Ngay ở tên gọi, thơ văn xuôi đã thể hiện đặc trưng thể loại,
đặc điểm mang chất lưỡng tính. Đó là thể thơ giao thoa giữa thơ và văn xuôi.
Thơ văn xuôi ra đời bởi “nhu cầu tự thân của thời đại” (Dương Kiều Minh), bởi
nhu cầu tìm kiếm một hình thức thể hiện được những cảm xúc, trạng thái tâm lý
phức tạp của con người trong xã hội hiện đại. Cùng với thời gian, thơ văn
xuôi trở thành một trong ba hình thức cơ bản của thơ ca (hai hình thức
khác là thơ cách luật và thơ tự do).
Mới mẻ, có nhiều đột phá với dáng vẻ hiện đại và táo bạo nên
thơ văn xuôi trở thành đối tượng được quan tâm. Và rất nhiều người đã đi tìm
cho nó một khái niệm đầy đủ. Đã, đang và sẽ có rất nhiều tranh cãi khi trả lời
câu hỏi: Thơ văn xuôi là gì?
Trên thế giới đã có nhiều nhà thơ, nhà nghiên cứu đưa ra quan
niệm của mình về thơ văn xuôi. Chẳng hạn, trong lời giới thiệu Thơ văn
xuôi: Hợp tuyển quốc tế, Michanel Benedikt cho rằng thơ văn xuôi là “một thể
tài thơ, được viết bằng văn xuôi một cách chủ ý, và được đặc trưng bởi việc sử
dụng mạnh mẽ hầu như tất cả mọi phương diện của thơ ca, trong đó bao gồm hầu hết
các phương tiện của luật thơ, ngoại trừ sự ngắt dòng”.
Ở Việt Nam, ngay từ Thơ mới, các nhà thơ đã cố gắng nhận mặt
đặt tên cho thể loại này nhưng chưa có được khái niệm làm thỏa mãn tất cả mọi
người. Có tác giả trong cuốn Thơ trữ tình Việt Nam 1975 - 2000đã viết “Thơ
văn xuôi là loại thơ trữ tình có cấu trúc câu giống văn xuôi, câu nọ tiếp câu
kia không xuống dòng, gần như không vần, nhịp điệu không mang đầy đủ tính chất
cố định, mạch câu chảy tràn không chịu ràng buộc theo niêm luật nào, là sự dãn
ra của các hình thức thơ tự do, rất dạt dào tình ý và cảm xúc” (1). Khái niệm
này đã nêu được khá đầy đủ đặc điểm hình thức và nội dung của thơ văn xuôi. Tuy
nhiên, cần phải nói thêm rằng, một trong những yếu tố đặc biệt quan trọng, khiến
cho thơ văn xuôi chứa đựng và phản ánh một dung lượng hiện thực lớn của cuộc sống,
đồng thời phản ánh được rõ nhất tư tưởng của nhà thơ, ấy là ngôn ngữ thơ, thứ
ngôn ngữ chứa đựng những trường liên tưởng, suy tưởng mở rộng.
Khi thưởng thức và nghiên cứu thơ văn xuôi, dễ nhận thấy rằng thơ
văn xuôi rất gần gũi và có sự giao thoa với một số thể loại văn học khác
như túy bút văn học và thơ tự do. Ranh giới giữa chúng không phải
lúc nào cũng thật rõ ràng. Song, để xác định nội hàm khái niệm thơ văn xuôi,
chúng tôi nghĩ, cần phải chỉ ra ranh giới giữa thơ văn xuôi và các thể
loại trung gian đó.
Thơ văn xuôi là một thể loại sinh sau đẻ muộn trong tiến
trình lịch sử văn học thế giới.
Trên thế giới, nhiều ý kiến đồng ý rằng, thơ văn xuôi đã
được thử nghiệm từ TK XVIII hay Gaspard de la nuit của Aloysiuss
Bertrand mới là tác phẩm đầu tiên hiện diện chính thức trên thi đàn với tư
cách thơ văn xuôi thì cũng phải đến khi tác phẩm của Baudelare xuất
hiện (năm 1855: tập Paris u buồn (Paris Spleen), năm 1858: tập Những
bài thơ đêm và sau đó năm 1867: tập Những tiểu phẩm thơ văn xuôi)
mới giành được sự thừa nhận rộng rãi. Và một trong số những tác phẩm thơ văn
xuôi xuất sắc nhất chính là tập Hoa đăng (xuất bản năm 1886) của Rimbaud.
Cuốn Những bức vẽ bằng phấn màu của Stuart Merrill,
một tuyển tập thơ văn xuôi Pháp lần đầu tiên được dịch sang tiếng Anh xuất bản ở
New York năm 1890 đã giới thiệu đến công chúng nói tiếng Anh những bài thơ văn
xuôi rất đặc sắc. Trong những năm tiếp theo, thơ văn xuôi bắt đầu thu hút được
sự yêu thích của các nhà thơ trong trường phái suy đồi. Các đại diện chính của
thơ văn xuôi Anh trong những năm cuối TK XX gồm Ernest Dowson, William Sharp và
Oscar Wilde. Trong hoàn cảnh chung của mỹ học tự ý thức, thơ văn xuôi, yếu
tố đặc trưng hóa sáng tác của các nhà văn trong những năm 1880 và 1890, rất tự
nhiên đã trở thành thể loại được ưa chuộng hơn nhờ kỹ xảo khéo léo và phong
cách tinh tế.
Nhắc đến thơ văn xuôi thế giới TK XX không thể
không kể đến những bậc thầy như Walt Whitman, R.Tagore, Edgar Allen Poe, Max
Jacob, James Joyce, Amy Lowll, Gertrude Stein, và T.S.Eliot. Hiện nay, các nhà
thơ William Carlos Williams, Russell Edson, Robert Bly, Charles Simic, Rosmarie
Waldrop là những tác giả đã thử nghiệm thành công thể thơ này.
Từ giữa TK XX đến nay, một loạt nhà thơ trên thế giới từ Âu
sang Á đã sáng tác thơ văn xuôi, trong đó có người đã đoạt giải Nobel văn học
như nhà thơ Pháp Saint John Perse (1960).
Ở Việt Nam, thơ văn xuôi đi vào đời sống văn học từ những
thập kỷ đầu của TK XX, qua sáng tác của các nhà thơ mới giai đoạn 1932-1942.
Trong công trình hợp tuyển Thi nhân Việt Nam in năm 1942, Hoài Thanh
và Hoài Chân đã viết: “Phong trào thơ mới lúc bột phát có thể xem như một cuộc
xâm lăng của văn xuôi. Văn xuôi tràn vào địa hạt thơ, phá phách tan
tành”. Đấy là nói đến ảnh hưởng của văn xuôi nói chung, một dấu hiệu của
công cuộc hiện đại hóa văn học Việt Nam, khi mà trước đây, trong thời trung đại,
văn chương Việt Nam chủ yếu phát triển ở lĩnh vực thơ ca. Trong bối cảnh đó,
thơ văn xuôi của phương Tây được coi là một trong những con đường giải phóng
cho thơ ca Việt Nam thoát khỏi sự ràng buộc của các quy tắc thơ cũ.
Thơ văn xuôi ở Việt Nam chỉ thực sự được đánh dấu khi một
số sáng tác trong thời kỳ thơ mới ra đời như Giọt sương hoa của Phạm Văn Hạnh, Giọt
mưa rơi, Đất thơm của Nguyễn Xuân Sanh, Chơi giữa mùa trăngcủa
Hàn Mặc Tử...
Nhìn vào sự hình thành và phát triển, có thể chia các chặng
đường phát triển của thơ văn xuôi Việt Nam thành 4 chặng như sau:
Trước 1945
Hoài Thanh, Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam đã gọi
sự tiếp xúc của người Việt với văn hóa phương Tây là “một cuộc biến thiên lớn
nhất trong lịch sử Việt Nam từ mấy mươi thế kỷ”(2) Và với người nghệ sĩ lúc bấy
giờ thì “phương Tây bây giờ đã đi tới chỗ sâu nhất trong hồn ta”(3). Tản Đà, Phạm
Văn Hạnh, Nguyễn Xuân Sanh, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Huy Cận..., “mỗi nhà thơ Việt
hình như mang nặng trên đầu năm bảy nhà thơ Pháp”, chắc chắn họ không thể nào
không chú ý đến thơ văn xuôi. Thơ văn xuôiđã xâm nhập vào thơ mới từ
con đường thơ tượng trưng, siêu thực... của phương Tây.
Tác giả Nguyễn Văn Hoa, Nguyễn Ngọc Thiện, bằng quan điểm của
mình, đã tuyển chọn 16 tác giả với 24 tác phẩm thơ văn xuôi giai đoạn trước
tháng 8-1945 trong cuốn Tuyển tập thơ văn xuôi (Việt Nam và nước
ngoài). Số lượng này cũng chứng tỏ rằng thơ văn xuôi đã thực sự được
những nhà thơ lãng mạn quan tâm, thử nghiệm. Hàn Mặc Tử, Đinh Hùng, Nguyễn Xuân
Sanh... đã có những áng thơ văn xuôi rất tinh khiết, trong đó ta thấy thấp
thoáng bóng dáng thơ Paul Éluard: Cảm thu của Đinh Hùng, Giọt
mưa rơi của Nguyễn Xuân Sanh,…
Các tác phẩm thơ văn xuôi thời kỳ này còn chịu nhiều ảnh hưởng
của thơ ca Pháp, đồng thời cũng thấp thoáng bóng dáng văn biền ngẫu của văn học
trung đại Việt Nam. Những nhà thơ sáng tác thơ văn xuôi ở giai
đoạn văn học trước 1945 như những người mở đường cho một thể loại văn học mới ở
Việt Nam.
Từ 1945 đến 1975
Từ 1945 đến 1975 thơ văn xuôi tiếp tục được phát triển. Trong
tổng số 110 nhà thơ, trong cuốn Tuyển tập thơ ăn xuôi (Việt Nam và nước
ngoài) ở phần “sau 1945”, chúng tôi thống kê được khoảng 17 tác giả có những
tác phẩm thơ văn xuôi sáng tác ở giai đoạn 1945 - 1975. Ngay từ đầu
thời kỳ kháng chiến chống Pháp đã xuất hiện những bài thơ văn xuôi như Đêm
mít tinh của Nguyễn Đình Thi, Nhớ của Hồng Nguyên,Nhớ máu của
Trần Mai Ninh. Một số nhà thơ nổi tiếng khác đã sáng tác các tác phẩm thơ văn
xuôi như Đặng Đình Hưng, Phạm Hổ, Thép Mới, Chế Lan Viên... Bạn đọc của một thời
mấy ai không biết đến bài thơCành phong lan bể của Chế Lan Viên, bài thơ
được xem là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất cho thể loại thơ văn
xuôi ở Việt Nam. Một cái ngoặc của Đặng Đình Hưng, Nơi dựa cuả
Nguyễn Đình Thi,... cũng là những tác phẩm thơ văn xuôi rất đáng lưu
ý.
Từ thơ mới đến 1975, thơ văn xuôi ở Việt Nam đã có
bước phát triển đáng kể. Chúng ta không thể không ghi nhận những ý thức cách
tân nghệ thuật của những nhà thơ thế hệ này.
Từ 1975 đến 1985
Từ năm 1975 trở đi thơ văn xuôi ở Việt Nam có sự tiếp nối và
phát triển mạnh mẽ. Số lượng người sáng tác ngày một lớn hơn. Thơ văn xuôi đã
có mặt trong sáng tác của hàng loạt các nhà thơ thế hệ chống Mỹ và trong sáng
tác của những nhà thơ xuất hiện sau 1975. “Hiện thực của một thời chiến trận đã
được thể hiện với một quy mô và bề dày đáng kể, thông qua hình ảnh của những
người lính. Người đọc không chỉ thấy sự hy sinh gian khổ, lòng dũng cảm ngoan
cường mà còn thấy những nghĩ suy, trải nghiệm, thấy được muôn mặt tình cảm
trong cuộc đời phong phú của những người lính chiến”(4) Đó là: Đường tới
thành phốcủa Hữu Thỉnh,...
Chỉ riêng trong cuốn Tuyển tập thơ văn xuôi (Việt Nam và
nước ngoài) chúng tôi đã thống kê được 43 tác giả thơ sáng tác vào giai đoạn
1975 - 1986 trên tổng số 110 tác giả thơ được người tuyển chọn đặt ở phần sau
1945. Điều này chứng tỏ rằng thơ văn xuôi đã thực sự trở thành một phần trong
sáng tác của các nhà thơ thế hệ này. Có những tác giả thơ trước sau vẫn chỉ viết
thơ văn xuôi, như Lê Văn Ngăn.
Về mặt nội dung, hiện thực của cuộc sống, những trạng thái
tình cảm trong tâm hồn vừa cụ thể, vừa phức tạp của con người sau chiến tranh
và trước cuộc sống mới đã đi vào thơ văn xuôi bằng những trải nghiệm
chất chứa bao suy tưởng của các nhà thơ. Người đọc sau những bài thơ ấy không
thể không ám ảnh, nghĩ suy, trăn trở.
Ngôn từ, cách ngắt nhịp, cú pháp thơ văn xuôi đến chặng này
đã có nhiều sự cách tân. Ngôn từ mới lạ, táo bạo, thể hiện rõ dấu ấn phong cách
của nhà thơ.
Thơ văn xuôi giai đoạn 1975 - 1985 là một bước phát triển của
thể loại trong tiến trình văn học Việt Nam nói chung. Sự phát triển của nó khiến
chúng ta hy vọng về một thể loại văn học không ồn ào nhưng lại rất đáng chú ý
này.
Từ 1986 đến nay
Từ 1986 đến nay, là thời kỳ đột phá trong tiến trình phát triển
của thơ văn xuôi và thơ văn xuôi đã dần khẳng định được chỗ đứng
trong thơ ca Việt Nam. Cuộc sống mới với những bộn bề, gai góc và cả những
thách thức mới đã khiến ngày càng nhiều người tìm đến với thơ văn xuôi bởi nó
truyền tải được những cảm xúc phức hợp của con người trước thời thế, nhất là những
người trẻ. Thế hệ của những người trẻ luôn muốn nói lên tiếng nói của chính
mình, tiếng nói bản thể. Lớp trẻ có phần dễ hòa nhập với thơ văn xuôi vì đó là
lối thơ phóng khoáng, dễ có được cảm giác tự do. Có lẽ vì tất cả những điều đó
và còn hơn thế nữa khiến những bài thơ văn xuôi, những người làm thơ
văn xuôi trở nên nhiều hơn. Những người đã từng làm thơ văn xuôi (trước
1986) nay vẫn tiếp tục làm thơ văn xuôi. Thế hệ thơ trẻ (lớp nhà thơ xuất
hiện vào những năm 90 của TK XX) hầu hết đều thử nghiệm thể loại thơ này và nhiều
người thành công với nó.
Khảo sát cuốn Tuyển tập thơ văn xuôi (Việt Nam và nước
ngoài) chúng tôi tiếp tục nhận thấy sự phát triển của thơ văn
xuôi Việt Nam qua số lượng các nhà thơ có những sáng tác bằng thơ văn
xuôi. Kết quả cho thấy số lượng người sáng tác ngày càng nhiều hơn. Riêng ở
giai đoạn 1986 đến nay, số lượng các nhà thơ sáng tác trước 1986 tiếp tục làm thơ
văn xuôi ở giai đoạn sau (29 tác giả) cộng với số lượng các nhà thơ thế hệ
sau đổi mới (21 tác giả) đã cho thấy thơ văn xuôi ngày càng phát triển.
Cuốn Tuyển tập thơ văn xuôi (Việt Nam và nước ngoài) được
xuất bản từ 1997. Đến nay đã hơn 10 năm, rất nhiều người trẻ tuổi làm thơ tiếp
tục khẳng định vị thế ngày càng mở rộng và lớn mạnh của thơ văn xuôi trong
tiến trình phát triển thơ ca hiện đại Việt Nam. Họ làm thơ văn xuôi để
được trải lòng mình một cách đầy đủ hơn, rõ nét hơn. Họ làm thơ văn xuôi để những
hiện thực phức tạp của cuộc sống được mở ra từ những điểm nhìn khác nhau, để những
biến thái tinh vi, những rung cảm phức tạp trong tâm hồn của con người hiện đại
sẽ được nhìn bằng cái nhìn nhiều chiều hơn.
Những nhà thơ trẻ muốn lấy thơ văn xuôi để mong muốn giải quyết
những vấn đề và những nhiệm vụ lớn của thời đại, cũng như để thể hiện những
khát vọng và tình cảm mãnh liệt của cá nhân. Đây cũng là một sứ mạng của thơ
văn xuôi. Vì thế tiềm năng của nó là rất lớn. Nhưng cũng vì thế mà thơ văn xuôi
có phần kén độc giả.
Có thể thấy rằng, thơ văn xuôi từ 1945 đến nay là một bước tiến
dài của thể loại. “Nó thực sự để lại những dấu ấn riêng khi nhìn nhận gương mặt
các tác giả thơ ở từng thời kỳ cụ thể”(5). Chúng tôi nghĩ thơ văn xuôi có
triển vọng phát triển ở nước ta. Bạn đọc có quyền hy vọng vào thể loại văn học
này ở Việt Nam. Thời đại mới sẽ mở ra tâm thế mới.
Ghi chú:
Ghi chú:
1. 4. 5. Nguyễn Văn Hoa, Nguyễn Ngọc Thiện, Tuyển tập
thơ văn xuôi (Việt Nam và nước ngoài), Nxb Văn học, Hà Nội, 1997, tr.87,
116.
2, 3. Hoài
Thanh, Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội, 1998.
tr.15, 17.
Vũ Quỳnh Loan
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét