Trong thân xác không còn bề thế, tiểu thuyết ngắn
(một hình thức tiểu thuyết với dung lượng khoảng từ 300 trang trở xuống, xuất
hiện ở Việt Nam từ những năm 90 TK XX, nở rộ trong những năm đầu TK XXI) thường
hướng đến tinh thần phân mảnh. Đặc tính này thẩm thấu ở hầu hết các phương
diện khác nhau, từ cốt truyện đến nhân vật. Cùng với kiểu cốt truyện lắp ghép,
việc xây dựng nhân vật phân rã về tính cách, như những mảnh đoạn không liền kề,
đánh dấu nỗ lực trong hành trình kiếm tìm những cách tân của nghệ thuật tiểu
thuyết; cũng cho thấy một tư duy văn học mới, khi nhà văn từ chối cái nhìn bao
quát để thừa nhận một giới hạn nhất định trong khả năng phản ánh hiện thực, con
người.
Theo quan niệm truyền thống, nhân vật có vai trò vô cùng quan
trọng, bởi “đó là hình thức cơ bản để qua đó, văn học miêu tả thế giới một cách
hình tượng”(1). Cũng có những thời điểm người ta cho rằng nhân vật không còn tồn
tại trong tác phẩm văn học và nghi ngờ tính bền vững trong lý thuyết về vai trò
của nhân vật. Khi tiểu thuyết mới, xuất hiện ở Pháp những năm 50 TK
XX, nghiêng về miêu tả thế giới đồ vật, dư luận cho rằng tiểu thuyết mới có
tham vọng đuổi con người ra khỏi thế giới. Trên thực tế, chỉ là việc các nhà tiểu
thuyết mới không xây dựng nhân vật như kiểu tiểu thuyết thời Banzắc. Quan tâm
hơn đến đồ vật cũng là một cách để hướng tới con người. Dù truyền thống hay
cách tân thì nhân vật cũng chưa và sẽ không biến mất khỏi tác phẩm,
chừng nào văn học còn là sáng tạo của con người. Tiểu thuyết, ngoài khả năng
tái hiện bức tranh toàn cảnh của đời sống xã hội, còn có khả năng đi sâu khám
phá số phận con người.
Tất nhiên, góc nhìn con người và cách thức xây dựng hình tượng
nhân vật ở mỗi một giai đoạn văn học là không giống nhau. Trước 1975, trong văn
học Việt Nam, việc xây dựng nhân vật tiểu thuyết bị chi phối bởi cái nhìn sử
thi và theo nguyên tắc phân tuyến; sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, có sự
chuyển biến từ tư duy sử thi sang tư duy tiểu thuyết. Không có sự bó buộc,
không có cái nhìn toàn tri, nhân vật trong mỗi tác phẩm là ẩn số cho tài
năng sáng tạo của nhà văn. Mang đặc tính phân mảnh, nhân vật tiểu thuyết ngắn,
thể hiện một tư duy tiểu thuyết hiện đại: tính tổng thể của thế giới không phải
là hướng đích trong nhận thức và biểu đạt của nhà văn.
Tìm hiểu về tính chất không liền mảnh của nhân vật tiểu thuyết
ngắn đương đại, chúng tôi tán đồng với ý kiến của Đặng Anh Đào: đó “không phải
là tính chất nhiều mặt của cái tôi đã xuất hiện với tư cách là đề tài, môtip… từ
những thế kỷ trước” mà là sự “hủy diệt tính cách nhân vật, hiểu theo nghĩa nhân
vật bị cắt thành nhiều mảnh khó lắp ghép tạo dựng lại”(2). Với ý nghĩa đó, khó
có thể tìm thấy ở nhân vật tiểu thuyết ngắn đương đại những tính cách nhân vật
đích thực. Xây dựng những hình tượng nhân vật phân rã về tính cách, các nhà văn
đã cố tình mờ hóa, thậm chí xóa bỏ hoàn toàn đặc điểm nhân thân của nhân vật, tạo
ra những mô hình nhân vật như là bức thông điệp về sự đánh mất bản sắc
cá nhân trong một xã hội bị thống trị bởi văn minh kỹ trị và nhìn nhận nhân vật
như những mảnh không liền kề.
Xuất hiện qua tâm trạng hoặc một nét trạng thái tâm lý, đặt
trong cấu trúc lịch sử - tâm hồn và việc vận dụng phổ biến kỹ thuật dòng nội
tâm, tính chất không liền mảnh của nhân vật có thể coi là hệ quả tất yếu. Kiên
trong Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh được tạo dựng bởi hai mảnh
không thể nào lắp ghép: khát khao viết để vượt qua nỗi ám ảnh về chính cuộc chiến
mà anh vừa thoát ra và quá trình tự hủy từ những gì vừa viết. Cuộc vật lộn với cái
viết của nhà văn phường cho thấy sự phức tạp mà chính anh cũng
khó nắm bắt “ở ngoài tầm với của tâm hồn anh, tuồng như nó còn lạc sâu trong miền
bất khả tri của cõi lòng, miền của những bí quyết và năng lực tinh thần có thể
là bẩm sinh song rất có thể chẳng bao giờ bộc lộ, mãi mãi chỉ là tiềm ẩn”(3).
Thế giới con người không liền mảnh được đặt trong mối liên hệ với kỹ thuật độc
thoại nội tâm và dòng tâm tư là sắc điệu chính, chủ âm của Nỗi buồn chiến
tranh. Trong mối quan hệ với việc xây dựng nhân vật, kỹ thuật này mở ra khả
năng khám phá thế giới con người vô cùng phức tạp. Kiên vẫn chưa thôi nhớ về
Phương, về một thời vô tư sân trường Bưởi..., nhưng anh lại cũng không thể quên
đi nỗi ám ảnh về sự hủy diệt tàn độc của chiến tranh. Ngày tháng của đời
anh cứ lùi lại mãi mà Phương thì đâu chỉ là quá khứ, nỗi buồn chiến tranh
dù có cao cả, cao hơn hạnh phúc và vượt trên đau khổ nhưng lại “ngăn không cho
anh cảm thấy một chút nhẹ lòng trong đời sống hiện tại”(4). Những dòng nội tâm
chảy tràn, đan xen các chiều thời gian, đồng hiện cả ký ức lẫn vô thức, tiềm thức…
đều góp phần biểu đạt hình tượng nhân vật trong tính đứt đoạn, phân rã về tính
cách.
Ở Nguyễn Bình Phương, tính chất không liền mảnh của nhân vật
được thể hiện bằng một lối viết khác. Trong Thoạt kỳ thủy, “thói quen, bản
năng và tính thiện trong trạng thái thoạt kỳ thủy mù mờ” là “ba cánh cửa mở ra
một thế giới khác trước”, bởi vậy nhân vật cũng bị cắt thành những mảnh dằng
díu trong cái thế chân kiềng ấy. Dục vọng tàn sát, hủy diệt của Tính hình thành
từ thói quen mang tính bản năng: từ nhỏ đã thích giết kiến, giết công cống.
Theo năm tháng, dục vọng đó không thể cưỡng lại, Tính giết người. Nhưng trong
cái con người mang đầy tính bản năng này vẫn le lói ánh sáng thiện lương, có thể
được bộc lộ qua một nỗi sợ hãi mơ hồ (5). Cái khác Nguyễn Bình Phương còn thể
hiện ở giọng văn nhát gừng, những câu đứt đoạn, rời rạc, chỏng lỏn. Tính chất đứt
đoạn thể hiện rõ nhất trong những đoạn đối thoại. Nếu “lời đối thoại gắn liền với
việc những người nói hướng vào nhau và tác động tới nhau”(6) thì việc một số lời
đối thoại của nhân vật dường như “không hướng vào nhau và tác động tới nhau” bộc
lộ sự rời rạc, thiếu liền kề, phân mảnh (7).
Những đoạn đối thoại kiểu này khá phổ biến, cho thấy tính chất
đứt đoạn của nhân vật không chỉ tồn tại bên trong với những mảnh, những nét trạng
thái tâm lý khó lắp ghép mà còn biểu hiện ra ở mối liên hệ với thế giới bên
ngoài. Mỗi người theo đuổi ý nghĩ riêng ngay trong cuộc thoại. Đối thoại, lúc
này, trở thành hành trình độc thoại của nhân vật. Đáng lẽ phải hướng vào
nhau thì nhân vật lại tự bộc lộ dòng suy tưởng, chiều sâu vô thức. Điều đó
“tiềm ẩn một hiện tượng đầy nghịch lý: đó là những con người cô đơn trong một
thế giới dư thừa phương tiện giao tiếp. Một mảnh của người họ đang tồn tại ở
đây, đang đối thoại, song con người toàn vẹn và đích thực có khi không xuất hiện
qua đối thoại”(8). Trong Thoạt kỳ thủy, Nguyễn Bình Phương còn sử dụng kiểu
câu gồm những mệnh đề độc lập, rời rạc, không liên tục và dường như không có mối
liên quan nào: “Ông Phùng im. Bà Liên đi lại, ông Phùng chào, không đáp. Hiền
vén tóc mai, với lấy tích nước. Ông Phùng về, mặt bà Liên nặng trịch”(9). Vậy
là, ở một cấp độ nhỏ nhất, cấp độ câu, nhà tiểu thuyết cũng đã cố tình tạo sự đứt
đoạn, rời rạc, mỗi câu như một hòn đảo. Thế giới của con người không liền
mảnh được bộc lộ ngay từ cách viết.
Khẩn trong Ngồi cũng là một kiểu nhân vật mang
thiên hướng phân mảnh khá rõ mà Nguyễn Bình Phương đã tạo dựng. Khẩn tồn tại bằng
một trạng thái phân mảnh: bụi bặm trong phồn tạp đời thường và trong trẻo
chốn vô thức, tâm linh. Sống với Minh ở một khu tập thể, với tiếng trẻ con
khóc, tiếng chửi bới nhau; làm việc ở một cơ quan cũng với đủ trò đời như
phe cánh, đấu đá…, màu sắc trần tục đó của cuộc mưu sinh Khẩn nếm trải hết
nhưng trong con người anh vẫn cảm nhận rất rõ ràng tiếng nói ngọt ngào mê
lịm từ thăm thẳm tâm linh. Tính chất phân mảnh của nhân vật, đặt trong cấu trúc
chỉnh thể tác phẩm, làm cho Ngồi quyến rũ hơn trong bảng hòa sắc
kỳ dị giữa các gam màu. Để thể hiện cái thế giới của con người không liền mảnh,
nếu Thoạt kỳ thủy chú trọng đến giọng văn nhát gừng hoặc những câu đứt
đoạn, chỏng lỏn thì Ngồi lại khó tách bạch trong sự quyện hòa giữa thực
tại và hư ảo, ý thức và tiềm thức, vô thức. Trong những đoạn độc thoại nội tâm
(mà chủ yếu là những lời vô thức rối rắm, lộn xộn), Tính (Thoạt kỳ thủy) thể hiện
rõ chất phân mảnh; với Khẩn không còn là những đoạn độc thoại tách ra một cách
khá rõ ràng như thế, tính chất phân mảnh bộc lộ qua trạng thái vô thức đan xen
tự nhiên, xuất hiện trong bất cứ khoảnh khắc nào của thời gian sống mà chính
nhân vật cũng không thể ý thức. Vậy nên với Ngồi, có thể nói bút pháp phân
mảnh của Nguyễn Bình Phương đã tiến thêm một bước. Một thế giới sôi động đến mức
hỗn độn, tồn tại song trùng với một thế giới sâu thẳm, thanh thản và yên tĩnh sắc
tâm linh. Vẻ phong phú, đa diện, phức tạp, lắp ghép đó người đọc đã cảm nhận được
bằng chính hình tượng nhân vật mang tính phân mảnh.
Nếu nói “tính chất một mảnh hoặc không liền mảnh là một hậu
quả của khuynh hướng thiên về gợi mở tâm trạng của tiểu thuyết hiện đại” (10)
thì ở hầu hết tiểu thuyết ngắn đương đại đều thể hiện đặc tính không liền mảnh
bởi mỗi một tác phẩm đều là một dòng tâm trạng. Nhân vật của Chinatown (tiểu
thuyết của Thuận) được phơi trải qua một cuộc độc thoại nội tâm dài.
Trong cuộc hành trình của cái tôi ấy, nhân vật không hướng ra bên
ngoài, hướng ra hành động (những hành động có tính chất xâu chuỗi góp phần thúc
đẩy cốt truyện và phát triển tính cách nhân vật) mà đan xen, rời rạc, đứt đoạn,
phân mảnh trong rất nhiều những nghĩ suy. Trong chuỗi độc thoại nội tâm đó vang
lên hai cung bậc chính như là hai mảnh của tâm trạng, đối ngược và khó gắn kết
nhưng lại cùng tồn tại: tuyệt vọng và hy vọng. Ba mươi chín tuổi, người phụ nữ
cảm thấy hết nỗi tuyệt vọng của sự đợi chờ vô vọng. Nhưng giấc mơ trắng muốt
trên nền đệm trắng muốt, chỉ làgiấc mơ mười lăm phút thôi, vẫn đem lại cả
một niềm hy vọng, dù sau bốn mươi năm là một đoạn đời khác. Ở đây, vẫn nhắc lại,
không phải là kiểu con người phân thân của tiểu thuyết truyền thống
(kiểu như hình và bóng, quỷ sứ và người ở Chamisso và Balzac) mà
nó là một vấn đề nghệ thuật, đánh dấu một tư duy tiểu thuyết hiện đại. Nếu ở Thoạt
kỳ thủy, tính chất phân mảnh của nhân vật bộc lộ ngay ở những câu rời rạc, đứt
đoạn thì ở Chinatown là sự chồng chéo, khó phân biệt và cũng khó lắp
ghép các chiều thời gian, các dòng tâm trạng: “Tôi bế thằng Vĩnh vào khoang máy
bay. Hai cô chiêu đãi viên kéo cái thang lên. Tôi chỉ kịp thấy từ xa bố mẹ tôi
vẫy vẫy. Trong tay mẹ tôi là cái khăn mùi soa tôi để quên ở nhà vệ sinh công cộng
lúc nãy… Tôi chỉ muốn gặp Thụy để hỏi. Tôi muốn hoãn tất cả chỉ để gặp Thụy. Những
ngày ấy Thụy ở đâu, gặp ai, làm gì. Ngôi nhà hai tầng, bảng hiệu chữ Hoa, hai
cái đèn lồng. Những ngày ấy tôi nằm ôm thằng Vĩnh... Tôi và Thụy ngồi uống chè
các buổi sáng. Tôi đọc sách cho Thụy các buổi chiều muộn. Tôi kể cho Thụy về
Leningrad... Tôi bước lên máy bay nước mắt vòng quanh”(11).
Yếu tố thời gian đóng một vai trò quan trọng trong nghệ thuật
tiểu thuyết hiện đại, trên phương diện xây dựng nhân vật nó góp phần tạo dựng một
thế giới nội tâm con người phức tạp, đa chiều, không liền mảnh. Trong trường hợp Chinatown,
những chiều thời gian chảy trôi, đứt đoạn, không liền mạch là lợi khí để nhà
văn mô tả những mảnh tâm trạng ngổn ngang, không thể ráp nối của kiểu nhân vật
mang đặc tính phân mảnh. Rời rã, thiếu sự liền kề, nhân vật trong tiểu thuyết
như những con người dường như chưa thông hiểu nhau và cũng chưa thông hiểu cả
chính mình. Người phụ nữ ấy muốn hoãn lại tất cả những gì mình có trong cuộc đời,
những kỷ niệm vừa khôi hài vừa xót xa, tình yêu và bổn phận, trách nhiệm và sự
thành công trên con đường học vấn…, sống gần nửa đời người chỉ với một băn
khoăn về bố của con trai mình: “Những ngày ấy Thụy ở đâu, gặp ai, làm gì...”.
Không còn những mối dây liên hệ, phải chăng thế giới cần được gắn kết từ những
đứt đoạn, rời rạc đó? Chạy một mạch suốt 200 trang sách, không chia chương chia
đoạn, nhưng Chinatown lại gieo vào lòng người cảm giác nhức nhối của
sự đứt gãy, cô đơn, cảm giác đến từ chính hình tượng nhân vật phân mảnh.
Có đôi khi tính chất ghép mảnh của nhân vật là hệ quả của kỹ
thuật lồng ghép thể loại của tiểu thuyết. Ở Thiên sứ của Phạm Thị
Hoài, hành động và lời nói của nhân vật đều là những phiến đoạn trong các cuốn
phim, các lớp kịch đang thịnh hành thời đó (cuối thập kỷ 80 TK XX). Chúng khắc
họa nhân vật ở chính tinh thần lắp ghép này. Nhân vật là một chuỗi lắp ghép giả
tạo, bắt chước. Tinh thần phân mảnh đi dọc tiểu thuyết, cho đến chi tiết kết
truyện, cô bé Hoài ngỡ mình sẽ ra đi cùng với tình yêu vĩnh cửu của mình (khi
cô trở thành thiếu nữ) thì lại bị chối từ vì người cô yêu chờ đợi một cô bé
Hoài khác, cô bé Hoài trước đây. Tính chất phân mảnh trong hình tượng nhân vật
biểu trưng về một thế giới đã mất còn hiện tại chỉ là ngộ nhận, dang dở, là sự
lắp ghép mà thôi (12).
Cùng với việc mờ hóa hoặc xóa bỏ hoàn toàn lai lịch nhân vật, mô
hình và nhất là phân mảnh là những đặc điểm trong xây dựng nhân
vật của tiểu thuyết ngắn đương đại. Mang đặc tính mô hình và phân mảnh, cách thức
xây dựng nhân vật cho thấy vừa là khả năng đồng thời cũng là sự giới hạn trong
khả năng khám phá và biểu đạt thế giới của nhà văn. Khi nhà văn (qua hình tượng
nhân vật) phản ánh thế giới bằng dạng thức mô hình, tính khái quát là đặc tính
muốn hướng đến; khi tinh thần phân mảnh trở thành tinh thần chủ đạo, nhà văn bộc
lộ sự khiêm tốn trong khả năng ôm trùm hiện thực. Khái quát
hay nhỏ lẻ, mô hình hay phân mảnh, nhân vật tiểu thuyết ngắn, trong xu hướng
tìm tòi những cách tân, đổi mới của tiểu thuyết hiện đại, đều hướng về
khơi gợi sự thể nghiệm hơn là miêu tả nó hoặc bình luận nó. Từ những đặc điểm mờ
hóa, xóa bỏ mọi đường viền nhân thân để nhân vật hiện lên như một trạng thái
tâm lý, đến đặc tính mô hình và phân mảnh là kết quả tất yếu của khuynh hướng
thiên về gợi mở tâm trạng của tiểu thuyết hiện đại. Không còn những chỉ dẫn
(qua lai lịch nhân vật), không còn những tính cách cụ thể, sinh động (chỉ là những
mô hình), nhân vật phân rã hoàn toàn về tính cách (đặc trưng tính phân mảnh), quá
trình tiếp nhận tiểu thuyết lúc này trở thành quá trình sáng tạo. Đứng
ở góc độ này, vấn đề xây dựng nhân vật của tiểu thuyết ngắn hoàn thiện hơn cách
thức đổi mới tư duy tiểu thuyết, cũng là đổi mới tư duy văn học hiện đại.
Ghi chú:
1, 7. Nguyễn Bình Phương, Thoạt kỳ thủy, Nxb Văn học,
Hà Nội, 2005, tr.77, 35.
2, 6, 8, 10. Đặng Anh Đào, Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết
phương Tây hiện đại, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2001, tr.59, 56, 57, 55.
3, 4. Bảo Ninh, Thân phận của tình yêu, Nxb Hội nhà
văn, Hà Nội, 2005, tr.53, 295.
5, 9. Nguyễn Bình Phương, Ngồi, Nxb Đà Nẵng, 2006,
tr.156, 62.
11. Thuận, Chinatown, Nxb Văn học, Hà Nội, 2009,
tr.31.
12. Phạm Thị Hoài, Thiên sứ, Nxb Trẻ, TP.HCM, 1989, tr.31.
Hoàng Thị Huệ
Nguồn: Tạp chí VHNT số 334, tháng 4-2012
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét