Làm ruộng theo lối xưa
Người ta đang bàn chuyện những cánh đồng thông minh, nền nông
nghiệp 4.0, mắc mớ cái dây mơ rễ má gì mà đi nhắc chuyện ruộng đồng lối cũ, lối
xưa?
Tự vấn rồi tự trả lời, không hiểu rành rọt quá khứ làm sao vững
bước đến tương lai! Có tương lai nào mà không cần bệ đỡ của nền văn hóa truyền
thống cổ xưa! Dù có đổi thay, thì quá khứ và tương lai vẫn xuyên suốt nối liền
song hành và biến đổi hài hòa để tồn tại và phát triển.
Nhắc chuyện làm ruộng theo lối xưa để mà soi rọi cho những
chuyện ngày nay vậy mà.
Hy vọng du lịch nông nghiệp sẽ góp một
phần khôi phục hình ảnh lối làm ruộng xưa.
Chiều sâu văn hóa
Sau chuyện chuẩn bị những ngày mùa với biết bao lo toan, bận
rộn thì nông dân coi như khỏe và chờ nước về… Cứ tréo ngoảy trên võng ca vọng cổ,
buồn buồn thả mấy tay lưới kiếm thêm cá mắm cải thiện bữa ăn hay làm mồi lai
rai ngắm đồng chiều mênh mông bát ngát.
Đợi đến ngày thu hoạch cho lúa chạy về bồ. Vậy nên, hồi xưa
ông bà làm lúa mùa mỗi năm chỉ có 1 vụ mà sao nghe chuyện “xong ruộng” đến hai
lần là vậy. Xong ruộng đợt đầu là đã làm đất cấy mạ, giặm, sạ xong xuôi; xong
ruộng đợt hai chính là thu hoạch.
Con trâu nó cũng theo người mà nhọc nhằn, sướng khổ theo mùa
lúa nổi. Vậy nên ngoài chuyện bầy trâu là gia sản, sự nghiệp thì nó còn là người
bạn, thành viên thân thiết, thậm chí là người ơn của nông dân mình vậy. Đó là
nét văn hóa đẹp làm sao.
Đẹp đến nỗi trâu được đưa vào bài học thuộc lòng đầu tiên cho
tụi nhỏ vào lớp 1: “Trâu ơi ta bảo trâu này. Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với
ta”.
Cái văn hóa “biết ơn” của nền nông nghiệp lúa nước. Cảm ơn
con trâu, cảm ơn nhà nông, cảm ơn đất đai dương trạch, Thành hoàng, Bổn cảnh…
phò hộ cho mưa thuận gió hòa, cho mùa màng tốt tươi.
Cảm cái ơn nên người Nam Bộ xưa mỗi bữa cơm phải nâng đũa chắp
tay van vái. Đó là văn hóa truyền thống nông nghiệp.
Lại bắt nhớ về một không gian văn hóa đồng bằng mình đã biệt
hình biệt dạng từ lâu, với những chiếc xuồng con trôi giữa đám ruộng mùa nước nổi,
lá lúa cọ vào be xuồng xào xạc, có mấy thằng nhỏ chăm chăm mắt tìm bắt từng con
nhền nhện đem về làm mồi câu cá chơi…
Mà cũng chẳng phải mắc công, cứ móc mồi thả câu ngay trên ruộng
lúa. Cá mắm ăn ngả nào cho hết. Nên phải có kinh nghiệm câu mồi gì, câu kiểu
nào để mà… lựa bắt loại cá nào ăn cho ngon. Cái kiểu bắt cá thú vui chớ không
phải là chuyện mưu sinh nhọc nhằn gì đối với tụi nhỏ ngày xưa.
Sau mùa nước đỏ trên sông, khi đã đổ vào ruộng đồng nước được…
lóng phèn nên cả đồng nước, cả dòng sông trở nên trong leo lẻo, trong đến nỗi đếm
từng con cá, từng bầy cá khoe mình nhởn nhơ với bao nhiêu là sắc màu quyến rũ.
Giờ thì còn lại bao nhiêu, những bầy cá lòng tong đá, lòng
tong bay, lòng tong mương, cá chài, cá éc, mè dãnh, mè dinh, cá ngựa,… có mà đỏ
mắt đi tìm ở các chợ quê, hay chúng đã rủ rê nhau lội về miền “tuyệt chủng”?
Đỉnh cao văn minh
Chuyện cá mắm nói nhiều quá rồi, nói chuyện cọng bàng nghe
chơi, coi ông bà mình hồi xưa sống có phải là đỉnh cao của văn hóa, văn minh
hay chưa!
Cái chuyện nỗi khổ của thời đại ô nhiễm rác thải nhựa đó hả,
dễ ụi hà, tất cả mọi chuyện xưa cây bàng, cây lác giải quyết hết.
Ngẫm nghĩ, biết đâu sau này trong cái “phong trào” du lịch
nông nghiệp, cọng bàng sẽ trở lại chễm chệ trong các nhà hàng, khu nghỉ dưỡng
cao cấp. Rồi sẽ được xuất ngoại như món hàng mỹ nghệ có hàm lượng văn hóa cao của
miền Tây Nam Bộ.
Đất đai mênh mông, có những vùng nê địa, đất hoang không khai
phá nổi thì cỏ cây mọc đầy. Chuyện cọng lác dệt chiếu rồi giao thời chuyển qua
chiếu ny lông “đẹp lộng lẫy” được nhiều người ưa chuộng lại dễ làm, phần nhà có
đông con nít đái dầm, thôi thì chiếu ny lông cho nó sướng.
Thành phần rác nhựa đã bắt đầu “chen lấn” vào văn hóa “chiếu
lác”, từ đó mà… góp phần ô nhiễm môi trường rồi.
Cái thứ rác này nó nhanh chóng xâm lấn vào đời sống nông
thôn, cho đến từng cái giỏ, cái túi xách, dần đẩy lùi vai trò của cọng lác, cọng
bàng một cách nhanh chóng.
Phần do sự lựa chọn tiêu dùng hướng đến sự tân tiến, phần tiện
lợi; nhưng quan trọng chính là cách làm ruộng đổi thay nên cọng bàng cũng ngày
càng vắng bóng.
Những vòng gặt lúa mùa của
đồng bào Khmer Nam Bộ.
Nên nhớ, ông bà mình hồi xưa trữ lúa bằng bồ nan cật tre, còn
đựng lúa bằng bao cọng bàng, mới thấy nó hay làm sao.
Hồi đó, đựng lúa bằng cái cà ròn theo tiếng Khmer, chính là
bao dệt bằng cọng cỏ bàng. Một loại cỏ hoang giống cỏ lác, nhưng cọng tròn mọc
từng đám ở vùng lung sâu, phèn nặng.
Ở vùng Tứ giác Long Xuyên hồi đó nhiều lắm, ông bà mình nhổ về
phơi héo rồi dùng chày giã cho giập mới đan thành bao cà ròn. Mỗi bao đựng chừng
1,5 giạ lúa (30kg).
Cỏ bàng còn được đan thành những tấm đệm phơi lúa, những tấm
nhỏ hơn khâu lại thành những chiếc nóp mang theo bên mình ngủ đồng, ngủ ruộng
tránh muỗi mòng.
Những chiếc nóp đó mùa thu nào cũng đã theo chân ông cha mình
mà làm nên mùa thu “Nam Bộ kháng chiến”.
Cọng bàng còn dệt nên những chiếc tụng đệm, túi xách, nón rộng
vành vừa dân dã mà cũng có khi thời thượng, sang trọng biết bao.
Mãi sau này, thời Pháp thuộc gia tăng sức ép năng suất để phục
vụ chính sách cai trị của Pháp và năng lực kinh doanh tăng của các chành lúa gạo
của người Hoa, nên xuất hiện thêm bao bố đựng lúa rồi sau này mới tới bao ny
lông.
Khoảng những năm 70 của thế kỷ XX, bao bố và bao ny lông “hợp
lực” nhau, đẩy bao cà ròn vào miền quên lãng. Đây cũng là thời kỳ lúa mùa đã bắt
đầu câu chuyện buồn của mình và như đến ngày nay mọi người đều biết đó.
Cái chuyện làm ruộng của ông bà mình, không chỉ là việc mưu
sinh mà nó là cả một lịch sử văn hóa đời sống vật chất, tinh thần của vùng đất.
Chỉ mong những câu chuyện nhớ đâu nhắc đó mà góp nhặt buồn
vui, mà hoài vọng và kỳ vọng về một cuộc hồi sinh bằng cách thức nào đó trong
tương lai.
15/9/2019
NGỌC TRẢNG
Theo http://www.baovinhlong.com.vn/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét