Đệ nhất danh tác:
Tứ đại danh tác chỉ bốn tác phẩm văn học cổ điển được
cho là danh tiếng nhất của Trung Quốc, xếp theo thứ tự:
1. Tam Quốc
chí diễn nghĩa của La Quán Trung;
2. Tây du ký của Ngô
Thừa Ân;
3. Thủy Hử của Thi Nại Am và La Quán Trung (hiệu đính);
4. Hồng
Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần.
Tam Quốc chí diễn nghĩa của La Quán Trung là đệ
nhất danh tác không chỉ của văn học Trung Quốc mà trải qua thời gian, nó đã vượt
qua những kiệt tác viết về chiến tranh của văn học thế giới để trở thành đệ nhất
danh tác của văn học nhân loại.
La Quán Trung (1330?-1400?): La Quán Trung tên là Bản,
tên chữ là Quán Trung, lại có biệt hiệu là "Hồ Hải tản nhân" người
Thái Nguyên (?).
La Quán Trung sớm nổi tiếng có tài văn chương, rất giỏi về từ
khúc, câu đối, lại viết cả các loại kịch, nhưng thành công nhất là về tiểu
thuyết. Ngoài việc là tác giả của cuốn tiểu thuyết Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa và
còn có người cho rằng: La Quán Trung cũng là một người tham gia soạn và chỉnh
biên tác phẩm Thủy hử. Nhiều sử gia văn học không chắc chắn rằng hai người
này là một, hay là tên Thi Nại Am được dùng làm bút danh của Thủy Hử vì
tác giả không muốn bị dính líu vào việc chống chính quyền Nhà nước phong kiến
như các anh hùng hảo hán trong tác phẩm Thủy hử. Cùng với Ngô Thừa Ân, Thi
Nại Am, Tào Tuyết Cần,… La Quán Trung là người đóng góp xuất sắc cho trường phái
tiểu thuyết lịch sử đời Minh-Thanh (1).
La Quán Trung xuất thân từ một gia đình quý tộc. Tuổi thanh
niên ông nuôi chí phò vua giúp nước; song lúc đó, triều đình nhà Nguyên đang
suy tàn, các lực lượng chống triều đình nhà Nguyên nổi dậy khắp nơi, La Quán
Trung bỏ đi phiêu lãng nên có biệt hiệu là Hồ Hải tản nhân. Là một nhà Nho
ưu thời mẫn thế, La Quán Trung suy nghĩ nhiều về thế sự và là một trong những
người "có chí mưu đồ sự nghiệp bá vương" (2).
Tam quốc chí diễn nghĩa nguyên tên là Tam quốc chí
thông tục diễn nghĩa, là một tiểu thuyết lịch sử Trung Quốc được La Quán Trung
viết vào thế kỷ 14 kể về thời kỳ hỗn loạn Tam Quốc (220-280), theo phương
pháp bảy thực ba hư (bảy phần thực ba phần hư cấu).
Tam quốc chí diễn nghĩa (thường gọi tắt là Tam Quốc diễn
nghĩa) về phương diện biên soạn chủ yếu là công lao của La Quán Trung, nhưng thực
ra bộ tiểu thuyết này trước sau đã trải qua một quá trình tập thể sáng tác lâu
dài của rất nhiều người. Trước La Quán Trung, từ lâu chuyện Tam quốc đã
lưu hành rộng rãi trong dân gian truyền miệng, các nghệ nhân kể chuyện, các nhà
văn học nghệ thuật viết kịch, diễn kịch, đều không ngừng sáng tạo, làm cho những
tình tiết câu chuyện và hình tượng các nhân vật phong phú thêm.
La Quán Trung đã viết bộ Tam quốc chí thông tục diễn
nghĩa chính là đã dựa trên cơ sở sáng tác tập thể rất hùng hậu đó của văn
học dân gian. Dĩ nhiên trong khi viết ông có tham khảo những bản ghi chép của
các nhà viết sử và các nhà văn khác, nhưng quan trọng hơn là phần thể nghiệm cuộc
sống phong phú của bản thân ông và tài năng văn học kiệt xuất của ông.
Một trong những bản Tam quốc chí diễn nghĩa ra
đời sớm nhất hiện nay còn giữ được là bản in năm Nhâm Ngọ Gia Tĩnh (1522) gồm
có 24 cuốn 240 tiết. Từ đó về sau (gần 300 năm) nhiều bản Tam quốc đã
lưu hành, nhưng nội dung đều không có gì khác nhau lắm.
Đầu đời Thanh, hai cha con Mao Luân, Mao Tôn Cương (người
Tràng Châu tỉnh Giang Tô) lại bắt đầu tu đính truyện Tam quốc. Công việc
tu đính này hoàn thành vào khoảng năm Khang Hy thứ 18 (1679).
Mao Tôn Cương đã gia công, thêm bớt, nhuận sắc những chi tiết
nhỏ, sắp xếp lại các hồi mục, câu đối, sửa chữa lại câu, lời trùng hoặc những
chỗ chưa thỏa đáng... và thêm vào đó những lời bàn, dồn 240 tiết thành 120 hồi,
lại đặt cho bộ Tam quốc cái tên là "cuốn sách đệ nhất tài tử".
Làm cho truyện càng hoàn chỉnh, văn kể trong sáng, gọt giũa, trên một mức độ
nào đó cũng đã làm tiện lợi cho mọi quần chúng độc giả. Từ đó bản của Mao Tôn
Cương thay bản của La Quán Trung, tiếp tục được lưu truyền rộng rãi.
Năm 1958, Nhân dân Văn học Xuất bản xã Bắc Kinh đã
chỉnh lý lại nhiều, bằng cách dựa vào bản của Mao Tôn Cương hiệu đính rất kỹ từng
câu, từng chữ, từng tên riêng có đối chiếu với bản của La Quán Trung rồi sửa chữa
lại những chỗ mà bản của Mao Tôn Cương đã sửa hỏng, sửa sai với nguyên bản của
La Quán Trung, nhưng nói chung vẫn giữ nguyên bộ mặt của bản Mao Tôn Cương. Còn
những tên lịch sử đặc biệt như tên người, tên đất, tên chế độ ... nếu cả hai bản
trên đều sai, thì hiệu đính lại theo sử sách. Nên các lần in sau hầu hết đều lấy
theo bản in này.
Nghệ thuật xây dựng Cốt truyện của Tam Quốc
chí diễn nghĩa
Một trong những thành công lớn nhất của Tam Quốc chí diễn
nghĩa là tính chất quy mô, hoành tráng của cốt truyện và nhân vật. Bộ tiểu
thuyết này có thể chia thành rất nhiều "truyện nhỏ" mà đa phần trong
số đó có thể hoàn toàn dựng được thành những bộ phim truyện theo đúng nghĩa.
Chúng ta đã được xem rất nhiều những bộ phim truyện nhiều tập về các nhân vật
Lã Bố, Điêu Thuyền, Tào Tháo… và gần đây các nhà làm phim đã dựng bộ phim Trận
Xích Bích thật hoành tráng!... Cũng giống như Tây Du ký, Thủy hử, Hồng
Lâu mộng, Tam Quốc chí diễn nghĩa còn là đề tài khai thác không bao
giờ vơi cạn của các nhà làm phim không chỉ ở Trung Quốc.
Cốt Truyện Tam Quốc chí diễn nghĩa lấy bối cảnh vào
thời suy vi của nhà Hán khi mà những hoàng đế cuối cùng của nhà Hán bạc nhược,
bất tài nên đã quá tin dùng giới hoạn quan mà gạt bỏ những bề tôi trung trực.
Triều đình ngày càng thối nát, khiến kinh tế suy sụp và an ninh bất ổn. Đến đời
Hán Linh Đế, loạn giặc Khăn Vàng (do Trương Giác, một người đã học được nhiều
ma thuật và bùa phép chữa bệnh, cầm đầu) nổ ra và nhanh chóng lan rộng như bão
lốc…
Sau khi diệt được loạn “Giặc Khăn Vàng”, triều đình càng rối
loạn, đám hoạn quan giết trung thần, uy hiếp vua. Trong số các quan lại có công
“hộ giá” cứu vua là Đổng Trác, một thứ sử Tây Lương. Đổng Trác nhân cơ hội này
vào cung bảo vệ vua. Sau đó Đổng Trác phế truất Thiếu Đế và lập Trần Lưu Vương
lên làm Hoàng đế, còn mình làm Tướng quốc nắm hết quyền triều chính.
Hành vi tàn bạo, lộng quyền của Đổng Trác khiến quan lại vô
cùng phẫn nộ, họ hội quân với Viên Thiệu và lập mưu khiến Đổng Trác dời đô từ Lạc
Dương về Trường An. Cuối cùng Đổng Trác bị giết bởi “Mỹ nhân kế” của quan Tư đồ
Vương Doãn: Lã Bố, một võ tướng tài ba, con nuôi của Đổng Trác đã đâm chết Đổng
Trác do cùng giành giật một người con gái đẹp là Điêu Thuyền.
Sau khi Đổng Trác chết, triều đình tức chính quyền trung ương
tan rã, các quan lại cát cứ, xưng hùng xưng bá ở khắp nơi: Tôn Kiên lấy được Ngọc
Tỷ truyền quốc rồi truyền lại cho con là Tôn Sách hùng cứ ở Giang Đông, phía Bắc
là hai anh em Viên Thiệu, Viên Thuật…Ở kinh đô, quyền lực của Tào Tháo ngày một
mạnh lên sau một loạt những sự kiện sau đó. Trong chiến dịch quân sự đánh Viên
Thiệu, chiến thắng quyết định của Tào Tháo tại trận Quan Độ đã đặt cơ sở cho
Tào Tháo củng cố quyền lực tuyệt đối khắp miền bắc Trung Quốc.
Cũng trong thời gian này, Lưu Bị đã lập được căn cứ ở Nhữ Nam và
tự đem quân đi tấn công Tào Tháo nhưng bị thất bại. Lưu Bị bèn tới Kinh Châu
nương nhờ Lưu Biểu là một người anh họ xa, cũng là tôn thất nhà Hán. Tại đó Lưu
Bị, sau ba lần đến thăm lều cỏ của Gia Cát Lượng (3), đã vời được Gia
Cát Lượng ra làm mưu sĩ, cùng họ Tào và họ Tôn chia ba thiên hạ.
Lưu Biểu mất, để lại Kinh Châu cho hai con trai nhỏ. Sau khi
diệt được Viên Thiệu, Tào Tháo lập tức nhòm ngó về phía nam. Ông ta tự đem quân
đi chiếm Tân Dã. Lưu Bị được lòng dân chúng thành Tân Dã nên trước viễn cảnh bị
xâm chiếm, toàn bộ dân trong thành một lòng xin đi theo Lưu Bị. Lưu Bị đành đưa
dân Tân Dã về thành Tương Dương của người con thứ của Lưu Biểu, tại đây Lưu Bị
bị từ chối không cho vào thành. Không còn cách nào khác ông phải tiếp tục nam
tiến xuống Giang Hạ là thành của Lưu Kỳ người con trưởng của Lưu Biểu. Ở Giang
Hạ, Lưu Bị cuối cùng cũng tạm có được một chỗ đặt chân để chống lại cuộc tấn
công dữ dội của Tào Tháo.
Còn ở phía tây nam, Tôn Quyền vừa mới lên nắm quyền sau cái
chết của người anh là Tôn Sách. Cả Tào Tháo lẫn Lưu Bị đều muốn liên kết với
Tôn Quyền để “chia đôi tiên hạ”. Tuy nhiên, Gia Cát Lượng tự mình đến quận Sài
Tang và thuyết được Tôn Quyền hợp tác với Lưu Bị. Liên minh này đã dẫn đến thất
bại thảm hại nhất của Tào Tháo tại trận Xích Bích.
Với ý định loại trừ Lưu Bị, người mà Tôn Quyền cho là một mối
đe dọa tiềm tàng, Tôn Quyền bày mưu gả em gái cho Lưu Bị. Sau đó, Lưu Bị mắc
mưu sang Sài Tang để làm lễ cưới. Tuy nhiên, Tôn Quyền rất nghe lời mẹ Ngô Quốc
Thái Phu Nhân; bà này rất quý Lưu Bị và không cho ai hãm hại Lưu Bị. Cũng do
mưu lược của Gia Cát Lượng mà Lưu Bị cuối cùng đã thoát được quay về Giang Hạ
cùng với người vợ mới.
Tình trạng giằng co giữa ba thế lực vẫn bế tắc cho đến khi
Tào Tháo chết vào năm 219. Năm sau đó, con thứ của Tào Tháo là Tào Phi ép phế
Hán Hiến Đế và lập ra nhà Ngụy. Đáp lại, Lưu Bị tự xưng đế Thục Hán (để chứng tỏ
vẫn mang dòng máu quý tộc nhà Hán nhưng đóng đô tại Thành Đô - đất Thục).
Lúc này, Tôn Quyền lại ngả về phía Ngụy. Ông chịu để Tào Phi
phong vương nước Ngô. Tôn Quyền làm việc này nhằm tập trung lực lượng chống Lưu
Bị do Lưu Bị khởi binh đánh Ngô để trả thù cho Quan Vũ bị Tôn Quyền giết chết.
Một loạt những sai lầm mang tính chiến lược do hành động nóng
vội của Lưu Bị đã dẫn đến thất bại của quân Thục Hán trong trận Hào Đình. Tuy
nhiên, Lục Tốn, quân sư phía Ngô đã từng chĩa mũi nhọn tấn công về phía Thục,
đã ngưng không tiếp tục dấn sâu về phía tây. Vì tin vào đòn trừng phạt của Lục
Tốn, Tào Phi phát động một cuộc xâm lược vào nước Ngô vì cho rằng như vậy quân
Ngô vẫn còn ở ngoài nước. Cuộc tấn công đã bị đè bẹp bởi sự kháng cự quyết liệt
của quân Ngô cùng với bệnh dịch bùng phát phía bên quân Ngụy.
Trong lúc đó tại nước Thục, Lưu Bị bị bệnh chết và để lại con
trai Lưu Thiện còn nhỏ dại, phó thác cho Gia Cát Lượng chăm sóc. Nắm bắt cơ hội
này, Tào Phi gắng mua chuộc một số lực lượng, trong đó có Tôn Quyền và các bộ tộc
thiểu số để tấn công nước Thục. Một sứ giả của Thục thuyết được Tôn Quyền lui
quân, nhưng Gia Cát Lượng vẫn phải lo xử lý quân của các bộ tộc thiểu số.
Một trong những mưu lược tài ba cuối cùng của Gia Cát Lượng
là tiến hành chiến dịch thu phục Mạnh Hoạch, thủ lĩnh bộ tộc người Man. Gia Cát
Lượng đã bảy lần bắt sống Mạnh Hoạch, lần nào cũng cho thả ra nguyên vẹn. Mạnh
Hoạch vì cảm động bởi mưu trí và lòng nhân từ của Gia Cát Lượng nên đã thề mãi
mãi gắn bó với nhà Thục.
Trong lúc này, Tào Phi cũng lâm bệnh mà chết. Gia Cát Lượng
liền nhìn về phía bắc. Tuy thế, ông không còn sống được bao lâu nữa. Chiến thắng
đáng kể cuối cùng của ông chống lại quân Ngụy có lẽ là chiêu hàng được Khương
Duy về phía mình. Khương Duy trước đó là một tướng bên Ngụy, có tài năng quân sự.
Khương Duy tiếp tục tiến hành chiến dịch của Gia Cát Lượng chống lại Tào Ngụy tới
một kết cục khá cay đắng, ngay cả sau khi Lưu Thiện đầu hàng. Khương Duy bày
mưu kích động xung đột giữa hai tướng lớn phía Ngụy. Kế sách này đã tiến rất
sát đến thành công. Thật không may, Khương Duy đã bộc phát bệnh hiểm nghèo ngay
giữa trận đánh cuối cùng. Khương Duy liền dùng kiếm tự vẫn, đánh dấu kháng cự
cuối cùng của nhà Thục Hán.
Cuộc chiến kéo dài nhiều năm giữa Ngụy và Thục thì phía Ngụy
liên tục đổi ngôi. Nhà họ Tào ngày một yếu thế. Tới Tào Hoán, cháu nội Tư Mã Ý
là Tư Mã Viêm bắt Tào Hoán nhường ngôi (giống như Tào Phi đã từng ép
Hán Hiến Đế) và lập ra triều đình mới của nhà Tấn, tức là Tấn Vũ Đế, vào năm
265.
Vua cuối cùng của Ngô là Tôn Hạo, đến năm 280 bị Tấn Vũ Đế
chinh phục. Cả ba vua cuối cùng của ba nước là Tào Hoán (Nước Ngụy), Lưu Thiện
(Nước Thục) và Tôn Hạo (Nước Ngô), được sống cho đến tận cuối đời. Và thế là thời
đại Tam Quốc cuối cùng cũng chấm dứt sau gần một thế kỷ xung đột dữ dội.
Nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật của Tam Quốc chí diễn
nghĩa
Thành công của Tam Quốc chí diễn nghĩa về mặt xây dựng
tính cách nhân vật khiến ta kinh ngạc. Với số lượng nhân vật khổng lồ là hơn
400 nhân vật mà mỗi nhân vật đều là những điển hình sinh động và sắc nét, không
hề trùng lặp, mỗi người một vẻ riêng biệt độc đáo.
Cũng là thủ lĩnh của một đám anh hùng hào kiệt nhưng tư tưởng
và cá tính của ba nhân vật Tôn Quyền, Lưu Bị và Tào Tháo không ai giống ai. Còn
mưu sĩ như Gia Cát Lượng, Tuân Húc, Lỗ Túc, võ tướng như Quan Vũ, Trương Phi,
Triệu Vân, Hoàng Trung, Hạ Hầu Đôn, Trương Liêu, Chu Du, Lục Tốn v.v...thì ai
cũng có cá tính riêng của mình. Ví như Tôn Quyền, cái “khí khái anh hùng” không
bằng Tào Tháo và Lưu Bị, nhưng ngồi giữ sự nghiệp cha anh để lại thì thật đáng
là một nhân tài xuất sắc. Trong con mắt của Khổng Minh, Tôn là người “mắt xanh
râu đỏ, cử chỉ đường hoàng”. Còn Tào Tháo lúc ở Nhu Tu “nhìn xa xa thấy chiến
thuyền chia thành đội ngũ, sắp xếp thứ tự theo năm màu cờ, khí giới sáng lòa”
thì “tự nghĩ bụng rằng Tôn Quyền không phải là người không đáng gờm”. Dưới ngòi
bút của La Quán Trung, nhân vật này rõ ràng được miêu tả hết sức giản đơn, chỉ
như bức ký họa, song hình tượng ông vẫn sinh động và rõ nét. Về nhiều mặt ông tỏ
ra sáng suốt, trầm tĩnh và cương nghị, dũng cảm, chỉ có điều về chính trị thiếu
tầm nhìn xa, xem nặng lợi ích trước mắt, không có tài chinh phạt, không có hùng
tâm thống nhất Trung Quốc như Lưu Bị và Tào Tháo.
Trong Tam quốc chí diễn nghĩa, hình tượng nhân vật sinh
động nhất là Trương Phi: thẳng thắn, lỗ mãng, đầu báo mắt tròn, cực ghét những
điều xấu xa. Tên Đốc Bưu ăn hối lộ, ông “túm lấy tóc, lôi ra khỏi quán trạm”,
trói vào chuồng ngựa đánh nhừ tử. Thấy Đổng Trác kiêu ngạo vô lễ, tức thì nổi
giận, muốn giết ngay hắn. Gia Cát Lượng ngủ trong thảo đường cố làm ra vẻ ngạo
mạn, ông coi không thuận mắt, bèn nói: “Để tôi ra sau nhà châm mồi lửa xem hắn
có dậy không”. Tào Tháo muốn mượn tay Lưu Bị để giết Lã Bố. Trương Phi liền đi
tìm giết Lã Bố và nói lớn: “Tào Tháo nói ngươi là người bất nghĩa, bảo anh tao
giết ngươi đây”. Vì ông bụng dạ ngay thẳng, thế giới nội tâm thuần khiết như vậy,
nên chuyện của ông được người ta ca ngợi nhất. Trong Tam quốc chí diễn nghĩa,
chỉ cần ông xuất hiện một cái là cục diện liền sôi nổi hẳn lên. Lúc Quan Vũ vượt
qua năm cửa ải, chém sáu tướng, đến Cổ Thành, bảo Tôn Càn vào gọi ông ra đón chị
dâu. “Trương Phi nghe xong, không trả lời, lập tức mặc áo giáp cầm xà mâu nhảy
lên ngựa, đem theo hơn nghìn người đi ra cửa Bắc. Tôn Càn hết sức kinh ngạc,
nhưng không dám hỏi, đành phải lẽo đẽo theo ra ngoài thành. Quan Công thấy
Trương Phi tới, vui mừng khôn xiết, đưa cây đao cho Chu Thương, giục ngựa đến
đón. Chỉ thấy Trương Phi mắt trợn tròn xoe, râu hùm dựng ngược, hét vang như sấm,
vung xà mâu lao vào Quan Công”. Quan Vũ bày tỏ thực tình, bảo ông không nên hiểu
lầm, ông vẫn thét lên: “Hôm nay ta liều sống chết một phen với ngươi”. Liều
lĩnh như vậy, nên “nóng như Trương Phi” đã trở thành câu nói cửa miệng của mọi
người. Và “tính bi kịch” của nhân vật Trương Phi gây hiệu quả nghệ thuật cao
chính là ở chỗ: cái cá tính “rất Trương Phi” đó đã giết chết Trương Phi! Khi chết
rồi, mắt Trương Phi vẫn trợn ngược vì không hiểu tại sao mình lại chết?!
Về việc xây dựng điển hình nhân vật trong TQCDN, người ta thường
nói có “tam tuyệt”, tức là Tào Tháo gian tuyệt, Quan Vũ nghĩa tuyệt và Khổng
Minh trí tuyệt. Tào Tháo nham hiểm gian giảo, Khổng Minh trí lực hơn người, La
Quán Trung đã chọn ra nhiều hành động có tính đặc trưng trong đời họ để điểm
xuyết cho tính cách của họ. Chỉ có tính cách của Quan Vũ là không đơn giản như
vậy.Trong TQCDN phần lớn viết về sự dũng cảm của ông. Ông quả thực “trọng nghĩa
khí” với Lưu Bị, Trương Phi, nhưng lại không trọng nghĩa khí với những người
khác như Mã Siêu, Hoàng Trung, thế mà có một lần ông trọng nghĩa khí với Tào
Tháo ở đường Hoa Dung. Do vậy, cái nghĩa khí của Quan Vũ thực chất là xuất phát
từ ân oán cá nhân, có lúc lại trở thành một khuyết điểm trong tính cách tư tưởng
của ông. Ở đây có một điều đáng chú ý. Khi khắc họa nhân vật, La Quán Trung thường
xuất phát từ tính phức tạp của cuộc sống và từ nhiều khía cạnh của tính cách
nhân vật. Ông không miêu tả con người với một tính cách đơn nhất, mà tả nhiều mặt
của tính cách, đồng thời làm nổi bật một mặt nào đó, có chính phụ, có nặng nhẹ,
làm cho hình tượng đó hết sức rõ nét.
Tào Tháo, Trương Phi, Gia Cát Lượng là nhân vật điển hình
thành công nhất của Tam quốc chí diễn nghĩa. Khi xây dựng những nhân
vật này, La Quán Trung tuân thủ một nguyên tắc, tức là nắm lấy cái đặc trưng cơ
bản của tính cách nhân vật, làm nổi bật một khía cạnh nào đó, thêm thắt, dùng
phương pháp so sánh, làm cho nhân vật xuất hiện trước mắt mọi người với tính
cách rõ nét và sinh động. Tào Tháo gian giảo thì nhất cử nhất động đều tỏ ra
gian giảo; Trương Phi nóng tính thì nằm ngồi đi đứng đều nóng nảy. Bất cứ là sự
kiện lớn trong xung đột xã hội hay sự kiện nhỏ trong cuộc sống, tính cách của họ
đều được biểu hiện qua miêu tả những chi tiết đặc trưng. La Quán Trung đã gom
góp tất cả những truyền thuyết về Tào Tháo gian giảo, tập trung lại, tạo nên một
điển hình xấu của giai cấp bóc lột, làm cho người ta nhận thức được bản chất xấu
xa của giai cấp thống trị từ nhân vật rất xấu xa này. Cũng như thế, tác giả đã
chọn những cử chỉ lỗ mãng nổi bật của Trương Phi trong các trường hợp khác
nhau, tạo nên một nhân vật có tính cách rõ rệt, nhưng nhân vật ghét điều ác như
ghét kẻ thù này cũng có những khuyết điểm làm cho người ta không ưa. Gia Cát Lượng
là một điển hình về mưu trí. Cả đời ông mang hết tinh thần sức lực vạch sách lược
cho sự nghiệp của Lưu Bị, ít khi nghĩ tới sự được mất của bản thân. Thường đứng
nơi tuyến đầu cuộc đấu tranh và thắng địch nhờ trí tuệ. Đặc trưng của hình tượng
này là tài dự đoán chuẩn xác, sách lược đúng đắn và chu đáo. Nắm chắc đặc
trưng, làm nổi bật một điểm, nguyên tắc xây dựng nhân vật điển hình này của La
Quán Trung được nhiều bậc thầy nghệ thuật đời sau tiếp thu và phát triển, làm
phong phú thêm di sản văn học của Trung Quốc.
Nhân vật Chu Du cũng là một thành công đáng kể trong việc xây
dựng tính cách nhân vật của La Quán Trung. Chu Du là một nhân vật trẻ tuổi, đầy
hào khí, thông minh…được đặt bên cạnh nhân vật Gia Cát Lượng trong một bối cảnh
đặc biệt, đó là trận Xích Bích, trận đánh quyết định cục diện: tồn tại thế chân
vạc nếu Tào Tháo thua trận, còn nếu liên minh Ngô – Thục thất bại thì Tào Tháo
sẽ làm bá chủ thiên hạ! Tình thế của trận Xích Bích đã được đẩy đến độ căng tột
cùng: Trong giờ phút quyết định của trận đánh, khi “mọi việc đã sẵn sàng, chỉ
thiếu gió đông” thì Đại đô đốc Chu Du đành chịu bó tay, chỉ nằm thở dài! Mặt
khác, do tính đố kị, hiếu thắng, nên Chu Du đã làm nhiều việc “ngu xuẩn” trong
vụ liên minh Tôn – Lưu. Nhưng dù sao, Chu Du vẫn giữ vai trò hàng đầu trong trận
này. Trước kẻ thù lớn mạnh là Tào Tháo thống lĩnh “trăm vạn hùng binh” rầm rộ
kéo thẳng xuống Đông Nam, thế như chẻ tre, hầu như không thể địch nổi, Chu Du
không thể không hợp tác cùng Gia Cát Lượng, nhưng kể từ ngày đầu hợp tác, giữa
hai người đã có những mâu thuẫn, cuối cùng thì tan vỡ. Vừa hợp tác, vừa đấu
tranh, đó là quan hệ giữa Chu Du và Gia Cát Lượng, đồng thời cũng là quan hệ giữa
tập đoàn Tôn Quyền với tập đoàn Lưu Bị. Qua hình tượng Chu Du, tác giả đã phản
ánh mâu thuẫn phức tạp giữa hai tập đoàn lúc bấy giờ: Miêu tả trận Xích
Bích này, ông không những đã tỏ rõ tài năng nghệ thuật hơn người,
mà còn tỏ rõ năng lực quan sát sâu sắc của ông đối với sự kiện lịch
sử. Việc ông miêu tả tư tưởng, tâm tình, tính toán lợi hại của các nhân vật
này, về khách quan quả đã phản ánh được thực trạng lịch sử. Miêu tả trận chiến
mà không đi ngược lại tính chân thực của lịch sử, lại đầy sức hấp dẫn nghệ thuật,
về mặt này, La Quán Trung đã tạo nên một mẫu mực thành công – một mẫu mực không
thể bắt chước!
Tam quốc chí diễn nghĩa là câu chuyện gần một
trăm năm, sự việc nhiều nhưng không rối là do ngòi bút có tài tình, có “tính
khuynh hướng” và có khả năng dắt dẫn người đọc theo ý tưởng của tác giả của La
Quán Trung. Tác giả đứng về phía Lưu Thục lên án Tào Ngụy, còn Tôn Ngô chỉ là lực
lượng trung gian. Mặc dù còn dấu ấn khá đậm của tư tưởng chính thống và sự thực
lịch sử không hẳn như thế, nhưng truyền thuyết “ủng Lưu phản Tào” là khuynh hướng
vốn có của hầu hết các truyền thuyết về thời Tam Quốc lưu hành trong nhân dân.
Nó phản ánh nguyện vọng có một “ông vua tốt” biết thương dân và vì dân, một triều
đình thực hiện “nhân chính”, một đất nước thống nhất và hòa bình.
Tam quốc chí diễn nghĩa là tiểu thuyết sử thi nên giọng
điệu chủ yếu là ca ngợi hay châm biếm hài hước để phê phán. Khoa trương phóng đại
là thủ pháp nghệ thuật được sử dụng đúng lúc, đúng chỗ để ca ngợi những kỳ tích
của các anh hùng hảo hán, như phóng đại những khó khăn hiểm trở để thử thách
tài năng võ nghệ của các anh hùng. Các nhân vật luôn có vóc dáng khác người, những
hành động phi thường và tâm hồn họ cũng khác với người thường. Có lẽ vì thế, có
thể có nhiều trận đánh ác liệt tử vong rất nhiều nhưng không gây không khí bi thảm,
trái lại, lại được coi là những “trận đánh đẹp”, có sức lôi cuốn người đọc bởi
tính chất gay cấn, thiên biến vạn hóa của diễn biến trận đánh lớn mà điển hình
là trận Xích Bích...Còn những trận đánh tay đôi của các tướng võ kỳ phùng địch
thủ thì lại có vẻ đẹp, sức cuốn hút của của những tuyệt kỹ võ công và sức mạnh
kỳ diệu của những con người anh hùng hào kiệt: đó là cuộc tỷ thí giữa Thái Sử Từ
và Tôn Sách, Hứa Chử và Mã Siêu v.v…
Ngôn ngữ của Tam quốc chí diễn nghĩa là sự kết
hợp giữa văn ngôn và bạch thoại, sử dụng được ngôn từ thông dụng trong nhân
dân. Ngôn ngữ kể lấn át ngôn ngữ miêu tả, và trong ngôn ngữ miêu tả rất ít sử dụng
định ngữ và tính từ. Người Trung Quốc gọi loại miêu tả ngắn gọn như vậy là lối bạch
miêu, nhưng nhờ lối kể chuyện khéo léo, đối thoại sinh động và sử dụng rộng rãi
khẩu ngữ, các truyện cổ tích, truyền thuyết, thần thoại, chuyện lịch sử v.v...
nên đã tạo cho tác phẩm một vẻ đẹp hấp dẫn vừa bác học và dân dã.
Tam Quốc chí diễn nghĩa được dịch sang tiếng Việt như thế
nào?
Từ đầu TK XX, Tam Quốc chí diễn nghĩa đã được người đọc Việt Nam biết
đến qua những lần dịch và in ấn với qui mô “vừa và nhỏ” (4). Phải đến cuối năm
1959 và đầu năm 1960, Nhà nước mới chính thức xuất bản Tam Quốc chí diễn nghĩa
tại Việt Nam. Việc này được giao cho Nhà xuất bản Phổ Thông: in và phát hành rộng
rãi Tam quốc chí diễn nghĩa (chia thành 13 tập), vẫn dựa trên bản dịch
năm 1909 của Phan Kế Bính, nhưng được cụ Bùi Kỷ - một nhà Nho uyên bác, hiệu
đính khá kỹ bằng cách đem đối chiếu với nguyên bản tiếng Trung Quốc mới nhất
vào thời điểm ấy do Nhân dân Văn học xã Bắc Kinh xuất bản năm 1958. Trong số tất
cả các bản dịch trước đó thì đây là bản dịch được hiệu đính kỹ lưỡng nên được
coi là bản dịch hay nhất từ trước đến nay. Đặc biệt tập 1 có đăng lời nói đầu của
bộ biên tập Nhà xuất bản Nhân Dân Văn Học Trung Quốc dài tới 35
trang, phân tích khá kỹ nội dung truyện và lần đầu tiên có in bài từ mở đầu
truyện do cụ Bùi Kỷ dịch với những dòng hào sảng, cùng với những tranh minh họa
do hai hoạ sĩ Trung Quốc Từ Chính Bình và Từ Hoằng Đạt thể hiện thật sống động
như trong một cuốn phim.
Năm 1987, Tam quốc chí diễn nghĩa lại được Nhà xuất
bản Đại học và Trung học chuyên nghiệp cho in, chia làm tám tập, dựa vào bản in
năm 1959 của nhà xuất bản Phổ Thông, ngoài ra còn có bản đồ và bảng đối chiếu địa
danh xưa và nay. Ngay năm sau 1988, Nhà xuất bản Đại học và Giáo dục chuyên
nghiệp lại nối bản và Nhà xuất bản Giáo dục lại cho "in lần thứ hai"
vào năm 1996. Kể từ đó, việc xuất bản Tam quốc chí diễn nghĩa được thực
hiện một cách rộng rãi và thường xuyên. Đáng chú ý là bộ tập tranh Tam quốc
diễn nghĩa liên hoàn họa do hai họa sĩ Trung Quốc Từ Chính Bình và Từ Hoằng
Đạt vẽ, Nhà xuất bản Mũi Cà Mau đã cho in đủ 7124 tranh, chia thành 30 tập, thật
kỳ công và được tái bản năm 2004. Thực ra, bộ truyện tranh "Tam quốc diễn
nghĩa liên hoàn họa" do gần ba mươi họa sĩ kỳ công vẽ nên, mỗi tập có từ một
đến năm họa sĩ tham gia. Hai họa sĩ Từ Chính Bình và Từ Hoằng Đạt chỉ là
người vẽ tập đầu tiên "Kết nghĩa vườn đào" mà thôi. Họa sĩ vẽ nhiều tập
nhất là Uông Ngọc Sơn, tham gia vẽ 9 tập.
Đầu năm 2007, Nhà xuất bản Văn Học cho in lại theo bản 13 tập
(cả phần tranh) của Nhà xuất bản Phổ Thông (năm 1959) do Phan Kế Bính dịch và
Bùi Kỷ hiệu đính, đây là bản dịch được coi là hay nhất từ trước đến nay. Sách
được in bìa cứng có hai loại khổ để người đọc lựa chọn (khổ nhỏ 4 tập, khổ lớn
2 tập) còn in kèm 40 trang phụ bản màu với hơn 100 các nhân vật và kèm theo bản
đồ màu khổ lớn. Bản in này còn in y nguyên lời giới thiệu của Nhà xuất bản Phổ
Thông năm 1959 và Lời nói đầu của bộ biên tập Nhân dân Văn học
Xuất bản xã Bắc Kinh tháng 3 năm 1959. Cũng trong lần xuất bản này còn có
mục Hành trình truyện Tam Quốc ở Việt Nam của Yên Ba (từ trang 30 đến
trang 38) thống kê khá tỉ mỉ về những lần dịch và xuất bản ở Việt Nam.
Như vậy kể từ lần dịch đầu tiên đến nay hơn một thế kỷ, Tam
quốc chí diễn nghĩa đã được giới thiệu rộng rãi ở Việt Nam cũng rất đa dạng,
nhiều người dịch, in theo nhiều khổ, một tập có, nhiều tập có, in truyện tranh
có, hiệu đính kỹ lưỡng có và cũng có những bản dịch bình dân …
Quả là hiếm có một tác phẩm văn học nào lại được đông đảo
công chúng văn học Việt Nam yêu thích như Tam quốc chí diễn
nghĩa. Những trích đoạn Tuồng lấy chuyện từ Tam Quốc chí diễn nghĩa luôn
lôi cuốn khán giả nhiều thế hệ: Đơn đao phó hội, Lã Bố hý Điêu Thuyền v.v…
Điểm đặc biệt là nhiều sự kiện, nhân vật trong Tam Quốc diễn
nghĩa đã xen vào một cách tự nhiên những câu chuyện của cuộc sống thường ngày,
trở thành Thành ngữ, tục ngữ:
"Vợ chồng như quần với áo, anh em như thể tay chân"
(thê tử như y phục, huynh đệ như thủ túc);
"Nhắc đến Tào Tháo thì Tào Tháo xuất hiện" (thuyết
Tào Tháo, Tào Tháo đáo): để nói khi một người được nhắc đến đột nhiên xuất hiện;
"Ba ông thợ thầy bằng một thầy Gia Cát”: ba người kém cỏi biết
làm việc tập thể còn hơn một người giỏi giang; "Nóng như Trương Phi";
“Đa nghi như Tào Tháo", "Tào Tháo đuổi", v.v...
Bài ca mở đầu và cũng là kết thúc của thiên tiểu thuyết lịch
sử Tam Quốc chí diễn nghĩa có vẻ như đã nói được khá rõ cảm xúc thẩm
mỹ của người viết bài này, vậy nên lấy nó làm đoạn kết:
Sông dài cuồn cuộc ra khơi,
Anh hùng: sóng dập, cát vùi thiên thu...
Dở hay, thành bại nào đâu?
Bể dâu chớp mắt, ngoảnh đầu thành mơ!
Non xanh còn đó trơ trơ,
Tà dương lần lữa sưởi hơ ánh hồng.
Lão tiều gặp lại ngư ông,
Bên sông gió mát, trăng trong, kho trời.
Rượu vò lại rót khuyên mời,
Cùng nhau lại kể chuyện thời xa xưa...
Kể ra biết mấy cho vừa?
Nói cười hỉ hả, say sưa quên đời...
Sài Gòn, tháng 7-2010
Chú thích:
(1) Ngoài Tam quốc chí diễn nghĩa, La Quán Trung còn viết Tùy
Đường lưỡng triều chí truyện, Tản Đường ngũ đại sử diễn nghĩa, Bình
yêu truyện, Tống Thái Tổ long vân hội (kịch), v.v...
(2) Tương truyền, La Quán Trung từng tham gia cuộc khởi nghĩa
chống nhà Nguyên của Trương Sĩ Thành (2*) với vai trò là mưu sĩ. Sau
khi Trương Sĩ Thành thất bại, Minh Thái Tổ
Chu Nguyên Chương lên ngôi, thống nhất đất nước, La Quán
Trung lui về ở ẩn, sưu tầm và biên soạn dã sử.
(2*) Trương Sĩ Thành người đất Thái Châu, cùng hai
em Sĩ Đức, Sĩ Tín làm nghề buôn muối, tính tình hào sảng rộng rãi nên được nhiều
người quí mến. Thời đó phu phen bị hà hiếp nhưng không có ai lãnh đạo, Sĩ Thành
bèn kêu gọi đứng lên được mọi người bầu làm minh chủ chiếm lấy các thành Thái
Châu, Hưng Hóa. Năm Chí Chính thứ 13 tự xưng là Thành vương, đặt quốc hiệu Đại Chu,
niên hiệu Thiên Hựu.
Thanh thế Trương Sĩ Thành càng lúc càng lớn, vua nhà Nguyên phải sai Thoát Thiếp Mộc Nhi đem đại quân đến đánh. Tuy nhiên khi Trương Sĩ Thành kiệt lực sắp đầu hàng thì Nguyên Huệ Tông nghe lời dèm pha phái Thoát Thoát đem quân xuống Vân Nam nên họ Trương mới thoát nạn. Tới thời kỳ đó, nhóm Hồng Cân của Lưu Phúc Thông đã hùng cứ chiếm đóng nhiều vùng rộng lớn ở miền Bắc, Trương Sĩ Thành bèn thừa thế quân Nguyên phải lo đánh nhau với những thế lực đó bèn đem quân tiến chiếm vùng Giang Nam. Chiếm được Giang Nam rồi, Trương Sĩ Thành trở nên sa đọa, ham mê tửu sắc. Bộ tướng của Lưu Phúc Thông là Chu Nguyên Chương(2**) thấy họ Trương trải rộng bèn đem quân tấn công, bắt được em trai
Thanh thế Trương Sĩ Thành càng lúc càng lớn, vua nhà Nguyên phải sai Thoát Thiếp Mộc Nhi đem đại quân đến đánh. Tuy nhiên khi Trương Sĩ Thành kiệt lực sắp đầu hàng thì Nguyên Huệ Tông nghe lời dèm pha phái Thoát Thoát đem quân xuống Vân Nam nên họ Trương mới thoát nạn. Tới thời kỳ đó, nhóm Hồng Cân của Lưu Phúc Thông đã hùng cứ chiếm đóng nhiều vùng rộng lớn ở miền Bắc, Trương Sĩ Thành bèn thừa thế quân Nguyên phải lo đánh nhau với những thế lực đó bèn đem quân tiến chiếm vùng Giang Nam. Chiếm được Giang Nam rồi, Trương Sĩ Thành trở nên sa đọa, ham mê tửu sắc. Bộ tướng của Lưu Phúc Thông là Chu Nguyên Chương(2**) thấy họ Trương trải rộng bèn đem quân tấn công, bắt được em trai
Trương Sĩ Thành là Trương Sĩ Đức. Năm 1357 (Chí Chính thứ 17)
Trương Sĩ Thành ra hàng nhà Nguyên, đem quân tấn công giết được Lưu Phúc Thông,
đuổi được Hàn Lâm Nhi.
Năm Chí Chính thứ 23 (1363), Trương Sĩ Thành đòi được phong làm Ngô vương nhưng triều đình không thuận, y liền tự lập một cõi, phong cho em Sĩ Tín làm thừa tướng, tin dùng bọn văn nhân. Chu Nguyên Chương khi đó đã trừ được Trần Hữu Lượng rồi liền sai Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân đem hai mươi vạn quân tấn công, các tướng của Trương Sĩ Thành lần lượt đầu hàng
Năm Chí Chính thứ 23 (1363), Trương Sĩ Thành đòi được phong làm Ngô vương nhưng triều đình không thuận, y liền tự lập một cõi, phong cho em Sĩ Tín làm thừa tướng, tin dùng bọn văn nhân. Chu Nguyên Chương khi đó đã trừ được Trần Hữu Lượng rồi liền sai Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân đem hai mươi vạn quân tấn công, các tướng của Trương Sĩ Thành lần lượt đầu hàng
Chu Nguyên Chương. Quân Minh vây đánh Bình Giang, dùng đại
pháo bắn vào, Trương Sĩ Tín tử trận, Trương Sĩ Thành phải tự sát.
(2**) Chu Nguyên Chương: Chu Nguyên Chương (1328
–1398) tức Minh Thái Tổ : thuở nhỏ tên là Trùng Bát , về
sau đổi tên thành Hưng Tông tên chữ là Quốc Thụy, người huyện
Chung Ly, Hào Châu (phía đông huyện Phụng Dương tỉnh An Huy ngày nay); là vị
hoàng đế khai quốc của vương triều nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc, cai trị từ
năm 1368 đến 1398.
Nguyên quán của Chu Nguyên Chương vốn thuộc huyện Bái, Từ
Châu tỉnh Giang Tô, về sau dời về Tứ Châu, rồi lại dời về Hào Châu tức Phụng
Dương. Cả gia đình ông trôi nổi nhiều nơi do sinh kế thúc bách. Cha mẹ ông có 8
người con, nhưng hai người đã chết yểu, còn lại sáu người, bốn trai hai gái.
Chu Nguyên Chương là con út, thuở nhỏ gọi là Trùng Bát, ngay cả tên họ chính thức
cũng không có, mãi đến sau khi gia nhập nghĩa quân Quách Tử Hưng mới lấy tên
là Chu Nguyên Chương, tên chữ là Quốc Thụy.
Ông xuất thân từ tầng lớp tá điền nghèo khổ, từng giữ dê chăn
bò cho địa chủ. Đời Nguyên năm Chí Chính thứ 4 (1344), vùng đất Hoài
Bắc phát sinh hạn hán và châu chấu tàn hại cùng với dịch bệnh nên cha mẹ, các
anh đều nối tiếp nhau chết cả. Chu Nguyên Chương không biết lấy gì để sống, tới
chùa Hoàng Giác làm thầy tu, từng khất thực ba năm tới phía tây của tỉnh An
Huy, phía đông tỉnh Hà Nam, trải qua gian khổ tôi luyện.
Chu Nguyên Chương là người có tính quật cường, từ nhỏ chí khí
đã chẳng tầm thường. Do sức ép của cuộc sống nên ông phải xuất gia đi tu, nhưng
không muốn làm nhà sư nhỏ bé, vào chùa mới được 15 ngày thì đã làm nhà sư chu
du khắp chốn. Trong lúc bôn ba bốn phương, ông đã bí mật tiếp xúc với giáo phái
Bạch Liên đương thời, hiểu được tình thế trong thiên hạ, lòng người muốn đổi
thay, khí vận triều Nguyên sắp hết.
Năm Chí Chính thứ 12 (1352), Chu Nguyên Chương tham
gia quân Hồng Cân (khăn đỏ) của Quách Tử Hưng, được Tử Hưng tin cậy, nhậm chức
Tả phó Nguyên soái nghĩa quân. Năm Chí Chính thứ 16 (1356), Chu
Nguyên Chương đánh chiếm Tập Khánh (Nam Kinh ngày nay), được Tiểu Minh vương
Hàn Lâm Nhi tiến phong làm Ngô Quốc công. Ông lấy Ứng Thiên (Nam Kinh) làm
trung tâm, phát triển rất nhanh. Từ năm 1363 đến 1367, lần lượt tiêu diệt tập
đoàn Trần Hữu Lượng(2***) ở trung lưu Trường Giang và Trương Sĩ Thành ở
hạ lưu Trường Giang, bao gồm cả hai bờ nam bắc.
Năm 1368, ông xuất quân Bắc phạt, đặt quốc hiệu là Minh,
trở thành vua Minh Thái Tổ. Cùng năm đó, công phá Đại đô (Bắc Kinh), lật đổ
ách thống trị của nhà Nguyên, từng bước thực hiện thống nhất đất nước.
Năm Hồng Vũ thứ 31 (1398), Minh Thái Tổ bệnh mất, hưởng thọ 70 tuổi, ở
ngôi 31 năm, chôn tại Hiếu lăng ở phía nam chân núi Chung Sơn thành phố Nam
Kinh.
(2***) Trần Hữu Lượng(1320-1363): Nguyên là người làm
nghề chài lưới, đến thời kỳ Nguyên Thuận Đế (1333-1368), Từ Thọ Huy - thủ lĩnh
của cuộc khởi nghĩa Hồng Cân đã khởi binh, Hữu Lượng theo về với tướng Nghê Văn
Tuấn. Tháng 9 âm lịch năm Chí Chính thứ 17 (1357) ông giết Nghê Văn Tuấn vì lý
do có âm mưu làm phản Từ Thọ Huy, sau đó tự xưng là tuyên úy sứ kiêm bình
chương chính sự, khởi binh tấn công các lộ thuộc Giang Tây, tổng chỉ huy quân đội
các vùng Giang Tây, An Huy, Phúc Kiến. Năm Chí Chính thứ 19 (1359), sát hại tướng
Triệu Phổ
Thắng và sau đó cùng Từ Thọ Huy dời kinh đô về Giang Châu
(ngày nay là Cửu Giang, Giang Tây), tự lập làm Hán vương. Năm sau, giết Từ Thọ
Huy, tự lập làm hoàng đế, quốc hiệu Đại Hán, niên hiệu Đại Nghĩa, lấy Trâu Phổ
Thắng làm thái sư, Trương Tất Tiên làm thừa tướng. Chính quyền Đại Hán một mặt
chống nhà Nguyên, một mặt kháng cự với quân đội của Chu Nguyên
Chương (sau này là Minh Thái Tổ). Đến năm Chí Chính thứ 20 (1360), giữa
quân đội hai bên Chu-Trần từ tây bắc thành Nam Kinh đến Long Loan đã diễn ra ác
chiến, do nước sông xuống thấp vì thủy triều xuống nên hàng trăm chiến thuyền của
Trần Hữu Lượng bị mắc cạn. Bị đánh bại, Trần Hữu Lượng chạy về Giang Châu (Cửu
Giang), sau đó dời đô về Vũ Xương. Ngày 23 tháng 8 năm Chí Chính thứ 23 (1363)
cùng Chu Nguyên Chương đại chiến tại hồ Bà Dương, sách sử gọi là “Bà Dương hồ
chi chiến”. Chu Nguyên Chương sử dụng mưu kế của Quách Hưng, sử dụng hỏa công đốt
cháy chiến thuyền của thủy quân Trần Hữu Lượng. Trần Hữu Lượng vận khí đã hết,
bị trúng tên và chết. Trần Hữu Lượng là người vô cùng xa xỉ, chẳng được lòng
dân, nội bộ lắm kẻ muốn làm phản, nên thất bại là tự do mình. Sau khi Trần Hữu
Lượng chết, Trương Định Biên cùng những người đang ở Vũ Xương lập con trai thứ
của Trần Hữu Lượng là Trần Lí làm hoàng đế, cải niên hiệu thành Đức Thọ. Năm
sau, Chu Nguyên Chương đem quân tấn công và hạ thành Vũ Xương, Trần Lí đầu
hàng.
(3) Gia Cát Lượng (181–234) là vị quân sư và đại thần của
nước Thục thời Tam Quốc (hậu Hán).. Trong quân sự, ông đã tạo ra các chiến thuật
như: Bát trận đồ (Hình vẽ tám trận), Liên nỏ (Nỏ Liên Châu,
tên bắn ra liên tục), Mộc ngưu lưu mã (trâu gỗ ngựa máy). Tương truyền
ông còn là người chế ra đèn trời (Khổng Minh đăng) và món bánh bao.
Gia Cát Lượng là người đất Dương Đô (nay thuộc tỉnh Sơn
Đông) quận Lang Nha đời Thục Hán, tự Khổng Minh, Gia Cát là một họ kép ít
gặp. Ông mồ côi từ bé, thuở trẻ thường tự ví tài mình như Quản Trọng, Nhạc
Nghị (3*). Sau tị nạn sang Kinh Châu rồi đến ở đất Nam Dương thuộc vùng
Long Trung, chỗ ở có trái núi Ngọa Long cương, nhân thế tự gọi là Ngọa
Long tiên sinh, tự mình cày ruộng, thích làm ca từ theo khúc "Lương Phủ
Ngâm".
Ông có 3 anh em, anh cả Gia Cát Cẩn làm quan bên Đông Ngô, em
thứ là Gia Cát Quân không làm quan. Tương truyền Gia Cát Lượng học giỏi một phần
nhờ vợ là Hoàng Nguyệt Anh, một người rất xấu nhưng có tài năng, con gái của
danh sĩ Hoàng Thừa Ngạn ở Nhữ Nam.
Khi Lưu Bị ở Tân Dã, có đến Tư Mã Đức Tháo bàn việc thiên hạ.
Tư Mã Đức Tháo nói:
"Bọn nho sinh đời nay chỉ là một phường tục sĩ, hạng tuấn
kiệt chỉ có hai người, đó là Ngoạ Long và Phượng Sồ. Ngoạ Long tức Gia Cát Khổng
Minh, Phượng Sồ tức Bàng Thống(3**), tự
Sỹ Nguyên." Lưu Bị 3 lần thân đến Long Trung mời Khổng
Minh ra giúp, “Lưu Bị Tam cố thảo lư”, tôn Khổng Minh làm quân sư. Lúc bấy giờ
là năm 208, Lưu Bị 47 tuổi, Gia Cát Lượng chỉ mới 27 tuổi.
Khổng Minh đã giúp Lưu Bị cùng với Tôn Quyền đánh bại Tào
Tháo ở Xích Bích, lấy Kinh Châu, định hai Xuyên, dựng nước ở đất Thục, cùng với
Ngụy ở phía bắc, Ngô ở phía đông làm thành thế chân vạc Tam Quốc. Lưu Bị lên
ngôi hoàng đế, Khổng Minh giữ chức Thừa tướng, một lòng khôi phục lại cơ nghiệp
nhà Hán, phía đông hòa Tôn Quyền, phía nam bình Mạnh Hoạch.
Gia Cát Lượng Bắc phạt cả thảy là 7 năm, phát động 4 lần đánh
lớn. Mấy lần xuất quân đều chưa giành được thắng lợi hoàn toàn do Lý Nghiêm trễ
nải cấp lương nên giả truyền thánh chỉ, 2 lần khác do Lưu Thiện nghe lời dèm
pha mà nửa chừng hạ chiếu lui quân.
Tháng 8 năm 234, do khó nhọc mà Gia Cát Lượng sinh bệnh rồi mất,
lúc bấy giờ ông mới 54 tuổi, được phong tặng là Trung Vũ Hầu người đời
thường gọi là Gia Cát Vũ Hầu. Ông được chôn tại ngọn núi Định Quân ở vùng
Hán Trung. Ông mất mà vẫn không trung hưng được nhà Hán, nước vẫn ở thế chân vạc
chia ba. Ba mươi năm sau khi ông mất, Lưu Thiện đầu hàng nước Ngụy, nước Thục bị
diệt vong.
Suốt hai đời vua là Lưu Bị và Lưu Thiện, mọi việc chính trị,
quân sự và kinh tế ở Thục đều do một tay Khổng Minh chủ trương và thi hành. Ông
giỏi về binh thư binh pháp, có tài về nội trị, ngoại giao, được xem là văn võ
kiêm toàn, tài đức lưỡng bị... nên được hậu thế gọi là "vạn đại quân
sư", coi là một tấm gương sáng cho muôn thuở.
Mở đầu sự nghiệp của Gia Cát Lượng là Trận Đồi Bác Vọng. Sau
khi Gia Cát Lượng làm quân sư cho Lưu Bị đã góp nhiều công sức xây dựng binh mã
tại Tân Dã khiến cho tiếng đồn lan xa. Tào Tháo nghe được tin, lo lắng lực lượng
của Lưu Bị sẽ lớn mạnh khó lòng tiêu diệt lại nghe có Khổng Minh đa mưu túc chí
giúp sức. Có lần Tào Tháo hỏi Nguyên Trực: - "Khổng Minh so với tiên sinh
thì thế nào?" Nguyên Trực cười lớn rồi đáp: - "So với Khổng Minh thì
tôi chỉ là con đom đóm le lói trong đêm còn Lượng là ánh nhật nguyệt hào
quang”. Hạ Hầu Đôn tức giận nguyện mang 10 vạn binh mã bắt sống Lưu Bị. Tào
Tháo đồng ý. Nghe tin Hạ Hầu Đôn kéo tới, Lưu Bị lo lắng, hai anh em Quan,
Trương hỏi: - "Sao đại ca không dùng "nước" của mình đi?"
Khổng Minh tới nói: - "Chúa công có bao nhiêu can đảm, Lượng tôi có bấy
nhiêu kế sách". Lưu Bị nghe xong tin tưởng, liền trao ngọc ấn và kiếm cho
Khổng Minh. Khổng Minh cho quân mai phục và đã tiêu diệt 10 vạn quân Tào do Đại
tướng Hạ Hầu Đôn chỉ huy tại Bác Vọng. Lưu Bị chiến thắng hoàn toàn
chỉ trong 1 trận, từ đó uy tín của Khổng Minh lại càng được nể trọng. Lưu Bị vẫn
thường nói với tả hữu: "Ta được Khổng Minh như cá được nước ", quả thật
không sai.
Sau khi thất bại ở trận Đồi Bác Vọng, Tào Tháo dẫn đại
quân đến Kinh Châu. Lưu Tôn và mẹ là Sái thị dâng Kinh Châu cho Tào Tháo. Tào
Tháo chiếm được Kinh Châu, đem quân đến Tân Dã truy kích Lưu Bị. Khổng
Minh bèn lập kế mai phục quân Tào. Một lần nữa, đội quân lớn của Tào Tháo với
những đại tướng vô địch như Tào Nhân, Tào Hồng, Hứa Chử đã bị tài điều binh khiển
tướng của Khổng Minh đánh cho tan tác…
Trong trận Xích Bích , Gia Cát Lượng đã dùng mẹo đoạt
10 vạn mũi tên của Tào Tháo và “làm phép hô mưa gọi gió” giúp Chu Du hỏa công đại
thắng quân Tào đã khiến cho Đại đô đốc Chu Du uất quá mà chết bởi không thể chịu
được sự tồn tại của một “thiên hạ kỳ tài” Gia Cát Lượng bên cạnh: “Trời đã sinh
ra Du sao còn sinh ra Lượng?” ...
Trong cuộc chiến với quân Ngụy, thực ra là cuộc đấu trí với Tư
Mã Ý, Gia Cát Lượng đã bốn lần kéo quân ra Kỳ Sơn nhằm bắt sống Tư Mã Ý nhưng
không thành. Lần cuối cùng, Gia Cát Lượng đã dồn hai cha con Tư Mã Ý vào Thượng
Phương cốc và bịt kín hai đầu, phóng hỏa định thiêu chết nhưng Trời lại giúp Tư
Mã Ý: mây giông kéo tới, mưa gió cuồn cuộn nổi lên dập tắt hết ngọn lửa, cha
con Tư Mã Ý cả mừng vội vã chạy thoát khỏi Thượng Phương cốc. Gia Cát lượng buồn
rầu đứng dưới trời mưa ngửa mặt than trời: "Đúng là người tính không bằng
trời tính ". Tư Mã Ý trở về thì doanh trại ở Vị Nam đã bị đánh phá phải
rút lui cố thủ ở Vị Bắc. Quân Ngụy tuy đại bại nhưng mưu kế không thành, Gia
Cát Lượng vì quá đau buồn lại thêm ngày đêm lao lực mà sinh bệnh.
(3*) Quản Trọng (725 TCN - 645 TCN): là một chính trị
gia, nhà quân sự và nhà tư tưởng Trung Quốc thời Xuân Thu (685 TCN). Tên ban đầu
của ông là Di Ngô, Trọng là tên hiệu. Được Bảo Thúc Nha tiến cử, Tề
Hoàn Công phong ông làm Tể tướng năm 685 TCN. Ông nổi tiếng với "chiến lược
không đánh mà thắng" mà người Trung Hoa gọi là diễn biến hòa bình - đó là
tấn công bằng mưu trí, trừng phạt và dùng kinh tế để giáo huấn.
Nhạc Nghị là tướng thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung
Quốc. Ông là tướng các nước: Ngụy, Yên và Triệu nhưng nổi tiếng nhất thời làm
tướng nước Yên đã gần như tiêu diệt nước Tề hùng mạnh láng giềng.
(3**) Bàng Thống (178-213), tự là Sỹ
Nguyên, đạo hiệu Sồ Phụng tiên sinh, thường được người đời sau so
sánh là tài năng ngang với Khổng Minh, người sống cùng thời với ông.
Bàng Thống quê ở Tương Dương, được La Quán Trung miêu tả
trong Tam quốc diễn nghĩa là "người mày rậm, mũi gồ, mặt đen,
râu ngắn, hình dung xấu xí". Tư Mã Đức Tháo nhận xét về Bàng Thống rằng:
"Nếu được một trong hai người Ngọa Long (tức Khổng Minh) hoặc Phụng Sồ (tức
Bàng Thống) thì có thể định hưng được thiên hạ".
Lúc đầu, Bàng Thống ở Giang Nam theo Tôn Quyền, trong trận
Xích Bích từng theo kế phản gián của Chu Du hiến kế cho Tào Tháo dùng xích sắt
ghép các thuyền lại thành một cụm để tránh cho quân sĩ say sóng nhưng thực chất
là để dùng kế hỏa công. Nhờ Bàng Thống mà khi Chu Du sử dụng hỏa công, thuyền của
Tào Tháo tập trung lại thành một cụm nên không chạy thoát được, cháy rụi hết.
Sau khi Chu Du mất, Lỗ Túc tiến cử Bàng Thống cho Tôn Quyền nhưng Bàng Thống
không được Tôn Quyền trọng dụng nên đến Kinh Châu theo Lưu Bị.
Năm 212, Lưu Chương, thứ sử Ích Châu bị Trương Lỗ từ
Hán Trung uy hiếp nên mời Lưu Bị đem quân từ Kinh Châu đến cứu. Bàng Thống với
vai trò là quân sư cùng Lưu Bị dẫn 5 vạn quân vào Tây Xuyên. Khi Lưu Bị vừa đến
Tây Xuyên, Lưu Chương thân hành ra đón. Bàng Thống cùng Pháp Chính bàn mưu cho
Lưu Bị nhân dịp giết Lưu Chương rồi chiếm lấy Tây Xuyên nhưng Lưu Bị cho đó là
hành động bất nhân nên không làm. Trong Tam quốc diễn nghĩa của La
Quán Trung, Bàng Thống bảo Ngụy Diên trong tiệc đứng dậy múa kiếm rồi đâm chết
Lưu Chương, Lưu Bị đứng dậy ngăn cản và sau khi hết bữa tiệc, ông trách Bàng Thống
rất nặng nề.
Sau đó, Lưu Chương nhờ Lưu Bị đến ải Hà Manh Quan để ngăn
Trương Lỗ. Lưu Bị vui vẻ ra đi. Về sau, Lưu Bị mượn quân, lương của Lưu Chương
không được nên tức giận muốn đem quân đánh Lưu Chương. Bàng Thống bày kế cho
Lưu Bị giết Cao Bái và Dương Hoài, hai tướng của Lưu Chương, đoạt ải Phù Quan,
tiến đánh Lạc Thành. Lưu Chương nghe tin đó họp cùng các tướng bàn kế chống Lưu
Bị.
Để đánh chiếm Lạc Thành, quân Kinh Châu chia làm hai đường.
Bàng Thống cùng Ngụy Diên làm tiên phong tiến theo con đường nhỏ phía Nam, Lưu
Bị theo con đường lớn phía Bắc. Tuy nhiên, Bàng Thống vì chủ quan khinh địch
nên lọt vào trận mai phục của Trương Nhiệm, tướng Tây Thục nên cả người lẫn ngựa
chết dưới chân gò Lạc Phượng. Bàng Thống chết năm 35 tuổi (năm 213).
(4) Ngay từ đầu thế kỷ 20 khi chữ quốc ngữ mới manh nha
hình thành và phát triển ở Việt Nam thì Tam quốc
chí diễn nghĩa đã ngay lập tức được các nhà nho dịch sang chữ
quốc ngữ để người đọc Việt Nam làm quen với một kiệt tác của văn học
cổ Trung Quốc.
Có thể coi năm 1902 là cột mốc lần đầu tiên truyện Tam
quốc chí diễn nghĩa được dịch và giới thiệu với độc giả Việt Nam.
Theo học giả Vương Hồng Sển viết trong tác phẩm Thú chơi sách thì
truyện Tam quốc vào Việt Nam là do Lương Khắc Ninh dịch (nhưng lại ký
dưới là Chủ nhân Paul Canavaggio) đăng trên báo Nông Cổ Mín Đàm, một
trong những tờ báo sớm nhất của báo chí chữ quốc ngữ Việt Nam do Canavaggio
sáng lập từ tháng 8 - 1901.
Năm 1907 nhà xuất bản Imprimerie De L'Opinion tại
Sài Gòn đã xuất bản Tam quốc chí diễn nghĩa in thành 24 quyển, mỗi
quyển 5 hồi; sách không có hình minh họa, ngôn ngữ bình dân Nam bộ.
Năm 1909 Nhà xuất bản Impimerie-Express tại Hà Nội xuất bản
mang nhan đề Tam quốc chí diễn nghĩa và phía trên có đề chữ Sách
ngoài dịch nôm, người dịch là cụ Phan Kế Bính, có hình vẽ minh họa in thành 5
cuốn, khổ nhỏ. Việc dịch và in bộ Tam quốc này, theo như lời tựa ở đầu
sách, chính là nhằm tuyên truyền cho việc học chữ quốc ngữ lúc bấy giờ. Lời Tựa
do Nguyễn Văn Vĩnh viết có đoạn như một "tuyên ngôn" rằng: Nước Nam ta
mai sau này, hay dở cũng ở như chữ quốc ngữ ... cái điều hay cho hậu vận nước Tổ-Việt
ta ấy là nhờ như chữ quốc ngữ. Chữ đâu hay thế! Mà dễ học thay! Gốc hai mươi ba
chữ, năm dấu soay (xoay) vần, mà tiếng nước Nam bao nhiêu cũng viết
được đủ. Bản dịch này cuối mỗi hồi thường ghi cả những lời bình của Mao Tôn
Cương và lời bình của người dịch.
Sau đó ở miền Nam cho ra bản dịch của Nguyễn Liên Phong, Nguyễn
An Cư và Nguyễn An Khương, trọn bộ 31 cuốn, mỗi cuốn đều có hình minh họa.
Không rõ lý do vì sao đến năm 1928 in lại rồi được tái bản nhiều lần sau đó, chỉ
đề tên người dịch là một mình ông Nguyễn An Cư. cùng thời đó còn có bản
do Tín Đức thư xã ở 37, sau đổi sang 25 đường Sabourain (nay là Tạ
Thu Thâu) xuất bản, nhưng chất lượng dịch kém hơn. Ngoài ra ở miền Nam trong
thời kỳ đầu thế
kỷ 20 còn có bộ Tam quốc chí diễn nghĩa in năm 1930
ở Sài Gòn nó gồm 38 tập mỏng tổng cộng hơn 1500 trang, người dịch là ông Nguyễn
Chánh Sắt; do nhà in Nguyễn Văn Viết ở 85-87 đường Ormay xuất bản. Ông Nguyễn
Chánh Sắt đã từng dịch khá nhiều truyện Trung Hoa như: Tây Hớn (Hán), Đông
Hớn (Hán), Ngũ hổ bình Tây, Càn Long du Giang Nam, Mạnh Lệ
Quân, Chinh Tây...
Năm 1966 nhà xuất bản Hương Hoa cho ra bản dịch của Mộng Bình
Sơn, in thành một tập duy nhất dày gần 1700 trang tiếc rằng bản dịch này đã bỏ
bớt một số đoạn thơ trong nguyên tác, nhưng ở phần cuối sách lại có thêm phần
"Ngoại thư" dài khoảng 60 trang, chưa kể những "lời nhận xét của
người thời nay" cùng với lời bàn của Mao Tôn Cương trích trong Thánh
thán ngoại thư ở cuối mỗi hồi. (Bản dịch này được tái bản nhiều lần)
Năm 1967-1968 Nhà xuất bản Á Châu cho ra bản dịch đáng chú ý
khác của Tử Vi Lang chia thành 8 tập, cũng có lời bình và phần ngoại thư ở cuối
sách.
Năm 1972 Nhà sách Khai Trí ở 62 Lê Lợi, Sài Gòn cũng xuất bản Tam
quốc chí diễn nghĩa theo bản dịch của Phan Kế Bính in năm 1909.
Ở miền Bắc, sau bản in năm 1909 của dịch giả Phan Kế Bính,
tròn 40 năm sau, năm 1949 nhà in Phúc Chi ở 95 Hàng Bồ, Hà Nội mới in tiếp Tam
quốc chí diễn nghĩa, người dịch là Hồng Việt, bản này trình bày hai cột như
trên báo, tổng cộng lên tới hơn 2000 trang.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét