Bức ảnh hiếm hoi chụp Phạm Duy
với nữ thi sĩ Lệ Lan
với nữ thi sĩ Lệ Lan
Ông kể lại trong cuốn hồi ký còn trong dạng bản thảo của mình
rằng gánh hát Đức Huy - Charlot Miều lúc đó phải ghé qua Phan Rang trước khi
lên được “Một nơi thần tiên là Đà Lạt”. Trong thời gian dừng chân ở Phan Rang,
Phạm Duy gặp một nhân vật quan trọng, đó là Bảo Đại, tặng quốc trưởng một đêm
hát “vo” (hát chay, không tính tiền) và có cuộc chuyện trò đầy kính trọng, cảm
mến.
Trong câu chuyện về cuộc hành trình lên Đà Lạt, ta thấy không
khí đô thị êm đềm đằng sau những chi tiết thú vị: “Vào hồi đầu thập niên 1940,
người dân đen muốn tới thành phố Đà Lạt không phải là chuyện dễ dàng đâu! Phải
làm đơn xin phép và chờ Sở mật thám điều tra rồi ba tháng sau mới có giấy đi.
Thường thường chỉ là giấy cho phép tới nghỉ mát
(villégiature) trong một thời hạn nào đó. Nếu muốn tới làm ăn sinh sống ở Đà Lạt
thì lại một chuyện khác, một chuyện khó khăn vô cùng. Người Pháp thành lập ra
thắng cảnh Đà Lạt để dành riêng cho người da trắng. Gánh Đức Huy lên Đà Lạt dễ
dàng vì anh Chúc đã đút tiền cho Sở cảnh sát rồi”.
Tại Đà Lạt lần này, Phạm Duy gặp nghệ sĩ Lữ Liên, tức thân phụ
của ca sĩ Tuấn Ngọc vừa mới nhập cư, đang làm việc cho một ban kịch tài tử và
đài phát thanh. Tuy nhiên, những cuộc hạnh ngộ với người, với đất lần đầu tiên
đã không đủ để nẩy lên trong tâm hồn chàng nghệ sĩ đa tình hào hoa này một giai
điệu hay khúc hát bộc phát tức thì nào cả. Mà phải đợi đến 25 năm sau…
Cỏ xanh đổi sắc theo nhân tình
Năm 1970, những đồi cỏ hồng, chốn hẹn hò yêu đương của Đà Lạt
mới quấn quýt trở về với Phạm Duy sau cơn dư chấn tình cảm lớn lao xảy ra với
loài “nòi tình” Lệ Lan, người tình trẻ mà ông yêu say đắm trong suốt mười năm,
vừa đi lấy chồng. Những gì còn lại có thể níu kéo, vỗ về, đó là hồi ức của hơn
chục lần đi về trong ái tình réo gọi. Phạm Duy viết trong hồi ký: “Sau này, tôi
có tối thiểu hơn mười lần đi về chốn cao nguyên Đà Lạt.
Lần nào cũng nằm tròn trong vòng tay ân ái của một người
tình. Một người giúp tôi soạn nổi rất nhiều câu hát ái tình, từ ngày đó có em
đi nhẹ vào đời cho tới nghìn trùng xa cách người đã đi rồi… Và có đầy đủ những
kỷ niệm tươi vui hay buồn bã nhưng tất cả những nỗi hân hoan hay ủ rũ cũng đều
không se sắt hay nặng nề mà chỉ êm đềm như màu trăng đã ấp ủ tôi vào những đêm
đầu tiên tới Đà Lạt này. Một màu trăng đã đến từ lâu với nhà thơ Hàn Mặc Tử: Cả
trời say nhuộm một màu trăng/ Và cả lòng tôi chỉ nói rằng/ Không một tiếng gì
nghe động chạm/ Dẫu là tiếng vỡ của sao băng”.
Tuy nhiên, Phạm Duy cũng có thừa nhận rằng, với bản Cỏ hồng,
ông chỉ là người “bắt chước” lối nhạc ca ngợi dục tính của đôi du ca mới nổi Lê
Uyên Phương nơi đô thị cao nguyên: “Vào năm 1970, sau khi tôi đã soạn xong những
bài như Trả lại em yêu, Con đường tình ta đi… vốn là những bài ca tình cảm mô tả
cuộc tình của những lứa đôi đang sống một cuộc đời bấp bênh vì không tránh khỏi
cảnh xa nhau bởi thời thế. Một nhạc sĩ khác, Lê Uyên Phương, tung ra một loạt
ca khúc mang chất dục tính, ví dụ như bài Vũng lầy của chúng ta. Tôi bắt chước
anh, soạn một bài có tính chất xưng tụng nhục thể” (*).
Có những đoạn trong Cỏ hồng mang âm hưởng từng đợt sóng dập dồn
từ thấp lên cao, từ nhẹ đến mạnh, từ vuốt ve đến cao trào. Về tưởng tượng âm
hình, có thể thấy những đường cong giao nhau tiếp nối liên tục, bản thân cách
gieo nốt trên khuông nhạc đã vẽ ra trước mắt nhạc ảnh núi đồi, của nhục thể nhấp
nhô, của cung bậc cảm xúc trừu tượng khi đôi sinh vật đang ngấu nghiến thụ hưởng
cơn say tình diễm tuyệt. Nhưng trong cơn mê say đó, không có sự vồ vập vội
vàng, mà thong dong, thư thái…
Rồi chính Lê Uyên Phương, đôi tình nhân du “sứ giả của tình
yêu đơn sơ và hoang dại” sinh ra bởi Đà Lạt đã thể hiện thành công tình khúc tụng
ca yêu đương này trong bộ phim Gánh hàng hoa của Lê Mộng Hoàng.
Phạm Duy còn một sáng tác nữa về Đà Lạt. Cũng tinh tế và cao
khiết lạ lùng. Ở đó, ông muốn dệt lại màu trăng dĩ vãng trong cảm nhận riêng đầy
thanh thoát trên nền chữ khói sương của tuyệt tác thi ca Đà Lạt trăng mờ (Hàn Mặc
Tử). Phạm Duy viết: “Chúng ta có nhiều bài hát xưng tụng miền thông réo, suối
reo ở Đà Lạt. Nhưng chỉ với bài thơ phổ Đà Lạt trăng mờ, ta mới thấy được sự
thiêng liêng của đất trời cao nguyên trong một đêm trăng giá lạnh. Phần nhạc dạo
tạo ngay cảm tưởng về một sự thiêng liêng huyền nhiệm của không gian qua cảm nhận
của nhà thơ. Nhạc đề của phân khúc là nỗi đắm say trong tiếng gọi ảo huyền của
cái Đẹp mà nhà thơ đã cảm thán rằng phút thiêng liêng đã khởi đầu…”.
Chỉ với hai ca khúc nhưng đủ dựng nên một cõi đào nguyên có
tên “Đà Lạt” trong cuộc rong chơi âm nhạc của người nhạc sĩ nòi tình, tài hoa
hàng đầu trong nền tân nhạc VN.
(*) Phạm Duy (2014). Vang vọng một thời, Phương Nam Book và
NXB Hồng Đức.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét