng cho tác phẩm “Tàu ta kéo còi qua sông Bến Hải”; Giải thưởng về đề tài 27 tháng 7 năm 1973 của Hội Nhà văn và Bộ Nội vụ.
Trần Công Tấn viết văn khá sớm. Lý giải việc trở thành nhà văn, Trần Công Tấn cho rằng chính là nhờ cuộc sống ở chiến trường và quân đội: “Những người yêu thương, đùm bọc cùng đồng cam cộng khổ với tôi là đồng đội, là nhân dân, chủ yếu là các mẹ, các chị khắp trên ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia.
Bởi vậy những trang viết của tôi đều thuộc về đề tài phụ nữ và người lính...”. Song ông cũng đánh giá rằng những gì “ông đã viết ra hãy còn vô cùng nhỏ nhoi so với sự tích anh hùng của quân dân ta”. Và tự dằn vặt bởi chưa hoàn thành trách nhiệm, thiên chức của người cầm bút: “Cuộc đời cầm bút còn lại của tôi là sự day dứt, trăn trở luôn canh cánh bên lòng về món nợ đối với đồng đội, với nhân dân mà mình chưa trả xong”...
- Vân Thảo, tên thật Phạm Thảo Nguyên, sinh năm 1936 tại thị xã Quảng Trị. Quê gốc xã Triệu Long, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Hiện nay sống ở Hà Nội. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1997). Từ năm 1953, Vân Thảo đã tham gia bộ đội. Năm 1954, ông tập kết ra Bắc. Từ năm 1957 đến 1967 là diễn viên thanh nhạc đoàn nghệ thuật Tổng cục Chính trị, sau chuyển sang làm trợ lý âm nhạc Phòng Văn nghệ Quân đội, Cục Tuyên huấn. Từ năm 1973 là trợ lý Văn nghệ Binh chủng Đặc công. Năm 1990, nghỉ hưu mang quân hàm Trung tá.
Tác phẩm chính: Những người báo bão (tiểu thuyết, 1983); Đêm màu tím (tiểu thuyết, 1987); Dòng xoáy cuộc đời (tiểu thuyết, 1990); Mưa trái mùa (tiểu thuyết, 1991); Những chiến sĩ thầm lặng (kịch bản phim, 1984); Huyền thoại mẹ (kịch bản phim, 1996); Ngọn sóng đầu đời (kịch bản phim, 1996); Hào quang đám mây (truyện ngắn, 2000).
Giải thưởng văn học: Giải Ba cuộc thi truyện ngắn do báo Văn nghệ tổ chức năm 1979-1980 với truyện ngắn “Chiến sĩ của mình”.
Nhà văn Vân Thảo tâm sự về nghề: ‘Tôi yêu văn học và tập cầm bút khá sớm. Nhưng thành công thì lại khá muộn mằn. Thuở còn đi học tôi mê đọc sách nhiều khi quên cả ăn và làm bài tập. Tập kết ra Bắc hết làm nhiệm vụ chống cưỡng ép di cư ở các vùng công giáo, lại tham gia chống đói, chống hạn, sửa sai cải cách ruộng đất và huấn luyện quân sự... Cuộc sống đa dạng cộng với các cuộc thi “Viết về đời sống bộ đội trong thời bình”, “Kỷ niệm sâu sắc trong đời bộ đội” thúc giục tôi cầm bút sáng tác. Truyện viết xong tôi gửi cho tạp chí Văn nghệ Quân đội, tuần báo Thống nhất... nhưng chẳng có cái nào được đăng. Cuộc chiến đấu chống Mỹ tôi lại đi, lại ghi chép và viết rồi gửi đi cũng cùng số phận với những truyện tôi viết ở giai đoạn 1956 và đầu những năm 1960. Truyện gửi đi rồi tôi khắc khoải chờ đợi. Thỉnh thoảng nhận được hồi âm bằng lá thư kèm theo lời nhận xét: Đề tài cũ, viết còn sơ lược... Tuy không được in nhưng những lá thư đó đã trở thành niềm phấn khích giúp tôi kiên nhẫn thực hiện ước mơ cầm bút của mình. Thành bại của người cầm bút có lẽ là chuyện bình thường. Miễn sao cái tâm của mình đừng thay đổi. Tôi thường nghĩ văn là người, nhưng văn cũng là đạo. Tài năng có thể khác nhau nhưng đạo cầm bút chỉ có một. Đạo bộc lộ qua tâm. Tâm hiện lên trong tác phẩm. Tâm thế nào thì tác phẩm hiện ra thế ấy”. Và còn nguyên món nợ: "Tôi còn món nợ lớn đối với đồng đội của mình là chưa viết được cái gì ra hồn về niềm vui, nỗi buồn của họ. Vậy mà hình như có xu hướng khai thác cái bi của chiến tranh và người lính hơn là nét đẹp của họ. Người ta đang sợ "tô hồng" hơn là "bôi đen". Nợ của những người cầm bút đối với sự hy sinh của người lính chưa trả được bao nhiêu mà quay ngoắt lại phủ nhận sự hy sinh đó. Coi sự hy sinh của họ như một sự cuồng tín mê muội, làm cho món nợ ấy chỉ có nặng thêm lên. Tôi nghĩ rằng đạo lý của người cầm bút viết về chiến tranh và người lính lúc này cần hơn lúc nào hết... ”.
Văn học kháng chiến ở Quảng Trị giai đoạn 1945-1975 là một di sản hết sức quý báu. Trước hết nó phản ánh khá trung thực bộ mặt tinh thần của nhân dân Quảng Trị trong hai cuộc kháng chiến. Mặt khác, nó góp phần tạo nên sức sống của một nền văn học mới của nhân dân, với sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Kháng chiến chống Pháp thắng lợi, hòa bình được lập lại nhưng đất nước bị phân đôi. Trong gần mười năm (1955-1964), ở các tỉnh khác trên hai miền tạm thời có hòa bình thì ngược lại ở Quảng Trị, đặc biệt là vùng giới tuyến luôn luôn là mảnh đất nóng bỏng, nơi diễn ra từng giờ, từng phút cuộc đụng đầu giữa dân tộc Việt Nam và chủ nghĩa thực dân mới. Mười năm tiếp theo (1965-1975) cả nước tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thì Quảng Trị trở thành chiến trường ác liệt nhất. Do đặc điểm tình hình như vậy mà trong thời gian từ 1955-1975, Quảng Trị không hình thành một đời sống văn học với tư cách là một bộ phận riêng trong đời sống văn học chung của cả nước như thời kháng chiến chống Pháp. Sau năm 1954, một vấn đề nóng bỏng đối với cả nước nói chung và nhân dân Quảng Trị nói riêng là vấn đề đấu tranh thống nhất nước nhà. Nó trở thành một chủ đề lớn của văn học, thu hút nhiều nhà văn, nhà thơ của cả nước viết về chiến tranh và cách mạng ở chiến trường Quảng Trị nói chung và vùng giới tuyến nói riêng.
Về văn xuôi, đặc biệt là thể loại ký với đặc trưng phản ánh kịp thời, giàu chất liệu cuộc sống, được công chúng đón nhận một cách thích thú. Có lẽ nhà văn Nguyễn Tuân là người đã quan tâm và thành công nhất khi viết về con sông tuyến. Từ sau 1954 cho tới khi nổ ra cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ nhiều lần ông rời Hà Nội để vào thăm con sông Bến Hải. Kết qủa là ông có nhiều bút ký xuất sắc như: “Cắm cột mốc biên giới”, “Cầu ma”, “Đò tuyến”, “Giữa chiến tranh và hoà bình là một bãi biển Cửa Tùng”... Nhiều nhà văn từng gắn bó với tuyến lửa Vĩnh Linh cũng đã để lại nhiều tác phẩm ký thuộc loại xuất sắc: “Họ sống và chiến đấu” của Nguyễn Khải, “Chúng tôi ở Cồn Cỏ”, “Dải đất hẹp” của Trần Lai Nam, đặc biệt là “Miền đất lửa” của Vũ Kỳ Lân và Nguyễn Sinh. Ký sự “Miền đất lửa” xuất hiện ít năm sau cuộc kháng chiến đã hoàn toàn thắng lợi nhưng nó nằm trong loạt ký viết về Cồn Cỏ, Vĩnh Linh được thai nghén chuẩn bị trước khi chiến tranh kết thúc.
Viết về Quảng Trị có lẽ thơ là thể loại phong phú nhất. Nhiều tác giả có thơ viết về Bến Hải, Cửa Tùng mà tiêu biểu là thơ của các nhà thơ nổi tiếng như Lưu Trọng Lư (Sóng vỗ Cửa Tùng), Tế Hanh (Nói chuyện với Hiền Lương), Hoàng Trung Thông (Cửa Tùng), Phan Xuân Hạt (Có những xóm làng), Nguyễn Bao (Nghe trong tiếng sóng)... Nổi bật về thơ ở Quảng Trị thời kỳ này là sáng tác của một số nhà thơ mà một phần đời sống và một phần đời thơ đã gắn bó máu thịt với quê hương Quảng Trị. Đó là những nhà thơ như Cảnh Trà với hai tập thơ “Nơi giáp mặt” và “Cành mận trắng”, Phạm Ngọc Cảnh với tập thơ “ Đêm Quảng Trị”... Những sáng tác nêu trên tập trung nói lên nỗi đau chia cắt đất nước, nỗi niềm mong nhớ của người dân đôi bờ, lòng căm giận kẻ thù độc ác và khẳng định niềm tin Tổ quốc nhất định thống nhất, Bắc Nam sum họp một nhà.
Từ năm 1965, khi toàn bộ mảnh đất Quảng Trị trở thành chiến trường nóng bỏng, thì các nhà văn, nhà thơ với sự nhạy cảm nghề nghiệp và trách nhiệm công dân của người cầm bút đã tìm thấy ở đây những vấn đề lớn của nhân dân, của dân tộc và thời đại. Nhiều cuốn tiểu thuyết có giá trị văn học cách mạng thời chống Mỹ được viết ra trên cơ sở khái quát hiện thực đời sống ở chiến trường Quảng Trị: “Dấu chân người lính” của Nguyễn Minh Châu viết về chiến trường Khe Sanh năm 1967. “Dưới đám mây màu cánh vạc” của Thu Bồn viết về đội du kích làng Mỹ Thuỷ và anh hùng Trần Thị Tâm. “Chiến sĩ” của Nguyễn Khải viết về chiến dịch đường 9 nam Lào năm 1971... Các nhà viết kịch cũng lấy đề tài từ hiện thực chiến đấu ở Quảng Trị mà thành công tiêu biểu là một số vở kịch của tác giả Đào Hồng Cẩm như “Đại đội trưởng của tôi”, “Tổ quốc”, “Tiếng hát”...
Trong thời kỳ 1955-1975, ngoài văn học cách mạng phát triển trên miền Bắc và các vùng giải phóng, còn có một bộ phận văn học khác phát triển tương đối mạnh mẽ ở các đô thị miền Nam. Trong bộ phận văn học này có nhiều khuynh hướng khác nhau. Loại trừ khuynh hướng nô dịch và chống cộng, còn tất cả các khuynh hướng khác đều nằm trong khuôn khổ nền văn học dân tộc. Làm nên chân dung bộ phận văn học này là sáng tác của nhiều thế hệ nhà văn. Và trong các thế hệ ấy có những người quê ở Quảng Trị và sáng tác của họ cũng là một phần làm nên diện mạo đời sống văn học tỉnh nhà. Một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu:
- Thích Nữ Thể Quán (1908-1983), quê ở làng Tri Lễ, xã Quy Thiện, huyện Hải Lăng. Tu sĩ Phật giáo. Sư bà Thể Quán là cây bút văn xuôi, nữ tính, giàu tình thương yêu cuộc sống và con người. Trước khi mất tại chùa Hồng Ân Tp. Huế, bà đã để lại cho đời nhiều tác phẩm có giá trị như “Bóng hạnh phúc”, “Thiên địa vạn hóa”, “Hai lần ơn mẹ”, “Nét đẹp Đông phương”, “Em mơ người hoang đảo”, “Hoàng Y Lan”, Để lại cho vui” và di cảo nhiều tác phẩm khác chưa xuất bản.
- Nguyễn Thị Hoàng, sinh năm 1939, quê ở làng Quảng Điền, xã Triệu Đại, huyện Triệu Phong.
Nữ sinh Đồng Khánh (Huế), vào Nha Trang học tiếp Trung học rồi Đại học Văn khoa Sài Gòn. Lên dạy học ở Đà Lạt chị mới viết văn, làm thơ, viết báo.
Tác phẩm của Nguyễn Thị Hoàng từng gây nhiều dư luận sôi nổi trước năm 1975: “Vòng tay học trò”, “Tuổi Sài Gòn”, “Ngày qua bóng tối”, “Thành lũy hư vô”. Sau gần 15 năm im lặng, năm 1980 chị xuất bản cùng lúc 2 tiểu thuyết mới: “Nhật ký của im lặng” và “Trầm tư mới của hoàng hôn”.
Nguyễn Thị Hoàng là hiện tượng văn học độc đáo ở các đô thị miền Nam trước ngày giải phóng. Đọc một số tác phẩm trước và sau ngày giải phóng, chúng ta có thể dễ dàng cảm nhận được một lối viết rất riêng của nhà văn này. Vận dụng khái niệm và lý thuyết của chủ nghĩa hiện sinh, phân tâm học, hiện tượng luận vào việc mô tả phân tích, nhà văn đã vẽ ra một số tâm trạng cá biệt với những ẩn ức, những ham muốn vô thức, những biểu hiện hư vô sống gấp, những nhân vật có cuộc sống mỏi mệt, tinh thần khủng hoảng, lúc thì nổi loạn siêu hình, lúc buông thả an phận. Tóm lại, đó là những con người vô tích sự, xa thực tiễn, phản ứng gay gắt với cuộc sống tù đọng, nhỏ hẹp và vô nghĩa. Nhân vật của Nguyễn Thị Hoàng là một sản phẩm của lối sống thác loạn ở các đô thị miền Nam vào những năm 60-70.
Có thể có nhiều người không thích thứ văn chương xa rời những vấn đề trung tâm của đời sống xã hội, những vấn đề lớn như chiến tranh, cách mạng, đời sống dân tộc... song về mặt bút pháp, cách tiếp cận những phương thức biểu hiện mới của văn học, chúng ta có thể thấy được những giá trị đáng kể trong tác phẩm của Nguyễn Thị Hoàng. Đó là sự cảm nhận trực giác, sự miêu tả trực tiếp ý thức, trộn lẫn thực và ảo, hay việc diễn tả thế giới tâm linh đầy bí ẩn của con người.
- Phan Phụng Thạch (1942-1973), tên thật: Phan Ngọc Thạch. Quê ở làng Đạo Đầu, xã Triệu Trung, huyện Triệu Phong.
Học tiểu học ở trường làng, hết bậc Trung học ở trường Nguyễn Hoàng thị xã Quảng Trị ông vào học trường Đại học Văn khoa Huế (Khoa Sử Địa). Tốt nghiệp trở về trường cũ Nguyễn Hoàng làm quản thủ thư viện và dạy môn Sử Địa. Tham gia hoạt động xã hội, từ thiện và viết báo, làm thơ từ thập kỷ 60.
Có nhiều thơ đăng trên các tạp chí Văn, Bách Khoa, Nghệ Thuật dưới bút danh Phan Phụng Thạch, Phan Thu Hạ... Tập thơ “Lưu bút mùa hạ” là tập thơ đầu tay của anh được Nhà sách Hạnh Nhơn xuất bản. Nhiều bài thơ hay trong tập còn đọng mãi trong lòng những người đương thời. Thơ Anh dịu dàng, đắn đót, bàng bạc, ray rứt bởi tình cảm thầy trò, quê hương trước sự tàn phá của chiến tranh ngày càng khốc liệt. “Trong nỗi lạc loài” là bài thơ mang âm hưởng chung của dòng thơ Phan Phụng Thạch: Quê mẹ đó làm sao con về được/ Bởi bây giờ bom đạn đã chia ngăn/ Ngày giỗ cha con ngậm ngùi phương lạ/ Những đau buồn trong ý nghĩ xa xăm.../ Người nằm xuống từ năm đầu kháng chiến/ Sao bây giờ đất nước vẫn tang thương/ Thôi, thưa mẹ, thắp giùm con ngọn nến/ Khấn hồn cha, tha thứ một thằng con/... Rồi một mai con theo cha nằm xuống/ Rất âm thầm và rất đổi cô đơn/ Đứa em nhỏ lớn lên cùng tiếng súng/ Sẽ nghĩ gì về cuộc chiến quê hương.
- Ngụy Ngữ, sinh năm 1947, quê tại làng Mỹ Chánh, xã Hải Chánh, huyện Hải Lăng.
Làm báo, viết văn ở miền Nam. Trước năm 1975 đăng nhiều trên các báo tiến bộ chống lại chế độ Sài Gòn như Đối diện, Vấn đề. Là cây bút văn xuôi trực diện chống chế độ cũ, được giới trí thức, sinh viên học sinh và bạn đọc yêu mến. Nhiều truyện ngắn của ông như “Con thú tật nguyền” được in trong Tuyển tập truyện ngắn yêu nước, tiến bộ ở miền Nam từ 1954 - 1975 có tên “Mùa chim én bay về” do NXB Cửu Long xuất bản năm 1986.
Sau giải phóng ông chuyển qua làm điện ảnh, công tác tại Xưởng phim Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh.
- Đỗ Tư Nghĩa, sinh năm 1948. Quê làng Quảng Điền, xã Triệu Đại, huyện Triệu Phong. Tốt nghiệp Cử nhân Triết, Đại học Văn khoa Huế, có thơ in rất sớm trên các báo tiến bộ ở miền Nam. Sau giải phóng tiếp tục dạy học và làm thơ ở Lâm Đồng...
- Triệu Phong (1942- ), tên khai sinh: Đặng Sĩ Tịnh, tên thường dùng: Đặng Triệu Phong. Quê ở làng Ái tử, xã Triệu Ái, Huyện Triệu Phong. Trước 1975 có thơ đăng trên các tờ báo tiến bộ miền Nam, có mặt trong “Tiếng hát những người đi tới”, tuyển tập thơ văn phong trào sinh viên học sinh đấu tranh chống Mỹ do NXB Trẻ xuất bản năm 1995. Sau giải phóng 1975, công tác tại Hội Văn học nghệ thuật Khánh Hòa. Tiếp tục sáng tác thơ, các phẩm đã xuất bản: “Khúc ru sợi khói” (in chung), “Giấc ngủ nửa vầng trăng” (tập thơ, NXB Hội Nhà văn 1994), “Qua vùng cỏ lau” (thơ, NXB Văn hóa dân tộc, 1999)...
Nguyễn Thị Hoàng và nhóm năm tác giả nêu trên có thể chưa đánh giá một cách đầy đủ cho một bộ phận quan trọng của văn học dân tộc (trong đó có một phần nhỏ của Quảng Trị) phát triển trong hai thập kỷ tại các đô thị miền Nam. Đó là một vấn đề đáng quan tâm khi chúng ta thực sự muốn dựng lại đầy đủ chân dung đời sống văn học trong một giai đoạn lịch sử đặc biệt của dân tộc - đất nước bị chia thành hai lãnh thổ có hai thể chế chính trị khác biệt nhau.
2.2- Lớp nhà văn trưởng thành thời chống Mỹ đến nay
Như đã nói, việc phân kỳ, chia ra các giai đoạn văn học chỉ có tính tương đối. Mười nhà văn, nhà thơ chúng tôi chọn lọc ở trên (giai đoạn 1945-1975) sau 1975 họ vẫn tiếp tục đóng góp thêm nhiều tác phẩm văn học có giá trị khác, song về cơ bản họ đã đạt tới đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của mình. Lớp nhà văn kế tiếp như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Xuân Đức, Ngô Thảo, Thy Sảnh, Châu La Việt… đều đã có tác phẩm, đã bắt đầu sự nghiệp của mình trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, nhưng đồng thời họ cũng là thế hệ “bắc cầu” sang giai đoạn sau năm 1975. Việc xếp họ vào giai đoạn sau năm 1975 cũng là xét ở cái mốc các tác giả này đã đạt tới đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của mỗi người. Nó mang tính ước lệ nhưng quan trọng hơn là tính kế thừa và phát triển liên tục trong dòng chảy văn học tỉnh nhà.
- Hoàng Phủ Ngọc Tường, sinh năm 1937, quê làng Bích Khê, xã Triệu Long, huyện Triệu Phong. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1978).
Năm 1960, tốt nghiệp Đại học Sư phạm Sài Gòn (khóa I), ban Việt Hán và Cử nhân triết học Đại học Văn khoa Huế. Từng là giáo viên dạy văn, siêu hình học trường Quốc học Huế. Từng "xuống đường" đấu tranh trong phong trào sinh viên, học sinh, giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập, thống nhất Tổ quốc, và “lên xanh” kháng chiến. Từng là Trưởng ty Văn hóa Thông tin tỉnh Quảng Trị (thời Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam), Tổng thư ký Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng Biên tập Tạp chí Cửa Việt.
Tác phẩm chính:
Hoàng Phủ Ngọc Tường xuất hiện trên văn đàn không sớm nhưng chưa phải là muộn. Có thể lấy tác phẩm đầu tay Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu, tập bút ký được Nxb Giải phóng xuất bản năm 1972 làm cái mốc khởi nghiệp. Năm ấy Hoàng Phủ Ngọc Tường tròn 35 tuổi. 35 năm qua, ông đã lần lượt trình làng 16 tác phẩm, trong đó có hai tập thơ: Những dấu chân qua thành phố (1976); Người hái phù dung (1995); ba tập nhàn đàm: Nhàn đàm (1977); Người ham chơi (1998); Miền gái đẹp (2001); mười một tập bút ký (bao gồm cả truyện ký và bút ký chính luận): Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu (1972); Rất nhiều ánh lửa (1979); Ai đã đặt tên cho dòng sông (1984); Bản di chúc của cỏ lau (1984); Hoa trái quanh tôi (1995); Huế - di tích và con người (1996); Ngọn núi ảo ảnh (2000); Trong mắt tôi (2001); Rượu hồng đào (2001); Trịnh Công Sơn - Cây đàn lya của Hoàng tử bé (2005); Miền cỏ thơm (2007); “Lời tạ từ một dòng sông (2015) và Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường (4 tập, 2002).
Giải thưởng văn học: Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 1980, tập ký Rất nhiều ánh lửa. Giải thưởng Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam năm 1999 với tập bút ký Ngọn núi ảo ảnh và năm 2007 với tập bút ký Miền cỏ thơm. Giải thưởng Văn học nghệ thuật Cố Đô (1999-2004) tập bút ký Ngọn núi ảo ảnh; giải thưởng Cố Đô lần IV (2005-2009) tác phẩm Miền cỏ thơm. Giải thưởng Chế Lan Viên lần I (2015- 2020) Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường. Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007. Ngần ấy tác phẩm xuất bản trong vòng ba mươi lăm năm, không nhiều nhưng cũng không phải là ít. Trong số không nhiều nhà văn đã dành gần như toàn bộ lao động nghệ thuật của mình cho thể ký, Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cây bút đặc sắc, có một phong cách viết bút ký văn học riêng hẵn của ông. Nhà văn tự bạch: “Tôi lớn lên trong một bối cảnh đặc biệt của lịch sử, ở đó mọi sự kiện đều mang sẵn một vẻ đẹp văn học. Vì thế tôi cho rằng văn xuôi phải đáp ứng một nhu cầu sinh đôi của thời đại: a- Nó phải là một sự kiện mang tính thẩm mỹ; b- Nó được bảo đảm là có thực trong thực tế cuộc sống; còn thực tế đến đâu thì đó là tùy tài năng vận dụng của người viết để tất cả thành nhất quán”. Điều đó đã khiến ông chọn “bút ký là thể loại văn xuôi tiêu biểu; dần dần nó trở thành duy nhất và không thể thay thế được”. Mới đây, khi ra mắt tập bút ký Lời tạ từ một dòng sông (Nxb Trẻ, 2015) Hoàng Phủ Ngọc Tường chính thức gửi thông điệp của chính tác giả, rằng đây là tập sách cuối cùng, nhà văn sẽ không còn viết nữa sau 20 tập bút ký và thơ xuyên suốt đời văn của mình. Ở đề từ cho tác phẩm cuối cùng này, lần nữa ông nhắc lại tôn chỉ của mình: “Ai biết nước sông Lam khi mô trong khi mô đục. Thì biết sống cuộc đời răng là nhục là vinh. Tôi viết sách lòng chỉ mong học theo người Nghệ để đi cho hết cái trong đục của đời người. Cuốn sách nhỏ này có thể xem là lời tạ từ…”. Và về lý do không viết nữa: “Tôi không viết nữa đơn giản tôi đâu còn cơ hội để đi nữa đâu…(bệnh xuất huyết não từ 1996). Đi chuyển dịch là niềm đam mê và năng lượng cuộc sống của mình, tách biệt cắt đứt nó chẳng khác gì mình đoạn tuyệt với hơi thở hiện tại. Không viết nữa tôi buồn và chán lắm nhưng mình không thể ngồi tưởng tượng mà viết. Lâu nay từ ngày lâm bệnh đến giờ có bao nhiêu tích lũy của những chuyến đi thực tế ký ức trí nhớ thì tôi đã lôi ra hết rồi giờ thì không còn năng lượng nữa có viết cũng là một điều không thật với bạn đọc điều ấy không nên…”.
Với ý thức trách nhiệm và lương tâm của người cầm bút như vậy nên ông thường viết chậm, song không ai đem tiêu chí ít hay nhiều để xác định tầm vóc của một nhà văn. Cái chính là những giá trị mới mẻ, đích thực mà nhà văn đã góp vào để làm nên diện mạo đời sống văn học của thời đại mình. Nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định những thành tựu, những đóng góp mới từ những trang bút ký “rất nhiều ánh lửa” (chữ dùng của Nguyễn Tuân) của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Hoàng Phủ Ngọc Tường có một trí nhớ phi phàm chứa đựng một khối lượng tri thức khổng lồ về triết học, văn học, lịch sử và văn hóa sâu rộng. Cuộc đời ông lăn lộn suốt chiều dài đất nước. Đụng đến vấn đề gì, ở thời điểm nào và ở đâu, “chất ký và con người của ký trong ông lắng đọng lại sự hiểu biết như trầm tích ủ dưới lớp than hồng”, chứa đựng những kiến giải phong phú về mọi mặt của xã hội, thế thái nhân tình, nhất là các biến cố, biến thiên của lịch sử dân tộc như là những phát kiến văn hóa. Văn chương của ông bình dị nhưng sang trọng, sắc sảo, sâu lắng. Đọc nó ta thấy ta được giàu có lên về tâm hồn và trí tuệ.
Một cuộc đời lăn lộn với nghề nghiệp, đóng góp trọn vẹn nhiệt huyết cho đất nước; một cuộc đời giản dị, yêu mến nhân dân, thủy chung với đồng chí đồng nghiệp. Có thể nói, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đến với cuộc đời này bằng cả cái tâm của một con người đạt đạo. Đời văn của Anh, đúng như nhà văn Nguyên Ngọc đã viết: “… Đối với anh Tường chẳng việc gì phải giới thiệu. Tên tuổi anh, người đọc cả nước đều biết rõ, đọc giả ngoài nước cũng nhiều người biết và hâm mộ. Anh là một trong mấy nhà văn viết ký hay nhất của văn học ta hiện nay…”.
- Ngô Thảo, nhà lý luận phê bình. Bút danh: Song Nguyện, Vĩnh Hoàng. Sinh năm 1941, quê ở xã Vĩnh Nam, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị. Hiện đang sống và làm việc tại Hà Nội. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1977).
Tốt nghiệp khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Hà Nội năm 1964, về công tác tại Viện Văn học. Từ 1965-1985 vào bộ đội, từ binh nhì lên Thiếu tá. Chiến đấu trong binh chủng pháo binh ở chiến trường Trị Thiên. Trung đội trưởng trinh sát, Chính trị viên Đại đội, trợ lý tuyên huấn Trung đoàn 368. Năm 1971 học ở Học viện Chính trị rồi về tạp chí Văn nghệ quân đội, phụ trách phần bình luận văn nghệ. Năm 1986 chuyển về Hội nghệ sĩ sân khấu Việt Nam. Từ 1989, là Ủy viên Ban thư ký (khóa 3). Từ 1994- 2004, Phó Tổng thư ký thường trực Hội khóa 4 và 5. Đảng ủy viên khối cơ quan trung ương về công tác tư tưởng, ủy viên Đảng đoàn Hội. Từ 2001 kiêm Tổng biên tập tạp chí Sân khấu, giám đốc Nxb Sân khấu. Về hưu 2005. Cố vấn nghệ thuật hãng phim Việt - Công ty BHD.
Phê bình tiểu luận đã xuất bản: Từ cuộc đời chiến sĩ (1978); Nhà văn bàn về nghề văn (Biên soạn, 1980); Năm tháng chưa xa (Sưu tầm, biên soạn, 1985); Một tài năng, một đời người (viết chung, 1988); Toàn tập Nguyễn Ngọc Tấn - Nguyễn Thi (Sưu tầm, tuyển chọn 1996); Như cuộc đời (Những bài viết về văn hóa, nghệ thuật, sân khấu, 1995); Tuyển tập truyện và ký Đoàn Giỏi (1999); Đời văn - đời người (2000); Chiến trường sống và viết (Biên soạn, sưu tầm, 2 tập, 1995); Đời văn - đời người (Tiểu luận phê bình, 2000); Văn học với cuộc sống - đời sống văn học (2000); Mấy vấn đề của sân khấu Việt Nam trong cơ chế thị trường (2000); Văn học về người lính (2002, 2003); Mây bay về núi (2007); Thao thức với phần đời chiến trận (2009); Tiểu luận phê bình văn học (2010). Ngoài ra còn có một số công trình in chung khác.
Giải thưởng văn học: Giải thưởng tác phẩm năm 1995 của Hội nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam, tác phẩm Như cuộc đời. Giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2002, tác phẩm Văn học về người lính. Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2012.
Nhà văn Ngô Thảo nghĩ về nghề: “Đi qua gần trọn một kiếp trần gian, tôi thấy biết ơn vô cùng bậc sáng thế đã tạo ra một dạng thức sáng tạo tinh thần là Văn học. Trong những cuốn sách không phải bao giờ cũng đồ sộ, loài người đã truyền lại cho nhau bao nhiêu tư tưởng, tình cảm lớn lao từ trải nghiệm sống của những kiếp người. Thế hệ chúng tôi vượt qua thế kỷ XX trong bom đạn, đói rét, khốn khó để tồn tại một phần quan trọng nhờ lời mách bảo đầy bí ẩn mà hấp dẫn từ nhiều, rất nhiều tác phẩm văn học, mặc dầu không phải đều là tuyệt tác.
Chính vì vậy, trong phê bình văn học, bao giờ tôi cũng thể hiện lòng biết ơn đối với các tác giả bằng cả đời mình đã tạo nên những tác phẩm như thế”.
Nhà văn đã chọn cho mình lối đi riêng: “Giữa bao biến động trong lý luận, phê bình văn học mà nhiệt độ, hướng đi luôn luôn thay đổi, tôi chọn con đường làm tư liệu: Giữ lại những tư liệu văn học về một thời kỳ lịch sử không thể quên”. Và ông khẳng định “Bởi tự tin ở sự ngay thẳng, trung thực, dù bao lần bị phê phán. May cho tôi là khi nhìn lại, trong đó không có những đồng đội xưa của mình, và hôm nay, nếu được chọn lại, tôi sẽ lại chọn con đường đã đi tới bất cứ nơi đâu Tổ quốc cần”.
Đó là chọn lựa bản lĩnh và khôn ngoan đúng như Nguyên An đúc kết: “Ngô Thảo đã có cả một loạt bài viết về những nhà văn chiến sĩ đã hy sinh như Nguyễn Đình Lạp, Trần Đăng, Thôi Hữu, Nguyễn Thi... Không có công tìm tòi tra cứu xuất phát từ lòng ngưỡng mộ và tiếc thương cho những tài năng “vì nước quên thân, vì dân phục vụ” thì khó mà viết được như thế... Điều đáng ghi nhận là ở hàng trăm trang viết của ông vẫn thường thấm đượm một khát khao góp phần phân tích, mổ xẻ tiến trình văn học đương đại, cùng rút ra những kinh nghiệm và bài học để xây dựng một nền văn nghệ vững mạnh hơn, giàu tính nhân dân - nhân bản (và cũng là tính Đảng) hơn, xứng đáng với những hy sinh anh dũng của dân tộc, suốt bao nhiêu năm ròng, tranh đấu vì nền độc lập tư do của Tổ quốc...”.
- Xuân Đức, sinh năm 1947. Họ và tên khai sinh: Nguyễn Xuân Đức. Sinh năm 1947, quê ở xã Vĩnh Hòa, huyện Vĩnh Linh. Vào Hội Nhà văn (1982).
Xuất thân trong gia đình nông thôn. Học xong phổ thông trung học vào bộ đội, chiến đấu ở vùng sâu Quảng Trị. Năm 1976 được điều về trại sáng tác của Tổng cục Chính trị, sau đó học Trường Viết văn Nguyễn Du (khóa I). Tốt nghiệp, về Đoàn kịch nói quân đội, trước khi chuyển ngành là Trung tá. Nguyên là Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Văn hóa - Thông tin, Tổng thư ký Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Trị, Tổng Biên tập Tạp chí Cửa Việt.
Tác phẩm chính đã xuất bản: Cửa gió (tiểu thuyết, 1980); Người không mang họ (tiểu thuyết, 1984); Hồ sơ một con người (tiểu thuyết, 1985); Những mảnh làng (tiểu thuyết, 1987); Tượng đồng đen một chân (tiểu thuyết, 1987); Bến đò xưa lặng lẽ (tiểu thuyết, 2005); và nhiều kịch bản sân khấu, trong đó có Tổ quốc, Chứng chỉ thời gian, Đám cưới ly biệt, Ám ảnh, Cái chết chẳng dễ dàng gì, Đợi đến bao giờ, Chuyện dài thế kỷ...
Giải thưởng văn học: Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1982, tiểu thuyết Cửa gió. Giải thưởng Bộ Nội vụ năm 1995, tiểu thuyết Người không mang họ. Hai lần Giải thưởng Văn học Bộ Quốc phòng (1990, 1995). Giải thưởng Hội nghệ sĩ sân khấu năm 1995, vở kịch Cuộc chơi. Giải thưởng Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam, tập kịch Chứng chỉ thời gian. Giải A cuộc thi tiểu thuyết của Hội Nhà văn Việt Nam, tiểu thuyết Bến đò xưa lặng lẽ. Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007.
Xuân Đức thuộc thế hệ nhà văn cùng trang lứa với Hữu Thỉnh, Chu Lai, Nguyễn Huy Thiệp, Đỗ Chu, Trần Đăng Khoa, Khuất Quang Thuỵ, Lâm Thị Mỹ Dạ... được đào tạo và trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Trước khi cầm bút, ông là người cầm súng khi đang học năm cuối trường cấp III Vĩnh Linh. Là một trong những người lính đầu tiên của Trung đoàn 270 bảo vệ giới tuyến (thành lập 1/5/1965), ông đã cùng đồng đội tham gia nhiều trận đánh ở các chiến trường nóng bỏng đạn bom ở Đường 9, Gio Linh, Cam Lộ... Tiểu đoàn 47 của ông trong cuộc tổng tiến công tết Mậu Thân 1968 đánh địch dọc tuyến bờ Bắc sông Hiếu từ Cửa Việt đến Đông Hà hy sinh hơn một nửa quân số. Những tháng năm ấy đã để lại trong trái tim đa cảm nhà văn ngập tràn cảm xúc về tinh thần chiến đấu, hy sinh, vượt qua mọi gian nguy, ác liệt. Vì thế khi cầm bút Xuân Đức không viết cái gì khác hơn ngoài đề tài chiến tranh cách mạng. Thoạt đầu là những vở kịch mà ở đó ngay từ những sáng tác đầu tiên đã gây ấn tượng. Các vở “Trận địa”, “Tiếng chim tapar”, “Tổ quốc” (viết chung với Đào Hồng Cẩm) được viết vào quãng từ năm 1969 - 1976. Sau này vở “Tổ quốc” do NSND Đình Nghi đạo diễn được chọn phục vụ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV. Sau thành công của các vở kịch đầu tay, ông chuyển qua một thể loại khác là tiểu thuyết và với nhà văn áo lính đề tài vẫn là chiến tranh cách mạng. Một loạt tiểu thuyết như “Người không mang họ”, “Tượng đồng đen một chân”, “Những mảnh làng”, “Cửa gió” (hai tập), “Bến đò xưa lặng lẽ” và gần đây nhất là tiểu thuyết “Kẻ song sinh” lần lượt ra đời, gắn liền với mảnh đất dữ dội đôi bờ Hiền Lương - con sông lịch sử quê hương nhà văn.
Cùng với tiểu thuyết, khi ra quân nhà văn đã trở lại với thể loại kịch bản sân khấu. Một loạt tác phẩm ra đời: “Chuyện đời thường vớ vẩn”, “Ám ảnh”, “Cái chết chẳng dễ dàng gì”, “Chứng chỉ thời gian”, “Chuyện ấy không phải cổ tích”, “Cuộc chơi”, “Nhật thực”, “Chuyện dài thế kỷ” đều lấy đề tài chiến tranh cách mạng làm phương tiện ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng của quân và dân ta trong chiến tranh giải phóng dân tộc. Cũng đề tài trên, khi nghỉ hưu ông lần lượt cho ra đời các vở “Nhiệm vụ hoàn thành” (viết về cố đại tướng Võ Nguyên Giáp) và “Thành phố lúc bình minh” (viết về cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt) đều là những nhân vật cống hiến trọn đời mình cho hai cuộc chiến tranh thần thánh của dân tộc. Chưa dừng lại ở đó, ông còn thành công trong một loạt phim truyền hình. “Đối mặt”, “Đời như tiệc”, “Hương trầm gió”, kể cả “Bến đò xưa lặng lẽ” chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên…
Phải thừa nhận rằng, một đời văn Xuân Đức từ trai trẻ nay đã bảy mươi đều nặng lòng với đề tài chiến tranh cách mạng. Nhà văn đã để lại cho đời một khối lượng tác phẩm đồ sộ về chiến tranh; ở thể loại nào, thời kỳ nào tác phẩm cũng đều đạt tới đỉnh cao, để lại những dấu ấn sâu đậm. Cũng đề tài chiến tranh, hiện ông đang viết thêm một cuốn tiểu thuyết nữa,. Sự viết theo ông, giờ đây khá nhọc nhằn, bởi cuộc sống bây giờ cũng nặng nhọc lắm, nhưng ông biết cách vượt qua chính mình, vượt qua sự nặng nhọc ấy để tiến lên phía trước. Với nhà văn Xuân Đức, có thể nói tác phẩm và đi kèm là giải thưởng, tất cả đang còn ở phía trước.
- Thi Sảnh, sinh năm 1942. Tên thật Nguyễn Thanh Sỹ, quê ở làng Cẩm Phổ, xã Gio Mỹ, Gio Linh, Quảng Trị. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 2011.
Năm 1954 khi đất nước bị chia cắt, mới 13 tuổi nhưng Thi Sảnh đã kịp xin bố mẹ vượt sông Hiền Lương giới tuyến để ra Bắc tiếp tục học tập. Cũng như những học sinh miền Nam thuộc diện vượt tuyến khác, được Đảng và Nhà nước và nhân dân miền Bắc thương yêu đùm bọc, quan tâm chăm sóc, Thi Sảnh lần lượt học xong cấp II phổ thông tại khu vực Vĩnh Linh, cấp III tại Hà Tĩnh và đại học tại Hà Nội. Năm 1964, sau khi tốt nghiệp khoa Sử trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, anh về nhận công tác tại Sở Văn hóa và Thông tin Quảng Ninh. Trải mấy mươi năm, từ một cán bộ Bảo tàng, anh trở thành Giám đốc Sở Văn hóa và Thông tin, Chủ tịch Hội Sử học, trong nhiều khóa là Ủy viên Thường vụ Hội văn nghệ Quảng Ninh cho đến khi về hưu năm 2002.
Tác phẩm đã xuất bản:
- Về Thơ: Đã có 15 tập thơ được xuất bản, gồm Gương mặt bè bạn (1981), Điều ước (1981), Liên tưởng (1983), Đợi và tìm (1985), Bài thơ bên vách núi (1996), Cõi thiêng (2000), Ngọn nguồn câu hát (2002), Thức với dòng sông (2004), Hình bóng xưa (2005), Thơ Thi Sảnh (2006), Đồng Điệu (2008), Khi ta hát (2010), Bóng mình (2011), Cứ tự nhiên phát sáng (2013), Những vì sao bầu bạn (2014); đã có thơ in trong 15 Tuyển tập thơ Việt Nam, trong đó có những tập tiêu biểu như Ngàn năm thơ Việt, Thơ Việt Nam thế kỷ XX, Hồ Chí Minh hợp tuyển thơ, Nguyễn Trãi tổng tập thơ, Ngàn năm thương nhớ, Nước non một dải, Nửa thế kỷ thơ, Biển gọi…
- Về ký: Đã có 11 tập ký được xuất bản, trong đó có những tập gây được sự chú ý như Đất nước ngàn năm (5 tập in chung), NXB Kim Đồng, Quảng Ninh miền đất những trầm tích, NXB Trẻ, Vịnh Hạ Long hành trình một kỳ quan, NXB Hội Nhà văn, với lượng phát hành lên đến vài vạn bản…
- Tiểu thuyết: Chân trời ám ảnh, NXB Hội Nhà văn; Âm vang dòng sông, NXB Văn học; Cứu cánh, NXB Văn học.
Giải thưởng: Giải Nhất (chùm thơ) cuộc vận động sáng tác văn học về đề tài Tự hào Than - Khoáng sản Việt Nam do Hội Nhà văn Việt Nam và Tập đoàn Than - Khoáng sản tổ chức nhân kỷ niệm 80 năm Ngày Hội Truyền thống công nhân mỏ (1936 - 2016). Giải Ba (mười bài thơ) tham gia cuộc vận động sáng tác văn học về đề tài Giao thông vận tải do Hội Nhà văn Việt Nam và Bộ Giao thông vận tổ chức nhân kỷ niệm 70 năm Ngày Truyền thống Giao thông vận tải Việt Nam (28/8/1945 - 28/8/2015). Giải Ba (chùm thơ) tham gia cuộc vận động sáng tác văn học đề tài Than - Khoáng sản Việt Nam do Hội Nhà văn Việt Nam và Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam tổ chức nhân kỷ niệm 75 năm Truyền thống công nhân mỏ (1936 - 2011). Giải Khuyến khích Chọn 100 câu thơ hay do báo Văn Nghệ tổ chức và 10 được tặng Giải thưởng về thơ ở Quảng Ninh, trong đó có 2 giải Nhất.
Thi Sảnh bắt đầu sự nghiệp văn chương của mình bằng sáng tác thơ. Thơ đối với anh là chỗ dựa, là mạch sống, là thước đo tâm hồn của mình trước cuộc sống muôn màu, theo anh suốt những năm dài công tác. Với một giọng thơ tài hoa, hồn hậu, thấm đẫm nỗi buồn chiến tranh, đạn bom, chia cắt, ly tán nhưng đằm thắm, ân tình. Trong Lời tựa viết cho tập Cõi thiêng, nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo đã nhận xét về thơ Thi Sảnh như sau: “Có thể nói, Thi Sảnh là người chép hồn mình bằng thơ. Và từ cuốn sử tâm hồn riêng lẻ ấy, ta nhận ra một thời anh đang sống. Có thể nói, Thi Sảnh là người yêu cuộc sống mà trở thành thi sĩ”.
Rồi do yêu cầu công tác, anh viết nhiều tập ký giới thiệu lịch sử, những nét đặc sắc danh lam thắng cảnh Quảng Ninh như Hạ Long, Yên Tử, góp nhiều công sức và tư liệu cho những điạ chỉ này được công nhận là thắng cảnh quốc gia và quốc tế.
Ngỡ là công thành danh toại, vậy mà cuối đời anh bắt tay vào viết cuốn tiểu thuyết Âm vang dòng sông (Nxb Văn học, 2016, 550 trang) viết về một địa bàn rất xa nơi anh đang sống và công tác hơn nửa thế kỷ qua. Dòng sông ám ảnh và âm vang đó là là sông Hiền Lương, nơi từng là ranh giới thực tế chia cắt đất nước 21 năm ròng. Dòng sông chảy qua quê gốc của anh và đắng lòng hơn là gia đình anh ở phía Nam, nằm dưới sự kiểm soát của chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Đó là những năm tháng mà những người yêu nước tham gia kháng chiến cũ bị bắt bớ, giam cầm, truy bức, tàn sát. Nhà văn, nhà phê bình Ngô Thảo trong bài Nặng tình với dòng sông (Tạp chí Cửa Việt, số 271) giới thiệu nội dung cuốn tiểu thuyết như sau: “Bằng kỹ năng của một nhà Sử học, tiểu thuyết viết như một cuốn sử biên niên ghi chép lại theo tuyến tính thời gian những sự kiện xảy ra trên một vùng đất hẹp làng Cẩm là địa bàn chính. Hứng chịu những biến động lớn diễn ra trên đất nước 50 năm giữa thế kỷ XX, cái làng quê có lịch sử lâu đời, vốn bình yên đó bị cuốn vào vòng xoáy phân tranh không chỉ quyền lực, quyền lợi trước mắt, mà còn vì đó là tuyến đầu đối diện với miền Bắc. Trai tráng hai phe thì đã vậy, mà vợ chồng, con cái, người già, trẻ con, các quan hệ dòng tộc, thông gia bị cuốn vào vòng chiến rối rắm, bức xúc, sự tin cậy an lành bị biến mất, chỉ còn âm mưu rình rập, truy đuổi và tận diệt. Ông Tác thuộc trong số may mắn sống sót để có ngày trở về vì được tỏ chức cho thoát ly địa phương vào đúng thời điểm ác liệt. Được ra Vĩnh Linh ở phía Bắc, được phân công công tác mới, nhưng chặng đời hoạt động ở quê nhà vẫn đeo bám ông trên nhiều phương diện. Biết ông chỉ huy công trường làm con đê ngăn mặn cho cánh đồng Bắc Hiền Lương, kẻ địch bắc loa bịa đặt nói xấu ông nhiều chuyện để làm mất uy tín và niềm in của tổ chức. Số phận và đường đời những đồng chí, những người gần gũi, ruột thịt dệt nên bức tranh sống động của một làng quê, hòa trong dòng chảy của đất nước mấy mươi năm chia cắt và chiến tranh, có rất ít niềm vui, mà nhiều hơn là mất mát, đau thương, chia ly, thù hận và cả niềm hối hận. Chiến tranh đẩy họ dạt về hai phía, chạy vào Nam, bám trụ quê làng, tản cư ra Bắc với nhiều ngã lối, thời điểm khác nhau…”
Mấy chục năm chiến tranh, cả nước đều từng là mặt trận. Nhưng chắc chắn không có một vùng quê nào đi vào văn học nghệ thuật kháng chiến nhiều như Quảng Trị. Cùng với các tác giả có tiểu thuyết tên tuổi khác viết về Quảng Trị như Thu Bồn, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Xuân Đức… Âm vang dòng sông của Thi Sảnh vừa mới xuất bản góp phằn làm giàu thêm kho tàng kỹ ức chiến tranh trên quê hương Quảng Trị anh hùng.
- Lê Thị Mây, tên khai sinh: Phạm Thị Tuyết Bông. Sinh năm 1949, quê làng An Mô, xã Triệu Long, huyện Triệu Phong. Bút danh khác: Phạm Tuyết Hoa. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1982).
Học hết phổ thông, tham gia Thanh niên xung phong chống Mỹ. Học lớp bồi dưỡng viết văn trẻ của Hội Nhà văn Việt Nam khóa 6 (1973- 1974). Học Trường viết văn Nguyễn Du khóa I (1979-1982). Cử nhân báo chí. Nhiều năm làm báo và làm biên tập văn học của tạp chí Sông Hương. Phó Tổng biên tập tạp chí Văn hóa Quảng Trị, Tổng biên tập tạp chí Cửa Việt. Chuyên viên cao cấp Ban Tư tưởng Văn hóa TW, hiện nghỉ hưu tại Hà Nội.
Tác phẩm đã xuất bản: Dịu dàng (thơ, 1987); Một mình (thơ, 1990); Tuổi mười ba (thơ, 1990); Tặng riêng một người (thơ, 1990); Du ca cây lưu tình (thơ, 1996); Giấc mơ thiếu phụ (thơ, 1996); Khúc hát buổi tối (thơ, 1999); Thời trẻ của anh (thơ, 2001); Lửa mùa hong áo (trường ca, 2003); Thơ Lê Thị Mây (2003); Những mùa trăng chờ (tuyển thơ chọc lọc, 2002); Tình yêu dài suốt cuộc đời (tuyển thơ chọn lọc, 2004); Thương nhớ một ngày (thơ, 2006); Tự khúc ánh sáng (thơ, 2006); Trăng trên cát (truyện ngắn, 1987); Mưa ngâu (bút ký, 1994); Phố còn hoa cưới (tập truyện, 1992); Bìa cây gió thắm (tập truyện, 2000); Bến bờ hạnh phúc (thơ, 2008); Thơ và trường ca Lê Thị Mây (2009).
Giải thưởng văn học: Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1990, tập thơ Tặng riêng một người. Tặng thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1998, truyện dài Huyết ngọc. Tặng thưởng Bộ Quốc phòng năm 2000, tập truyện Bìa cây gió thắm. Giải B Ủy ban toàn quốc liên hiệp các hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 2003, trường ca Lửa mùa hong áo. Giải thưởng Nhà nước năm 2012.
Con đường thơ của Lê Thị Mây khá nhọc nhằn. Những tác phẩm đầu tiên ấy của chị là tiếng nói phản ánh cuộc sống của những gương mặt non trẻ là nam nữ thanh niên xung phong, những đồng đội cùng chị ngày đêm bám trụ. Đó là mồ hôi nước mắt và những cái chết đau thương của những “người lính không cầm súng” trên những công trường trọng điểm. Vì thế thơ chị là tiếng lòng sâu lắng, trữ tình, đằm thắm, không khách sáo ồn ào; là niềm vui ngọt ngào được chắt lọc qua cuộc đời của chị và được thoát ra từ trái tim nữ tính nhân hậu. Đúng như tâm sự của chị, “Thơ là nỗi buồn thầm kín của tôi, đã cất tiếng khóc khi còn lại một mình”.
Nhận định về thi pháp của Lê Thị Mây, nhà thơ Vũ Quần Phương viết: “thơ chị thiên về khái quát... chị miêu tả con cá ngủ lơ mơ rất ít chi tiết của tín hiệu thứ nhất (hình ảnh cụ thể, ở đây là mềm mại) và chuyển nhanh sang khái niệm (tín hiệu thứ hai) không còn hình ảnh mà chỉ còn bản chất sự vật. Vì vậy con cá được ví với cái đinh vốn không mềm mại chút nào, không có gì giống con cá sinh động đang bơi dưới nước cả... Lê Thị Mây tâm đắc với loại thơ mà mọi chất liệu cụ thể chỉ là cái cớ, cái phương tiện. Ngay cả những vấn đề xã hội chính trị cũng phải dẫn đến những niềm sâu kín thuộc vào phần vĩnh cửu của tâm hồn con người...”.
Khi tái bản Những mùa trăng mong chờ, nhà thơ Hoàng Cát có thêm nhận xét: “Thơ Lê Thị Mây không chi tiết về chiến tranh, không chi tiết về người mẹ, về tình yêu đôi lứa, tình yêu quê hương đất nước - hầu như Lê Thị Mây chạm tới mọi đề tài, mọi nỗi niềm mà mỗi người bình thường chúng ta hằng quan tâm thường trực trong lòng. Và ở đề tài nào, thơ chị cũng có những mặt rất được... Thơ chị giàu tâm trạng, với một phong cách ngôn ngữ thơ không giống nhiều người khác, nghiêng về gợi mở hơn là biểu cảm trực diện, cụ thể trong từng câu chữ, trong từng chi tiết”…
Thiết nghĩ, đó chính là những đóng góp xứng đáng của chị cho nền thơ Việt hiện đại về mặt bút pháp và giọng điệu.
- Tạ Nghi Lễ (1951-2008). Tên khai sinh: Tạ Lễ. Quê làng Lâm Xuân, xã Gio Mai, huyện Gio Linh. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1997). Cựu học sinh Nguyễn Hoàng, theo học trường Đại học Luật khoa, Văn khoa ở Huế năm 1970-1972, Trường Quốc gia hành chánh Sài Gòn năm 1973-1975. Sinh sống ở Trảng Bom I, Đồng Nai từ năm 1975- 1996.
Tác phẩm chính:
Các tập truyện: Yêu một người làm thơ (1990, 1993, 1996); Nàng Hải Sư và tôi (1992, 1998); Những mãnh đời khác nhau (1994, 1995); Một ngày của một nhà văn (1997).
Thơ: Những khoảng trời trong sáng (1995); Quê mình (2004).
Kịch bản phim: Đi qua lời nguyền (1997); Ngày về (1999).
Sinh thời, nhà thơ Tạ Nghi Lễ tâm niệm về nghề như sau: “Dù bây giờ văn hóa đọc lùi lại phía sau để nhường cho văn hóa nghe nhìn lên ngôi nhưng tôi vẫn viết. Vì chữ nghĩa trong các trang văn, trang thơ là của chính mình. Người đọc bây giờ ít hơn nhưng không vì thế mà không viết. Tôi còn nợ với quê hương, đồng bào, bạn bè, anh em nhiều lắm. Phải trải lòng ra mà viết”.
Là nguyện ước chân thành từ tốn nhưng trời đã không chiều lòng nhà thơ. Anh đã từ biệt cõi đời ở tuổi 57 sau một cơn tai biến.
- Châu La Việt, bút danh khác: Triệu Phong, Trương Nguyên Việt. Sinh năm 1952, quê nội ở làng Bích Khê, xã Triệu Long, huyện Triệu Phong; quê ngoại ở làng Mai Xá, xã Gio Mai, huyện Gio Linh, Quảng Trị. Vào hội Nhà văn Việt Nam năm 2015.
Ông là con trai đầu của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ và NSƯT Tân Nhân, nữ danh ca nổi tiếng với bài hát Xa khơi ngày đất nước còn chia cắt hai miền. Châu La Việt có cuộc đời mà bi kịch thân phận chính là bi kịch của đất nước ngày Bắc Nam đôi ngả. Mẹ anh mang bầu anh với nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ khi ông đã vào Sài Gòn. Trên miền Bắc, anh lớn lên trong vòng tay người mẹ và cha dượng là nhà báo, nhà hoạt động cách mạng Lê Khánh Căn, nguyên thư ký của đồng chí Tố Hữu (từ nhỏ ông sống với mẹ với tên khai sinh là Lê Khánh Hoài; gần đây có thêm tên mới lấy họ nội là Hoàng Hữu Thi Hoài).... Năm 17 tuổi đã làm đơn tình nguyện ra trận, nguyên là bộ đội Trường Sơn và mặt trận Lào góp phần vào việc rút ngắn ngày Bắc Nam sum họp.
Thừa hưởng dòng máu nghệ sĩ của cha mẹ, Châu La Việt đam mê nghệ thuật từ lúc ấy. Còn nhớ những năm đầu thập kỷ 70 thế kỷ XX, vở “Người mẹ trường Sơn” của Trương Nguyên Việt gây tiếng vang bởi tình cảm của tác giả dồn nén vào vở kịch chính là tình mẫu tử giữa người mẹ ca sĩ và đứa con là người lính trẻ có lúc lỗi lầm. Trước đó, anh từng có những vở kịch “Tình em trao anh”, “Mạch ngầm” viết về đề tài chiến tranh... Rời quân ngũ, anh đi làm báo, nhiều năm làm ở báo Thanh Niên, Thanh Niên - Thời đại, Văn nghệ Trẻ, rong ruổi từ Nam ra Bắc... Nhưng hình như cuộc đời với quá nhiều biến cố và sự kiện ấy đã mách bảo anh đi tìm một lối sống riêng, lối sống ẩn mình giữa ồn ào náo động và dồn hết tâm huyết vào những trang văn. Tuy muộn mằn nhưng hình như anh đã chắt máu tim mình ra thành chữ!
Tác phẩm đã xuất bản: Những bạn trẻ của tôi (Nxb Quân Đội); Chiếc khăn màu lửa cháy (Nxb Trẻ.TPHCM); Ngọc Tân - ngày biển gọi (Chủ biên - Nxb Văn hóa Thông Tin); 5 bài thơ và 5 chuyện kể về người lính (Nxb Lao Động); Nơi không có mùa đông (Nxb Lao Động); Mai Pi Muôn - Thơ, Truyện (Nxb Văn học).
Nói như nhà thơ Hữu Thỉnh thì “Châu La Việt cầm bút từ khá sớm, mặc áo lính càng sớm hơn. Những năm tháng ở chiến trường, anh đã tự thể nghiệm ở khá nhiều thể loại, nhưng say đắm nhất là thơ. Với thế hệ cầm bút của tôi, cái tên Châu La Việt đã trở nên khá thân thuộc từ những năm chống Mỹ. Với Châu La Việt, thơ với đời, đời với thơ là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa văn chương và đời lính, hiện thực và mộng mơ…”. Và bây giờ với “5 bài thơ và 5 chuyện kể về người lính” là dấu ấn đẹp đẽ và tinh khôi về một chặng đời không bao giờ phai của Châu La Việt. Lấp lánh phía sau trang chữ là một cuộc đời lính, một tâm hồn lính, một tính cách lính với những rung động nội tâm sâu đằm và thuần phác. Đó là một thứ của tin mà tác giả đã gặt hái được qua những năm tháng đẹp nhất của đời mình”. Nhà văn Đỗ Chu cũng đã đã có những dự báo sâu sắc rằng, “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh. Châu La Việt đúng là con nhà nòi. Đã mang trong mình nết thư hương thì không thể khác được. Tôi hình dung sắp đến với anh sẽ là những năm tháng nhiều vất vả, kiêu hãnh. Nếu đợi sự dễ dàng thì đã chả chọn lối đi (viết văn) này. Hãy viết như mẹ anh đã từng hát. Ngậm từng chữ, nhả từng câu, đau như lòng tằm và qúy phái như tấm lụa tơ tằm...".
- Cao Hạnh (1953-2017). Quê làng Linh Hải, xã Vĩnh Thủy, huyện Vĩnh Linh. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (2001).
Từ năm 1960-1973 học hết bậc phổ thông; rồi lao động ở Hợp tác xã. 1974-1977 học lớp đạo diễn trường trung cấp Lý luận nghiệp vụ Bộ Văn hóa. Cuối 1977-1989, cán bộ ở phòng Văn hóa thông tin huyện Bến Hải, giữ chức vụ Phó Giám đốc nhà Văn hóa thông tin, Giám đốc Trung tâm Văn hóa thông tin huyện. Năm 1989-1992 là Phó phòng VHTT kiêm Giám đốc Trung tâm Văn hóa thông tin huyện Vĩnh Linh. Từ năm 1993 chuyển công tác vào Đông Hà, lần lượt giữ các chức vụ: Phó phòng Nghiệp vụ Sở Văn hóa thông tin Quảng Trị từ năm 1993-1995. Phó Giám đốc Trung tâm văn hóa Quảng Trị từ năm 1995-1996. Phó Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt. Phó Chủ tịch Thường trực Hội VHNT Quảng Trị kiêm Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt từ năm 1997 đến lúc nghỉ hưu năm 2014.
Tác phẩm đã xuất bản: Bồ câu xám (truyện ngắn, 2008); Huyền thoại tình yêu (truyện ngắn, 2008); Vú cát (truyện ngắn, 2009); Giấc mơ màu cỏ (tập thơ, 2010).
Giải thưởng văn học: Giải nhất kịch ngắn toàn quốc năm 2005. Giải nhì cuộc thi truyện ngắn tạp chí Xứ Thanh. Giải thưởng Chế Lan Viên năm 2015 (Giải C, chuyên ngành Sân khấu).
Khởi nghiệp văn chương bằng sự đam mê, Cao Hạnh đã khẳng định mình trên nhiều lĩnh vực: sáng tác kịch bản sân khấu, đạo diễn sân khấu, viết truyện ngắn, làm thơ... Lĩnh vực nào Cao Hạnh cũng gặt hái được nhiều thành công, để lại những dấu ấn, những thành công đáng kể. Ở đâu cũng bắt gặp cái tình đời, tình người và sự xáo trộn những chuẩn mực xã hội trong nhiều trang viết của ông.
“Vú cát” là tập truyện ngắn được bạn đọc và bạn viết đánh giá cao, có thể xem là tác phẩm đỉnh cao của nhà văn Cao Hạnh (tập truyện ngắn lọt vào vòng chung khảo của giải thưởng Hội Nhà văn năm 2008). Phần lớn nhân vật trung tâm trong “Vú cát” là những phụ nữ bất hạnh, có cuộc sống khắc nghiệt, chứa đầy nghịch lý vừa thực vừa ảo. Đó là nỗi đau về thể xác và tinh thần của bà mẹ có hai đứa con ở hai chiến tuyến tạo nên tấn bi kịch đầy lòng trắc ẩn của người mẹ (Vú cát). Tương tự những câu văn đẹp, những chi tiết đắt, những dụng từ lạ và những tình huống bất ngờ làm người đọc giật mình, xót xa thay cho số phận những người phụ nữ trong Sự tích chùa Trinh nữ, Người đàn bà lội sương, Chiếc khăn che mặt… và nhiều truyện ngắn viết về thời hậu chiến như Năm cây hoa gạo, Người thắp hương trên cánh diều... thực sự ám ảnh người đọc.
Có người thích Cao Hạnh nhà thơ hơn nhà văn bởi ông có những câu thơ ghim vào lòng người đọc bằng những hình ảnh đẹp đến ngỡ ngàng:
Hàng ngày mặt trời bay lên
theo nhát cuốc của cha tôi
Những buổi sớm kéo bình minh vào đất
mẹ đi cấy khảm buồn vui vào nước
Bao xuân xanh rút xuống để nuôi đồng.
Hay:
Tôi con người xứ cỏ
Giấc mơ nào cũng xót quê hương...
Mai tôi chết hãy đưa tôi về đó
Để được gần bên mẹ cha tôi
Cho tôi xin làng nhát cỏ làng ơi...
Có lẽ cái khốn khó của đời sống trên mảnh đất gió Lào cát trắng đã tôi luyện nên những con người gồng mình lên để sống. Nhà văn chắt chiu từng con chữ để làm nên trang văn như cái cây trên cát cũng dốc mình xanh cho đời. Điều đó khiến chúng ta hiểu thêm về những nổ lực của nhà văn trong những tháng ngày ốm đau bệnh tật cuối đời vẫn dốc sức cho cuốn tiểu thuyết “Đôi bờ lau trắng”. Cuốn tiểu thuyết mà Cao Hạnh dồn tâm huyết của cả đời viết về chiến tranh cách mạng ngay tại quê nhà vẫn còn dang dở. Và những suy nghĩ về nghề hết sức khiêm tốn ghi trong Kỷ yếu Hội nhà văn Việt Nam: “Trước lúc làm văn tôi làm rất nhiều nghề. Những nghề đó càng làm tôi càng thấy mình có tài, riêng nghề văn càng làm tôi càng thấy mình Vô tài”.
- Văn Xương, sinh năm 1959. Tên khai sinh: Nguyễn Văn Bốn. Quê ở thôn Hiền Lương, xã Vĩnh Thành, huyện Vĩnh Linh. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (2008).
Tốt nghiệp bằng Cử nhân kinh tế. Nhiều năm công tác tại Văn phòng UBND tỉnh Quảng Trị, hiện đang giữ chức vụ Chánh Văn phòng. Hội viên hội Văn học Nghệ thuật Quảng Trị năm 1999. Có nhiều bài viết được đăng tải trên các Tạp chí Văn nghệ Quân đội, Cửa Việt, Non Nước, Nhật Lệ, Ninh Bình, Bắc Cạn và nhiều tác phẩm được các báo, tạp chí trung ương và địa phương đăng tải.
Tác phẩm đã xuất bản: Hoa gạo đỏ bên sông (tập truyện ngắn, 2006); Hồn trầm (tập truyện ngắn, 2008).
Giải thưởng văn học: Giải ba cuộc thi truyện ngắn Tạp chí Cửa Việt, năm 2004-2005. Giải B Văn học Nghệ thuật Quảng Trị 2006. Giải B Văn học nghệ thuật Quảng Trị 2009.
Văn Xương (Nguyễn Văn Bốn) là con người của công việc, không có nhiều thời gian đầu tư cho “nghiệp văn” nhưng rất nghiêm túc với nghề. Trong cuốn “Nhà văn Việt nam hiện đại” (NXB Hội Nhà văn, 2010) anh tâm sự về nghề văn như sau:
“Nghề văn là nghề mà người viết văn phải chấp nhận dấn thân trên con đường đầy chông gai, nghiệt ngã. Ở đó chất chứa biết bao niềm vui, nỗi buồn, thành công và thất bại. Là cuộc vật lộn, lao động miệt mài, nhiệt huyết, thực sự của trí não và thể xác. Nghề phải đọc, phải học, phải trau dồi, rèn luyện suốt đời; và phải luôn khát vọng vươn tới đích giá trị Chân - Thiện - Mỹ”.
Sự nghiệp văn chương của Văn Xương còn dài, tất cả có thể nói, đang còn ở phía trước.
- Phan Thị Vàng Anh, sinh năm 1968. Quê ở huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Hiện sống ở Tp. Hồ Chí Minh. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1996).
Là con gái nhà thơ Chế Lan Viên và nhà văn Vũ Thị Thường. Tốt nghiệp Đại học Y khoa thành phố Hồ Chí Minh năm 1993. Là cây bút mà ngay từ những tác phẩm đầu tay đã thể hiện một phong cách riêng, được bạn đọc hâm mộ. Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa VII (2005-2010), Trưởng ban Nhà văn trẻ, Trưởng Ban Nhà văn nữ.
Tác phẩm đã xuất bản: Khi người ta trẻ (tập truyện, 1993); Ở nhà (truyện vừa, 1994); Hội chợ (tập truyện, 1995); Nhân trường hợp chị thỏ bông (tản văn, 2004); Gửi VB (thơ, 2006).
Giải thưởng văn học: Tặng thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1994 cho tập truyện Khi người ta trẻ.
Phan Thị Vàng Anh từng là “hiện tượng” là cây bút nữ xuất sắc trên văn đàn cả nước khi còn rất trẻ. Vài năm trở lại đây ít thấy chị công bố tác phẩm nhưng sự nghiệp văn chương của chị có thể nói đang còn ở phía trước.
- Trần Thanh Hà, sinh năm 1971. Bút danh: Mai Hạ. Quê Vĩnh Linh, Quảng Trị. Hiện thường trú tại Tp. Hồ chí Minh. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1999).
Tốt nghiệp Đại học sư phạm Huế năm 1992. Dạy học. Thạc sĩ văn học. Biên tập viên NXB Công an nhân dân. Viết văn từ 1993.
Tác phẩm đã xuất bản: Gió của mùa sau (tập truyện ngắn); Ơi đò Ca Cút (tập truyện ngắn); Biển hồ lai láng (tập truyện ngắn); Mỏ hồ quyến rủ (tập truyện ngắn); Đường về thành phố (truyện ký).
Giải thưởng văn học: Giải A cuộc vận động sáng tác văn học cho tuổi trẻ của NXB Thanh Niên 1994-1996. Giải nhất cuộc thi truyện ngắn tạp chí Văn nghệ quân đội 1996. Giải ba cuộc thi tiểu thuyết và ký về đề tài “Vì bình yên cuộc sống” của Bộ Công an và Hội Nhà văn Việt Nam (1999- 2002); Giải C Giải thưởng văn học 10 năm lần thứ 2 (1995-2005) của Bộ Công an.
Trần Thanh Hà từng là “hiện tượng” nhà văn trẻ, cây bút nữ viết truyện ngắn xuất sắc trên văn đàn cả nước những năm 1995-2005 với nhiều giải thưởng danh giá. Mười năm trở lại đây, Trần Thanh Hà gần như “ở ẩn”, ít thấy chị công bố tác phẩm. Sự nghiệp văn chương của Trần Thanh Hà vì vậy có thể nói là còn dài, đang còn ở phía trước.
Sau năm 1975, Quảng Trị không còn sự chia cắt thì có chủ trương nhập tỉnh, hoà nhập vào tỉnh lớn Bình Trị Thiên của một nước Việt Nam cho đến năm 1989. Xét về yêu cầu xây dựng một đời sống văn học riêng của Quảng Trị thì đó là một điều bất lợi. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn có một đời sống văn học Quảng Trị khá phong phú trong đời sống văn học Bình Trị Thiên cũng như trong đời sống văn học chung của cả nước. Làm nên đời sống văn học Quảng Trị sau 1975, trước hết là những sáng tác của các tác giả quê hương Quảng Trị mà chủ yếu là thế hệ nhà văn xuất hiện và trưởng thành ở cuối thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Tiêu biểu cho thế hệ này là: Hoàng Phủ Ngọc Tường, Xuân Đức, Ngô Thảo, Lê Thị Mây, Tạ Nghi Lễ... Trong các nhà văn này có người sống và viết trên quê hương, nhưng cũng có người sống và công tác ở các địa bàn khác. Nét chung của thế hệ nhà văn này là họ có nhiều tài năng, năng lực sáng tạo. Đội ngũ tuy mỏng song các nhà văn này vẫn tạo ra được một bộ mặt văn học phong phú, đa dạng và hấp dẫn.
Đáng chú ý là sau ngày thành lập lại tỉnh, trong vòng một phần tư thế kỷ đất nước và quê nhà đổi mới đã hình thành nên một đội ngũ viết văn làm thơ đông đảo đang sinh sống trên địa bàn tỉnh và các vùng miền trên cả nước. Sáng tác của họ chiếm một phần quan trọng trên các tờ báo của tỉnh và trung ương có nội dung phản ánh trực tiếp nhiều mặt đời sống nhân dân Quảng Trị. Họ khá đông đảo, sung sức, trẻ. Nhiều gương mặt đã khẳng định được sở trường, tài năng. Thơ có khá nhiều gương mặt tiêu biểu như Phan Văn Quang, Võ văn Luyến, Hoài Quang Phương, Từ Dạ Thảo, Phan Bùi Bảo Thi, Trần Xuân An, Nguyễn Văn Dùng, Đức Tiên, Trần Đình Thành... và gần 20 tác giả thơ khác đã xuất bản từ hai đến ba tập thơ đang sinh hoạt trong Hội VHNT Quảng Trị. Chưa kể một số tác giả đã mất như Hồ Chư, Nguyễn Tiến Đạt, Hàn Nguyệt hoặc Nguyễn Hữu Quý chuyển ra Hà Nội... Về văn xuôi, mạnh nhất là đội ngũ viết ký, ký văn học lẫn ký báo chí. Những tác giả viết ký tiếp bước được các thế hệ đàn anh như Y Thi, Lê Đức Dục, Đào Tâm Thanh, Lâm Chí Công, Nguyễn Hoàn, Đinh Như Hoan, Lê Xuân Lãm, Nguyễn Bội Nhiên, Ngô Nguyên Phước, Lê Nguyên Hồng... Truyện ngắn có các tác giả tiêu biểu như Thái Đào, Hàn Vũ Hùng (đã mất), Hàn Nguyệt (đã mất), Phạm Xuân Hùng, Hoàng Hải Lâm, Hoàng Công Danh, Nguyễn Ngọc Chiến, Diệu Ái, Đặng Nguyên Sơn, Ngô Diệu Hằng... và nhiều tác giả truyện ngắn khác đang sinh hoạt trong hội Văn học nghệ thuật tỉnh. Họ là những gương mặt đã định hình hoặc mới xuất hiện, trong số họ đã có những người đạt đến mặt bằng chung của cả nước và hiện tại họ đang là lực lượng chủ chốt của văn học tỉnh nhà.
Như vậy, văn học Quảng Trị từ sau ngày đất nước đổi mới đang ở thời kỳ định hình và phát triển. Những thành công và những dấu hiệu khởi sắc cho phép chúng ta tin nó sẽ phát triển mạnh mẽ hơn nữa trong thời gian tới.
2.1- Lớp nhà văn trưởng thành từ thời chống Pháp
Sau cách mạng tháng tám, thực dân Pháp gây chiến hòng tiêu diệt nước cộng hòa non trẻ của ta và nhằm áp đặt trở lại chế độ thống trị thuộc địa. Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Quảng Trị cùng cả nước thực hiện cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Nằm trong địa bàn chiến trường Bình Trị Thiên khói lửa, cuộc kháng chiến của nhân dân Quảng Trị vô cùng gian khổ nhưng hết sức hào hùng được cả nước quan tâm, động viên cổ vũ. Chín năm kháng chiến chống Pháp ở Quảng Trị có chiến khu Ba Lòng, có cơ quan “Văn nghệ nguồn Hàn” là nơi tập hợp đông đảo văn nghệ sĩ địa phương và cả nước chi viện cho mặt trận Trị Thiên. Từ đây đã sản sinh ra nhiều nhà văn nhà thơ tên tuổi. Hiệp định Giơ ne vơ ký kết, đất nước chia cắt, con sông Hiền Lương - Bến Hải trở thành con sông tuyến, chiến trường Quảng Trị trở thành nơi đọ sức giữa hai thế lực cách mạng và phản cách mạng, là nơi hủy diệt tàn khốc nhất trong cuộc chống Mỹ cứu nước. Cả nước chia lửa, tăng cường lực lượng cho chiến trường Quảng Trị, trong đó có đông đảo các văn nghệ sĩ - chiến sĩ. Sáng tác của họ là một rừng hoa muôn sắc, từ văn học đến kịch bản sân khấu, điện ảnh, ca khúc... đạt đến đỉnh cao của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Trong bối cảnh chung đó, Quảng Trị có nhiều nhà văn, nhà thơ, văn nghệ sĩ tiêu biểu trưởng thành trong 2 cuộc kháng chiến vệ quốc thần thánh của dân tộc. Để giới thiệu một cách khái quát về đội ngũ và chân dung cụ thể của từng nhà văn nhà thơ đông đảo này người viết áp dụng một tiêu chí dung hòa, đó là ưu tiên hàng đầu các tác giả là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, kế đến là những tác giả đã định hình và nhất là lớp trẻ có triển vọng.
- Chế Lan Viên (1920-1989). Nhà thơ, nhà văn, nhà phê bình. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1957).
Tên thật Phan Ngọc Hoan, quê quán ở xã Cam Giang, Cam Lộ, Quảng Trị. Sinh trưởng trong một gia đình nghèo, năm bảy tuổi gia đình chuyển vào Bình Định, ông học tại Quy Nhơn. Tại đây ông sáng tác những bài thơ đầu tiên để gia nhập vào làng văn Việt Nam nên ông coi Bình Định như là quê hương thứ hai của mình. Học xong trung học ông đi dạy tư khắp các tỉnh miền trung và thành phố Huế. Năm 1937, lúc ông tròn 17 tuổi đang học năm thứ 3 trung học Quy Nhơn, Chế Lan Viên đã cho in tập thơ Điêu tàn. Ngay lập tức được công luận và người yêu thơ chú ý, sớm trở thành một trong những nhà thơ nổi tiếng của phong trào Thơ mới. Điêu tàn là một sự phủ định thực tại, quay về với thế giới ảo mộng, kỳ quái của những giấc mơ. Cùng với nhóm thơ Hàn Mạc Tử, Yến Lan, Quách Tấn, Chế Lan Viên đã nói lên sự bế tắc của mình trước cuộc sống thực tại. Năm 1939, ông ra học tại Hà Nội, sau vào Sài Gòn làm báo rồi lại về Xứ Thanh dạy học. Năm 1942, Chế Lan Viên cho ra tập Vàng sao, tiến một bước xa hơn vào thế giới siêu huyền bí, thể hiện sự bế tắc về nhân sinh và nghệ thuật thần bí, bi quan. Cách mạng tháng Tám thành công là bước ngoặt thức tỉnh và đổi đời cho nhiều nhà thơ nhà văn tiền chiến trong đó có Chế Lan Viên. Ông tham gia cách mạng tại Quy Nhơn rồi ra Huế cùng Hoài Thanh, Lưu Trọng Lư, Đào Duy Anh tham gia Đoàn xây dựng, cộng tác với báo Quyết thắng của Mặt trận Việt Minh Trung Bộ. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ông làm công tác báo chí ở liên khu IV lúc ở Thanh - Nghệ - Tĩnh lúc vào Bình - Trị - Thiên.
Trong chiến dịch Tà Cơn - Đường 9 Nam Lào, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 7 năm 1949). Có thể nói từ đây Chế Lan Viên thực sự trở về với cội nguồn dân tộc, đất nước, vứt bỏ mọi ảo tưởng siêu hình trước đây. Tập thơ Gửi các anh (1955) là những bài thơ sáng tác trong những năm kháng chiến chống Pháp thể hiện bước tìm tòi con đường nghệ thuật cách mạng của ông nhưng chưa thật ổn thỏa về tư tưởng. Phải đợi đến sau ngày hòa bình lập lại, trở về Hà Nội cho đến cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Chế Lan Viên cho ra đời bốn tập thơ Ánh sáng và phù sa (1960), Hoa ngày thường - Chim báo bão (1967), Những bài thơ đánh giặc (1972), Đối thoại mới (1973), những tác phẩm đánh dấu bước phát triển mới của ông trên hành trình thơ cách mạng. Đó là một chặng đường “phấn đấu của một tâm hồn để giữ gìn cái ánh sáng của tư tưởng Đảng: tinh thần lạc quan tự vượt mình để nghĩ đến mọi người” (Xuân Diệu).
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ ông từng tham gia trong ban lãnh đạo Hội Nhà văn Việt Nam (Ủy viên Thường vụ), nhiều lần là “đại sứ văn hóa” Việt Nam tham dự các diễn đàn văn hóa quốc tế ở Liên Xô, Ấn Độ, Pháp, Na Uy, Thụy Điển... Là đại biểu Quốc hội các khóa 4, 5, 6 và 7, Ủy viên Ban Thống nhất của Quốc hội khóa 4 và 5. Sau ngày đất nước thống nhất, ông về sống ở Tp. Hồ Chí Minh. Ở đây, tuổi cao sức yếu, ông vẫn chạy đua với thời gian để cho ra đời những tập thơ văn đích thực. Chế Lan Viên mất ngày 19-6-1989, sau một cơn đau nặng tại bệnh viện Thống nhất thành phố Hồ Chí Minh. Ba năm sau khi ông qua đời, tập Di cảo thơ I gồm hàng trăm bài thơ phần lớn chưa được công bố của ông ra mắt bạn đọc. Năm 1993, Di cảo thơ II tiếp tục được phát hành và là tác phẩm độc nhất được giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam vào năm 1994. Ông được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt 1 năm 1996. Giải A giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1995 (tập thơ Hoa trên đá)…
Tác phẩm chính:
Về thơ: Điêu tàn (1937), Gửi các anh (thơ, NXB Hội Nhà văn, 1955), Ánh sáng và phù sa (thơ, NXB Văn học, 1960), Hoa ngày thường - Chim báo bão thơ, NXB Văn học, 1967), Những bài thơ đánh giặc (thơ, NXB Thanh niên, 1972), Đối thoại mới (thơ, NXB Văn học, 1973), Ngày vĩ đại (thơ, NXB Thanh niên, 1976), Dải đất vùng trời (thơ, NXB Quảng Bình, 1976), Hát theo mùa (thơ, NXB Tác phẩm mới, 1986), Hoa trên đá (thơ, NXB Văn học, 1984), Ta gửi cho mình (thơ, NXB Tác phẩm mới, 1986), Di cảo I (thơ, NXB Thuận Hóa, 1992), Di cảo thơ II (thơ, NXB Thuận Hóa, 1993).
Thơ tuyển: Tuyển tập thơ Chế Lan Viên (Văn học, tập I, 1985), Tuyển tập thơ Chế Lan Viên (Văn học, tập II, 1990), Tuyển tập thơ chọn lọc (Nghĩa Bình), Nàng và tôi (Tuyển thơ tình, Văn học 1992), Thơ Chế Lan Viên (thơ tuyển Giáo dục, 1993).
Về văn xuôi: Vàng sao (1942), Thăm Trung Quốc (bút ký, NXB Văn học, 1963), Những ngày nổi giận (bút ký, NXB Văn học, 1966), Bác về quê ta (tập văn, NXB Nghệ An, 1972), Bay theo đường dân tộc (Văn nghệ, Giải phóng, 1976), Giờ của đô thành (bút ký, NXB Lao động, 1977), Nàng tiên trên mặt đất (NXB Kim Đồng, 1985).
Tiểu luận phê bình: Kinh nghiệm tổ chức sáng tác (Thép mới, 1952), Phê bình văn học (NXB Văn học, 1962), Suy nghĩ và bình luận (NXB Văn học, 1971), Nghĩ cạnh dòng thơ (NXB Văn học, 1981), Từ gác Khuê Văn các đến quán Trung Tân NXB Tác phẩm mới, 1981), Nói chuyện thơ văn (Chàng văn, NXB Văn học, 1960), Vào nghề (Chàng văn, NXB Văn học, 1962), Ngoại vi thơ (NXB Thuận Hóa, 1987). Nhận định về Chế Lan Viên, Hoài Thanh tác giả Thi nhân Việt Nam đã tiên lượng: “Quyển Điêu tàn đã đột ngột xuất hiện ra giữa làng thơ Việt Nam như một niềm kinh dị”. Điều đó không chỉ đúng và trúng đối với “Điêu tàn” mà đúng và trúng đối với toàn bộ tác phẩm của ông. Đã có hàng trăm đầu sách, luận văn thạc sĩ, tiến sĩ … tức hàng vạn trang sách của các nhà phê bình văn học trong và ngoài nước viết về ông và sẽ còn nhiều trang viết nữa. Tác phẩm của ông đề cập đến nhiều vấn đề, trên nhiều bình diện khác nhau, đặc biệt ở lĩnh vực nào ông cũng thành công. “Chế Lan Viên viết vì cái lớn, cũng viết vì những cái nhỏ, viết về Tổ quốc, chiến tranh, cách mạng, thời đại, cũng viết về tình yêu hoa cỏ, nỗi đau riêng. Anh viết thơ chính luận trường thiên ghi tạc tâm tình và biến thiên lịch sử cũng rất thành công trong thơ tuyệt cú…” (Mai Quốc Liên).
Chế Lan Viên là nhà văn hóa, nhà thơ lớn, là cây đại thụ trong làng thơ Việt Nam, vượt ra ngoài cái khuôn khổ chật hẹp của một địa phương như là Quảng Trị. Để ghi nhận công lao to lớn của ông, từ năm 2015 UBND tỉnh Quảng Trị đã chính thức lấy tên ông đặt tên cho một giải thưởng văn học nghệ thuật của tỉnh gọi là “Giải thưởng Chế Lan Viên”, năm năm trao thưởng một lần. Hiện tỉnh nhà cũng đang xúc tiến việc xây dựng Khu lăng mộ và nhà lưu niệm Chế Lan Viên trên quê nhà của ông.
- Hồng Chương (1921-1989), tên thật Trần Hồng Chương, quê ở làng Phương Sơn, xã triệu Sơn, huyện Triệu Phong. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1957). Sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo, thuở nhỏ ông học ở trường làng, sau vào học ở Huế. Năm 1937, Hồng Chương đã tham gia phong trào Dân chủ ở Huế, vào Đoàn Thanh niên Dân chủ, năm 1940 gia nhập Đoàn Thanh niên phản đế. Phụ trách báo Cứu quốc của Tỉnh ủy Quảng Trị năm 1940, xuất bản bí mật. Hai lần bị thực dân Pháp bắt giam. Lần thứ nhất bị bắt ở Huế (1939) và lần thứ hai đi đày ở nhà tù Buôn Ma Thuột (1941). Sau khi phát xít Nhật đảo chính Pháp năm 1945, ông thoát ngục về quê tham gia hoạt động chuẩn bị Tổng khởi nghĩa cướp chính quyền ở Quảng Trị. Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp chủ yếu ông làm công tác tuyên huấn thuộc Khu ủy Khu IV, tham gia Chi hội Văn nghệ Bình Trị Thiên.
Sau ngày hòa bình lập lại, ông ra Hà Nội công tác. Năm 1956 ông làm việc ở Ban biên tập tạp chí Học tập (nay là tạp chí Cộng sản), là Phó tổng và Tổng biên tập tạp chí Cộng sản và là Tổng thư ký Hội Nhà báo Việt Nam cho đến khi nghỉ hưu, mất tại Hà Nội.
Tác phẩm chính: Máu lửa đồng quê (tập thơ, 1948), Ngược đường số 9 (truyện, 1958), Một luồng gió mới (tiểu thuyết, 1959), Phương pháp sáng tác trong văn học nghệ thuật (lý luận phê bình, 1962), Văn nghệ cách mạng và cách mạng không ngừng (lý luận phê bình, 1959), Mấy vấn đề về lý luận và phê bình văn nghệ (lý luận phê bình, 1965), Mãi mãi đi theo đường lối văn nghệ của Chủ tịch Hồ Chí Minh (lý luận phê bình, 1971).
Trong những năm tháng tham gia cách mạng hoạt động bí mật, đặc biệt là thời kỳ bị tù đày tại các nhà lao Thừa Phủ, nhà tù Buôn Ma Thuột, ông sáng tác khá nhiều thơ. Các bài thơ như Cái đầu gối, Cục đường, Bão tố… phổ biến khá rộng rãi. Một số bài thơ có tiếng vang, trở nên quen thuộc với công chúng và đông đảo chiến sĩ cách mạng ở Khu IV vào những năm 1947 là bài Tráng sĩ hành sau đổi tên lại là Đội biệt động đường số 9. Bài thơ ca ngợi tinh thần dũng cảm chiến đấu của quân và dân vùng Chợ Cạn về sau được đặt tên cho tập thơ Máu lửa đồng quê. Về văn xuôi, bạn đọc quan tâm nhiều đến cuốn tiểu thuyết “Một luồng gió mới”. Ở đó, ông tập trung miêu tả phong trào cách mạng của quần chúng ngày càng dâng cao, và các hoạt động công khai hoặc bí mật của những người Cộng sản ở Huế trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ. Thành công nhất của Hồng Chương chủ yếu trên lĩnh vực lý luận phê bình. Nhiều tiểu luận của ông thể hiện một thái độ kiên định trên những vấn đề nguyên tắc và có tính chiến đấu sắc sảo khi đánh địch, đấu tranh với những luận điệu sai trái.
- Vĩnh Mai (1918-1981). Nhà thơ, bút danh khác: Búa Tạ. Tên thật Nguvễn Hoàng, quê làng An Tiêm, xã Triệu Thành, huyện Triệu Phong. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1957).
Thuở nhỏ, Vĩnh Mai học ở trường huyện, sau đó vào Huế học ở trường Phú Môn, đỗ bằng Thành chung. Ông là một thanh niên trí thức giàu lòng yêu nước, sớm giác ngộ cách mạnh. Từ năm 1936, ông đã tham gia hoạt động trong phong trào Thanh niên học sinh Dân chủ ở Huế. Năm 1939, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Từ tháng 9-1940, ông bị thực dân Pháp bắt giam tại nhà tù Buôn Ma Thuột cho đến tháng 3-1945. Sau khi ra tù, ông tham gia phong trào Mặt trận Việt Minh tỉnh Phú Yên, là Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Cách mạng Lâm thời huyện Tuy Hòa, Trưởng ty Thông tin Tuyên truyền tỉnh Phú Yên.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Vĩnh Mai đã từng kinh qua các chức vụ: Bí thư Thành ủy thành phố Huế (1946-1949); Phó bí thư Tỉnh ủy tỉnh Quảng Trị (1947-1949); Ủy viên Liên khu IV, phụ trách Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác, Liên khu IV từ 1949-1954. Từ 1955 là cán bộ Ban tuyên giáo, Ủy viên Ban Chấp hành Chi hội văn nghệ Liên khu IV. Từ năm 1955-1956 Chánh văn phòng của Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam. Từ 1956 trở đi là cán bộ biên tập tuần báo Văn nghệ, phụ trách tổ thơ của báo.
Tác phẩm chính: Khóc Hoài (thơ, 1946); Người dân quân xã (thơ, 1947), Tiếng hát hòa bình (thơ, 1954), Đôn và Thanh (truyện thơ, 1955), Lên đường (thơ, 1962), Tiếng hát (thơ, 1978), Đất đen và hoa thắm (thơ, 1982), Từ mùa xuân ấy (thơ, 1984); Chàng trai ấy (thơ tuyển, 1992).
Thơ của Vĩnh Mai chân thành, đôn hậu, cởi mở nhất là đối với những bài thơ viết về quê hương, bạn bè, đồng chí, lời thơ mộc mạc, nhưng xiết bao đau xót bởi đất nước và con người bị chiến tranh và kẻ thù tàn phá. Với tư cách là người cùng thời, nhạc sĩ Trần Hoàn có một nhận định chân phương và lý thú: “Thơ Vĩnh Mai không nhiều, nhưng đậm. Đậm một chất “chè Thái”, càng đắng càng ngọt, uống ít nhớ lâu, hương vị cứ bám mãi đầu lưỡi… Xuất hiện trước những nhà thơ khác lúc bấy giờ, với những kiểu cách bay bướm, mượt mà giàu âm điệu ví như những tấm lụa nhiều màu sắc óng ánh, thơ Vĩnh Mai như tấm áo vải ta, bền và dày, đậm đà trong màu nâu giản dị, thô ráp, nhưng lại hồn nhiên như một đóa hoa rừng...” (“Nhớ Vĩnh Mai”, Tuần báo Văn nghệ ngày 17-2-2001).
- Nguyễn Khắc Thứ (1921-1990), quê ở làng An Cư, xã Triệu Phước, huyện Triệu Phong. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1957). Nguyễn Khắc Thứ thuộc thế hệ những nhà văn thời chống Pháp, từng là cán bộ trong quân đội. Cũng như bao thanh niên trai tráng cùng lứa tuổi, ông hăm hở tham gia cách mạng từ khởi nghĩa tháng Tám 1945, khi học xong trung học được vài năm, được bổ sung làm trưởng hỏa xa miền Trung. Say mê văn chương từ thở học trò, ngay từ những ngày đó ông đã viết nhiều truyện ngắn, truyện dài và thơ nhưng chưa có dịp xuất bản hoặc đăng tải trên báo chí. Năm 1948, khi giặc Pháp càn quét đến quê ông, toàn bộ sách vở, trong đó có nhiều tác phẩm, truyện ngắn, thơ ca dưới dạng bản thảo đã bị đốt thành tro bụi.
Nguyễn Khắc Thứ là phóng viên quân đội ở mặt trận Bình Trị Thiên. Ngoài việc đi chiến dịch lấy tin tức, ông còn đảm nhiệm việc in ấn xuất bản tờ báo quân đội ở chiến trường Bình Trị Thiên khói lửa. Toàn bộ tâm huyết của nhà văn Nguyễn Khắc Thứ được ký thác và sẽ đọng lại lâu bền trong ký sự“Trận Thanh Hương”, ra đời năm 1955 nhưng đã được ấp ủ nhiều năm trước đó. Trận Thanh Hương đã đi vào lịch sử như một trận vận động chiến quan trọng ở chiến trường Bình Trị Thiên, không chỉ quân dân Bình Trị Thiên mà cả nước phấn chấn vì ta có thể đánh địch “giữa ban ngày”, mặt giáp mặt, súng đọ súng. Ta bắt hàng trăm tên tù binh giải đi thành hàng qua nhiều xóm làng để chuyển lên vùng chiến khu, khác với trước đó ta chỉ đánh những trận nhỏ có tính chất du kích thuộc chiến lược cầm cự. Với “Trận Thanh Hương”, tài năng và tên tuổi của Nguyễn Khắc Thứ đã được khẳng định, vượt ra khỏi Bình trị Thiên để đến với văn đàn cả nước.
Hòa bình lập lại, Đại đoàn 325 tập kết ra Bắc Đóng ở Quảng Bình. Vừa lúc Tổng cục Chính trị mở trại viết về anh hùng. Nguyễn Khắc Thứ được điều ra dự Trại trại sáng tác của Tổng cục Chính trị viết về các anh hùng quân đội. Tiểu thuyết “Đất chuyển” ra đời ở thời điểm này ít nhiều gây được tiếng vang.“Đất chuyển” kể lại một câu chuyện có thực, với những nhân vật có tình người và chiều sâu tâm hồn. Chỉ mấy tháng sau khi xuất bản, “Đất chuyển” được một nhà văn Trung Quốc dịch ra Hoa ngữ với tên gọi “Thổ địa hồi gia”; là một trong những tác phẩm văn học Việt Nam sớm được dịch ra tiếng nước ngoài. Dù vậy, trước sau Nguyễn Khắc Thứ vẫn là con người “phận mỏng cánh chuồn”, có thể nói là sự nghiệp văn chương giữa đường đứt gánh chỉ vì “yêu đương tiểu tư sản”.
Sau này nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh tiếc nuối: “Về Hà Nội là một dịp may. Lao được một ván cầu sang bến mà mở đường đi tiếp nữa. Oái ăm thay, với Nguyễn Khắc Thứ là nút thắt của một bi kịch. Bi kịch sau cùng của đời người”. Anh Trương Quang Đệ trong bài viết “Đôi chút kỷ niệm về nhà văn Nguyễn Khắc Thứ” đăng trên Văn nghệ cho biết, trong những năm tháng bị “Hạ phóng” xuống tham gia lao động ở một nông trường quân đội, rồi được điều về phụ trách kho sách của thư viện quân đội, Nguyễn Khắc Thứ đã hoàn thành một bộ truyện dài nhan đề “Khói lửa” vào giữa những năm 80. Tuy vậy ông vẫn chưa cho xuất bản, có lẽ ông cảm thấy có điều gì đó chưa ổn? Trước đó vào những năm 70, ông còn viết cuốn truyện dài lấy tên “Ngày cuối thu” nói về mối tình đầu của ông mà ông thương nhớ suốt đời. Nhưng đáng tiếc những tác phẩm đó chưa được xuất bản thì đã thất lạc đâu đó!.. Tác phẩm cuối cùng của Nguyễn Khắc Thứ là truyện ngắn “Hẹn hò”, ra mắt bạn đọc năm 1966 và sau đó người ta không thấy ông xuất hiện trên văn đàn nữa. Ngay cả những đồng nghiệp cùng thời và những người bạn chiến đấu vào sinh ra tử với ông cũng rất ít khi liên lạc được với ông kể từ sau ngày Hẹn hò ra đời.
Tác phẩm chính: Trận Thanh Hương (truyện ký, 1955), Đất chuyển (tiểu thuyết, 1958) và ba truyện: Bản án tử hình, Phá kho bom Tân Sơn Nhất, Hẹn hò (xuất bản, 1966).
Là người bạn thân từng được xem rất nhiều bản thảo của nhà văn Nguyễn Khắc Thứ, Trương Quang Đệ khẳng định: “... Có thể nói không ngoa rằng những gì sót lại chỉ là phần nổi của tảng băng khá lớn. Phần chìm của tảng băng có nguy cơ không bao giờ biết nữa...”.
- Lương An (1920-2004), tên khai sinh là Nguyễn Lương An, bút danh khác là Thạch nam, Nguyễn Lương Tài. Quê làng Tài Lương, xã Triệu Tài, huyện Triệu Phong. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1971).
Trước tháng Tám, học trường Quốc học Huế, tốt nghiệp Thành chung, sau đó học tiếp Ban tú tài. Cán bộ tiền khởi nghĩa hoạt động từ tháng 5 đến tháng 8 năm 1945 trong Thành bộ Việt Minh Huế; cán bộ tại ủy ban hành chính Trung bộ, ủy ban hành chính tỉnh Quảng Trị.
Từ 1949 trở đi hoạt động văn hóa - văn nghệ trong Tỉnh ủy, mặt trận Liên Việt tỉnh Quảng Trị, Liên khu IV, ban tuyên giáo Bình Trị Thiên cũ.
Tập kết ra Bắc, từ 1958-1972 làm Trưởng ban biên tập văn hóa văn nghệ báo Sinh hoạt văn hóa và báo Thống nhất (Hà Nội).
Năm 1973: Phó Trưởng ty Văn hóa Quảng Trị. Năm 1983: Ủy viên thường trực Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên. Năm 1984 nghỉ hưu và mất tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Tác phẩm đã xuất bản: Nắng Hiền Lương (tập thơ); Vè chống Pháp (tập nghiên cứu văn học dân gian Bình Trị Thiên); Thơ Tùng Thiện Vương Miên Thẩm (giới thiệu và nghiên cứu); Thơ Mai Am và Huệ Phố (tuyển chọn và dịch); Giọt máu chung (trường ca); Tuyển tập Lương An (2004).
Kể từ những sáng tác đầu tay đăng trên báo Tràng An (Huế) trước Cách mạng tháng Tám đến nay, nhà thơ Lương An đã hoạt động trên lãnh vực văn nghệ hơn 60 năm. Do tham gia cách mạng rất sớm, trong hơn nửa thế kỷ đó, ông phải làm nhiệm vụ quản lý, chỉ đạo phong trào văn hoá văn nghệ, thời gian dành cho việc nghiên cứu và sáng tác không bao nhiêu. Đông đảo bạn đọc thường nhớ đến ông với bài thơ Cô lái đò in trong nhiều Tuyển tập. Ông cũng khiêm tốn tự nhận rằng “tôi thấy bề dày về sáng tác và nghiên cứu của mình chẳng là bao” (Tự bạch trong cuốn “Nhà văn Việt Nam hiện đại). Bạn đọc ít biết đến ông một phần do ông rất cẩn trọng và cầu toàn trong việc công bố tác phẩm. Sự nghiệp sáng tác của ông tuy không dày dặn nhưng khá phong phú.
Đọc “Tuyển tập Lương An” do Nxb Thuận Hóa - Huế xuất bản năm 2004, ngoài tập thơ Nắng Hiền Lương đã xuất bản năm 1962, chúng ta còn được biết đến một Lương An rất tươi trẻ với những bài thơ viết trước cách mạng tháng Tám mà tác giả cũng chỉ nhớ được số ít bài. Nhiều bài thơ ông sáng tác từ năm 1962-1984 chưa có dịp công bố và truyện thơ Giọt máu chung dài hơn một nghìn câu viết về cuộc chiến đấu ở Tây nguyên. Một phần quan trọng trong tuyển tập là những bài nghiên cứu phê bình giới thiệu các tác phẩm, các danh nhân và các địa chỉ văn hoá phần lớn thuộc địa phận Quảng Trị và Thừa Thiên - Huế, cho thấy vốn hiểu biết sâu rộng và công phu thật đáng kính trọng của ông trong quá trình sưu tập tư liệu, dịch thuật và xây dựng tác phẩm.
Sự nghiệp của nhà thơ Lương An xứng đáng được bạn đọc vinh danh và Nhà nước truy tặng Giải thưởng cao quý.
- Lê Tri Kỷ (1924-1993). Tên khai sinh: Nguyễn Duy Hinh, quê ở làng Lưỡng Kim, xã Triệu An, huyện Triệu Phong. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.
Sau Cách mạng Tháng Tám, công tác ở ủy ban xã. Năm 1946 làm bí thư Thanh niên cứu quốc huyện Gio Linh. Nhiều năm công tác trong ngành công an ở các tỉnh và Trung ương. Đại tá Phó giám đốc NXB Công an nhân dân cho đến lúc nghỉ hưu.
Tác phẩm chính: Thủ phạm vụ án Ôn Như Hầu (ký sự, 1960); Cây đa xanh (truyện, 1961); Phố vắng (tập truyện ký,1965); Một người không nổi tiếng (truyện ký, 1970); Đất lạ (kịch bản điện ảnh, 1971); Biển động ngày hè (kịch bản sân khấu, 1976); Những tiếng nói thầm (truyện ký, 1978); Thung lũng không tên (kịch bản điện ảnh, 1971); Sống chìm (tập truyện ngắn, 1984); Câu lạc bộ chính khách (tiểu thuyết 2 tập, 1986); Không thiện không ác (tập truyện 1988); Cuộc tình thế kỷ (tập truyện 1992, tái bản 1994); Truyện ngắn Lê Tri Kỷ (tuyển tập, 1995)…
Giải thưởng văn học: Giải A của Hội đồng văn học về chiến tranh cách mạng và lực lượng vũ trang Hội Nhà văn Việt Nam 1994, tập truyện Cuộc tình thế kỷ. Giải A của Bộ Nôi vụ và Hội Nhà văn Việt Nam 1995, tập truyện Không thiện không ác.
Nhiều năm công tác trong ngành công an nên các trang văn của ông đầy ắp các sự kiện xảy ra trong ngành an ninh, công an với một giọng văn súc tích, nội dung cuốn hút được đông đảo công chúng mến mộ. Khi trao giải thưởng văn học của Bộ Nội vụ cho ông, Ban Tổ chức sáng tác của Hội Nhà văn Việt Nam đã có những đánh giá xác đáng: “... Nhà văn Lê Tri Kỷ chủ yếu viết về ngành công an bằng nhiều thể loại, nhưng thành công hơn cả là thể truyện ngắn... Truyện của ông vừa gợi được sự sáng suốt trong lý trí, vừa tạo được sự rung động đầy tính nhân văn thiết tha hướng thiện. Chiến sĩ công an trước hết cũng là con người, cũng đau đớn, buồn vui, hờn giận yêu ghét như mọi người, khiến ta cảm thông và gần gũi...”.
- Dương Tường (1926-1953). Nhà thơ, quê làng Cương Gián, xã Trung Giang, huyện Gio Linh. Hội viên Hội Văn nghệ Việt Nam năm 1952.
Nhà thơ Dương Tường tham gia cách mạng lúc 18 tuổi. Cách mạng tháng Tám bùng nổ, ông rời nhà trường, tham gia công tác vận động thanh niên. Ngày quân Pháp kéo ra Quảng Trị, ông lên chiến khu Ba Lòng làm các bộ Tỉnh đoàn thanh niên cứu quốc. Năm 1948, ông được cử đi dự lớp văn hoá kháng chiến Liên khu IV, học xong trở về công tác ở tỉnh nhà. Tháng 3-1949 nhóm Văn nghệ Nguồn Hàn (tổ chức đầu tiên của văn nghệ sĩ tỉnh Quảng Trị) thành lập, ông được cử vào ban phụ trách. Năm 1951, khi nhóm chuyển thành Phân hội Văn nghệ tỉnh Quảng Trị, ông được bầu làm Phân hội trưởng. Năm 1952, ông được kết nạp vào Hội văn nghệ Việt Nam, chuyển công tác về Ty Tuyên truyền và văn nghệ tỉnh kiêm Biên tập viên báo Tháng Tám cơ quan của Mặt trận Liên Việt. Ngày 24.6.1953, trên đường công tác ông đã hy sinh năm 26 tuổi, giữa lúc tư tưởng và tình cảm đang ở độ phát triển, thơ anh đang ở đà chín, giữ lúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đang tiến gần đến thắng lợi mở ra chân trời rộng lớn cho thơ ca. Anh được Nhà nước suy tôn liệt sĩ nhưng đã bỏ dở một sự nghiệp thơ ca đang tràn đầy hứa hẹn.
Đọc lại thơ những sáng tác trong vòng năm năm (từ 1948-1953) với khoảng 30 bài thơ cho thấy Dương Tường là một “hiện tượng thơ”, một tài năng thơ phát lộ rất sớm trong nhóm văn nghệ Nguồn Hàn. Nhà thơ sớm biết chắt lọc chất thơ từ mọi mặt sinh hoạt, chiến đấu và sản xuất của nhân dân để làm giàu nội dung thơ mình. Cái chất tươi mát, trữ tình, cách thể hiện mới mẻ, gia công tìm tòi và chọn lọc hình tượng, tìm ý và lời sáng tạo, tránh đường mòn trong thể hiện là phong cách, là những đóng góp nổi bật của Dương Tường vốn không có nhiều trong khuynh hướng “đại chúng hoá” của thơ Khu IV lúc bấy giờ. Những bài như “Vá lưới”, “Cây bí dân quân”, “Về làng”, “Tiếng cây dương Mỹ Thủy”, “Ai hay chừ tết anh về”… là những bài thơ thuộc nằm lòng của quân dân khu IV và người dân Quảng Trị cho đến tận bây giờ. Điều đó chứng tỏ thơ Dương Tường vẫn sống, có những bước đi buổi đầu nhưng vững chắc, đóng góp không nhỏ vào sự hình thành của thơ ca Bình Trị Thiên và Khu IV thời chống Pháp.
Khi mất, một số rất ít bài thơ của Dương Tường đã được đưa vào Tuyển thơ của Hội nhà văn Việt Nam. Chỉ tiếc một điều là chiến tranh, ly tán, đất nước vừa thống nhất thì nhập, tách tỉnh. Không ai, không một tổ chức nào kịp đứng ra sưu tầm một cách đầy đủ tác phẩm của nhà thơ từng “vang bóng” mà “yểu mệnh”, trong khi những bạn thơ văn của ông trong nhóm Văn nghệ Nguồn Hàn như Trường Sinh (Lê Chưởng), Hồng Chương, Vĩnh Mai, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Lê Tri Kỷ… chẳng còn ai ở lại trên đời để có cơ may sưu tầm, hiệu đính, xuất bản cho Dương Tường tập thơ lưu lại hậu thế.
- Phan Quang, sinh năm 1928, quê làng Thượng Xá, xã Hải Thượng, huyện Hải Lăng. Tên khai sinh: Phan Quang Diêu. Bút danh khác: Hoàng Tùng, Vị Hoàng, Yên Thanh, Hoàng Xá. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1980).
Nhà văn Phan Quang tham gia cách mạng từ tháng 7 năm 1945. Làm báo chuyên nghiệp từ năm 1948. Từng làm phóng viên báo Cứu quốc, Ủy viên Ban biên tập báo Nhân dân 1976-7982. Vụ trưởng Vụ báo chí 1982- 1987, Tổng biên tập tạp chí Người làm báo 1985-1987, Thứ trưởng Thông tin 1987-1988, Tổng giám đốc, Tổng biên tập Đài tiếng nói Việt Nam 1989- 2000. Đại biểu Quốc hội, Phó chủ nhiệm Ủy ban đối ngoại của Quốc hội nhiệm kỳ VIII, IX và X (1987-2002).
Tác phẩm chính: Đất rừng (truyện, 1955); Hẹn cưới (truyện, 1956); Mùa xuân (truyện, 1956); Đất nước một dải (ký, 1975); Lâm Đồng - Đà Lạt (ký, 1978); Hạt lúa bông hoa (ký, 1978); Đồng bằng sông Cửu Long (ký, 1981); Một mình giữa đại dương (truyện, 1984); Chinh Phục Himalaya (truyện, 1978); Người và đất (ký, 1988); Theo dòng thời cuộc (tiểu luận, 1995); Quê hương (ký, 2000); Về diện mạo báo chí Việt Nam (tiểu luận, 2001); Thơ thẩn Paris (ký, 2002); Những người tôi quý mến (chân dung, 2002); Phác thảo chân dung (2004); Bên mộ vua Tần (ký, 2004); Tuyển tập Phan Quang (ba tập, NXB Văn học, 1999); Quê hương (tập ký, NXB Trẻ, 2000). Ngoài ra còn nhiều tập in chung.
Về dịch thuật: Hoa lạ (truyện ngắn các nước Á Phi, NXB Thanh Niên, 1957); Hội chợ bán người (tập truyện ngắn các nước Á Phi, 1961); Những ngôi sao ban ngày (tập ký Nga, NXB Văn học, 1963); Nghìn lẻ một đêm (bốn tập, NXB Văn học, 1981-1982, tái bản nhiều lần); Trở lại với đời (tiểu thuyết Bỉ, NXB Tác phẩm mới, 1985); Mười hai sử thi huyền thoại (2004); Trà thư (2009)…
Trong lời tự bạch, ông tâm sự rằng “Ước mơ thời trai trẻ của tôi là làm văn học, song tổ chức phân công làm báo và thỉnh thoảng lại bước sang vườn văn”. Và rồi ông nhận ra rằng, báo chí và văn học là hai anh em sinh ra từ một mẹ ngôn từ. Báo hay văn đều lấy ngôn tự làm gốc… Nội dung và phương thức diễn đạt dù khác nhau, nhưng sự nghiệp một đời người chung quy thể hiện cùng một nhân cách. Là lời tự bạch nhưng đó cũng là bút pháp và văn phong của Phan Quang.
“... Ngòi bút của Phan Quang đã mở ra được dòng bút ký vừa giàu chất hiện thực vừa trữ tình gợi giữa hai bờ báo chí và văn học... Phan Quang luôn biết dựa vào kiến thức dân gian bù đắp với kiến thức sách vở. Và cuối cùng là sự quan sát trực tiếp, tự mình đánh giá và rút ra những nhận xét.” (Hà Minh Đức, Lời giới thiệu“Tuyển tập Phan Quang”). Nhà văn Ngô Thảo cũng có nhận xét: “Những bút ký ở tập I Tuyển tập như một chuyên luận khám phá về địa lý - lịch sử - tài nguyên - con người ở những vùng đất tác giả có dịp khảo sát trong nhiều thời kỳ khác nhau...”. Lê Phú Khải chỉ ra những yếu tố làm trang văn của Phan Quang sống động, cuốn hút người đọc: “Điều thú vị nhất là ta tái hiện được trong đầu mình hình ảnh của đất nước quê hương Bình Trị Thiên khói lửa, áo vá, cơm khoai mà dốc lòng đánh giặc từ những ngày đầu đánh Pháp. Đó là những con người chân đất, những con người Việt Nam bình thường, nhưng dám làm những việc phi thường, đứng lên đánh bại những đế quốc sừng sỏ nhất loài người. Nhà báo Phan Quang mà sự nghiệp báo chí của ông đậm đà chất văn, ông là một nhà báo có tầm cỡ, được người cùng nghề đánh giá cao và còn là một nhà văn nhạy bén, một thư ký của đời, ghi chép, sáng tạo điển hình đẹp về con người của thời đại Hồ Chí Minh” (Đọc Tuyển tập Phan Quang).
Về phương diện chứng nhân, là thư ký thời đại - thế mạnh của nhà báo, nhà văn Phan Quang, Chế Lan Viên đúc kết: “Bốn mươi năm làm báo. Phan Quang chịu khó bỏ sức, bỏ công, như thế sách của Phan Quang như là một tập sử biên niên...”.
- Hồ Sĩ Vịnh. Nhà lý luận phê bình văn học. Bút danh khác: Hiếu Giang, Đông Thanh. Sinh năm 1933, quê làng Nghĩa An, Phường Đông Thanh, Tp. Đông Hà. Hội viên Hội nhà văn Việt Nam (1990). Năm 1947-1950: quân báo viên tại huyện đội Gio Linh (Quảng Trị). Từ năm 1953-1955: học trung học phổ thông tại Quảng Trị và Hà Tĩnh. Năm 1956-1959: học Đại học Tổng hợp Hà Nội. 1959-1963: Nghiên cứu sinh tại Đại học Tổng hợp Lômônôxốp (Matxcơva); 1963-1971: Nghiên cứu viên Viện Văn học; 1972-1984: Cán bộ Nghiên cứu sinh tại Đại học Lômônôxốp, bảo vệ Tiến sĩ Ngữ văn (1985); 1990: Nghiên cứu viên cao cấp; 1990-1991 Thực tập sinh cao cấp tại Liên bang Nga; 1986-1996: Tổng biên tập tạp chí Văn hóa nghệ thuật; 2000-2006: Tổng biên tập tạp chí Văn hiến Việt Nam; 2002- đến nay: Viện trưởng Viện giáo dục hướng nghiệp Đông Nam Á (tổ chức phi chính phủ). Viện sĩ Viện Hàn lâm nghệ thuật phương Đông (Matxcơva, 2002)…
Tác phẩm chính: A.Puxkin (bút ký, chân dung, 1983); V.I. Lênin và sự hình thành người nghệ sĩ kiểu mới (1985); M. Gorki về văn nghệ dân gian (1986); Nghệ thuật và phong tục mùa xuân (chủ biên, 1987); Tư duy mới và phẩm chất văn nghệ sĩ (1989); Sự hình thành người nghệ sĩ kiểu mới trong văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa (tiếng Nga, 1985); Tìm về bản sắc dân tộc trong văn hóa (chủ biên, 1993); Văn hóa, văn học - Một hướng tiếp cận (1998); Văn hóa Việt Nam trong tiến trình đổi mới (1999).
Hồ Sĩ Vịnh đã đi qua một chặng đường học thuật 35 năm, với những thành tựu khá rực rỡ được giới lý luận phê bình và công chúng văn học ghi nhận. Đúng như Hồ Tôn Trinh nhận định: “Hồ Sĩ Vịnh là nhà nghiên cứu lâu năm, có những hiểu biết rộng, thường xuyên bám sát thực tiễn đời sống và thực tiễn vận động của văn hóa ở trong nước và ở nước ngoài. Anh đã vận dụng khá sắc sảo nhiều luận điểm của chủ nghĩa Mác để xử lý những vấn đề do anh chủ động nêu ra, xuất phát từ nhu cầu đời sống xã hội và nhu cầu học thuật.” (Lời giới thiệu tập sách Văn hóa, văn học - Một hướng tiếp cận).
Ngoài lý luận văn học, Viện sĩ Hồ Sĩ Vịnh còn có những đóng góp tích cực khác trong các chuyên luận chuyên sâu về văn hóa rất đáng được ghi nhận như bản sắc dân tộc trong văn hóa, nhất là văn hóa Việt Nam trong tiến trình đổi mới và hội nhập.
- Trần Công Tấn (1933), các bút danh khác: Tân Sắc, Trần Diệu Phong, Xombuon, Vanatha. Quê làng Thượng Trạch, xã Triệu Sơn, huyện Triệu Phong. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1969).
Sau Cách mạng tháng Tám thành công, Trần Công Tấn nhập ngũ. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, ông chiến đấu ở chiến trường Bình Trị Thiên và chiến trường Lào. Nhiều năm là lính trinh sát, tình báo và chỉ huy chiến đấu. Về sau ông làm công tác tuyên huấn, phụ trách công tác điện ảnh, chiếu bóng. Cùng với đơn vị ông có một thời gian dài là quân tình nguyện chiến đấu ở Lào và Campuchia. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ông hoạt động ở Hội văn nghệ Quảng Bình, trải qua những năm tháng đầy hy sinh gian khổ với các đơn vị vũ trang Quảng Bình và đất thép Vĩnh Linh rồi vào hoạt động ở chiến trường Bình Trị Thiên. Sau ngày đất nước thống nhất 1975, ông công tác ở Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên - Huế. Năm 1980, ông về công tác ở Tổng Cục Cao su, làm Tổng biên tập báo Cao su, rồi Vụ trưởng Vụ văn thể. Gần đây ông là phóng viên báo Đại đoàn kết thuộc ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Tác phẩm chính: “Con ngựa của tôi” (tác phẩm đầu tay in trên báo Quân đội địa phương năm 1948, NXB Kim Đồng in lại năm 1985, và NXB Văn học tái bản năm 1972); Thần voi và voi thần (tập truyện ngắn, 1958); Cô pháo thủ (truyện ký, 1966); Đường ra biển rộng (truyện ký, 1967); Tiếng nói dưới dòng sông (truyện ký, 1968); Dòng suối mát (tập truyện ngắn, bút ký, 1969); Chớp biển (truyện ký, 1970); Những bông cỏ mặt trời (truyện phim, 1971); Chỗ gặp nhau (tập truyện ngắn, 1972); Suối trong rừng (tiểu thuyết, 1980); Đa Ra nơi đâu (tiểu thuyết, 1980); Hoa Lục bình trôi (tập truyện ngắn, 1982); Mối tình tan vỡ (1988); Hoàng thân Souphanouvong và đất nước Triệu Voi (dịch thuật, truyện ngắn, bút ký, 1985); Thương thương (tiểu thuyết, 1997); Ba đời chồng (tập truyện ngắn, NXB Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh, 2002).
Giải thưởng văn học: Giải chính thức “Kỷ niệm sâu sắc trong đời bộ đội” do Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam trao cho tác phẩm “Thần voi và voi thần”; Giải tạp chí Văn nghệ Quân đội cho tác phẩm “Họp tổ Đảng”; Tặng thưởng của Hội phụ nữ Việt Nam và Hội Nhà văn Việt Nam cho tác phẩm “Những người thay áo cho rừng”; Giải thưởng của Tổng cục Lâm nghiệp và Hội Nhà văn Việt Nam cho tác phẩm “Chỗ gặp nhau”; Giải thưởng của báo Văn nghệ Giải phóng cho tác phẩm “Tàu ta kéo còi qua sông Bến Hải”; Giải thưởng về đề tài 27 tháng 7 năm 1973 của Hội Nhà văn và Bộ Nội vụ.
Trần Công Tấn viết văn khá sớm. Lý giải việc trở thành nhà văn, Trần Công Tấn cho rằng chính là nhờ cuộc sống ở chiến trường và quân đội: “Những người yêu thương, đùm bọc cùng đồng cam cộng khổ với tôi là đồng đội, là nhân dân, chủ yếu là các mẹ, các chị khắp trên ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia.
Bởi vậy những trang viết của tôi đều thuộc về đề tài phụ nữ và người lính...”. Song ông cũng đánh giá rằng những gì “ông đã viết ra hãy còn vô cùng nhỏ nhoi so với sự tích anh hùng của quân dân ta”. Và tự dằn vặt bởi chưa hoàn thành trách nhiệm, thiên chức của người cầm bút: “Cuộc đời cầm bút còn lại của tôi là sự day dứt, trăn trở luôn canh cánh bên lòng về món nợ đối với đồng đội, với nhân dân mà mình chưa trả xong”...
- Vân Thảo, tên thật Phạm Thảo Nguyên, sinh năm 1936 tại thị xã Quảng Trị. Quê gốc xã Triệu Long, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Hiện nay sống ở Hà Nội. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1997). Từ năm 1953, Vân Thảo đã tham gia bộ đội. Năm 1954, ông tập kết ra Bắc. Từ năm 1957 đến 1967 là diễn viên thanh nhạc đoàn nghệ thuật Tổng cục Chính trị, sau chuyển sang làm trợ lý âm nhạc Phòng Văn nghệ Quân đội, Cục Tuyên huấn. Từ năm 1973 là trợ lý Văn nghệ Binh chủng Đặc công. Năm 1990, nghỉ hưu mang quân hàm Trung tá.
Tác phẩm chính: Những người báo bão (tiểu thuyết, 1983); Đêm màu tím (tiểu thuyết, 1987); Dòng xoáy cuộc đời (tiểu thuyết, 1990); Mưa trái mùa (tiểu thuyết, 1991); Những chiến sĩ thầm lặng (kịch bản phim, 1984); Huyền thoại mẹ (kịch bản phim, 1996); Ngọn sóng đầu đời (kịch bản phim, 1996); Hào quang đám mây (truyện ngắn, 2000).
Giải thưởng văn học: Giải Ba cuộc thi truyện ngắn do báo Văn nghệ tổ chức năm 1979-1980 với truyện ngắn “Chiến sĩ của mình”.
Nhà văn Vân Thảo tâm sự về nghề: ‘Tôi yêu văn học và tập cầm bút khá sớm. Nhưng thành công thì lại khá muộn mằn. Thuở còn đi học tôi mê đọc sách nhiều khi quên cả ăn và làm bài tập. Tập kết ra Bắc hết làm nhiệm vụ chống cưỡng ép di cư ở các vùng công giáo, lại tham gia chống đói, chống hạn, sửa sai cải cách ruộng đất và huấn luyện quân sự... Cuộc sống đa dạng cộng với các cuộc thi “Viết về đời sống bộ đội trong thời bình”, “Kỷ niệm sâu sắc trong đời bộ đội” thúc giục tôi cầm bút sáng tác. Truyện viết xong tôi gửi cho tạp chí Văn nghệ Quân đội, tuần báo Thống nhất... nhưng chẳng có cái nào được đăng. Cuộc chiến đấu chống Mỹ tôi lại đi, lại ghi chép và viết rồi gửi đi cũng cùng số phận với những truyện tôi viết ở giai đoạn 1956 và đầu những năm 1960. Truyện gửi đi rồi tôi khắc khoải chờ đợi. Thỉnh thoảng nhận được hồi âm bằng lá thư kèm theo lời nhận xét: Đề tài cũ, viết còn sơ lược... Tuy không được in nhưng những lá thư đó đã trở thành niềm phấn khích giúp tôi kiên nhẫn thực hiện ước mơ cầm bút của mình. Thành bại của người cầm bút có lẽ là chuyện bình thường. Miễn sao cái tâm của mình đừng thay đổi. Tôi thường nghĩ văn là người, nhưng văn cũng là đạo. Tài năng có thể khác nhau nhưng đạo cầm bút chỉ có một. Đạo bộc lộ qua tâm. Tâm hiện lên trong tác phẩm. Tâm thế nào thì tác phẩm hiện ra thế ấy”. Và còn nguyên món nợ: "Tôi còn món nợ lớn đối với đồng đội của mình là chưa viết được cái gì ra hồn về niềm vui, nỗi buồn của họ. Vậy mà hình như có xu hướng khai thác cái bi của chiến tranh và người lính hơn là nét đẹp của họ. Người ta đang sợ "tô hồng" hơn là "bôi đen". Nợ của những người cầm bút đối với sự hy sinh của người lính chưa trả được bao nhiêu mà quay ngoắt lại phủ nhận sự hy sinh đó. Coi sự hy sinh của họ như một sự cuồng tín mê muội, làm cho món nợ ấy chỉ có nặng thêm lên. Tôi nghĩ rằng đạo lý của người cầm bút viết về chiến tranh và người lính lúc này cần hơn lúc nào hết... ”.
Văn học kháng chiến ở Quảng Trị giai đoạn 1945-1975 là một di sản hết sức quý báu. Trước hết nó phản ánh khá trung thực bộ mặt tinh thần của nhân dân Quảng Trị trong hai cuộc kháng chiến. Mặt khác, nó góp phần tạo nên sức sống của một nền văn học mới của nhân dân, với sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Kháng chiến chống Pháp thắng lợi, hòa bình được lập lại nhưng đất nước bị phân đôi. Trong gần mười năm (1955-1964), ở các tỉnh khác trên hai miền tạm thời có hòa bình thì ngược lại ở Quảng Trị, đặc biệt là vùng giới tuyến luôn luôn là mảnh đất nóng bỏng, nơi diễn ra từng giờ, từng phút cuộc đụng đầu giữa dân tộc Việt Nam và chủ nghĩa thực dân mới. Mười năm tiếp theo (1965-1975) cả nước tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thì Quảng Trị trở thành chiến trường ác liệt nhất. Do đặc điểm tình hình như vậy mà trong thời gian từ 1955-1975, Quảng Trị không hình thành một đời sống văn học với tư cách là một bộ phận riêng trong đời sống văn học chung của cả nước như thời kháng chiến chống Pháp. Sau năm 1954, một vấn đề nóng bỏng đối với cả nước nói chung và nhân dân Quảng Trị nói riêng là vấn đề đấu tranh thống nhất nước nhà. Nó trở thành một chủ đề lớn của văn học, thu hút nhiều nhà văn, nhà thơ của cả nước viết về chiến tranh và cách mạng ở chiến trường Quảng Trị nói chung và vùng giới tuyến nói riêng.
Về văn xuôi, đặc biệt là thể loại ký với đặc trưng phản ánh kịp thời, giàu chất liệu cuộc sống, được công chúng đón nhận một cách thích thú. Có lẽ nhà văn Nguyễn Tuân là người đã quan tâm và thành công nhất khi viết về con sông tuyến. Từ sau 1954 cho tới khi nổ ra cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ nhiều lần ông rời Hà Nội để vào thăm con sông Bến Hải. Kết qủa là ông có nhiều bút ký xuất sắc như: “Cắm cột mốc biên giới”, “Cầu ma”, “Đò tuyến”, “Giữa chiến tranh và hoà bình là một bãi biển Cửa Tùng”... Nhiều nhà văn từng gắn bó với tuyến lửa Vĩnh Linh cũng đã để lại nhiều tác phẩm ký thuộc loại xuất sắc: “Họ sống và chiến đấu” của Nguyễn Khải, “Chúng tôi ở Cồn Cỏ”, “Dải đất hẹp” của Trần Lai Nam, đặc biệt là “Miền đất lửa” của Vũ Kỳ Lân và Nguyễn Sinh. Ký sự “Miền đất lửa” xuất hiện ít năm sau cuộc kháng chiến đã hoàn toàn thắng lợi nhưng nó nằm trong loạt ký viết về Cồn Cỏ, Vĩnh Linh được thai nghén chuẩn bị trước khi chiến tranh kết thúc.
Viết về Quảng Trị có lẽ thơ là thể loại phong phú nhất. Nhiều tác giả có thơ viết về Bến Hải, Cửa Tùng mà tiêu biểu là thơ của các nhà thơ nổi tiếng như Lưu Trọng Lư (Sóng vỗ Cửa Tùng), Tế Hanh (Nói chuyện với Hiền Lương), Hoàng Trung Thông (Cửa Tùng), Phan Xuân Hạt (Có những xóm làng), Nguyễn Bao (Nghe trong tiếng sóng)... Nổi bật về thơ ở Quảng Trị thời kỳ này là sáng tác của một số nhà thơ mà một phần đời sống và một phần đời thơ đã gắn bó máu thịt với quê hương Quảng Trị. Đó là những nhà thơ như Cảnh Trà với hai tập thơ “Nơi giáp mặt” và “Cành mận trắng”, Phạm Ngọc Cảnh với tập thơ “ Đêm Quảng Trị”... Những sáng tác nêu trên tập trung nói lên nỗi đau chia cắt đất nước, nỗi niềm mong nhớ của người dân đôi bờ, lòng căm giận kẻ thù độc ác và khẳng định niềm tin Tổ quốc nhất định thống nhất, Bắc Nam sum họp một nhà.
Từ năm 1965, khi toàn bộ mảnh đất Quảng Trị trở thành chiến trường nóng bỏng, thì các nhà văn, nhà thơ với sự nhạy cảm nghề nghiệp và trách nhiệm công dân của người cầm bút đã tìm thấy ở đây những vấn đề lớn của nhân dân, của dân tộc và thời đại. Nhiều cuốn tiểu thuyết có giá trị văn học cách mạng thời chống Mỹ được viết ra trên cơ sở khái quát hiện thực đời sống ở chiến trường Quảng Trị: “Dấu chân người lính” của Nguyễn Minh Châu viết về chiến trường Khe Sanh năm 1967. “Dưới đám mây màu cánh vạc” của Thu Bồn viết về đội du kích làng Mỹ Thuỷ và anh hùng Trần Thị Tâm. “Chiến sĩ” của Nguyễn Khải viết về chiến dịch đường 9 nam Lào năm 1971... Các nhà viết kịch cũng lấy đề tài từ hiện thực chiến đấu ở Quảng Trị mà thành công tiêu biểu là một số vở kịch của tác giả Đào Hồng Cẩm như “Đại đội trưởng của tôi”, “Tổ quốc”, “Tiếng hát”...
Trong thời kỳ 1955-1975, ngoài văn học cách mạng phát triển trên miền Bắc và các vùng giải phóng, còn có một bộ phận văn học khác phát triển tương đối mạnh mẽ ở các đô thị miền Nam. Trong bộ phận văn học này có nhiều khuynh hướng khác nhau. Loại trừ khuynh hướng nô dịch và chống cộng, còn tất cả các khuynh hướng khác đều nằm trong khuôn khổ nền văn học dân tộc. Làm nên chân dung bộ phận văn học này là sáng tác của nhiều thế hệ nhà văn. Và trong các thế hệ ấy có những người quê ở Quảng Trị và sáng tác của họ cũng là một phần làm nên diện mạo đời sống văn học tỉnh nhà. Một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu:
- Thích Nữ Thể Quán (1908-1983), quê ở làng Tri Lễ, xã Quy Thiện, huyện Hải Lăng. Tu sĩ Phật giáo. Sư bà Thể Quán là cây bút văn xuôi, nữ tính, giàu tình thương yêu cuộc sống và con người. Trước khi mất tại chùa Hồng Ân Tp. Huế, bà đã để lại cho đời nhiều tác phẩm có giá trị như “Bóng hạnh phúc”, “Thiên địa vạn hóa”, “Hai lần ơn mẹ”, “Nét đẹp Đông phương”, “Em mơ người hoang đảo”, “Hoàng Y Lan”, Để lại cho vui” và di cảo nhiều tác phẩm khác chưa xuất bản.
- Nguyễn Thị Hoàng, sinh năm 1939, quê ở làng Quảng Điền, xã Triệu Đại, huyện Triệu Phong.
Nữ sinh Đồng Khánh (Huế), vào Nha Trang học tiếp Trung học rồi Đại học Văn khoa Sài Gòn. Lên dạy học ở Đà Lạt chị mới viết văn, làm thơ, viết báo.
Tác phẩm của Nguyễn Thị Hoàng từng gây nhiều dư luận sôi nổi trước năm 1975: “Vòng tay học trò”, “Tuổi Sài Gòn”, “Ngày qua bóng tối”, “Thành lũy hư vô”. Sau gần 15 năm im lặng, năm 1980 chị xuất bản cùng lúc 2 tiểu thuyết mới: “Nhật ký của im lặng” và “Trầm tư mới của hoàng hôn”.
Nguyễn Thị Hoàng là hiện tượng văn học độc đáo ở các đô thị miền Nam trước ngày giải phóng. Đọc một số tác phẩm trước và sau ngày giải phóng, chúng ta có thể dễ dàng cảm nhận được một lối viết rất riêng của nhà văn này. Vận dụng khái niệm và lý thuyết của chủ nghĩa hiện sinh, phân tâm học, hiện tượng luận vào việc mô tả phân tích, nhà văn đã vẽ ra một số tâm trạng cá biệt với những ẩn ức, những ham muốn vô thức, những biểu hiện hư vô sống gấp, những nhân vật có cuộc sống mỏi mệt, tinh thần khủng hoảng, lúc thì nổi loạn siêu hình, lúc buông thả an phận. Tóm lại, đó là những con người vô tích sự, xa thực tiễn, phản ứng gay gắt với cuộc sống tù đọng, nhỏ hẹp và vô nghĩa. Nhân vật của Nguyễn Thị Hoàng là một sản phẩm của lối sống thác loạn ở các đô thị miền Nam vào những năm 60-70.
Có thể có nhiều người không thích thứ văn chương xa rời những vấn đề trung tâm của đời sống xã hội, những vấn đề lớn như chiến tranh, cách mạng, đời sống dân tộc... song về mặt bút pháp, cách tiếp cận những phương thức biểu hiện mới của văn học, chúng ta có thể thấy được những giá trị đáng kể trong tác phẩm của Nguyễn Thị Hoàng. Đó là sự cảm nhận trực giác, sự miêu tả trực tiếp ý thức, trộn lẫn thực và ảo, hay việc diễn tả thế giới tâm linh đầy bí ẩn của con người.
- Phan Phụng Thạch (1942-1973), tên thật: Phan Ngọc Thạch. Quê ở làng Đạo Đầu, xã Triệu Trung, huyện Triệu Phong.
Học tiểu học ở trường làng, hết bậc Trung học ở trường Nguyễn Hoàng thị xã Quảng Trị ông vào học trường Đại học Văn khoa Huế (Khoa Sử Địa). Tốt nghiệp trở về trường cũ Nguyễn Hoàng làm quản thủ thư viện và dạy môn Sử Địa. Tham gia hoạt động xã hội, từ thiện và viết báo, làm thơ từ thập kỷ 60.
Có nhiều thơ đăng trên các tạp chí Văn, Bách Khoa, Nghệ Thuật dưới bút danh Phan Phụng Thạch, Phan Thu Hạ... Tập thơ “Lưu bút mùa hạ” là tập thơ đầu tay của anh được Nhà sách Hạnh Nhơn xuất bản. Nhiều bài thơ hay trong tập còn đọng mãi trong lòng những người đương thời. Thơ Anh dịu dàng, đắn đót, bàng bạc, ray rứt bởi tình cảm thầy trò, quê hương trước sự tàn phá của chiến tranh ngày càng khốc liệt. “Trong nỗi lạc loài” là bài thơ mang âm hưởng chung của dòng thơ Phan Phụng Thạch: Quê mẹ đó làm sao con về được/ Bởi bây giờ bom đạn đã chia ngăn/ Ngày giỗ cha con ngậm ngùi phương lạ/ Những đau buồn trong ý nghĩ xa xăm.../ Người nằm xuống từ năm đầu kháng chiến/ Sao bây giờ đất nước vẫn tang thương/ Thôi, thưa mẹ, thắp giùm con ngọn nến/ Khấn hồn cha, tha thứ một thằng con/... Rồi một mai con theo cha nằm xuống/ Rất âm thầm và rất đổi cô đơn/ Đứa em nhỏ lớn lên cùng tiếng súng/ Sẽ nghĩ gì về cuộc chiến quê hương.
- Ngụy Ngữ, sinh năm 1947, quê tại làng Mỹ Chánh, xã Hải Chánh, huyện Hải Lăng.
Làm báo, viết văn ở miền Nam. Trước năm 1975 đăng nhiều trên các báo tiến bộ chống lại chế độ Sài Gòn như Đối diện, Vấn đề. Là cây bút văn xuôi trực diện chống chế độ cũ, được giới trí thức, sinh viên học sinh và bạn đọc yêu mến. Nhiều truyện ngắn của ông như “Con thú tật nguyền” được in trong Tuyển tập truyện ngắn yêu nước, tiến bộ ở miền Nam từ 1954 - 1975 có tên “Mùa chim én bay về” do NXB Cửu Long xuất bản năm 1986.
Sau giải phóng ông chuyển qua làm điện ảnh, công tác tại Xưởng phim Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh.
- Đỗ Tư Nghĩa, sinh năm 1948. Quê làng Quảng Điền, xã Triệu Đại, huyện Triệu Phong. Tốt nghiệp Cử nhân Triết, Đại học Văn khoa Huế, có thơ in rất sớm trên các báo tiến bộ ở miền Nam. Sau giải phóng tiếp tục dạy học và làm thơ ở Lâm Đồng...
- Triệu Phong (1942- ), tên khai sinh: Đặng Sĩ Tịnh, tên thường dùng: Đặng Triệu Phong. Quê ở làng Ái tử, xã Triệu Ái, Huyện Triệu Phong. Trước 1975 có thơ đăng trên các tờ báo tiến bộ miền Nam, có mặt trong “Tiếng hát những người đi tới”, tuyển tập thơ văn phong trào sinh viên học sinh đấu tranh chống Mỹ do NXB Trẻ xuất bản năm 1995. Sau giải phóng 1975, công tác tại Hội Văn học nghệ thuật Khánh Hòa. Tiếp tục sáng tác thơ, các phẩm đã xuất bản: “Khúc ru sợi khói” (in chung), “Giấc ngủ nửa vầng trăng” (tập thơ, NXB Hội Nhà văn 1994), “Qua vùng cỏ lau” (thơ, NXB Văn hóa dân tộc, 1999)...
Nguyễn Thị Hoàng và nhóm năm tác giả nêu trên có thể chưa đánh giá một cách đầy đủ cho một bộ phận quan trọng của văn học dân tộc (trong đó có một phần nhỏ của Quảng Trị) phát triển trong hai thập kỷ tại các đô thị miền Nam. Đó là một vấn đề đáng quan tâm khi chúng ta thực sự muốn dựng lại đầy đủ chân dung đời sống văn học trong một giai đoạn lịch sử đặc biệt của dân tộc - đất nước bị chia thành hai lãnh thổ có hai thể chế chính trị khác biệt nhau.
2.2- Lớp nhà văn trưởng thành thời chống Mỹ đến nay
Như đã nói, việc phân kỳ, chia ra các giai đoạn văn học chỉ có tính tương đối. Mười nhà văn, nhà thơ chúng tôi chọn lọc ở trên (giai đoạn 1945-1975) sau 1975 họ vẫn tiếp tục đóng góp thêm nhiều tác phẩm văn học có giá trị khác, song về cơ bản họ đã đạt tới đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của mình. Lớp nhà văn kế tiếp như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Xuân Đức, Ngô Thảo, Thy Sảnh, Châu La Việt… đều đã có tác phẩm, đã bắt đầu sự nghiệp của mình trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, nhưng đồng thời họ cũng là thế hệ “bắc cầu” sang giai đoạn sau năm 1975. Việc xếp họ vào giai đoạn sau năm 1975 cũng là xét ở cái mốc các tác giả này đã đạt tới đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của mỗi người. Nó mang tính ước lệ nhưng quan trọng hơn là tính kế thừa và phát triển liên tục trong dòng chảy văn học tỉnh nhà.
- Hoàng Phủ Ngọc Tường, sinh năm 1937, quê làng Bích Khê, xã Triệu Long, huyện Triệu Phong. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1978).
Năm 1960, tốt nghiệp Đại học Sư phạm Sài Gòn (khóa I), ban Việt Hán và Cử nhân triết học Đại học Văn khoa Huế. Từng là giáo viên dạy văn, siêu hình học trường Quốc học Huế. Từng "xuống đường" đấu tranh trong phong trào sinh viên, học sinh, giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập, thống nhất Tổ quốc, và “lên xanh” kháng chiến. Từng là Trưởng ty Văn hóa Thông tin tỉnh Quảng Trị (thời Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam), Tổng thư ký Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng Biên tập Tạp chí Cửa Việt.
Tác phẩm chính:
Hoàng Phủ Ngọc Tường xuất hiện trên văn đàn không sớm nhưng chưa phải là muộn. Có thể lấy tác phẩm đầu tay Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu, tập bút ký được Nxb Giải phóng xuất bản năm 1972 làm cái mốc khởi nghiệp. Năm ấy Hoàng Phủ Ngọc Tường tròn 35 tuổi. 35 năm qua, ông đã lần lượt trình làng 16 tác phẩm, trong đó có hai tập thơ: Những dấu chân qua thành phố (1976); Người hái phù dung (1995); ba tập nhàn đàm: Nhàn đàm (1977); Người ham chơi (1998); Miền gái đẹp (2001); mười một tập bút ký (bao gồm cả truyện ký và bút ký chính luận): Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu (1972); Rất nhiều ánh lửa (1979); Ai đã đặt tên cho dòng sông (1984); Bản di chúc của cỏ lau (1984); Hoa trái quanh tôi (1995); Huế - di tích và con người (1996); Ngọn núi ảo ảnh (2000); Trong mắt tôi (2001); Rượu hồng đào (2001); Trịnh Công Sơn - Cây đàn lya của Hoàng tử bé (2005); Miền cỏ thơm (2007); “Lời tạ từ một dòng sông (2015) và Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường (4 tập, 2002).
Giải thưởng văn học: Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 1980, tập ký Rất nhiều ánh lửa. Giải thưởng Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam năm 1999 với tập bút ký Ngọn núi ảo ảnh và năm 2007 với tập bút ký Miền cỏ thơm. Giải thưởng Văn học nghệ thuật Cố Đô (1999-2004) tập bút ký Ngọn núi ảo ảnh; giải thưởng Cố Đô lần IV (2005-2009) tác phẩm Miền cỏ thơm. Giải thưởng Chế Lan Viên lần I (2015- 2020) Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường. Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007. Ngần ấy tác phẩm xuất bản trong vòng ba mươi lăm năm, không nhiều nhưng cũng không phải là ít. Trong số không nhiều nhà văn đã dành gần như toàn bộ lao động nghệ thuật của mình cho thể ký, Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cây bút đặc sắc, có một phong cách viết bút ký văn học riêng hẵn của ông. Nhà văn tự bạch: “Tôi lớn lên trong một bối cảnh đặc biệt của lịch sử, ở đó mọi sự kiện đều mang sẵn một vẻ đẹp văn học. Vì thế tôi cho rằng văn xuôi phải đáp ứng một nhu cầu sinh đôi của thời đại: a- Nó phải là một sự kiện mang tính thẩm mỹ; b- Nó được bảo đảm là có thực trong thực tế cuộc sống; còn thực tế đến đâu thì đó là tùy tài năng vận dụng của người viết để tất cả thành nhất quán”. Điều đó đã khiến ông chọn “bút ký là thể loại văn xuôi tiêu biểu; dần dần nó trở thành duy nhất và không thể thay thế được”. Mới đây, khi ra mắt tập bút ký Lời tạ từ một dòng sông (Nxb Trẻ, 2015) Hoàng Phủ Ngọc Tường chính thức gửi thông điệp của chính tác giả, rằng đây là tập sách cuối cùng, nhà văn sẽ không còn viết nữa sau 20 tập bút ký và thơ xuyên suốt đời văn của mình. Ở đề từ cho tác phẩm cuối cùng này, lần nữa ông nhắc lại tôn chỉ của mình: “Ai biết nước sông Lam khi mô trong khi mô đục. Thì biết sống cuộc đời răng là nhục là vinh. Tôi viết sách lòng chỉ mong học theo người Nghệ để đi cho hết cái trong đục của đời người. Cuốn sách nhỏ này có thể xem là lời tạ từ…”. Và về lý do không viết nữa: “Tôi không viết nữa đơn giản tôi đâu còn cơ hội để đi nữa đâu…(bệnh xuất huyết não từ 1996). Đi chuyển dịch là niềm đam mê và năng lượng cuộc sống của mình, tách biệt cắt đứt nó chẳng khác gì mình đoạn tuyệt với hơi thở hiện tại. Không viết nữa tôi buồn và chán lắm nhưng mình không thể ngồi tưởng tượng mà viết. Lâu nay từ ngày lâm bệnh đến giờ có bao nhiêu tích lũy của những chuyến đi thực tế ký ức trí nhớ thì tôi đã lôi ra hết rồi giờ thì không còn năng lượng nữa có viết cũng là một điều không thật với bạn đọc điều ấy không nên…”.
Với ý thức trách nhiệm và lương tâm của người cầm bút như vậy nên ông thường viết chậm, song không ai đem tiêu chí ít hay nhiều để xác định tầm vóc của một nhà văn. Cái chính là những giá trị mới mẻ, đích thực mà nhà văn đã góp vào để làm nên diện mạo đời sống văn học của thời đại mình. Nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định những thành tựu, những đóng góp mới từ những trang bút ký “rất nhiều ánh lửa” (chữ dùng của Nguyễn Tuân) của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Hoàng Phủ Ngọc Tường có một trí nhớ phi phàm chứa đựng một khối lượng tri thức khổng lồ về triết học, văn học, lịch sử và văn hóa sâu rộng. Cuộc đời ông lăn lộn suốt chiều dài đất nước. Đụng đến vấn đề gì, ở thời điểm nào và ở đâu, “chất ký và con người của ký trong ông lắng đọng lại sự hiểu biết như trầm tích ủ dưới lớp than hồng”, chứa đựng những kiến giải phong phú về mọi mặt của xã hội, thế thái nhân tình, nhất là các biến cố, biến thiên của lịch sử dân tộc như là những phát kiến văn hóa. Văn chương của ông bình dị nhưng sang trọng, sắc sảo, sâu lắng. Đọc nó ta thấy ta được giàu có lên về tâm hồn và trí tuệ.
Một cuộc đời lăn lộn với nghề nghiệp, đóng góp trọn vẹn nhiệt huyết cho đất nước; một cuộc đời giản dị, yêu mến nhân dân, thủy chung với đồng chí đồng nghiệp. Có thể nói, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đến với cuộc đời này bằng cả cái tâm của một con người đạt đạo. Đời văn của Anh, đúng như nhà văn Nguyên Ngọc đã viết: “… Đối với anh Tường chẳng việc gì phải giới thiệu. Tên tuổi anh, người đọc cả nước đều biết rõ, đọc giả ngoài nước cũng nhiều người biết và hâm mộ. Anh là một trong mấy nhà văn viết ký hay nhất của văn học ta hiện nay…”.
- Ngô Thảo, nhà lý luận phê bình. Bút danh: Song Nguyện, Vĩnh Hoàng. Sinh năm 1941, quê ở xã Vĩnh Nam, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị. Hiện đang sống và làm việc tại Hà Nội. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1977).
Tốt nghiệp khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Hà Nội năm 1964, về công tác tại Viện Văn học. Từ 1965-1985 vào bộ đội, từ binh nhì lên Thiếu tá. Chiến đấu trong binh chủng pháo binh ở chiến trường Trị Thiên. Trung đội trưởng trinh sát, Chính trị viên Đại đội, trợ lý tuyên huấn Trung đoàn 368. Năm 1971 học ở Học viện Chính trị rồi về tạp chí Văn nghệ quân đội, phụ trách phần bình luận văn nghệ. Năm 1986 chuyển về Hội nghệ sĩ sân khấu Việt Nam. Từ 1989, là Ủy viên Ban thư ký (khóa 3). Từ 1994- 2004, Phó Tổng thư ký thường trực Hội khóa 4 và 5. Đảng ủy viên khối cơ quan trung ương về công tác tư tưởng, ủy viên Đảng đoàn Hội. Từ 2001 kiêm Tổng biên tập tạp chí Sân khấu, giám đốc Nxb Sân khấu. Về hưu 2005. Cố vấn nghệ thuật hãng phim Việt - Công ty BHD.
Phê bình tiểu luận đã xuất bản: Từ cuộc đời chiến sĩ (1978); Nhà văn bàn về nghề văn (Biên soạn, 1980); Năm tháng chưa xa (Sưu tầm, biên soạn, 1985); Một tài năng, một đời người (viết chung, 1988); Toàn tập Nguyễn Ngọc Tấn - Nguyễn Thi (Sưu tầm, tuyển chọn 1996); Như cuộc đời (Những bài viết về văn hóa, nghệ thuật, sân khấu, 1995); Tuyển tập truyện và ký Đoàn Giỏi (1999); Đời văn - đời người (2000); Chiến trường sống và viết (Biên soạn, sưu tầm, 2 tập, 1995); Đời văn - đời người (Tiểu luận phê bình, 2000); Văn học với cuộc sống - đời sống văn học (2000); Mấy vấn đề của sân khấu Việt Nam trong cơ chế thị trường (2000); Văn học về người lính (2002, 2003); Mây bay về núi (2007); Thao thức với phần đời chiến trận (2009); Tiểu luận phê bình văn học (2010). Ngoài ra còn có một số công trình in chung khác.
Giải thưởng văn học: Giải thưởng tác phẩm năm 1995 của Hội nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam, tác phẩm Như cuộc đời. Giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2002, tác phẩm Văn học về người lính. Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2012.
Nhà văn Ngô Thảo nghĩ về nghề: “Đi qua gần trọn một kiếp trần gian, tôi thấy biết ơn vô cùng bậc sáng thế đã tạo ra một dạng thức sáng tạo tinh thần là Văn học. Trong những cuốn sách không phải bao giờ cũng đồ sộ, loài người đã truyền lại cho nhau bao nhiêu tư tưởng, tình cảm lớn lao từ trải nghiệm sống của những kiếp người. Thế hệ chúng tôi vượt qua thế kỷ XX trong bom đạn, đói rét, khốn khó để tồn tại một phần quan trọng nhờ lời mách bảo đầy bí ẩn mà hấp dẫn từ nhiều, rất nhiều tác phẩm văn học, mặc dầu không phải đều là tuyệt tác.
Chính vì vậy, trong phê bình văn học, bao giờ tôi cũng thể hiện lòng biết ơn đối với các tác giả bằng cả đời mình đã tạo nên những tác phẩm như thế”.
Nhà văn đã chọn cho mình lối đi riêng: “Giữa bao biến động trong lý luận, phê bình văn học mà nhiệt độ, hướng đi luôn luôn thay đổi, tôi chọn con đường làm tư liệu: Giữ lại những tư liệu văn học về một thời kỳ lịch sử không thể quên”. Và ông khẳng định “Bởi tự tin ở sự ngay thẳng, trung thực, dù bao lần bị phê phán. May cho tôi là khi nhìn lại, trong đó không có những đồng đội xưa của mình, và hôm nay, nếu được chọn lại, tôi sẽ lại chọn con đường đã đi tới bất cứ nơi đâu Tổ quốc cần”.
Đó là chọn lựa bản lĩnh và khôn ngoan đúng như Nguyên An đúc kết: “Ngô Thảo đã có cả một loạt bài viết về những nhà văn chiến sĩ đã hy sinh như Nguyễn Đình Lạp, Trần Đăng, Thôi Hữu, Nguyễn Thi... Không có công tìm tòi tra cứu xuất phát từ lòng ngưỡng mộ và tiếc thương cho những tài năng “vì nước quên thân, vì dân phục vụ” thì khó mà viết được như thế... Điều đáng ghi nhận là ở hàng trăm trang viết của ông vẫn thường thấm đượm một khát khao góp phần phân tích, mổ xẻ tiến trình văn học đương đại, cùng rút ra những kinh nghiệm và bài học để xây dựng một nền văn nghệ vững mạnh hơn, giàu tính nhân dân - nhân bản (và cũng là tính Đảng) hơn, xứng đáng với những hy sinh anh dũng của dân tộc, suốt bao nhiêu năm ròng, tranh đấu vì nền độc lập tư do của Tổ quốc...”.
- Xuân Đức, sinh năm 1947. Họ và tên khai sinh: Nguyễn Xuân Đức. Sinh năm 1947, quê ở xã Vĩnh Hòa, huyện Vĩnh Linh. Vào Hội Nhà văn (1982).
Xuất thân trong gia đình nông thôn. Học xong phổ thông trung học vào bộ đội, chiến đấu ở vùng sâu Quảng Trị. Năm 1976 được điều về trại sáng tác của Tổng cục Chính trị, sau đó học Trường Viết văn Nguyễn Du (khóa I). Tốt nghiệp, về Đoàn kịch nói quân đội, trước khi chuyển ngành là Trung tá. Nguyên là Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Văn hóa - Thông tin, Tổng thư ký Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Trị, Tổng Biên tập Tạp chí Cửa Việt.
Tác phẩm chính đã xuất bản: Cửa gió (tiểu thuyết, 1980); Người không mang họ (tiểu thuyết, 1984); Hồ sơ một con người (tiểu thuyết, 1985); Những mảnh làng (tiểu thuyết, 1987); Tượng đồng đen một chân (tiểu thuyết, 1987); Bến đò xưa lặng lẽ (tiểu thuyết, 2005); và nhiều kịch bản sân khấu, trong đó có Tổ quốc, Chứng chỉ thời gian, Đám cưới ly biệt, Ám ảnh, Cái chết chẳng dễ dàng gì, Đợi đến bao giờ, Chuyện dài thế kỷ...
Giải thưởng văn học: Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1982, tiểu thuyết Cửa gió. Giải thưởng Bộ Nội vụ năm 1995, tiểu thuyết Người không mang họ. Hai lần Giải thưởng Văn học Bộ Quốc phòng (1990, 1995). Giải thưởng Hội nghệ sĩ sân khấu năm 1995, vở kịch Cuộc chơi. Giải thưởng Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam, tập kịch Chứng chỉ thời gian. Giải A cuộc thi tiểu thuyết của Hội Nhà văn Việt Nam, tiểu thuyết Bến đò xưa lặng lẽ. Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007.
Xuân Đức thuộc thế hệ nhà văn cùng trang lứa với Hữu Thỉnh, Chu Lai, Nguyễn Huy Thiệp, Đỗ Chu, Trần Đăng Khoa, Khuất Quang Thuỵ, Lâm Thị Mỹ Dạ... được đào tạo và trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Trước khi cầm bút, ông là người cầm súng khi đang học năm cuối trường cấp III Vĩnh Linh. Là một trong những người lính đầu tiên của Trung đoàn 270 bảo vệ giới tuyến (thành lập 1/5/1965), ông đã cùng đồng đội tham gia nhiều trận đánh ở các chiến trường nóng bỏng đạn bom ở Đường 9, Gio Linh, Cam Lộ... Tiểu đoàn 47 của ông trong cuộc tổng tiến công tết Mậu Thân 1968 đánh địch dọc tuyến bờ Bắc sông Hiếu từ Cửa Việt đến Đông Hà hy sinh hơn một nửa quân số. Những tháng năm ấy đã để lại trong trái tim đa cảm nhà văn ngập tràn cảm xúc về tinh thần chiến đấu, hy sinh, vượt qua mọi gian nguy, ác liệt. Vì thế khi cầm bút Xuân Đức không viết cái gì khác hơn ngoài đề tài chiến tranh cách mạng. Thoạt đầu là những vở kịch mà ở đó ngay từ những sáng tác đầu tiên đã gây ấn tượng. Các vở “Trận địa”, “Tiếng chim tapar”, “Tổ quốc” (viết chung với Đào Hồng Cẩm) được viết vào quãng từ năm 1969 - 1976. Sau này vở “Tổ quốc” do NSND Đình Nghi đạo diễn được chọn phục vụ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV. Sau thành công của các vở kịch đầu tay, ông chuyển qua một thể loại khác là tiểu thuyết và với nhà văn áo lính đề tài vẫn là chiến tranh cách mạng. Một loạt tiểu thuyết như “Người không mang họ”, “Tượng đồng đen một chân”, “Những mảnh làng”, “Cửa gió” (hai tập), “Bến đò xưa lặng lẽ” và gần đây nhất là tiểu thuyết “Kẻ song sinh” lần lượt ra đời, gắn liền với mảnh đất dữ dội đôi bờ Hiền Lương - con sông lịch sử quê hương nhà văn.
Cùng với tiểu thuyết, khi ra quân nhà văn đã trở lại với thể loại kịch bản sân khấu. Một loạt tác phẩm ra đời: “Chuyện đời thường vớ vẩn”, “Ám ảnh”, “Cái chết chẳng dễ dàng gì”, “Chứng chỉ thời gian”, “Chuyện ấy không phải cổ tích”, “Cuộc chơi”, “Nhật thực”, “Chuyện dài thế kỷ” đều lấy đề tài chiến tranh cách mạng làm phương tiện ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng của quân và dân ta trong chiến tranh giải phóng dân tộc. Cũng đề tài trên, khi nghỉ hưu ông lần lượt cho ra đời các vở “Nhiệm vụ hoàn thành” (viết về cố đại tướng Võ Nguyên Giáp) và “Thành phố lúc bình minh” (viết về cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt) đều là những nhân vật cống hiến trọn đời mình cho hai cuộc chiến tranh thần thánh của dân tộc. Chưa dừng lại ở đó, ông còn thành công trong một loạt phim truyền hình. “Đối mặt”, “Đời như tiệc”, “Hương trầm gió”, kể cả “Bến đò xưa lặng lẽ” chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên…
Phải thừa nhận rằng, một đời văn Xuân Đức từ trai trẻ nay đã bảy mươi đều nặng lòng với đề tài chiến tranh cách mạng. Nhà văn đã để lại cho đời một khối lượng tác phẩm đồ sộ về chiến tranh; ở thể loại nào, thời kỳ nào tác phẩm cũng đều đạt tới đỉnh cao, để lại những dấu ấn sâu đậm. Cũng đề tài chiến tranh, hiện ông đang viết thêm một cuốn tiểu thuyết nữa,. Sự viết theo ông, giờ đây khá nhọc nhằn, bởi cuộc sống bây giờ cũng nặng nhọc lắm, nhưng ông biết cách vượt qua chính mình, vượt qua sự nặng nhọc ấy để tiến lên phía trước. Với nhà văn Xuân Đức, có thể nói tác phẩm và đi kèm là giải thưởng, tất cả đang còn ở phía trước.
- Thi Sảnh, sinh năm 1942. Tên thật Nguyễn Thanh Sỹ, quê ở làng Cẩm Phổ, xã Gio Mỹ, Gio Linh, Quảng Trị. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 2011.
Năm 1954 khi đất nước bị chia cắt, mới 13 tuổi nhưng Thi Sảnh đã kịp xin bố mẹ vượt sông Hiền Lương giới tuyến để ra Bắc tiếp tục học tập. Cũng như những học sinh miền Nam thuộc diện vượt tuyến khác, được Đảng và Nhà nước và nhân dân miền Bắc thương yêu đùm bọc, quan tâm chăm sóc, Thi Sảnh lần lượt học xong cấp II phổ thông tại khu vực Vĩnh Linh, cấp III tại Hà Tĩnh và đại học tại Hà Nội. Năm 1964, sau khi tốt nghiệp khoa Sử trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, anh về nhận công tác tại Sở Văn hóa và Thông tin Quảng Ninh. Trải mấy mươi năm, từ một cán bộ Bảo tàng, anh trở thành Giám đốc Sở Văn hóa và Thông tin, Chủ tịch Hội Sử học, trong nhiều khóa là Ủy viên Thường vụ Hội văn nghệ Quảng Ninh cho đến khi về hưu năm 2002.
Tác phẩm đã xuất bản:
- Về Thơ: Đã có 15 tập thơ được xuất bản, gồm Gương mặt bè bạn (1981), Điều ước (1981), Liên tưởng (1983), Đợi và tìm (1985), Bài thơ bên vách núi (1996), Cõi thiêng (2000), Ngọn nguồn câu hát (2002), Thức với dòng sông (2004), Hình bóng xưa (2005), Thơ Thi Sảnh (2006), Đồng Điệu (2008), Khi ta hát (2010), Bóng mình (2011), Cứ tự nhiên phát sáng (2013), Những vì sao bầu bạn (2014); đã có thơ in trong 15 Tuyển tập thơ Việt Nam, trong đó có những tập tiêu biểu như Ngàn năm thơ Việt, Thơ Việt Nam thế kỷ XX, Hồ Chí Minh hợp tuyển thơ, Nguyễn Trãi tổng tập thơ, Ngàn năm thương nhớ, Nước non một dải, Nửa thế kỷ thơ, Biển gọi…
- Về ký: Đã có 11 tập ký được xuất bản, trong đó có những tập gây được sự chú ý như Đất nước ngàn năm (5 tập in chung), NXB Kim Đồng, Quảng Ninh miền đất những trầm tích, NXB Trẻ, Vịnh Hạ Long hành trình một kỳ quan, NXB Hội Nhà văn, với lượng phát hành lên đến vài vạn bản…
- Tiểu thuyết: Chân trời ám ảnh, NXB Hội Nhà văn; Âm vang dòng sông, NXB Văn học; Cứu cánh, NXB Văn học.
Giải thưởng: Giải Nhất (chùm thơ) cuộc vận động sáng tác văn học về đề tài Tự hào Than - Khoáng sản Việt Nam do Hội Nhà văn Việt Nam và Tập đoàn Than - Khoáng sản tổ chức nhân kỷ niệm 80 năm Ngày Hội Truyền thống công nhân mỏ (1936 - 2016). Giải Ba (mười bài thơ) tham gia cuộc vận động sáng tác văn học về đề tài Giao thông vận tải do Hội Nhà văn Việt Nam và Bộ Giao thông vận tổ chức nhân kỷ niệm 70 năm Ngày Truyền thống Giao thông vận tải Việt Nam (28/8/1945 - 28/8/2015). Giải Ba (chùm thơ) tham gia cuộc vận động sáng tác văn học đề tài Than - Khoáng sản Việt Nam do Hội Nhà văn Việt Nam và Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam tổ chức nhân kỷ niệm 75 năm Truyền thống công nhân mỏ (1936 - 2011). Giải Khuyến khích Chọn 100 câu thơ hay do báo Văn Nghệ tổ chức và 10 được tặng Giải thưởng về thơ ở Quảng Ninh, trong đó có 2 giải Nhất.
Thi Sảnh bắt đầu sự nghiệp văn chương của mình bằng sáng tác thơ. Thơ đối với anh là chỗ dựa, là mạch sống, là thước đo tâm hồn của mình trước cuộc sống muôn màu, theo anh suốt những năm dài công tác. Với một giọng thơ tài hoa, hồn hậu, thấm đẫm nỗi buồn chiến tranh, đạn bom, chia cắt, ly tán nhưng đằm thắm, ân tình. Trong Lời tựa viết cho tập Cõi thiêng, nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo đã nhận xét về thơ Thi Sảnh như sau: “Có thể nói, Thi Sảnh là người chép hồn mình bằng thơ. Và từ cuốn sử tâm hồn riêng lẻ ấy, ta nhận ra một thời anh đang sống. Có thể nói, Thi Sảnh là người yêu cuộc sống mà trở thành thi sĩ”.
Rồi do yêu cầu công tác, anh viết nhiều tập ký giới thiệu lịch sử, những nét đặc sắc danh lam thắng cảnh Quảng Ninh như Hạ Long, Yên Tử, góp nhiều công sức và tư liệu cho những điạ chỉ này được công nhận là thắng cảnh quốc gia và quốc tế.
Ngỡ là công thành danh toại, vậy mà cuối đời anh bắt tay vào viết cuốn tiểu thuyết Âm vang dòng sông (Nxb Văn học, 2016, 550 trang) viết về một địa bàn rất xa nơi anh đang sống và công tác hơn nửa thế kỷ qua. Dòng sông ám ảnh và âm vang đó là là sông Hiền Lương, nơi từng là ranh giới thực tế chia cắt đất nước 21 năm ròng. Dòng sông chảy qua quê gốc của anh và đắng lòng hơn là gia đình anh ở phía Nam, nằm dưới sự kiểm soát của chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Đó là những năm tháng mà những người yêu nước tham gia kháng chiến cũ bị bắt bớ, giam cầm, truy bức, tàn sát. Nhà văn, nhà phê bình Ngô Thảo trong bài Nặng tình với dòng sông (Tạp chí Cửa Việt, số 271) giới thiệu nội dung cuốn tiểu thuyết như sau: “Bằng kỹ năng của một nhà Sử học, tiểu thuyết viết như một cuốn sử biên niên ghi chép lại theo tuyến tính thời gian những sự kiện xảy ra trên một vùng đất hẹp làng Cẩm là địa bàn chính. Hứng chịu những biến động lớn diễn ra trên đất nước 50 năm giữa thế kỷ XX, cái làng quê có lịch sử lâu đời, vốn bình yên đó bị cuốn vào vòng xoáy phân tranh không chỉ quyền lực, quyền lợi trước mắt, mà còn vì đó là tuyến đầu đối diện với miền Bắc. Trai tráng hai phe thì đã vậy, mà vợ chồng, con cái, người già, trẻ con, các quan hệ dòng tộc, thông gia bị cuốn vào vòng chiến rối rắm, bức xúc, sự tin cậy an lành bị biến mất, chỉ còn âm mưu rình rập, truy đuổi và tận diệt. Ông Tác thuộc trong số may mắn sống sót để có ngày trở về vì được tỏ chức cho thoát ly địa phương vào đúng thời điểm ác liệt. Được ra Vĩnh Linh ở phía Bắc, được phân công công tác mới, nhưng chặng đời hoạt động ở quê nhà vẫn đeo bám ông trên nhiều phương diện. Biết ông chỉ huy công trường làm con đê ngăn mặn cho cánh đồng Bắc Hiền Lương, kẻ địch bắc loa bịa đặt nói xấu ông nhiều chuyện để làm mất uy tín và niềm in của tổ chức. Số phận và đường đời những đồng chí, những người gần gũi, ruột thịt dệt nên bức tranh sống động của một làng quê, hòa trong dòng chảy của đất nước mấy mươi năm chia cắt và chiến tranh, có rất ít niềm vui, mà nhiều hơn là mất mát, đau thương, chia ly, thù hận và cả niềm hối hận. Chiến tranh đẩy họ dạt về hai phía, chạy vào Nam, bám trụ quê làng, tản cư ra Bắc với nhiều ngã lối, thời điểm khác nhau…”
Mấy chục năm chiến tranh, cả nước đều từng là mặt trận. Nhưng chắc chắn không có một vùng quê nào đi vào văn học nghệ thuật kháng chiến nhiều như Quảng Trị. Cùng với các tác giả có tiểu thuyết tên tuổi khác viết về Quảng Trị như Thu Bồn, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Xuân Đức… Âm vang dòng sông của Thi Sảnh vừa mới xuất bản góp phằn làm giàu thêm kho tàng kỹ ức chiến tranh trên quê hương Quảng Trị anh hùng.
- Lê Thị Mây, tên khai sinh: Phạm Thị Tuyết Bông. Sinh năm 1949, quê làng An Mô, xã Triệu Long, huyện Triệu Phong. Bút danh khác: Phạm Tuyết Hoa. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1982).
Học hết phổ thông, tham gia Thanh niên xung phong chống Mỹ. Học lớp bồi dưỡng viết văn trẻ của Hội Nhà văn Việt Nam khóa 6 (1973- 1974). Học Trường viết văn Nguyễn Du khóa I (1979-1982). Cử nhân báo chí. Nhiều năm làm báo và làm biên tập văn học của tạp chí Sông Hương. Phó Tổng biên tập tạp chí Văn hóa Quảng Trị, Tổng biên tập tạp chí Cửa Việt. Chuyên viên cao cấp Ban Tư tưởng Văn hóa TW, hiện nghỉ hưu tại Hà Nội.
Tác phẩm đã xuất bản: Dịu dàng (thơ, 1987); Một mình (thơ, 1990); Tuổi mười ba (thơ, 1990); Tặng riêng một người (thơ, 1990); Du ca cây lưu tình (thơ, 1996); Giấc mơ thiếu phụ (thơ, 1996); Khúc hát buổi tối (thơ, 1999); Thời trẻ của anh (thơ, 2001); Lửa mùa hong áo (trường ca, 2003); Thơ Lê Thị Mây (2003); Những mùa trăng chờ (tuyển thơ chọc lọc, 2002); Tình yêu dài suốt cuộc đời (tuyển thơ chọn lọc, 2004); Thương nhớ một ngày (thơ, 2006); Tự khúc ánh sáng (thơ, 2006); Trăng trên cát (truyện ngắn, 1987); Mưa ngâu (bút ký, 1994); Phố còn hoa cưới (tập truyện, 1992); Bìa cây gió thắm (tập truyện, 2000); Bến bờ hạnh phúc (thơ, 2008); Thơ và trường ca Lê Thị Mây (2009).
Giải thưởng văn học: Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1990, tập thơ Tặng riêng một người. Tặng thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1998, truyện dài Huyết ngọc. Tặng thưởng Bộ Quốc phòng năm 2000, tập truyện Bìa cây gió thắm. Giải B Ủy ban toàn quốc liên hiệp các hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 2003, trường ca Lửa mùa hong áo. Giải thưởng Nhà nước năm 2012.
Con đường thơ của Lê Thị Mây khá nhọc nhằn. Những tác phẩm đầu tiên ấy của chị là tiếng nói phản ánh cuộc sống của những gương mặt non trẻ là nam nữ thanh niên xung phong, những đồng đội cùng chị ngày đêm bám trụ. Đó là mồ hôi nước mắt và những cái chết đau thương của những “người lính không cầm súng” trên những công trường trọng điểm. Vì thế thơ chị là tiếng lòng sâu lắng, trữ tình, đằm thắm, không khách sáo ồn ào; là niềm vui ngọt ngào được chắt lọc qua cuộc đời của chị và được thoát ra từ trái tim nữ tính nhân hậu. Đúng như tâm sự của chị, “Thơ là nỗi buồn thầm kín của tôi, đã cất tiếng khóc khi còn lại một mình”.
Nhận định về thi pháp của Lê Thị Mây, nhà thơ Vũ Quần Phương viết: “thơ chị thiên về khái quát... chị miêu tả con cá ngủ lơ mơ rất ít chi tiết của tín hiệu thứ nhất (hình ảnh cụ thể, ở đây là mềm mại) và chuyển nhanh sang khái niệm (tín hiệu thứ hai) không còn hình ảnh mà chỉ còn bản chất sự vật. Vì vậy con cá được ví với cái đinh vốn không mềm mại chút nào, không có gì giống con cá sinh động đang bơi dưới nước cả... Lê Thị Mây tâm đắc với loại thơ mà mọi chất liệu cụ thể chỉ là cái cớ, cái phương tiện. Ngay cả những vấn đề xã hội chính trị cũng phải dẫn đến những niềm sâu kín thuộc vào phần vĩnh cửu của tâm hồn con người...”.
Khi tái bản Những mùa trăng mong chờ, nhà thơ Hoàng Cát có thêm nhận xét: “Thơ Lê Thị Mây không chi tiết về chiến tranh, không chi tiết về người mẹ, về tình yêu đôi lứa, tình yêu quê hương đất nước - hầu như Lê Thị Mây chạm tới mọi đề tài, mọi nỗi niềm mà mỗi người bình thường chúng ta hằng quan tâm thường trực trong lòng. Và ở đề tài nào, thơ chị cũng có những mặt rất được... Thơ chị giàu tâm trạng, với một phong cách ngôn ngữ thơ không giống nhiều người khác, nghiêng về gợi mở hơn là biểu cảm trực diện, cụ thể trong từng câu chữ, trong từng chi tiết”…
Thiết nghĩ, đó chính là những đóng góp xứng đáng của chị cho nền thơ Việt hiện đại về mặt bút pháp và giọng điệu.
- Tạ Nghi Lễ (1951-2008). Tên khai sinh: Tạ Lễ. Quê làng Lâm Xuân, xã Gio Mai, huyện Gio Linh. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1997). Cựu học sinh Nguyễn Hoàng, theo học trường Đại học Luật khoa, Văn khoa ở Huế năm 1970-1972, Trường Quốc gia hành chánh Sài Gòn năm 1973-1975. Sinh sống ở Trảng Bom I, Đồng Nai từ năm 1975- 1996.
Tác phẩm chính:
Các tập truyện: Yêu một người làm thơ (1990, 1993, 1996); Nàng Hải Sư và tôi (1992, 1998); Những mãnh đời khác nhau (1994, 1995); Một ngày của một nhà văn (1997).
Thơ: Những khoảng trời trong sáng (1995); Quê mình (2004).
Kịch bản phim: Đi qua lời nguyền (1997); Ngày về (1999).
Sinh thời, nhà thơ Tạ Nghi Lễ tâm niệm về nghề như sau: “Dù bây giờ văn hóa đọc lùi lại phía sau để nhường cho văn hóa nghe nhìn lên ngôi nhưng tôi vẫn viết. Vì chữ nghĩa trong các trang văn, trang thơ là của chính mình. Người đọc bây giờ ít hơn nhưng không vì thế mà không viết. Tôi còn nợ với quê hương, đồng bào, bạn bè, anh em nhiều lắm. Phải trải lòng ra mà viết”.
Là nguyện ước chân thành từ tốn nhưng trời đã không chiều lòng nhà thơ. Anh đã từ biệt cõi đời ở tuổi 57 sau một cơn tai biến.
- Châu La Việt, bút danh khác: Triệu Phong, Trương Nguyên Việt. Sinh năm 1952, quê nội ở làng Bích Khê, xã Triệu Long, huyện Triệu Phong; quê ngoại ở làng Mai Xá, xã Gio Mai, huyện Gio Linh, Quảng Trị. Vào hội Nhà văn Việt Nam năm 2015.
Ông là con trai đầu của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ và NSƯT Tân Nhân, nữ danh ca nổi tiếng với bài hát Xa khơi ngày đất nước còn chia cắt hai miền. Châu La Việt có cuộc đời mà bi kịch thân phận chính là bi kịch của đất nước ngày Bắc Nam đôi ngả. Mẹ anh mang bầu anh với nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ khi ông đã vào Sài Gòn. Trên miền Bắc, anh lớn lên trong vòng tay người mẹ và cha dượng là nhà báo, nhà hoạt động cách mạng Lê Khánh Căn, nguyên thư ký của đồng chí Tố Hữu (từ nhỏ ông sống với mẹ với tên khai sinh là Lê Khánh Hoài; gần đây có thêm tên mới lấy họ nội là Hoàng Hữu Thi Hoài).... Năm 17 tuổi đã làm đơn tình nguyện ra trận, nguyên là bộ đội Trường Sơn và mặt trận Lào góp phần vào việc rút ngắn ngày Bắc Nam sum họp.
Thừa hưởng dòng máu nghệ sĩ của cha mẹ, Châu La Việt đam mê nghệ thuật từ lúc ấy. Còn nhớ những năm đầu thập kỷ 70 thế kỷ XX, vở “Người mẹ trường Sơn” của Trương Nguyên Việt gây tiếng vang bởi tình cảm của tác giả dồn nén vào vở kịch chính là tình mẫu tử giữa người mẹ ca sĩ và đứa con là người lính trẻ có lúc lỗi lầm. Trước đó, anh từng có những vở kịch “Tình em trao anh”, “Mạch ngầm” viết về đề tài chiến tranh... Rời quân ngũ, anh đi làm báo, nhiều năm làm ở báo Thanh Niên, Thanh Niên - Thời đại, Văn nghệ Trẻ, rong ruổi từ Nam ra Bắc... Nhưng hình như cuộc đời với quá nhiều biến cố và sự kiện ấy đã mách bảo anh đi tìm một lối sống riêng, lối sống ẩn mình giữa ồn ào náo động và dồn hết tâm huyết vào những trang văn. Tuy muộn mằn nhưng hình như anh đã chắt máu tim mình ra thành chữ!
Tác phẩm đã xuất bản: Những bạn trẻ của tôi (Nxb Quân Đội); Chiếc khăn màu lửa cháy (Nxb Trẻ.TPHCM); Ngọc Tân - ngày biển gọi (Chủ biên - Nxb Văn hóa Thông Tin); 5 bài thơ và 5 chuyện kể về người lính (Nxb Lao Động); Nơi không có mùa đông (Nxb Lao Động); Mai Pi Muôn - Thơ, Truyện (Nxb Văn học).
Nói như nhà thơ Hữu Thỉnh thì “Châu La Việt cầm bút từ khá sớm, mặc áo lính càng sớm hơn. Những năm tháng ở chiến trường, anh đã tự thể nghiệm ở khá nhiều thể loại, nhưng say đắm nhất là thơ. Với thế hệ cầm bút của tôi, cái tên Châu La Việt đã trở nên khá thân thuộc từ những năm chống Mỹ. Với Châu La Việt, thơ với đời, đời với thơ là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa văn chương và đời lính, hiện thực và mộng mơ…”. Và bây giờ với “5 bài thơ và 5 chuyện kể về người lính” là dấu ấn đẹp đẽ và tinh khôi về một chặng đời không bao giờ phai của Châu La Việt. Lấp lánh phía sau trang chữ là một cuộc đời lính, một tâm hồn lính, một tính cách lính với những rung động nội tâm sâu đằm và thuần phác. Đó là một thứ của tin mà tác giả đã gặt hái được qua những năm tháng đẹp nhất của đời mình”. Nhà văn Đỗ Chu cũng đã đã có những dự báo sâu sắc rằng, “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh. Châu La Việt đúng là con nhà nòi. Đã mang trong mình nết thư hương thì không thể khác được. Tôi hình dung sắp đến với anh sẽ là những năm tháng nhiều vất vả, kiêu hãnh. Nếu đợi sự dễ dàng thì đã chả chọn lối đi (viết văn) này. Hãy viết như mẹ anh đã từng hát. Ngậm từng chữ, nhả từng câu, đau như lòng tằm và qúy phái như tấm lụa tơ tằm...".
- Cao Hạnh (1953-2017). Quê làng Linh Hải, xã Vĩnh Thủy, huyện Vĩnh Linh. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (2001).
Từ năm 1960-1973 học hết bậc phổ thông; rồi lao động ở Hợp tác xã. 1974-1977 học lớp đạo diễn trường trung cấp Lý luận nghiệp vụ Bộ Văn hóa. Cuối 1977-1989, cán bộ ở phòng Văn hóa thông tin huyện Bến Hải, giữ chức vụ Phó Giám đốc nhà Văn hóa thông tin, Giám đốc Trung tâm Văn hóa thông tin huyện. Năm 1989-1992 là Phó phòng VHTT kiêm Giám đốc Trung tâm Văn hóa thông tin huyện Vĩnh Linh. Từ năm 1993 chuyển công tác vào Đông Hà, lần lượt giữ các chức vụ: Phó phòng Nghiệp vụ Sở Văn hóa thông tin Quảng Trị từ năm 1993-1995. Phó Giám đốc Trung tâm văn hóa Quảng Trị từ năm 1995-1996. Phó Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt. Phó Chủ tịch Thường trực Hội VHNT Quảng Trị kiêm Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt từ năm 1997 đến lúc nghỉ hưu năm 2014.
Tác phẩm đã xuất bản: Bồ câu xám (truyện ngắn, 2008); Huyền thoại tình yêu (truyện ngắn, 2008); Vú cát (truyện ngắn, 2009); Giấc mơ màu cỏ (tập thơ, 2010).
Giải thưởng văn học: Giải nhất kịch ngắn toàn quốc năm 2005. Giải nhì cuộc thi truyện ngắn tạp chí Xứ Thanh. Giải thưởng Chế Lan Viên năm 2015 (Giải C, chuyên ngành Sân khấu).
Khởi nghiệp văn chương bằng sự đam mê, Cao Hạnh đã khẳng định mình trên nhiều lĩnh vực: sáng tác kịch bản sân khấu, đạo diễn sân khấu, viết truyện ngắn, làm thơ... Lĩnh vực nào Cao Hạnh cũng gặt hái được nhiều thành công, để lại những dấu ấn, những thành công đáng kể. Ở đâu cũng bắt gặp cái tình đời, tình người và sự xáo trộn những chuẩn mực xã hội trong nhiều trang viết của ông.
“Vú cát” là tập truyện ngắn được bạn đọc và bạn viết đánh giá cao, có thể xem là tác phẩm đỉnh cao của nhà văn Cao Hạnh (tập truyện ngắn lọt vào vòng chung khảo của giải thưởng Hội Nhà văn năm 2008). Phần lớn nhân vật trung tâm trong “Vú cát” là những phụ nữ bất hạnh, có cuộc sống khắc nghiệt, chứa đầy nghịch lý vừa thực vừa ảo. Đó là nỗi đau về thể xác và tinh thần của bà mẹ có hai đứa con ở hai chiến tuyến tạo nên tấn bi kịch đầy lòng trắc ẩn của người mẹ (Vú cát). Tương tự những câu văn đẹp, những chi tiết đắt, những dụng từ lạ và những tình huống bất ngờ làm người đọc giật mình, xót xa thay cho số phận những người phụ nữ trong Sự tích chùa Trinh nữ, Người đàn bà lội sương, Chiếc khăn che mặt… và nhiều truyện ngắn viết về thời hậu chiến như Năm cây hoa gạo, Người thắp hương trên cánh diều... thực sự ám ảnh người đọc.
Có người thích Cao Hạnh nhà thơ hơn nhà văn bởi ông có những câu thơ ghim vào lòng người đọc bằng những hình ảnh đẹp đến ngỡ ngàng:
Hàng ngày mặt trời bay lên
theo nhát cuốc của cha tôi
Những buổi sớm kéo bình minh vào đất
mẹ đi cấy khảm buồn vui vào nước
Bao xuân xanh rút xuống để nuôi đồng.
Hay:
Tôi con người xứ cỏ
Giấc mơ nào cũng xót quê hương...
Mai tôi chết hãy đưa tôi về đó
Để được gần bên mẹ cha tôi
Cho tôi xin làng nhát cỏ làng ơi...
Có lẽ cái khốn khó của đời sống trên mảnh đất gió Lào cát trắng đã tôi luyện nên những con người gồng mình lên để sống. Nhà văn chắt chiu từng con chữ để làm nên trang văn như cái cây trên cát cũng dốc mình xanh cho đời. Điều đó khiến chúng ta hiểu thêm về những nổ lực của nhà văn trong những tháng ngày ốm đau bệnh tật cuối đời vẫn dốc sức cho cuốn tiểu thuyết “Đôi bờ lau trắng”. Cuốn tiểu thuyết mà Cao Hạnh dồn tâm huyết của cả đời viết về chiến tranh cách mạng ngay tại quê nhà vẫn còn dang dở. Và những suy nghĩ về nghề hết sức khiêm tốn ghi trong Kỷ yếu Hội nhà văn Việt Nam: “Trước lúc làm văn tôi làm rất nhiều nghề. Những nghề đó càng làm tôi càng thấy mình có tài, riêng nghề văn càng làm tôi càng thấy mình Vô tài”.
- Văn Xương, sinh năm 1959. Tên khai sinh: Nguyễn Văn Bốn. Quê ở thôn Hiền Lương, xã Vĩnh Thành, huyện Vĩnh Linh. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (2008).
Tốt nghiệp bằng Cử nhân kinh tế. Nhiều năm công tác tại Văn phòng UBND tỉnh Quảng Trị, hiện đang giữ chức vụ Chánh Văn phòng. Hội viên hội Văn học Nghệ thuật Quảng Trị năm 1999. Có nhiều bài viết được đăng tải trên các Tạp chí Văn nghệ Quân đội, Cửa Việt, Non Nước, Nhật Lệ, Ninh Bình, Bắc Cạn và nhiều tác phẩm được các báo, tạp chí trung ương và địa phương đăng tải.
Tác phẩm đã xuất bản: Hoa gạo đỏ bên sông (tập truyện ngắn, 2006); Hồn trầm (tập truyện ngắn, 2008).
Giải thưởng văn học: Giải ba cuộc thi truyện ngắn Tạp chí Cửa Việt, năm 2004-2005. Giải B Văn học Nghệ thuật Quảng Trị 2006. Giải B Văn học nghệ thuật Quảng Trị 2009.
Văn Xương (Nguyễn Văn Bốn) là con người của công việc, không có nhiều thời gian đầu tư cho “nghiệp văn” nhưng rất nghiêm túc với nghề. Trong cuốn “Nhà văn Việt nam hiện đại” (NXB Hội Nhà văn, 2010) anh tâm sự về nghề văn như sau:
“Nghề văn là nghề mà người viết văn phải chấp nhận dấn thân trên con đường đầy chông gai, nghiệt ngã. Ở đó chất chứa biết bao niềm vui, nỗi buồn, thành công và thất bại. Là cuộc vật lộn, lao động miệt mài, nhiệt huyết, thực sự của trí não và thể xác. Nghề phải đọc, phải học, phải trau dồi, rèn luyện suốt đời; và phải luôn khát vọng vươn tới đích giá trị Chân - Thiện - Mỹ”.
Sự nghiệp văn chương của Văn Xương còn dài, tất cả có thể nói, đang còn ở phía trước.
- Phan Thị Vàng Anh, sinh năm 1968. Quê ở huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Hiện sống ở Tp. Hồ Chí Minh. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1996).
Là con gái nhà thơ Chế Lan Viên và nhà văn Vũ Thị Thường. Tốt nghiệp Đại học Y khoa thành phố Hồ Chí Minh năm 1993. Là cây bút mà ngay từ những tác phẩm đầu tay đã thể hiện một phong cách riêng, được bạn đọc hâm mộ. Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa VII (2005-2010), Trưởng ban Nhà văn trẻ, Trưởng Ban Nhà văn nữ.
Tác phẩm đã xuất bản: Khi người ta trẻ (tập truyện, 1993); Ở nhà (truyện vừa, 1994); Hội chợ (tập truyện, 1995); Nhân trường hợp chị thỏ bông (tản văn, 2004); Gửi VB (thơ, 2006).
Giải thưởng văn học: Tặng thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1994 cho tập truyện Khi người ta trẻ.
Phan Thị Vàng Anh từng là “hiện tượng” là cây bút nữ xuất sắc trên văn đàn cả nước khi còn rất trẻ. Vài năm trở lại đây ít thấy chị công bố tác phẩm nhưng sự nghiệp văn chương của chị có thể nói đang còn ở phía trước.
- Trần Thanh Hà, sinh năm 1971. Bút danh: Mai Hạ. Quê Vĩnh Linh, Quảng Trị. Hiện thường trú tại Tp. Hồ chí Minh. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1999).
Tốt nghiệp Đại học sư phạm Huế năm 1992. Dạy học. Thạc sĩ văn học. Biên tập viên NXB Công an nhân dân. Viết văn từ 1993.
Tác phẩm đã xuất bản: Gió của mùa sau (tập truyện ngắn); Ơi đò Ca Cút (tập truyện ngắn); Biển hồ lai láng (tập truyện ngắn); Mỏ hồ quyến rủ (tập truyện ngắn); Đường về thành phố (truyện ký).
Giải thưởng văn học: Giải A cuộc vận động sáng tác văn học cho tuổi trẻ của NXB Thanh Niên 1994-1996. Giải nhất cuộc thi truyện ngắn tạp chí Văn nghệ quân đội 1996. Giải ba cuộc thi tiểu thuyết và ký về đề tài “Vì bình yên cuộc sống” của Bộ Công an và Hội Nhà văn Việt Nam (1999- 2002); Giải C Giải thưởng văn học 10 năm lần thứ 2 (1995-2005) của Bộ Công an.
Trần Thanh Hà từng là “hiện tượng” nhà văn trẻ, cây bút nữ viết truyện ngắn xuất sắc trên văn đàn cả nước những năm 1995-2005 với nhiều giải thưởng danh giá. Mười năm trở lại đây, Trần Thanh Hà gần như “ở ẩn”, ít thấy chị công bố tác phẩm. Sự nghiệp văn chương của Trần Thanh Hà vì vậy có thể nói là còn dài, đang còn ở phía trước.
Sau năm 1975, Quảng Trị không còn sự chia cắt thì có chủ trương nhập tỉnh, hoà nhập vào tỉnh lớn Bình Trị Thiên của một nước Việt Nam cho đến năm 1989. Xét về yêu cầu xây dựng một đời sống văn học riêng của Quảng Trị thì đó là một điều bất lợi. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn có một đời sống văn học Quảng Trị khá phong phú trong đời sống văn học Bình Trị Thiên cũng như trong đời sống văn học chung của cả nước. Làm nên đời sống văn học Quảng Trị sau 1975, trước hết là những sáng tác của các tác giả quê hương Quảng Trị mà chủ yếu là thế hệ nhà văn xuất hiện và trưởng thành ở cuối thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Tiêu biểu cho thế hệ này là: Hoàng Phủ Ngọc Tường, Xuân Đức, Ngô Thảo, Lê Thị Mây, Tạ Nghi Lễ... Trong các nhà văn này có người sống và viết trên quê hương, nhưng cũng có người sống và công tác ở các địa bàn khác. Nét chung của thế hệ nhà văn này là họ có nhiều tài năng, năng lực sáng tạo. Đội ngũ tuy mỏng song các nhà văn này vẫn tạo ra được một bộ mặt văn học phong phú, đa dạng và hấp dẫn.
Đáng chú ý là sau ngày thành lập lại tỉnh, trong vòng một phần tư thế kỷ đất nước và quê nhà đổi mới đã hình thành nên một đội ngũ viết văn làm thơ đông đảo đang sinh sống trên địa bàn tỉnh và các vùng miền trên cả nước. Sáng tác của họ chiếm một phần quan trọng trên các tờ báo của tỉnh và trung ương có nội dung phản ánh trực tiếp nhiều mặt đời sống nhân dân Quảng Trị. Họ khá đông đảo, sung sức, trẻ. Nhiều gương mặt đã khẳng định được sở trường, tài năng. Thơ có khá nhiều gương mặt tiêu biểu như Phan Văn Quang, Võ văn Luyến, Hoài Quang Phương, Từ Dạ Thảo, Phan Bùi Bảo Thi, Trần Xuân An, Nguyễn Văn Dùng, Đức Tiên, Trần Đình Thành... và gần 20 tác giả thơ khác đã xuất bản từ hai đến ba tập thơ đang sinh hoạt trong Hội VHNT Quảng Trị. Chưa kể một số tác giả đã mất như Hồ Chư, Nguyễn Tiến Đạt, Hàn Nguyệt hoặc Nguyễn Hữu Quý chuyển ra Hà Nội... Về văn xuôi, mạnh nhất là đội ngũ viết ký, ký văn học lẫn ký báo chí. Những tác giả viết ký tiếp bước được các thế hệ đàn anh như Y Thi, Lê Đức Dục, Đào Tâm Thanh, Lâm Chí Công, Nguyễn Hoàn, Đinh Như Hoan, Lê Xuân Lãm, Nguyễn Bội Nhiên, Ngô Nguyên Phước, Lê Nguyên Hồng... Truyện ngắn có các tác giả tiêu biểu như Thái Đào, Hàn Vũ Hùng (đã mất), Hàn Nguyệt (đã mất), Phạm Xuân Hùng, Hoàng Hải Lâm, Hoàng Công Danh, Nguyễn Ngọc Chiến, Diệu Ái, Đặng Nguyên Sơn, Ngô Diệu Hằng... và nhiều tác giả truyện ngắn khác đang sinh hoạt trong hội Văn học nghệ thuật tỉnh. Họ là những gương mặt đã định hình hoặc mới xuất hiện, trong số họ đã có những người đạt đến mặt bằng chung của cả nước và hiện tại họ đang là lực lượng chủ chốt của văn học tỉnh nhà.
Như vậy, văn học Quảng Trị từ sau ngày đất nước đổi mới đang ở thời kỳ định hình và phát triển. Những thành công và những dấu hiệu khởi sắc cho phép chúng ta tin nó sẽ phát triển mạnh mẽ hơn nữa trong thời gian tới.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét