Thủy hử 4
Đánh chén không tiền gặp tay đao quỷ;
Trói sư lập mẹo cướp núi Nhị Long.
Bấy giờ Dương Chí đương bực mình nóng tiết, chạy ra bên cạnh
đồi co cẳng định nhẩy xuống để tự tử, chợt lại tỉnh ngộ mà nghĩ lại rằng:
- Cha mẹ sinh ra ta, đường đường một đấng nam nhi, sức dài
vai rộng, võ giỏi tài nhanh thế mà quanh quẩn không làm được một việc gì bổ ích
cho đời, nay lại hoài thân đến đây tự tử thì thực là uổng công cha mẹ sinh
thành mà sống bấy nhiêu lâu cũng là vô chuyện. Chi bằng ta hãy nấn ná ở đời để
xem cơ hội ra sao rồi ta hãy liệu.
Tiểu nhơn sống lắm cũng thừa
Anh hào chết vội cũng chưa đáng đời
Còn non còn nước còn người
Lẽ đâu phó mặc đất trời cho cam.
Dương Chí nghĩ vậy quay trở vào bên cạnh chỗ mấy người nằm,
thấy anh nào cũng mở mắt trao tráo nhìn lên Dương Chí mà không sao cựa dậy được,
chàng liền trỏ vào mặt mà mắng rằng:
- Chỉ tại chúng bây đồ khốn nạn ngu si, không nghe lời ta
nói, gây nên cơ hội thế này để cho liên lụy đến ta, thực chúng bây không còn
trách ai được nữa.
Nói đoạn lại dắt dao găm vào lưng rồi vớ lấy thanh đao, tần
ngần đứng lặnh nhìn bốn xung quanh một lúc rồi thở dài mà lững thững đi xuống
dưới đồi.
Lênh đênh ngọn núi chân đồi
Ai làm cho khách anh tài gian truân!
Bọn lão Đô Quản cùng mười một tên cấm quân kia nằm lăn lóc
mãi đến mấy trống canh mới tỉnh dậy, anh nào anh nấy nhìn nhau mà tưng hửng cả
người, chỉ rền rĩ trông trời kêu khổ.
Lão Đô Quản mắng chúng rằng:
- Chỉ vì các anh không nghe lời Dương Chí thành ra làm khổ cả
đến ta, bây giờ còn biết làm sao được nữa?
Chúng nói với lão Đô Quản rằng:
- Lão già ơi; Bây giờ sự thế đã ra thế, chúng ta phải liệu mà
thương lượng thế nào cho xong chuyện mới được?
- Các anh nghĩ thế nào?
- Cái nầy thì quả là lỗi tại chúng tôi thực, nhưng cố nhân đã
nói! "Lửa cháy đến nơi, có thân phải tháo, ong bám vào áo, phải cởi cho
mau". Bây giờ nếu có Dương Đề Hạt ở đây thì chúng ta không còn nói năng
chi nữa. Song Đề Hạt đã bỏ chúng ta mà đi mất rồi, thì khi về tới phủ ta đổ hết
cho ông ta, kêu là khi đi đường ông ta bức bách đánh nhiếc làm cho chúng ta
không thể đi được, rồi lại thông đồng với bọn cướp lấy đi các đồ kim ngân châu
bảo, như thế có tiện không?
Lão Đô Quản gật gù khen phải và bảo chúng rằng:
- Ta hãy đợi đến sáng mai vào trình Quan Tư bản sứ, và để Ngu
Hầu ở đấy nghe xem công việc rồi ta sẽ về Bắc Kinh báo với Quan Lưu Thủ để bẩm
vào quan Thái Sư và sức cho quan phủ Tế Châu truy nã bọn cướp, thế mà tiện nhất.
Chúng bàn định đâu đấy rồi sáng hôm sau dậy sớm cùng đi với
nhau.
Gớm quân mặt nạc đóm dầy
Làm không nổi việc còn hay hại người
Công to việc lớn trên đời
Xưa này tan nát tại thời tại ai?
Còn về phần Dương Chí tay vác thanh đao lủi thủi một mình đi
xuống dưới đồi Hoàng Nê rồi thẳng trông về phía Nam, mãi đến nửa đêm mới tìm một
chỗ khu rừng để nghỉ. Bốn phương non nước mịt mù, bạn bè không có, tiền nong
cũng hết, một mình vơ vẫn, chưa tính con đường lui tới ra sao?
Sáng hôm sau chàng trở dậy thực sớm, để đi cho mát. Đi được
hơn hai mươi dặm đường, nghe trong mình mệt nhọc đói khát, rất là khó chịu, chợt
trông thấy bên đường có một hàng rượu, mà sờ lưng không đồng nào, chàng liền
nghĩ ra một kế để vào đó để mà uống rượu ăn cơm.
Khi vào tới nơi, Dương Chí tìm chỗ ghế ngồi dựng thanh đao
vào một bên, rồi có người đàn bà ra hỏi rằng:
- Ngài muốn xơi cơm rượu gì?
Dương Chí đáp:
- Cho tôi hai chai rượu, rồi lấy gạo, thổi cơm, có thịt cá gì
mang ra đây một thể.
Người đàn bà sai tên đầy tớ rót ra hai chai rượu rồi quay ra
thổi cơm xào thịt mang lên. Dương Chí ăn uống xong rồi, vác thanh đao đứng lên
đi thẳng ra cửa, mà không nói năng gì cả.
Người đàn bà thấy vậy ra hỏi rằng:
- Tiền cơm tiền rượu ông đã trả đâu?
Dương Chí đáp:
- Hãy để cho tôi chịu, tôi đi thẳng đằng này một lát, rồi lại
trả ngay.
Nói xong bước rảo cẳng đi luôn. Tên đầy tớ thấy vậy chạy theo
nắm Dương Chí lại. Dương Chí đánh cho một đấm ngã lăn xuống đất, rồi người đàn
bà kêu ầm ĩ cả lên. Dương Chí cứ mặc kệ, lặng yên mà đi. Chợt thấy đằng sau
lưng có tiếng người kêu gọi lên rằng:
- Thằng kia mầy chạy đi đâu?
Dương Chí quay cổ lại xem, thấy một anh chàng to béo cổi trần,
vác gậy đuổi theo đằng sau, chàng liền đứng dừng lại mà không chạy nữa.
Đoạn rồi lại thấy tên đầy tớ cùng hai ba đứa trang khách cũng
vác gậy, chạy răm rắp mà đổ xô theo đến.
Dương Chí nghĩ thầm "Đánh chết một thằng đầu này, tất là
chúng không dám đến nữa". Liền múa đao xông lại để đánh với anh kia. Anh
kia cũng giơ gậy lên đánh lại. Hai bên đấu nhau được đến hai ba mươi hiệp, song
sức anh kia không thể nào địch nổi với Dương Chí, chỉ quanh co che đỡ cũng
không xong. Bấy giờ tụi đầy tớ người nhà đã toan xông vào cả một lượt để đánh
Dương Chí, thì bỗng thấy anh chàng kia nhảy ra ngoài vòng mà kêu lên rằng:
- Khoan tay, bác là ai, nói tên tuổi cho tôi biết?
Dương Chí vỗ bụng đáp:
- Ta đây đi không đổi tên, ngồi không đổi họ, Thanh Diện Thú
Dương Chí chính là ta.
Người kia hỏi:
- Có phải Dương Chế Sứ ở Điện Tư Phủ bên Đông Kinh đó không?
Dương Chí đáp:
- Làm sao ngươi lại biết đến tên ta? Chính ta là Dương Chí
đây.
Anh chàng kia vội vất gậy ra, rồi cúi xuống lạy mà rằng:
- Chúng tôi thực là có mắt mà không trông thấy núi Thái Sơn,
xin ngài tha lỗi.
Dương Chí chạy lại đỡ người kia dậy mà rằng:
- Ông là ai? Tôi không được biết.
Người kia đáp:
- Tên tôi là Tào Chính, người ở phủ Khai Phong, là học trò
Giáo Đầu Lâm Xung khi trước. Nguyên nhà tôi ngày xưa chuyên nghiệp đồ tể, sau
tôi cũng thiện nghệ về mặt sát sinh, nên ai cũng gọi tôi là Thao Đao Quỷ. Mới
đây có một ông Tài Chu giao cho tôi năm nghìn quan tiền đem sang Sơn Đông buôn
bán, bất đồ thua lỗ mất cả, thành ra không dám về nhà, mà lần lữa lấy vợ ở đây,
người rót rượu lúc nãy là em vợ tôi đó. Tôi được gặp Chế Sứ thực là may mắn, vừa
rồi tôi trót lỡ mạo phạm đến ngài, mới biết thủ đoạn của ngài thực là tài giỏi,
không khác gì Lâm sư phụ, chúng tôi không thể nào mà địch được?
Dương Chí nói:
- Té ra anh là học trò Lâm Giáo Đầu mới bị Thái Úy hãm hại,
phải đổi nghề đi lạc thảo, hiện bây giờ ở Lương Sơn Bạc đó.
Tào Chính nói:
- Chúng tôi cũng được nghe láng váng như thế song chưa biết
đích xác ra sao? Xin đón Chế Sứ hãy vào chơi tạm trong hàng đã.
Nói đoạn mời Dương Chí vào ngồi chơi trong hàng gọi vợ và em
vợ ra bái kiến rồi nhất diện sai làm rượu khỏan đãi.
Khi ngồi uống rượu, Tào Chính hỏi Dương Chí rằng:
- Chế Sứ vì cớ gì mà lại đi đến đây?
Dương Chí liền đem chuyện từ khi đánh mất Hoa Thạch Cương,
cho tới khi đánh mất các đồ lễ vật của Lương Trung Thư, nói cho Tào Chính nghe
một lượt. Tào Chính nghe vậy liền nói rằng:
- Nếu thế thì xin ngài hãy ở tạm đây trong ít bữa, rồi bàn định
việc sau.
Dương Chí đáp rằng:
- Bác có lòng tiếp tôi thế, tôi cũng lấy làm cảm tạ lắm, song
chỉ e Quan Tư truy nã đến nơi, ở đây lâu có điều không tiện!
- Vậy thì ngài định đi đâu bây giờ?
- Tôi định đi sang Lương Sơn Bạc tìm Lâm Giáo Đầu một thể. Dạo
trước tôi đi qua đấy, gặp ngay ông ta xuống đánh nhau với tôi một lúc, rồi sau
Vương Luân thấy võ nghệ hai người đều khá cả liền mời lên chơi rồi định lưu giữ
ở trại, vì thế nên tôi nhận biết Lâm Giáo Đầu ngay từ độ đó. Bấy giờ Vương Luân
đã có ý bảo tôi ở lại; Song tôi nhất định không chịu làm nghề lạc thảo, tới nay
trên mặt đã phải thích kim ấn mà lại gặp bước thế này, nên phải liều mà định đi
đến đấy, nhưng nghĩ ra thì cũng là bất đắc dĩ lắm, bởi thế nên tôi vẫn còn phân
vân chưa quyết ra sao?
- Ngài nói cũng có lẽ, tôi cũng thấy nhiều người nói rằng:
Vương Luân là một anh hẹp hòi không có độ lượng gì, ngày trước sư phụ tôi đến đấy
cũng bị anh ta bắt hành bắt họe mãi rồi mới chịu dung, nhưng thế thì những người
chí khí chịu sao cho được. Nay ở gần đây về hạt Thanh Châu có một trái núi gọi
là núi Nhị Long Sơn trên có ngôi chùa gọi là Bảo Châu, địa thế cũng đẹp đẽ, mà
chỉ có một lối là đi lên núi được. Xưa nay có một người tên là Kim Nhỡn Hổ Đặng
Long trụ trì ở đó, nhưng mới đây anh ta đã phá giới mà để tóc và tụ họp đến 4,
5 trăm lâu la để cướp bóc kiếm ăn. Vậy Chế Sứ có ý muốn đi lạc thảo, thì chi
cho bằng đến đó tiện hơn?
Dương Chí nghe nói cả mừng mà cảm ơn Tào Chính. Tào Chính lưu
Dương Chí ngủ lại ở đấy một đêm. Đến sáng hôm sau nhờ Tào Chính cấp đỡ cho một
ít hành lý, rồi từ tạ mà đi sang núi Nhị Long. Cho hay:
Có ăn mới biết ớt cay
Có từng trải lắm mới hay mùi đời
Cao lang mấy kẻ ra ngoài
Quê mùa rau cháo là nơi hữu tình.
Đường đi vào khoảng gần hôm, đã trông thấy một tòa núi cao
cao, Dương Chí liền nghĩ trong bụng định tìm chỗ rừng cây để ngủ một đêm, rồi
sáng hôm sau sẽ lên núi. Chúng nghĩ đoạn bèn lần lần vào chỗ rừng cây ở trước mặt.
Bất đồ bướùc chân đi vào thì bỗng giật mình đứng lại, rồi thấy có một ông sư bụng
phệ, đương cởi trần để hở những nét hoa chạm ở trên sống vai và ngồi hóng mát
dưới gốc cây thông. Nhà sư ấy trông thấy Dương Chí đến thì vớ lấy cây thuyền
trượng dựng ở gốc cây, đứng dậy quát lên rằng:
- Thằng quái nào? Mày ở đâu đến đây?
Dương Chí nghe tiếng biết là người ở Quan Tây cùng xứ với
mình, liền hỏi lại rằng:
Nhà sư không nói năng chi cả, vác ngay thuyền trượng sư phụ
xăm xăm ra đánh ngay luôn Dương Chí.
Dương Chí tức mình mà quát lên rằng:
- Thằng trọc này vô lễ thật, để ta đánh một trận cho biết
tay.
Nói đoạn múa đao vào để đánh. Đôi bên đánh nhau trong khu rừng,
có tới 4, 5 mươi hiệp, mà không bên nào chịu kém bên nào.
Sau nhà sư lựa thế nhảy tót ra ngoài vòng mà quát lên rằng:
- Khoan tay đã.
Bên kia Dương Chí cũng dừng tay mà lại nghĩ thầm trong bụng rằng:
- Lão sư này ở đây đến mà thủ đoạn khá lắm, có lẽ ta đây cũng
khó lòng địch được hắn chắc.
Bấy giờ nhà sư hỏi Dương Chí rằng:
- Anh chàng mặt xanh kia, anh là ai?
- Ta là Đông Kinh Chế Sứ Dương Chí đây.
- Có phải là người bán đao ở Đông Kinh mà giết chết thằng
Ngưu Nhị đó không?
- Không trông thấy kim ấn ở trên mặt ta đây à!
Nhà sư nghe nói cười ầm lên mà rằng:
- Tưởng là ai? Té ra là bác, sao lại gặp ở đây?
Dương Chí nói:
- Tôi hỏi khí không phải, hoà thượng là ai sao lại biết việc
tôi bán đao ở Đông Kinh?
Vị hoà thượng cười mà đáp rằng:
- Tôi chính là quân quan ở Kinh Lược Lão Chung phủ Duyên An,
là Lỗ Đề Hạt đây, nhân vì ba cẳng tay đánh chết thằng Trấn Quan Tây Giả, lên phải
lên núi Ngũ Đài cắt tóc đi tu, sao người ta thấy tôi có thích hoa trên sống
vai, cho nên thường gọi tôi là Hoa Hòa Thượng Lỗ Trí Thâm.
Dương Chí nghe nói cả cười mà rằng:
- Nếu vậy thì người cũng một hội cả chứ đâu? Trong khi giang
hồ, tôi vẫn được nghe tiếng sư huynh đến tu ở chùa Đại Tướng Quốc, thế mà bây
giờ sao lại gặp đây?
Lỗ Trí Thâm nói:
- Chuyện tôi dài dòng lắm, khi tôi coi vườn rau Giải Vũ ở
chùa Đại Tướng Quốc; Gặp Báo Tử Đầu Lâm Xung bị Cao Thái Úy toan giết hại, tôi
vì giữa đường thấy sự bất bình, phải đưa anh ta đến Thương Châu để cứu cho
thoát nạn. Dè đâu lúc trở về hai đứa công sai lại toan hót với Cao Cầu là chúng
định giết Lâm Xung ở rừng Dã Trư, nhưng bị tôi cứu mất, nên chúng không thi
hành được. Nhân thế Cao Cầu đem tâm thù ghét, cấm sư cụ chùa Đại Tướng Quốc
không cho tôi ở đấy và lại sai người đến để bắt tôi. Sau đó mấy đứa trong bọn
du đảng đến báo cho tôi biết, tôi tức mình cho một nắm lửa đốt Giải Vũ mà trốn
đi nơi khác. Khi đi quanh quẩn vẩn vơ đến một hàng rượu ở chỗ Thập Tự Pha Mạnh
Châu, lại bị con mẹ đàn bà ở trong hàng ấy đánh thuốc mê, mà toan giết hại tính
mạng. May sao lại có chồng hắn về nhà trông thấy tướng dạng và các đồ giời đao
thuyền trượng của tôi, thì lấy làm kinh ngạc, liền cứu cho sống lại và kết
nghĩa anh em. Hai vợ chồng nhà ấy cũng có tiếng là hảo hán, trong đám giang hồ,
người chồng tên làThái Viên Tử Trương Thanh, vợ là Mẫu Dạ Xoa Tôn Nhị Nương đều
có can đảm nghĩa khí hơn người. Tôi ở đấy được dăm hôm, nghe nói ở đây có chùa
Bảo Châu trên núi Nhị Long có thể dung thân được, bèn từ giã hai vợ chồng nhà
kia, mà định đến đấy để mà vào đảng. Ai ngờ những thằng ở trên núi nầy không chịu
cho tôi ở đó, thành ra đôi bên sinh sự đánh nhau. Về sau sức nó yếu đuối, không
thể nào địch nổi với tôi, liền đóng cả ba tòa cửa núi mà giữ riết ở trong nhà.
Tôi tính quanh không thấy đường nào lên được, tức mình chưởi mắng suốt ngày,
chúng cũng lặng yên không thằng nào thò mặt xuống, làm cho càng thêm căm giận
trong lòng, chịu khoanh tay mà ngồi đợi ở đấy, chứ không có kế gì cho hả giận
được?
Dương Chí nghe nói đến đó cả mừng liền dắt tay vào rừng quét
chỗ đất sạch cùng ngồi nói chuyện với nhau suốt đêm.
Dương Chí lại đem chuyện từ khi đánh mất đá hoa cho đến lúc gặp
vợ chồng Tào Chính thế nào, kể cho Lỗ Trí Thâm nghe rồi nói rằng:
- Bây giờ chúng nó giữ chặt sơn trại không chịu mở cửa ra,
thì ta ở đây cũng là vô ích, vậy bất nhược ta hãy đến nhà Tào Chính để nghỉ
ngơi, và sẽ bàn định xem sao?
Nói đoạn hai người cùng ra mà tìm đến tửu điếm Tào Chính. Khi
tới nơi Dương Chí trỏ Lỗ Trí Thâm bảo cho Tào Chính biết, Tào Chính lấy làm vui
mừng liền sai làm rượu cơm để thiết đãi hai người, rồi cùng bàn chuyện đánh phá
núi Nhị Long.
Tào Chính nói:
- Nếu đám ấy mà nó đóng chặt cửa không chịu ra, thì dẫu có tới
một vạn quân mã cũng khó lòng đánh nổi, không cứ là hai người. Vậy đám ấy chỉ
có thể dùng mẹo mà phá mới được, chứ dùng sức thì không ăn thua.
Trí Thâm nói:
- Lúc tôi mới đến đấy còn tiếp nhau ở ngoài cửa, sao thấy hắn
không chịu cho mình nhập bọn, liền đá cho một cẳng chân ngã lăn xuống đất, rồi
định vào giết luôn một thể! Bất đồ bị đám lâu la chạy ùa ra cứu đem về sơn trại,
rồi đóng chặt cửa lại, tha hồ cho mình mắng nhiếc ở ngoài, nhất định không thằng
nào ra nữa.
Dương Chí nói:
- Chỗ ấy đã là một chỗ thú, thì hai người chúng ta cùng đến
đánh lấy có được không?
Lỗ Trí Thâm lắc đầu đáp rằng:
- Không thể nào mở được cửa mà lên, thì còn làm gì được.
Tào Chính nói:
- Tôi có một kế sách này, không biết các ngài có cho là phải
không?
Dương Chí nói:
- Thế nào xin cứ nói cho chúng tôi nghe.
Tào Chính nói:
- Bây giờ Chế Sứ phải ăn mặc giả làm một anh nhà quê, cũng
như chúng tôi đây, đoạn rồi tôi cùng vợ và em vợ tôi với ngài đem các đồ thuyền
trượng giới đao, đưa hòa thượng tới cổng núi trói thòng lọng lại rồi bảo với bọn
kia rằng: "Nhà tôi mở hàng rượu ở gần đây có vị hòa thượng này vào uống rượu
say nhừ say nhựt mà không chịu trả tiền, mồm còn nói lảm nhảm: Định đi tìm người
đến đánh phá núi Nhị Long. Tôi nghe thấy vậy liền thừa lúc hòa thượng say bắt
trói đem lên để nộp Đại Vương". Như thế tất là họ mở cửa, cho ta vào. Khi
tới nơi hễ gặp Đặng Long là tôi cầm đầu dây thòng lọng rút phăng ra, rồi đưa
thuyền trượng cho hòa thượng, để mặc hòa thượng cùng ngài đánh cho nó một mẻ,
không còn trốn đi đâu được nữa, còn những tụi tẹp nhẹp bên dưới, thì thấy chủ
chết là tự nhiên tất chúng phải hàng phục mình cả, kế ấy các ngài nghĩ sao? Lỗ
Trí Thâm cùng Dương Chí đều vỗ tay khen là diệu kế.
Đêm hôm ấy Tào Chính sắp sửa các đồ lương thực, để đi đường
và dự bị đâu đấy sẵn sàng tất cả. Sáng hôm sau cơm nước xong rồi, Trí Thâm đưa
khăn gói hành lý để gửi ở nhà Tào Chính, rồi ba người cùng vợ và em vợ Tào
Chính và dăm bảy người nhà nữa, cùng đi lên núi Nhị Long.
Khi đi tới khu rừng gần đó, mọi người đều cởi áo bỏ xiêm, rồi
lấy thừng trói thòng lọng Lỗ Trí Thâm lại, xong cắt hai tên người nhà cầm đầy
thừng để rong đi, Dương Chí đầu đội nón mê, mình mặc áo vải rách, tay cầm thanh
đao; Tào Chính vác cây thuyền trượng của Lỗ Trí Thâm, còn mọi ngưòi kia mỗi người
cầm một cây gậy, mà dắt đùm đi lên núi.
Đến cửa núi đã thấy hai bên bày la liệt những cung nỏ đại giá
ở đó. Mấy tên lâu la ở trên cổng thấy bọn nọ trói hoà thượng đem đến, thì vội
chạy vào báo cho chủ trại biết.
Được một lúc thấy hai tên đầu mục chạy ra chỗ gác bóp hỏi rằng:
- Các anh ở đâu, đến đây làm gì? Bắt được lão sư ấy ở chỗ
nào?
Tào Chính liền đáp rằng:
- Chúng tôi người ở thôn gần đây, có mở một ngôi hàng để bán,
bỗng thấy lão hòa thượng này đến mua rượu uống mà không chịu trả tiền, rồi lại
nói khoác rằng đinh về Lương Sơn Bạc, rủ mấy nghìn người đến phá núi Nhị Long,
và tất cả các làng xóm ở đây. Chúng tôi thấy vậy, đem rượu ngon đổ thêm cho lão
uống thật say mềm rồi trói lại, đem đến đây dâng nộp Đại Vương để tỏ lòng thuận
phục của chúng tôi, và trừ khỏi những tai ngại về sau nữa.
Hai tên đầu mục nghe nói mừng quớ lên mà rằng:
- Tốt lắm, các anh hãy đợi đấy, để tôi vào báo với Đại Vương.
Nói đoạn hai người chạy vội vào báo với Đặng Long, Đặng Long
nghe báo cả mừng, liền sai giải lão sư lên trại để mọi ruột moi gan nhắm rượu
cho hả tấm lòng tức bực.
Chúng lâu la vâng lệnh, ra mở cửa cho bọn kia giải hoà thượng
vào. Bầy giờ Dương Chí cùng lũ Tào Chính áp giải Lỗ Trí Thâm lên qua mấy tòa cửa,
thấy đường lối quanh co, rất là hiểm trở. Hai bên núi cao quanh quất bao bọc ngọn
chùa, thế núi nguy nga hùng tráng, khoảng giữa có một núi con đi vào các cửa,
trên cửa bày chất các đồ cung nỏ đạn đá, cùng là gỗ súc gậy tre phòng bị rất là
nghiêm mật.
Khi qua ba tòa nhà, vào tới trước chùa Bảo Châu, thấy ba tòa
điện ngôn ở trên một miếng đất phẳng lì như mặt kính, xung quanh chấn gỗ làm
thành.
Trước cổng chùa có bảy tám tên lâu la đứng gác, trông thấy bọn
kia giải Lỗ Trí Thâm vào thì trỏ vào mặt mà mắng rằng:
- Thằng trọc này hôm nọ đá Đại Vương ngã, hôm nay bị bắt đến
đây, gọi là xé xác ra làm trăm mảnh.
Lỗ Trí Thâm nghe vậy, cứ lặng in không nói năng chi cả. Vào tới
trong điện, thấy Phật ở đấy, đều khiêng bỏ đâu mất, khoảng giữa bày một cái ghế
chéo phủ gia hổ, có lũ tiểu lâu la vác roi đứng dàn hai bên. Được một lát tiểu
lâu la mời Đặng Phong ra ngồi trên ghế, rồi Tào Chính cùng Dương Chí giải Lỗ
Trí Thâm vào trong thềm.
Đặng Long lên tiếng hỏi:
- Thằng trọc kia hôm nọ đá ta một cái đau tức bụng dưới, vẫn
hãy còn sưng chưa khỏi, hôm nay hẳn có phen vào tay ta chứ.
Trí Thâm nghe nói trợn hai mắt tròn xoe mà thét lên rằng:
- Thằng khốn nạn không biết thân, còn thị hùng, mày chạy đâu
được bây giờ?
Vừa nói dứt lời thì hai người nhà Tào Chính cầm dây thòng lọng,
rồi rút phựt ra, cho Lỗ Trí Thâm vớ lấy cây thuyền trượng ở tay Tào Chính, mà
múa nhảy lên. Bên kia Dương Chí vất nón ra múa đao xông vào, rồi Tào Chính cùng
mấy tên người nhà đều cầm gậy xông lên.
Đặng Long thấy vậy, vừa toan đứng dậy để chạy, thì đã bị Trí
Thâm đánh cho một trượng vỡ óc ra làm đôi mảnh, mà ghế chéo cũng gãy nát cả ra.
Các thủ hạ lâu la, bị Dương Chí đâm chết ba bốn tên, rồi Tào
Chính quát lên rằng:
Khi đó năm, sáu trăm lâu la, cùng mấy tay tiểu Đầu lĩnh ở đằng
trước đằng sau chùa, đều kinh sợ hoảng hốt đưa nhau đến, mà đầu hàng suốt lượt.
Đoạn rồi cho đem xác Đặng Long ra đằng sau núi để thiêu hoá. Nhất diện kiểm điểm
kho đụn, sửa sang nhà cửa, xem xét các đồ vật ở trong chùa, rồi mang rượu thịt
ra ăn uống với nhau.
Từ đó Trí Thâm cùng Dương Chí giữ quyền sơn trại, đặt tiệc ăn
mừng, rồi bầu mấy tên tiểu Đầu lĩnh để cai quản đám lâu la, Tào Chính thì đưa bọn
người nhà về tửu điếm.
Nước non riêng một bầu trời,
Đêm thân trí khí ra ngoài cỏ my.
Ngang tàng rõ mặt nam nhi,
Những phường luồn cúi kể chi từ rày!
Nói về lão Đô Quản cùng 11 tên Cấm binh khi ở Hoàng Nê Cương
trở về tới Bắc Kinh, liền vội vàng vào trước sảnh Trung Thư, mà quỳ lạy để chịu
tội. Lương Trung Thư chưa biết đầu đuôi ra sao liền hỏi rằng:
- Các ngươi đi đường nghe chừng khó nhọc lắm, nào Dương Đề Hạt
ở đâu?
Chúng nghe hỏi, bèn kêu lên rằng:
- Bẩm ân tướng, người ấy là một người bội nghĩa vong ân,
không biết thế nào mà nói được! Khi ở đây bước chân ra đi được dăm bảy ngày tới
Hoàng Lê Cương gặp phải một hôm khí trời nòng bức, anh em tìm vào khu rừng để
nghỉ, dè đâu Dương Chí thông đồng với bảy người cường đạo, giả trang làm lũ
buôn táo, rồi đem bảy cổ xe Giang Châu đến đóng trước ở đó. Sau lại sai một người
gánh rượu đến gạ bán cho chúng tôi, mà bỏ thuốc mê vào đánh phản.Đoạn rồi Dương
Chí cùng đám kia lấy hết cả đồ kim ngân châu báu mà trốn đi đâu mất. Hiện chúng
tôi đã vào trình với quan Phủ Tế Châu, và lưu hai Ngu hầu ở đó, để chờ xem tin
tức, còn anh em xin về báo để ân tướng.
Lương Trung Thư nghe nói cả kinh mà mắng rằng:
- Quân chó má, nó là một tên tù tội đến đây, ta đài cử cho
nó, ai ngờ lại dám lường thầy phản bạn, đang tay làm việc bất nhân bất nghĩa
như thế? Nếu ta bắt được nó phen này thì tất là xé thây ra làm muôn mảnh muối
cam.
Nói đoạn lập tức bảo gọi phòng giấy lên, bảo công văn hỏa tốc
đưa sang Tế Châu, và viết một phong thư bắt đưa ngay sang Đông Kinh, để trình
cho Thái Sư được biết.
Cách ít bữa Xài Thái Sư nhận được gia thư của Lưu Trung Thư
đưa tới, bóc ra xem lấy làm kinh ngạc mà rằng:
- Những quân trộm cướp bây giờ to gan thật? Năm ngoái chúng
đã lấy các đồ lễ vật mừng của con rể mình, đến năm nay chúng lại làm luôn chuyến
nữa, như thế thì để làm sao yên được?
Liền sai thảo một đoạn công văn phái một tên thân mật trong
phủ, lập tức sức cho quan Phủ Tế Châu phải bắt ngay các tên giặc cướp đó, đem về
để nộp.
Quan Phủ Tế Châu từ khi nhận được văn thư của Lương Trung Thư
ở Bắc Kinh đưa đến, trong bụng đã lo sợ ngay ngáy chưa biết làm sao, mà liệu lý
cho xong! Chợt đâu lại thấy lính vào báo rằng:
- Có người thân mật trong phủ Hoa Thái Sư ở Đông Kinh đưa
công văn đến hầu.
Truy phủ nghe báo trong lòng càng kinh sợ hoảng hốt, chắc là
cũng vì một việc lễ sinh nhật chi đây? Liền tức ra công đường để tiếp người nhà
trong phủ Thái Sư.
Bấy giờ Tri Phủ nói với người đưa giấy rằng:
- Việc này từ khi hạ quan tiếp được giấy báo của Ngu Hầu đưa
đến thì đã lập tức sai người đi tróc nã cường đạo, nhưng chưa thấy tăm hơi đâu
cả. Hôm nọ bên quan Lưu Thú lại sai người đưa giấy sang thôi thúc ở đây, tôi lại
phải bắt Huyện úy cùng Tập bộ, Quan sát đều phải hết sức truy tầm các ngả, mà
cũng chưa bắt được ai? Vậy việc này hạ quan xin hết sức truy nã, nếu hơi thấy
có chút tăm hơi nào, sẽ xin vào tận tướng phủ để bẩm với Thái Sư được biết.
Người kia nói:
- Tôi đây là người nhà tâm phúc của Thái Sư, nay vâng mệnh
quan Thái Sư ra đây, chỉ cốt bắt được phạm nhân, rồi cùng về một thể. Khi bước
chân ra đi, Thái Sư dặn đi dặn lại, thế nào cũng phải lưu lại ở phủ đây, để
quan Phủ bắt cho kỳ được bảy tên hàng táo, một tên buôn rượu và một tên quan
quân bỏ trốn là Dương Chí, hạn trong mười ngày, phải giải về Đông Kinh ngay lập
tức. Nhược bằng trong mười ngày mà tra cứu không ra, thì có lẽ quan lớn cũng phải
ra Sa Môn Đảo một phen, còn chúng tôi cũng khó lòng về được phủ Thái Sư, mà cũng
chưa biết tính mệnh ra sao nữa. Xin quan lớn xem giấy của Thái Sư đây thì biết.
Quan Phủ xem xong thì kinh sợ vô cùng, lập tức truyền gọi các
viên Tập đến để bàn hỏi. Bấy giờ có một người tên là Hà Đào vâng mệnh đến trước
công đường, Tri Phủ liền hỏi rằng:
- Việc bắt bọn cướp ở Hoàng Nê Cương có phải nhà ngươi đảm nhận
không?
Hà Đào đáp:
- Bẩm tướng công, từ khi Hà Đào này nhận việc ấy tới nay, đêm
nghĩ ngày lo; sai những người sành sỏi thạo việc, đi đến tận Hoàng Nê Cương để
dò xét, hiện nay đã mấy phen đánh đập quở trách chúng, nhưng cũng chưa dò thấy
tung tích đâu cả. Việc này thực chúng tôi không dám trễ nãi, song không có thể
mà dò xét cho ra được.
Quan Phủ nghe nói quát lên rằng:
- Nói lạ! Trên dễ dàng thì dưới lại lười biếng, ta từ khi đỗ
Tiến Sĩ đến nay, làm nên một chức Tri Phủ ở đây, cũng không phải là dung dị, thế
mà quan Thái Sư còn ra lệnh đây, hạn trong mười ngày, nếu không tầm nã cho ra,
thì không những mất quan, có lẽ đến đầy Sa Môn Đảo cũng nên, các ngươi đã là một
người giữ chức Tuần Bộ, mà không hết sức làm việc, để cho liên lụy đến ta, vậy
ta hãy đem đày các ngươi đi một xứ rất xa, nhạn bay không tới xem sao?
Nói đoạn rồi liền gọi thợ thích chữ phát vãng vào mặt Hà Đào,
bỏ trống chỗ tên châu quận để điền vào sau, rồi lại thét lên mà bảo rằng:
- Nếu ngươi không bắt được đám cướp ấy, thì quyết nhiên là tội
nặng đến thân, không sao tha được.
Hà Đào vâng lời Tri Phủ, rồi lủi thủi đi xuống phòng Cơ Mật
bàn việc với bọn công sai. Bọn công sai thấy Hà Đào như vậy, thì anh nào anh nấy,
đều tẩn mẩn như tên xuyên mỏ nhạn, câu mắc mang nheo, không còn biết nói năng
sao được! Hà Đào thở dài bảo với chúng rằng:
- Mọi lúc bình thường các anh vẫn đến đây để tảo tiền, phung
phí, sao đến ngày nay có việc như thế này, chỉ thấy các anh im thin thít cả,
như thế là nghĩa gì?
Các anh có thương đến cái kim ấn ở trên mặt tôi đây không?
Chúng đồng thanh nói rằng:
- Quan Sát ơi! Chúng tôi có phải là cỏ gỗ gì mà không biết!
Nhưng khốn vì cái bọn buôn táo ấy, chẳng qua là bọn cường nhân ở nơi non xanh rừng
rậm đi đâu qua tới đó, chợt thấy kim ngân châu báu thì họ cướp chia nhau, rồi lại
tản về sơn trại, như thế thì còn bắt làm sao được họ! Dù cho có biết nữa, cũng
chỉ đến nhìn họ mà thôi chứ gì?
Hà Đào chưa nghe thấy bọn ấy nói, thì trong bụng còn phiền
não năm phần, đến khi nghe họ nói, thì lại phiền não lên gấp mười phần, rầu rĩ
bước ra phòng giấy rồi lên ngựa về nhà. Khi về tới nhà dắt ngựa ra tàu buộc vào
tàu ngựa, rồi một mình vơ vẩn băn khoăn rất chiều buồn bã.
Người vợ thấy vậy liền hỏi rằng:
- Chẳng hay phu quân ngày nay làm sao mà buồn bã như vậy?
Hà Đào thở dài đáp rằng:
- Chỉ vì cái việc tôi nói mọi hôm, là việc cướp ở Hoàng Nê
Cương, nó lấy mất 11 gánh kim ngân châu báu của Lương Trung Thư mà truy tầm mãi
không ra, cho nên khổ não đến mình đó thôi! Đời người nghĩ cũng éo le, như mình
làm việc vua việc quan, kiếm được miếng ăn đã là vất vả, thế mà những tụi bên
trên thì cao lương chung đỉnh, no béo cả họ lẫn hàng, lại còn sinh sự lễ nọ
kia, những là sinh nhật với sinh thời, làm cho tự nhiên vô cố cũng náo động cả
dân gian, mà phiền nhiều đến người vô tội, nào có phải là việc dân việc nước
cho cam! Đây bây giờ chữ đã thích trên mặt đây, nếu nay mai không truy nã được
ngay bọn cướp ấy để giải về Đông Kinh, thì tính mạng mình cũng chưa biết ra thế
nào đó.
Người vợ nghe nói lắc đầu mà rằng:
- Thế thì biết làm thế nào được! Có cách gì bây giờ không?
Khi ấy vợ chồng đang than thở, bỗng thấy người em là Hà Thanh
đến. Hà Đào bảo với em rằng:
- Đến đây làm gì đấy? Sao không đi đánh bạc mà lại đến đây?
Người vợ biết ý, liền vẫy Hà Thanh xuống nhà dưới, dọn cơm rượu
lên, để mời Hà Thanh ăn uống.
Hà Thanh có ý không bằng lòng mà rằng:
- Ca Ca khinh tôi quá! Tôi không ra gì cũng là em ruột của Ca
Ca mà Ca Ca có thế nào đi nữa, cũng là anh ruột tôi, tôi có điều gì làm nhục đến
Ca Ca, mà lại cho tôi ăn uống thế này?
Người chị dâu nói:
- Chú không biết, bụng anh bây giờ đương có sự không vui đấy!
- Ca Ca ngày nào cũng kiếm tiền kiếm bổng đem về đây, anh em
không hề ai quấy nhiễu, còn có chuyện gì mà không vui?
- Nào chú có biết đâu, hôm nọ vì có bọn bảy người buôn táo ở
Hoàng Nê Cương cướp lấy lễ vật của Lương Trung Thư, đưa vào mừng sinh nhật Xái
Thái Sư ở Đông Kinh, đến nay quan Phủ Tế Châu vâng lệnh Thái Sư, ra hạn mười
hôm phải bắt cho kỳ được, bằng không tất phải đi đày ở nơi khốn khổ, chú không
trông thấy chữ thích ở trên mặt anh đó sao? Chú tính như thế thì còn vui vẻ gì
mà uống rượu với chú thế nào được? Thôi, chú cứ xơi cơm rượu đi, đừng nên trách
anh ấy nữa!
Hà Thanh nghe nói thì gật gù mà đáp rằng:
- Phải, tôi có nghe loáng thoáng thấy họ nói có việc cướp ấy,
nhưng không biết đích xác rằng nó cướp ở đâu?
- Ấy chính ở Hoàng Nê Cương đấy!
- Thế thì bọn cướp ấy là bọn thế nào?
- Chú say rượu sao? Tôi vừa nói với chú là bảy người họ buôn
táo đó mà.
Hà Thanh nghe nói cười ha hả mà rằng:
- Tưởng là ai, chẳng ra là bọn buôn táo đó. Nếu vậy việc gì
mà phiền? Sao không sai người đi để bắt?
- Chú nói thế thì cũng phải lắm, nhưng bắt ở đâu được mà bắt?
Hà Thanh lại cười mà đáp:
- Tẩu Tẩu lo làm gì? Mọi lúc binh thường Ca Ca vẫn năng đi lại
với bọn rượu chè cá thịt mà không biết đến anh em, cho nên đến lúc hữu sự mới
không biết đâu mà bắt được. Ví bằng mà mọi khi Ca Ca lại thỉnh thoảng cho anh
em được chén rượu, thì bọn cướp ranh ấy làm gì mà truy nã không ra?
Vợ Hà Đào ngạc nhiên mà hỏi rằng:
- Vậy chú có biết đường lối của họ không?
Hà Thanh cười rằng:
- Thôi cứ để Ca Ca khi nào nguy hiểm đến nơi, bấy giờ sẽ liệu
có cách gì cứu được hay chăng?
Nói xong đứng dậy toan đi, vợ Hà Đào cố giữ lại mời uống mấy
chén rượu, rồi chạy ra bảo cho chồng biết.
Hà Đào nghe vợ nói, liền chạy vào mà bảo em rằng:
- Em biết tụi giặc ấy ở đâu, sao không cứu giúp ta?
Hà Thanh đáp:
- Tôi có biết đâu, tôi nói chuyện đùa cho vui đấy thôi, em cứu
thế nào Ca Ca mà cứu?
- Thôi, sao em lại lãnh đạm như thế, em phải biết bụng ta đối
với em là tử tế, chớ nên nghĩ đến những điều nọ tiếng kia, mà cứu lấy tính mạng
cho ta mới được.
- Ca Ca thiếu gì những người làm việc mắt nhanh tai sáng, xưa
nay có kể đến hai ba trăm người, lại không giúp đỡ được Ca Ca hay sao?
- Em ơi! Em đừng nói như thế, em biết đường lối rồi, can chi
còn phải nhường ai? Em cứ báo cho ta biết rồi ta sẽ có cách đền ơn em, đừng sợ
thiệt.
- Tôi biết gì mà bảo cho Ca Ca?
Hà Đào lại nói:
- Em không nên chọc tức ta, em phải nghĩ tình máu mủ mới được.
Hà Thanh đáp:
- Nhưng mà cũng không vội gì, cứ để đến lúc nguy sắp bấy giờ
tôi sẽ bảo anh, để bắt bọn cướp ranh ấy.
Vợ Hà Đào nghe vậy liền bảo rằng:
- Chú ơi! Chú phải nghĩ đến tình cốt nhục mà cứu anh mới được.
Hiện Thái Sư sức giấy ra truy nã phạm nhân, việc ấy là việc to tày trời, sao lại
gọi là bọn cướp ra được?
Hà Thanh cười ngất mà nói:
- Tẩu tẩu ơi! Tẩu tẩu không biết, tôi đây chỉ vì đánh bạc, mà
bị Ca Ca đánh mắng đã bao phen, cho nên chỉ sợ Ca Ca mà không dám can thiệp đến.
Mọi khi có rượu có thịt thì chỉ vui thú với những ai ai, mà tới nay có việc mới
biết anh em đấy nhỉ?
Mới hay:
Khi vui vui những đâu đâu,
Tới khi hoạn nạn mới cầu anh em.
Ai ơi! Thử ngẫm mà xem,
Nhân tình như thế bạc đen chăng đời?
Hà Đào nghe Hà Thanh nói có ý phẫn uất, liền lấy ra mười lạng
bạc để lên mà bảo rằng:
- Em hãy cầm lấy món tiền này tiêu tạm, rồi sau khi bắt được
cướp anh sẽ hậu thưởng cho.
Hà Thanh cười mà đáp rằng:
- Ca Ca thực là. Nếu tôi lấy món tiền này chẳng hóa ra
tôi bắt chẹt Ca Ca hay sao? Không nên lấy tiền mà nhử tôi, nếu Ca Ca làm thế,
thì không khi nào tôi nói nữa. Có phải là Ca Ca có lòng tử tế, thì tôi sẽ nói
cho Ca Ca nghe, chứ đừng mang tiền ra mà lòe tôi như thế.
Hà Đào nói:
- Tiền ấy là của quan trên treo giải thưởng đấy, em đừng nên
từ chối, hãy nói thực cho ta biết bọn ấy nó ở đâu?
Hà Thanh vỗ vào đùi mà nói rằng:
- Bọn cướp ấy, tôi đã tróc cả ở trong túi này chứ đâu?
Hà Đào kinh ngạc nói rằng:
- Em nói lạ! Làm thế nào mà bọn cướp lại ở trong túi được?
Hà Thanh nói:
- Ca Ca mặc tôi, nó ở cả trong túi tôi đây rồi, Ca Ca cứ cất
tiền đi, không nên đem ra để làm mồi nưa.
Mới hay:
Mấy anh phỗng đá ngồi trên,
Đã không ích nước lại thêm lụy người.
Túi tham vét sạch của đời,
Giả danh quân quốc làm mồi ấm no.
Vẽ hươu vẽ vượn trăm trò,
Chẳng hay đục nước béo cò hay chi?
Rồi đây binh biến bất kỳ,
Muôn dân đồ thán tội thì tại ai?
Lời bàn của Thánh Thán:
Một bộ sách sắp vơ vét của 108 người, để chứa cả vào Sơn Bạc,
mà phải đưa từng người một, vào Thủy Đình của Chu Quý, từng người vào ăn uống ở
nhà hàng, từng người phải bắn tên hiệu, và từng người phải dẫn quan đò...như kẻ
bán gạo lại miệng đếm tay nhặt từng hạt gạo một, thì bao giờ cho xong? Nếu chép
từng người một đi đến như Lâm Xung kia, thì sao gọi là văn của tài tử chép. Xét
từ khi trời sinh Thạch Kiệt, để tới ngày ghi tên họ mà xem, thì 108 người kia,
đã lần lượt tới Lương Sơn Bạc vậy. Song le mới đầu đi đến Sơn Bạc kia, lần lượt
diễn ra, còn ví như những hạt châu to nhỏ, chứa đựng cả vào một mâm ngọc vậy,
có còn tản tác xa gần, chưa thể nhặt ngay hết để cùng được! Vì lúc đầu nào phải
một tay hai tay nhặt hết để cùng bày, đối với việc ấy, tác giả tả dần dà, như
bày đặt thứ tự, nhân đó mà chợt cấu tứ lạ lùng, mà nói đến hai chàng Dương, Lỗ,
còn giấu ở Nhị Long Sơn, đợi sau then chốt mở ra, thừa thế mà động, như tiếng sấm
vang phá vách, bay nhanh tới vậy. Hỡi ôi! Lời xưa có nói: Thợ giỏi khổ tâm, thực
không sai vậy.
Lỗ Đạt là một nghiệt long, Dương Chí cũng là một nghiệt long,
hai con nghiệt long cùng ở một nước, thì tranh một Bảo Châu, sao cho khỏi được?
Tác giả vốn biết sâu như thế, nên trước đoạn văn này, tả hai người cùng ở Quan Tây,
để mong lấy tình hương lý, tuy rằng lấy hai chàng Dương; Lỗ, mà mong ở cớ cùng
hương lý để hợp nhau, thì cũng khó thay! Vì rằng lấy cớ hai người Dương, Lỗ
cùng một quê hương để mà hợp tác, thì sao đẻ ở Quan Tây, lại không sống chết ở
Quan Tây? ? ? Lại bỏ nơi chôn rau cắt rốn mà đến đất này? Đã bỏ nơi chôn rau cắt
rốn mà đến đất này, thì còn nghĩ đến hai chữ Quan Tây, để buộc nhau hợp tác, thế
là đã coi thường nơi sinh đẻ, còn trói buộc sao cho nổi hai Rồng? Chuyện đâu
đáng kể? Tác giả vốn biết như thế, mới bảy ra chàng Thao Đao Tào Chính, tả ra
là môn đệ Lâm Xung Tào Chính như kẻ giữ thừng trong tay, kết chặt lại Dương, Lỗ,
khiến hai con rồng dữ thò đầu cựa đuôi, không làm sao tháo ra bỏ được! Không là
gì? Quái vật thiên hạ, phải có Quái bảo thiên hạ giữ gìn. Đọc tới hồi này, thì
phải biết tới Lâm Xung làm chiếc Khóa vàng của vua Võ vậy.
Nãy ta nói trong hồi này, tuy không tả Lâm Xung, vì muốn giữ
hai con Rông dữ, phải có chiếc Khóa vàng của vua Võ, sở dĩ có Lâm Xung làm người
cương lãnh một hồi, bàn ra thấy rõ. Nay ta muốn hỏi thử độc giả Thủy Hử khắp
trong thiên hạ, cũng từng biết trong hồi này. Vì ngưng lại hai Rồng, làm ra có
Rồng (Đặng Long), vì cần một khóa, làm ra có khóa (đóng chặt sơn trại), vì cần
một kẻ liên hệ, làm ra một kẻ liên hệ (Tào Chính) đó chăng? Đức Khổng nói: Nhắc
đến một góc, mà không biết đem ba góc kia quay lại; thì còn nói làm gì? Thế mà
ta vẫn cứ nói ra cho thấy, ôi Dương, Lỗ cả hai cùng ở chùa Bảo Châu đã rồi,
ngày sau lại có Võ Tòng tới nữa, thì Lỗ Đạt đã một nghiệt long, Võ Tòng cũng một
nghiệt long, Lỗ, Dương liên hệ đã có Lâm Xung, Tào Chính là tay ràng buộc; Còn
Lỗ, Võ hợp nhau lấy ai liên hệ? Xét đến Lõ Đạt tự thuật việc ở Mạnh Châu đầu độc,
tuy chưa thực sự, song đã một lần nói ra từ miệng Lỗ Đạt, lại một lần sau nói
ra ở miệng Trương Thanh, mối liên hệ vậy, sau này Lỗ, Võ tuy chưa gặp nhau lần
nào, mà rồi cả hai cùng đi đến điếm Trương Thanh, thì dây liên hệ đã ở trong
tay Trương Thanh lâu rồi, vậy Trương Thanh sau đó, cũng như Tào Chính ngày nay,
nói rằng Trương Thanh cũng như Tào Chính, đã thực có người liên hệ, có kẻ giữ
ràng, sự thực như thế, bởi chưa đọc kỹ hết. Xem như Lỗ Đạt thuật với Trương
Thanh rằng xem giới đao ta kính khiếp, đến sau Trương Thanh tặng Võ Tòng thì rằng,
ta có hai khẩu giới đao, đấy cũng một vật kia làm một chí này rõ vậy. Lỗ Đạt có
giới đao, còn thêm thuyền trượng, Võ Tòng cũng giới đao, còn thêm xương người...Đó
tác giả khéo nhuộm thêm gián sắc, làm lóe mắt người, nếu chả tin, thì đợi xem
Võ Tòng qua bờ Thập Tự, cùng vợ chồng Trương Thanh uống rượu đến tối, bỗng
không nảy một giới đao, hằng làm kinh thưởng, Đó! Đoạn văn trước với đoạn văn
sau, đều không liên thuộc, là cớ làm sao? Hỡi ôi! Đọc sách cứ theo sách mà đọc,
đâu phải là kẻ đọc sách? Lại còn quái lạ Thánh Thần mà mà hẹn lấy thì giờ ư?
Khi Dương Chí mới vào điếm Tào Chính, chẳng ngờ có vợ Tào
Chính, tự khi Dương Chí vào điếm Tào Chính, mới tả ra vợ Tào Chính, để diễn xuất
bản văn sau, ngòi bút lôi thôi, vốn không dừng được. Vì trong lòng tác giả muốn
cho hai chàng Dương, Lỗ gặp nhau, buộc bằng Lâm Xung, giữ ở Tào Chính, sau lại
muốn cho hai chàng Lỗ, Võ gặp nhau, cũng buộc bằng giới đao, giữ ở Trương
Thanh, như trên đã nói. Thế mà việc xảy ra sau cách ít nhiều hồi, những người
xem sách, mắt còn nhỏ như hạt đậu, chưa qua hàng mấy chục tờ, mà được biết lòng
văn soi sáng, rất lạ rất ngang, cho nên tác giả muôn phần không biết làm sao,
phải tả trước trong điếm Tào Chính, thêm một đàn bà, để đối với chuyện trong điếm
Trương Thanh sau này, cho văn sau thêm vẻ kỳ quan, thực là cái tài của tài tử,
như năng lực Hóa công.
Một đôi Dương, Lỗ gặp nhau, lấy Quan Tây thông khí, một đôi Lỗ,
Võ gặp nhau, lấy xuất gia đậu cơ, đều là ngại văn chương chẳng nên thiên đoạn vậy.
Đọc đến cuối hồi, bỗng đâu có chuyện Hà Thanh báo tin, có
khóc, có cười khiến người thiên hạ không em đọc đến phải thương tâm, người có
anh em đọc đến cũng thương tâm, ai bảo viết sử không có ý văn khuyên dạy cho đời?
Hồi 17:
Mỹ Nhiêm Công dùng mẹo lừa Sáp Sí Hổ:
Tống Công Minh vì tình thả Tiều Thiên Vương
Bấy giờ Hà Đào nghe em nói, thì bán tín bán nghi, liền nói
luôn rằng:
- Tiền nầy là tiền quan trên treo thưởng, em cứ cầm lấy, rồi
sẽ có trọng thưởng về sau. Bây giờ em hãy nói cho anh biết bọn kia ở trong túi
là thế nào?
Hà Thanh thong thả móc ra một tập giấy, rồi trỏ mà bảo anh rằng:
- Bọn cướp ấy ở đây tất cả...
- Làm sao lại viết vào đấy?
- Chẳng dấu gì ca ca: Dạo trước vì tôi có thua bạc, không còn
một đồng nào trong túi, sau có bọn con bạc rủ đến thôn An Lạc, cách ngoài cửa Bắc
chừng 15 dặm, tới một khách điếm họ Vương, để đánh chơi với họ, nhân bấy giờ có
giấy quan sức, phàm các hàng cơm phải đóng sổ biên tên tuổi quê quán những hành
khách qua trọ, và phải cho rõ là đi đâu, làm việc gì, để bất thần quan tư khám
xét, và một tháng đem trình sở tại một lần. Nhưng vì Tiểu nhị ca không biết chữ
nên phải nhờ tôi viết giúp hộ trong nửa tháng trời. Một hôm vào khoảng mồng ba
tháng sáu, chợt có một bọn bảy người buôn táo, kéo bảy cỗ xe Giang Châu đến nghỉ
ở hàng. Trong bọn ấy tôi biết một người đi đầu là Tiểu Bảo Chính ở thôn Đông
Khê, vì dạo trước có một người con bạc đã dẫn tôi đến nhà ông ta một lần. Khi
tôi mang sổ ra hỏi tên họ để biên, thì có một người râu ba chòm mặt trắng bệch
chạy đến mà nói với tôi rằng: "Chúng tôi người họ Lý, ở Hào Thôn, buôn táo
về Đông Kinh". Tôi nghe vậy cũng biên vào sổ, song trong lòng thì hơi lấy
làm ngờ.
Đến hôm sau chủ điếm đưa tôi đi đánh bạc, tới một chỗ ngã ba đường, lại gặp anh lạ mặt gánh đôi thùng đến đó, tôi không biết hắn là ai. Sau thấy chủ điếm gọi mà bảo rằng: "Bạch đại lang đi đâu đó? "Bấy giờ người kia đáp rằng: "Tôi có gánh dấm, đem vào làng bán đây ". Chủ điếm lại quay lại bảo tôi rằng: "Anh ấy là Bạch Nhật Thử Bạch Thắng, là một tay con bạc đấy". Tôi nghe nói cứ an tâm như vậy. Sau thấy đồn ầm ĩ lên rằng: Trên đồi Hoàng Nê Cương, có bọn buôn táo đánh thuốc mê lũ công sai mà cướp đồ lễ sinh nhật, bấy giờ trong bụng tôi đoán chắc là lũ ấy chứ chẳng sai. Nay muốn biết đoan đích thì chỉ bắt tên Bạch Thắng đến đó là có thể tra ngay ra được. Cái nầy là tập sổ tay riêng của tôi, tôi sao chép lấy ở đấy.
Đến hôm sau chủ điếm đưa tôi đi đánh bạc, tới một chỗ ngã ba đường, lại gặp anh lạ mặt gánh đôi thùng đến đó, tôi không biết hắn là ai. Sau thấy chủ điếm gọi mà bảo rằng: "Bạch đại lang đi đâu đó? "Bấy giờ người kia đáp rằng: "Tôi có gánh dấm, đem vào làng bán đây ". Chủ điếm lại quay lại bảo tôi rằng: "Anh ấy là Bạch Nhật Thử Bạch Thắng, là một tay con bạc đấy". Tôi nghe nói cứ an tâm như vậy. Sau thấy đồn ầm ĩ lên rằng: Trên đồi Hoàng Nê Cương, có bọn buôn táo đánh thuốc mê lũ công sai mà cướp đồ lễ sinh nhật, bấy giờ trong bụng tôi đoán chắc là lũ ấy chứ chẳng sai. Nay muốn biết đoan đích thì chỉ bắt tên Bạch Thắng đến đó là có thể tra ngay ra được. Cái nầy là tập sổ tay riêng của tôi, tôi sao chép lấy ở đấy.
Hà Đào nghe nói cả mừng, lập tức dẫn Hà Thanh vào trình với
Tri phủ. Tri phủ gọi Hà Thanh vào nhà trong hỏi hết đầu đuôi mọi lẽ, phái tám
tên công sai cùng với Hà Đào, Hà Thanh đi ngay đến nhà hàng rượu ở thôn An Lạc,
để bắt đưa đến nhà Bạch Thắng.
Bấy giờ vào khoảng đầu trống canh ba, mấy người đưa nhau đến
nhà Bạch Thắng, người chủ hàng đánh lừa để gọi người nhà ra mở cửa. Vào trong
nhà thấy Bạch Thắng đương nằm rên rỉ trên giường, sau hỏi người vợ mới biết là
hắn đang bị sốt. Khi dựng Bạch Thắng dậy thấy sắc mặt của hắn nửa hồng nửa trắng,
chúng liền thừng trói lại, mà quát hỏi rằng:
- Ở Hoàng Nê Cương làm việc gì có biết không?
Bạch Thắng giả làm không biết và không chịu nhận. Chúng lại
tra khảo người vợ đều chối cả.
Về sau đám công sai đánh đóm đuốc đi tìm tang vật khắp cả mọi
nơi, chợt thấy ở gầm giường có chỗ đất không phẳng, chúng bèn đào lên để xem.
Vừa đào được ba thước đất, thì chúng bỗng kêu reo ầm ĩ rồi
lôi lên một bọc kim ngân ở đó. Đoạn rồi bắt hai vợ chồng Bạch Thắng và mang các
đồ tang vật ấy, mà hỏa tốc giải về Tế Châu.
Sáng hôm sau quan phủ đem ra tra hỏi căn nguyên, Bạch Thắng
nhất định không chịu xưng xuất cho Tiều Cái. Tri phủ cả giận sai đánh bắn máu
tươi ra, mà quát lên rằng: - Thằng đầu đảng, đây đã biết đích xác là Tiều Bảo
Chính ở thôn Đông Khê huyện Vận Thành, mày còn chối làm sao được nữa? Có muốn sống
thì thú thực sáu tên kia ra, kẻo roi vọt khổ thân.
Bạch Thắng biết không sao chối nổi, liền thở dài một tiếng mà
công nhận rằng:
- Việc ấy tôi chỉ biết có Tiều Bảo Chính là đầu đảng, đến rủ
Bạch Thắng đi gánh rượu, còn sáu người kia không biết là ai cả.
Tri phủ nghe nói truyền rằng:
- Nếu vậy thì bắt tên Tiều Bảo Chính đến đây, sẽ bắt được sáu
tên kia có khó gì?
Nói đoạn sai lấy gông tử tù nặng 20 cân gông Bạch Thắng lại,
và đem vợ giam vào một nhà giam đàn bà, rồi cho thảo công văn cho Hà Đào đem
hai mươi tên công sai nhanh nhẹn đi sang ngay Vận Thành, để hiệp đồng với bản
huyện đi bắt Tiều Bảo Chính.
Lại sai hai tên Ngu hầu của Lương phủ, cùng đi với Hà Quan
Sát; để nhận mặt mà bắt sáu tên kia.
Hà Quan Sát vâng lĩnh các người rồi lập tức ra đi. Sang đến
huyện Vận Thành, cho hai tên Ngu Hầu và bọn công sai vào nghỉ ở một hàng cơm, rồi
giắt một ít tiền và hai tên theo hầu, để vào huyện trình công văn. Khi vào đến
phòng giấy, thì quan Huyện vừa tan buổi hầu sớm, Hà Đào bèn đi ra một cửa hàng
nước ở trước cửa Huyện, để uống nước và ngồi đợi.
Hà Đào hỏi người hàng nước rằng:
- Trong huyện bây giờ làm sao mà vắng tanh như thế?
Nhà hàng đáp:
- Trong ấy vừa mới tan hầu xong, các người làm việc còn đi ăn
uống, cho nên chưa ai đến cả.
Nhà hàng trỏ sang cổng huyện mà nói rằng:
- Kìa ông Áp Ty hôm nay đây kia.
Hà Đào ngẩng nom lên thì quả nhiên có một người Áp Ty ở trong
huyện đương lững thững đi ra. Người ấy họ Tống tên là Giang, biểu tự là Công
Minh, con thứ ba, nguyên quán ở Vận Thành, mặt đen, người thấp, thường gọi là Hắc
Tam Lang Tống Giang, lại có tiếng là người hiếu để, bình sinh trọng nghĩa khinh
tài, ai cũng gọi là Hiếu Nghĩa Hắc Tam Lang. Trên còn bố già là Tống Thái Công,
mẹ thì mất sớm, có một người em tên là Thiết Phiến Tử Tống Thanh, cùng ở nhà với
Thái Công, để trông nom vườn ruộng.
Tống Giang làm Áp Ty ở huyện Vận Thành, văn án tinh thông,
sành nghề nha lại, tính thích chơi quyền chơi gậy, học được nhiều ngón võ, xưa
nay lại hay kết nạp bọn hảo hán giang hồ, hễ ai đến đó, bất cứ thế nào, đều
dung túng, chiều chuộng hết cả, đến khi ra đi lại giúp đỡ tiền nong tử tế. Nhất
sinh coi rẻ đồng tiền. Hễ ai vay mượn hỏi xin là cho ngay không tiếc. Lại có
tính hay làm ơn làm huệ, ai có việc gì ngang trái, là dàn xếp can ngăn, kỳ cho
thỏa thuận mới thôi.
Thỉnh thoảng lại cho áo quan, phát vị thuốc, cứu người khổ
giúp kẻ nghèo, đỡ người nguy cấp, thương kẻ khốn cùng, bởi thế nên khắp mặt Sơn
Đông Hà Bắc, ai ai cũng tôn là Cập Thời Vũ Tống Minh Công, ý nói cũng như trận
mưa phải thời, ở lưng trời tưới xuống để cứu muôn vật vậy.
Bấy giờ Hà Quan Sát thấy Tống Giang cùng với một tên theo hầu
ở cổng huyện đi ra, bèn chạy đến đón để mời vào hàng nói chuyện.
Tống Giang thấy Hà Đào ăn mặc ra dáng một người làm việc
quan, thì cũng đáp lễ tử tế rồi hỏi rằng:
- Ngài ở đâu đến đây?
Hà Đào đáp:
- Xin mời Áp Ty vào hàng uống nước rồi sẽ nói chuyện.
Tống Giang vâng, bảo người theo hầu đứng đợi ngoài cửa, rồi
đi vào hàng với Hà Đào. Tống Giang cất tiếng hỏi:
- Chẳng hay tôn huynh là ai?
Hà Đào đáp:
- Thưa ngài, tôi là Hà Đào, ở phòng Tập bộ Sứ thần bên phủ Tế
Châu, dám hỏi cao tính đại danh là gì?
- Thế thì tôi không được biết, xin Quan Sát tha lỗi cho. Thưa
Quan Sát tôi đây là Tống Giang làm Áp Ty ở đây.
Hà Đào nghe nói rồi thụp xuống lạy mà rằng:
- Tôi nghe tiếng đã lâu, hôm nay được biết ngài ở đây.
Tống Giang cung kính mà rằng:
- Chết nỗi! Xin Quan Sát chớ thế! đón Quan Sát ngồi trên. Có
đâu tôi dám ngồi trên? Quan Sát là người ở Thượng Ty, vả lại là khách xa đến
đây, xin ngài ngồi trên cho.
Hà Đào nhất định không nghe, nhường nhau lâu rồi, Tống Giang
ngồi chủ vị, mà Hà Đào ngồi khách vị. Tống Giang gọi nhà hàng pha trà lên, hai
người cùng uống, rồi Tống Giang hỏi Hà Đào rằng:
- Quan Sát qua tới huyện tôi đây, có việc gì ở Thượng Ty
chăng?
- Chẳng dấu gì ngài, có mấy việc khẩn yếu ở huyện này, tôi phải
đến nói với ngài đây.
- Hay là việc trộm cướp chi đó, thưa ngài?
Hà Đào nói:
- Hiện nay tôi có mang công văn ở phủ đến đây, xin nhờ Áp Ty
giúp cho.
- Vâng, Quan Sát là Thượng Ty cắt xuống, để sai bảo chúng
tôi, khi nào tôi dám trễ nải, nhưng không biết rằng việc gì khẩn cấp thế thưa
ngài?
- Áp Ty hiện đương giữ phần việc, vậy tôi xin nói để Áp Ty
nghe: Nguyên bên Phủ tôi có phát ra một vụ cướp ở Hoàng Nê Cương, tụi ấy tám
người đánh thuốc mê bọn thủ hạ quan Lương Trung Thư phủ Đại Danh Bắc Kinh, mà lấy
hết các đồ lễ mừng sinh nhật quan Xái Thái Sư, tất cả 10 vạn quan tiền, nay bắt
được một tên đồng đảng tên là Bạch Thắng, có khai rằng bảy tên kia, đều ở huyện
đây cả. Hiện có người thân mật của quan Thái Sư sai ra ở phủ tôi để đợi bắt bọn
ấy đem về, giải Đông Kinh ngay lập tức, mong rằng Áp Ty sẽ hết sức giúp ngay
cho.
Tống Giang nói:
- Chính là tên Tiều Bảo Chính ở thôn Đông Khê, thuộc huyện
ngài đây làm đầu đảng, còn sáu người nữa chưa biết tên họ là chi, vậy xin phiền
Áp Ty dụng tâm cho một chút.
Tống Giang nghe nói ngạc nhiên kinh lạ, trong bụng nghĩ thầm:"Tiều
Cái là anh em tâm phúc của mình, nay phạm tội tày trời như thế, nếu ta lại
không ra tay cứu giúp, mà để cho quan tư bắt được, thì tính mệnh tất không
còn..." Chàng nghĩ vậy, thì lòng riêng áy náy, rồi đáp rằng:
- Thằng Tiều Cái nầy khiếp thực, nó là một thằng gian ngoan
ghê gớm, khắp trong huyện đây ai cũng lấy làm lạ, ai ngờ ngày nay quả nhiên làm
nên tội ác như thế, tất là phải chịu tội, chứ không còn đổ cho ai được nữa!
Việc này dễ lắm, bắt ba ba trong hũ, hễ thò tay vào thì được,
chứ có khó chi. Duy bức công văn này Quan Sát tất phải đưa vào trình quan Huyện
chúng tôi, để sai người đi bắt, chứ một mình tôi đâu dám thiện tiện thi hành, vả
những việc tày trời như thế, chớ để tiết lộ ra ngoài thì mới được.
Hà Đào cười đáp:
- Áp Ty dạy rất phải, phiền Áp Ty làm ơn đưa tôi vào trình
quan Huyện một thể.
- Xin vâng, hiện bây giờ quan tôi còn nghỉ, Quan Sát hãy đợi
đây một lát, rồi tôi xin đến đây dẫn ngài vào.
- Thế nào cũng nhờ Áp Ty hết sức giúp cho.
- Vâng, tất nhiên phải thế Quan Sát không cần dặn bảo. Tôi
xin chạy qua về nhà thu xếp chút việc rồi lại chạy đến đây ngay, để đưa ngài
vào huyện. Xin ngài ngồi chơi đây một lát.
Hà Đào nói:
- Áp Ty cứ tự tiện cho, tôi xin ngồi đây chờ đợi.
Tống Giang đứng dậy vái chào, bước ra cửa dặn nhà hàng cứ lấy
nước lên để Quan Sát uống, một lát sau sẽ trả tiền, rồi xăm xăm ra đi. Lại dặn
người theo hầu cứ đứng đợi ở hàng nước đấy, nếu khi quan Huyện ra coi hầu, thì
cứ nói với ông khách trong hàng cứ an tâm đợi một lát, rồi Áp Ty sẽ đưa vào. Đoạn
rồi vào trong tàu lấy ngựa ra đóng yên, mà dắt ra lối cổng sau huyện, rồi cầm
roi xắn áo, nhảy lên mình ngựa, rồi lững thững ra ngoài huyện ly.
"Thanh roi yên ngựa thẳng dong
Nỗi lòng ai ở trong lòng mà ra?
Có chăng ta biết sự ta,
Giang hồ tương thức dễ mà quên nhau"
Khi ra khỏi cửa Đông Môn, Tống Giang ra roi quất ngựa, chạy
vun vút theo đường về thôn Đông Khê. Được một lát tới thôn Đông Khê, vào trang
Bảo Chính, gọi người nhà vào báo cho Tiều Cái biết.
Lúc đó anh em họ Nguyễn, đã chia tiền của, để đi về thôn Thạch
Kiệt đã lâu, duy còn Tiều Cái cùng Ngô Dụng, Công Tôn Thắng và Lưu Đường, là
đương ngồi đánh chén dưới gốc cây Bồ Đào ở vườn sau, chợt nghe thấy trang khách
vào báo: "Có Áp Ty Tống Giang đến có việc rất cần".
Tiều Cái lấy làm lạ hỏi rằng:
- Áp Ty đi đến, có mang nhiều đầy tớ không?
Trang khách nói:
Tiều Cái đoán có sự gì, liền đứng dậy chạy vội ra để nghinh
tiếp. Tống Giang chào Tiều Cái một tiếng, rồi dắt ngay vào phòng con con để nói
chuyện.
Tiều Cái hỏi:
- Áp Ty có sự gì hoang mang như vậy?
Tống Giang đáp:
- Ca ca không biết, tôi với ca ca là anh em tâm phúc, nên tôi
chạy bán mạng đến đấy để cứu. Bây giờ việc ở Hoàng Nê Cương phát tiết ra, Bạch
Thắng đã bị bắt ở phủ Tế Châu, cung xưng cho bọn bảy người các bác. Quan
Sát mang mấy chục công sai phụng chỉ quan Thái Sư và công văn phủ Tế Châu đến
đây để bắt. May sao đến nơi thì Hà Quang Sát gặp tôi, tôi liền thiết kế bảo
quan huyện còn ngủ, bắt anh ta còn đợi ở ngoài hàng nước, để chạy lẻn đến đây
báo cho bác biết. Bác ơi! Ba mươi sáu chước, chước nào là hơn! Nếu bác
không liệu mau thì nguy ngay lập tức. Bây giờ tôi phải về ngay, đưa hắn vào nha
để trình công văn, xong là Tri huyện tất nhiên cho người đi bắt tối hôm nay, nếu
không mau mau liệu thoát thì bây giờ đừng trách rằng tôi không thiết cứu anh
em.
Tiều Cái hoảng người kinh ngạc mà rằng:
- Nếu vậy ơn lớn của hiền đệ, bao giờ cho báo đáp được?
Tống Giang nói:
- Thôi bây giờ ca ca đừng nói chuyện ơn huệ gì nữa, phải liệu
việc chạy mau đi mới được, tôi xin trở về đây.
Tiều Cái nói:
- Trong đám bảy người ấy, thì ba anh em họ Nguyễn đã chia của
về thôn Thạch Kiệt rồi, duy còn có ba người hiện đương ngồi ở đàng sau, hiền đệ
hãy đến đó gặp họ một tí.
Tống Giang đứng dậy cùng Tiều Cái đi ra vườn sau. Tiều Cái trỏ
ba người kia mà bảo với Tống Giang rằng:
- Ba người đây, một ông là Ngô Học Cứu, một ông là Công Tôn
Thắng ở Kế Châu, và một người là Lưu Đường ở Đông Lộ.
Tống Giang chào qua một lượt rồi quay ra xin về, mà dặn với
Tiều Cái rằng:
- Ca ca nên cẩn thận, mà cấp cấp đi ngay, tiểu đệ hãy xin từ
biệt.
Nói đoạn ra cổng trang nhảy lên ngựa, ra roi phóng một mạch
thẳng về huyện.
Người đâu lanh lợi tài hoa.
Tương tri nhường ấy mới là tương tri?
Ví chăng những bọn ngu si,
Thịt xương còn nỡ nể gì anh em?
Khi Tống Giang đi rồi, Tiều Cái bảo với Ngô Dụng, Công Tôn Thắng
và Lưu Đường rằng:
- Các bác có biết người ấy là ai không?
Ngô Dụng nói:
- Nào có biết ai? Ông ta đi đâu mà hốt hoảng vội vàng như thế?
Tiều Cái nói:
- Ba bác chưa biết à? Nếu chúng ta mà không có người ấy thì
tính mạng khó yên được bây giờ.
Ba người nghe nói, đều cả kinh mà rằng:
- Chết nỗi! Dễ thường việc ấy lộ hay sao?
Tiều Cái liền đem lời nói của Tống Giang bảo cho ba người biết,
mà lại nói rằng:
- Chỉ đêm hôm nay là tất nhiên họ đến vây bắt chúng mình, ta
phải liệu ngay làm sao mới được?
Ngô Dụng gật đầu nói:
- Phải, nếu không có người ấy bảo cho, thì chúng ta vào lưới
cả. Nhưng không biết người ấy là ai?
Ông ấy là Hiếu Nghĩa Tống Giang làm Áp Ty ở huyện đấy.
- À, vẫn được nghe tiếng Tống Áp Ty xưa nay mà chưa gặp mặt,
ai ngờ chính là ông ấy.
Công Tôn Thắng và Lưu Đường đồng thanh nói:
- Có phải chính là bọn giang hồ hay gọi là Cập Thời Vũ Tống
Công Minh đấy không?
Tiều Cái gật đầu đáp rằng:
- Đích xác ông ta đấy, ông ta với tôi là chỗ tâm phúc chí
giao, kết làm anh em đã bao lâu rồi, Ngô tiên sinh chưa được gặp bao giờ; người
ấy mới thực là danh bất hư truyền, kết giao được những người như thế mới khỏi uổng
công.
Đoạn rồi lại hỏi Ngô Dụng rằng:
- Bây giờ sự đã nguy cấp, thì anh em nên làm thế nào?
- Quan bác bất tất phải lo nghĩ, ba mươi sáu cách, chỉ có
cách chạy trốn là hơn...
- Phải, vừa rối Tống Áp Ty cũng nói, chúng ta chỉ có cách trốn
là hơn cả, nhưng mà trốn đâu cho tiện?
Ngô Dụng nói:
- Tôi đã định rồi, bây giờ ta phải thu thập gồng gánh, mà chạy
đến nhà anh em họ Nguyễn ở thôn Thạch Kiệt, nhưng phải sai người đi gấp báo cho
họ biết trước đã.
- Ba anh em họ Nguyễn là một nhà đánh cá, dung thế nào nổi được
ngần nầy người?
- Bác không biết, đấy với Lương Sơn Bạc rất gần, mà hiện nay
trong trại của họ đương phát thịnh, quan quân không dám bén mảng đến, vậy chúng
ta sang thôn Thạch Kiệt, nếu có bị quan quân truy bách lắm, thì ta vào đó có tiện
không?
Tiều Cái nói:
- Vâng, thế là thượng sách rồi, nhưng không biết rằng họ có
chịu dung ta hay không?
Ngô Dụng cười nói:
- Ta có vàng bạc đem vào cho họ, là ta vào bọn được chứ sao?
Thế thì phải bàn định mau đi, chứ không để chậm được nữa. Ngô
tiên sinh, tiên sinh với bác Lưu Đường hãy đem mấy trang khách gánh đồ đạc đến
nhà họ Nguyễn rồi đón tôi, tôi cùng Công Tôn Thắng tiên sinh sẽ thu xếp đến
sau.
Ngô Dụng nghe nói, lập tức cùng với Lưu Đường thu xếp năm bảy
gánh kim ngân châu báu, gọi dăm bảy đứa trang khách cùng ăn cơm uống nước trước,
rồi người vác đồng giản, kẻ vác thanh đao, dẫn bọn trang khách quảy gánh đi
sang thôn Thạch Kiệt.
Tiều Cái cùng Công Tôn Thắng thu xếp trang viện, những trang
khách nào không muốn đi theo, thì cho tiền nong, đi tìm chủ khác, còn kẻ nào
theo được hãy ở lại trong trang, mà sắp sửa hành lý để cùng trốn đi.
Bên kia Tống Giang phất ngựa một mạch về đến huyện thành, buộc
ngựa vào tàu rồi, lại đi ra hàng nước tiếp Hà Quan Sát. Bấy giờ Hà Đào đương đứng
ở cửa hàng nước mà trông ngóng Tống Giang.
Tống Giang đến nơi nói với Hà Đào rằng:
- Quan Sát đợi lâu quá, vì tôi có mấy người bà con ở nhà bàn
tí việc nhà, cho nên chậm trễ một chút.
Hà Đào nói:
- Bây giờ phiền Áp Ty đưa tôi vào hầu quan một lát.
- Vâng, xin đón Quan Sát đi.
Nói đoạn hai người đi thẳng vào cổng huyện. Vừa may gặp lúc
buổi hầu, quan huyện Thời Văn Bân đương ngồi trên công đường, Tống Giang liền cầm
lấy phong công văn, dẫn Hà Đào vào trước bàn giấy, bảo lính treo bài hồi tị, cấm
không cho các người khác vào, rồi sẽ bẩm với Tri Huyện rằng:
- Đây là Hà Quan Sát đưa công văn ở phủ Tế Châu, có việc khẩn
cấp, xin ngài xét.
Tri Huyện tiếp lấy công văn, bóc ra xem thì cả kinh bảo với Tống
Giang rằng:
- Cái này là quan Thái Sư sai người thân mật, ra đợi ở Tế
Châu để xét việc nầy, mà trả lời ngay lập tức. Vậy ta phải phái người đi bắt
ngay mới được.
Tống Giang sẽ bẩm rằng:
- Đi ban ngày lại chỉ e tiết lộ chuyện ra, thì không bắt được,
vậy xin để đến đêm đi thì tiện. Bắt được tên Tiều Cái, thì sáu tên kia khắc phải
ra.
Tri Huyện nói:
- Cái anh Tiều Cái ở Đông Khê đây, nghe nói là tay hảo hán,
sao hắn lại chịu làm những việc như thế!
Nói đoạn đòi Huyện Úy cùng hai Đô Đầu Chu Đồng và Lôi Hoành
là hai tay giỏi để sai phái. Bấy giờ hai Đô Đầu cùng Huyện Úy lĩnh lời Tri Huyện
cùng lên ngựa, đến Úy Ty điểm quân mà bộ, cung thủ tất cả là hơn trăm thổ binh,
để cùng Hà Quan Sát và hai Ngu hầu nhận diện để đi bắt giặc.
Tối hôm ấy chỉnh đốn quân khí cùng thừng chão đâu đấy, rồi
Huyện Úy cùng hai Đô Đầu đều đeo cung tên giắt đao, tay cầm đao lớn, nhảy lên
mình ngựa, dẫn quân mã bộ cung thủ đi ra cửa đông, thẳng luôn về lối Đông Khê.
Vào khoảng canh một đã đến tất cả ở chùa Quan Âm thôn Đông
Khê, Chu Đồng nói với mọi người rằng:
- Thẳng chỗ trước mặt đây là nhà Tiều Cái, nhà ấy có hai cổng,
nếu ta đánh cổng trước, thì họ tháo cổng sau, mà ta đánh đánh cổng sau, thì là
họ tháo cổng trước. Ta phải biết rằng Tiều Cái là tay không vừa, còn sáu anh
kia không biết là anh nào, nhưng chắc cũng không phải là quân tử lương thiện,
mà toàn là đồ vong mạng cả, nếu họ cứ kéo ra rồi lại có đám trang khách giúp sức
thêm vào, thì ta địch thế nào nổi? Vậy ta nên làm lối dương đông kích tây, để
chờ khi họ rối loạn lên, là ta hạ thủ, thì hơn. Bây giờ tôi với Lôi Đô Đầu chia
làm hai lối đều đi bộ cả, tôi đem quân ra nấp ở cửa sau cứ đợi tiếng còi làm hiệu,
còn đằng ấy thì xông vào cửa trước, thấy anh nào là trói phăng anh ấy lại.
Lôi Hoành nói:
- Bác nói phải, bác với Huyện Úy đem quân ra cửa trước, để tôi
ngăn giữ cửa sau cho.
Chu Đồng nói:
- Hiền đệ không biết nhà Tiều Cái có ba đường thoát mọi khi
tôi đã nhận rõ ràng, không cần đèn đóm cũng đi được. Hiền đệ vào đấy lỡ ra
không rõ lối mà để họ thoát mất thì không phải chuyện chơi.
Huyện Úy nói:
- Chu Đô Đầu nói phải; bác cứ đem một nửa quân đưa ra cổng
sau.
Chu Đồng Đầu nói:
- Tôi chỉ lấy ba mươi tên quân cũng đủ.
Nói đoạn điểm mười mấy cung thủ và hai mươi tên thổ binh mà tốt
đi trước. Đoạn rồi Huyện Úy lên ngựa, Lôi Hoành dẫn các quân bộ và cung thủ để
đi kèm với Huyện Úy, trước mặt thắp hai ba mươi bó đuốc sáng rực trời; các quân
chúng đều cầm gậy còng cua, câu liêm đi về lối cửa trước nhà Tiều Cái. Vừa đi
được nửa dặm đường đã thấy nhà Tiều Cái lửa bốc ngùn ngụt cháy từ giữa cháy ra,
khói than mù mịt đỏ rực quãng trời. Đi được hai mươi bước nữa thì tứ phương bát
diện, đằng trước đằng sau, có tới ba bốn mươi chỗ lửa phát lên trông hoa cả mắt.
Lôi Hoành vác đao đi trước, quân lính hò reo chạy sau xông đến phá cổng trang để
vào.
Khi vào tới nơi, lửa sáng không khác gì ban ngày mà trong
quanh không thấy một người nào, chỉ nghe tiếng cửa sau kêu ầm lên rằng:
- Cửa trước đuổi bắt lấy cướp.
Nguyên Chu Đồng định bụng thả cho Tiều Cái chạy nên cố ý đùn
cho Lôi Hoành đi ra cửa trước, mà Lôi Hoành cũng có ý cứu cho Tiều Cái, cho nên
cố tranh toan đến cửa sau. Tiều Cái vẫn còn thu xếp chưa xong sau thấy báo là
có quan quân đến bắt mới sai người phóng lửa bốn bề, rồi cùng với Công Tôn Thắng
dẫn mười mấy tên trang khách kêu hò ầm ĩ, và vác đao xông ra cửa sau.
- Anh nào chống với ta thì chết, anh nào tránh ta thì sống...
Chu Đồng nghe nói, ở trong bóng tối, lên tiếng bảo Tiều Cái rằng:
- Bảo Chính chạy mau, Chu Đồng đứng đợi ở đây lâu rồi.
Tiều Cái không nghe thấy tiếng gì, chỉ cắm đầu cắm cổ cùng với
Công Tôn Thắng mà hăng hái xông ra. Chu Đồng giả vờ tránh mình, để mở đường cho
Tiều Cái chạy.
Tiều Cái bảo Công Tôn Thắng dẫn trang khách đi trước, còn một
mình thì chặn ở sau. Chu Đồng liền dẫn quân cung thủ sấn vào cửa sau nhà Tiều
Cái, mà kêu quân phía trước để cùng đuổi giặc. Bên kia Lôi Hoành nghe tiếng
kêu, liền quay ra cổng trang chia quân mà bộ cung thủ ra làm mấy mặt để đuổi.
Lôi Hoành xung đột trong đám lửa cháy sáng, trông trước trông sau làm bộ tìm
người để bắt, rồi Chu Đồng bỏ mặc đám thổ binh, một mình vác đao đuổi theo sau
chân Tiều Cái, Tiều Cái thấy vậy vừa chạy vừa nói lên rằng:
- Chu Đô Đầu đuổi tôi làm gì bức bách thế, tôi có điều gì tệ
bạc với ai đâu?
Chu Đồng thấy đằng sau không có ai, liền sẽ bảo Tiều Cái rằng:
- Bảo Chính không biết lòng tôi hay sao? Tôi chỉ sợ Lôi Hoành
cố chấp không tha, nên tôi lừa cho hắn ra đánh cửa trước, để tôi giữ mặt cửa
sau mà tha cho Bảo Chính. Bảo Chính có thấy tôi tránh đường cho đấy không? Bây
giờ Bảo Chính đi đâu cũng không tiện, tất phải đến Lương Sơn Bạc mới yên thân
được thôi.
Tiều Cái vâng lời mà rằng:
- Cảm ơn ngài cứu vớt, sẽ xin báo đáp về sau.
Đương khi ấy thì có tiếng Lôi Hoành quát ở đằng sau lưng rằng:
- Đừng để cho họ chạy mất.
Chu Đồng nghe vậy bảo với Tiều Cái rằng:
- Bảo Chính không sợ cứ chạy đi, tức khắc tôi ngăn cản lại
cho.
Nói đoạn quay lại bảo Lôi Hoành rằng:
- Có mấy người chạy sang con đường nhỏ bên kia, Lôi Đô Đầu đuổi
bắt cho mới được.
Lôi Hoành lại quay sang phía đông cùng với bọn thổ binh cùng
đuổi. Còn đằng này Chu Đồng vừa nói chuyện với Tiều Cái, vừa lững thững đuổi
theo đằng sau, chẳng khác chi một người hộ tống vậy.
Dần dần tối tăm mù mịt, không trông thấy Tiều Cái đâu, Chu Đồng
liền giả cách vấp ngã lộn xuống đất. Bọn thổ binh đi theo sau, thấy Chu Đồng
ngã, vội vàng túm vào đỡ dậy. Chu Đồng bảo chúng rằng:
- Trời tối quá, không biết lối mà lần, bước tuột xuống ruộng
ngã một cái sái cả chân bên tả.
Bấy giờ Huyện Úy cũng ở đằng sau hỏi Chu Đồng rằng:
- Chính tên cướp ấy chạy mất rồi, làm thế nào được bây giờ?
Chu Đồng nói:
- Tôi đã hết sức đuổi theo, nhưng đường tối quá không làm sao
mà đi được. Còn bọn thổ binh này, thì toàn là đồ vô dụng không đứa nào dám xông
lên cả.
Huyện Úy tức giận quát đám thổ binh bắt phải đuổi theo. Đám
thổ binh nghĩ thầm trong bụng:"Đến hai ông Đô Đầu còn không đuổi gần được
họ, huống chi chúng mình." Nhưng đành cũng phải vâng lời mà đuổi liền một
lúc, rồi quay lại nói rằng:
- Đường tối lắm không còn biết lối nào mà lần được nữa!
Bên kia Lôi Hoành cũng đuổi được một lúc, rồi quanh lại mà
nghĩ rằng: "Chu Đồng với Tiều Cái rất thân tất là hắn tha để cho
thoát rồi, còn ta đây đuổi làm gì cho mệt? " Nghĩ đoạn trở về bảo với mọi
người rằng:
- Tôi đuổi mãi mà không thấy gì cả, chắc là đám ấy nó thoát
được cả rồi.
Bấy giờ Huyện Úy cùng với hai Đô Đầu trở về đến trước cửa
trang, thì đã vào khoảng canh tư rồi. Hà Quan Sát thấy bọn kia chạy ngược chạy
xuôi theo đuổi hết đêm mà không bắt được người nào, thì trong bụng lấy làm lo
nghĩ, không biết rằng khi về Phủ Tế Châu sẽ nói sao cho được!
Huyện Úy cũng lúng túng không biết làm thế nào, đành phải bắt
mấy tên lân bang đem giải về huyện vậy.
Quan Huyện Vận Thành suốt đêm hôm ấy trông ngóng, để đợi tin
tức mà không sao ngủ được. Chợt nghe tin báo quân cướp đã trốn mất, chỉ còn bắt
có mấy tên lân bang giải đến. Tri Huyện liền bắt lân bang ra để tra hỏi, thì
chúng đều khai rằng:
- Kẻ ở gần ra cũng cách thôn xóm, mà kẻ ở xa cũng cách tới ba
bốn dặm đường, mọi ngày thường thấy trong nhà Bảo Chính, lúc nào cũng có người
đến đây múa gươm tập gậy, cho nên không ai dò biết đoan đích thế nào cả.
Sau Tri Huyện cố tra hỏi, để biết rõ đường đi nước bước của
nhà Tiều Cái, thì trong đám lân bang có người bẩm rằng:
- Muốn biết như vậy, tất phải bắt một vài đứa trang khách đến
hỏi thì mới có thể rõ.
Tri Huyện lại hỏi lân bang rằng:
- Ta nghe nói, tụi trang khách đều trốn đi cả, còn bắt vào
đâu?
Lân bang bẩm:
- Cũng có kẻ không muốn đi, thì vẫn còn ở đấy.
Tri Huyện nghe nói lập tức sai người đem mấy tên lân bang đi
để dẫn bắt trang khách về tra hỏi, khi bắt hai tên trang khách về tra, trước
còn từ chối không chịu nói sau đòn vọt đau đớn, mới chịu thú ra rằng:
- Trong bọn sáu người ấy bàn bạc với nhau, chúng tôi chỉ biết
được có một thầy đồ ở làng là ông Ngô Học Cứu tiên sinh, một người là Công Tôn
Thắng, và một người đen lớn họ Lưu thì ở đâu mới đến cả. Còn ba người nữa thì
Ngô Học Cứu tiên sinh dẫn đến, nghe nói đâu là ba anh em họ Nguyễn đánh cá ở
thôn Thạch Kiệt thì phải.
Tri Huyện lấy xong khẩu cung mọi người, rồi thảo công văn tường
tế mà giao cho Hà Đào trở về trình phủ. Đoạn rồi Tống Giang che chở cho bọn lân
bang, để xin tha cho về nhà cả.
Bọn Hà Đào nhận công văn của Tri Huyện, rồi áp giải hai tên
trang khách đi vội vàng về phủ Tế Châu. Khi về tới nơi Hà Đào đem mọi việc đi bắt
nã thế nào, kể rõ cho Tri Phủ nghe một lượt.
Tri Phủ nghe nói, không biết làm sao được, lại phải bắt Bạch
Thắng ra tra hỏi xem ba người họ Nguyễn là quê quán ở đâu?
Bạch Thắng đã toan nhất định không nói, sau bị Tri Phủ đánh đập
tra tấn riết lại phải cung rõ ra rằng:
- Một tên là Lập Địa Thái Tuế Nguyễn Tiểu Nhị, một tên là Đỏan
Mệnh Lang Nguyễn Tiểu Ngũ và một tên là Hoạt Diêm La Nguyễn Tiểu Thất, ba anh
em đều ở thôn Thạch Kiệt cả.
Tri Phủ lại hỏi:
- Còn ba người nữa là những ai?
Bạch Thắng bẩm:
- Một người là Trí Đa Tinh Ngô Dụng, một người là Nhập Vân
Long Công Tôn Thắng, và một người là Xích Phát Quỹ Lưu Đường.
Tri Phủ nghe vậy lại đem Bạch Thắng giam vào nhà pha, rồi gọi
Hà Quan Sát sai đem người đến thôn Thạch Kiệt để truy bắt ba anh em họ Nguyễn.
Mới hay:
Hùm thiêng vùng vẫy núi xanh,
Những phường đầu sói còn quanh quẩn tìm
Biết đâu bốn bể mò kim,
Chẳng qua gây việc kinh thiên sau này.
Một phen gió chuyển mây bay.
Sơn hà đổi mặt cỏ cây khác mầu.
Máu hồng lai láng vũng sâu,
Cho quân phỗng đá biết nhau sau này.
Lời bàn của Thánh Thán:
Hồi nầy bắt đầu vào chuyện Tống Giang, Tống Giang là đầu trộm
cướp vậy, đầu trộm, thì tội nặng hơn cả đám một tầng, thế mà lâu nay người ta đọc
Thủy Hử, thường hường cho là Tống Giang trung nghĩa, như muốn gặp được sớm chiều,
há phải tính con người muốn ưa trộm cướp, thì ra đọc văn chương mà không thông
ý nghĩa. Tự ta xem đấy, thấy tội Tống Giang nặng hơn đám trộm cướp, vì y ngầm
Phản thì còn là nhỏ, mà tha cho Tiều Cái mới là to, bởi đâu? Vì tha Tiều Cái để
y họp đám giặc, làm cho họa đến cả triều đình, cũng do từ đấy, nếu Tống Giang
mà thật trung nghĩa, thì không tha Tiều Cái; mà Tống Giang tha Tiều Cái, thì
còn đâu trung nghĩa, đây mới vào bản truyện mà trước kia không có chuyện chép
ra, được tỏ Tống Giang cao quý, bắt đầu tha tội Tiều Cái, thì ra Tống Giang đã
tội tày trời tác giả thực chẳng kiên khen cho chút nào hết cả.
Há chẳng che giấu mà thôi, lại còn tả ra như bới vạch, như rằng
quan phủ bàn kín ở nhà sau, rất là cơ mật, gọi chủ điếm làm chứng cùng đi bắt,
lại rất là cơ mật. Canh ba đến nhà Bạch Thắng, đã rất cơ mật, đến canh năm lại
trở về ngay, càng cơ mật nữa, giữ kín Bạch Thắng, giam riêng người vợ lại rất
cơ mật, Hà Đào thân lãnh công văn, đem hai Ngu hầu đi theo nhận mặt bắt giặt, lại
rất cơ mật, đến Vận Thành giấu tùy tòng trong điếm, vẫn giữ cơ mật, cho đến Hà
Đào phải nói kín đáo, thì thấy cơ mật biết bao? Đấy tả ra rất nhiều văn tự, cho
rõ cơ mật, càng làm cho rõ cái tội Tống Giang, theo lập pháp cho nghiêm, thì phải
đúng như vậy, người đời đọc Thủy Hử mà không thông nghĩa, vội đem trung nghĩa
khen ngợi Tống Giang, thì chả còn biết con ngựa kia mấy chân đi vậy!
Tả hai người Chu Đồng, Lôi Hoành, đều cốt tha cho Tiều Cái,
thấy Chu Đồng được khéo, mà Lôi Hoành lại vụng, Chu Đồng được khoái, Lôi Hoành
lại chậm, thấy từng chỗ Lôi Hoành nhường bước Chu Đồng rõ lắm, thế mà có biết
đâu trước khi Chu Đồng chưa vào bóng tối, để thả Tiều Cái, đã có trước kia Tống
Giang sớm làm được trọn nhân tình, thế thì Chu Đồng lại nhường bước Tống Giang
rõ lắm, trong tay cao cường, lại có kẻ cao cường hơn, thực là tả nên tuyệt diệu.
Hồi 18:
Lâm Xung đốt cháy nơi Thủy Bạc;
Tiều Cái cướp lấy vũng Lương Sơn
Khi ấy Hà Quan Sát lĩnh lời Tri Phủ quay xuống phòng cơ mật,
để thương nghị với mọi người. Có một người công sai, bảo với Hà Đào rằng:
- Thôn Thạch Kiệt gần kề với vũng Lương Sơn, là một nơi bến
nước mênh mông cỏ lau rậm rạp, nếu không có Đại đội quan quân, thì ai dám đến
đây mà bắt được cướp?
Hà Đào nghe chúng nói, mới nghĩ ra là phải, liền quay lên bẩm
với Tri Phủ rằng:
- Khoảng hồ ở thôn Thạch Kiệt, chính là tiếp giáp với Lương
Sơn, xung quanh toàn thị vũng hồ sâu rộng, lau cỏ um tùm, ngày thường vẫn hay
cướp bóc người ta ở đó. Nay lại thêm có một bọn cường nhân mới đến, nếu không
có Đại đội quân mã kéo đi, thì khó lòng mà bắt được?
Tri Phủ truyền rằng:
- Nếu vậy thì ta cho mấy viên tuần giang tinh giỏi điểm lấy
hơn trăm quân mã, cùng đi với người có được không?
Hà Quan Sát vâng lời, xuống phòng cơ mật, gọi mấy tên công
sai, họn lấy hơn trăm người, rồi sắp sửa lấy các đồ khí giới để sáng mai ra đi.
Sáng hôm sau mấy tên Tuần giang lĩnh công văn quan Phủ Tế Châu, rồi điểm năm
trăm quân mã cùng với Hà Quan Sát và đám công sai cùng đi đến thôn Thạch Kiệt.
Nói về Tiều Cái, Công Tôn Thắng đêm hôm ấy, đốt bỏ trang viện
rồi đi vội vàng để trốn sang thôn Thạch Kiệt. Khi tới nửa đường đã gặp ba anh
em họ Nguyễn, đều mang khí giới ra đón ở đó, mấy người cùng nhau kéo về tạm trú
ở nhà Nguyễn Tiểu Ngũ.
Bấy giờ Nguyễn Tiểu Nhị đã cho vợ con vào ở tất cả phía trong
hồ, rồi bảy người cùng bàn kế với nhau để nhập bọn Lương Sơn.
Ngô Dụng nói:
- Hiện nay ở ngoài đường cái, có Chu Quý mở cửa hàng bán rượu,
để chiêu nạp hảo hán bốn phương, nếu chúng ta muốn nhập bọn, thì phải đến nói với
anh ấy trước. Vậy ta hãy đem các đồ sản vật xếp sẵn xuống thuyền, rồi kiếm cái
gì, đưa cho Chu Quý, để hắn dẫn ta lên.
Đương khi bàn soạn với nhau, thì bỗng thấy mấy người đánh cá
chạy đến báo rằng:
- Hiện có quan quân kéo đến để truy nã.
Tiều Cái nghe báo, đứng dậy bảo với anh em rằng:
- Bọn họ đã đến, thì chúng ta đừng chạy nữa.
Nguyễn Tiểu Nhị nói:
- Các ông đừng sợ, ta sẽ có cách đối phó lại với họ, cứ cho một
nửa xuống nước, còn một nửa thì ta chém chết cho rảnh.
Công Tôn Thắng nói:
- Các ông cứ lặng im, để bần đạo thử chút tài mọn cho các ông
xem.
Tiều Cái bảo với Lưu Đường rằng:
- Bây giờ bác cùng với Học Cứu tiên sinh mang tất cả tài vật
và người nhà, xếp xuống thuyền, rồi đi đến bên tả con đường Lý Gia để đợi chúng
tôi, chúng tôi liệu thế nào rồi sẽ đến sau.
Nguyễn Tiểu Nhị liền lấy hai con thuyền, rồi đem mẹ và người
nhà, cùng các tài vật xếp xuống thuyền, để Ngô Dụng, Lưu Đường mỗi người áp một
thuyền, rồi sai bảy tám tên phường chài, chèo thuyền đến bên tả con đường Lý
Gia. Lại dặn Nguyễn Tiểu Ngũ và Nguyễn Tiểu Thất, lái một chiếc thuyền con, cứ
theo cách thế, để đối địch với quan quân.
Bên kia bọn Hà Đào với Tuần giang cùng tụi quân mã đi gần đến
thôn Thạch Kiệt, thấy ở bến đó có bao nhiêu thuyền để đó đều cướp lấy cả. Rồi
sai bọn quân lính thiện nghề thủy thủ nhảy xuống thuyền để tiến đánh đường thủy,
còn bọn mã binh thì tiến mặt đường bộ. Trên ngựa dưới thuyền, thủy bộ đều tiến
thẳng kéo đến Nguyễn gia trang.
Khi tới nơi quan quân hò reo vang động, rồi cùng kéo nhau
vào, thì chỉ thấy cái xác nhà, và mấy thứ đồ dùng nặng nề bỏ đó, Hà Đào truyền
bắt những bạn chài gần đấy đến để hỏi; thì đều nói rằng:
- Hai anh em nhà Nguyễn Tiểu Ngũ và Nguyễn Tiểu Thất đều ở
vào phía trong hồ cả.
Hà Đào bàn với Tuần giang rằng:
- Phía trong hồ toàn thị kênh ngang ngòi tắt, đường lối tào lạp,
vả chăng nước rộng vũng nhiều, nông sâu chưa biết, nên đến đấy mà chia nhau từng
ngã để tìm, thì lỡ khi mắc kế gian nhân tất là nguy hiểm. Vậy ta nên để cả ngựa
trong thôn nầy, cho người ở đây coi giữ, rồi xuống tất cả dưới thuyền mà đi mới
được.
Nói đoạn Hà Quan Sát cùng Tuần Giang, và tụi quân lính đều nhất
tề xuống thuyền cả. Bấy giờ có tới hơn trăm con thuyền, cái thì chèo, cái thì
chở, thẳng vào phía trong hồ, để tìm nhà anh em Nguyễn Tiểu Ngũ.
Thuyền đi được độ năm sáu dặm, trên mặt nước, chợt thấy trong
đám lau lách có tiếng người hát. Chúng liền dừng thuyền lại để nghe, thì thấy
tiếng hát véo von rằng:
"Quanh năm đánh cá vũng hồ trong.
Lúa má đay gai chẳng thiết trồng...
Giết hết quan tham cùng lại nhũng,
Báo đền non nước dốc lòng trung."
Hà Quan Sát cùng mọi người nghe thấy, đều giật mình kinh sợ,
mà ngơ ngác nhìn nhau. Dần dần thì thấy một người hiện ra đứng trên con thuyền,
vừa chèo vừa lái ở đằng xa đi đến. Có người nhận biết trỏ bảo với chúng rằng:
- Người ấy chính là Nguyễn Tiểu Ngũ, liền giơ tay vẫy một
cái, chúng đều hết sức cầm đồ binh khí mà sấn thuyền đến đuổi.
Nguyễn Tiểu Ngũ thấy vậy cười mà nói rằng:
- Chúng bây là quân giặc, tàn dân hại nước, lại còn dám cả
gan tìm đến đây làm gì? Bây muốn vuốt râu hùm chơi hay sao?
Trong bọn Hà Đào có nhiều người giỏi nghề cung tên, liền giơ
cung lấy tên ra, nhất tề trỏ vào Nguyễn Tiểu Ngũ để bắn.
Nguyễn Tiểu Ngũ thấy bên kia quân bắn, liền cầm chèo nhảy tót
xuống nước trốn đi mất. Quân chúng đuổi đến nơi đã không thấy gì nữa, liền cùng
nhau giong thuyền đi tìm.
Đi được vài quãng kênh, lại nghe tiếng còi huýt ở trong đám
lau lách. Chúng bèn dàn thuyền ra để xem thì thấy có hai người chèo một con
thuyền trên mũi thuyền có một người đầu đội nón lá, mình khoác áo tơi, tay cầm
cây gậy nhọn đầu như quản bút, miệng véo von rằng:
Ta đây sinh trưởng ở thôn này,
Bẩm tính xưa nay thích giết người.
Hãy chém Hà Đào tuần giản trước,
Kinh sư đem hiến Triệu Vương chơi.
Hà Quan Sát cùng mọi người nghe thấy, đều ngạc nhiên kinh lạ.
Sau có người nhận biết trỏ mà bảo rằng:
- Anh ấy là Nguyễn Tiểu Thất đó.
Hà Đào liền quát quân chúng rằng:
- Bây hết sức xông lên, bắt thằng giặc ấy cho ta, chớ để cho
nó chạy mới được.
Nguyễn Tiểu Thất nghe nói cười rằng:
- Quân thối thây nầy!
Nói đoạn cầm gậy trỏ một cái, thuyền đã ngoắt vào trong kênh
mất. Làm chúng hết sức dong thuyền đuổi theo, con thuyền của Nguyễn Tiểu Thất vẫn
đi vun vút vào trong kênh con, mà miệng vẫn còn huýt còi làm hiệu.
Thuyền quân đuổi mãi vào tới trong, thấy bến nước hẹp dần mãi
đi, Hà Đào liền bắt quân sĩ dừng thuyền mà kéo nhau lên bộ.
Khi lên đến gần bờ thấy bốn mặt mênh mang, toàn là lau lách,
không có một lối nào để len chân đi được. Trong bụng Hà Đào lấy làm nghi hoặc,
gọi hỏi những người ở thôn ấy, thì chúng đều nói rằng:
- Chúng tôi tuy ở đây, nhưng cũng không biết rằng chỗ nầy đường
lối ra thế nào cả.
Hà Đào nghe nói lại càng kinh lạ, bèn sai hai chiếc thuyền, mỗi
đem vài ba người công sai chèo đi để thăm đường lối.
Hai thuyền đi một lúc lâu không thấy trở về. Hà Đào tức giận
mà rằng:
- Mấy thằng ấy sai đi không được việc gì cả.
Nói đoạn lại năm tên công sai thạo việc khác, chở hai chiếc
thuyền nữa, đi thám thính xem. Được một hồi lâu, lại không thấy tăm hơi gì cả.
Hà Đào lẩm bẩm gắt lên rằng:
- Mấy thằng công sai ấy, xưa nay vẫn nhanh nhẹn mà sao bây giờ
lờ mờ như thế? Đi từ bao lâu đến giờ cũng không thấy một thằng nào về cả?
Bấy giờ trong đám quan quân ở đó, không ai hiểu biết đầu đuôi
ra sao mà mặt trời thì nghe chừng đã gần tối. Hà Đào lấy làm sốt ruột nghĩ một
mình rằng: "Bây giờ đứng mãi đây, thì rồi làm ra thế nào? Bất nhược ta phải
thân chinh đi mà xem mới được".
Nghĩ đoạn sai chọn một chiếc thuyền nhẹ nhàng cắt mấy tên
công sai lão luyện đều cầm theo khí giới, rồi Hà Đào xuống ngồi ở mũi thuyền bắt
năm sáu tay chèo thực nhanh, đi vào các chỗ lau lách để thám thính.
Bây giờ mặt trời đã xế non tây, thuyền đi ước được năm sáu dặm
nước, đến một nơi gần bến, thấy có một người vác cái cuốc đương ở đâu chạy lại,
Hà Đào liền hỏi rằng:
- Anh chàng kia! Anh là người nào? Ở đây là chỗ nào?
Người kia nghe hỏi đứng dừng lại mà đáp rằng:
- Tôi là người làng ở đây, chỗ này gọi là chỗ Đoạn Đầu Cảng,
hết lối đi rồi.
Hà Đào hỏi:
- Anh có thấy hai chiếc thuyền đi qua đây không?
Người kia nói:
- Có phải là thuyền đi bắt Nguyễn Tiểu Ngũ? Ấy họ đương đánh
nhau ở rừng Điếu Lâm, về phía trước mặt kia.
- Đây đến đấy có xa không?
- Ở ngay trước mặt đây kia thôi.
Hà Đào nghe nói liền sai cắm thuyền lại, bắt mấy tên công sai
cầm khí giới đi lên bờ để cứu đám kia. Mấy tên công sai vừa bước lên bờ, thì
anh chàng vác cuốc kia giơ thẳng cánh, cuốc cho mỗi tên công sai một cuốc, đứt
phăng đầu ra mà lăn xuống nước.
Mấy tên công sai còn ở thuyền thấy vậy, hoảng hốt toan nhảy
chạy, thì bỗng đâu anh chàng vác cuốc trên bờ đã nhảy tót xuống thuyền, mà tặng
cho mỗi tên công sai một nhát cuốc nữa chết lăn ra cả đó.
Bấy giờ Hà Đào bị một người kéo xuống nước, rồi ôm thốc lên bờ
cởi đai nịt ra mà trói chặt vào, rồi đến khi trông mặt mới biết người ấy chính
là Nguyễn Tiểu Thất, mà người vác cuốc chính là Nguyễn Tiểu Nhị.
Hai anh em Nguyễn Tiểu Thất, Nguyễn Tiểu Nhị cùng chạy đến trỏ
mặt Hà Đào mà mắng rằng:
- Ba anh em ông xưa nay chỉ thích giết người đốt nhà, phỏng
mày nghĩ hơi sức được bao nhiêu mà dám cả gan dẫn quan quân vào bắt lũ chúng
ông?
Hà Đào nói:
- Hảo hán ơi! Chúng tôi là vâng lệnh quan trên, không đi
không được, nào có phải tự mình dám cả gan đến đây mà bắt hảo hán đâu? Xin hảo
hán thương tôi còn chút mẹ già tám mươi tuổi đầu, không ai nuôi nấng mà tha
tính mạng cho tôi...
Anh em họ Nguyễn bảo nhau trói tròn lại bỏ xuống sạp thuyền,
rồi vất những xác đứa kia xuống nước, đoạn rồi thổi mấy tiếng khẩu hiệu, thì thấy
trong đám lau lách có tới bốn năm anh chài trổ ra cùng nhảy lên thuyền cả, còn
Nguyễn Tiểu Ngũ, Nguyễn Tiểu Thất cũng mỗi người cưỡi một chiếc thuyền con mà
cùng ra đi.
Bấy giờ vào khoảng giữa canh một, bọn Tuần giảng cùng quân
lính mong mãi không thấy Hà Quan Sát về, thì ai nấy ngơ ngác không hiểu ra sao,
đành phải ngồi bó cánh trên thuyền mà nghỉ mát.
Chợt đâu có một trận quái phong ở sau lưng thổi lại, làm cho
dây buộc thuyền đều bị đứt tất cả. Chúng đương kinh sợ hãi hùng, không biết đường
thi thố, thì bỗng lại nghe thấy hiệu còi thổi ở phía sau, rồi có một vầng lửa
sáng ở trong đám lau lách đi ra. Đám quan bảo nhau rằng: Phen này không còn
cách chi mà sống được nữa! Khi đó vừa một trăm chiếc thuyền vừa lớn vừa nhỏ, đều
bị gió đánh lật lộn nghiêng trành không sao giữ được, rồi thấy đống lửa kia vẫn
cứ lù lù tiến đến trước mặt.
Nguyên đó là một đoàn thuyền con buộc hai cái làm một, trên để
toàn cỏ khô lau héo đốt lửa cháy dần dật, rồi buông thuận chiều gió mà trôi đến
đó. Hơn một trăm chiếc thuyền của đám quân lính phần thì đậu liền khít với
nhau, phần thì kênh nước hẹp hòi, không có chỗ để tránh, thành ra mười mấy chiếc
thuyền lớn ở đầu bị lửa xông vào đốt cháy. Dưới đáy nước lại có người kéo ngầm
thuyền lửa sấn vào đốt phá thuyền quân, làm cho các quân lính trên thuyền, đều
nhao nhao nhảy lên bờ chạy trốn.
Dè đâu bước lên đến bờ lại toàn thị khóm lau vũng lách không
có lối đi, đằng trước cũng thấy lửa cháy đùng đùng trên khóm lau cháy xuống gió
to ngọn lửa càng to, đám quân lính không có chỗ nào lẩn lút, đành phải nhảy xuống
những chỗ vũng lầy để đứng.
Trong đám hỏa quang rực rỡ, thấy có một chiếc thuyền con đi
vun vút tới nơi, đằng lái thuyền đứng chèo, đằng mũi thuyền có một tiên sinh ngồi,
tay cầm một thanh kiếm sáng loáng miệng quát lên rằng:
- Đừng để cho một thằng nào bên đông chạy thoát.
Bọn quân lính đứng trong đám bùn lầy, nghe vừa dứt lời thì thấy
bờ lau bên đông có hai người dẫn bốn năm anh chài cầm đao thương sáng loáng chạy
đến bờ lau, bên tây cũng có hai người dẫn bốn năm anh phường chài tay cầm Phi
Ngư Câu sáng quắt chạy ra.
Hai bên đổ xô vào, vớ được anh nào là chém anh ấy, chỉ một
lúc tụi quân binh chết cả trong đám bùn lầy, không còn anh nào sống sót.
Than ơi!
Vì đâu cho chúng lầm than
Tội nào giết hết quan tham chưa đành!
Nguyên hai người bên đông là Tiều Cái, Nguyễn Tiểu Ngũ, hai
người bên tây là Nguyễn Tiểu Nhị, Nguyễn Tiểu Thất, và một tiên sinh ngồi trên
mũi thuyền, thì là Công Tôn Thắng ngồi để hô gió.
Bấy giờ năm vị hảo hán dẫn mười mấy tên chài lưới ở thôn
trang, chém hết quân binh trong vũng lầy bờ cỏ, duy còn một mình Hà Quan Sát là
vẫn trói cuốn tròn như cái bánh, mà vất ở trong khoang thuyền.
Nguyễn Tiểu Nhị xách trùng làm hại dân sự ở Tế Châu, lẽ ra
chúng tao xé xác làm muôn mảnh, nhưng nay hãy tha cho, để về báo với thằng giặc
già Tri Phủ Tế Châu rằng:
- Chúng tao là ba tay anh hùng họ Nguyễn ở thôn Thạch Kiệt và
Đông Khê Tiều Cái Thiên Vương, không ghẹo gì nó, mà không đến vay mượn lương thảo
gì trong thành, nó đừng đến đây mà mua cái chết nhé. Nếu mà nho nhoe với chúng
tao, thì không cứ là một thằng Tri Phủ cỏn con cho ngay đến lão Xái Thái Sư đến
đây nữa, gọi là ta đánh cho vài ba mươi cái khoét thịt vào đã. Bây giờ tao tha
cho mà về, chớ đến đây nữa, mà phải truyền cho chúng nó đừng mơ tưởng hoài
công! Đây không có đường cái lớn, để tao đưa ra ngoài đường cái cho mà đi.
Bấy giờ Tiểu Thất lấy một con thuyền nhẹ nhàng kéo Hà Đào xuống
chở ra gần đường cái mà quát lên rằng:
- Cứ đi thẳng đây khắc tìm thấy lối đường, còn đám kia đã giết
hết cả rồi. Bây giờ thả cho mầy được về tử tế thế này, chắc là thằng giặc già
Tri Phủ nó lại cười ta, vậy ta hãy lưu lại để cho nó biết. Nói đoạn rút dao găm
ở bên mình ra xẻo hai tai Hà Đào, máu chảy đầm đìa lênh láng, đoạn rồi lau đao
cởi trói vất Hà Đào lên bờ mà đi.
Hà Đào được thoát tính mạng kinh sợ hãi hùng, vội vàng tìm đường
cút thẳng về Tế Châu. Khi đó Tiều Cái, Công Tôn Thắng cùng ba anh em họ Nguyễn
với tụi phường chài cùng lên thuyền, đến bên đường Lý Gia để tìm Ngô Dụng, Lưu
Đường họp vào làm một.
Ngô Dụng hỏi đến việc cự quan quân, Tiều Cái liền đem đầu
đuôi kể hết cho nghe, ai nấy đều vui mừng hớn hở. Đoạn rồi lại chỉnh đốn thuyền
bè, cùng nhau kéo đến hàng rượu Hãn Địa Hốt Luật Chu Quý.
Khi tới nơi Ngô Dụng đem đầu đuôi chuyện mình kể cho Chu Quý
nghe, và nói để xin vào nhập đảng. Chu Quý thấy vậy cả mừng, mời các người lên,
chào hỏi xong rồi, đón cả vào trong nhà để thết rượu.
Đoạn rồi Chu Quý ra thủy đình lấy một mũi tên bắn vào vụng lau
để ra hiệu. Được một lát đã thấy tên tiểu lâu la chở một con thuyền ra. Chu Quý
vội vàng viết một phong thư thuật chuyện và kể tên họ mấy vị hào kiệt định lên
nhập đảng, giao cho tiểu lâu la đem về trình trước cho sơn trại biết, rồi nhất
diện giết dê khỏan đãi mọi người suốt đêm hôm ấy.
Sáng hôm sau, Chu Quý cho gọi một chiếc thuyền lớn mời mấy vị
hảo hán xuống thuyền, rồi cho cả chiếc thuyền của Tiều Cái đem đến cùng trở về
sơn trại. Khi đến một chỗ kênh nước kia chợt thấy trên bờ có tiếng thanh la
kêu, rồi có bảy tám tên lâu la đánh bốn con thuyền tuần tiễu đi qua. Khi trông
thấy Chu Quý thì đám lâu la trên thuyền kia đều cúi chào Chu Quý rồi lại lái
thuyền vút đi trước.
Chu Quý cùng bọn Tiều Cái đi vào đến bến Kim Sa thì cùng nhau
kéo lên bờ duy để mấy người nhà và mười mấy tên phường chài đợi lại ở thuyền. Bấy
giờ có mấy tên tiểu lâu la xuống núi tiếp đón lên ải. Vương Luân cùng mọi người
Đầu Lĩnh đều ra quan ải để nghinh tiếp. Bọn Tiều Cái thấy vậy vội vàng thi lễ để
chào.
Vương Luân đáp lễ lại mà nói rằng:
- Vương Luân tôi được nghe tiếng Tiều Thiên Vương đã lâu, như
sét đánh bên tai, nay được ngài hạ cố đến đây, thì thực là may quá!
Tiều Cái nói:
- Tiều mỗ tôi là một người vô học tính khí thô mãng, ngày nay
tự biết vụng về kém dốt, cam tâm đến đây làm một tên tiểu tốt ở trướng tiền,
xin ngài rộng lượng bao dung, thì lấy làm may mắn.
Vương Luân đáp rằng:
- Ngài dạy làm gì thế, hãy xin mời vào tiểu trại, rồi ta sẽ
bàn định về sau.
Nói đoạn cùng các Đầu Lĩnh dẫn đám Tiều Cái đi lên sơn trại.
Khi tới Tụ Nghĩa Sảnh, Vương Luân mời bọn Tiều Cái bảy người
ngồi bên phía hữu, còn các Đầu Lĩnh cùng Vương Luân thì ngồi bên phía tả, đoạn
rồi nhạc công đánh bài nhạc của sơn trại để chào mừng, và sai một tên tiểu Đầu
Mục ra thuyền để tiếp đón các người nhà vào khách quán yên nghỉ. Hôm đó trong
sơn trại giết mấy con bò, mười mấy con gà và năm con lợn, tiệc bày sang trọng
trống phách vang lừng, rất là vui vẻ.
Khi tiệc đến nửa chừng, Tiều Cái liền đem tâm sự từ đầu đến
cuối giải bầy cho Vương Luân nghe. Vương Luân nghe đoạn kinh hãi hồi lâu, trong
bụng ngần ngừ không biết trả lời ra sao, chỉ ầm ừ ứng đáp sao cho xong câu chuyện.
Đến khi tan tiệc các đầu lĩnh đưa bọn Tiều Cái xuống khách phòng ở ngoài quan ải
để nghỉ và cắt hầu hạ cẩn thận. Trong bụng Tiều Cái lấy làm mừng rỡ, bảo với
Ngô Dụng cùng mọi người rằng:
- Chúng ta làm nên những tội ngập trời. Nếu không có Vương Đầu
Lĩnh thương yêu, mà để cho ở đây như thế, thì có lẽ chúng ta cũng nguy lắm nhỉ?
Ngô Dụng nghe nói chỉ cười nhạt, mà không nói sao cả.
Tiều Cái thấy vậy liền hỏi rằng:
- Làm sao tiên sinh lại cười nhạt hoặc có điều chi, xin tiên
sinh nói cho tôi biết?
Ngô Dụng đáp rằng:
- Tính bác ngay thẳng, vẫn tưởng là Vương Luân chịu lưu chúng
ta ở đây hay sao? Bác không biết ruột hắn, chứ bác lại không xem nhan sắc và cử
động của hắn à?
- Nhan sắc cử chỉ của hắn ra sao?
- Bác không biết, lúc mới đầu dự tiệc hắn còn chuyện trò với
bác ra dáng thân tình, về sau bác kể chuyện ra những là giết đám quân quan,
buông tha Hà Đào, cùng là Nguyễn Thi Tam Hùng, mười phần hào kiệt, thì bấy giờ
hắn biến ngay sắc mặt đi, ngoài miệng tuy ứng đáp nói cười, mà trong lòng thì
thực khác hẳn. Nếu quả hắn có bụng lưu chúng ta ở đây, thì bấy giờ đã định vị
thứ rồi mới phải. Việc ấy dẫu đến Đỗ Thiên, Tống Vạn cũng xin tùy theo đáp ứng
chứ không hiểu được thâm ý của Vương Luân, duy có một anh chàng Lâm Xung là
ngày trước đã làm qua Giáo Đầu ở kinh sư cũng đã hơi hiểu việc, nay bất đắc dĩ
phải ngồi vào bậc ghế thứ tư, thì trong lòng vẫn hậm hực bất bình, xem như cách
nói chuyện với bác buổi sáng thì đủ biết. Tôi xem anh ta thực là có ý trở mặt với
Vương Luân; để tôi thuyết cho mấy câu, khắc là họ tính ngay lập tức.
Bấy giờ Tiều Cái mới tỉnh biết, liền bảo Ngô Dụng rằng:
- Thôi, trăm sự nhờ ở kế sách của tiên sinh cả.
Cho hay quân tử xem người,
Xem từ tiếng nói câu cười xem sao?
Dẫu cho khôn khéo trăm chiều,
Như trong thấy ruột lẽ nào dấu xong!
Sáng hôm sau bỗng thấy người nói có Lâm Xung Giáo Đầu đến
chơi. Ngô Dụng liền bảo với Tiều Cái rằng:
- Nếu người ấy đến đây, thì tất là trúng kế ta hẳn!
Nói đoạn bảy người vội ra đón Lâm Xung cùng vào phòng khách
nói chuyện. Ngô Dụng đến trước mặt Lâm Xung mà nói rằng:
- Hôm qua được các ngài có lòng hậu đãi, chúng tôi lấy làm cảm
tạ vô cùng.
Lâm Xung nói:
- Tôi thực là lỗi phép với các ngài, nhưng ngặt vì nếu có bụng
tử tế mà không có quyền thì cũng không làm sao được, xin các ngài thứ lỗi cho.
Ngô Dụng nói:
- Chúng tôi tuy không ra gì, nhưng cũng không phải là loài thảo
mộc, lẽ nào lại không biết tấm lòng tử tế biệt nhỡn của ngài, thực là cảm ơn vô
hạn.
Đoạn rồi Tiều Cái mời Lâm Xung ngồi ghế trên. Lâm Xung nhất định
không nghe, nhường Tiều Cái ngồi trên rồi tự mình ngồi cánh đuôi, còn Ngô Dụng
và sáu người kia ngồi một dẫy ở dưới nữa.
Tiều Cái nói với Lâm Xung rằng:
- Tôi được nghe tiếng Giáo Đầu đã lâu không ngờ nay lại được
gặp ở đây!
Lâm Xung nói:
- Tôi khi còn ở kinh sư chơi với anh em không hề có một chút
gì là sơ xuất, ngày nay được gặp ngài đây thật là không thỏa lòng chút nào, cho
nên tôi phải đến đây để xin lỗi với ngài.
Tiều Cái tạ lại rằng:
- Xin cảm tấm lòng quý báu của ngài.
Ngô Dụng lại hỏi Lâm Xung rằng:
- Ngày trước tôi được nghe tiếng Đầu Lĩnh còn ở Đông Kinh kể
biết bao phần hào kiệt, thế mà không biết vì sao bị Cao Cầu hãm hại phải sang ở
đất Thương Châu? Sau tôi nghe nói ở Thương Châu lại bị chúng lập mưu đốt mất thảo
trường, rồi không biết ai đưa Đầu Lĩnh đến sơn trại ở đây từ bao giờ như vậy?
Lâm Xung thở dài mà rằng:
- Nói đến thằng Cao Cầu nó hãm hại tôi thì lại kinh dựng tóc
gáy lên, không biết bao giờ trả thù cho được! Còn việc tôi đem thân đến lẩn lút
ở đây là nhờ ở Sài Đại Quan Nhân tiến cử giúp cho đấy, ngài ạ!
- Sài Đại Quan Nhân có phải bọn giang hồ vẫn kêu là Tiểu Toàn
Phong Sài Tiến đó phải không?
- Chính người ấy đấy.
Tiều Cái nói:
- Tôi cũng nghe tiếng ông ta là người trọng nghĩa khinh tài
hay kết nạp bọn hào kiệt bốn phương, là dòng dõi Đại Chu Hoàng Đế khi xưa,
nhưng tôi chưa gặp được bao giờ!
Ngô Dụng nói với Lâm Xung rằng:
- Sài Đại Quan Nhân tiếng tăm lừng lẫy thiên hạ ai ai cũng biết,
nếu Giáo Đầu không phải là một bậc võ nghệ siêu quần thì sao ngài có chịu giới
thiệu đến đây! Câu nầy không phải là tôi nịnh, nhưng cứ lý ra thì Vương Luân
nên nhường ghế thứ nhất để Đấu Lĩnh ngồi mới là công bằng, mà mới khỏi phụ công
Sài Đại Quan Nhân tiến cử.
- Vâng, tiên sinh có lòng khen thế thực là cảm tạ, tôi đây vì
phạm tội phải chạy đến nương nhờ Sài Đại Quan Nhân, ngài cũng hết lòng giữ lại ở
đó, song sợ phiền lụy đến ngài không tiện, nên lại phải vật nài để xin đến sơn
trại đây. Ai ngờ ngày nay đi cũng dở mà ở cũng dở, không phải vị gì chỗ ngồi
hơn kém, song có điều Vương Luân là người tâm thuật không định, bàn nói không
nghe, như thế cũng khó lòng ở với nhau lâu được.
Tôi xem Vương đầu lĩnh tiếp người tử tế, hòa nhã ung dung như
thế mà tâm địa lại hẹp hòi hay sao?
Ngày nay may được các ngài đến đây thực chẳng khác gì mặt gấm
thêu hoa, lúa khô được nước, thế mà anh ta vẫn mang lòng ghen ghét tài năng, chỉ
sợ các ngài tranh cướp. Lúc đêm ngồi ăn tiệc thấy các ngài nói đến chuyện giết
hại quan quân, anh ta đã có điều không thích, không muốn lưu các ngài ở lại,
cho nên mới mời xuống nhà khách dưới quan ải đây để nghỉ.
Ngô Dụng nghe vậy liền nói ngay rằng:
- Nếu Vương đầu lĩnh đã có lòng như thế, thì chúng tôi bất tất
phải đợi ông ta nói ra, chúng tôi xin đi chỗ khác trước là hơn.
Lâm Xung gạt đi rằng:
- Các ngài đừng nghĩ thế, tôi đây chỉ sợ các ngài đem lòng
chán nản, nên phải đến sớm đây để nói cho các ngài biết. Đến ngày hôm nay xem;
nếu hắn tiếp đãi tử tế không có điều chi khác ý như hôm qua thì thôi, bằng hắn
có một câu gì sâm sỉ khó chịu, thì xin các ngài cứ mặc tôi đây.
Tiều Cái nói:
- Nếu được ngài quá yêu, cầu như thế, thì anh em chúng tôi cảm
thấy quý chừng nào?
Ngô Dụng lại gạt đi mà rằng:
- Lẽ nào ngài lại vì chúng tôi là người mới đến, mà trở mặt với
anh em cũ được, vậy nếu có thể dung được thì hay bằng không, thì anh em chúng
tôi xin cáo thoái trước là hơn.
Lâm Xung quyết đoán mà rằng:
- Tiên sinh sai rồi, cổ nhân đã nói:"Tinh tinh tiếc tinh
tinh, hảo hán tiếc hảo hán" chứ như những đồ súc sinh khốn nạn ấy thì anh
em gì với nó? Xin các ngài cứ khoan tâm để lát nữa tương hội.
Nói đoạn đứng dậy từ biệt mọi người mà trở lên núi.
Hồi lâu có tên tiểu lâu la đến nói rằng:
- Hôm nay Đầu Lĩnh ở sơn trại chúng tôi cho mời các vị hảo
hán đến thủy đình ở bên Nam núi để hội yến.
Tiều Cái nhận lời vào bảo tiểu lâu la về bẩm trước với Đầu
Lĩnh rồi xin theo lên sau. Tên tiểu lâu la đi rồi, Tiều Cái hỏi Ngô Dụng rằng:
- Tiên sinh, phen nầy thế nào?
Ngô Dụng cười đáp rằng:
- Huynh trưởng cứ vững tâm, phen này có lẽ làm chủ sơn trại
cũng nên. Cứ xem ý Lâm Xung hôm nay thế nào cũng có ý tính Vương Luân hẳn? Nếu
hắn có bụng ấy thì tôi giở ba tấc lưỡi thuyết cho hắn phải quả quyết mới nghe.
Huynh trưởng cứ đặt khí giới ngầm trong mình hễ thấy tôi vuốt râu là phải sấn đến
mà giúp hắn thì mới được.
Tiều Cái cùng mọi người nghe thấy đều mừng thầm trong bụng. Bấy
giờ vào khoảng cuối giờ thìn, trong trại đã ba bốn phen cho người ra thúc mời,
Tiều Cái cùng mọi người đều ăn mặc gọn gàng giắt khí giới sẵn trong mình rồi đi
phó hội. Vừa sắp ra đi đã thấy Tống Vạn cưỡi một con ngựa và có tụi lâu la
khiêng bẩy cỗ kiệu đến mời. Bẩy người liền lên kiệu theo Tống Vạn đến thủy trại
bên nam núi.
Khi đến trước thủy đình thì bẩy người bước chân xuống kiệu,
Vương Luân, Đỗ Thiên, Lâm Xung và Chu Quý đều chạy ra đón tiếp mời vào thủy
đình, phân tân chủ để ngồi.
Bên ấy Vương Luân cùng bốn người đầu lĩnh Đỗ Thiên, Tống Vạn,
Lâm Xung, Chu Quý ngồi chủ vị phía tả. Bên kia Tiều Cái cùng sáu người hảo hán
Ngô Dụng, Công Tôn Thắng, và ba anh em họ Nguyễn ngồi khách vị về phía hữu, dưới
thềm tụi lâu la luân lưu đứng hầu rót rượu.
Khi rượu được vài tuần, thỉnh thoảng Tiều Cái khơi nói đến
chuyện tụ nghĩa, thì Vương Luân lại tìm chuyện khác mà đánh trống lấp đi. Bấy
giờ Ngô Dụng sẽ liếc mắt nhìn xem Lâm Xung thì thấy Lâm Xung ngồi nghiêng mình
trên ghế tréo mà trợn mắt trừng trừng nhìn Vương Luân.
Hồi lâu tiệc rượu đã gần trưa, bỗng thấy Vương Luân gọi lâu
la mà bảo đem đến đây.
Đoạn rồi thấy ba bốn tên lâu la chạy đi một lúc rồi một tên
lâu la bưng một cái mâm lớn, trên để năm đĩnh bạc rất to đem đến.
Vương Luân đứng dậy cầm chén rượu nói với Tiều Cái rằng:
- Nay được các vị hào kiệt hạ cố đến đây tụ nghĩa, thực là hạnh
phúc vô cùng. Nhưng hiềm vì sơn trại chúng tôi cũng như một nơi vũng hẹp dung
sao được nổi chân long, vậy gọi là có chút lễ thành, xin các ngài thu nhận và tìm
nơi trại lớn để mở mang, rồi chúng tôi sẽ xin sai người đến tận dưới cờ mà xuống
đầu nộp lễ.
Tiều Cái đáp rằng:
- Chúng tôi nghe tiếng ngài đây chiêu hiền nạp sĩ đã lâu, bởi
vậy chúng tôi muốn đến đây để nương tựa. Nay các ngài đã không dung được thì chúng
tôi xin cảm tạ cáo lui, chứ vàng bạc ngài cho không khi nào dám nhận! Chúng tôi
không dám khoe là giàu có, song cũng còn được đủ dùng, vậy lễ vật xin dâng lại
hầu ngài. Rồi chúng tôi xin cáo biệt ngay bây giờ.
Vương Luân lại nói:
- Ngài từ chối làm gì? Việc này không phải là sơn trại chúng
tôi không muốn lưu các vị hào kiệt ở đây, nhưng chỉ vì nhà cửa chật hẹp, lương
thực hiếm hoi, sợ ngày sau lại thêm lỡ cho các ngài không tiện, bởi thế nên muốn
để cho các ngài đi nơi khác còn hơn.
Vương Luân vừa nói dứt lời thì đã thấy Lâm Xung dựng đứng đôi
lông mày, trợn tròn hai con mắt, ngồi ở trên ghế mà quát lên rằng:
- Lần trước ta lên núi anh cũng kêu là nhà chật lương ít,
ngày nay Tiều Huynh cùng các vị hào kiệt đến đây, anh cũng đem câu ấy ra để
thoái thác, thế là nghĩa gì?
Ngô Dụng chêm mấy câu rằng:
- Xin Đầu Lĩnh bớt giận, cái nầy là tội tại chúng tôi đến
đây, để làm hại mất tình khí sơn trại các ngài. Bây giờ Vương Đầu Lĩnh đã thết
đãi tử tế và lại tặng tiền nong cho về, nào có đuổi mắng gì đâu! Vậy xin Đầu
Lĩnh đừng giận nữa, chúng tôi đi là xong.
Lâm Xung nói:
- Như thế là hạng người giắt dao găm, gan lim mặt sứa, tôi
không thể nào mà nhịn hắn được nữa.
Vương Luân nghe nói quát mắng rằng:
- Thằng súc sinh nầy đã say rượu đâu, sao dám nói xúc phạm đến
ta như thế? Mầy làm mất cả thứ tự trên dưới hay sao?
Lâm Xung cũng cả giận mắng rằng:
- Liệu như mầy là một thằng cùng nho thì hỏng, trong bụng
không có một chút văn học gì, phỏng đáng làm chủ sơn trại hay không?
Ngô Dụng bảo Tiều Cái rằng:
- Tiều huynh ơi! Chỉ vì chúng ta lên đây làm dở dang cả cho
các ngài Đầu Lĩnh, anh em ta nên kiếm chiếc thuyền mà cáo biệt về ngay mới được.
Nói xong bảy người đều đứng dậy toan đi ra. Vương Luân giữ lại
mà nói rằng:
- Hãy xin mời các ngài lui lại cho trọn bữa tiệc hôm nay đã.
Lâm Xung giơ chân đạp đổ cái bàn đổ lộn ra một bên, rồi đứng
dậy thò tay vào túi rút ra một con dao sáng loáng, dường như ngọn lửa bốc lên rần
rật vậy.
Bấy giờ Ngô Dụng vuốt râu ra hiệu, Lưu Đường liền liền chạy
lên trên đình giả vờ ôm lấy Vương Luân mà can rằng:
- Thôi, không nên xung kích lẫn nhau nữa?
Ngô Dụng cũng giả cách ngăn Lâm Xung lại mà rằng:
- Đầu Lĩnh không nên vội vàng quá như thế?
Công Tôn Thắng cũng phân với đôi bên rằng:
- Chớ nên vì chúng tôi mà làm hỏng mất đại nghĩa mới được.
Đoạn rồi Nguyễn Tiểu Nhị ngăn giữ Đỗ Thiên, Nguyễn Tiểu Ngũ
ngăn giữ Tống Vạn, Nguyễn Tiểu Thất ngăn giữ Chu Quý, làm cho bọn lâu la ở dưới
đều ngây người đờ mắt mà sợ hãi kinh hồn.
Lâm Xung nhẩy đến nắm chặt lấy Vương Luân mà mắng rằng:
- Mày là một thằng thôn dã cùng nho, nhờ có Tống Thiên mới được
ở chốn này, Sài Đại Quan Nhân giúp đỡ cho như thế, rồi lại chu cấp tiền nong
như thế, thế mà đến lúc tiến cử ta lên đây mầy còn từ chối! Tới nay các vị hào
kiệt muốn lên núi nhập bọn, cũng toan đuổi đi mà không nhận cả; có lẽ Lương Sơn
Bạc nầy là của riêng nhà mầy hay sao? Những tư cách ghen ghét nhỏ nhen như thế
không giết đi còn để làm gì? Một thằng vô tài vô lượng, không thể nào làm chủ
sơn trại nầy được.
Đỗ Thiên, Tống Vạn, Chu quý toan chạy đến để khuyên giải Lâm
Xung lại bị bọn kia ngăn giữ không sao dám cựa.
Khi đó Vương Luân cũng muốn tháo thân để chạy song bị Lưu Đường
cùng Lâm Xung giữ riết không sao chạy được, liền kêu lên rằng:
- Nào những người tâm phúc của ta mọi khi đâu cả?
Bấy giờ có mấy người tâm phúc cũng muốn chạy đến để cứu,
nhưng lại trông thấy Lâm Xung ra vẻ hung hăng dữ tợn, thì cũng không anh nào
dám bén mảng đến gần. Tức thì Lâm Xung giữ chặt lấy Vương luân, mắng luôn một
chặp nữa, rồi đưa dao vào chính giữa bụng, đâm cho một nhát chết quay ra đấy, bọn
Tiều Cái thấy, thì ai nấy đều rút dao ra, cầm lăm lăm ở tay. Lâm Xung cắt lấy
thủ cấp Vương Luân xách ra ở tay, bọn Đỗ Thiên và Tống Vạn, Chu Quý trông thấy
đều kinh sợ hết hồn, quỳ xuống mà nói rằng:
- Chúng tôi xin theo lệnh ca ca.
Tiều Cái vội vàng đỡ ba người dậy, đoạn rồi Ngô Dụng len vào
vũng máu, kéo tay ghế thứ nhất mời Lâm Xung ngồi, và quay ra bảo mọi người rằng:
- Nếu ai không phục tùng thì cứ lấy Vương Luân làm phép, ngày
nay xin lập Lâm Giáo Đầu làm chủ sơn trại.
Lâm Xung nghe nói kêu lên rằng:
- Tiên sinh sai rồi, tôi ngày nay chỉ vì các vị hảo hán, lấy
nghĩa khí làm trọng, nên phải giết một người bất nhân vô nghĩa ấy đi, chứ thực
không có lòng nào mà mưu tranh lấy địa vị ấy. Nay Ngô huynh lại nhường cho tôi
như thế há chẳng mua cười với bọn anh hùng trong thiên hạ lắm sao? Việc ấy nếu
các ngài bức bách quá, thì chỉ xin một chết mà thôi. Nay tiểu đệ có một câu
này, nếu các ngài bằng lòng sẽ xin nói.
Chúng nghe nói, đều đáp rằng:
- Đầu Lĩnh có câu gì xin cứ nói cho nghe. Ai dám trái lời Đầu
Lĩnh.
Đời còn lắm kẻ gian ngoan,
Lẽ nào non nước không tan nát hoài?
Xưa nay thiệt hại giống nòi,
Gây nên thảm hại tày trời bởi đâu?
Đã không chí cả tài cao,
Còn tham những tiếng sang giàu nhục thân.
Bo bo phần giữ lấy phần,
Ngoài ra nào nghĩa nào nhân biết gì?
Giống đâu có giống ngu si,
Sao không tính trước đường kia nỗi này?
Đến khi hào kiệt ra tay,
Phỏng chừng rêu cỏ được rày mấy nơi?
Chẳng qua của thế người đời,
Mà trăm năm để tiếng cười về sau?
Hồi nầy nửa trên mượn miệng họ Nguyễn chưởi tệ quan lại, tiếp
đến nửa sau lại mượn lời Lâm Xung chưởi tệ Tú Tài, lời nói phấn khích, khác hẳn
nhã nhặn, song lẽ chép ra những lời oán độc; Sử Mã cũng không khỏi được sự này,
thì còn trách làm sao được những vị Tỳ quan (Quan chép sử)!
Hồi trước tả Chu, Lôi khi tróc nã, chỉ chép ngăn sau Tiều
Cái; hồi này tả Hà Đào khi tróc nã, chợt đâu chia làm hai nửa, nửa trước chỉ
chép họ Nguyễn thủy chiến, nửa sau chỉ chép Công Tôn Thắng hỏa công, tới khi
sau vào Lương Sơn Bạc gặp Lâm Xung, thì chỉ chép một Ngô Dụng thiệt biện, xét bảy
người mới tả sáu người đều lập kỳ công, trung gian còn một Lưu Đường, chưa từng
ra sức, thì lại đến hồi sau mới chép nốt mạo hiểm đêm trăng tới Vạn Thành, để
cho rõ bảy người này, đều là bậc kỳ tài ra sức, không chịu thua nhau. Hỡi ơi!
Đám cường hào còn cùng nhau đua sức, thế mà sao đời nay nhiều kẻ ở ngôi nhận trọng
trách, ăn lộc lâu ngày, mà không từng chịu làm lấy một việc gì, thì chẳng đáng
thẹn ước?
Tỳ quan chép Sử, ngại những cái gì, ngại nhất là thấy những
việc làm ra vô lý của đương thời mà không thể nào bênh nổi? Nay đọc một hồi Hà
Đào đi bắt giặc, thấy một sự đáng răn, là khi chưa bắt giặc, đã cướp ngay thuyền,
ai chẳng biết rằng bắt thuyền để bắt giặc, sao chẳng nghĩ ra trăm ngờ việc bắt
thuyền, là thảm hơn bắt giặc, vì bắt thuyền để bắt giặc, vì bắt thuyền để bắt
giặc kia, mình đã là giặc cướp của rồi; trong lòng trăm họ đã ngờ lắm vậy. Cho
đến khi đã bắt thuyền rồi, lại không bắt giặc, lại còn đem thuyền bắt được, cưỡi
đi như đi chơi, khiến trăm họ thấy rằng bắt lấy thuyền kia, không phải để đi bắt
giặc, chính là để đi chơi! Than ôi! Bắt thuyền để bắt giặc, để trăm họ lầm rằng
lấy của giặc để bắt giặc, đã một sự không nên, nữa là bắt thuyền để cốt đi
chơi, thì sao cho phải, còn nói làm sao? Còn nói làm sao? Vậy quân tử đọc đến
thiên này, cũng động lòng mà giận những đám quan quân, không còn trách Sử quan
không bên vực nữa.
Hà Đào lĩnh năm trăm binh, tỏ ra thấy như lá thu tan tác,
không đánh được chút nào, mà lũ Tiều Cái chỉ có năm người, thêm mươi anh hàng
chài nữa mà tả ra như thiên binh vạn mã, có khai hợp, có dụ và cướp, có phục có
ứng, có xông có đột, với câu chuyện ấy, ai bảo thuở đó có thực chuyện này, do ở
tác giả bày ra trận bút binh mục, tung hoành trong giây khéo léo tả ra.
Thánh Thán đến đây, luống ngậm ngùi than: Con người kết oán
nguy thay! Đương lúc Lâm Xung bị bạc đãi, ở ngôi thứ bốn, há quên giận Vương
Luân, chỉ vì có thể, không thể trả thù, mà phải nín nhịn, đến khi gặp bảy anh
em Tiều Cái, tuy không quen với nhau từ trước, song thế có thể làm, há chẳng động
tâm, dù cho Vương Luân ưu đãi, với sự còn ngờ, gặp dịp rửa hận làm ngay không nể,
với sự ngậm hờn rất đáng sợ thay!
Hồi 19:
Vì nghĩa chung, Tiều Cái lên ngôi chủ trại;
Đền ơn cả, Lưu Đường rảo bước đêm trăng.
Bấy giờ Lâm Xung vất đầu Vương Luân xuống, rồi một tay cầm
đao nhọn trỏ vào mọi người mà nói rằng:
- Tôi tuy là một kẻ cấm binh bị tội lưu lạc đến đây, song
ngày nay thấy các vị hào kiệt có lòng hạ cố đến ở sơn trại cho vui, thế mà
Vương Luân nỡ đem tâm địa hẹp hòi, ghen ghét tài đức, không chịu lưu giữ các
ngài, nhân thế tôi phải tính trước hắn đi, chứ thực không có bụng gì mưu đồ
ngôi chủ trại. Cứ như cầm đầu thì tôi cũng không khi nào cự địch quan quân, chỉ
mong có một ngày kia trừ bỏ những tên tâm địa độc ác ở bên cạnh nhà vua đi, thế
là thỏa chí. Nay nhân có Tiều huynh là một người trọng nghĩa khinh tài, trí
dũng gồm đủ, thiên hạ ai ai nghe thầy cũng phải phục theo, vậy tôi xin lấy
nghiã khí làm trọng, mà lập lên làm chủ trại, ở đây, các ngài nghĩ thế nào, có
xứng đáng không?
Chúng nghe nói đều đáp rằng:
- Đầu Lĩnh dạy thế là phải.
Tiều Cái thoái thác rằng:
- Không thế được, xưa nay dẫu khách giỏi đến đâu, cũng không
nên chiếm quyền chủ, tôi đây là một người khách mới đến, khi nào dám chiếm ngôi
trên!
Lâm Xung nhất định không nghe, sấn lại kéo Tiều Cái đẩy vào
ghế, rồi nói lên rằng:
- Bây giờ việc đã đến nơi, không cần phải từ chối, nếu không
nghe lời tôi, thì cứ lấy Vương Luân làm phép.
Nói xong cố dìu Tiều Cái ngồi lên ghế, rồi quát bảo mọi người
ra trước đình làm lễ mừng. Nhất diện bắt tiểu lâu la về đại trại mở yến hội, nhất
diện cho đem xác Vương Luân đi chôn, và nhất diện sai đến trước núi sau gọi tất
cả các tiểu Đầu Mục về Tụ Nghĩa Sảnh ở Đại Trại.
Đoạn rồi Lâm Xung với mọi người, mời Tiều Cái cùng lên kiệu
ngựa đi đến Tụ Nghĩa Sảnh. Khi tới nơi Tiều Cái vào ngồi ở ghế chính trung, đốt
một lò hương để vào gian giữa, rồi Lâm Xung đến trước mặt mà nói rằng:
- Lâm Xung tôi là kẻ thất phu thô mãng, không có học hành tài
đức gì, nay may có các vị hào kiệt đến đây đã rạng tỏ được đại nghĩa trong sơn
trại, không còn cẩu thả như xưa nữa. Vậy nhân có Ngô Học Cứu tiên sinh đây, xin
tiên sinh nhận chức quân sư để giữ binh quyền, sai bảo tướng tá, mà vào ghế thứ
nhì cho.
Ngô Dụng vội từ chối mà rằng:
- Tôi là anh học trò thôn quê, trong bụng dầu có tài kinh
luân tế thế, dẫu xưa cũng từng được qua Binh Pháp Tôn, Ngô, song chưa có chút
là công lao gì, lẽ đâu dám chiếm ngôi trên?
Lâm Xung nói:
- Việc đã đến nơi, không cần khiêm nhượng, tiên sinh phải ngồi.
Ngô Dụng phải nghe lời, ngồi vào ghế ngồi thứ hai.
Lâm Xung nói:
- Công Tôn Thắng tiên sinh, xin ngồi vào ghế thứ ba.
Tiều Cái không thuận, bảo Lâm Xung rằng:
- Làm thế không được, nếu cứ suy nhượng mãi, thì Tiều Cái tôi
xin thoái vị.
Lâm Xung nói:
- Tiều huynh lầm rồi, Công Tôn Thắng tiên sinh là người có tiếng,
xưa nay giỏi nghề dùng binh, lại có phép gào mưa gọi gió, biến hiện qủy thần,
anh em đã ai theo kịp?
Công Tôn Thắng khiêm tốn mà rằng:
- Tôi dẫu có chút phép thuật tầm thường, song không có chi là
tài tế thế, mà dám ngồi trên, vậy xin Đầu Lĩnh ngồi cho.
Lâm Xung lại nói:
- Cứ xem một trận đánh được quan quân thì đủ biết diệu pháp của
tiên sinh. Tiên sinh ngồi đây chính như bộ đỉnh ba chân khuyết một chân không
được, xin tiên sinh đừng từ chối nữa.
Công Tôn Thắng không từ chối được, đành phải nghe lời ngồi ghế
thứ ba.
Bấy giờ Lâm Xung lại toan nhường nữa. Tiều Cái, Ngô Dụng và
Công Tôn Thắng nhất định không nghe nói rằng:
- Vừa rồi Đầu Lĩnh bầu cho tam phân đỉnh túc, chúng tôi đã
xin vâng lời, tạm ngồi ba ghế trên rồi, nay đến Đầu Lĩnh còn nhường cho ai nữa,
thì chúng tôi ba người xin nhất định thoái cả.
Nói xong ba người dìu Lâm Xung ngồi lên ghế thứ tư. Đoạn rồi
Tiều Cái nói rằng:
- Bây giờ xin hai Đầu Lĩnh Đỗ, Tống ngồi lên cho.
Đỗ Thiên, Tống Vạn không nghe, liền nhường để Lưu Đường ngồi
vào ghế thứ năm, Nguyễn Tiểu Nhị thứ sáu, Nguyễn Tiểu Ngũ thứ bảy, Nguyễn Tiểu
Thất thứ tám, rồi Đỗ Thiên thứ chín, Tống Vạn thứ mười, Chu Quý thứ mười một. Bấy
giờ mười một vị ở Lương Sơn Bạc yên định chỗ ngồi, rồi trước núi sau núi tất cả
bảy tám trăm lâu la, đều vào lạy mừng, mà chia đứng hai hàng ở dưới.
Tiều Cái nói với chúng rằng:
- Các ngươi nghe lệnh đó, ngày nay Lâm Giáo Đầu cho tôi lên
làm chủ trại ở đây, Ngô Học Cứu làm chức quân sư, Công Tôn Thắng cùng coi giữ
binh quyền, Lâm Giáo Đầu cùng cùng các đầu lĩnh quản trị sơn trại, còn các
ngươi ai nguyên chức ấy, theo phận mà làm, coi sóc các công việc đằng trước đằng
sau, giữ các chốn trong trại ngoài bến chớ có để sơ xuất điều chi. Các ngươi phải
nên hết sức cùng lòng mà gây nên đại nghiệp với nhau mới được.
Đoạn rồi sai thu dọn hai bên phòng xá để cho lão tiểu hai nhà
họ Nguyễn ở, và đem các đồ châu báu sinh nhật còn lại, cùng các thứ kim ngân
tài bạch của nhà đem đến, để thưởng các Tiểu Đầu Mục vá các tụi lâu la. Lại giết
trâu giết ngựa tế lễ thiên địa thần minh rồi mở tiệc mừng, cùng uống rượu với
nhau mãi đến đêm mới nghỉ. Trong mấy ngày hôm sau lại bày tiệc luôn để khao thưởng
trên dưới rất là vui vẻ.
Bấy giờ Tiều Cái, Ngô Dụng cùng các vị đầu lĩnh mới kiểm điểm
kho đụn, sửa sang sơn trại, chế tạo các đồ quân khí, thương đao cung tên, mũ
giáp thuyền bè, và luyện tập các quân lính thủy thủ tập đánh trên thuyền, để
phòng bị khi quan quân kéo đến.
Cách ít lâu, một hôm Lâm Xung thấy Tiều Cái trọng nghĩa sơ
tài cư xử rộng rãi, đãi vợ con các người khác đều được chu tất thì trong bụng
chợt nghĩ đến vợ mình là Trương Thị ở Đông Kinh, ngày nay sống chết thế nào
chưa biết, chàng liền đem tâm sự bầy giải với Tiều Cái rằng:
- Tôi từ khi lên Lương Sơn, đã có ý mang cả vợ con lên đây một
thể, nhưng về sau thấy Vương Luân là một người tâm địa hẹp hòi, cho nên trong
lòng do dự lại thôi. Tới nay vợ con vẫn còn lưu lạc ở Đông Kinh, không biết rằng
có còn sống được hay không!
Tiều Cái nghe nói liền bảo rằng:
- Nếu hiền đệ, còn bảo quyến ở Đông Kinh, thì sao không sai
người đi đón về đây? Hiền đệ khá viết một phong thư cho người đi mau mau lập tức
về Đông Kinh mà đón ngay mới được.
Lâm Xung vâng lời lập tức viết thư rồi sai hai tên lâu la
thân tín mang về Đông Kinh để đón.
Cách hai tháng trời đã thấy hai tên lâu la trở về báo rằng:
- Chúng tôi đi đến Đông Kinh vào ngay trong thành, hỏi thăm tới
nhà Trương Giáo Đầu thì thấy nói là Nương Tử bị Cao Thái Úy bức bách, đã liều
thân tự ải từ hai năm về trước. Trương Giáo Đầu thì vì lo nghĩ phẫn uất, rồi
vào khoảng nửa tháng nay cũng mắc bệnh mất rồi, duy còn có một người con hầu là
Cẩm Nhị, thì hiện đã gả chồng mà cùng nhau ở đó. Các lân bang gần quanh ai ai
cũng đều nói như thế cả, vậy xin báo để Đầu Lĩnh biết.
Lâm Xung nghe nói thì tầm tã nhỏ đôi hàng lụy, rồi từ đó
trong lòng không còn vương vấn việc nhà chi nữa. Tiều Cái thấy chuyện như vậy,
thì cũng bùi ngùi tỏ dạ cảm thương.
Đoạn rồi từ đó trong sơn trại chỉ hằng ngày thao luyện binh
mã chiến thuyền, để phòng khi cự địch quan quân.
Một hôm các Đầu Lĩnh đương họp nhau bàn việc ở trên Tụ Nghĩa
Sảnh, chợt thấy tiểu lâu la vào báo rằng:
- Phủ Tế Châu sai điểm hơn hai nghìn binh mã và các thuyền lớn
nhỏ có tới bốn năm trăm chiếc, hiện đương đóng ở quãng hồ rộng ngoài thôn Thạch
Kiệt, xin vào báo để các ngài biết.
Tiều Cái nghe báo cả kinh bàn với quân sư Ngô Dụng rằng:
- Quân quan đến đó, ta nghĩ cách nghinh địch thế nào cho được?
Ngô Dụng cười mà đáp rằng:
- Huynh trưởng bất tất phải nghĩ, khắc tôi đã có cách để đối
địch. Xưa nay thường nói:"Nước đến đất ngăn, binh lâm tướng đón" ngại
chi.
Nói đoạn gọi ba anh em họ Nguyễn đến, ghé vào tai dặn rằng:
Như thế...như thế...
Rồi lại gọi Lâm Xung, Lưu Đường đến mà bảo rằng:
- Hai các ông cứ thế nầy...thế nầy...
Nguyên quan Phủ Tế Châu, sai một viên Đoàn Luyện sứ là Hoàng
An và một viên Bộ đạo quân đem hơn một nghìn người và bắt tất cả các thuyền ở
trong hạt, đem hết đến hồ Lương Sơn Bạc. Bấy giờ Đoàn Luyện sứ Hoàng An đem
quân lính xuống thuyền, mở còi nổi hiệu thẳng xông đến Kim Sa. Khi gần đi đến bến,
chợt thấy tiếng véo von văng vẳng đưa lại bên tai. Hoàng An liền nói:
- Đấy có phải tiếng hoạch dốc (Ống sáo của lâu la) đấy không?
Hãy cắm thuyền lại xem sao?
Nói xong vừa dừng lại, thì bỗng thấy trên mặt nước có ba chiếc
thuyền vừa đi đến. Mỗi thuyền đều có năm người, bốn người cầm chèo và một người
ngồi mũi thuyền, cùng đầu đội khăn hồng, mình mặc áo hồng thêu hoa tay cầm câu
neo cả. Khi đó có người nhận biết, nói với Hoàng An rằng:
- Ba người ngồi ba mũi thuyền, chính là Nguyễn Tiểu Nhị, Nguyễn
Tiểu Ngũ và Nguyễn Tiểu Thất đó.
Hoàng An nghe vậy vội truyền rằng:
- Chúng bây hãy hết sức tiến lên, bắt ba thằng giặc ấy cho
ta.
Nói đoạn hai bên có đến bốn năm mươi chiếc thuyền, đều hò reo
mà chèo sấn đến.
Ba chiếc thuyền kia thấy vậy, liền huýt còi lên hiệu rồi quay
ngoắt trở lại. Hoàng An cầm thương trong tay vung lên mà bảo rằng:
- Mau giết chết mấy thằng giặc kia đi, ta sẽ trọng thưởng cho
các ngươi.
Ba thuyền kia cứ lẳng lặng mà chèo đi, không nói gì cả. Thuyền
quan quân đuổi riết đến sau rồi đem cung tên ra bắn. Ba anh chàng họ Nguyễn lại
giơ da thanh Hồ lên để đỡ tên mà chạy.
Thuyền sau hết sức đuổi theo, ước chừng được hai ba dặm nước,
thì chợt thấy đằng sau Hoàng An có một người bơi thuyền nhỏ đi vun vút mà bảo rằng:
- Chớ nên đuổi nữa! Chúng tôi vừa lúc nãy xông vào, bị họ
đánh đuổi xuống nước cướp mất cả thuyền rồi.
Hoàng An ngạc nhiên hỏi:
- Làm sao lại bị chúng như thế được?
Người kia nói:
- Chúng tôi đương chèo thuyền vào, chợt thấy đằng xa có hai
chiếc thuyền, mỗi thuyền có năm người đi đến, chúng tôi liền gắng sức đuổi
theo. Khi đuổi được ba bốn dặm trên mặt nước, thì thấy xung quanh toàn là cảng
hẹp, mà lại có tới bảy tám chiếc thuyền trổ ra, rồi cung tên bắn xuống như chuồn
chuồn không sao đánh được, bất đắc dĩ phải lui thuyền trở lại, dè đâu trở lại đến
chỗ cảng hẹp, thì thấy trên bờ có tới hai ba mươi người, cầm một đoạn thừng rất
to căng ngang mặt nước. Chúng tôi đương toan đến xem cái thừng, thì bị trên bờ
ném đá xuống rào rào như nưa, ai nấy phải nhảy thuyền bỏ xuống nước để trốn. Đến
lúc trốn về được tới bờ, thì đã thấy bao nhiêu quân lính giữ ngựa, đều bị chúng
giết chết trên mặt nước mà lấy mất cả ngựa. Vì thế nên phải vội vàng ra khóm
lau tìm được chiếc thuyền để đến báo Đoàn Luyện hay.
Hoàng An nghe đoạn ngẩn người kêu khổ, rồi phất cờ trắng bảo
quân sĩ quay trở về mà không đuổi nữa. Các thuyền được lệnh vừa quay mũi thuyền
trở lại, thì đã thấy ba chiếc thuyền lúc nãy, dẫm mười mấy chiếc thuyền nữa, mỗi
thuyền cũng chỉ có năm người, tay phất cờ đỏ, miệng thổi khẩu hiệu, quay lại đuổi
riết quan quân. Hoàng An thấy vậy, cũng toan dàn thuyền ra để đón đánh, thì lại
thấy trong đám ngàn lau có tiếng pháo nổ, rồi bóng cờ đỏ phất phới cả một lượt.
Đoạn rồi mấy chiếc thuyền đuổi theo sau gọi lên rằng:
- Hoàng An để đầu lại đấy.
Hoàng An kinh sợ hết sức chèo thuyền, đến bên cạnh bờ lau, lại
bị bốn năm mươi chiếc thuyền ở tiểu cảng hai bên bắn ra tua tủa như ném gạo vậy.
Hoàng An vội vàng tìm đường tháo lui, ngờ đâu trông đến thuyền, thì chỉ còn độ
ba chiếc con, liền hớt hải nhẩy sang một chiếc khoái thuyền, rồi quay cổ lại
nom thấy quân lính, anh nào anh ấy ngã lọp tọp xuống nước, có kẻ bị lôi mất cả
thuyền đi, rồi đến già nữa bị chết ở dưới nước. Hoàng An đương cỡi chiếc khoái
thuyền, đương tháo thân để chạy, chợt thấy trong đám lau lách có một chiếc thuyền
của Lưu Đường nhô ra buông móc kéo thuyền Hoàng An lại, rồi nhảy sang thuyền ôm
lấy Hoàng An mà kêu lên rằng:
- Cấm đứa nào cựa động.
Bấy giờ quân lính có kẻ biết lội nước, song thấy những người
xuống nước đều bị bắn chết, thì không anh nào dám nhảy xuống, mà đành chịu ngồi
yên trên thuyền cho họ trói.
Lưu Đường lôi Hoàng An mang được lên bờ, thì thấy Tiều Cái,
Công Tôn Thắng cưỡi ngựa cầm dao, dẫn năm sáu mươi người, hai mươi cỗ ngựa ở đằng
rẻo núi, đi lại tiếp ứng. Tất cả bắt sống được mấy trăm người, và cướp được bao
nhiêu thuyền, đều đem về thủy trại bên Nam để đó. Đoạn rồi Tiều Cái cùng các Đầu
Lĩnh nhất tề lên sơn trại. Tới nơi Tiều Cái xuống ngựa vào Tụ Nghĩa Sảnh, các Đầu
Lĩnh đều cởi nhung phục, cất quân khí ngồi dàn ra bên, đem Hoàng An ra trói ở cột
cái, rồi lấy vàng bạc vóc nhiễu ra thưởng cho các lâu la. Cộng tính tất cả cướp
được hơn sáu trăm cỗ ngựa, đó là công lao của Lâm Xung, đánh mặt tiểu cảng bên
Đông là của Đỗ Thiên, Tống Vạn, đánh mặt tiểu cảng bên Tây là công của Nguyễn
Thị Tam Hùng, còn bắt được Hoàng An là công của Lưu Đường.
Các Đầu Lĩnh thấy buổi bắt đầu đã được toàn thắng, thì ai nấy
lấy làm vui thích, giết dê mổ ngựa mở tiệc ăn mừng. Trong sơn trại lại có rượu
ngon nấu uống, ngó sen cá tươi dưới hồ bắt lên, các thứ hoa quả nào hạnh, nào
đào, nào mơ, nào táo, ở bên núi phía Nam, cùng các giống lợn, gà, ngỗng, vịt
nuôi sẵn trong nhà, không có một vật gì là không có, bấy giờ tha hồ mà yến ẩm
thung dung. Đương khi yến ẩm cùng nhau, chợt thấy lâu la lên báo rằng:
- Tiểu Đầu Lĩnh Chu Quý sai người lên hầu.
Tiều Cái truyền gọi vào, hỏi có việc chi?
Tên lâu la bẩm rằng:
- Chu Đầu Lĩnh thám được một bọn khách buôn có tới mươi người
đi liên kết với nhau, chiều nay tất do qua lối này, xin báo để Đại Vương biết.
Tiều Cái nghe báo, bảo với chúng rằng:
- Hiện nay ta đương cầu kim ngân tài bạc để chi dùng, vậy có
ai đem người xuống cướp lấy được chăng?
Vừa nói dứt lời thì Nguyễn Tiểu Nhị đã đứng lên nói rằng:
- Ba anh em tôi xin đi.
Tiều Cái nói:
- Thế thì hay lắm, nhưng anh phải cẩn thận đi mau, lại phải về
mau mới được.
Ba anh em họ Nguyễn vâng lời, lui ra thay áo xiêm, giắt đao
lưng, cầm đao lớn, đoạn điểm lấy hơn một trăm lâu la, rồi vào Tụ Nghĩa Sảnh bái
biệt mọi Đầu Lĩnh mà xuống núi ra bến Kim Sa, đáp thuyền sang hàng rượu Chu
Quý. Tiều Cái sợ ba anh em họ Nguyễn không làm được việc, lại sai Lưu Đường đem
hơn một trăm người nữa, để xuống núi tiếp ứng, và dặn lại rằng:
- Đến đó phải làm sao cho khéo, để lấy kim ngân tài bạch, chứ
không được giết hại khách thương.
Lưu Đường vâng lời ra đi. Tiều Cái đợi mãi đến canh ba, cũng
không thấy bọn ấy về, liền sai Đỗ Thiên, Tống Vạn dẫn thêm năm mươi người nữa để
xuống tiếp ứng. Đoạn rồi lại cùng với Ngô Dụng. Công Tôn Thắng, và Lâm Xung
cùng uống rượu đến sáng. Sáng ngày ra thấy lâu la lên báo rằng:
- Chu Đầu Lĩnh đã lấy được hai mươi xe kim ngân tài vật, và bốn
năm mươi con lừa ngựa đem để nộp.
Tiều Cái hỏi:
- Không giết hại đến người chứ?
B- ẩm, khách thương thấy thế lực kéo đến mạnh tợn, thì bỏ xe
cộ hàng hóa chạy ngang, chưa hề giết hại một người nào cả.
Tiều Cái cả mừng mà rằng:
- Chúng ta từ đây trở đi, không nên giết hại người ta mới được.
Nói đọan đưa ra một lạng bạc thưởng lâu la, và sai đem các thức
rượu quà xuống núi để đó tiếp. Khi đến bến Kim Sa, đã thấy mấy viên Đầu Lĩnh
đem các đồ xe cộ tải lên trên bờ, rồi lại sai mang thuyền ra để tải lừa ngựa.
Những Đầu Lĩnh trông thấy cả mừng cất chén mời rượu xong rồi, cho ra đón cả Chu
Quý về trại, để yến ẩm.
Tiều Cái cùng các Đầu Lĩnh về đến Tụ Nghĩa Sảnh, đem các tài
vật khăn gói lên giở hết ra để xem, bao nhiêu vóc lụa xếp về một bên, hàng hóa
xếp về một bên, còn kim ngân bảo cụ thì xếp ra trước mặt. Gọi tiểu Đầu Mục coi
kho lên giao cho mỗi thứ chia lấy một nửa đem cất vào kho, còn một nửa nữa thì
chia làm hai phần, mười một vị Đầu Lĩnh lấy một phần, và một phần cho chúng chia
nhau.
Bao nhiêu những quân sĩ mới bắt được, hết thẩy đem thích chữ
hiệu vào mặt, rồi chọn những người khỏe mạnh cho đi chăn đẵn củi, người yếu đuối,
thì cho đến các nơi coi xe cắt co, còn Hoàng An thì đem giam vào phòng giam ở đằng
sau trại.
Bấy giờ Tiều Cái nói với các Đầu Lĩnh rằng:
- Chúng tôi thoạt tiên đến đây, cũng chỉ mong nương tựa vào
Vương Luân, để tránh tai nạn, ngờ đâu nhờ được Lâm Giáo Đầu sau nhường cho tôi
lấy ngôi vị chí tôn, rồi lại được luôn hai việc vui mừng, một là trị được quan
quân, bắt được người ngựa thuyền bè, và bắt được Hoàng An ở đó. Hai là lấy được
tài vật kim ngân rất nhiều, đấy thực là toàn nhờ ở tài năng của anh em hết cả.
Chúng Đầu Lĩnh khiêm tốn mà rằng:
- Việc ấy là nhờ ở phúc ấm của Ca Ca chứ chúng tôi có tài cán
chi đáng kể.
Tiều Cái lại nói với Ngô Dụng rằng:
- Mười anh em ta sở dĩ còn được tính mạng đến đây, là ơn của
Chu Đô Đầu và Tống Áp Ty, có khi nào mà ta quên được! Cổ nhân nói:"Biết ơn
không báo, không phải là người". Vậy ngày nay ta có kiếm được kim ngân
châu báu kia là bởi tại đâu? Việc đó ta phải sai người đem một ít đến Vận
Thành, để trả nigh ân nhân là một sự quan trọng thứ nhất. Còn một điều là Bạch
Thắng hiện nay bị giam ở nhà pha Tế Châu, ta cũng phải đến đó mà cứu hắn mới được.
Ngô Dụng đáp rằng:
- Việc đó huynh trưởng không cần phải nghĩ, tiểu đệ xin chu tất
được, Tống Áp Ty là một người nhân nghĩa, không cần gì đến sự ta báo ơn, nhưng
lễ phép phải thế, cũng không bỏ thiếu được, vậy xin để tên việc một chút, rồi sẽ
bảo anh em đi ngay. Đến như Bạch Thắng thì tất phải sai một người nào thạo việc,
đem tiền đến đút lót mọi nơi, để dần dần về sau sẽ liệu bề thoát thân cho hắn.
Còn chúng ta đây bây giờ phải thương lượng với nhau, và đồn lương tích thảo, chế
khí tạo thuyền sửa sang thành quách, chỉnh đốn nhà cửa, và tu bổ các thứ y giáp
cung thương để dự phòng nghinh địch quân quan thì mới được.
Tiều Cái nói:
- Cái đó xin nhờ ở Quân sư chỉ giáo cho.
Ngô Dụng vâng lời rồi quay ra sai vát các việc, làm cho Lương
Sơn một ngày một hưng thịnh mãi lên.
Nước non riêng thú từ đây,
Một sảnh Tụ Nghĩa mấy tay anh hùng,
Đua nhau ngang dọc vẫy vùng,
Nói về tụi quân binh của Hoàng An, có kẻ chạy trốn thoát về,
báo cho Tri Phủ Tế Châu biết tin quan quân bị thua, Hoàng An bị bắt, và các hảo
hán ở Lương Sơn Bạc toàn là anh hùng dũng đởm, không hề ai dám đến gần, vả
chăng hồ nước mênh mông, kênh ngòi rất lắm, đường lối khó dò, sự thế khó lòng
mà truy bắt được. Quan phủ nghe vậy cả kinh, bèn phàn nàn với người nhà Thái Sư
rằng:
- Trước đây Hà Đào đã bị một phen khốn đốn một thân được
thoát ra về, mà chúng còn cắt tai làm nhục, năm trăm quân mã, không còn sót được
mống nào. Tới nay sai Đoàn Luyện Sử Hoàng An, và bộ đạo quan của bản phủ, đem
bao nhiêu quân mã đi truy tầm, cũng đều bị nguy hiểm cả, hiện Hoàng An còn bị bắt
lên núi mà quan quân thì chết chóc vô ngần, như vậy thì biết tính làm sao cho
được?
Tri Phủ đương kinh hoàng thở than, thì bỗng thây lính vào báo
rằng:
- Có quan mới đến thay, hiện đương ở nhà quan cư ngoài cửa
Đông Môn.
Tri Phủ nghe báo, vội vàng lên ngựa ra ngoài Đông Môn để tiếp.
Khi đến quan cư hai bên chào hỏi, đoạn rồi quan mới đưa công văn ra, để cho Tri
Phủ xem, Tri Phủ xem xong liền cùng quan mới đi vào trong nhà, đem các ấn tín
sương khố, cùng các giấy mà tài liệu bàn giao cho quan mới, rồi đặt tiệc để thiết
đãi.
Trong khi ăn tiệc Tri Phủ đem các chuyện ở Lương Sơn Bạc kể
cho quan mới nghe. Quan mới nghe đoạn xám hẳn mặt lại mà nghĩ thầm trong bụng:
"Thái Sư đem việc này đài cử cho ta, ai ngờ là cái nguyên ủy như thế, ở
đây tướng giỏi thì không, binh mạnh cũng không, bắt sao được giặc! Mà nhắc lỡ
chúng kéo đến đây để vay lương quấy nhiễu thì ta giữ gìn làm sao được".
Nghĩ vậy trong lòng càng áy náy vô cùng.
Sáng hôm sau quan phủ cũ, dọn dẹp đồ đạc trở về Đông Kinh thỉnh
tội. Bấy giờ quan phủ mới bẩm xin một viên quan quân đến trấn thủ Tế Châu, bàn
định chiêu binh mãi mã, chứa thảo đồn lương, mộ các binh phu dân khỏe mạnh và
mư trí hiến sĩ, để phòng bị bọn hảo hán ở Lương Sơn Bạc. Nhắc diện thảo sớ lên
Trung Thư Sảnh, xin sức cho các châu quận xung quanh phải giúp sức để tiểu trừ
quân giặc, nhắc diện lại thảo công văn sức đi các châu huyện thuộc hạt bản phủ,
cũng phải đề phòng truy nã và coi giữ bản hạt cho nghiêm, để dự bị trừ quân giặc
cướp.
Bấy giờ quan Huyện Vận thành cũng thuộc hạt bản phủ ấy, khi
tiếp được giấy sức phải coi giữ bản cảnh, đề phòng bị giặc Lương Sơn, liền gọi
Tống Giang lên cho thảo văn án, sức đi các thôn dã bắt phải nhất luật coi giữ
cho nghiêm. Tống Giang xem thấy công văn, thì trong bụng nghĩ thầm rằng:
"Ta không ngờ bọn Tiều Cái lại gớm ghê như thế! Đã cướp đồ lễ sinh nhật giết
cả quan quân, cắt tai Hà Đào, rồi lại bắt cả Hoàng An lên núi, tội ấy có lẽ đến
chu diệt chín họ chứ chẳng chơi. Đã đành rằng sự bất đắc dĩ thực, nhưng pháp luật
cũng không tha, vậy hoặc khi lỡ đến thế nào, thì làm sao cho được? ".
Chàng nghĩ vậy, thì cũng hơi có điều ăn năn khó chịu, liền
giao các công văn cho Trương Văn Viễn, để lập thành văn án, sức đi các chốn
hương thôn, rồi một mình lững thững đi ra ngoài huyện.
Vừa đi được vài ba mươi bước, thì chợt nghe đằng sau có tiếng
người gọi. Tống Giang ngoảnh đầu lại nom, thì thấy một mụ mối là Vương Bà đương
dắt tay một người đàn bà mà bảo rằng:
- Nhà mụ nầy thực có duyên, kia Áp Ty đã đến đây kìa!
Tống Giang thấy vậy, đứng dừng lại hỏi:
- Có việc gì thế?
Vương Bà trỏ vào người đàn bà bảo với Tống Giang rằng:
- Nguyên người nầy là Diêm Bà, người ở Đông Kinh, chồng là
Diêm Công, giỏi nghề ca xướng, có một người con gái tên là Bà Tích, năm nay mới
mười tám tuổi, nhan sắc cũng khá, mà nghề ca xướng cũng hay. Mới đây ba vợ chồng
bố con, đưa nhau sang Sơn Đông tìm quan nhân không gặp, phải lưu lạc đến huyện
Vận Thành nầy, cũng muốn đem nghề ca xướng kiếm ăn, nhưng ở đây không mấy người
thưởng thức, thành ra cũng túng bấn long đong, mà phải ở tạm vào một nơi hang
cùng ngõ hẻm. Chẳng may Diêm Công hôm qua lại bị bệnh thời tiết, nằm chết ở đó,
mẹ con không có tiền để tống táng, phải nhờ đến tôi làm mối giúp cho, nhưng bây
giờ cũng khó lòng mà cầu cứu ở đâu cho được. May đâu vơ vẫn lại gặp Áp Ty đi
qua đây, nên tôi đưa bà ta đến để nói với Áp Ty, xin Áp Ty rộng lòng thương mà
giúp cho người ta một cỗ quan tài.
Tống Giang nghe nói mà đáp rằng:
- Nếu vậy thì các người theo tôi đến nhà hàng này, mượn bút
nghiêng tôi viết cho mấy chữ, mà ra nhà Trần Tam Lang bên đông huyện lấy quan
tài.
Khi vào tới hàng viết giấy xong rồi, Tống Giang lại hỏi luôn
rằng:
- Nhà mụ có tiền nong gì để chi vào việc ấy chưa?
Diêm Bà đáp:
- Chẳng dấu gì Áp Ty, quan tài chưa có, thì làm chi có tiền nữa.
- Nếu vậy ta cho mụ mười lạng bạc đây, để mà lo liệu.
- Áp Ty có lòng thương thế, thì thực là cha mẹ tái sinh, xin
được làm trâu ngựa để đền ơn lớn.
Tống Giang gạt đi rằng:
- Bất tất phải nói thế.
Nói đoạn lấy ra một đĩnh bạc đưa cho Diêm Bà, và viết giấy
cho đi lấy quan tài, rồi đứng dậy ra về. Diêm Bà nhận được giấy và tiền, thì vội
vàng cảm tạ rồi ra nhà Trần Tam Lang để lấy quan tài, mà lập tức đem về làm ma
cho chồng. Khi tống táng xong, lại thừa được dăm sáu lạng bạc, hai mẹ con dè xẻn
chi dụng với nhau.
Một hôm Diêm Bà đến tạ ơn Tống Giang, thấy trong nhà không có
đàn bà con trẻ, liền về hỏi Vương Bà ở bên cạnh vách rằng:
- Sao nhà Áp Ty không thấy có người đàn bà nào, hay là ông ta
chưa có vợ chăng?
Vương Bà nói:
- Tôi chỉ thấy nói ông ta ở Tống Gia Thôn, chứ cũng không thấy
nói có vợ con chưa? Hiện nay làm Áp Ty ở huyện, thì vẫn cứ ở trọ nhà hàng, thời
thường lại cho quan tài, cho vị thuốc, rất hay cứu những người nghèo nàng, có lẽ
chưa có vợ con gì thì phải.
Diêm Bà nói:
- Con bé nhà tôi nó cũng khá, biết nghề hát xướng, ăn nói
khôn ngoan, ngày trước ở Đông Kinh ai cũng có lòng thương mến, đã có mấy người
nhà tử tế toan xin làm con nuôi, nhưng vì vợ chồng già chỉ có một con, nên
không muốn cho đi, ai ngờ ngày nay lại làm khổ nó. Nay nhân Áp Ty chưa có đàn
bà nội trợ, tôi nói với Áp Ty có lòng cứu đỡ giúp tôi, ngày nay không biết lấy
gì để trả ơn, nên cũng muốn kết làm thân quyến để đi lai cho vui, vậy xin nhờ
bà tác thành giúp cho.
Vương Bà nhận lời rồi, hôm sau nói với Tống Giang, Tống Giang
trước còn khảnh khái không nghe, sau bị Vương Bà tán hươu tán vượn nói ngọt nói
ngon, thì cũng bằng lòng y thuận, rồi thuê một gian nhà gác ở ngõ phố bên tây
huyện, mà sắm sanh các đồ vật liệu cho mẹ con Diêm Bà đến ở đó.
Thấm thoát nửa tháng trời, đã thấy mẹ con Diêm Bà đều quần là
áo lượt, lượt giắt trâm cài, nghiễm nhiên ra vẻ phong lưu lịch sự.
Tống Giang nguyên là một tay hảo hán, xưa nay chỉ thích luyện
tập võ nghệ, còn về phần mỹ sắc, thì không lấy gì làm đậm đà cho lắm. Lại nhân
Bà Tích là con gái mười lăm mười tám, đương trạc thanh xuân, tình tứ phong lưu,
Tống Giang không thể nào mà chìu dỗ, bởi thế trong mấy hôm đầu cũng còn vui vẻ
với nhau, rồi ngày sau thì một thưa nhạt dần đi.
Một hôm bất thình lình, Tống Giang dắt người Thiếp Thư là
Trương Văn Viễn cùng đến uống rượu ở nhà Tích Bà. Người này nguyên cùng làm một
phòng Áp Ty với Tống Giang, thường gọi là Tiểu Trương Tam, mặt mũi khôi ngô,
hình dung dón dả, bình sinh thích du đãng, rong chơi hết nhà này lại sang nhà
khác, lại học được đủ mọi ngón phong lưu đàn địch sênh ca, không gì là không thạo.
Tích Bà vốn là một tay ca xướng xuất thân, nhất đán trông thấy Trương Tam thì
trong lòng hơi hơi có chiều ưa thích, mà để ý đến luôn. Còn Trương Tam cũng là
một phường tửu sắc ăn chơi, cho nên trông thấy thì lòng riêng riêng hiểu, mà đầu
mày cuối mắt, đôi bên để ý cùng nhau. Về sau mỗi khi Tống Giang đi vắng, thì
Trương Tam lại giả vờ đến gọi Tống Giang; rồi Tích Bà lại mời giữ vào chơi nói
chuyện, lâu la sớm mận tối đào, mà mưa Sở mây Tần, không bao lâu đã được phỉ
lòng sở ước.
Dần dà từ đó tấm lòng yêu thương của Tích Bà đối với Trương
Tam càng ngày càng đằm thắm. Mà không coi Tống Giang vào đâu. Một đôi khi Tống
Giang có về đến nhà, thì Tích Bà lại gây chuyện nọ kia, mà không có chút gì gọi
là tình ân ái. Tống Giang tuy thế mặc lòng, cũng không hề lấy mỹ sắc làm quan
tâm, năm chừng mười họa, mươi bữa nửa tháng mới trở về phòng nghỉ một lần, vì
thế cái dây thân ái của Trương Tam cùng với Tích Bà càng ngày càng thêm khắng
khít, làm cho phố phường ai ai cũng biết.
Sau Tống Giang cũng nghe tin phảng phất như vậy, nhưng cũng hồ
đồ bán tín bán nghi, vả trong bụng lại tự nghĩ rằng:"Người ấy không phải
là một người vợ cái con cột, không có lệnh cha mẹ cưới xin gì mà phải quan tâm
cho lắm. Nếu nó không có lòng trung thành với mình, thì cũng mặc thây nó cho rảnh,
can chi nói đến thêm phiền!".
Nhân thế có khi tới mấy tháng trời, Tống Giang cũng không hề
qua nhà một lần nào nữa. Thỉnh thoảng Diêm Bà có cho người đi mời, thì Tống
Giang lại từ chối là bận việc không về nhà được.
Có một hôm kia, vào buổi chiều, Tống Giang ở trong huyện đi
ra hàng nước ở đối cửa để ngồi uống nước, chợt thấy một đại hán đầu đội nón
chiên, mình mặc áo lá đen, dưới chân quấn là đáp, đi giày gai, lưng dắt thanh
đao, vai vác khăn gói lớn, mồ hôi nhễ nhại, hơi thở hồng hộc, đứng quay mặt vào
huyện để nom rồi lại đi.
Tống Giang thấy vậy, lấy làm nghi hoặc, liền đứng dậy đi theo
đại hán để xem. Vừa đi được vài bước thì đại hán ấy quay lại nhìn Tống Giang mà
nét mặt hơi có ý ngờ ngợ. Tống Giang nhìn kỹ nét mặt người kia, thì thấy dáng
cũng hơi quen, nhưng có điều gặp ở đâu từ bao giờ không nhớ. Anh chàng kia cứ đứng
nhìn mãi Tống Giang, có ý băn khoăn mà không dám hỏi. Tống Giang nghĩ thầm
trong bụng: Anh này thật quái lạ, cứ nhìn ta chằm chặp là lý gì? Chàng nghĩ vậy,
nhưng không dám cất lời hỏi trước.
Bấy giờ anh chàng đại hán kia chạy vào hỏi một nhà hàng lượt ở
gần đấy rằng:
- Ông Áp Ty kia là ai đấy?
Nhà hàng đáp:
- Ông ấy là Tống Áp Ty đấy.
Anh kia nghe lời nói, rồi cảm ơn cắp đao chạy ra trước mặt Tống
Giang chào một tiếng rất to mà hỏi rằng:
- Áp Ty có nhận được tiểu đệ chăng?
Tống Giang đáp:
- Tôi nom ngài quen mặt lắm thì phải!
Người kia nói:
- Xin mời Áp Ty đi mấy bước lại đây ta nói chuyện.
Tống Giang theo người kia vào một cái ngõ hẻm vắng vẻ, rồi đến
một tửu điếm ở đấy, người kia bảo với Tống Giang rằng:
- Xin ngài vào đây nói chuyện tốt hơn.
Nói đoạn hai người cùng vào tửu điếm, lên trên gác chọn chỗ
bàn ghế sạch để ngồi. Người kia mở khăn gói để xuống dưới gầm bàn đựng dao vào
một chỗ, rồi đến trước mặt Tống Giang thụp lạy.
Tống Giang vội vàng đáp lễ lại rồi bảo rằng:
- Chẳng hay ngài là ai, tôi không rõ.
- Tôi trông ngài thì quen lắm, nhưng không nhớ ra là ai, xin
tha lỗi cho.
- Tiểu đệ chính là Xích Phát Quỹ Lưu Đường, đã được bái yết
ngài một lần, ở nhà Tiều Bảo Chính, mà ngài đã rộng lòng cứu vớt cho đây...
Tống Giang nghe nói cả kinh mà rằng:
- Hiền đệ to gan thế? Lỡ ra bọn thám tử dò biết thì có khốn
không?
- Vì chúng tôi mang ơn rất lớn, nên không dám quản ngại sự chết
mà đến đây để bái yết ngài.
- Thế nào, các ông Tiều Bảo Chính cận lai ra sao?... ai bảo
hiền đệ đến đây như thế?
- Bẩm, Tiều Ca Ca tôi rất cảm tạ ơn ngài đã cứu thoát được
toàn tính mạng, hiện nay làm chúa Đầu Lĩnh ở Lương Sơn Bạc, có Ngô Học Cứu làm
quân sư, Công Tôn Thắng giữ binh quyền, còn Lâm Xung phò tá đã giết Vương Luân ở
đó, và mấy người nguyên trước ở sơn trại đó, là Đỗ Thiên, Tống Vạn, Chu Quý,
cũng đều thần phục bảy anh em chúng tôi, tất cả là 11 người Đầu Lĩnh, lâu la bảy
tám trăm người, lương thực không biết đâu mà kể. Nhân thế sai Lưu Đường tôi
mang cho một phong thư, và trăm lạng vàng đến đây để tạ Áp Ty, và tạ ơn Chu Đô
Đầu một thể.
Lưu Đường nói xong, giở gói hành lý lấy ra một bức thư, và
trăm lạng vàng đưa choi Tống Giang. Tống Giang bóc thư xem xong, lấy một lạng
vàng và bức thư bỏ vào túi văn thư, ở phía trong áo, rồi bảo với Lưu Đường rằng:
- Còn số tiền này hiền đệ bọc lại mang về, tôi không dùng đến.
Nói xong quay ra gọi tửu bảo dọn rượu, và các thức nhắm lên,
rồi sai tửu bảo đứng rót rượu mời Lưu Đường uống. Được một lát mặt trời đã xế,
tên tửu bảo đi xuống dưới nhà, Lưu Đường lại toan lấy tiền đưa cho Tống Giang.
Tống Giang gạt đi mà rằng:
- Hiền đệ nghe tôi nói: Bảy anh em các bác mới đến sơn trại
đương cần tiền bạc để tiêu, và tôi đây trong nhà cũng đủ chi dùng, vậy tôi xin
gửi lại ở đấy, rồi khi nào cùng túng, sẽ xin đến lấy về tiêu. Còn như Chu Đồng
thì nhà ông ta cũng phong lưu, bất tất phải đưa đến nữa, để tôi nói qua cho ông
ta biết cũng xong, như thế không phải là có ý rẻ rúng chê bai đâu? Hôm nay cũng
không dám lưu hiền đệ lại chơi nhà, vì lỡ ra bọn thám tử biết được thì xảy chuyện
to ngay. Vậy xin đêm nay trời quan mây tạnh, hiền đệ nên mau gót trở về, nói với
các vị Đầu Lĩnh rằng: Tôi vì bận việc, không đến mừng được, xin thứ tội cho.
Lưu Đường nói:
- Đại ân của ngài chúng tôi không biết lấy gì báo đáp được, vậy
gọi là cho tôi đem chút lễ mọn, đưa đến Áp Ty để tỏ lòng thành kính của anh em.
Đây là Đại Đầu Lĩnh Chính Ca Ca, và quân sư Ngô Học Cứu, đã xuống lệnh cho tôi,
không phải như chuyện ngày thường, nếu tôi đem về, thì tất là bị phạt chứ không
chơi, vậy xin Áp Ty chớ nên từ chối nữa.
- Nếu phải hiệu lệnh nghiêm minh, vậy tôi viết phong thư cho
hiền đệ mang về là xong.
Lưu Đường lại hết sức nói, Tống Giang nhất định không thu nhận,
rồi gọi mượn bút mực của nhà hàng, và lấy một tờ giấy viết phong thư cẩn thận để
giao cho Lưu Đường.
Lưu Đường là người tính trực, thấy Tống Giang một mực thoái
thác như thế, thì cũng không làm sao được, liền chịu phép gói vàng và bỏ cả
phong thư vào bao cẩn thận, rồi nói với Tống Giang rằng:
- Vâng, Áp Ty đã dạy thế thì tiểu đệ xin trở về sơn trại ngay
bây giờ.
Tống Giang nói:
- Hiền đệ biết lòng cho, tôi không kịp lưu hiền đệ ở lâu đây
được.
Lưu Đường liền lạy tạ Tống Giang bốn lạy rồi sửa soạn ra đi.
Tống Giang gọi tửu bảo lên gác mà dặn rằng:
- Ông khách có lưu hai lạng bạc đây, để sáng mai rồi ta sẽ đến
tính.
Nói xong cả hai cùng xuống lầu đi ra ngoài tửu điếm. Bây giờ
đương giữa tháng tám, trời im mây tạnh, trăng sáng trên không, hai người đưa
nhau ra đến đầu ngõ phố, rồi Tống Giang cầm tay Lưu Đường mà dặn rằng:
- Hiền đệ hãy nên cẩn thận, chớ có đến đây nữa, ở đây bọn
thám tử rất nhiều, không phải là chuyện chơi đâu! Thôi xin chào hiền đệ trở về
cho bình yên.
Nói đoạn bái biệt mà chia tay đôi ngả, Lưu Đường nhân được trời
thanh bóng sáng, liền trở gót mau mau trở về sơn trại.
Bấy giờ Tống Giang lững thững vừa đi vừa nghĩ; Gớm thay cho bọn
họ to gan, ngộ lỡ đám công sai biết, thì nguy xiết bao! Lại nghĩ đến chuyện Tiều
Cái dám bỏ nhà đi làm cái nghề lạc thảo như thế, thì trong bụng càng ra dáng mà
nghĩ ngợi một mình.
Chợt có tiếng đằng sau gọi:
- Áp Ty đi đâu đấy? Sao mấy hôm không thấy Áp Ty đâu cả?
Tống Giang nghe tiếng liền giật mình quay lại xem ai...Cho
hay là:
Giang hồ nghĩa nặng tri âm,
Hỏi chi tài mệnh thăng trầm về sau.
Non cao nước vẫn còn sâu,
Thân này xoay với bể dâu còn dài.
Đất đâu lấp được miệng đời,
Vàng đâu mua chuộc được người thủy chung?
Ai lên nhắn hỏi trời công,
Làm chi đem thói má hồng trêu ngươi?
Tức gan đến lúc căm trời,
Gươm kia hồ dễ tha đời được sao!
Lời Bàn Của Thánh Thán:
Sách này nhiều chỗ bút lực hơn người, thường thường ở lúc hai
hồi giáp nhau, đều là một việc, mà thấy khác đi, không một nét bút nào mà phạm
đến, như hồi trên vừa tả Hà Đào, hồi này lại tiếp tả Hoàng An vậy. Thấy rằng một
phen trước đã khua sông động bể, đến phen này lại động bể khua sông, thực là một
dạng tài tình, một dạng thế bút, độc giả hãy nhận xét kỹ càng cho thấy, không một
câu một chữ giống nhau, điều đó có lạ gì đâu? Tác giả đã khéo xếp đặt tự trong
lòng, như vẽ ra hai cây trúc vậy. Thì cây trúc nào chẳng có cành, có lá có dóng
dốt như nhau, khi vẽ ra hai cây trúc đứng song đôi, rất giống nhau mà rất khác
nhau xa vậy.
Sách này đã một hồi tả Hà Đào chia làm hai phen, tả Hoàng An
chỉ một phen. Hà Đào hai phen tiền với hậu, Hoàng An một phen lại chia tả va øhữu.
Hà Đào hai phen Thủy chiến và Hỏa công. Hoàng An cũng hai phen vừa mô tả lại vừa
thực họa, nên nhiều điểm sai biệt, cũng là một hồ nước ấy, cũng là một bãi lau
này, cũng những tay hão hán ấy, cũng những đám binh quan này sự cách quãng đã
phân biệt, mà ý tứ chẳng như nhau thấy rằng đem ngàn vàng ra để cầu lấy một nét
bút phạm vào nhau, không thấy chút nào giống cả, văn tả đến thế mới thấy càng
diễn ra càng thấy ly kỳ.
Một đoạn văn Tống Giang với Bà Tích, ngòi bút của tác giả đặt
ra, để cho Tống Giang có chuyện, nên phải nảy ra một sự Tống Giang giết người,
vì muốn Tống Giang có sự giết người, thì phải thêm chuyện Bà Tích, vì có chuyện
Bà Tích duyên kiếp, thì phải sinh ra sự Vương Bà xin áo quan. Cho nên từ sau
khi Vương Bà xin áo quan, cách sau dăm tờ lại có chuyện Vương Ông xin áo quan,
chẳng qua đưa lại cho hồi sau Tống Giang bị phạm tội trốn đi, đó là chính là khế
tử, độc giả thấy lúc trước cho áo quan, đến sau lại cho áo quan, đầu thì Vương
Bà, cuối đến Vương Ông, thấy tác giả như vảy mực ra đùa, thêm ly kỳ câu chuyện.
Hồi 20:
Diêm Bà say đánh Đường Ngưu Nhị
Tống Giang giận chém Diêm Bà Tích
Bấy giờ Tống Giang thấy có tiếng người, liền đứng dừng chân lại,
thấy Diêm Bà chạy lật đật đến mà nói rằng:
- Mấy hôm nay tôi cho người mời không thấy Áp Ty đâu cả, con
bé nhà tôi nó ngu dại không biết gì, lỡ có điều xúc phạm đến Áp Ty, xin ngài
hãy nể lòng tôi mà bỏ qua đi cho, rồi tôi sẽ bắt nó nói lại với ngài. Hôm nay
được gặp đây, thể nào cũng xin đón về nhà một lúc.
Tống Giang nghe nói đáp rằng:
- Hôm nay trong huyện bận rộn lắm không thể nào về đó được,
xin để khi khác vậy.
- Không được, con bé cháu nó đợi ở nhà, thế nào cũng mời Áp
Ty chạy qua về một lát, sao Áp Ty lại nỡ lòng như thế?
- Tôi bận lắm thực, để ngày mai tôi về đó.
Diêm Bà nhất quyết rằng:
- Làm thế nào thì hôm nay cũng phải mời Áp Ty cho kỳ được.
Nói đoạn lại níu lấy áo Tống Giang mà rằng:
- Ai đã xúi Áp Ty thế? Con bé nhà tôi suốt một đời nó phải
trông cậy vào Áp Ty cả, Áp Ty nên phải tự mình chủ trương lấy, chứ nghe người
ta nói nhảm làm chi! Nếu nó có điều gì không phải, xin Áp Ty cứ chắc ở tôi đây
mới được. Thôi xin mời Áp Ty về qua đây một lúc.
Áp Ty đáp rằng:
- Bà không nên gàn trở tôi, tôi còn bận nhiều việc quan trọng
không thể dứt ra được!
- Việc quan thì dẫu Áp Ty có chậm trễ một đôi chút, quan Huyện
cũng chả trách nào, duy tôi hôm nay nếu để cho Áp Ty đi, thì khó lòng được gặp
nữa! Xin mời Áp Ty đi với tôi, về đó sẽ nói chuyện.
Tống Giang vốn là người nhanh nhẹn dễ dàng, nay bị Diêm Bà rầy
rà như thế, thì không thể nào từ chối được, liền bảo Diêm Bà rằng:
- Nếu vậy cứ buông áo ra để tôi đi.
Diêm Bà nói:
- Chỉ sợ Áp Ty không về đó, thì tôi biết đâu mà theo kịp?
- Có khi nào thế, tôi đã nói là đi chứ gì?
Nghe đoạn Diêm Bà buông áo Tống Giang ra, rồi cùng đi về. Khi
tới nhà Tống Giang đứng dừng ở ngoài. Diêm Bà đẩy cửa vào mà nói rằng:
- Áp Ty đã về tới đây, có lẽ lại không vào nhà hay sao?
Tống Giang nghe nói bất đắc dĩ bước lững thững đi vào trong
nhà, đến một chỗ ghế ngồi xuống đó. Diêm Bà sợ Tống Giang lại chạy trốn, liền
quay bên cạnh để ngồi, rồi gọi lên rằng:
- Con ơi! Người tâm ái của con là Tam Lang đã về đây.
Bấy giờ Bà Tích đương nằm ở giường trên gác, một mình nghĩ ngợi
vẩn vơ bên đôi ngọn đèn chong mà đợi Trương Tam đến. Chợt nghe tiếng mẹ gọi như
vậy, thì trong bụng đoán chắc Trương Tam ở đó, liền vội vàng ngồi dậy vuốt ve
đường tóc, rồi nói lảm nhảm rằng:
- Đồ chết toi, làm cho người ta đợi khổ! Bà lại cho mấy cái bạt
tai cho đáng kiếp!
Nàng vừa nói vừa đi tất tả xuống thang. Dè đâu đi đến chấn
song ngó cổ xuống nom thấy ngọn đèn pha lê chiếu sáng, Tống Giang đương cùng
Diêm Bà ngồi đó, nàng liền quay ngoắt trở lên, mà nằm vật xuống giường như cũ.
Bà Tích nằm trên giường nói với xuống rằng:
- Nhà nầy có xa gì mà người ta không lên đến đây? Người ta
cũng chẳng mù chột gì mà phải đợi tôi đón lên mới được? Cần chi phải khẩn khoản
như thế?
Diêm Bà nghe vậy mắng con rằng:
- Con ranh, nó không biết Áp Ty đến đây lại còn nói láo nói hỗn
ở đây, để Áp Ty lại thêm phiền lòng.
Nói xong lại cười bảo Tống Giang rằng:
- Tôi với Áp Ty ta cùng lên gác vậy.
Khi Tống Giang nghe thấy những lời Bà Tích nói, thì trong
lòng đã khó chịu rồi, không còn muốn lưu lại một chút nào, sau vì bà lão lôi
kéo, nên cũng phải miễn cưỡng mà cùng lên gác.
Cái nhà ấy nguyên có mấy gian gác lục lăng, ngăn nửa ngoài kê
làm chỗ ngồi chơi, còn nửa trong làm phòng ngủ, kê một bộ giường bình khung hai
đầu đều có chấn song, trên treo một bức màn là đỏ, cạnh đầu giường có cái mắc để
vắt khăn mặt, một bên để cái chậu thau một cái khăn bao, và một bên kê một cái
bàn con sơn vàng, trên để cây đèn bằng thiếc. Hai bên góc tường kê hai cái ghế,
trên vách trước mặt treo một bức tranh, đối diện giường kê bốn cái ghế ghép
hàng chữ nhất đều nhau.
Khi Tống Giang lên gác, Diêm Bà liền kéo vào trong phòng, rồi
Tống Giang ngồi vào một cái ghế ở góc nhà, mà quay mặt vào phía giường.
Diêm Bà lại vào giường dựng người con gái dậy mà bảo rằng:
- Áp Ty đã đến kia, con ơi! Sao tính nết con hư thế, cứ nói nọ
nói kia, để Áp Ty giận không về đến đây nữa! Lúc không thì lại ngồi nhà mà lo
nghĩ, bây giờ ta đã khó khăn mời được Áp Ty về đây, sao con không ngồi dậy nói
chuyện, lại còn giở những thói ấy làm chi?
Bà Tích cầm tay mẹ đẩy ra mà nói rằng:
- Bà làm gì mà phải rối lên, tôi có tội gì chưa? Người ta
không thèm về đến đây, thì bảo tôi nói chuyện làm sao?
Tống Giang nghe vậy cứ ngồi lặng yên.
Diêm Bà lại kéo cái ghế chéo kê liền cạnh Tống Giang, rồi kéo
con gái đến đó mà bảo rằng:
- Con hãy đến đây ngồi với Tam Lang một lúc vậy, không nói
chuyện thì thôi, không việc gì phải thế!
Bà Tích không chịu ngồi bên cạnh, liền đến một cái ghế đối diện
Tống Giang để ngồi, Tống Giang ngồi cúi đầu xuống, mà không nói năng gì cả.
Diêm Bà trông thấy người con gái bấy giờ, có vẻ khác nét mặt,
liền nói lên rằng:
- Không tửu không tương, sao thành đạo trường, lão có một
bình rượu ở kia, để lấy thêm một ít hoa quả ra đây, rồi sẽ nói chuyện với Áp
Ty, con cứ ngồi với Áp Ty một lúc, có việc gì mà thẹn, ta đến đây ngay bây giờ.
Tống Giang thấy vậy, thì nghĩ lẩm nhẩm một mình rằng:"Cái
con mụ già này thực là vô lý, đem nhốt ngay mình vào đây, mà không còn thoát ra
được nữa. Để con mụ ấy đi xuống gác, ta sẽ xuống sau mà đi quách cho rảnh".
Diêm Bà thấy Tống Giang có ý hơi khác, liền quay trở ra, rồi
cài trái cửa ngoài đi. Tống Giang thấy vậy, biết rằng Diêm Bà hiểu mình muốn
tháo, nên mới phòng bị như thế, thì lại lấy làm băn khoăn khó chịu.
Khi bấy giờ Diêm Bà xuống dưới gác, vào trong bếp thắp đèn
lên, thấy có nồi nước đã bắc sẵn đó, liền dóm củi lên đun, rồi lấy một ít tiền
lẻ chạy tháo ra ngoài phố mua một vài thứ hoa quả cùng là thịt gà, cá tươi đem
về bày vào mâm tử tế, rồi lấy rượu để vào nồi hâm nóng rót vào hồ, bày thêm các
thứ rau và ba đôi đũa, ba cái chén vào mâm, mà bưng lên gác dặt ở ngoài phòng.
Đoạn rồi mở cửa đem vào phòng trong, bày la liệt trên cái bàn sơn. Khi ấy trông
đến Tống Giang thì vẫn cúi đầu xuống mà lặng yên, còn Bà Tích thí lại quay đi
nơi khác. Diêm Bà liền nói rằng:
- Con đứng dậy ra đây, mời chén rượu đi con.
Bà Tích đáp rằng:
- Các ngươi cứ uống đi tôi không phiền thế.
Diêm Bà lại khuyên rằng:
- Cha mẹ đã biết tính con thủa bé rồi, nhưng đối với ai, chứ
với Tam Lang thì con không nên như thế mới được.
Bà Tích lại đáp luôn rằng:
- Tôi không muốn mời rượu, thì không mời rượu, chẳng lẽ phi
kiếm lấy đầu tôi hay sao?
Diêm Bà cười rằng:
- Đành thế, ta lại cũng không trách, nhưng Áp Ty là người
phong lưu nhân vật, không có bụng gì bao giờ. Con không mời rượu thì thôi, hãy
cứ quay lại uống vài chén vậy.
Bà Tích cứ lặng yên không quay mặt trở lại, Diêm Bà rót rượu
ra rồi cầm chén đũa mời. Tống Giang bất đắc dĩ phải uống một chén gượng gạo.
Diêm Bà cười mà nói với Tống Giang rằng:
- Áp Ty đừng nên trách, những chuyện lôi thôi rắc rối, để mai
xin kể rõ Áp Ty nghe, người ngoài họ thấy Áp Ty ở đây cho nên có vài kẻ nóng
lòng sốt ruột, đặt điều ra giọng nọ kia, xin Áp Ty chớ để vào tai, Áp Ty hãy cứ
uống rượu đi cho.
Nói xong lại rót ba chén rượu nữa, để lên trên bàn rồi bảo với
con gái rằng:
- Sao con tính khí trẻ con thế? Hãy quay lại đây uống qua loa
một chén đã sao?
Bà Tích nói:
- Việc gì cứ rầy rà đến tôi, tôi no rồi, không thể nào uống
rượu được nữa...
Diêm Bà khuyên rằng:
- Con quay lại tiếp Tam Lang vài chén có được không?
Bà Tích nghe nói liền nghĩ thầm trong bụng rằng:
- "Ta đây còn bận nhớ Trương Tam, ai hơi đâu mà tiếp rượu
với hắn được. Nhưng nếu không đổ cho hắn say, thì tất là họ còn nhiễu mãi, âu
là ta miễn cưỡng cho êm câu chuyện đi là xong". Nghĩ đoạn bất đắc dĩ cầm lấy
chén rượu uống một nửa.
Diêm Bà thấy vậy cười rằng:
- Con cứ buồn bã mãi, hãy cứ chén tràn đi vài chén, sẽ ngủ có
được không? Áp Ty ngồi xơi luôn đi cho vui?
Tống Giang bị Diêm Bà mời chào khan vãn, lại phải uống luôn
dăm ba chén nữa. Diêm Bà cũng uống mấy chén rồi lại chạy xuống dưới nhà để hâm
rượu. Bây giờ Diêm Bà thấy con gái đã quay lại tiếp rượu với Tống Giang, thì
trong bụng lấy làm hớn hở mà nói một mình rằng:
- "Nếu đêm nay giữ được lão ấy ở đây, thì tất là hắn
quên cả những điều giận dữ, bấy giờ ta lại bám vào hắn một dạo đã, rồi lại liệu
về sau". Mụ vừa nghĩ vừa lấy làm thích, liền đứng ở trước bếp rót ngay ba
chén lớn mà uống luôn mấy hớp.
Khi đó nghe trong mình đã phảng phất có hơi rượu, liền rót
luôn một chén nữa để uống hết một nữa, còn một nửa lại đổ cho vào bình, mà mang
lên gác. Khi lên tới gác, thấy Tống Giang lại cúi đầu ngồi yên, mà con gái lại
quay mắt đi nơi khác. Diêm Bà liền cười mà bảo rằng:
- Làm sao mà hai người như bụi đất cả, không ai nói năng gì
thế? Áp Ty ơi! Mình là người đàn ông, cũng phải nói dăm ba câu chuyện cho khuây
khỏa dần dần đi mới được...
Tống Giang đương phân vân trong bụng, thấy Diêm Bà nói, thì
cũng lặng yên, không nói sao cả, Diêm Bà nghĩ thầm trong bụng rằng:
- Anh chàng nầy không biết gì cả, cứ cho như mọi ngày mình
nói chuyện đùa vậy. Hôm nay ta có phải là chuyện đùa đâu?
Bụng nghĩ vậy, liền nói ngang nói dọc, nói ngược nói xuôi,
không còn thiếu câu gì.
Ở huyện Vận Thành có một anh bán hàng những đồ ướp là Đường
Ngưu Nhị, vẫn thường gọi là Đường Nhị Ca, xưa nay hay quanh quẩn ở phố xá, mà
thỉnh thoảng được Tống Giang cấp đỡ giúp cho. Đôi khi có việc quan việc tư gì
đi báo Tống Giang, thì lại kiếm được một vài quan tiền để tiêu. Mỗi khi Tống
Giang có sai việc gì, thì cố sống cố chết để làm, không hề nề quản. Hôm ấy Đường
Ngưu Nhị đương bị thua bạc trần trụi, không biết xoay sở vào đâu, liền chạy đến
huyện tìm Tống Giang để cầu cứu.
Bất đồ đi tới huyện, thì không thấy Tống Giang đâu, liền vội
vàng quay ra phố để đi tìm. Khi ra phố mọi người quen biết đều hỏi rằng:
- Đường Nhị Ca đi tìm ai mà chạy vội vàng như thế?
Đường Ngưu Nhị nói:
- Tôi đương có việc cần cấp, phải đi tìm cô lão nhưng không
thấy đâu cả.
- Cô lão là ai?
- Ấy là ông Tống Áp Ty ở huyện nầy chứ ai?
Chúng liền bảo Đường Ngưu Nhị rằng:
- Chúng tôi vừa thấy ông ta cùng Diêm Bà mới đi qua đây xong.
Đường Ngưu Nhị nghe nói, trong bụng nghĩ thầm rằng:
- "Phải rồi, con thối thây Bà Tích này, nó vẫn tư thông
với Trương Tam, dấu diếm không cho Tống Áp Ty biết, tiếng như vậy, cho nên lâu
nay không về tới đó, thế mà hôm nay sao còn lần mò đến làm chi. Cái nầy chắc là
bị con sọm già vờ vĩnh bám lấy thôi chứ gì? Hôm nay ta đương quẫn bách, bất nhược
đến đấy tảo mấy quan tiền, đi chén vài chén rượu chơi". Nghĩ đoạn đi đến
thẳng nhà Diêm Bà thấy bên trong vẫn còn đèn sáng mà cửa lại không đóng, liền lật
đật chạy vào đến thang giá. Khi đến chân thang đã nghe thấy tiếng Diêm Bà đương
cười ha hả trên gác, chàng ta liền lẻn bước đi lên ghé vào khe gác dòm thấy Tống
Giang cùng Bà Tích đều cúi đầu ngồi im, còn Diêm Bà thì đương ngồi cái ghế ở đầu
bàn mà miệng nói thiên hô bát sát không dứt lúc nào. Đường Ngưu Nhị biết vậy, lẻn
tót vào cúi chào ba người, rồi đứng vào một bên. Tống Giang thấy hắn đến lấy
làm dễ chịu, liền liếc mắt bảo cho Đường Ngưu Nhị biết ý, để thoái thoát mời
đi. Đường Ngưu Nhị vốn tay ranh vặt, thấy vậy thì hiểu ý ngay, liền nói với Tống
Giang rằng:
- Tôi đi tìm ngài mãi không thấy, ngờ đâu ngài ngồi uống rượu
ở đây, ngài có thấy sốt ruột gì không?
Tống Giang hỏi:
- Chẳng hay trong huyện có việc gì cần đấy?
Đường Ngưu Nhị nói:
- Áp Ty quên rồi hay sao? Cái việc lúc nãy, quan Huyện hiện
đương cho bốn năm người lính đi tìm ngài mãi, nhưng mà không thấy ở đâu cả.
Quan Huyện đương gắt ầm lên đấy, Áp Ty phải đứng dậy đi ngay mới được.
Tống Giang làm bộ hoảng hốt mà rằng:
- Nếu cần vậy, thì ta phải đi ngay mới được.
Nói đoạn đứng dậy toan đi xuống gác, Diêm Bà nắm giữ lại mà rằng:
- Áp Ty không nên thế... Gớm thực! Đường Ngưu Nhị, ngươi lại
đến đây lòe lão à? Đừng múa rìu qua mắt thợ thế nữa? Bây giờ quan Huyện còn ở
trong nhà uống rượu vui đùa với vợ con, chứ công việc nào bây giờ. Ngươi nói với
ai chứ, với ta đây thì không khi nào ta mắc lừa đâu?
Đường Ngưu Nhị nói:
- Có việc cần, quan Huyện đòi thực, chứ tôi đây nói dối làm
gì?
- Thôi đừng láo, hai mắt lão nương đây gọi là sáng suốt hơn
pha lê đấy, vừa rồi Áp Ty đưa mắt bảo ngươi, ta lại không biết hay sao? Người
ta thường nói:"Giết người còn tha được, chứ gian ý thì dung sao được?
".
Nói xong đứng dậy đẩy Ngưu Nhị huỳnh huỵch xuống thang gác.
Đường Ngưu Nhị cáu lên mà rằng:
- Làm gì mà phải đẩy người ta thế?
Diêm Bà lại quát lên rằng:
- Mầy phá đường lối kiếm ăn của ta, thì có khác gì giết bố mẹ
vợ con người ta không? Lại còn to mồm gì, hở thằng nhãi con kia! Bà đánh một chập
bây giờ.
Đường Ngưu Nhị sấn vào mà rằng:
- Đây bà đánh đi.
Diêm Bà lại đương lúc chếch choáng hơi men, liền giơ tay tát
cho Đường Ngưu Nhị một cái, rồi đẩy mạnh ra ngòai cửa, đóng chặt cửa lại mà miệng
thì mắng nhiếc lảm nhảm không thôi.
- Con khỉ già mầy liệu hồn, hôm nay không có Áp Ty ở đây, thì
gọi là tan nát cửa nhà với ta. Không nay thì mai, nếu ta không kết quả được mầy,
thì ta không là thằng họ Đường nữa!
Chàng ta hăm hở vỗ bụng vỗ tay nói chán một lúc rồi đi.
Bấy giờ Diêm Bà lên gác bảo với Tống Giang rằng:
- Áp Ty ôi! Rõ là vô sự, thì dung túng những đứa ấy làm chi?
Nó là một thằng chè rượu loang toàng, đi đến đâu là nói quàng nói xiên, ai còn
không biết. Những đồ qủy sống ấy, thì cho nó đến cửa đến nhà làm gì cho thêm bận!
Tống Giang vốn là người chân thực xưa nay, cho nên thấy mụ
nói trúng vào bệnh của mình, thì ngồi ngây người ra, mà không nói được câu nào
nữa.
Diêm Bà lại nói rằng:
- Xin Áp Ty đừng trách tôi, tôi có trọng Áp Ty thì mới thế.
Đã lâu con gái tôi với Áp Ty không gặp nhau, hôm nay uống rượu xong chắc lá phải
đi nghỉ sớm mới được. Để tôi dọn dẹp đi thôi.
Nói xong mời Tống Giang uống thêm mấy chén rượu nữa, rồi vội
vàng thu dọn mà đi xuống bếp. Tống Giang ngồi trên gác nghĩ chuyện Bà Tích đối
với Trương Tam, dẫu có tiếng đồn như vậy, nhưng mắt mình chưa nom thấy, cũng
không chắc rằng có thực hay không? Vả chăng đêm cũng hơi khuya, đi đâu cũng
không tiện, chàng liền định kế nằm tạm ở đó, để xem người đàn bà kia xử trí ra
sao? Chợt đâu lại thấy Diêm Bà ở dưới nhà chạy lên mà nói rằng:
- Đêm đã khuya rồi, hai người đi nghỉ đi kẻo muộn.
Bà Tích thấy mẹ nói, liền ứng lên rằng:
- Không việc gì đến bà, bà cứ đi ngủ.
Diêm Bà lại cười khanh khách, vừa bước chân xuống vừa nói rằng:
- Áp Ty đi xuống bếp, dọn xong rồi rửa chân rửa tay, mà tắt
đèn đi ngủ.
Bấy giờ Tống Giang ngồi ở trên gác, liếc mắt trông Bà Tích rồi
lại thở dài, mà không nói gì cả. Được một lát, Bà Tích để nguyên quần áo trèo
lên giường tựa vào gối thêu, rồi quay mặt vào trong vách mà ngủ.
Tống Giang thấy vậy nghĩ thầm rằng:"Con bé này lạ thực,
nó bỏ mình đây rồi vào ngủ trước là nghĩa lý gì? Hôm nay mình bị con mụ già dắt
về đây, bắt uống rượu uống chè, rồi lại nói ngon nói ngọt, làm cho mình thêm
khó nghĩ trong lòng. Thôi bây giờ đêm đã khuya rồi, cũng đành phải đi ngủ vậy
chứ, còn biết sao giờ? ".
Chàng nghĩ vậy liền bỏ khăn lên bàn, cởi xiêm áo ngoài vắt
lên trên giá, treo thắt lưng, dao túi cùng văn thư lên chỗ chắn song ở trên giường,
rồi cởi bỏ giầy ra nằm ở phía sau Bà Tích.
Nằm một lát vào khoảng nửa canh hai, Bà Tích vẫn nằm quay mặt
mà còn cười nhạt một mình, Tống Giang thấy vậy, trong lòng càng buồn bực khó chịu
không sao ngủ được.
Đêm vui nào được bao lâu
Đêm buồn mong trước mong sau càng dài.
Lạ cho là giống trên đời,
Xưa nay gươm phấn giết người bao phen!
Tống Giang nằm nghĩ vơ vẩn dần dần sang trống canh ba, hồi
lâu lại sang trống canh tư, lại cho sang đến canh năm, mà cũng không sao nhắm mắt
cho yên. Chàng bèn trở dậy đến thau nước rửa mặt, đội khăn mặc áo chỉnh tề, rồi
lẩm bẩm mắng rằng:
- Giống hèn hạ, nó vô lễ thực!
Bấy giờ Bà Tích cũng còn thức, nghe thấy tiếng Tống Giang mắng,
thì quay mặt ra mà nói rằng:
- Người thế mà không biết dơ...
Tống Giang nghe nói, thì trong lòng càng lấy làm khó chịu,
đành phải nín lặng quay ra đi xuống thang gác.
Diêm Bà nghe thấy tiếng người ở trên gác đi xuống, thì vội
vàng trở dậy mà nói rằng:
- Áp Ty hãy ngủ một lúc nữa, trời sáng sẽ dậy có được không,
có việc gì mà phải dậy từ canh năm như vậy?
Tống Giang nghe hỏi, cứ lặng yên mở cửa ra đi.
Diêm Bà lại nói luôn rằng:
- Áp Ty đi rồi, khép cửa lại cho tôi nhé!
Tống Giang lại lùi lũi đi ra và khép vào tử tế, rồi trong bụng
vừa tức bực buồn cười, lững thững bước ra đi.
Khi gần tới cửa huyện thấy có một ngọn đèn con lấp ló ở đó, Tống
Giang liền dấn bước đến nơi, thì thấy lão Vương Công là anh hàng thang đã ra chợ
sớm ở trước cửa huyện để bán. Lão ta trông thấy Tống Giang đi đến liền hỏi ngay
rằng:
- Áp Ty đi đâu mà sớm thế?
- Đêm qua say rượu nghe lầm tiếng trống canh dậy sớm quá.
- Nếu vậy Áp Ty uống nhiều rượu quá, xin ngài xơi một bát
thang nhị trần cho giải rượu.
- Tốt lắm, đem đây tôi ăn một bát.
Tống Giang nói xong chạy đến ghế để ngồi, Vương Công múc một
bát thang nhị trần, đương nóng nghi ngút đưa lên cho Tống Giang.
Tống Giang ăn xong chợt nhớ đến:"Mọi khi thỉnh thoảng vẫn
ăn thang của lão này, lão ta không chịu lấy tiền. Bởi thế ta có hứa cho lão cỗ
áo quan, mà vẫn chưa cho được. Nay nhân tiện có món tiền của Tiều Cái đưa cho
đây, âu là đãi hắn ta một số tiền mua quan tài, thì chắc là lão ta thú lắm!".
Nghĩ đoạn liền bảo Vương Công rằng:
- Mọi hôm tôi vẫn hứa cho lão cỗ quan tài mà chưa cho được,
nay nhân có tiền đây, tôi đưa cho lão, để lão ra nhà Trần Tam Lang mua lấy một
cỗ áo quan; đem về để sẵn ở nhà, phòng khi trăm tuổi về sau, đỡ phải lo phiền
việc ấy nữa.
Vương Công nói:
- Ân chủ ngài vẫn có lòng giúp đỡ cho lão tôi nhiều, nay lại
cho tiền để lo hậu sự như thế, kiếp này lão tôi không báo đáp được, thì kiếp
sau xin làm thân trâu ngựa để đền ơn.
Tống Giang cười rằng:
- Có làm chi cái đó, mà phải nói ơn.
Nói đoạn sờ tay vào trong áo để lấy túi giấy và tiền, thì bỗng
kinh ngạc mà nghĩ thầm rằng:"Khổ chưa! Túi văn thư lại bỏ quên ở giường
con khỉ ấy rồi, mình vội nóng đứng dậy, đi không nhớ đến.. Mấy lạng vàng thì chẳng
làm chi, nhưng còn bức thư của Tiều Cái, đã định đốt ngay trước mặt Lưu Đường ở
trong hàng rượu nhưng nghĩ thế không tiện nên hãy tạm để vào đấy, rồi sẽ đốt
sau. Ai ngờ lại bị con mụ già nó bắt mình lôi thôi đến đó, con ranh nó lại võ vẽ
biết năm ba chữ, ngộ lỡ nó xem ra thì có nguy không? ". Chàng nghĩ vậy liền
đứng dậy bảo Vương Công rằng:
- Ông lão ơi! Tôi quên mất rồi, vẫn tưởng tiền để trong túi
đây, sai ngờ bỏ quên mất ở nhà rồi. Lão hãy yên tâm, để tôi về lấy, rồi sẽ đem
ra đây cho lão ngay lập tức. Vương Công cười đáp rằng:
- Thôi, Áp Ty cần gì phải lấy, để hôm nào Áp Ty cho tôi cũng
được chứ sao?
Tống Giang nói rằng:
- Tôi còn có việc cần ở đây cũng không nên, phải về lấy ngay
mới được.
Nói xong lật dật chạy về nhà Bà Tích, Bà Tích từ lúc Tống
Giang đi ra cửa rồi, liền ngồi dậy nói lảm nhảm một mình rằng:"Lão quái!
Làm cho bà suốt đêm không ngủ được, cái mặt ấy lại toan bắt bà phải làm lành,
nhưng phải biết rằng bây giờ bà có Trương Tam rồi, bà còn hơi đâu mà tiếp đến
người ấy nữa. Từ nay trở đi không về đến đây, lại càng hay lắm!". Nàng vừa
nói vừa giở chăn ra, rồi cởi áo trên, rút quần ngoài, mà toan đi ngủ lại. Chợt
đâu trông thấy bên chắn song ở cuối giường thấy có một cái thắt lưng da lụa đỏ
vắt ở đấy, nà liền cười mà nói rằng:
- "Thằng cu Hắc Tam Lang này đáng kiếp, còn bỏ quên cái thắt
lung đây, bà hãy cất lấy, để cho Trương Tam thắt đã".
Nói đoạn giơ tay vớ lấy thắt lưng, và cả con dao túi treo ở
trên đo, để xem. Khi cầm thấy hơi nặng liền giũ ra xem thì thấy trong ấy có một
cái túi giấy, lại có một thỏi vàng ở đó. Nàng cầm lấy soi lên đèn, quả nhiên là
vàng thực, liền cười ha hả mà rằng:
- Đây là trời cho ta và Trương Tam đây, may quá, mấy hôm nay
Trương Tam đương không có gì, xem hôm nay có thú không?
Nói rồi liền bỏ vàng lên bàn, mà mở bức thư ra xem. Trên đầu
thư thấy viết hai chữ Tiều Cái, rồi xuống dưới có những việc quan hệ rắc rối
cũng nhiều. Nàng xem xong lắc đầu mà nói rằng:
- Xưa nay ta vẫn cho là thùng rơi xuống giếng, ai ngờ ngày
nay giếng cũng rơi vào thùng, ta đương muốn cùng với Trương Tam kết làm phu phụ,
chỉ tại vì có mầy ngăn trở hóa không xong, phen này có lẽ khó lòng mà tránh khỏi
tay ta được! Nguyên mày thông đồng với tụi cướp Lương Sơn, cho nên nó mới đưa
trăm lạng vàng đến để biếu đây... Được rồi, để bà tiêu khiển cho mày một dạo.
Hãy xem phong thư và tiền nong để cả túi này, mày có tài thánh cũng không đến
đây mà lấy lại được nữa!
Gớm cho cái nọc nữ nhi
Thế gian còn có giống gì độc hơn?
Trách nào những kẻ non gan
Mấy phen nước mất nhà tan vì tình!
Đương khi Bà Tích đắc sách một mình, thì bỗng nghe dưới nhà
có tiếng kẹt cửa, rồi có tiếng người trong giường hỏi lên rằng:
- Ai đấy?
Người ngoài cửa đáp:
- Tôi đây.
Người trên giường lại nói:
- Tôi đã bảo còn sớm, Áp Ty không nghe bây giờ quả nhiên lại
phải trở về đó. Thôi hãy lên nghỉ với... một lúc rồi sáng ngày sẽ đi.
Người ấy nói dứt lời, thì đã có tiếng giầy bước lên trên gác.
Bà Tích nghe đích xác là tiếng Tống Giang đã đến, vội vàng cuốn dây lưng túi giấy
và dao vào một cuộn, rồi đút xuống dưới chân mà nằm quay vào vách vờ làm mặt ngủ.
Tống Giang lên đến nơi, xông vào chỗ chắn song, không thấy thắt
lưng đâu, trong bụng đã bồn chồn kinh sợ, đành phải nén lòng giận mà lấy tay
lay người đàn bà dậy, rồi nói rằng:
- Nàng ơi! Nàng trả lại túi giấy cho tôi.
Bà Tích nghe tiếng, giả vờ là ngủ không trả lời.
Tống Giang gượng cười mà nói rằng:
- Nàng đừng giận tôi, mai tôi sẽ nói lại với nàng.
Bấy giờ Bà Tích sẽ nói lẩm bẩm rằng:
- Bà đương ngủ, mà ai lại đến quấy nhiễu thế?
- Nàng đã biết là tôi rồi, lại còn giả cách làm chi thế?
Bà Tích trở mình ra phía ngoài mà nói rằng:
- Hắc Tam Lang, chàng nói gì đó?
Tống Giang nói:
- Nàng trả lại cho tôi cái túi giấy?
- Chàng đưa vào tay tôi từ lúc nào mà lại hỏi đến tôi?
- Tôi bỏ quên ở chắn song gần giường đây, chắc chỉ có nàng bắt
được, chứ còn ai đến đây mà lấy?
- Nói lạ! Chàng nói chuyện ma qủy gì chắc?
- Đêm qua tôi có điều gì không phải, để sáng mai tôi xin nói
lại...nàng trả cho tôi, đừng nên đùa thế?
- Tôi đùa với chàng làm gì? Tôi không bắt được, thì trả làm
sao?
Lúc nãy nàng vẫn mặc nguyên quần áo, bây giờ đã cởi cả ra, lại
đắp chăn ngủ, thì tất là nàng bắt được của tôi.
Bà Tích trợn ngay mắt mà rằng:
- Bà lấy thực đấy, nhưng mà bà không trả, tha hồ cho đi đến
phủ huyện nào mà kêu là ăn cướp thì kêu.
Gian dâm đanh ác giết người không dao.
Ở đời nhắn bạn mày râu,
Trông gương tày liếp liệu sau mà chừa!
Tuồng chi chăn chiếu thập thò,
Anh hùng tan nát cơ đồ nữa sao?
Bấy giờ Tống Giang thấy Bà Tích nói vậy, cũng còn đấu dịu mà
rằng:
- Khi nào tôi lại dám bảo nàng ăn cướp.
Bà Tích làm già lên rằng:
- Phải biết bà đây không phải cướp đâu?
Tống Giang nghe vậy càng lấy làm nóng ruột, đành phải đấu dịu
cho xong, liền nói rằng:
- Xưa nay tôi có điều gì không phải với mẹ con nàng, thì xin
nàng trả lại cho tôi, tôi còn phải đi có việc bấy giờ.
- Mọi khi vẫn hằm hằm cho là bà đi lại với Trương Tam, dẫu có
điều gì cũng chưa đến phạm tử tội, như thằng thông đồng với bọn cướp kia...
- Chết nỗi, nàng chớ nên nói to, lỡ hàng xóm nghe thấy thì
nguy lắm.
- Đã sợ người ngoài nghe tiếng, sao còn làm thế được? Cái
phong thư thế nào bà cũng giữ chặt lấy, bao giờ nghe bà ba điều, thì mới buông
tha cho.
Tống Giang nói:
- Cứ gì ba điều, dẫu đến mười điều tôi cũng nghe theo cả.
Bà Tích nói:
- Chỉ sợ không theo được thôi.
- Làm được thì tôi theo ngay, hãy cứ nói tôi nghe xem những
điều gì?
- Điều thứ nhất: Từ hôm nay phải đem tờ văn tự mua tôi dạo
trước, trả lại cho tôi; mà viết thư cho tôi cải giá với Trương Tam, không được
lôi thôi gì đến nữa.
- Được rồi.
- Điều thứ hai: Các đồ tôi gài giắt trên đầu, đồ tôi mặc ở
mình, cùng các thứ khí dụng trong nhà, phải viết một bức thư trao cho tôi, từ
nay trở đi không được đến lấy vào đấy.
- Được lắm.
- Còn điều thứ ba: Thì khí khó, chỉ sợ không theo được thôi.
- Có khi nào, hai điều kia còn nghe được, nữa là còn một điều
nữa?
- Vậy thì cái món tiền một trăm lạng vàng của Tiều Cái ở
Lương Sơn Bạc đưa đến đây, phải giao cho tôi, rồi tôi sẽ trả lại cho cái túi giấy,
và tha cho cái tội tày trời ấy, Tống Giang ngẩn người ra mà rằng:
- Các điều trên, tôi xin theo cả, duy còn một trăm lạng vàng ấy,
thì tôi không nhận của họ, nếu có thì tôi xin đưa nàng ngay lập tức bây giờ, chứ
không khi nào dám tiếc.
Bà Tích lắc đầu mà rằng:
- Phải biết rằng:"Quan thấy tiền như ruồi thấy
máu". Không lẽ nào nó đưa tiền cho người ấy, mà không nhận bao giờ? Anh đừng
nói những câu buồn cười như thế? Mèo nào là mèo không biết ăn mỡ, của vua Diêm
Vương bao giờ có tha quỷ về không? Muốn tốt thì đưa trăm lạng vàng ấy đây mới
được; nếu có sợ tang chứng trộm cướp, thì cứ đưa ngay đây.
Tống Giang cố cầm lòng mà đáp rằng:
- Nàng phải biết tôi đây là một người rất thực, không khi nào
lại nói dối ai, nếu nàng không tin, thì tôi hạn cho xin ba ngày, để tôi về bán
đồ đạc nhà cửa lấy trăm lạng vàng đưa đến cho nàng, bây giờ nàng hãy cho tôi
xin cái túi ấy đã.
Bà Tích cười nhạt đáp rằng:
- Anh Hắc Tam Lang buồn cười thực, anh lừa tôi như lừa đứa trẻ
con vậy. Bây giờ tôi đưa giấy cho anh, rồi ba hôm nữa mới đến anh để hỏi tiền,
thì có khác gì bắt chạch đằng đuôi không? Tôi cứ là tiền trao cháo múc, bác cứ
đem đến đủ tiền đây, là tôi đưa ngay.
- Hiện bây giờ tôi không có đồng nào.
- Vậy thì sáng mai vào chỗ công đường, cũng nói là không có
tiền có được không?
Tống Giang nghe đến hai chữ công đường, thì máu nóng đầy lên,
không thể nào nhịn được, liền trợn mắt lên hỏi người đàn bà rằng:
- Mầy có trả lại ta hay không?
Bà Tích đáp rằng:
- Hung tợn thì làm gì ai, bà không trả có được không?
- Thực không trả phải không?
- Không trả...ta truyền cho một trăm tiếng không trả nữa đấy.
Nếu mà trả thì cứ đến huyện Vận Thành mà lấy.
Chước đâu nham hiểm lạ đời
Thoạt nghe ai cũng rụng rời chân tay!
Mấy người nam tử xưa nay,
Trông gương trước đấy phỏng tày liếp chưa?
Tống Giang nghe nói, liền giằng chăn ra để tìm. Bà Tích ôm chặt
lấy vào trong bụng để giữ. Tống Giang hết sức kéo một cái thực mạnh, thì thấy
cuộn thắt lưng lòi ra ở đấy, chàng liền vội thò tay cướp lấy. Bà Tích cứ giữ
khăng khăng. Tống Giang giằng mãi không thể nào lấy ngay ra được. Sau khi hai
người giằng co mãi, thì con dao túi ở trong bọc, bỗng rơi ra ngoài. Tống Giang
liền vơ lấy dao cầm lăm lăm ở tay, Bà Tích thấy vậy kêu lên rằng:
- Hắc Tam Lang giết người hay sao?
Tống Giang nghe tiếng kêu khi ấy, thì trong lòng bừng bừng tức
giận nghĩ ngay ra cách trừ đi mới xong. Khi ấy Bà Tích định kêu lên tiếng nữa,
thì tay tả Tống Giang đã nắm chặt lấy Bà Tích, rồi tay hữu giơ dao cho một nhát
vào giữa thái dương phọt máu tươi ra như suối chảy.
Mới hay:
Anh hùng khi đã ra tay,
Trời kia cũng chuyển đất này cũng tan.
Huống chi một gái dâm ngoan,
Ngựa dày voi xé dễ còn ai thương!
Bây giờ giống lưỡi không xương,
Phỏng còn ngoắt ngoéo trăm đường nữa chăng?
Tống Giang đâm Bà Tích một nhát, sợ rằng chưa chết hẳn, liền
cầm dao tặng luôn mấy nhát nữa lăn cổ xuống dưới gối, rồi vội vàng vớ lấy túi
giấy, mở phong thư châm đèn đốt, rồi thắt lưng lên tử tế mà đi xuống gác. Diêm
Bà nằm ở dưới nhà, lúc nghe tiếng con gái kêu:"Hắc Tam Lang giết người".
Thì trong bụng không hiểu ra làm sao, bèn vội vàng nhảy bổ, mặc xống áo rồi đi
xộc lên gác.
Vừa hay mới hết thang gác, thì chạm ngay phải Tống Giang đi
xuống, Diêm Bà liền hỏi rằng:
- Hai người làm gì ở trên ấy mà ầm ầm lên thế?
Tống Giang nói:
- Con gái bà nó vô lễ quá, bị tôi giết đi rồi.
Diêm Bà cười rằng:
- Nói làm gì thế, có lẽ Áp Ty thấy trái mắt, hay là uống rượu
say sưa mà thích giết người như thế hẳn? Thôi đừng nói đùa lão nữa!
- Bà không tin cứ lên buồng mà xem, tôi giết thực rồi đó.
Diêm Bà nói:
- Tôi không tin chút nào.
Nói xong đẩy cửa buồng vào xem, thì máu chảy lênh láng khắp
buồng, mà xác con gái đã nằm chết vật ra đó.
Diêm Bà kêu lên rằng:
- Khổ quá! Bây giờ làm thế nào?
Tống Giang nói:
- Tôi đây là tay hảo hán, không bao giờ lại chịu chạy trốn, vậy
bà muốn sao tùy ý.
Diêm Bà điềm nhiên bảo Tống Giang rằng:
- Con bé này nó không ra gì, Áp Ty giết cũng không lầm, duy
có một điều là thân tôi già yếu, không ai nuôi nấng cho đây?
Tống Giang đáp:
- Cái đó không cần gì, cứ như lời bà nói, thì bà không phải
lo. Nhà tôi cũng không đến nỗi túng, tôi xin nuôi được bà no ấm suốt đời thì
thôi.
- Nếu thế hay lắm! Cám ơn Áp Ty...Còn sự con bé chết đây, thì
tống táng làm sao?
- Việc ấy dễ lắm, chỉ ra nhà Trần Tam Lang mua một cỗ quan về
đây là xong rồi, còn các đồ khâm liệm và chi phí, thì tôi sẽ đưa mấy lạng bạc
cho bà lo liệu.
- Hay là bây giờ nhân lúc chưa sáng, ta nên đi mua áo quan
đem về chôn ngay, thì hàng xóm không ai biết được.
- Được lắm, bà đem giấy bút đây, tôi viết mấy chữ cho bà đi lấy
áo quan.
- Không nên viết giấy, bây giờ Áp Ty đi với tôi thì họ mới
giao ngay cho.
Tống Giang khen phải, rồi hai người cùng đi xuống gác. Diêm
Bà mang khóa ra khóa trái cửa lại, rồi hai người cùng đi về lối trước cửa huyện,
để ra nhà Trần Tam Lang.
Khi gần đến phía tả cửa huyện thì trời mới sáng, mà cửa huyện
vừa mới mở xong, Diêm Bà liền túm lấy Tống Giang, rồi giở mặt mà kêu ầm ĩ lên rằng:
- Có kẻ giết người ở đây...
Tống Giang ngạc nhiên kinh hoảng, vội giơ tay bịt mồm Diêm Bà
lại, song mụ ta cứ lăn lóc kêu hoài, không ai giữ nổi. Bấy giờ có mấy người
trong huyện chạy ra, trông thấy Tống Giang, thì túm đến, khuyên mụ kia rằng:
- Mụ im mồm đi, Áp Ty không phải là người thế đâu? Có việc gì
cứ nói tử tế.
Diêm Bà lại kêu rằng:
- Chính nó là thằng hung thủ, nhờ các ông bắt nó mà giải vào
huyện cho tôi.
Tống Giang vốn xưa nay là người rất tốt trên dưới ai cũng
kính yêu, bởi thế nên bọn lính tráng không hề anh nào tin lời mụ Diêm Bà nói,
mà cũng không anh nào động đến Tống Giang.
Đương khi mụ kêu gào ầm ĩ, thì Đường Ngưu Nhị rửa một mâm gừng
muối ở đâu đi về đó. Đường Ngưu Nhị thấy Diêm Bà đương níu lấy áo Tống Giang,
thì chợt nhớ tới câu chuyện tối hôm qua, thì trong lòng nổi giận đùng đùng, liền
vội vàng đem mâm gừng để vào cái ghế của anh hàng bán thuốc, rồi hăm hở chạy ra
quát lên rằng:
- Con khỉ già kia, làm gì mà níu áo Áp Ty như thế?
Mụ kia vừa kêu vừa nói rằng:
- Đường Ngưu Nhị, mày đừng đến đây mà đánh tháo cho người, mầy
phải đền mạng.
Đường Ngưu Nhị nghe nói cả giận, chạy thốc vào cầm lấy tay mụ
kia dằng hẳn ra, rồi tát lấy tát để làm cho mụ kia không biết lối nào mà mở mắt,
đành phải buông Tống Giang ra. Tống Giang được thoát tay Diêm Bà, liền thừa lúc
náo nhiệt cất lẻn chạy ngay để tháo thân.
Diêm Bà luống cuống, không biết làm thế nào, lại túm ngay lấy
Đường Ngưu Nhị mà kêu lên rằng:
- Tống Áp Ty giết con gái tao, bây giờ mầy lại đây, mầy đánh
tháo ra rồi, trời ơi!
Đường Ngưu Nhị kinh ngạc nói rằng:
- Nào rằng: biết đâu đến chuyện ấy.
Diêm Bà lại kêu:
- Nhờ các ông bắt hộ tôi thằng giặc con này, không có thì rầy
rà đến cả bây giờ?
Khi đó bọn lính thấy Tống Giang không còn ở đó, liền bảo nhau
chạy đến, anh thì bắt lấy Diêm Bà, anh thì nắm lấy Đường Ngưu Nhị mà kéo cả vào
huyện.
Cho hay là:
Lòng kia hồ dễ như ai,
Chung thân vơ vẫn quanh nơi chiếu giường.
Đã lòng nặng với bốn phương,
Dẫu cho nát đá tan vàng cũng thây!
Vẻ chi một mảnh bèo mây,
Toan đem mặt phấn mà ngây dạ hùng.
Thế gian bao kẻ nông lòng,
Từ nay những ngón ăn không liệu chừa.
Chớ nên quen thói mập mờ,
Lỡ khi sấm sét nữa mà chết oan!
Lời Bàn Của Thánh Thán:
Hồi này mượn đề miêu tả ra lòng đen tối của đàn bà, không còn
thứ xấu nào chẳng rõ ra, khiến cho đãng tử tuổi về già xem đến phải lè lưỡi; mà
đãng tử tuổi còn đương ham muốn, xem đến phải chùn lòng, rõ thực là một thiên
văn tự khéo châm chích những chàng đãng tử, lấy đó làm gương. Tả gái đĩ già mồm
ra tuồng gái đĩ, tả sọm già đúng mốt sọm già, rất khéo đến thế?
Thế nào mà tả gái đĩ ra tuồng gái đĩ? Xem y đã bày trò, vốn bắt
chẹt ông chồng cho được, tới khi nũng nịu bắt chẹt không xong, quay ra lạnh
lùng cười nhạt, rõ ra mở cửa đón khách, đuổi hiền mời gian, bất đắc dĩ với
nhau, rồi chồng ra khỏi thỉ chửi rủa, mới thay quần áo đi nằm lại còn xem xét
trước sau, vớ được đồ vật bỏ sót, như nắm được chuôi, cố giữ cho được để mà bắt
chẹt, đến khi người chồng phải quay lại nài xin, mới trở mặt phụ tình, làm tình
làm tội đủ điều, đưa những điều kiện không còn chút lương tâm, chứ đừng nói gì
đến ân nghĩa cũ, bắt chồng phải cho lấy kẻ khác, rõ cái dâm đã muốn giết nhau,
bắt phải đưa vàng bạc, cái ác đã muốn giết nhau, lại còn đe dọa nữa, cái liều
đã muốn giết người, cho nên đức Đại Hùng Thế Tôn gọi là Hoa Tiễn, như ta nói
Hoa Hồng có gai, đúng không ngoa vậy.
Thế nào mà tả sọm già đúng mốt sọm già? Xem ý lúc đầu nói cho
con gái phải nghĩ lại, cho tới khi con gái làm bộ giận hờn, lại giở giọng than
tiếc cho con gái, một buổi tối nói ra xem từng câu ngụ ý ai oán Tống Giang, tiếc
cho con gái không phải là không hết lòng vàng đá, bởi vì ai đã hững hờ? Cho tới
sáng ra, thấy con gái bị giết, lại không hốt hoảng khóc lên, còn dùng lời ngọt,
buông tha tội phạm, đợi đến khi ra tới cửa Huyện, mới níu áo kêu lên... gớm thực?
Chẳng phải tay sọm già, thì sao giở đến những ngón ấy?.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét