Hồi 66:
Về Sơn Bạc Tống Giang khao thưởng ba quân;
Đến Lăng Châu Quan Thắng chiêu hàng hai tướng
Hôm đó Ngô Dụng thu điểm nhân mã, nhất diện treo bảng an dân,
nhất diện cho cứu giải ngọn lửa trong thành. Còn những người nhà Lương Trung
Thư, Lý Thành, Văn Đạt cùng Vương Thái Thú, hoặc chết hay là trốn tránh cũng
không truy hỏi đến nữa.
Ngô Dụng lại sai mở kho tàng trong phủ Đại Danh, đem kim ngân
châu bảo xếp cả lên xe, rồi lấy gạo thóc phát cả cho dân trong thành, còn thì
cũng xếp cả lên xe đem về. Đoạn rồi cho Lý Cố cùng Cổ Thị nhốt vào xe tù, và
chia quân làm ba đội mà kéo về Lương Sơn, và cho Đới Tung về báo trước với Tống
Công Minh.
Tống Giang nghe nói, vội họp các Đầu Lĩnh để xuống núi đón về
Trung Nghĩa Đường.
Tống Giang trông thấy Lư Tuấn Nghĩa, liền cúi đầu lạy tạ, Lư
Tuấn Nghĩa cũng cúi đầu mà đáp nghĩa lại.
Tống Giang nói với Lư Tuấn Nghĩa rằng:
- Tống Giang tôi cả gan muốn đón ngài lên đây Tụ Nghĩa, chẳng
dè gặp bước không may, cơ hồ nguy hiểm, trong lòng tôi rất áy náy không yên.
Ngày nay may mà trời xanh thương xót, lại được gặp đây, thực là hạnh phúc cho
sơn trại không biết tới đâu mà kể.
Lư Tuấn Nghĩa bái tạ mà rằng:
- Tôi trên nhờ uy đức của huynh trưởng, dưới nhờ nghĩa khí của
các Đầu Lĩnh, hết lòng cứu vớt cho được tới đây, sau nầy biết lấy gì báo đáp
cho phu công ấy.
Nói đoạn liền dẫn Xái Phúc, Xái Khánh vào chào Tống Giang mà
nói rằng:
- Nếu bữa trước không có hai người nầy, thì còn sao mà bước
chân đến đây được?...
Đoạn rồi Tống Giang nhường ghế thứ nhất cho Lư Tuấn Nghĩa ngồi.
Lư Tuấn Nghĩa cả kinh mà rằng:
- Tôi là hạng người thế nào mà dám nhận chức vụ ấy? Huynh trưởng
có lòng thương yêu cho tôi được làm đứa tiểu tốt theo hầu, cũng là hạnh phúc,
xin Huynh trưởng chớ nên quá nhúng làm chi.
Tống Giang cố mời hai ba lần nữa, Lư Tuấn Nghĩa nhất định
không chịu nhận. Lý Quỳ thấy vậy kêu lên rằng:
- Ca Ca không thẳng tính chút nào cả... Ngày trước đã nhận rồi,
ngày nay lại nhường cho người khác. Cái ghế ấy có lẽ làm bằng vàng hay sao mà
nhường đi nhường lại mãi. Làm thế tôi sốt ruột không sao chịu được.
Tống Giang quát to lên rằng:
- Thằng quái nầy...
Lư Tuấn Nghĩa vội vàng cúi lạy Tống Giang mà nói rằng:
- Nếu huynh trưởng cứ nhường mãi vậy, thì có lẽ tôi ở đây
không yên tâm mất.
Lý Quỳ lại quát lên rằng:
- Nếu Ca Ca làm ông vua, Lư Viên Ngoại làm thừa tướng, đám
chúng ta cùng ở trên kim điện, thì làm chi có rối lên như thế nầy được. Nhưng
nay bất quá chỉ là một tụi ăn cướp ở trong vũng nước nầy, thì bất nhược cứ lặng
yên như cũ là xong.
Tống Giang nghe nói tức mình không biết nói làm sao được.
Ngô Dụng nói với Tống Giang rằng:
- Ngày mai hãy để Lư Viên Ngoại ở phòng bên Đông, đãi lễ tân
khách, rồi sau nầy có công sẽ xin nhường vị cũng được.
Tống Giang nghe vậy mới hơi yên tâm, liền mời Lư Tuấn Nghĩa
ra ở phòng bên Đông, cho Yến Thanh cùng ở vào đó. Lại dọn phòng cho anh em Xái
Phúc ở. Bấy giờ Tiết Vĩnh đi đón người nhà Quan Thắng đã về, cũng cho dọn phòng
để ở cẩn thận. Đoạn rồi trong sơn trại làm đại tiệc khao thưởng tam quân, các Đầu
Lĩnh lớn nhỏ cùng đám lâu la hợp từng đoàn từng đội mà chè chén với nhau.
Hôm đó các Đầu Lĩnh cùng uống rượu ở Trung Nghĩa Đường. Lư Tuấn
Nghĩa đứng dậy nói rằng:
- Còn có hai đứa gian phu dâm phụ đã bắt đến đây, xin trị tội
cho công bằng.
Tống Giang cười nói rằng:
- Suýt nữa tôi quên mất đấy, quân sĩ đâu, dong nó lên đây.
Quân sĩ vâng lời, đem Lý Cố trói sang cột bên tả, Cổ Thị trói
sang cột bên hữu để trị tội.
Tống Giang nói với Lư Tuấn Nghĩa rằng:
- Bây giờ không cần phải hỏi tội làm chi, xin Viên Ngoại cứ xử
đoán đi là xong.
Lư Tuấn Nghĩa vâng lời, tay cầm đỏan đao bước ra quát mắng
hai người, khoét lấy ruột giữa, bắt tội tùng xẻo cho chết, sai đem vứt bỏ xác
đi rồi quay vào tạ ơn các Đầu Lĩnh. Các Đầu Lĩnh đều nâng chén rượu mừng, rồi lại
cùng nhau yến ẩm vui chơi, rất là thỏa thích.
Bây giờ ân trả nghĩa đền,
Trăm năm cố kết chút duyên guang hồ.
Máu nồng pha chén hoan hô,
Giang sơn riêng một cơ đồ kém ai?
Nói về tụi Lương Trung Thư khi dò biết quân mã Ngô Dụng đã trở
về Lương Sơn Bạc, liền cùng với Lý Thành, Văn Đạt thu nhặt bọn quân tàn, mà trở
lại đất Đại Danh. Khi về tới phủ vợ con trẻ già, mười phần còn sót một hai, người
nào người ấy kêu khóc như mưa vậy.
Bây giờ các phủ huyện ở gần đấy kéo quân đến để cứu, thì giặc
đã về rồi. Lương Trung Thư lại truyền lệnh cho các phủ huyện đâu về yên đấy.
Lương Trung Thư phu nhân trốn vào vườn hoa đằng sau, may được
thoát nạn. Trung Thư thấy vậy lấy làm cảm thương vô cùng, liền khảo giấy bẩm
vào Xái Thái Sư xin khiển tướng điều binh đi đánh Lương Sơn. Trong đó kể hết
tình thế giặc Lương Sơn và sự thiệt hại trong thành Đại Danh, dân số chết hơn
năm ngàn người, trúng thương rất nhiều, và các bộ quân mã thì thiệt tới hơn ba
vạn. Khi viết thư xong, sai Thủ Tướng lập tức đem thư vào kinh để trình với Xái
Thái Sư.
Nguyên trước Xái Thái Sư những tưởng rằng ít lâu, rồi bọn
Lương Sơn đầu hàng, thì tâng công cho Lương Trung Thư, mà tự mình cũng có phần
vinh hạnh. Nay bất đồ nghe tin như vậy, thì trong lòng lấy làm tức giận vô
cùng, liền cho tỳ tướng lui ra, rồi sẽ vào tấu với Thiên Tử.
Thiên Tử xem biểu tấu cả kinh, chưa biết nghĩ kế ra sao.
Bỗng có quan Gián Nghị Đại Phu là Triệu Đĩnh, bước ra bệ ngọc
tâu rằng:
- Trước đây triều đình đã điều binh khiển tướng cũng đều bị
thua thiệt rất nhiều, là vì không được địa lợi cho nên mới thế. Vậy ngày nay cứ
theo như ý ngu thần, xin bệ hạ giáng chỉ chiêu an mời về Kim Khuyết mà trao cho
quan chức để coi chốn biên cương tất là yên ổn được.
Xái Thái Sư nghe tâu, cả giận quát mắng rằng:
- Ông làm Gián Nghị Đại Phu sao dám bỏ kỷ cương triều đình,
mà để tiểu nhân càn dỡ như thế được? Tội ấy đáng chết đó...
Thiên Tử nghe lời Thái Sư tâu, liền đuổi bỏ Triệu Đĩnh ra triều
mà cách hết quan chức. Các quan thấy vậy ai cũng không dám hé răng ra tâu một
câu gì nữa.
Thiên Tử hỏi Xái Kính rằng:
- Nay quân giặc lộng hành như vậy, phỏng lấy ai ra mà đánh
giúp cho được?
Xái Thái Sư tâu rằng:
- Cứ như ý ngu thần thiết tưởng quân giặc cỏ ấy không cần gì
phải đem đại quân mới tiểu trừ được. Hiện nay ở Lăng Châu có hai tướng giỏi, một
người họ Đang tên Đình Khuê, và một người họ Ngụy tên Định Quốc làm Đoàn Luyện
Sứ ở châu ấy, đều có thể tiểu trừ được quân giặc cỏ. V6ạy xin Thánh Thượng lập
tức giáng chỉ cho hai người đó, đem quân đi đánh thì làm chi mà chẳng trừ xong.
Thiên Tử nghe tâu cả mừng, bèn lập tức giáng chỉ cho hai người
đó. Đoạn rồi tan chầu, các quan đều bưng miệng cười thầm, mà cùng nhau lui về.
Nói về bọn Lương Sơn Bạc, sau khi đã khao thưởng quân sĩ xong
rồi, Ngô Dụng liền nói với Tống Giang rằng:
- Nay ta vì việc Lư Viên Ngoại đánh phá thành Đại Danh, nhân
dân thiệt hại rất nhiều, làm Lương Trung Thư phải trốn tránh. Việc nầy chắc là
hắn phải tâu với triều đình và ỷ thế bố vợ là Xái Thái Sư, thế nào cũng chả yên
được. Vậy ta nên nghĩ kế làm sao mới xong.
Tống Giang nói:
- Quân Sư dạy rất phải lắm. Ta nên sai người đi thám thính
xem thế nào rồi sẽ liệu.
Ngô Dụng cười rằng:
- Tiểu đệ đã sai người đi thám rồi, có lẽ về ngay bây giờ đó.
Đương khi trò chuyện, thì quả nhiên có người về báo rằng:
- Lương Trung Thư tâu với triều đình, Gián Nghị Đại Phu cố
tâu với Thiên Tử xin giáng chỉ chiêu an, song bị Thái Sư hành tội, cách cả chức
quan của triều đình và sai người truyền chỉ cho Đan Đình Khuê và Ngụy Định Quốc
ở Lăng Châu phải đem quân đi đánh.
Tống Giang hỏi Ngô Dụng rằng:
- Như vậy ta làm cách nào để nghênh địch?
Ngô Dụng nói rằng:
- Đợi họ đến đây rồi ta bắt cả một thể khó chi?
Quan Thắng đứng dậy nói rằng:
- Quan Mỗ từ khi đến đây, chưa có chút công lao gì, nay Đan
Đình Khuê cùng Ngụy Định Quốc cũng là anh em khi trước. Đan Đình Khuê tài về
nghề tháo nước để đánh giặc, thường gọi là Thánh Thủy Tướng Quân, còn Ngụy Định
Quốc thì thông thạo về trận hỏa công, khi ra trận thường lấy đồ lửa mà đánh
nhau, vẫn gọi là Thần Hỏa Tướng Quân. Vậy tôi xin lĩnh năm nghìn quân mã thẳng
đến Lăng Châu để đón. Nếu dỗ được quy hàng thì mang cả về đây, bằng không thì
tôi xin bắt về nộp, không cần gì phải khó nhọc đến anh em, chẳng hay tôn ý có
cho chăng?
Tống Giang cả mừng, liền cho Tuyên Tán và Hắc Tư Văn theo
Quan Thắng cùng đi.
Sáng hôm sau Quan Thắng dẫn năm nghìn nhân mã và đem hai tướng
cùng đi xuống núi, các Đầu Lĩnh đưa chân đến bến Kim Sa, rồi lại trở về Trung
Nghĩa Đường để bàn việc.
Ngô Dụng nói với Tống Giang rằng:
- Tôi xem Quan Thắng đi chuyến nầy, vị tất đã được vững lòng,
vậy xin sai tướng khác đi theo tiếp ứng và coi giữ một thể.
Tôi xem Quan Thắng là người nghiêm nghị nghĩa khí, trước sau
như một, quân sư bất tất phải đa nghi như vậy.
- Tôi chỉ sợ bụng người ta không được như bụng huynh trưởng
mà thôi. Ta cứ cho Lâm Xung, Dương Chí làm lĩnh binh, Tôn Lập, Hoàng Tín làm
phó tướng dẫn năm ngàn nhân mã thì vững hơn.
Lý Quỳ nghe nói liền ứng lên rằng:
- Để cho tôi đi một chuyến.
Tống Giang nói:
- Việc nầy không cho ngươi đi được, đã có tướng giỏi người ta
lập công...
Lý Quỳ nói: Nếu tôi rỗi lâu thì sinh bệnh mất, Huynh trưởng
không cho tôi đi, tôi cũng đi một mình vậy.
Tống Giang quát lên rằng:
- Ngươi không nghe quân lịnh, ta chém đầu đi đó.
Lý Quỳ nghe nói trong bụng bứt rứt khó chịu, liền thủng thỉnh
mà quay ra. Đoạn rồi Lâm Xung, Dương Chí lĩnh quân đi đến Lăng Châu để theo
Quan Thắng.
Ngày hôm sau chợt thấy tiểu quân vào báo:
- Hồi canh hai hôm qua Hắc Toàn Phong Lý Quỳ vác song phủ đi
đâu mất rồi.
Tống Giang nghe báo lấy làm hối hận mà rằng:
- Chắc vì mình gắt mấy câu hôm qua, nên hắn đi với người khác
hẳn?
Ngô Dụng nói rằng:
- Huynh trưởng bất tất phải nghĩ vậy. Hắn là người thô mãng,
nhưng nghĩa khí, chắc là hắn không đi đâu, chỉ nay mai lại về đây thôi...
Tống Giang vẫn lấy làm sốt ruột, liền sai Đới Tung đi theo
trước, rồi sai Thời Thiên, Lý Vân, Nhạc Hoà, Vương Đình Lục chia làm bốn đường
đi theo sau. Nguyên Lý Quỳ hôm đó bị Tống Giang ngăn đón không cho đi, trong bụng
lấy làm bứt rứt, liền về phòng nghỉ, rồi nửa đêm vác búa trốn sang Lăng Châu.
Khi đi đường chàng nghĩ thầm rằng: "hai anh tướng ranh ấy,
cần gì phải mang bao nhiêu quân đi đánh? Ta cứ vào thành cho mỗi đứa một búa,
cho Đại ca kinh một mẻ mới hả lòng"
Chàng vừa nghĩ vừa hăm hở đến nửa ngày trời, trong bụng đã
đói, sờ túi không có đồng tiền nào cả. Nguyên khi đi chàng đương bực tức vội
vàng nên không kịp đem tiền hành lý để tiêu dùng. Bấy giờ chàng lại nghĩ:
"Đã lâu nay ta không làm món nào, nay ta thử chơi một món xem sao?"
Nghĩ đoạn liền lững thững vừa đi vừa nhìn quanh nhìn quẩn một
mình. Chợt đâu thấy bên đường có một ngôi hàng rượu, chàng liền chạy vào ngôi
hàng rượu lấy ba nai rượu và hai cân thịt lên để đánh chén.
Khi ăn uống xong, bèn đứng phắt dậy mà đi thẳng, tên tửu bảo
giữ lại để hỏi tiền.
Chàng liền đáp rằng:
- Để ta ra chỗ nầy kiếm được món gì, rồi sẽ đem lại trả.
Nói đoạn quay ra để đi. Chợt đâu có một chàng to lớn ở ngoài
chạy vào quát lên rằng:
- Thằng qủy đen kia to gan thật! Ai mở hàng rượu cho ngươi ăn
không, không chịu trả tiền?
Lý Quỳ trợn mắt tròn xoe đáp rằng:
- Lão gia bất cứ chỗ nào chỉ ăn mà thôi.
Anh kia lại quát lên rằng:
- Ta nói câu nầy cho ngươi mất vía nhé! Phải biết rằng: Lão
gia đây chính là Hàn Bá Long ở Lương Sơn Bạc, mở ngôi hàng nầy, là tiền của Tống
Giang Ca Ca đó.
Lý Quỳ nghe nói liền cười thầm rằng:
- Trong sơn trại ta làm gì có của ranh nầy mà nói... ?
Nguyên Hàn Bá Long vẫn thường cướp bóc giang hồ xưa nay. Dạo
trước có đến nói với Chu Quý, xin đưa lên núi, để nhờ nói với Tống Giang xin
vào nhập bọn, song chẳng may Tống Giang bị bệnh chưa khỏi, nên Chu Quý bảo tạm
ra đó mở cửa hàng để đợi Tống Giang khỏi, rồi sẽ đưa lên núi.
Hôm đó Lý Quỳ nghe nói liền rút thanh phủ ở lưng ra chìa đưa
cho Hàn Bá Long mà bảo rằng:
- Nếu vậy anh cầm lấy cái búa nầy.
Hàn Bá Long thấy vậy, tưởng là thực tình liền giơ ra tiếp lấy.
Lý Quỳ liền thừa thế, nhè giữa mặt chém cho một phủ chết quay ra đất. Mấy tên
người nhà thấy vậy vội vàng kéo nhau chạy vào trong làng để trốn. Lý Quỳ vào nẫng
lấy tiền nong rồi châm lửa đốt bỏ tửu quán, mà lên đường chạy về Lăng Châu. Đi
chừng được một ngày đường, chợt trông thấy một anh chàng to lớn đi đến đó, đứng
dừng lại mà ngẩng lên cúi xuống để nom Lý Quỳ.
Lý Quỳ thấy vậy hỏi rằng:
- Ngươi nom lão gia để làm chi thế?
Anh chàng kia lại hỏi rằng:
- Ngươi là lão gia ai... ?
Lý Quỳ không nói năng gì, vội vàng toan sấn vào để đánh. Anh
chàng kia giơ tay quyền lên để đón đánh Lý Quỳ.
Lý Quỳ thấy tay quyền của anh kia ra vẻ thạo gỏi, liền ngồi
xuống dưới đất, rồi ngửa mặt lên hỏi rằng:
- Anh họ chi, tên chi... ?
Anh chàng kia đáp rằng:
- Lão gia đây không có tên họ, muốn đánh nhau thì đánh nhau,
ngươi có giỏi thì đứng dậy đây.
Lý Quỳ cả giận toan nhảy lên đánh, bất đồ bị anh chàng kia đá
cho một đá ngã lăn ngay xuống.
Lý Quỳ vội kêu lên rằng:
- Ta không đánh nổi anh nầy rồi.
Nói đoạn ù té chạy.
Anh chàng kia đứng lại mà hỏi rằng:
- Anh tên họ là gì? Người ở đâu nói cho ta biết?
Lý Quỳ đáp:
- Ngày nay bị thua anh đáng lẽ không nói ra thì phải, nhưng lại
tiếc vì anh cũng là một tay hảo hán, nên không muốn giấu làm chi. Chẳng giấu
gì, Hắc Toàn Phong Lý Quỳ ở Lương Sơn Bạc chính là tôi đây.
- Anh có thực là Lý Quỳ hay không? Đừng nói khoác mới được.
- Anh không tin cứ nom song phủ của tôi đây...
- Anh đã là hảo hán ở Lương Sơn Bạc, cớ sao lại đi đâu một
mình như vậy?
- Vì tôi tức với Tống Ca Ca tôi, nay muốn sang Giang Châu giết
hai anh tướng họ Đan, họ Ngụy cho Ca Ca tôi biết tay đây.
Tôi nghe nói Lương Sơn Bạc đã có quân mã kéo đi rồi, vậy ai
đi đấy anh có biết không?
- Toán quân có Đại Đao Quan Thắng đi trước, Lâm Xung, Dương
Chí đi sau chứ ai.
Anh chàng kia nghe nói đến đó, vội cúi đầu mà lạy ngay.
Lý Quỳ lại hỏi:
- Bây giờ anh nói tên họ cho tôi nghe mới được.
- Tôi nguyên ở phủ Trung Sơn, ba đời nay vẫn truyền nghề đánh
vật, ngón đánh lúc nãy là cha con truyền dạy cho nhau, mà không dạy người ngoài
bao giờ. Bình sinh không hề giao thiệp với ai, nên đến đâu cũng không ai chứa,
nhân thế các mạn Sơn Đông, Hà Bắc vẫn gọi tên là Một Diện Mục Tiêu Đĩnh. Mới
đây nghe nói ở Khấu Châu có một toà núi tên là Khô Thụ Sơn trên núi có một tay
du đảng họ Bào tên Húc, chỉ hay giết hại người ta, ai ai cũng gọi hắn là Táng
Môn Thần, nay tôi muốn sang đó nhập đảng để kiếm cách sinh nhai cho thú.
- Anh có tài võ nghệ như vậy, sao mà không nhập đảng ở Lương
Sơn, Tống Công Minh Ca Ca tôi tất là trọng đãi.
- Tôi cũng có ý muốn đến đó, song không ai tiến cử đến cho,
nay được gặp huynh trưởng đây, tôi xin đi theo một thể.
- Tôi vì giận dỗi với Tống Công Minh Ca Ca mà một mình quyết
đi xuống núi, nay nếu không giết người nào, mà lại trở về tay không, thì về thế
nào được? Vậy bất nhược tôi với Bác đi sang Khô Thụ Sơn, nói với Bào Húc cùng
đi đến Lăng Châu giết hai thằng Đan, Ngụy, rồi về núi thì có lẽ thú hơn.
- Ở Phủ Lăng Châu thành trì cũng vững, quân mã cũng nhiều,
tôi với anh dẫu giỏi đến mười mươi cũng không làm chi được, bất quá chỉ uổng mạng
thôi, vậy bất nhược ta đến Khô Thụ Sơn nói với Bào Húc đến đầu hàng ở sơn trại,
rồi sẽ liệu sau, thế là thượng sách.
Hai người đương bàn chuyện với nhau, bỗng thấy Thời Thiên đi
đến, gọi Lý Quỳ mà kêu rằng:
- Ca Ca đương ở nhà lo khổ đây kia, xin bác về sơn trại ngay
lập tức. Ca Ca đã cho người đi khắp các ngả để tìm đấy.
Lý Quỳ nghe nóo liền dẫn Tiêu Đĩnh đến nói chuyện với Thời
Thiên. Thời Thiên khuyên Lý Quỳ phải lập tức về núi, kẻo Tống Công Minh mong đợi:
- Lý Quỳ nói với Thời Thiên rằng:
- Bác hãy thư thả tôi đương bàn với Tiêu Đĩnh đi qua Khô Thụ
Sơn, nói với Bào Húc cùng nhập vào đảng, rồi tôi sẽ về.
- Làm thế không được, Ca Ca đương mong đợi lắm hãy về ngay
đi...
- Bác không thích đi thì bác cứ về trước, báo với Ca Ca rồi
tôi sẽ về sau.
Thời Thiên có ý sợ Lý Quỳ, bèn quay trở về, không dám nói gì
nữa, Lý Quỳ liền cùng với Tiêu Đĩnh, đi sang Khấu Châu để tìm vào Khô Thụ Sơn.
Nói về Quan Thái Thú ở Lăng Châu, tiếp được chiếu chỉ của triều đình sai điều
binh đi đánh Lương Sơn, và tiếp được tư thư của Xái Thái Sư sai bảo bèn lập tức
gọi hai Đoàn Luyện Sứ là Đan Đình Khuê, và Ngụy Định Quốc vào để truyền lệnh ra
binh. Hia tướng vâng lời liến chỉnh quân mã, sửa sang khí giới chỉnh đốn các
lương thảo, để sắp sửa khởi hành. Chợt đâu có tin báo Đại Đao Quan Thắng dẫn
quân đến xâm phạm Lăng Châu, Đan Đình Khuê và Nguỵ Định Quốc cả giận liền kéo
quân ra thành để đón đánh.
Bấy giờ Đan Đình Khuê đầu đội mũ sắc vuông, có hai tua đen rũ
xuống, ngoài khoác áo da hùm, trong mặc chiến bào thêu, chân đi đôi giầy da chạm,
lưng thắt giây loan biếc, vai đeo một cây cung, một mũi tên, cưỡi con ngựa đen,
khiến cây gươm đen, trước mặt dàn một lá cờ đen thuộc Bắc Phương, trên viết mấy
chữ "Thánh Thủy Tướng Quân Đan Đình Khuê " bằng bạ; Ngụy Định Quốc đầu
đội mũ khảm đỏ, bỏ rũ tua đỏ, ngoài khoác áo con nghê, trong mặc áo hồng bào
thêu quái thú, chân đi đôi giầy thêu Kỳ Lân, lưng đeo cây cung kim thước, khoác
một túi tên. Lang Nha cưỡi con ngựa sắc mỡ, tay cầm cương đao, trước mặt có lá
cờ đỏ thuộc Nam Phương, viết bảy chữ "Thần Hỏa Tướng Quân Ngụy Định Quốc"
bằng bạc. Khi đôi bên đấu trận với nhau, Quan Thắng trông thấy hai viên hổ tướng,
liền ngồi trên mình ngựa mà nói lên rằng:
- Kính chào hai vị Tướng Quân được mạnh khoẻ.
Đan Đình Khuê và Ngụy Định Quốc nghe nói đều cười, trỏ vào mặt
Quan Thắng mà mắng rằng:
- Lũ trẻ con vô tài, trên phụ ơn nghĩa của triều đình, dưới
nhục danh giá tiên tổ, không biết chút gì là liêm sỉ, nay còn dẫn thân đến đây
để làm chi?
Quan Thắng đáp rằng:
- Hai tướng quân lầm rồi, hiện nay Chúa Thượng hôn mê, gian
thần lộng hành, không phải người thân không dùng, không phải kẻ thù không
tránh, vậy Tống Công Minh Ca Ca tôi là người trung tín nhân nghĩa, thay Trời
làm Đạo, sai Quan mỗ đến đây để mời hai vị Tướng Quân quy thuận cho vui. Nếu
hai ngài có lòng hạ cố, thì xin cùng về sơn trại một thể.
Hai người nghe nói cả giận, cùng phi ngựa ra để đánh Quan Thắng,
Quan Thắng đương sắp ra đón, thì bên tả có Tuyên tán, bên hữu có Hắc Tư Văn
cùng xông ngựa đuổi theo. Khi vào trong trận thấy Ngụy Định Quốc rẽ về bên tay
tả, còn Đan Đình Khuê rẽ về bên tay hữu, Tuyên Tán thấy vậy liền đuổi theo Ngụy
Định Quốc, mà để cho Hắc Tư Văn đuổi theo Đan Đình Khuê.
Tuyên Tán vừa đuổi được mấy bước, thì bỗng thấy năm trăm quân
bộ đều cờ đỏ giáp đỏ, kéo đến vây chặt chung quanh, rồi cùng nhau quăng giây
móc ra bắt sống cả người lẫn ngựa. Bên kia Hắc Tư Văn cũng đuổi được mấy bước,
thì bỗng có một đám năm trăm quân bộ đều cờ đen giáp đen, kéo ồ đến vây chặt cả
ngựa lẫn người.
Đoạn rồi Ngụy Định Quốc cùng Đan Đình Khuê nhất diện cho giải
Tuyên Tán và Hắùc Tư Văn vào thành, và nhất đuổi quân đánh tràn sang trận Quan
Thắng, Quan Thắng thấy vậy cả kinh, luống cuống lui chạy. Đan Đình Khuê và Ngụy
Định Quốc, đều sốc ngựa mà đuổi riết ở đằng sau.
Đương khi đó chợt có hai tướng xông đến để cứu, Quan Thắng
nom ra bên tả có Lâm Xung, bên hữu có Dương Chí, đều hăng hái ra sức cự định với
Đan, Ngụy và đánh lui quân mã Lăng Châu.
Quan Thắng liền thu đám tàn quân, cùng với Lâm Xung, Dương
Chí hợp quần vào một chỗ, rồi Hoàng Tín cũng kéo quân đến đó để hạ trại.
Bên kia Đan Đình Khuê, Ngụy Định Quốc đắc thắng trở về trong
thành, Trương Thái Thú ra đón tiếp vui mừng, rồi cho đóng xe tù Tuyên Tán, Hắùc
Tư Văn vào xe, và sai một viên hạ tướng, dẫn ba trăm quân lập tức dẫn hai người
về Đông Kinh để nộp triều đình.
Viên hạ tướng vâng lệnh, giải hai người theo đường đi vào
Đông Kinh. Một hôm đi đến một toà núi khô trơ trọi, chợt gặp Hắc Toàn Phong Lý
Quỳ cùng Tiêu Đĩnh, dẫn tụi lâu la ra đón chận ngang đường, mà đánh cướp xe tù.
Viên hạ tướng thấy vậy, toan quay lại để chạy. Bỗng đâu có một
người nữa là Táng Môn Thần Bào Húc xông ra ở đằng sau, chém cho viên hạ tướng một
nhát, chết lăn xuống ngựa, rồi bọn quân mã đều bỏ xe tù mà chạy tán loạn cả. Lý
quỳ mở xe tù ra xem, thì chính là Tuyên Tán, Hắc Tư Văn, bèn lấy làm kinh ngạc,
mà hỏi hết các chuyện đối trận ở Lăng Châu.
Tuyên Tán kể chuyện cho Lý Quỳ nghe rồi lại hỏi rằng:
- Bác làm chi mà lại vơ vẫn ở đây thế?
Lý Quỳ đáp:
- Vì Ca Ca không cho đi đánh giặc tôi liền trốn xuống núi, gặp
được Tiêu Đĩnh dẫn đến đây, để liên kết Bào Huynh nhập đảng. Ngày nay anh em
tôi đương bàn định đi đánh Lăng Châu, thì thấy Tiểu lâu la báo rằng: Có xe tù
giải đi qua núi. Nhân vậy chúng tôi đem người xuống cướp...ai ngờ chính lại là
hai tướng quân...
Nói đoạn Bào Húc mời cả về sơn trại, sai giết trâu làm rượu
thiết đãi.
Hắc Tư Văn nói với Bào Húc rằng:
- Anh em đã có lòng nhập đảng ở núi Lương Sơn, thì xin hãy
đem quân mã bản trại đi, để cùng đánh Lăng Châu rồi sẽ cùng về một thể, có lẽ
tiện hơn.
Bào Húc nói:
- CHính ý tôi đương muốn như vậy, sơn trại tôi đây, tất cả được
vài ba trăm ngựa, và dăm bảy trăm tiểu lâu la, ta nên liên kết làm một đội mà
đi ngay mới được.
Nói đoạn liền lập tức kéo hết quân mã sơn trại để đi đánh
Lăng Châu.
Nói về đám quân sĩ bị đánh mất xe tù, liền vội vội vàng vàng
chạy về phủ Lăng Châu, đem tin tức báo cho Trương Thái Thú, cùng Đoàn Luyện Sứ
biết. Đan Đình Khuê và Ngụy Định Quốc nghe nói mà cả giận rằng:
- Phen nầy có bắt được tên nào cứ chém ngay đây mới được.
Vừa nói dứt lời thì thấy Quan Thắng dẫn binh đến khơi đánh ở
ngoài thành.Đan Đình Khuê vội vàng lên ngựa, dẫn năm trăm quân mở cửa thành ra
để đón đánh. Khi ra tới cửa thành, Đan Đình Khuê quát mắng Quan Thắng rất là sỉ
nhục. Quan Thắng nghe thấy vỗ ngựa múa đao xông ra để đánh.
Đôi bên đánh nhau được hơn hai mươi hiệp, rồi Quan Thắng vội
vàng quay ngựa chạy lui. Đan Đình Khuê liền xốc ngựa để đuổi. Đuổi chừng hơn mười
dặm đường, chợt thấy Quan Thắng quay ngựa lại bảo Đan Đình Khuê rằng:
- Ngươi không xuống ngựa đầu hàng cò đợi đến bao giờ nữa?
Đan Đình Khuê liền múa thương xông vào đánh Quan Thắng, Quan
Thắng lấy hết uy thế, giơ dọng đao vỗ vào Đan Đình Khuê quát lên một tiếng:
- "Xuống", rồi thấy Đan Đình Khuê ngã lộn xuống đất.
Quan Thắng vội vàng xuống ngựa đỡ Đan Đình Khuê dậy, mà nói rằng:
- Xin Tướng Quân tha tội cho.
Đan Đình Khuê ra dáng sợ hãi cúi phục xuống đất mà kêu xin đầu
hàng
Quan Thắng nói:
- Tôi thường nhắc đến tên các ngài trước mặt Tống Công Minh
luôn, vậy nay Công Minh sai tôi đến đây đón các ngài cùng về tụ nghĩa một thể!
Đan Đình Khuê nói rằng:
- Tôi xin vâng lời ra sức cùng nhau Thay Trời làm Đạo.
Nói đoạn hai người lên ngựa dong cương mà đi với nhau.
Khi Lâm Xung thấy hai người lên ngựa cùng đi với nhau, liền hỏi
duyên cớ vì sao? Quan Thắng giấu trận Đan Đình Khuê thua, rồi bảo với Lâm Xung
rằng:
- Khi đuổi đến chỗ vắng, tôi lấy tình trước nghĩa sau khuyên
giải, nên Đan tướng quân mới quy hàng đó.
Bọn Lâm Xung nghe nói, đều lấy làm mừng rỡ vô cùng. Đan Đình
Khuê về đến trước trận, kêu lên một tiếng năm trăm quân áo đen cùng theo cả đi,
còn các nhân mã khác đều trốn vào thành, báo cùng Trương Thái Thú cùng Ngụy Định
Quốc.
Ngụy Định Quốc nghe nói cả giận, ngày hôm sau liền sắm quân
mã ra thành để đánh. Khi ra tới trận, Ngụy Định Quốc trỏ mặt Đan Đình Khuê quát
mắng rằng:
- Đồ vong ân bội nghĩa, như thế thì phỏng còn trời đất nào chứng
cho ngươi nữa?
Quan Thắng nghe nói cười nhạt một tiếng, rồi xông ngựa múa
đao ra đánh, hai bên đánh nhau được mươi hiệp. Ngụy Định Quốc liền quay ngựa chạy
về bản trận
Quan Thắng vỗ ngựa đuổi theo, Đan Đình Khuê kêu to lên rằng:
- Tướng quân không nên đuổi theo...
Quan Thắng nghe thấy liền quay ngựa vội trở lại, thì thấy bên
trận Lăng Châu, có năm trăm tên bộ quân, mình mặc áo đỏ, lưng đeo túi huỳnh lưu
cùng các đồ dẫn lửa, đẩy năm chục cổ xe chất toàn cỏ khô, đốt đỏ rừng rực và
kéo sang bên trận Quan Thắng.
Quân mã Quan Thắng bị lửa xông vào, ai nấy đều kinh hoàng sợ
hãi mà chạy tán loạn cả. Quan Thắng liền dẫn quân lui về bốn mươi dặm để hạ trại.
Ngụy Định Quốc lại dẫn quân lui về. Khi đến cửa Thành, thấy lửa
đỏ rực trời, than khói tứ tung. Ngụy Định Quốc biết là trong thành bị cướp, bèn
vội vàng dẫn quân kéo chạy, mà không dám kéo quân vào thành nữa.
Nguyên khi Ngụy Định Quốc kéo quân ra đánh, thì Lý Quỳ dẫn
nhân mã ở Khô Thụ Sơn, đến phía bắc thành Lăng Châu, sát vào thành mà cướp lấy
kho đạn, rồi phóng hỏa đốt nhà cửa, khiến cho thành Lăng Châu phút chốc đã tan
ra như tro vậy.
Bấy giờ Ngụy Định Quốc dẫn quân quay ra, bất đồ lại gặp Quan
Thắng đến đón đánh. Ngụy Định Quốc lại phải kéo quân sang huyện Trung Lăng để
lánh nạn. Quan Thắng lại đem quân vây huyện Trung Lăng, truyền lệnh các tướng
đánh thành rất riết. Ngụy Định Quốc chỉ đóng chặt cửa thành mà không dám ra
đánh.
Đan Đình Khuê bàn với Quan Thắng, Lâm Xung cùng mọi người rằng:
- Ngụy Định Quốc là người hăm hở nóng nảy, nếu ta bách quá
thì hắn liều chết mà không chịu nhục. Việc đó thong thả thì xong, chứ vội quá
không thành hiệu. Vậy tiểu đệ xin đi vào trong huyện đó lấy lời tử tế mà khuyên
nhủ anh ta, thì may ra khỏi phải dùng sức can qua, mà có thể âm thầm được.
Quan Thắng nghe nói cả mừng, liền ưng lời cho Đan Đình Khuê một
mình một ngựa mà đi vào thành Trung Lăng.
Đan Đình Khuê vào tới huyện ấy, lấy lời ngon ngọt dỗ Ngụy Định
Quốc mà rằng:
- Hiện nay triều đình vô đạo, thiên hạ rối loạn bời bời, trên
Thiên Tử hôn mê, để cho gian thần đắc chí, vậy chúng ta nên quy thuận với Tống
Công Minh, tạm lánh ở nơi Thủy Bạc, rồi sau đây gian thần thoái hết, bấy giờ ta
sẽ trở lại triều đình, có đi đâu mà thiệt, quan bác thử nghĩ kỹ xem sao?
Ngụy Định Quốc nghe nói ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi nói với Đan
Đình Khuê rằng:
- Nếu Quan Thắng đến đây mời tôi thì tôi sẽ quy thuận, bằng
ông ta không đến thì tôi xin liều chết, chứ không chịu nhục.
Đan Đình Khuê nghe nói liền lên ngựa trở về báo cho Quan Thắng
biết, Quan Thắng nói rằng:
- Quan mỗ đã thấm vào đâu, nếu Ngụy tướng quân có lòng hạ cố,
thì còn gì hơn nữa.
Nói đoạn liền từ biệt mọi người, rồi một mình một ngựa một
đao đi vào trong huyện.
Lâm Xung can rằng:
- Huynh trưởng hãy thư thả, tâm địa người ta biết đâu mà chắc,
phải nghĩ kỹ mới được.
Quan Thắng đáp:
- Chỗ anh em cũ cả, có can chi mà sợ.
Nói đoạn đi thẳng vào huyện Định Quốc bái tạ đầu hàng, đặt tiệc
thiết đãi, anh em kể chuyện hàn huyên, rồi dẫn năm trăm quân theo sang Đại trại.
Quan Thắng dẫn Ngụy Định Quốc đến chào hỏi Lâm Xung, cùng các Đầu Lĩnh mà thu
quân trở về Lương Sơn Bạc.
Khi về đến Kim Sa, quân mã đương xuống thuyền lên núi, thì bỗng
thấy có Kim Mao Khuyển Đoàn Cảnh Trụ, ra dáng âu sầu tức giận, mà cùng đến đó.
Lâm Xung thấy vậy hỏi Đoàn Cảnh Trụ rằng:
- Ngươi đi sang Bắc mua ngựa với Thạch Dũng, Dương Lâm, sao lại
về đó làm chi vậy?
Cảnh Trụ thở dài một tiếng, rồi đem chuyện nói cho Lâm Xung
nghe.
Mới hay:
Xưa nay thanh khí tương cầu.
Giang hồ gặp gỡ lọ cầu mới thân,
Aùo xiêm hổ mặt phong trần.
Tấm thân vì nước vì dân thế nào?
Trăm năm một dạ thanh cao,
Lòng nầy đất thấp trời cao biết cùng.
Lời bàn của Thánh Thán:
Ngôi thứ nhất của Trung Nghĩa Đường, vốn không phải của Tống
Giang chiếm cứ, thì cũng không phải Tống Giang có thể nhường ai. Đã không chiếm
được mà cứ chiếm, đó là vô sỉ; Mà không thể đem nhường, lại cứ nhường, cũng lại
là vô sỉ. Con người đã vô sỉ, chẳng những tự mình tiếc của, mà cũng lại chẳng
vì người mà tiếc của người. Như ngày trước Tống Giang muốn chiếm ngôi ấy, vì có
Lý Quỳ chẳng muốn hứa cho mà nói ra giọng ấy; còn chẳng tiếc của người, như
ngày nay Tống Giang muốn nhường ngôi ấy, vì có Lư Viên Ngoại chẳng muốn hứa
cho, mới có sự nầy.
Tại sao vậy? Vì con người vô sĩ, thì cơ giang biến trá, cốt
sao cho được đến ngôi ấy mà thôi, nào cứ phải ngày trước đã chiếm, mà cho là được,
cho dến nay nhường đi, cũng chỉ khéo chiếm cho được mà thôi. Với cái ý muốn chiếm
cho được, khiến cho đường đường một Lư Viên Ngoại, chỉ là tựa bóng, mà không
còn bay khỏi nữa thước ra ngoài vũng nước, bấy giờ làm một người như Lư Viên
Ngoại, há cam chịu nước đó chăng?
Hoặc có người hỏi:Tống Giang muốn chiếm cho được, thấy đã được
rồi, còn có ý biết rằng có nhường cũng vẫn được ngôi ấy? Xin trả lời rằng: Ngôi
thứ nhất của Trung Nghĩa Đường, chẳng phải Tống Giang chiếm được, mà cũng không
phải Tống Giang nhường cho ai được, nếu khiến Tống Giang chiếm được một cách vô
lý thì mũi tên của Tiều Thiên Vương còn kia, nó cũng theo ai lập được công báo
được thù, mà ở ngôi ấy nay Tống Giang đã nhường, lại không ai dám nhận, tức Tống
Giang đã chiếm xong rồi, dù có ai báo nổi thù, mà lập nên công, cũng không dám
ngồi tranh ngôi đó rõ ràng như thế, mới hay con người vô sĩ, dùng hết mánh khoé
để chiếm về mình cho nên từng phen Lý Quỳ nói ra, như mắng vào mặt vô sĩ.
Người hay đa nghi như Ngô Dụng còn nghi Quan Thắng, thì không
chừa ai là chẳng khỏi nghi; người hay đa nghi như Tống Giang còn nghi Lý Quỳ, lại
không còn ai là chẳng khỏi nghi, hồi nầy chép luôn hai người nghi ngờ cho rõ tội
ác của Tống Giang, Ngô Dụng cùng che đậy cho nhau.
Tả Lý Quỳ gặp Tiêu Đĩnh, khiến người đọc đến, phải bậc lên tấm
lòng yêu hiếu thiện, bậc lên tấm lòng khiêm ức, mà chẳng bụng lừa người, chẳng
bụng bạc bẽo, mới hay Thiết Ngưu có hành động ấy khiến Nại Am có ngọn bút nầy.
Sau khi đánh thành Đại Danh, lại chẳng thấy nhắc đến mối thù
của Tiều Cái Thiên Vương, lại còn tiếp luôn một hồi đánh thâu hai tướng Thủy Hỏa,
cũng chẳng tả qua loa, tả ra rất là thay đổi khác, chẳng khỏi khiến người có cá
ý.
Tả đến hành động Quan Thắng, thấy như khí tượng đường hoàn của
Hán Quan Công, chả chút đáng chê, không ngờ trăm hoa đua sắc, nổi bậc Mẩu Đơn;
đọc giả xét ra sẽ thấy.
Hồi 67:
Tống Công Minh đánh phá Tăng Đầu Thị;
Lư Tuấn Nghĩa bắt sống Sử Văn Cung.
Bấy giờ Đoàn Cảnh Trụ nói với bọn Lâm Xung rằng:
- Tôi cùng Dương Lâm, Thạch Tú đi sang mạn Bắc, chọn mua được
hai trăm con ngựa rất khoẻ và đẹp, bất đồ về đến địa hạt Thanh Châu, gặp một
người tên là Hiểm Đạo Thần Úc Bảo Tứ, tụ hơn hai trăm người cướp lấy cả ngựa,
đem giải về Tăng Đầu Thị, còn Dương Lâm, Thạch Tú thì không biết bạt đi đâu mất.
Bởi vậy tôi phải trốn về đây báo cho sơn trại biết.
Lâm Xung nghe nói liền đưa về sơn trại, để nói cùng Tống Công
Minh, khi về tới Trung Nghĩa Đường, Quan Thắng dẫn Đan Đình Khuê, Ngụy Định Quốc,
vào chào Tống Giang cùng các Đầu Lĩnh rồi Lý Quỳ đem các chuyện giết Hàn Bá
Long gặp Tiêu Đĩnh, Bào Húc đi đánh Lăng Châu thuật cho mọi người nghe. Tống
Giang nghe nói lấy làm mừng vô hạn.
Hồi lâu các Đầu Lĩnh đương ngồi yến ẩm với nhau, Đoàn Cảnh Trụ
lại kể chuyện mất ngựa cho Tống Giang, Tống Giang nghe nói cả giận mà rằng:
- Ngày trước chúng đã cướp ngựa của ta, sau Tiều Thiên Vương
cũng bị bắn chết vì tay chúng, thù ấy vẫn chưa báo được. Nay chúng lại dám vô lễ
đến thế, nếu ta không đem binh đi đánh, tất thiên hạ chê cười ta đó.
Ngô Dụng tiếp luôn rằng:
- Hiện nay ngày xuân ấm áp, chính hợp cho sự hành binh, vậy
ta nên đi đánh ngay cho vui, ngày trước Tiều Thiên Vương bị thua là vì mất địa
lợi, vậy ngày nay ta nên dùng trí mà đánh mới được. Nay hãy cho Thời Thiên đến
đó treo tường khoét dậu, thám thính xem sao, rồi về đây ta sẽ liệu.
Thời Thiên vâng mệnh ra đi. Cách ba bốn hôm sau bỗng thấy
Dương Lâm, Thạch Tú trốn về sơn trại, kể lại Sử Văn Cung rất là vô lễ, thường
nói khoác thế nào cũng không chịu sống với bọn Lương Sơn. Tống Giang nghe nói
toan khởi binh đi ngay lập tức.
Ngô Dụng can rằng:
- Hãy đợi Thời Thiên về rồi sẽ khởi binh, có đi đâu mà vội?
Tống Giang vẫn hầm hầm tức giận, chỉ nóng báo cừu, không sao
chịu được liền sai Đới Tung đi thám thính mau mau để cho chóng việc.
Đới Tung vâng lệnh đi mấy hôm, rồi trở về trước Thời Thiên,
mà nói với Tống Giang rằng:
- Bọn Tăng Đầu Thị muốn báo thù cho phủ Lăng Châu, hiện nay
đã đóng đại trại ở chợ Tăng Đầu và đặt trướng Trung quân ở chùa Pháp Hoa, cắm cờ
mấy trăm dặm, không biết lối nào mà tiến được.
Ngô Dụng nghe nói, còn do dự chưa biết lập kế ra sao. Sáng
hôm sau chợt thấy Thời Thiên về báo rằng:
- Chúng tôi đi đến chợ Tăng Đầu, đã dò thám hết, rất kỹ tình
thế của chúng. Hiện nay chúng chia năm trại, trước mặt chợ Tăng Đầu có hơn ba
nghìn người coi giữ cửa thôn, trong trại có Sử Văn Cung coi giữ trại. Trại bên
Bắc có Tăng Đồ cùng Phó giáo sư Tô Định, trại bên Nam có Tăng Mật, trại bên Tây
có Tăng Sách, trại bên Đông có Tăng Khôi, cùng người cha là Tăng Lộng coi giữ.
Còn Úc Bảo Tử người ở Thanh Châu, thì cao một trượng, lưng lớn ba ôm, biệt hiệu
là Hiểm Đạo Thần Úc Bảo Tử, đã cướp lấy ngựa của ta hiện còn nuôi ở chùa Pháp
Hoa đó.
Ngô Dụng nghe nói liền tụ hội các tướng đến mà bàn rằng:
- Đằng ấy chúng có năm trại thì ta đây chia binh ra làm năm đạo
để đánh.
Lư Tuấn Nghĩa đứng dậy nói rằng:
- Lư mỗ nhờ ơn các ngài cứu cho lên núi, chưa có chút gì để đền
ơn, vậy ngày nay xin ra trước trận để đánh chẳng hay các ngài có thuận cho không?
Tống Giang nghe nói liền hỏi Ngô Dụng rằng:
- Viên Ngoại có lòng đi giùm, vậy có thể mời Viên Ngoại đi tiền
bộ được chăng?
Ngô Dụng đáp:
- Viên Ngoại mới đến đây chưa ra chiến trận, đường lối hiểm
trở khó lòng dò biết, không thể nào đi tiền bộ tiên phong được. Vậy xin Viên
Ngoại dẫn một chi quân nấp ở giữa khoảng Bình Xuyên rồi nghe hiệu súng Trung
quân mà kéo đến tiếp ứng. Thế là tiện hơn.
Tống Giang nghe nói cả mừng bèn cho Lư Viên Ngoại cùng Yến
Thanh dẫn năm trăm quân bộ đến nấp ở con đường nhỏ Bình Xuyên mà nghe hiệu. Đoạn
rồi cùng nhau cắt đặt năm đạo quân để đi đánh: Toán thứ nhất mã quân Đầu Lĩnh
là Tích Lịch Hỏa Tần Minh, Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh cùng Phó tướng Đặng Phi, Mã
Lân dẫn ba nghìn quân đánh trại chính Nam. Toán thứ nhì bộ quân Đầu Lĩnh Hoa
Hoà Thượng Lỗ Trí Thâm. Hành giả Võ Tòng cùng phó tướng Khổng Minh, Khổng Lượng
dẫn ba nghìn quân đánh trại chính Đông. Toán thứ ba mã quân Đầu Lĩnh Thanh Diện
Thú Dương Chí, Cửu Văn Long, Sử Tiến, cùng phó tướng Trần Đạt, Dương Xuân dẫn
ba nghìn quân đánh trại chính Bắc. Toán thứ tư bộ quân Đầu Lĩnh Mỹ Nhiêm Công
Chu Đồng, Sáp Sí Hổ Lôi Hoành cùng phó tướng Trâu Uyên, Trâu Nhuận dẫn ba nghìn
quân đánh trại chính Tây. Còn toán thứ năm thì Đô Đầu Lĩnh Tống Giang, quân sư
Ngô Dụng, Công Tôn Thắng, cùng các phó tướng là: Lã Phương, Quách Thịnh, Giải
Trân, Giải Bảo, Đới Tung, Thời Thiên dẫn năm nghìn quân đánh trại chính giữa. Hắc
Toàn Phong Lý Quỳ, Hỗn Thế Ma Vương Phàn Thụy cùng phó tướng là Hạng Sung, Lý Cổn
dẫn năm nghìn quân làm hợp hậu. Còn các Đầu Lĩnh khác đều ở nhà coi trại.
Khi cắt đặt xong, năm đạo quân đều xuống núi chia đường mà thẳng
đến đánh chợ Tăng Đầu.
Bên kia Tăng Trưởng Quan nghe báo quân mã Tống Giang sắp kéo
đến, bèn mời giáo sư Sử Văn Cung và Tô Định đến để bàn việc binh.
Sử Văn Cung bàn rằng:
- Đám Lương Sơn Bạc phần nhiều là binh cường tướng mạnh, ta
nên dùng kế đào hầm thì thế nào cũng tróc nã được chúng. Tăng Trưởng Quan khen
phải, liền sai trang khách đem mai cuốc ra đào mấy mươi hàng hầm hố ở trong
thôn, bên trên phủ qua lượt đất, rồi cho quân binh nấp bốn bên đường để đón bắt.
Lại sai đào mấy mươi hàng hầm hố nữa về phía Bắc Tăng Đầu Thị để đợi.
Bên kia khi quân mã Tống Giang đã bắt đầu khởi hành, Ngô Dụng
lại sai Thời Thiên dấn mau đi trước để dò đường. Cách mấy bữa Thời Thiên trở lại
bảo rằng:
- Đường vào các trại Nam Bắc ở Tăng Đầu thì đều đào hầm hố rất
nhiều, nếu quân mã ta lỡ mắc vào đó thì tất là nguy mất.
Ngô Dụng nghe nói cả cười mà rằng:
- Kế ấy thì lấy chi làm lạ! Nói đoạn liền truyền cho quân mã
cứ tiến lên để đánh.
Một hôm vào khoảng giờ ngọ, quân mã kéo gần đến Tăng Đầu Thị,
chợt thấy có một người khăn xanh bào trắng cưỡi ngựa đeo nhạc xủng xoảng tay cầm
đỏan thương đi đến. Tiền đội trông thấy toan kéo quân đuổi đánh. Ngô Dụng liền
ngăn lại rồi truyền lệnh năm đạo quân mã đều chia mạn hạ trại, đào hào đắp lũy
rắc chông rào dậu phòng bị rất là nghiêm mật.
Người lại truyền cho Thời Thiên ăn mặc giả làm quân lính để
dò xét xem các nơi hầm hố tất cả có mấy chỗ, cách xa trại quân chừng độ bao
nhiêu và ghi nhớ lấy dấu hiệu để về báo. Thời Thiên vâng lệnh đi xét một ngày rồi
về báo rõ ràng dấu tích các nơi hầm hố cho Ngô Dụng biết.
Ngày hôm sau Ngô Dụng truyền lệnh cho tiền quân chia làm hai
đội đem đủ các đồ mai cuốc và xe hơn một trăm xe cỏ khô củi nỏ đi giấu ở trong
quân. Đoạn rồi truyền lệnh cho các Đầu Lĩnh cứ đến giờ Tỵ hôm sau thì đám quân
bộ hai đường Đông Tây tiến đánh, còn Dương Chí, Sử Tiến ở bên Bắc thì phải dẫn
quân mã ra đó, rồi đánh trống khua cờ, hư trương thanh thế mà không cho tiến
lên. Khi phân phát xong rồi các tướng đều y lệnh để đợi thi hành.
Về phần Sử Văn Cung khi đã đào xong các hầm hố chỉ đợi cho Tống
Giang kéo quân mã sấn vào là thế nào cũng sa xuống hố mà tóm bắt được cả. Chợt
đâu đến giờ tỵ nom thấy ở trước trại có hiệu súng nổi lên, rồi có đại đội binh
mã kéo đến mạn nam, đông như kiến cỏ. Rồi sau thấy trại bên Đông vào báo rằng:
- Có một lão hoà thượng múa cây thuyền trượng và một người hành
giả múa hai khẩu giới đao, đánh cả đằng trước đằng sau trại.
Sử Văn Cung nghe báo liền nói rằng:
- Hai tên ấy chừng là Lỗ Trí Thâm cùng Võ Tòng ở Lương Sơn Bạc
hẳn.
Nói đoạn lại sợ sức Tăng Khôi không chống nổi, bèn sai người
ra Đông trại để giúp sức.
Chợt lại thấy Tây trại vào báo: Có một người râu dài và một
người mặt tía, trên cờ có đề chữ "Mỹ Nhiêm Công Chu Đồng", và
"Sáp Sí Hổ Lôi Hoành", kéo quân đến đánh rất gấp, Sử Văn Cung nghe
báo lại sai người sang giúp sức với Tăng Sách ở Tây trại, bỗng lại nghe thấy
trước Trại có hiệu súng nổi lên. Sử Văn Cung vẫn lặng yên không ra tiếp ứng, chỉ
đợi cho quân mã bọn kia sa xuống hố, rồi sẽ ra bắt, đằng kia Ngô Dụng đem quân
lần theo dõi sau núi chia làm hai đường kéo vào đến trại. Bấy giờ đám tiền quân
của Sử Văn Cung còn cấp về việc coi trại, không dám rời đi, còn đám phục binh
thì vẫn dàn hàng, mà nấp ở hai bên hầm hố phía trước, Ngô Dụng kéo quân tới nơi
liền đánh đám phục binh ngã sấp cả xuống hầm hố.
Sử Văn Cung thấy vậy, kéo binh ra để đuổi. Ngô Dụng liền cầm
roi trỏ Trung quân đẩy trăm xe cỏ, kéo ra nhất tề phóng lửa để đốt. Quân mã Sử
Văn Cung kéo tới nơi, bị lửa đốt ngăn đường lại, đành phải kéo nhau trở lại.
Khi đó Công Tôn Thắng đứng ở trong trận, cầm kiếm làm phép, rồi bỗng nổi một trận
gió to, cuốn khói lửa đưa vào lối cửa bên Nam, làm cho gác canh cùng dậu vách
cùng bị thiêu đốt cháy cả. Đoạn rồi đôi bên cùng khua chiên thu quân, rồi Sử
Văn Cung lập tức cho sửa sang cử a trại lại nguyên như cũ.
Ngày hôm sau Tăng Đồ bàn với Sử Văn Cung rằng:
- Nếu không chém được đầu giặc, thì không thể nào mà triệt đi
được. Vậy hôm nay xin giáo sư coi trại, để tôi ra đánh một trận xem sao.
Nói đoạn liền cưỡi ngựa dẫn quân ra trận khơi đánh. Tống
Giang ở Trung quân, liền dẫn Lã Phương ra trước trận để đón.
Khi ra tới cửa trận, thấy Tăng Đồ hầm hầm giận dữ. Tống Giang
liền cầm roi mà nói rằng:
- Ai ra bắt thằng kia cho ta, để báo thù khi trước.
Nói dứt lời thì Tiều Oân hầu Lã Phương vác Thiên Phương Họa
Kích, vỗ ngựa ra đánh Tăng Đồ. Đôi bên đánh nhau chừng hơn ba mươi hiệp, thì Lã
Phương có phần hơi núng, không địch nổi với Tăng Đồ, đao pháp đã hơi rối loạn.
Quách Thịnh thấy vậy liền vỗ ngựa cùng múa Thiên Phương Họa Kích ra để cùng
đánh Tăng Đồ.
Ba người ba ngựa quần nhau ở trước trận một lúc, rồi bỗng
dưng ba thứ quân khí, bị vướng ngù vào với nhau, không sao mà dằng ra được.
Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh đứng trong trận thấy vậy, bèn sấn ngựa
ra tay tả co giây cung, tay giữa đặt tên nhằm giữa Tăng Đồ để bắn. Khi đó Tăng
Đồ đã rút được cây thương ra, mà hai cây kích của Lã Phương, Quách Thịnh còn soắn
sít lấy nhau chưa sao gỡ được. Tăng Đồ thấy thế, giơ thương toan đánh, thì vừa
hay mũi tên của Hoa Vinh đã tới, bắn trúng ngay vào vai Tăng Đồ ngã lăn xuống
ngựa, Lã Phương, Quách Thịnh thấy Tăng Đồ ngã, chém cho một nhát chết ở giữa trận.
Quân sĩ Tăng gia vội vàng phi ngựa báo cho Sử Văn Cung và đến Trung trại báo
cho Tăng Trưởng Quan biết.
Tăng Trưởng Quan nghe báo lấy làm thương xót mà khóc nức nở
lên một lúc, bấy giờ Tăng Thăng đứng ở bên cạnh nghe nói anh chết, liền gọi người
lấy ngựa ra để đi đánh báo thù cho anh. Tăng Trưởng Quan ngăn giữ không được,
đành phải để cho Tăng Thăng đi.
Nguyên Tăng Thăng là một tay võ nghệ cao cường, khiến hai khẩu
phi đao không ai hề dám gần đến. Khi đó chàng vác đao lên ngựa, đi ra đến tiền
trại, Sử Văn Cung cũng ngăn lại mà rằng:
- Tiểu tướng quân không nên vội ra. Bên trận Tống Giang trí
dũng rất nhiều, khó lòng địch nổi, vậy cứ ý tôi, thiết tưởng ta nên giữ vững
năm trại, cho người báo với Lăng Châu để tâu với triều đình, đem nhiều binh mã
chia làm hai đường ra đánh Lương Sơn, và cứu ứng ở đây, thì bấy giờ mới có thể
lập công được.
Đương khi nói chuyện thì thấy phó giáo sư là Tô Định ở Bắc trại
cũng đến đó. Tô Định nghe lời Sử Văn Cung cũng lấy làm phải, mà nói rằng:
- Ngô Dụng ở Lương Sơn Bạc là một người lắm mưu nhiều kế,
không thể coi khinh được, ta chỉ nên giữ vững lấy trại đợi cứu binh đến, rồi ta
sẽ liệu.
Tăng Thăng kêu lên rằng:
- Nó giết Ca Ca ta, oán thù ấy tất là phải báo, nay nếu để
cho nó tự do hành động mà không trị đi, thì sau nầy còn làm gì được nữa?
Sử Văn Cung cố can không được. Tăng Thăng liền hăm hở lên ngựa
dẫn mấy mươi quân kỵ ra trận khơi đánh.
Tống Giang liền truyền cho Tần Minh ra đón đánh Tăng Thăng, Tần
Minh vâng lệnh lên đường sắp đi ra thì thấy có người mình đen chùi chũi, cởi trần
trùng trục, múa song phủ xồng xộc chạy thẳng đến trại Tăng Thăng để đánh.
Đám quân sĩ của tăng Thăng trông thấy liền bảo với Tăng Thăng
rằng:
- Người ấy là Hắc Toàn Phong ở Lương Sơn Bạc đó.
Tăng Thăng nghe nói liền truyền cho quân sĩ lấy cung tên ra bắn.
Lý Quỳ đang hăng hái vô ý bị một mũi tên bắn vào chân ngã lăn ra trước trận.
Quân mã của Tăng Thăng đều xông ra để bắt.
Bên kia Tần Minh, Hoa Vinh phóng ngựa ra để cứu, rồi Mã Lân Đặng
Phi, Lã Phương, Quách Thịnh đều nhất tề xông ra cứu Lý Quỳ đem về bản trận.
Tăng Thăng thấy bên trận Tống Giang đông người, liền đem quân trở về mà không
dám đánh nữa.
Ngày hôm sau, Sử Văn Cung cùng Tô Định đều định đóng binh yên
giữ, song Tăng Thăng nóng ruột về việc báo cừu choa nhiều bèn cố giục Sử Văn
Cung phải ra đối trận. Sử Văn Cung bất đắc dĩ phải đóng đai giáp, cưỡi con ngựa
Thiên Lý Long Câu Chiếu Dạ Ngọc Sư Tử cướp được của Đoàn cảnh trụ khi trước mà
xông ra để đánh.
Bên kia Tống Giang dẫn các tướng ra dàn trận để đón. Khi Tống
Giang trông thấy con ngựa Ngọc Sư Tử thì trong lòng lấy làm căm tức, liền truyền
lệnh cho tiền quân xông ra để đánh Sử Văn Cung.
Tần Minh nghe lệnh bèn vỗ ngựa xông ra đối trận. Hai bên đánh
nhau chừng hơn hai mươi hiệp, Tần Minh nghe hơi núng thế vội quay ngựa chạy về
bản trận.
Sử Văn Cung ra sức sấn lên cầm thương đâm vào chân Tần Minh một
nhát ngã lăn xuống đất. Lã Phương, Quách Thịnh, Mã Lân, Đặng Phi thấy vậy đều
xông ra liều chết cứu được Tần Minh về. Quân sĩ cả thua một trận. Tống Giang
lui quân ra ngoài mươi dặm hạ trại, rồi sai người xe Tần Minh về sơn trại phục
thuốc, và mật gọi Quan Thắng, Từ Ninh và Đan Đình Khuê, Ngụy Định Quốc xuống
núi để giúp.
Tống Giang đốt hương khấn trời đất qủy thần xin một quẻ bói
đưa cho Ngô Dụng xem.
Ngô Dụng xem xong bảo với Tống Giang rằng:
- Phen nầy tất được thanh thỏa không can chi cả. Duy đêm nay
chúng sẽ vào cướp trại ta đây. Nếu vậy thì phòng bị trước đi mới được.
- Vâng xin Huynh trưởng cứ vững tâm truyền cho năm quân ngay
bây giờ là được rồi.
Nói đoạn liền hạ lệnh cho quân mã các trại đều mai phục tất cả
các nơi và để Giải Trân ở bên tả, Giải Bảo ở bên hữu, để đợi hiệu thi hành.
Đêm hôm đó trời trong trăng sáng, Sử Văn Cung ngồi ở trong trại
bàn với Tăng Thăng rằng:
- Quân giặc hôm nay bị thương mất hai tướng, chắc là trong
lòng kinh khiếp, vậy ta nên thừa thế mà cướp trại thì tất là được nên công.
Tăng Thăng nghe nói liền gọi Tô Định ở Bắc trại, Tăng Mật ở
Nam trại, và Tăng Sách ở Tây trại đều dẫn quân đi cướp trại Tống Giang. Vào khoảng
canh hai đêm hôm ấy quân mã đều im phắc, người mặc giáp mềm, ngựa bỏ vòng nhạc
mà thẳng kéo ra đi.
Khi tới trại Trung quân của Tống Giang thấy bốn bên vắng vẻ
không có một ai, bọn Tăng Thăng biết là có kế, liền quay ngựa kéo nhau lui ra.
Chợt đâu thấy bên tả có Giải Trân, bên hữu có Giải Bảo, rồi mặt sau có Tiểu Lý
Quảng Hoa Vinh đều nhất tề xông ra để đánh.
Tăng Sách lúng túng trong đêm tối mò, bị Giải Trân đâm cho một
nhát phương xoa chết lăn xuống ngựa rồi phóng lửa nổi hiệu các quân đều ập vào
để đánh. Bọn Sử Văn Cung hết sức cướp đường để chạy, mãi sau mới được thoát về
trong trại.
Tăng Trưởng Quan thấy Tăng Sách lại bị chết trong lòng lại
càng thương cảm bội phần, ngày hôm sau liền bàn với Sử Văn Cung để viết giấy
xin đầu hàng Tống Giang. Bấy giờ Sử Văn Cung cũng có điều chột dạ, không dám
hung hăng, bèn tán thành việc đó rồi viết giấy sai người thẳng đem sang trại Tống
Giang.
Tống Giang bắt được giấy, bóc ra xem thấy trong đó nói rằng:
- "Tôi chủ chợ Tăng Đầu, tên là Tăng Lộng, cúi lạy trình
Tống Công Minh thống quân Đầu Lĩnh. Trước đây vì con tôi ngu dại, cậy khoẻ khoe
tài, làm càn làm dở cướp ngựa của ngài, rồi sau Thiên Vương xuống núi, lại bị đứa
tiểu tốt vi tri bắn tên ngầm mà hại tính mạng, điều đó thực là tội nặng muôn
trùng, không dám có điều chi từ chối.
Song thiết nghĩ việc đó không phải là thiện ý của chúng tôi,
và đứa con ngu dại ngày nay cũng đã chết rồi, vậy tôi xin cả gan cho sứ mang
thơ để cầu hoà cùng Thống Quân Đầu Lĩnh.
Nếu ngài có rộng lòng thương tới, im việc can qua, thì tôi
đem cái số ngựa đã cướp khi xưa nộp trả lại ngài, và xin dâng vàng bạc khao thưởng
tam quân, để đôi bên khỏi phần thiệt hại. Lòng thành ý thực xin lượng xét cho.
Tống Giang xem thơ xong liếc mắt nhìn Ngô Dụng rồi nét mặt giận
dữ hầm hầm, xé thơ mà mắng rằng:
- Bay giết Huynh trưởng ta, khi nào ta im đi được! Phen nầy tất
phải quét sạch toàn hạt bay đi thì ta mới thỏa.
Người đưa thơ nghe nói vậy sợ hãi run lên mà cúi rạp xuống đất.
Ngô Dụng liền can Tống Giang rằng:
- Huynh trưởng không nên nghĩ thế, chúng ta tranh nhau đây chẳng
qua chỉ vì nghĩa khí mà thôi... Vậy nay Tăng Gia đã cho người đưa thơ sang cầu
hoà, nếu ta còn chấp lòng căm giận mà bỏ mất đạo nghĩa thì sao cho tiện.
Nói đoạn liền sai viết thơ trả lời và thưởng cho người đưa
thơ mười lạng bạc mà cho đem về. Người kia vâng lệnh đem thơ về trình.
Tăng Trưởng Quan cùng Sử Văn Cung bóc thư ra xem trong thư
nói:
"Lương Sơn Bạc Chủ Tướng là Tống Giang xin trả lời cho
chủ chợ Tăng Đầu là Tăng Lộng biết: Từ xưa tới nay nước không tín tất mất, người
không lẽ tất chết, của không nghĩa tất mất, tướng không mạnh tất thua, đó là lẽ
trời đất thế.
Lương Sơn Bạc đối với Tăng Đầu, thì trước sau không có thù hằn,
chỉ vì làm càn làm dở, mà gây nên tai vạ ngày nay.
Vậy nếu muốn giảng hoà, thì phải trả lại các số ngựa đã cướp,
và đem nộp tên hung đồ cướp ngựa là Úc Bảo Tứ, cùng là tiền bạc khao quân sĩ, rồi
từ đây dốc lòng hoà thuận, không được sai lời... Nếu có một điều gì trái phép,
bấy giờ ta sẽ liệu cho không còn phàn nàn được nữa".
Hai người xem xong lấy làm kinh sợ vô cùng. Sáng hôm sau Tăng
Đầu lại cho người sang nói với Tống Giang rằng:
- Xin nộp Úc Bảo Tứ và xin cho mấy người đến để làm tin.
Tống Giang nghe nói liền truyền cho Thời Thiên, Lý Quỳ, Phàn
Thụy, Hạng Sung, Lý Cổn theo sang trại Tăng Gia làm tin.
Khi năm người ra đi Ngô Dụng gọi Thời Thiên ghé vào tai dặn
thầm rằng:
- Nếu lỡ khi có biến, thì cứ thế nầy mà làm.
Đoạn rồi năm người vâng lệnh ra đi. Khi sang đến trại Tăng Đầu,
Thời Thiên dắt bốn người vào chào Tăng Lộng mà nói rằng:
- Chúng tôi vâng tướng lệnh Ca Ca, xin sang đây để làm tin.
Sử Văn Cung nói lên rằng:
- Ngô Dụng sai năm người đến đây, vị tất đã không có mưu kế
gì?
Lý Quỳ nghe nói cả giận mà nắm lấy Sử Văn Cungntoan đánh.
Tăng Lộng vội vàng đứng dậy mà khuyên giải ra.
Thời Thiên nói với hai người rằng:
- Lý Quỳ tuy là người thô mãng, song hiện là một người tâm
phúc của Tống Công Minh, nay sai sang đây thì không còn điều gì đáng ngờ nữa.
Tăng Lộng cũng dốc lòng giảng hoà, nên chẳng nhắc gì đến lời
của Sử Văn Cung nữa, liền sai đặt rượu đãi năm người, rồi mới sang chùa Pháp
Hoa, cho năm trăm quân vây giữ trước sau. Đoạn rồi cho Tăng Thăng đem Úc Bảo Tứ,
cùng các lễ vật sang trại Tống Giang để giải hòa.
- Ngựa này toàn là ngựa cướp chuyến sau, còn con ngựa Thiên
Lý Long Câu Chiếu Dạ Ngọc Sư Tử cướp của Đoàn Cảnh Trụ chuyến trước, sao không
thấy ở đây?
Tăng Thăng nói:
- Con ngựa hiện sư phụ Sử Văn Cung để cưỡi, nên chưa đem được
đến đây.
Nếu vậy phải viết giấy bảo mang sang đây mau.
Tăng Thăng bèn viết giấy cho người mang về trại, để đòi con
ngựa Ngọc Sư Tử mang sang.
Sử Văn Cung tiếp được giấy trả lời rằng:
- Con ngựa khác thì không dám tiếc, duy con ngựa ấy thì không
thể nào mà đưa đi được...
Tống Giang nghe nói, lại sai người sang hỏi. Sau Sử Văn Cung
đáp rằng:
- Muốn lấy con ngựa ấy thì phải lui quân ngay lập tức mới được.
Tống Giang thấy vậy, bàn định với Ngô Dụng, chưa biết kế sách
ra sao. Chợt đâu có tin báo Lăng Châu với Thanh Châu dẫn hai đạo quân mã sắp tới
nơi.
Tống Giang nghe nói liền cười nhạt mà rằng:
- Quân kia biết tất nó giở quẻ với mình.
Nói đoạn liền truyền lệnh cho Quan Thắng, Đan Đình Khuê, Ngụy
Định Quốc dẫn quân mã đón bọn Thanh Châu, Hoa Vinh, Mã Lân, Đặng Phi ra đón
quân mã Lăng Châu, Tống Giang lại mật gọi Úc bảo Tứ đến, lấy lời lẽ tử tế dỗ
dành, tiếp đãi một cách rất ân nghĩa, và nói rằng:
- Nếu ngươi hết sức vì ta phen nầy, ta cho làm Đầu Lĩnh ở sơn
trại, và xoá hết thù xưa. Bằng không thì nay mai Tăng Đầu bị phá, bấy giờ ngươi
xử trí ra sao.
Úc Bảo Tứ nghe nói cúi lạy tạ ơn, rồi tình nguyện xin theo dưới
trướng.
Ngô Dụng liền dặn kế cho Úc Bảo Tứ rằng:
- Ngươi giả cách trốn về nói với Sử Văn Cung rằng: Ngươi với
Tăng Thăng đến trại giảng hoà đã dò được tin đích xác, hiện nay Tống Giang chỉ
định lừa lấy con ngựa Thiên Lý, rồi sau giở quẻ chứ không thực bụng giảng hoà.
Và ngày nay nghe nói, hai đạo quân Thanh Châu và Lăng Châu kéo đến, thì trong
lòng đương lo sợ, vậy ta nên thừa thế thi hành, chớ nên bỏ lỡ, như vậy nếu hắn
nghe lời, thì ta sẽ có cách, ngươi phải đi ngay mới được.
Úc Bảo Tứ vâng lời, trốn về trong trại Sử Văn Cung, đem mấy lời
đó nói với Sử Văn Cung, Sử Văn Cung liền dẫn Úc Bảo Tứ đến trình Tăng Trưởng
Quan, nói rõ ý Tống Giang không định giảng hoà, mà bàn định với Tăng Trưởng
Quan thừa thế sang cướp trại Tống Giang.
Tăng Trưởng Quan nói rằng:
- Tăng Thăng hiện còn ở đó, nếu mình sai lời thì tất bị hắn
giết mất.
Nói đoạn đâm cho Sử Văn Cung một đao vào đùi ngã lăn xuống ngựa,
rồi trói lại mà giải về Tăng Đầu Thị. Yến Thanh liền dắt con ngựa Long Câu về để
nộp.
Tống Giang trông thấy trong lòng nữa não nửa mừng, sai đem
Tăng Thăng ra chém, rồi bắt chém hết già trẻ nhà họ Tăng, mà không để sót một
ai. Đoạn rồi lấy hết kim ngân châu bảo, cùng thóc gạo lương thực xếp tất cả lên
xe để đem về.
Bên kia tụi Quan Thắng đánh đuổi được quân mã Thanh Châu, Hoa
Vinh đánh đuổi được binh mã Lăng Châu, rồi hai toán quân cùng kéo về đại trại,
không thiếu một ai.
Tống Giang thấy vậy cả mừng, bèn cho Sử Văn Cung vào xe tù, rồi
thu thập quân mã, lương thảo mà trở về Sơn Bạc.
Khi về tới Trung Nghĩa Đường, các Đầu Lĩnh đều đến làm lễ cáo
với Tiều Thiên Vương, Sai Tiêu Nhượng làm văn tế để tế, rồi các Đầu Lĩnh đều ăn
mặc tang phục, khóc thương nức nở, và moi ruột Sử Văn Cung lên để tế.
Khi tế lễ xong rồi, Tống Giang liền bàn với các Đầu Lĩnh để lập
chủ Lương Sơn Bạc, Ngô Dụng nói lên rằng:
- Huynh trưởng ở ngôi trên rồi đến Lư Viên Ngoại thứ nhì, còn
các anh em xin cứ theo như cũ.
Tống Giang nói:
- Khi trước Tiều Thiên Vương đã dặn lại rằng: Nếu ai bắt được
Sử Văn Cung, tất phải làm chủ Lương Sơn Bạc. Vậy ngày nay, Lư Viên Ngoại bắt sống
được tên giặc đó đem về để tế, thì tất nhiên tôn vị đến tay, không phải nói
năng lôi thôi chi nữa.
Lư Tuấn Nghĩa nói:
- Tiểu đệ tài hèn sức kém, đâu dám đứng vào vị ấy. Huynh trưởng
có lòng cho được theo hầu cũng là quá đáng lắm rồi.
Tống Giang đáp rằng:
- Không phải là Tống mỗ quá khiêm, song Tống mỗ có ba điều
không bằng viên ngoại. Điều thứ nhất tôi đây dáng người đen ngắn, mà Viên Ngoại
thì tướng mạo đường đường, uy phong lẫm lẫm, không mấy người bằng. Điều thứ hai
tôi đây xuất thân làm đứa tiểu lại, phạm tội trốn tránh tới đây, may được anh
em có lòng yêu mến, mà cho tạm ở tôn vị, còn Viên Ngoại thì sinh ra ở nhà hào
phú, lớn lên có tiếng anh hùng, thực không ai bằng được. Ba là Tống Giang tôi
văn không yên nổi nước, võ không phục nổi người, tay không sức trói nổi con gà,
thân không có một mảy công lao, mà Viên Ngoại thì sức địch muôn người, rộng xem
kim cổ, điều đó lại không theo kịp. Vậy Viên Ngoại có tài năng như thế, chính
nên nhận lấy chức chủ sơn trại, làm nên quan tước giàu sang, khiến cho anh em
cũng được vẻ vang đôi chút. Tống Giang tôi định như vậy, xin đừng từ chối nữa?
Lư Tuấn Nghĩa nghe nói, lạy rạp xuống mà rằng:
- Huynh trưởng đừng nên bàn phiếm nữa, Lưu Trung Thư mỗ dù chết
cũng không dám theo lời.
Ngô Dụng lại nói rằng:
- Huynh trưởng ở ngôi trên, rồi đến Viên Ngoại thì ai ai cũng
phục, nếu Huynh trưởng nhường nhịn mãi, thì e lòng chúng lại nhạt nhẽo không ra
gì.
Nói đoạn liếc mắt đưa khắp cả mọi người quanh đó.
Bấy giờ Lý Quỳ kêu lên rằng:
- Tôi ở Giang Châu, liều thân liều mạng, theo anh đến đây, ai
ai cũng phải nhường anh mới được, tôi đây dẫu Trời cũng không sợ, cần gì mà phải
nhường đứa nào. Tôi bực lên thì tan nát cả bây giờ.
Võ Tòng thấy vậy cũng chạy đến kêu lên rằng:
- Hiện nay bao nhiêu quân quan thuộc tay Ca Ca, đều là những
người sắc mệnh triều đình, người ta chỉ nhường Ca Ca chứ không nhường ai nữa.
Lưu Đường cũng nói lên rằng:
- Khi trước bảy anh em chúng tôi ở đây, đã có bụng nhường Ca
Ca rồi, nay cần gì mà Ca Ca còn phải nhường ai?
Lỗ Trí Thâm cũng kêu lên rằng:
- Nếu Ca Ca còn lễ nghĩa nhúng nhường mãi, thì tụi ta giải
tán là xong.
Tống Giang thấy chúng nói liền đáp lên rằng:
- Anh em hãy im tất cả, tôi có cách hỏi xem ý Trời ra sao, rồi
mới có thể định được.
Ngô Dụng hỏi:
- Huynh trưởng có cách gì cao kiến?
Tống Giang đáp:
- Tôi có hai cách nầy, để xin nói với anh em cùng hỏi ý Trời
xem sao.
Mới hay:
Người nghĩa khí bậc anh tài,
Dẫu mà sinh tử dám sai tấc lòng,
Nước non là nước non chung,
Mong sao gặp khách anh hùng chủ trương.
Sá chi tham muốn giàu sang,
Mà quên nghĩa lớn thói thường như ai?
Có ta âu cũng có người,
Thử xem chuyển vận cơ trời sao đây?
Lời bàn của Thánh Thán:
Ta trước nói Tống Giang muốn giết Tiều Cái, còn có người ngờ,
nay đọc hồi nầy, mới thấy ý kiến tác giả kia vậy, tả ra giáo giở khúc chiết cho
rõ tội Tống Giang chẳng muốn báo thù cho Tiều Cái vậy, sao mà rõ ý tứ như thế vậy
thay.
Một đoạn tả Đoàn Cảnh Trụ nói rằng: Uùc Bảo Tứ cướp ngựa đem
về Tăng Đầu Thị mất... ôi! Ba chữ Tăng đầu Thị thì há chẳng phải Tống Giang
không ghi lòng tạc dạ nhớ đến hay sao, viết vào đá, khắc vào gỗ ngày đêm kêu
khóc lệ ra nước máu vậy thay? Thế mà từ khi đình việc tang ở ngôi đến nay, bỏ
lãng đi không nhắc đến, thấy rằng Tống Giang chẳng từng nhắc đến nên Ngô Dụng
cũng không nhắc đến, Lâm Xung cũng không nhắc đến, cho đến mọi người trên dưới
trong sảnh cũng không ai nhắc đến, và cũng chẳng biết thế nào mà nhắc đến. Nay
bỗng đâu từ Đoàn Cảnh Trụ về, lại giở ra nhắc đến, như thế Tống Giang không còn
bịt miệng chúng vậy.
Hai nữa Đoàn Cảnh Trụ nói rõ việc cướp ngựa, Tống Giang nghe
mà cả giận, ôi! Tăng Đầu Thị không thể nào tha, đã một lần cướp ngựa, lại hai lần
cướp ngựa, đã một lần bực tức, lại còn đến hai lần, ai mà chả tức? Thế mà xét đến
báo thù cho Tiều Thiên Vương bị bắn chết, thì sự đau lòng nhớ đến tất phải có
phận sự rồi! Đến nay tên thề còn đó, hàng tháng chẳng nhắc, lại cái nhục bị cướp
ngựa, thì giờ khắc chẳng nêu ra, làm sao nhẫn tâm như thế được?
Ba nữa, Tiều Cái để lại lệnh rằng: Nếu ai bắt được Sử Văn
Cung thì làm chủ Sơn Bạc, tời khi Tống Giang sai khiến Chư tướng như Từ Ninh,
Hô Duyên Chước, Quan Thắng, Sách Siêu, Đan Đình Khuê, Ngụy Định Quốc, Tuyên
Tán, Hắc Tư Văn... Lại không dám sai lũ ấy. Xem ra đối với cái thù bất cộng,
thì chẳng kịp ăn, phải báo cho xong có chết cũng cam, mà Tống Giang có chí báo
thù, thì phải hãy để không ngôi chủ ấy làm trọng thưởng, cho hết thảy dũng sĩ;
Tống Giang mà chí tôn giữ ngôi chủ trại kia, tất không muốn báo thù cho Tiều
Cái vậy, cũng không ai có thể trách đến, nên khi đánh báo thù, chỉ cử những
viên tướng loàng xoàng, thì bắt sao nổi Sử Văn Cung, làm sao hòng làm chủ sơn
trại với Tống Giang nổi?
Bốn nữa, trong đám người mới tới, chỉ Lư Tuấn Nghĩa đứng lên
xin đi, Tống Giang còn hỏi lại Ngô Dụng có nên không? Ngô Dụng cắt cho chỗ nhàn
rỗi, vì rằng theo phép khiển tướng, thứ nhất là tiên phong, thứ hai tả quân, thứ
ba hữu quân, thứ tư trung quân, thứ năm hợp hậu, thứ sáu mới đến phục quân, phục
quân thì đã định kế tóan, biết là phải thua, mà thua phải đi đường ấy mà trốn?Nếu
chưa biết rằng địch đã thua, mà thua phải đi đường ấy mà trốn, mà lại khiến
Viên Ngoại đi đường ấy trước để mai phục quân, thì rõ ràng không khiến Viên Ngoại
bắt được Sử Văn Cung, thì là An trí Lư Tuấn Nghĩa một nơi đó vậy.
Năm nữa Sử Văn Cung cưỡi ngựa, lại là con Chiếu Dạ Ngọc Sư Tử,
Tống Giang nom thấy ngựa tốt, đã sốt ruột nóng đầu, vì con ngựa Sử Văn Cung cưỡi,
vốn con ngựa đã cướp của Đoàn Cảnh Trụ đem đến cho mình, hơn nữa lại Sử Văn
Cung bắn chết Tiều Cái. Lời ngạn có nói: Khi gặp bạn tốt, con mắt rõ ra, khi gặp
kẻ thù, con mắt giận dữ, ý nói trong lòng làm sao hiện ra con mắt. Nay Tống
Giang vì con ngựa quý, thì phải trước vì ngựa, mà Tống Giang vì Tiều Cái, thì
trước phải nghĩ đến Sử Văn Cung, nay Sử Văn Cung vỗ ngựa tới nơi, mà chỉ chép đến
ngựa quý, làm Tống Giang sốt ruột nóng đầu, chép rõ con ngựa ở mắt Tống Giang,
thì thấy Tống Giang đi đánh báo thù, cũng chỉ vì con ngựa quý.
Sáu nữa, bức thư vấn tội, khinh trách việc giết Tiều Cái, trọng
trách việc cướp ngựa, đòi trả hai lần ngựa bị cướp, phải đòi trả Ngọc Sư Tử,
thì ra đòi hai lần mất ngựa, Tống Giang chỉ cần đến Ngọc Sư Tử mà thôi ư? Nếu
đòi ngựa mất hai lần, mà Tống Giang lại được con ngựa Chiếu Dạ Ngọc Sư Tử, thì
Tống Giang hẳn ban sư về núi, không thèm đánh nữa! May mà Bảo Tứ nội phản, kế
Phục Oa thành, động chuông chùa Pháp Hoa, năm anh họ Tăng chết cả đấy! Nếu chẳng
may hai đội quân Thanh Châu, Lăng Châu đến kịp, biến thành cái ước hoà giải,
thì ra Tống Giang kêu khóc ngày đêm, nhớ đến Thiên Vương, cũng chẳng qua vì con
ngựa quý?
Bảy nữa, Lư Tuấn Nghĩa đã lập nổi công rồi, Tống Giang còn
đánh trống hợp chúng lại như kéo bè, để mà nói đến lập chủ. Chao ôi! Thương nghị,
thì có bao giờ xong, với số đông tâm phúc của Tống Giang, tại làm sao lại quanh
co mãi thế, thiết tưởng đã có lệnh của Thiên Vương để lại tên đó làm bằng, đến
nay Lư Tuấn Nghĩa bắt được Sử Văn Cung, thì ngôi chủ sơn trại chỉ một lời là đủ,
lại còn hợp chúng, rồi lại bày ra hỏi ý trời, về việc đua nhau đi cướp cái
lương, để lại định ngôi chủ trại... Sao mà khéo biến hoá ra nhiều thế, đến như
thế là ghê lắm vậy? Chao ôi! Tác giả chép ra, dụng ý làm cho rõ ràng tội của Tống
Giang, thế mà những kẻ ngu phu, chẳng cho rằng muốn giết Tiều Cái, lại khư khư
đem Trung với Nghĩa gán cho người đó để nêu cao, há chẳng quái lạ mà đáng than
thở cho đời kia hay sao?
Hồi 68:
Tới Đông Bình Phủ, Sử Văn Long mắc nạn;
Bắt Song Thương Tướng, Tống Công Minh lập công.
Bấy giờ Tống Giang nói với mọi người rằng:
- Hiện nay sơn trại ta thì thiếu lương, và gần đây có phủ
Đông Bình và phủ Đông Xương đều là những nơi trù phú, mà chúng ta xưa nay cũng
chưa từng quấy nhiễu ai. Vậy ngày nay tôi cùng Viên Ngoại rút thẻ xem ai rút phải
thẻ nào, thì đem binh đến đó mà vây lấy lương thảo, rồi ai đánh được trước thì
làm chủ Lương Sơn.
Ngô Dụng nói:
- Thế thì rất phải lắm.
Lư Tuấn Nghĩa gạt đi mà rằng:
- Không thế được, Huynh trưởng tất phải làm chủ sơn trại, tôi
không khi nào dám thi công như thế.
Tống Giang nhất định thi hành, liền sai Bùi Tuyên viết hai
cái thẻ, đem ra khấn trời đất qủy thần rồi Tống Giang cùng Lư Tuấn Nghĩa phải mỗi
người rút một cái. Khi mở ra xem, Tống Gang rút thẻ Đông Bình phủ, Lư Tuấn
Nghĩa rút thẻ Đông Xương phủ.
Tống Giang liền truyền lệnh cất quân mã, chia làm hai bọn để
đi đánh. Bọn Tống Giang thì có Lâm Xung, Hoa Vinh, Lưu Đường, Sử Tiến, Từ Ninh,
Yến Thuận, Lã Phương, Quách Thịnh, Hàn Thao, Bành Dĩ, Khổng Minh, Khổng Lượng,
Giải Trân, Giải Bảo, Vương Nụy Hổ, Nhất Trượng Thanh, Trương Thanh, Tôn Nhị
Nương, Tôn Tân, Cố Đại Tẩu, Thạch Dũng, Úc bảo Tứ, Vương Đình Lục, Đoàn Cảnh Trụ,
tất cả hai mươi viên Đầu Lĩnh, và một vạn quân mã bộ, và ba viên Đầu Lĩnh thủy
quân là Nguyễn Tiểu Nhị, Nguyễn Tiểu Thất, Nguyễn Tiểu Ngũ, đều đem chiến thuyền
đi tiếp ứng.
Bọn Lư Tuấn Nghĩa thì có Ngô Dụng, Công Tôn Thắng, Hô Duyên
Chước, Chu Đồng, Lôi Hoành, Sách Siêu, Dương Chí, Đan Đình kHuê, Ngụy Định Quốc,
Tuyên Tán, Hắc Tư Văn, Dương Lâm, Yến Thanh, Âu Bằng, Lăng Chấn, mã Lâm, Đăng
Phi, Thi Ân, Phàn Thụy, Hạng Sung, Lý Cổn, Thời Thiên, Bạch Thắng tất cả hai
mươi viên Đầu Lĩnh đem một vạn quân mã bộ, và ba viên Đầu Lĩnh Thủy quân là Lý
Tuấn, Đồng Uy, Đồng Mãnh dẫn chiến thuyền đi tiếp ứng, còn các Đầu Lĩnh khác đều
ở nhà coi trại.
Khi cắt đặt xong Tống Giang dẫn bộ hạ đi đánh núi Đông Bình,
Lư Tuấn Nghĩa dẫn các Đầu Lĩnh đi đánh phủ Đông Xương. Hôm đó là mồng một tháng
ba, khí trời ấm áp dễ chịu. Tống Giang dẫn một toán quân đến nơi tên là An Sơn
Trấn, cách phủ Đông Bình chừng hai ba dặm hạ trại ở đó.
Tống Giang bảo với các Tướng rằng:
- Phủ Đông Bình có quan Thái Thú là Trình Vạn Lý, và một người
binh mã Đô Giám là Đổng Bình, người Đảng quận tỉnh Hà Đông, khiến hai cây
thương rất giỏi, sức khoẻ muôn người không địch nổi, người ta vẫn gọi là Song
Thương Tướng xưa nay. Vậy ngày nay ta đánh thành trì, trước nhất phải lấy lễ mà
đãi, nghĩa là ta sai hai Tướng đưa chiến thư trước, nếu họ bằng lòng đầu hàng
thì thôi không đánh, bằng không thì ta sẽ thi hành, để cho họ không còn trách
ta được điều gì nữa, hiện nay ai có thể đưa thơ cho ta được?
Nói dứt lời thì thấy Bảo Uùc Tứ chạy ra ứng lời nói lên rằng:
- Chúng tôi có biết mặt Đổng Bình, vậy tôi xin đi đưa thư
phen nầy.
Đoạn rồi lại thấy Vương Đình Lục chạy ra nói rằng:
- Chúng tôi mới đến sơn trại chưa có chút công lao vậy xin
cùng đi một thể.
Tống Giang nghe nói cả mừng, liền viết thư nói vay lương thảo,
rồi đưa cho hai người đem đi.
Bấy giờ Trình Thái Thú đương ngồi bàn việc quân với Đổng Đô
Giám, chợt thấy người báo:
- Tống Giang sai người hạ chiến thư đến.
Trình Thái Thú gọi Úùc Bảo Tứ và Vương Đình Lục vào.
Hai người đi vào đưa thư lên trình Thái Thú. Thái Thú xem
xong bảo với Đổng Bình rằng:
- Họ định vay tiền lương ở đây, ta nên định như thế nào.
Đổng Bình nghe nói cả giận, bắt đem Úùc Bảo Tứ, Vương Đình Lục
ra chém.
Trình Thái Thú gạt đi mà rằng:
- Xưa nay hai nước đánh nhau, không bao giờ lại chém người
lai sứ, bây giờ cứ đánh cho mỗi người mấy chục roi rồi đuổi họ về, xem họ xử
trí ra sao?
Đổng Bình nghe nói, vẫn còn tức giận, liền sai trói hai người
lại, đánh bật máu tươi rồi đuổi ra ngoài cổng phủ.
Hi người bị đòn khóc lóc với Tống Giang. Tống Giang nghe nói
đùng đùng nổi giận, cho hai người về nghỉ ở sơn trại, rồi mới bàn định việc
quân.
Chợt thấy Cửu Văn Long Sử Tiến đến trước trướng kêu rằng:
- Trước đây ở phủ Đông Bình tiểu đệ có quen một đứa con hát
tên là Lý Thụy Lan rất là thân mật, vậy nay tôi xin đem ít tiền lần vào trong
thành, trọ tạm nhà nó, Ca Ca ước định ngày đánh nhau để cho Đổng Bình ra thành,
tôi sẽ đốt lửa trên Cổ Lâu, mà hợp đánh làm một, thì có thể thành công ngay được.
Tống Giang nghe nói khen phải, liền ưng lời truyền lệnh cho
đi.
Sử Tiến lấy tiền nong gói vào khăn gói, rồi giắt ngầm khí giới
mà bái tạ ra đi. Tống Giang dặn với rằng:
- Hiền đệ vào đó phải lựa cơ tiến thoái, ta ở ngoài nầy phải
đợi tin tức, rồi ta mới dám động.
Sử Tiến vâng lời rồi quay ra lẻn vào thành, mà thẳng tới nhà
Lý Thụy Lan. Khi Sử Tiến tới nơi Đại Bá lấy làm kinh ngạc, liền mời vào nhà
trong, gọi con gái là Lý Thụy Lan ra tiếp đãi. Lý Thụy Lan mời Sử Tiến lên trên
gác mà hỏi rằng:
- Lâu nay không thấy bóng vía ở đâu, sau khi nghe nói là nhập
đảng với Lương Sơn Bạc làm Đại Vương ở đấy, Quan Tư vẫn yết bảng truy nã không
được... Mấy hôm nay thấy đồn là quân mã ty kéo đến đánh thành để lấy lương thực,
vậy sao anh lại lần đến đây được?
Sử Tiến khẽ đáp rằng:
- Chẳng giấu gì nàng, hiện tôi đương làm Đầu Lĩnh ở Lương Sơn
Bạc, mà chưa có chút công lao gì. Nay Ca Ca đến đánh Thành ở đây, tôi nói rõ
chuyện nàng cho Ca Ca tôi biết, và đến đây để dò thám xem sao? Đây có một ít
vàng bạc đem đưa để nàng chi dụng, xin chớ để vỡ chuyện ra mà khốn... Nay mai
xong việc tôi sẽ đón cả gia quyến nàng lên núi một thể cho vui.
Lý Thụy Lan gật gù vàng bạc đi, cất vàng bạc đi rồi đem rượu
ra để thiết đãi. Đoạn rồi Lý Thụy Lan trở xuống nhà bàn với Đại Bá rằng:
- Sử Tiến xưa nay vốn đi lại với nhà ta tử tế, hiện nay hắn
làm giặc đi với bọn Lương Sơn, vậy nếu chứa hắn ở đây, không khéo thì nguy cả.
Đại Bá đáp rằng:
- Bọn hảo hán của Lương Sơn Bạc không phải là chuyện chơi, nếu
ta đãi họ không ra gì, nay mai họ phá thành vào đến đây, thì tất là nguy cả.
Người vợ đứng bên cạnh nghe, mắng luôn rằng:
- Lão già ngu xuẩn, biết được việc gì? Cứ đi ra phủ mà thú
ngay đi, đừng để đây rồi lại lụy cả đến mình khó chịu.
Đại Bá nói:
- Hắn đem bao nhiêu tiền bạc cho mình, nay mình không che chở
cho hắn thì còn ra nghĩa lý gì nữa.
Mụ vợ lại quát lên rằng:
- Thôi đừng nói nõn nường nữa! Nhà mình hát xướng kiếm ăn,
xưa nay chôn hàng mấy vạn người còn chả cần, nữa là một người ấy thì thấm vào
đâu? Nếu ông không ra đi thú, thì để tôi ra thú với quan, rồi bấy giờ ra đây mà
gánh tội với nó.
Đại Bá vội vâng lời mà rằng:
- Được, được nếu vậy cứ bảo con gái thiết đãi hắn ta, chớ để
lộ chuyện cho hắn biết, để tôi đi với vài người lính đến đây bắt hắn, rồi sẽ
đem ra thú quan một thể.
Nói đoạn liền cùng nhau tính kế thi hành.
Bấy giờ Sử Tiến ngồi trên lầu, thấy Lý Thụy Lan đi lên, nét mặt
khi đỏ khi trắng, ra dáng thất thường.
Sử Tiến liền hỏi rằng:
- Chẳng hay nàng có việc gì trong nhà mà làm ra vẻ kinh hoàng
như vậy?
Lý Thụy Lan đáp:
- Vừa rồi đi lên thang gác, bị vấp một cái xuýt ngã, nên có
dáng kinh sợ đó.
Nói đoạn cùng ngồi uống nước với nhau, được một lát thấy có
tiếng người dưới thang gác bước lên, và ngoài cửa sổ có tiếng người kêu thét, rồi
có mấy chục tên lính ập vào sân bắt Sử Tiến, trói ghì lại đem giải vào phủ Đông
Bình.
Khi tới phủ đường, Trình Thái Thú quát rằng:
- Quân nầy to gan thực, một mình trơ trọi, dám vào đây rồi dò
thám hay sao? Phen nầy không có bố Thụy Lan vào báo thì có lẽ một thành Đông
Kinh nầy nguy vào tay ngươi mất, ngươi phải thú ngay, tên Tống Giang bảo ngươi
vào đây làm gì?
Sử Tiến lặng ngắt không nói một câu nào. Đổng Bình nói rằng:
- Quân nầy không tra tấn thì sao nó chịu nói.
Trình Thái Thú liền thét lên ra lệnh đem Sử Tiến tra đánh,
đánh tới hơn trăm côn, Sử Tiến vẫn một mực không nói năng chi cả.
Đổng Bình nói rằng:
- Hãy đem gông gông nó lại, cho vào ngục tử tù giam đấy, để đợi
bắt được lũ Tống Giang, rồi đem giải kinh sư một thể.
Tài cao tất phải mưu cao,
Ở đời kém lựa dễ sao được toàn?
Thương thay sắt đá già gan
Đem thân mắc cạm hồng nhan cho đành!
Nói về Tống Giang, khi sai Sử Tiến đi rồi, liền viết giấy
sang thuật rõ tình hình đầu đuôi cho Ngô Dụng biết. Ngô Dụng xem giấy xong lấy
làm cả kinh, nói cho Lư Tuấn Nghĩa biết, rồi vội vàng đến trại Tống Giang để hỏi
chuyện.
Khi tới nơi Ngô Dụng hỏi Tống Giang rằng:
- Ai bảo Sử Tiến đi như thế?
- Hắn nói là hắn thân đứa con hát ở trong thành, nên hắn tình
nguyện xin đi đó.
- Chết nỗi! Sao Huynh trưởng làm như thế? Nếu tôi ở đây, thì
quyết nhiên không thể cho đi được. Xưa nay những tụi xướng ca vẫn quen lối đưa
người cửa trước, rước người cửa sau, làm hại kể biết bao nhiêu người tử tế. Dẫu
có thân tình đến đâu, cũng khó lòng mà lọt những tay mụ đầu kia được. Anh ta đi
phen nầy tất là nguy mất.
Nếu vậy quân sư nghĩ kế gì để cứu cho hắn?
Ngô Dụng liền gọi Cố Đại Tẩu đến mà dặn rằng:
- Bây giờ nàng phải ăn mặc giả làm người nghèo khổ, đi vào
trong thành dò xem tin tức Sử Tiến ra sao, rồi về báo ngay lập tức. Nếu hắn bị
vào trong ngục rồi, thì phải nói khó với người trong ngục, giả làm chỗ bà con
khi trước mà vào đưa cơm rồi khẽ dặn hắn ta cứ đêm hôm nguyệt tận (cuối tháng)
tháng nầy, vào khoảng tối thì ta kéo quân vào đánh thành, bảo hắn phải kiếm chỗ
nào mà thoát thân mới được. Còn nàng cứ đợi ở trong ấy, đến đêm hôm nguyệt tận
sẽ phóng lửa lên, để ngoài nầy tiến binh vào đánh.
Nói đoạn quay lại bảo Tống Giang rằng:
- Bấy giờ Huynh trưởng nên đem quân đến đánh Quận Vấn Thượng,
để cho dân chúng phải chạy vào phủ Đông Bình, rồi Cố Đại Tẩu lẫn vào đám ấy mà
đi, thì không ai biết đến nữa.
Ngô Dụng bàn định xong, lại lên ngựa mà về phủ Đông Xương. Ty
cắt Giải Trân, Giải Bảo đem năm trăm quân đi đánh huyện Vấn Thượng. Nhân dân
trong huyện thấy vậy đều dắt díu nhau kéo sang phủ Đông Bình để lánh nạn.
Bấy giờ Cố Đại Tẩu để đầu bù tóc rối, ăn mặc xuống áo lam lũ,
để đánh lộn sòng với bọn dân chúng, chạy vào đến phủ Đông Bình, rồi lang thang
giả mặt ăn xin, mà đến trước nha phủ. Ngày hôm đó biết Sử Tiến đã bị giam trong
lao rồi, nàng liền kiếm một phạng cơm đưa đến trước cửa đề lao để đợi.
Được một lát, có một người lính già ở trong lao đi ra, Cố Đại
Tẩu liền cúi lạy mà khóc như mưa như gió. Người lính già hỏi rằng:
- Mụ nầy đi đâu mà khóc lóc khổ sỡ thế?
Cố Đại Tẩu gạt nước mắt khóc sụt sùi mà rằng:
- Trong ngục đây có Sử Đại Lang là người chủ cũ của tôi, đã
mười năm nay nghe nói đi buôn bàn ở những đâu, không sao được gặp. Ngày nay
không biết vì cớ sao lại bị giam ở đây như thế. Tội nghiệp quá! Bây giờ không
có ai trông nom cơm cháo chi đến, vậy lão tôi đi kêu xin được lưng cơm nguội,
muốn đem đến cứu cho ông ta một bữa, dám xin Đại ca thương tình, mà cho tôi đưa
vào, thực là phúc đức cho tôi vạn bội.
- Hắn là bọn giặc ở Lương Sơn, đã phạm tử tội, ai dám cho mụ
vào đấy được?
- Thôi thì người ta có chết, cũng là thầy trò tình nghĩa, xin
ông làm ơn cho tôi vào một chút, cho khỏi mang tội với trời.
Nói xong lại khóc nức nỡ không thôi.
Lão lính thấy vậy, nghĩ thầm trong bụng:"Nếu là đàn ông
thì không cho vào được, nhưng một người đàn bà nầy, thì làm gì mà ngại? "
Nghĩ đoạn liền đưa Cố Đại Tẩu vào trong lao. Bấy giờ Sử Tiến
cổ đeo gông, lưng đeo xích đương ngồi ngẫm nghĩ trong lao. Khi thấy Cố Đại Tẩu
vào, thì cả kinh không dám nói lên lời. Cố Đại Tẩu thì giả vờ vừa lấy cơm vừa
khóc đưa cho Sử Tiến ăn.
Đương khi đó lại có một tên Tiết Cấp còn ít tuổi, chạy đến
quát lên rằng:
- Quân quái! Chỗ tử ngục, ai cho ngươi được đến đây mà đưa
tin tức. Có muốn sống thì ra ngay, không thì chết đòn bây giờ?
Cố đại Tẩu biết thế không ngồi được lâu, liền khẽ nói với Sử
Tiến rằng:
- Đến đêm nguyệt tận thì liệu thoát thân...
Sử Tiến toan hỏi lại, thì người Tiết Cấp đã kéo Cố Đại Tẩu mà
ra ngoài cửa mất. Khi đó Sử Tiến nghe được ba tiếng "đêm nguyệt tận",thì
trong bụng hiểu ngầm, chắc là đêm đó thì binh mã đánh vào thành để cứu, chàng
liền định kế đến tối hôm ấy kiếm cách để thoát thân.
Thấm thoát đến hôm hai mươi chín, có hai tên Tiết Cấp ngồi
nói chuyện với nhau. Một người kia hỏi:
- Hôm nay là mấy rồi?
Người nọ nhớ ngay liền đáp rằng:
- Hôm nay là ngày nguyệt tận rồi, đêm nay phải mua vàng về lễ
cô hồn đây.
Sử Tiến nghe thấy, chắc hôm nay là hôm ba mươi ngày nguyệt tận,
chàng liền quyết kế mong đợi đến đêm để hành sự. Gần tối hôm ấy Sử Tiến thấy có
một người Tiết Cấp hơi ngà ngà say, ngồi gần ở đó, chàng liền chạy đến mà hỏi vờ
rằng:
- Tiết Cấp ơi, ai ở đằng sau thế kia?
Tiết Cấp nghe hỏi quay lại đằng sau để nom. Sử Tiến liền giơ
đầu gông giáng cho một nhát vào đầu, chết gục ngay xuống. Đoạn rồi chàng liền
nhặt một hòn đá gõ tháo gông ra, rồi hai mắt trợn trừng trợn trạc mà đi ra sân.
Bấy giờ mấy anh lính ngục nửa tỉnh nửa say ngồi quanh ở đó. Sử Tiến chạy đến
đánh mấy anh chết, còn mấy anh thì mau chân chạy thoát được. Sử Tiến đánh xong
bọn lính canh rồi, quay vào tháo gông cùm cho năm sáu mươi người tù trong ngục,
và tháo tung cửa ngục ra, để đợi quân ngoài vào cứu ứng.
Khi đó có người vào báo với Trình Thái Thú, Thái Thú xám mặt
lại rồi mời Đổng Bình sang để hỏi kế.
Đổng Bình nói:
- Cái nầy trong thành chắc có người do thám, vậy xin cứ cho
người vây chặt lấy bọn tù ở đó, để tôi thừa thế ra thành bắt tên Tống Giang về
đây. Còn tướng công ở nhà coi giữ thành trì cho cẩn thận mới được.
Nói đoạn liền đem quân mã ra đi, Trình Thái Thú liền sai các
Tiết Cấp, cùng các Ngu Hầu, đều cầm gươm giáo đến ngục mà reo hò để canh giữ. Sử
Tiến ở trong thấy vậy, cũng không dám thò ra nữa. Cố Đại Tẩu nghe thấy tin ấy,
thì trong lòng lấy làm áy náy tức bực vô cùng, mà không biết làm sao cho được.
Vào khoảng canh tư đêm hôm ấy, Đổng Bình dẫn quân mã đến trại
Tống Giang. Tống Giang nghe báo, chắc rằng Cố Đại Tẩu lại bị sao đây, liền truyền
cho tam quân đều phải chỉnh tề, để ra nghinh địch. Quân mã được lệnh vội vàng
chỉnh đốn đội ngũ, rồi kéo ra dàn trận đón đánh. Nguyên Đổng Bình là một người
tinh ranh lanh lợi, tam giáo cửu lưu không gì là không thạo, quản huyền ty trúc
không gì là không hay. Nhân thế mà bọn Sơn Đông Hà Bắc, ai ai cũng gọi tên là
Phong Lưu, Song thương Tướng xưa nay.
Hôm đó khi trời vừa sáng, đôi bên dàn trận xong, Tống Giang đứng
bên nầy trông thấy Đổng Bình, ra dáng tinh anh tuấn tú, thì trong bụng có vẻ mừng
thầm. Sau lại thấy Đổng Bình đeo một cái túi tên, trong có lá cờ nhỏ viết đôi
câu đối rằng:
Anh hùng Song Chiên Tướng,
Phong Lưu Vạn Hộ Hầu
Tống Giang thấy vậy, liền sai Hàn Thao ra đánh trước, Hàn
Thao vâng lệnh múa cây giáo sắt, xông ra đánh Đổng Bỉnh.
Đổng Bình múa đôi thương sắt như thần hiện qủy biến, Hàn Thao
không thể nào địch nổi, Tống Giang lại sai Kim Sang Ban Từ Ninh, múa câu liêm
sang ra đánh thay Hàn Thao. Từ Ninh vâng lệnh, xông ngựa ra đấu với Đổng Bình,
đôi bên quần nhau hơn năm mươi hiệp, không quyết được thua, Tống Giang sợ Từ
Ninh đuối sức, liền gõ chiên thu quân, rồi Từ Ninh cắp sang quay ngựa trở về bản
trận. Đổng Bình múa song thương cưỡi ngựa đuổi theo, Tống Giang liền thừa thế
trỏ tam quân đổ lại vây chặt lấy Đổng Bình.
Đổng Bình bị vây trong đám quân hết sức hăng hái để đánh xông
ra. Tống Giang đứng trên đống đất cao, thấy Đổng Bình chạy sang Đông, thì trỏ cờ
sang đông, Đổng Bình chạy sang Tây, lại cho cờ hiệu sang Tây, quân sĩ cứ theo
hiệu cờ mà bổ vậy rất ngặt.
Đổng Bình ra sức múa song thương đánh cự hồi lâu mới tháo vây
mà chạy thoát được, Tống Giang cũng không đuổi. Đổnh Bình liền thu quân kéo về
trong thành.
Đêm hôm ấy Tống Giang đem binh, đến sát chân thành vây khắp cả
bốn mặt, duy Cố Đại Tẩu ở trong chưa dám phóng lửa, Sử Tiến chưa dám vượt ngục
để ra, nên chưa sao mà đánh phá được thành.
Nói về Trình Thái Thú nguyên có một người con gái hình dung yểy
điệu, tính hạnh dịu dàng, Đổng Bình đã mấy phen toan dạm làm vợ mà Trình Vạn Lý
nhất định không gả. Bởi thế nên hai bên có ý không bằng lòng với nhau từ trước.
Hôm đó nhân ra trận đánh thành, Đổng Bình muốn thừa thế đương lúc chiến tranh,
mà cho người vào nói với Trình Thái Thú để dạm con gái.
Trỉnh Thái Thú đáp rằng:
- Ta đây là quan văn, Đổng Bình là quan võ, hai đằng đâu gia
với nhau thực là đáng lắm. Duy ngày nay thành phủ đương bị giặc cướp, sự thế
nguy cấp, nếu nhận lời gả ngay thì tất bị người ta mai mỉa, vậy để khi nào đánh
đuổi quân giặc, giữ yên thành quách, rồi bấy giờ sẽ bàn đến chuyện hôn nhân,
cũng không lấy gì làm muộn.
Người kia đem lời ấy về nói với Đổng Bình. Đổng Bình bất đắc
dĩ vâng lời để đợi, song từ đó trong lòng lại càng vơ vẫn không vui, e sau nầy
Trình Thái Thú lại phụ lời ư ớc hứa, thì bấy giờ xử trí làm sao?
Đêm hôm ấy Tống Giang đánh thành rất dữ, Thái Thú liền giục Đổng
Bình ra đánh, Đổng Bình cả giận vội đai nịt cẩn thận, rồi lên ngựa dẫn quân ra
thành để đánh.
Tống Giang ra trước cửa trận quát bảo Đổng Bình rằng:
- Ta đây tướng mạnh ngàn người, quân hùng mười vạn, vậy toán
quân nhỏ mọn kia, thì làm chi được? Sao bằng không xuống đầu thú đi cho khỏi chết?
Đổng Bình cả giận mắng rằng:
- Đồ Tiểu lại ngông cuồng, sao dám nói càn nói dở.
Nói đoạn múa song thương thẳng đến đánh Tống Giang. Bên trận
Tống Giang, tả có Lâm Xung, hữu có Hoa Vinh đều xông ngựa ra đón đánh Đổng
Bình, hai đằng đánh nhau được mấy hiệp, thì Lâm Xung, Hoa Vinh quay ngựa thua
chạy, Tống Giang cũng kéo quân mã chạy tán loạn ra bốn mặt. Đổng Bình liền ra sức
theo đuổi Tống Giang
Khi đuổi đến địa hạt huyện Thọ Xuân, cách thành chừng mười dặm
đường, tới một chốn thôn trấn, đôi bên có hai dãy nhà lá, khoảng giữa có đường
cái quan, Đổng Bình đương đuổi sát sau lưng Tống Giang, thì bỗng thấy phía sau
có Khổng Minh, Khổng Lượng xông ra kêu lên rằng:
- Không được hại chúa ta.
Vừa nói dứt lời thì thấy hai bên dãy nhà lá, có tiếng thanh
la khua rộn, rồi đôi bên cánh cửa mở tung hẳn ra.
Đổng Bình thấy vậy vừa toan quay ngựa trở lại thì ngựa bỗng
vướng phải dây móc, ngả ngữa quay ra, mà vật Đổng Bình xuống đất.
Đoạn rồi bên tả có Nhất Trượng Thanh, Vương Nụy Hổ, nên hữu
Trương Thanh, Tôn Nhị Nương, đều xông ra bắt lấy Đổng Bình lột cả mũ áo, cướp cả
thương ngựa mà trói lại, rồi cho hai viên nữ tướng áp giải đến Tống Giang.
Khi đó Tống Giang đương đứng ở dưới gốc cây, đương thấy chúng
dong Đổng Bình đến liền quát lui hai nữ tướng mà nói rằng:
Hai nữ tướng nghe nói đều len lét dạ lui, Tống Giang liền xuống
ngựa cởi trói cho Đổng Bình, và cởi áo cẩm bào mà đưa cho mặc và cúi đầu lạy tạ.
Đổng Bình cũng đáp lễ lại.
Tống Giang nói:
- Nếu tướng quân có lòng hạ cố, thì xin ngài nhận chức chủ
sơn trại cho...
Đổng Bình nói:
- Tiểu tướng đã bị bắt tới đây, dẫu chết cũng đáng, còn đâu
dám nói đến làm chủ sơn trại?
Tống Giang nói:
- Trong sơn trại tôi hiện thiếu lương thực nên định đến phủ
Đông Bình để vay, chứ thực không có ý gì khác cả.
Đổng Bình đáp rằng:
- Trình Vạn Lý nguyên là một tay thầy đồ đi dạy trẻ, nay vớ
được một chức béo bỡ như vậy, thì tránh sao cho khỏi hại dân? Nếu Huynh trưởng
có rộng lượng cho về, thì Đổng Bình xin lừa mở cửa thành, mà thu lấy lương thảo
đền ơn Huynh trưởng.
Tống Giang nghe nói cả mừng, liền sai người đem mũ giáp và ngựa
ra trả lại Đổng Bình. Đổng Bình liền đóng đai giáp lên ngựa đi trước. Tống
Giang kéo quan mã cuốn cờ im trống theo sau.
Khi tới cửa thành Đổng Bình gọi quân sĩ ra mở cửa, quân sĩ
trong thành lấy lửa ra soi mặt đổng Bình, bèn mở cửa bỏ đích kiều cho vào.
Đổng Bình xông ngựa vào trước chặt đứt khoá sắt ở cửa, rồi
quân mã Tống Giang ầm ầm theo vào trong thành. Tống Giang truyền lệnh cho quân
sĩ không được đốt nhà đốt cửa và không được giết hại lương dân.
Đổng Bình vào tới thành, vội vàng chạy đến phủ đường, giết chết
cả nhà Trình Vạn Lý và cướp lấy người con gái.
Tống Giang lập tức sai người phá cửa nhà lao, đón Sử Tiến ra,
rồi mở kho tang lấy các thứ tiền nong lương thực, xếp lên xe cho ba anh em họ
Nguyễn áp giải về Lương Sơn trước.
Sử Tiến được thoát ngục ra, liền dẫn người đến nhà Lý Thụy
Lan, chém hết cả già trẻ không để lại một ai. Tống Giang đem cả gia tư của Thái
Thú phân phát cho nhân dân và yết giấy hiểu dụ cho dân được làm ăn, quân sĩ đã
chém được quan tham, còn dân sự không can chi lo sợ.
Hiểu dụ cho dân đâu đấy, Tống Giang liền rút quân ra trấn An
Sơn, để toan kéo về Sơn Bạc.
Mới hay:
Trên đời mạnh nhất đồng tâm,
Xoay trời chuyển đất ầm ầm như chơi,
Xưa nay những bậc anh tài.
Mượn lò liên lạc làm nơi sinh tồn,
Góp tài góp sức góp khôn,
Rồi ra tính cuộc vuông tròn khó chi?
Ví chăng vây cánh phân ly,
Thì non nước ấy còn gì mà mong.
Lời bàn của Thánh Thán:
Đánh hai huyện Đông Bình, Đông Xương, vốn là một chuyện cuối
sách, lời văn rất sâu xa, và việc lại kín đáo, độc giả cần nên xét tới, tại sao
vậy? Vì chủ Lương Sơn Bạc, vốn cơ nghiệp của Tiều Cái, Sử Văn Cung là kẻ thù của
Tiều Cái, lời di lệnh của Tiều Cái rằng: Ai bắt sống Sử Văn Cung, thì làm chủ ở
Lương Sơn Bạc, theo lệnh mà báo thù cho Tiều Cái, nố nghiệp Tiều Cái, mũi tên
thề còn kia, rõ ràng chưa quên, thì Tống Giang không có thể tranh cùng Lư Tuấn
Nghĩa, rất rõ như vậy.
Thế mà Tống Giang lại vẫn cố tranh cho được, tại sao bảo rằng
Tống Giang cố tranh cho bằng được? Vì bỏ lệnh Tiều Cái lại bày mưu thi đua mượn
lương để đánh hai Phủ Đông Bình, Đông Xương, thì Lư Tuấn Nghĩa lại không thể
cùng tranh lại với Tống Giang, rõ rệt như vậy.
Hoặc nói rằng: Hai thành kia thì thành nào dễ phá, thành nào
khó phá, Tống Giang có tự chọn đâu, mà việc thắng với chẳng thắng, Tống Giang
cũng chưa hề chắc được, sao biết được rằng, Tống Giang chống thắng, mà Lư Viên
Ngoại khó xong, hai người kia mà không đánh nổi cả, thì không nói làm gì, nếu
hai bên đều thắng như nhau, thì ngôi chủ Lương Sơn, lại chưa định vậy, nay nhà
thầy nói Lư Tuấn Nghĩa không thể tranh được Tống Giang là nghĩa làm sao?
Hỡi ôi: Nghe đàn mà xét tiếng, đọc sách nên hiểu sự ra há rằng
khó đâu? Há phải khó đâu? Hãy xem ở chỗ điều binh khiển tướng, mà cho hai người
Ngô Dụng, Công Tôn Thắng, làm bộ hạ của Lư, ai chẳng cho rằng có hai vị Quân sư
tả hữu, thì việc chống thành, khi việc chống thành, thì kịp tới nơi sơn chủ,
ngõ hầu chẳng phụ lòng của Tiều Thiên Vương, thực là thịnh tâm lắm vậy; Song ta
cho rằng Tôn, Ngô tuy ở dưới trướng họ Lư, thế mà không phải ở dưới trướng họ
Lư đâu, vẫn là dưới trướng họ Tống, mặc dầu không ở dưới trướng họ Tống lúc nầy.
Vì rằng Tôn, Ngô tuy ở dưới trướng họ Lư, song không chịu thi
hành kế hoạch, mà cách xa họ Tống, khi thấy đưa thư đến hỏi, thì vội vàng phi
ngựa để bày mưu, không tiếc sức gì, cũng chẳng khác chi ở dưới trướng Tống
Giang bấy lâu vậy. Hãy xét khi bỏ Lương Nhữ Địch ở dưới nước, đó chẳng phải là
mưu của người đấy ư? Khi Tống Giang chưa tới, thì không bày mưu, khi Tống Giang
tới, mới đua nhau giở thuật ra là ý làm sao? Thấy vì Tống Giang rõ quá? Aáy may
mà không đành nổi Mộc Vũ Tiến, nếu lại đánh được ngay Mộc Vũ Tiễn, thì Ngô, Tôn
tất phải làm dùng dắng, đợi Tống Giang tới mới quyết định, đánh xong thành, cứ
thế thì họ Tống phải xong việc, mà họ Lư vẫn khó xong việc, cho nên ta bảo Lư
Tuấn Nghĩa không thể nào tranh được nổi Tống Giang, rõ rệt như thế, mới hay một
hồi tả lại đánh Đông Bình, Đông Xương, lời văn sâu, chép duyệt kín, độc giả cần
phải xét ra.
Sách nầy nhiều chỗ muốn phạm đề nhau, như Giải Trân vượt ngục,
lại đến Sử Tiến vượt ngục, cùng có Cố Đại Tẩu giúp nên đấy như cùng một đề tài,
chợt đâu lại hẹn lấy hai chữ Nguyệt Tận làm khác đi, vậy sao mới rõ trong sự giống
nhau lại khác nhai xa, diễn ra nhiều văn tự khác, nếu kẽ vô tài, thì không thể
nào xếp đặt được đến thế mà tả ra vậy.
Giữa đám đao thương, kiếm, kích rối như tơ ngốt tựa lửa, lại
bỗng đâu có chuyện Đồng tướng quân cầu thân khiến độc giả phải lạ mắt vì nhiều
biến sắc.
Hồi 69:
Một Vũ Tiễn ném đá đánh anh hùng;
Tống Công Minh bỏ lương bắt tráng sĩ.
Khi đó Tống Giang toan kéo quân về Lương Sơn Bạc, bỗng thấy Bạch
Thắng về báo rằng:
- Lư Tuấn Nghĩa đánh thành Đông Xương bị thua luôn hai trận.
Trong thành có một tên mãnh tướng, tên là Trương Thanh, quê ở phủ Chương Đức, vốn
tay kị hổ xuất thân, tài nghề ném đá đánh người, trăm viên đều trúng, người ta
thường gọi là Một Vũ Tiễn xưa nay, Thủ hạ hắn ta có hai viên phó tướng, một người
tên là Hoa Hạng Hổ Cung Vượng, toàn thân chạm nốt hổ, trên cổ chạm đầu hổ, tài
nghề phóng thương trên mình ngựa; Và một người tên là Trúng Tên Hổ Đinh Đắc
Tôn, từ mặt xuống cổ đều lỗ chỗ những sẹo, phóng cây thoa trên mình ngựa rất giỏi.
Khi Lư Viên Ngoại dẫn quân đến, rồi mười ngày trời không chịu ra đánh, mãi đến
hôm vừa rồi, Trương Thanh mới ra thành đánh nhau, bên nầy Hắc Tư Văn nghênh địch,
bất đồ đánh được mấy hiệp, thì Trương Thanh vờ chạy, cho Hắc Tư Văn đuổi theo.
Sau Trương Thanh quay lại ném một viên đá, trúng ngay vào trán Hắc Tư Văn ngã
lăn xuống ngựa. Bấy giờ may có Yến Thanh bắn một mũi tên trúng vào con ngựa củ
Trương Thanh, nên mới cứu được Hắc Tư Văn về trận. Đến hôm sau Phàn Thụy dẫn Hạng
Sung, Lý Cổn ra đánh nhau, không dè Hạng Sung bị Đinh Đắc Tôn phóng cây thoa
vào nách, lại phải thua chạy. Hiện nay hai người vẫn còn dưỡng bệnh ở trong
thuyền. Bởi vậy quân sư cho Tiểu đệ mời Ca Ca đến cứu ứng ngay cho.
Tống Giang nghe nói, than với mọi người rằng:
- Lư Viên Ngoại thực là vô duyên quá, ta để cho Ngô Dụng,
Công Tôn Thắng ở đó, cũng tưởng rằng đến trận thành công, để nhường ngôi chủ toạ
cho ông ta, nào ai ngờ lại gặp tay địch thủ như vậy. Đã thế thì anh em ta phải
mau mau đi cứu mới được.
Nói đoạn truyền lệnh các tướng lên ngựa, dẫn tam quân kéo
sang phủ Đông Xương. Khi tới nơi bọn Lư Tuấn Nghĩa đón tiếp Tống Giang, cho
quân tạm hạ trại rồi bàn định thi kế với nhau.
Đương khi bàn bạc chuyện trò, bỗng thấy tin báo Một Vũ Tiễn
ra khơi đánh. Tống Giang liền đem quân ra cánh đồng nội rộng, dàn thành thế trận
rồi các Đầu Lĩnh đều xông ngựa ra đứng trước cửa cờ để đợi.
Khi ba hồi trống trận vừa dứt, thì thấy Trương Thnah phi ngựa
xông ra, bên tả có Cung Vượng, bên hữu có Đinh Đắc Tôn, ba ngựa cùng đến trước
cửa trận, rồi ba tướng trỏ Tống Giang mà mắng rằng:
- Quân giặc cỏ ở Vũng nước, nay ta quyết một trận với
ngươi...
Tống Giang lại hỏi:
- Ai ra đánh tên ấy cho ta?
Nói dứt lời thì thấy một vị anh hùng ra dáng tức giận, tay cầm
Câu Liêm Sang giục ngựa ra trước trận để đánh Trương Thanh. Tống Giang trông ra
biết rằng vị anh hùng ấy là Kim Sang Thủ Từ Ninh, thì trong bụng mừng thầm chắc
là hai tay địch thủ với nhau được.
Từ Ninh đánh nhau được chừng dăm hiệp, thì TRương Thanh tay tả
cầm thương hất vờ một cái, rồi tay hữu thò vào túi gấm lấy một viên đá, nhằm giữa
mi mắt Từ Ninh ném cho một phát, Từ Ninh ngã lăn ngay xuống đất.
Cung Vượng cùng Đinh Đắc Tôn cùng xông ra bắt Từ Ninh; Bên nầy
Lã Phương cùng Quách Thịnh liền sấn ra cứu Từ Ninh đem về bản trận.
Bọn Tống Giang thấy vậy, đều kinh sợ thất sắc. Rồi Tống Giang
lại hỏi luôn rằng:
- Đầu Lĩnh nào ra đánh một trận nữa xem sao?
Nói chưa dứt lời thì thấy Cẩm Mao Hổ Yến Thuận phi ngựa xông
ra đánh. Tống Giang toan ngăn giữ lại, thì Yến Thuận đã xông tót đến giữa trận,
không sao cầm lại được.
Yến Thuận đương đánh nhau với Trương Thanh được vài hiệp thì
đuối sức, không sao cự địch nổi, liền quay ngựa chạy về, Trương Thanh thừa thế
đuổi theo, ném cho một viên đá vào giữa miếng kính yểm tâm ở sau lưng, đến keng
một cái, Yến Thuận vội phục xuống lên ngựa mà chạy.
Đoạn rồi bên trận Tống Giang, Bách Thắng tướng Hàn Thao quát
lên rằng:
- Đồ thất phu, ta sợ gì.
Nói đoạn múa gươm xông ra đánh luôn Trương Thanh. Đôi bên
hăng hái đánh nhau, quân sĩ đều reo hò váng cả lên.
Hàn Thao muốn khoe tài trước mặt Tống Giang nên càng cố gắng
hết sức bình sinh, mà đánh nhau rất là kịch liệt. Đánh nhau chừng mươi hiệp thì
Trương Thanh lại quay ngựa chạy. Hàn Thao biết mẹo Trương Thanh ném đá, bèn kìm
ngựa lại, mà không đuổi theo nữa.
Trương Thanh thấy Hàn Thao không đuổi, lại vội quay cương ngựa
lại. Hàn Thoa liền giơ gươm lên để đón đánh. Chàng vừa mới giơ gươm lên, bỗng bị
Trương Thanh ném ngay một viên đá trúng vào mũi, máu chảy lênh láng rồi chạy về
bản trận.
Bành Dĩ thấy vậy nổi giận đùng đùng, không đợi tướng lệnh của
Tống Giang vội xốc ngựa, múa đao hai lưỡi ra đánh Trương Thanh. Đôi bên chưa kịp
giao nhau, thì Bành Dĩ đã bị một viên đá vào mặt, vất cả đao xuống mà chạy. Tống
Giang thấy mấy tướng bị thua luôn trong lòng hơi núng, toan rút quân mã về trại.
Chợt đâu thấy Xú Quận Mã Tuyên Tán ở đằng sau Lư Viên Ngoại chạy ra kêu lên rằng:
- Ngày nay nếu để giảm mất uy phong, thì sau nầy đánh làm sao
được? Thử xem đá có ném được ta không?
Nói đoạn múa đao xông ngựa ra đánh, Trương Thanh cười mà rằng:
- Một kẻ ra chạy một kẻ, hai kẻ ra chạy hai kẻ, ngươi lại
không biết những viên đá của Trương Thanh hay sao?
Tuyên Tán nói:
- Ngươi ném trúng được người khác, chú sao ném trúng được
Trương Thanh?
Vừa nói dứt lời thì bỗng thấy viên đá ném ngay vào bên mồm, rồi
Tuyên Tán bị ngã ngay lập tức. Bên kia Cung Vượng, Đinh Đắc Tôn vội kéo ra bắt
Tuyên Tán song vì quân tướng Tống Giang rất đông nên không sao bắt nổi.
Tống Giang thấy vậy khí giận đầy trời, rút kiếm ra tay cắt vạt
áo mà thề rằng:
- Nếu không bắt được người nầy thì không lui quân về nữa.
Hô Duyên Chước thấy Tống Giang thề nguyền như vậy bèn nói lên
rằng:
- Huynh trưởng nói như vậy thì anh em ta còn được việc gì nữa?
Nói đoạn vỗ ngựa Tích Tuyết Ô Truy ra trận, quát mắng Trương
Thanh rằng:
- Quân trẻ con cậy thế khoe tài, có biết Đại tướng Hô Duyên
Chước đây không?
Trương Thanh mắng lại rằng:
- Đồ tướng hèn nhục nước, phen nầy gặp ta thì đáng kiếp.
Nói đoạn phóng một viên đá trong tay ra.Hô Duyên Chước thấy vậy
giơ tay lên đỡ, bị viên đá ném phải tay, không sao khiến nổi cây thương đành phải
quay về bản trận.
Tống Giang bảo các Đầu Lĩnh rằng:
- Các Đầu Lĩnh mã quân bị thương nhiều rồi, còn Đầu Lĩnh bộ
quân ai ra bắt nó cho ta? Nói đoạn thấy Lưu Đường múa đao sùng sục đi ra,
Trương Thanh trông thấy cả cười mắng rằng:
- Mã quân còn chả làm chi nữa là bộ quân.
Lưu Đường cả giận chạy thẳng đến đánh Trương Thanh. Trương
Thanh không đánh vội vàng quay ngựa về bản trận. Lưu Đường liền sấn lên đuổi
theo giơ đao chém một nhát vào ngay chân ngựa của Trương Thanh. Con ngựa của
Trương Thanh giơ chân hắt về đằng sau, rồi vẩy đuôi vung lên đập vào mặt Lưu Đường,
làm cho Lưu Đường hoa mắt không biết lối nào mà lẫn.
Bấy giờ Trương Thanh ném ra một viên đá, Lưu Đường ngã lăn xuống
đất, rồi đám quân Trương Thanh đổ ra bắt Lưu Đường mà quay về bản trận.
Tống Giang thấy vậy kêu to lên rằng:
- Cứu Lưu Đường với...
Nói chưa dứt lời thì thấy Thanh Diện Tú Dương Chí múa đao
xông ngựa ra đánh Trương Thanh. Trương Thanh giơ thương lên đón, Dương Chí liều
giơ đao lên chém, Trương Thanh né người về một bên, Dương Chí chém một nhát trượt
ra ngoài.
Trương Thanh liền lấy một viên đá cầm ra tay quát một tiếng
mau rồi thấy viên đá luồn thẳng qua nách Dương Chí, Trương Thanh lại ném luôn một
viên đá, rúng vào mũi Dương Chí. Dương Chí cuống người lên vội cúi gục xuống
yên ngựa mà chạy về trận.
Tống Giang nom thấy thế nói lên rằng:
- Nếu phen nầy bị tỏa mất nhuệ khí thì trở về Lương Sơn sao
được? Ai ra đối trận cho ta bây giờ?
Chu Đồng nghe Tống Giang nói liền đưa mắt nhìn Lôi Hoành mà bảo
rằng:
- Một người không ăn thua gì thì hai anh em ta cùng ra xem
sao?
Nói đoạn Chu Đồng ở bên tả, Lôi Hoành ở bên hữu, cùng múa đao
xông ra để đánh, Trương Thanh cười mà rằng:
- Một người không làm gì được, lại thêm một người nữa... Cho
các người đến mười người xông ra cũng vô ích...
Chàng vừa nói vừa thò tay vào túi lấy đá, nét mắt vẫn nhâng
không có dáng gì sợ hãi. Bấy giờ Lôi Hoành sấn đến trước, bị Trương Thanh ném
cho một viên đá ngay vào giữa trán lăn xuống đất. Chu Đồng vội xong vào cứu, bất
đồ lại bị một viên đá trúng ngay vào cổ.
Quan Thắng đứng bên trận Tống Giang, trông thấy vậy liền gắn
hết uy thần, múa đao Thanh Long, phóng ngựa xích thố ra cứu Lôi Đồng, Lôi
Hoành. Chàng vừa đến cứu hai người để chạy về bản trận, thì đã thấy một viên đá
ném thẳng tới nơi, Quan Thắng nhanh mắt trông thấy, bèn giơ đao lên đỡ, thì
viên đá ném trúng vào thanh đao bật cả lửa lên, Quan Thắng lại vội vàng quay về
bản trận.
Song Chiên Tướng Đổng Bình thấy vậy, nghỉ thầm trong bụng:
"Ta đây mới đầu hàng Tống Giang nếu không thi tài võ nghệ cho biết, thì
khi về trên núi tất không có giá trị được".
Nghĩ đoạn liền vác song thương phi ngựa ra trận, Trương Thanh
trông thấy Đổng bình quát mắng rằng:
- Ta với ngươi là hàng xóm với nhau, đáng lẽ nên đồng tâm để
bắt giặc mới phải, nay ngươi nở lòng nào bội bạc triều đình, mà đi phò tá với
giặc, như thế phỏng nhục hay không?
Đổng Bình cả giận, múa song thương vào đến Trương Thanh. Hai
bên người ngựa tiến lui, ba cây thương lên xuống, đến nhau chừng năm bảy hiệp,
thi Trương Thanh quay ngựa mà chạy ngay.
Đổng Bình quát lên rằng:
- Người khác bị trúng đá của ngươi, chứ ta đây thì đá nào gần
được?
Nói đoạn xốc ngựa đuổi theo, Trương Thanh vừa chạy vừa lấy
viên đá ném lại Đổng Bình, Đổng Bình nhanh mắt nhanh tay gạt viên đá nẩy ra
ngoài mất.
Trương Thanh lấy viên đá thứ hai ném luôn phát nữa. Đổng Bình
né mình tránh về một bên, viên đá lại trẫng ra ngoài.
Trương Thanh thấy hai viên đá ném không ăn thua, trong lòng
hơi núng. Bấy giờ Đổng Bình đuổi sát đến đằng sau Trương Thanh, cầm thương đâm
một nhát giữa sau lưng, Trương Thanh giơ lá chắn lên đỡ và né mình vào một bên,
Đổng Bình đâm gãy thương trượt ra ngoài, rồi con ngựa Đổng Bình sấn lên đều với
ngựa của Trương Thanh. Trương Thanh vội vàng vất thương xuống đất, rồi khoành
tay ra ôm chặt lấy cả Đổng Bình, lẫn cây thương của Đổng bình mà vật xuống. Bất
đồ chàng vật không thấy chuyển, rồi hai người ôm chặt nhau mà quây quần ở giữa
vòng trận.
Sách Siêu ở bên trận Tống Giang, liền múa đại phủ ra giải cứu.
Bên kia Cung Vượng cùng Đinh Đắc Tôn cũng xông ngựa ra đón đánh Sách Siêu, ba
tướng lại dằn nhau rúm vào một chỗ, mà không sao gỡ ra được.
Lâm Xung, Hoa Vinh, Lã Phương, Quách Thịnh bèn cùng nhau xông
ngựa, múa gươm múa kích ra đánh cứu Đổng Bình cùng Sách Siêu. Trương Thanh thấy
thế lực không địch nổi, vội bỏ Đổng Bình chạy về bản trận. Đổng Bình hăng hái
xông vào để đuổi Trương Thanh, bất chợt Đổng Bình vô ý bèn lấy viên đá nhằm khi
Đổng Bình đến gần ném cho một phát. Đổng Bình nhanh mắt né mình để tránh, viên
đá đi sượt qua bên tay đánh vù một cái. Đổng Bình liền quay ngựa lại mà không
dám đuổi nữa.
Đằng kia Sách Siêu bỏ Cung Vượng, Đinh Đắc Tôn toan xông sang
để đuổi Trương Thanh, Trương Thanh lấy đá ném một phát trúng vào mặt Sách Siêu,
bắn phọt máu tươi ra, rồi Sách Siêu chạy về bản trận. Khi ấy Lâm Xung, Hoa Vinh
đương đánh nhau với Cung Vượng. Lã Phương, Quách Thịnh thì đương đánh nhau với
Đinh Đắc Tôn. Cung Vượng đánh nhau được mấy hiệp, trong bụng đã hơi chồn, liền
lấy mũi thương ra phi đánh Lâm Xung cùng Hoa Vinh, bất đồ phi thương ra không
trúng, thành ra trơ trọi tay không, không có khí giới để đánh, bị Lâm Xung cùng
Hoa Vinh bắt sống đem về trại Tống Giang.
Còn Đinh Đắc Tôn múa cây phi thoa, ra sức chống cự với Lã
Phương, Quách Thịnh rất là hăng hái. Sau Lãng Tử Yến Thanh đứng trong trận nom
thấy, liền nghĩ trong bụng rằng: "Trong một nháy mắt, mà quân ta có tới mười
lăm tên Đại Tướng bị đánh, vậy nếu không bắt được thằng Tiểu Tướng nầy của họ,
thì còn mặt mũi nào nữa! "Nghĩ đoạn liền vất gậy xuống lấy tên nỏ ra, nhằm
bắn một phát vào chân ngựa của Đinh Đắc Tôn, con ngựa bị đau ngã khuỵu xuống đất,
rồi Lã Phương, Quách Thịnh sấn nghiến vào bắt sống lấy Đinh Đắc Tôn.
Trương Thanh thấy vậy, toan xông ra cứu, song vì ít người
không địch nổi, liền truyền lệnh lui quân, rồi giải Lưu Đường về phủ Đông
Xương.
Hôm đó quan phủ Đông Xương đứng trên thành xem trận, thấy
Trương Thanh đánh luôn mười lăm viên tướng của Lương Sơn Bạc, sau dẫu bị bắt mất
Cung Vượng, Đinh Đắc Tôn song lại bắt được Lưu Đường về đó thì trong lòng lấy
làm vui vẻ vô cùng, liền trở về trong phủ để nâng chén mừng Trương Thanh và sai
giam Lưu Đường vào trong ngục, để cùng bàn định việc quân.
Bên kia Tống Giang thu quân về trại, sai giải hai người Cung
Vượng, Đinh Đắc Tôn về sơn trại trước, rồi Tống Giang nói với Lư Tuấn Nghĩa
cùng Ngô Dụng rằng:
- Tôi nghe về thời Ngũ Đại xưa, có Vương Ngạn Chương, trong một
nháy mắt mà bắt được ba mươi sáu tướng của nhà Đường, ngày nay Trương Thanh
cũng chỉ trong một loáng mà đánh nổi mười lăm viên Đại Tướng của ta, vậy sức
khoẻ của Trương Thanh cũng chẳng kém gì Vương Ngạn Chương ngày trước.
Chúng nghe nói, đều im phăng phắc một lượt, Tống Giang lại
nói rằng:
- Tôi xem người ấy toàn nhờ Cung Vượng và Đinh Đắc Tôn làm
vây cánh, vậy nay vây cánh đã bị mất, thì ta sẽ dùng lương sách mà bắt người ấy
được.
Ngô Dụng nói:
- Huynh trưởng cứ vững tâm, tôi hiểu cách của anh ta, và đã định
kế sách lâu rồi... Nay hãy xin cho các Đầu Lĩnh bị thương về sơn trại, và cho Lỗ
Trí Thâm, Võ Tòng, Tôn Lập, Hoàng Tín, Lý Lập đem hết thủy quân đi, và sắp cả
xe ngựa thuyền bè nhất tề tiến lên, rồi lừa Trương Thanh ra thành, thì tất là
xong việc.
Nói đoạn quay ra cắt đặt hiệu lệnh cho các quân sĩ.
Về phần Trương Thanh một hôm bàn định với quan phủ Đông Xương
rằng:
- Ta tuy đánh được hai trận, nhưng thế giặc còn to, chưa trừ
được gốc, vậy xin cho người đi dò xét hư thực ra sao.
Đương khi bàn luận, chợt thấy người vào báo: Về mạn Tây Bắc
có tới hơn trăm xe tải lương, và trên mặt sông cũng có hơn năm trăm chiến thuyền,
đều chở lương thảo tiến đi, chỉ có mấy người Đầu Lĩnh đi áp tải ở đó, Thái Thú
nghe báo nói rằng: Cái đó không khéo lại mưu kế gì chăng? Ta phải cho người đi
thám lại, xem có hẳn là tải lương hay không?
Ngày hôm sau, người đi thám về báo: Các xe đều xếp đầy những
gạo, các thuyền dẫu có che đậy song ở trong toàn thị là túi gạo tất cả không
sai.
Trương Thanh nói:
- Nếu vậy đêm nay ta ra thành đón chặn lấy đám xe, rồi sẽ cướp
lấy các thuyền, thí tất là đắc thắng.
Quan phủ khen phải mà rằng:
- Làm thế thì diệu lắm, song Tướng quân phải cẩn thận mới được.
Trương Thanh vâng lệnh, rồi đến đêm kéo quân ra đi. Hôm đó
mây quang trăng sáng, sao chiếu đầy trời, quân đi mười dặm đường, thì đã thấy
xe lương tải đến, trong cờ viết rõ là "Lương Trung Nghĩa của trại Thủy Hử"
và có một nhà sư Lỗ Trí Thâm vác thuyền trượng đi trước.
Trương Thanh trông thấy Lỗ Trí Thâm liền nói một mình rằng:
- Ta cho thằng trọc nầy một viên đá vào óc mới được...
Nói đoạn liền lấy viên đá ra ném. Lỗ Trí Thâm tuy nom thấy
Trương Thanh đến, song trong bụng đương giả vờ làm mặt không biết, cứ vác thuyền
trượng cắm đầu để chạy. Bất đồ bị một viên đá ném ngay vào đầu, máu tươi chảy vọt
ra rồi ngã lăn xuống đất.
Quân mã Trương Thanh đều reo hò xông đến để bắt, Võ Tòng đi
sau thấy, vội múa hai khẩu giới đao, sấn lên cứu lấy Lỗ Trí Thâm rồi bỏ cả xe cộ
mà chạy.
Trương Thanh cướp được lương thảo lấy làm mừng rỡ, liền không
đổi theo Lỗ Trí Thâm, mà giải lương thảo vào thành, Quan phủ thấy vậy cả mừng
truyền thu để vào trong kho.
Trương Thanh lại xin ra đánh, Quan phủ lại dặn với rằng:
- Tướng quân phải liệu cơ đấy...
Trương Thanh vâng lời lên ngựa đi ra cửa Nam. Bấy giờ trông
thấy thuyền lương đầy dẫy trên sông, không biết tới đâu mà kể. Trương Thanh liền
sai mở cửa thành, mà nhất tề kéo ra cả bên sông.
Khi tới nơi bỗng thấy mây mù đen kịt, sương tối đầy trời, đám
quân nhìn sát tận nhau, mà không ai trông thấy ai cả
Nguyên đó là phép thuật của Công Tôn Thắng, dùng để làm mê
man quân mã của Trương Thanh, Trương Thanh thấy vậy trong lòng kinh sợ vội lui
quân mã để quay về. Dè đâu vừa quay lại, thì thấy bốn mặt có tiếng hò reo, rồi
bỗng thấy quân mã ở đâu ầm ầm kéo đến. Đoạn rồi thấy Lâm Xung dẫn quân kị ra
ngăn áp cả người lẫn ngựa Trương Thanh xuống nước.
Bấy giờ dưới nước đã có đám Lý Tuấn, Trương Hoành, Trương Thuận,
ba anh em họ Nguyễn, cùng Đồng Uy, Đồng Mãnh cùng chực sẵn ở đó. Trương Thanh
xuống nước luống cuống không lên được, bị ba anh em họ Nguyễn bắt trói đem về
trong trại.
Ngô Dụng cùng Tống Giang được tin, liền thôi thúc quân mã ra
đánh thành rất khẩn. Một mình Tri Phủ hết sức giữ thành được một lúc, thì quân
mã Tống Giang đã phá cửa tràn vào, không sao ngăn nổi. Tống Giang kéo vào trong
thành, trước hết cứu cho Lưu Đường ra, rồi sau mở kho tàng lấy tiền lương, chia
một phần cho dân cư ở đó, còn thì đem cả về Lương Sơn. Quan Phủ Đông Xương vốn
là người chính trực thanh liêm, nên tha không giết hại. Đoạn rồi Tống Giang tụ
quân chúng ở trong Phủ Đông Xương.
Bấy giờ thủy quân Đầu Lĩnh giải Trương Thanh vào phủ. Các tướng
bị Trương Thanh đánh trước đều nghiến răng nghiến lợi muốn giết Trương Thanh.
Duy Tống Giang thấy giải đến nơi, thì vội vàng xuống thềm đón tiếp mà nói lại rằng:
- Quân chúng không biết lỡ phạm hổ uy, xin ngài tha lỗi ấy
cho...
Nói đoạn toan mời Trương Thanh lên ngồi, chợt đâu thấy Lỗ Trí
Thâm đầu buộc khăn tay bằng vải, tay cầm thuyền trượng bằng sắt, xông ra để
đánh Trương Thanh.
Tống Giang thấy vậy, vội ngăn Lỗ Trí Thâm lại mà quát nạt im
đi. Trương Thanh thấy Tống Giang là người nghĩa khí như vậy bèn cúi đầu lạy tạ
mà xin hàng.
Tống Giang lại đổ rượu xuống đất, lại bẻ một mũi tên mà thề rằng:
- Anh em ai còn thù hằn với Trương Thanh, thì trời đất không
dung tất bị chết ở nơi đao kiếm.
Chúng nghe nói đều im phăng phắc, không ai con hục hặc chi nữa.
Đoạn rồi Trương Thanh nói với Tống Giang rằng:
- Ở Phủ Đông Xương có một người thú y họ Hoàng Phủ tên Đoan,
xem tướng ngựa rất giỏi, xem bệnh ngựa và chữa bệnh ngựa rất tinh. Nguyên người
quê ở U Châu, mắt biếc râu vàng, người ta thường gọi là Tử Nhiêm Bá (bác râu
vàng). Lương Sơn Bạc ta tất có khi dùng đến hắn... Vậy xin cho đón cả vợ con
người ấy lên sơn Bạc một thể cho tiện.
Tống Giang nghe nói cả mừng mà rằng:
- Nếu được Hoàng Phủ Đoan có lòng cùng nhau tụ nghĩa, còn gì
hơn được nữa?
Trương Thanh thấy Tống Giang một dạ tin yêu, chàng liền đi gọi
Hoàng Phủ Đoan đến để bái kiến Tống Giang cùng các Đầu Lĩnh.
Tống Giang trông Hoàng Phủ Đoan mắt xanh lóng lánh, râu dài
quá bụng, rõ ra một bậc phi thường thì lấy làm khen ngợi vô cùng. Hoàng Phủ
Đoan thấy Tống Giang là người nghĩa khí như vậy, thì cũng vui mừng mà thuận phục
xin theo tới Lương Sơn.
Khi trò chuyện thỏa hiệp rồi, Tống Giang liền truyền lệnh cho
các Đầu Lĩnh thu xếp xe ngựa, chỉnh đốn quân mã và tải tiền lương đem về Sơn Trại.
Khi về tới sơn trại, Tống Giang sai thả Cung Vượng, Đinh Đắc Tôn ra, lấy lời
ngon ngọt dỗ dành hai người rất ân cần tử tế. Hai người đều lạy tạ mà xin quy
hàng ở đó.
Bấy giờ ở trong sơn trại tính tất cả lớn nhỏ có tới một trăm
Đầu Lĩnh cùng đề huề xum họp với nhau. Tống Giang thấy vậy cả mừng, bèn sai đặt
tiệc ăn mừng rồi nói với anh em rằng:
- Từ khi anh em ta bước chân lên núi tới đây, ơn nhờ trời đất,
các công việc đều được trơn tru, không hề chút gì vấp váp. Ngày nay lại nhờ trí
dũng của anh em, tôn tôi lên làm chủ trại, vậy tôi có một lời nầy muốn giải bày
khúc nhôi, dám xin anh em lấy lòng nghĩa khí mà chấp thuận lấy cho, thì thực là
hân hạnh cho sơn trại vô cùng.
Ngô Dụng đáp rằng:
- Huynh trưởng có điều gì dạy bảo, xin cứ nói cho anh em được
biết.
Tống Giang bèn ung dung đem ý kiến để giải bày cùng các vị Đầu
Lĩnh:
Mới hay:
Mấy phen lỡ đất long trời,
Anh hùng trải lắm trần ai mới già,
Đôi phen bốn bể một nhà,
Đông, Tây họp mặt san hà khiếp gan.
Cùng nhau hợp thể liên đoàn,
Non cao độc lập sóng tràn tự do.
Dọc ngang riêng một cơ đồ,
Máu nồng chan chứa một lò nghĩa chung.
Lương Sơn trăm tám anh hùng,
Giang hồ nghĩa nặng muôn trùng ai ơi!
Lời bàn của Thánh Thán:
Từ xưa chưa từng nghe nói đem đá ra đánh giặc, tự Thi Nại Am
bổng không nảy ra một chuyện lạ đời, để kết lại một thiên, khiến đọc giả lạ mắt
chột lòng, thấy rằng hòn đá nén ra, như đạn bay tên bắn, anh hùng Sơn Bạc, hầu
hết bó tay! Không ngờ tác giả phô trương tài lạ hơn một trăm người, đến đây như
hết, thế mà đến đây lại thấy tài năng của một phi thường, đọc một bộ sách bảy
mươi hồi đã thấy bao nhiêu kẻ tài cao thấp, kết lại nẩy một kẻ lạ thường như cuốn
như quét, như ruỗi như hịch...hết thẩy thực là chương pháp rất ly kỳ...
Bầy ra một trăm linh tám anh hùng, đến sau chót một Hoàng Phủ
Đoan giỏi về tướng ngựa. Hỡi ôi! Khéo thay! Đó làm ra cho thành một chuyện Thủy
Hử, xét ra cái tài dong duỗi, chưa chắc vô duujng cho thuyền xe, mà cái tật
thét gào thở hộc, chưa chắc không phải cản sức đi ngàn dặm, nệ theo bề ngoài
ngoài là một con vật, chưa chắc đã chẳng đáng của ở trong...cho nên bậc Tể tướng
tài hiền thường có những món thưởng thức về tài phá cách, vì trong trăm năm co
báo lại bất thần, thì biết chữa bệnh cho ngựa, dùng vào việc binh mã, há chẳng
đáng trọng dụng lắm hay sao? Thế mà đời không ai là Bá Nhạc tri âm, coi hiền với
ngu đều đến chết. Coi thường những thứ vẫn dùng, mà không biết đến, gặp khi tai
vạ tới, thấy lỗi ở những chỗ thường kia, bấy giờ mới đáng than, thì thấy ra đã
muộn. Nên việc dùng Hoàng Phủ Đoan, chính là gồm mọi đủ tài năng, không coi thường
một chút gì hết thảy.
Hồi kết:
Nhà Trung Nghĩa, bia đá nổi hàng văn;
Vụng Lương Sơn, bạn vàng kinh giấc mộng.
Bấy giờ Tống Giang bảo với các Đầu Lĩnh rằng:
- Lũ anh em ta bấy lâu vào sinh ra tử, mong mỏi tìm nhau, để
kết lấy giang hồ đại nghĩa, vậy ngày nay đã sum họp tất cả được một trăm lẻ tám
anh em, trí dũng kim toàn, anh tài không thiếu, thực là một cơ hội rất hiếm xưa
nay, ai trông thấy thế mà chẳng đồng tâm hiệp lực, để cùng liên lạc với nhau.
Duy trong khi gây cuộc binh đao, kể cũng thiệt hại đến nhiều dân chúng. Vậy
ngày nay muốn lập đàn trai để tạ ơn trời đất qủy thần, một là cầu đảo cho anh em
được vui vẻ yên lành, hai là mong triều đình sớm ra ơn xá tội để cùng nhau hết
sức báo đền non nước, thì dẫu chết cũng không dám từ nan, ba là cầu cho Tiều
Thiên Vương sớm thăng thiên giới thế thế sinh sinh rồi sau lại được gặp nhau,
và nhân tiện cầu nguyện cho các linh hồn bị chết chóc từ trước tới nay, đều được
siêu sinh tĩnh thổ về chốn lạc viên. Chẳng hay ý tưởng anh em nghĩ ra sao?
Các Đầu Lĩnh nghe nói đều đáp rằng:
- Đó là một công quả phúc đức, anh em đều xin theo ý kiến Ca
Ca chỉ giáo.
Ngô Dụng nói:
- Việc nầy tất phải nhờ Công Tôn Thắng tiên sinh làm chủ, rồi
cho người đi đón Đạo sĩ các nơi để về cúng mới được.
Nói đoạn liền bàn định đến rằm tháng tư bắt đầu làm chay, hạn
bảy đêm ngày công quả cho các người đi đón các Đạo Tràng về cúng, và sai người
mua sắm lễ vật cùng là bày dọn Đạo Tràng. Trước Trung Nghĩa Đường dựng cây phàn
lớn, bốn xung quanh kết ba từng đài rất cao, trong bày thánh trượng Tam Thanh,
Thất Bảo, hai ban đặt thờ hai mươi tám vì tinh tú, mười hai ngôi sao giờ cùng
các tinh chủ trên trời, và phía ngoài đặt giám đàn thờ thần tướng Thôi, Lưu
Trung Thư, Đặng, Đậu.
Hôm ấy khi trời trong trẻo, gió mát trăng thanh, đàn tràng đã
lập xong rồi. Công Tôn Thắng liền dẫn tất cả bốn mươi tám người đạo tràng ra
làm lễ. Bấy giờ Tống Giang, Lư Tuấn Nghĩa đứng đầu, rồi đến Ngô Dụng cùng các Đầu
Lĩnh ra đốt hương coi lễ.
Công Tôn Thắng chủ việc đàn tràng, coi giữ các giấy sớ ấn
bùa, và cùng bốn mươi tám người đạo tràng, cùng nhau mỗi ngày ra làm lễ ba khoá
lễ.
Tống Giang nhất tâm cầu nguyện, mong Hoàng Thiên báo ứng hiển
nhiên, liền bảo Công Tôn Thắng đốt sớ tâu lên Thượng Đế.
Đến đêm hôm thứ bảy, Công Tôn Thắng ở trên tấng đàn Hư Hoàng
thứ nhất, các đạo tràng ở tầng thứ hai, Tống Giang cùng các Đầu Lĩnh ở tầng thứ
ba, còn các tiểu Đầu Lĩnh cùng bọn tướng tá, đều đứng cả dưới đàn, mà cùng nhau
vái lạy trời xanh, cầu xem báo ứng.
Được một lát vào khoảng canh ba, chợt nghe thấy trên trời có
một tiếng soạt, như tiếng xé lụa rất to, rồi thấy cửa trời về phía Tây Bắc kiền
phương mở tung ra, và có một cái ban vàng, hai đầu nhỏ ở giữa rộng trông như mặt
trời chói lọi, sáng rực xuống khắp trần ai. Chợt lại thấy trong đàn, có một khối
lửa to như cái thúng, lừ đừ đi xuống đàn Hư Hoàng, quanh chuyển một vòng, rồi lặn
xuống dưới đất, về phía chính Nam.
Đoạn rồi mặt trời trở lại như cũ, rồi mọi người cùng nhau lạy
tạ xuống đàn mà đào đất để tìm.
Khi đào tới ba thước đất, chợt thấy có một miếng bia đá, chạm
thiên thư ở mặt giữa và cả đôi bên. Tống Giang sai đem về làm lễ tạ đàn, rồi
sáng hôm sau đưa tiền công quả để tặng cho các đạo tràng và đem bia đá ra xem.
Khi nom đến bia đá thấy chữ nghĩa ngoằn ngoèo, khác hẳn lối
thường, không còn ai biết nghĩa lý ra sao cả. Sau có một người đạo tràng, họ Hà
tên là Diệu Thông, nói với Tống Giang rằng:
- Tổ phụ nhà tôi khi xưa có một bộ sách, chuyên để cắt nghĩa
các lối chữ thiên thư, vậy lối chữ đây tức là lối chữ khoa đẩu, tôi có thể hiểu
được, xin ngài để cho tôi dịch giúp.
Tống Giang nghe nói cả mừng, liền nhờ Hà Diệu Thông xem giúp,
và dịch cho mọi người cùng hiểu nghĩa.
Hà Diệu Thông xem một lúc, rồi nói với Tống Giang rằng:
- Hai bên cạnh bia, một bên có bốn chữ "Thế Thiên Hành Đạo"
(Thay Trời làm Đạo), và một bên có bốn chữ "Trung Nghĩa Lưỡng Toàn"
(trung nghĩa vẹn hai), trên có các vì sao trên trời và phía dưới chưa đủ tên họ
các ngài ở đó. Nếu các ngài rộng tha phép cho, tôi xin viết rõ ra để các ngài
xem.
Tống Giang nói:
- Chúng tôi mê muội không biết văn trời, nay nếu được Đạo Sĩ
chỉ bảo đường mê, thì còn gì hơn nữa, dám xin Đạo Sĩ chỉ bảo rõ ràng cho biết,
hoặc giả ở trong có điều chi Hoàng Thiên quở phạt, cũng xin chớ dấu chúng tôi.
Nói đoạn liền gọi Thánh Thủ Thư Sinh Tiêu Nhượng lấy giấy
vàng mực đen ra để Hà Diệu Thông đọc cho viết.
Hà Diệu Thông lại nói rằng:
- Trong tấm bia nầy, trước mặt có ba mươi sáu hàng chữ toàn
thị là sao Thiên Cương, mặt sau có bảy mươi hai hàng chữ toàn thị là sao Địa
Sát, phía dưới có chứa tên họ các nghĩa sĩ ở đây cả.
Nói đoạn liền đọc ba mươi sáu hàng chữ ở trước mặt bia:
Thiên Khôi Tinh, Hô Bảo Nghĩa Tống Giang
Thiên Cương Tinh, Ngọc Kỳ Lân Lư Tuấn Nghĩa
Thiên Cơ Tinh, Trí Đa Tinh Ngô Dụng
Thiên Nhàn Tinh, Nhập Long Vân Công Tôn Thắng
Thiên Dũng Tinh, Đại Đao Quan Thắng
Thiên Hùng Tinh, Báo Tử Đầu Lâm Xung
Thiên Mãnh Tinh, Tích Lịch Hỏa Tần Minh
Thiên Uy Tinh, Song Chiên Hô Duyên Chước
Thiên Anh Tinh, Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh
Thiên Quý Tinh, Tiểu Toàn Phong Sài Tiến
Thiên Phú Tinh, Phác Thiên Bằng Lý Ứng
Thiên Mãn Tinh, Mỹ Nhiêm Công Chu Đồng
Thiên Cô Tinh, Hoa Hoà Thượng Lỗ Trí Thâm
Thiên Thương Tinh, Hành Giả Võ Tòng
Thiên Lập Tinh, Song Thương Tướng Đổng Bình
Thiên Tiệp Tinh, Một Vũ Tiễn Trương Thanh
Thiên Âm Tinh, Thanh Diện Thú Dương Chí
Thiên Hựu Tinh, Kim Sang Thủ Từ Ninh
Thiên Không Tinh, Cấp Tiên Phong Sách Siêu
Thiên Dị Tinh, Xích Phát Quỹ Lưu Đường
Thiến Sát Tinh, Hắc Toàn Phong Lý Quỳ
Thiên Tốc Tinh, Thần Hành Thái Bảo Đới Tung
Thiên Vi Tinh, Cửu Văn Long Sử Tiến
Thiên Cứu Tinh, Mộc Già Lan Mục Hoằng
Thiên Thoái Tinh, Sáp Sí Hổ Lôi Hoành
Thiên Thọ Tinh, Hỗn Giang Long Lý Tuấn
Thiên Kiếm Tinh, Lập Địa Thái Tuế Nguyễn Tiểu Nhị
Thiên Bình Tinh, Thuyền Đầu Hỏa Trương Hoành
Thiên Tội Tinh, Đỏan Mệnh Nhị Lang Nguyễn Tiểu Ngũ
Thiên Tổn Tinh, Lãng Lý Bạch Điều Trương Thuận
Thiên Bại Tinh, Hoạt Diêm La Nguyễn Tiểu Thất
Thiên Lao Tinh, Bệnh Quan Sách Dương Hùng
Thiên Tuệ Tinh, Biểu Mệnh Tam Lang Thạch Tú
Thiên Bảo Tinh, Lưỡng Đầu Sà Giải Trân
Thiên Khốc Tinh, Long Vĩ Hạt Giải Bảo
Thiên Xảo Tinh, Lãng Tử Yến Thanh
Bảy mươi hàng chữ mặt sau bia:
Địa Khôi Tinh, Thần Cơ Quân Sư Chu Vũ
Địa Sát Tinh, Trấn Tam Sơn Hoàng Tín
Địa Dũng Tinh, Bệnh Uùy Trì Tôn Lập
Địa Kiệt Tinh, Xú Quận Mã Tuyên Tán
Địa Hùng Tinh, Mộc Tỉnh Can Hắc Tư Văn
Địa Uy Tinh, Bách Thắng Tướng Hàn Thao
Địa Anh Tinh, Thiên Mục Tướng Bành Dĩ
Địa Kỳ Tinh, Thánh Thủy Tướng Quân Đan Đình Khuê
Địa Mãnh Tinh, Thần Hỏa Tướng Quân Ngụy Định Quốc
Địa Văn Tinh, Thánh Thủ Thư Sinh Tiêu Nhượng
Địa Chính Tinh, Thiết Diện Khổng Mục Bùi Tuyên
Địa Tịch Tinh, Ma Vân Kim Sí Âu Bằng
Địa Hạp Tinh, Hỏa Nhỡn Toan Nghê Đặng Phi
Địa Cường Tinh, Cẩm Mao Hổ Yến Thuận
Địa Âm Tinh, Cẩm Báo Tử Dương Lâm
Địa Phụ Tinh, Oanh Thiên Lôi Lăng Chấn
Địa Hội Tinh, Thần Toán Tử Tưởng Kính
Địa Tá Tinh, Tiểu Ôn Hầu Lã Phương
Địa Hựu Tinh, Kiển Nhân Quý Quách Thịnh
Địa Linh Tinh, Thần Y An Đạo Toàn
Địa Thú Tinh, Tử Nhiêm Bá Hoàng Phủ Đoan
Địa Vi Tinh, Nụy Cước Hổ Vương Anh
Địa Tuệ Tinh, Nhất Trượng Thanh Hổ Tam Nương
Địa Hao Tinh, Táng Môn Thần Đào Húc
Địa Mặc Tinh, Hỗn Thế Ma Vương Phàn Thụy
Địa Xương Tinh, Mao Đẩu Tinh Khổng Minh
Địa Cường Tinh, Độc Hỏa Tinh Khổng Lượng
Địa Phi Tinh, Bát Tý Na Tra Hạng Sung
Địa Tẩu Tinh, Phi Thiên Đại Thánh Lý Cổn
Địa Xảo Tinh, Ngọc Tý Tượng Kim Đại Kiện
Địa Minh Tinh, Thiết Dịch Tiên Mã Lân
Địa Tiến Tinh, Xuất Động Giao Đồng Uy
Địa Thoái Tinh, Phan Giang Thần Đồng Mãnh
Địa Mãn Tinh, Ngọc Phan Cang Mạnh Khang
Địa Toại Tinh, Thông Tý Viện Hầu Kiện
Địa Chu Tinh, Khiêu Giản Hổ Trần Đạt
Địa An Tinh, Bạch Hoa Sà Dương Xuân
địa Di Tinh, Bạch Diện Lang Quân Trịnh Thiên Thọ
Địa Lý Tinh, Cửu Vỹ Quy Đào Tôn Vượng
Địa Tuấn Tinh, Thiết Phiến Tử Tống Thanh
Địa Nhạc Tinh, Thiết Khiếu Tử Nhạc Hoà
Địa Tiệp Tinh, Hoa Hạng Hổ Cung Vượng
Địa Tốc Tinh, Tùng Tiến Hổ Đinh Đắc Tôn
Địa Trấn Tinh, Tiểu Già Lan Mục Xuân
Địa Cơ Tinh, Thao Đao Quỹ Tào Chính
Địa Ma Tinh, Vạn Lý Kim Cương Tống Vạn
Địa Yêu Tinh, Mô Trước Thiên Đỗ Thiên
Địa U Tinh, Bệnh Đại Trùng Tiết Vĩnh
Địa Phục Tinh, Kim Nhỡn Bưu Thi Ân
Địa Tịch Tinh, Đả Hổ Tướng Lý Trung
Địa Không Tinh, Tiểu Bá Vương Chu Thông
Địa Cô Tinh, Kim Tiền Báo Tử Thang Long
Địa Toàn Tinh, Quỹ Kiểm Nhi Đỗ Hưng
Địa Đỏan Tinh, Xuất Lâm Long Trâu Uyên
Địa Giốc Tinh, Độc Giốc Long Trâu Nhuận
Địa Tù Tinh, Hãn Địa Hốt Luật Chu Quý
Địa Tàng Tinh, Tiểu Diện Hổ Chu Phú
Địa Binh Tinh, Thiết Tý Phụ Xái Phúc
Địa Tổn Tinh, Nhất Chi Hoa Xái Khánh
Địa Nô Tinh, Thôi Mệnh Phán Quan Lý Lập
Địa Sát Tinh, Thanh Nhỡn Hổ Lý Lân
Địa Ác Tinh, Một Diện Mục Tiêu Đĩnh
Địa Xú Tinh, Thạch Tướng Quân Thạch Dũng
Địa Số Tinh, Tiểu Uùy Trì Tôn Tân
Địa Âm Tinh, Mẫu Đái Trùng Cố Đại Tẩu
Địa Hình Tinh, Thái Viên Tử Trương Thanh
Địa Tráng Tinh, Mẫu Dạ Xoa Tôn Nhị Nương
Địa Liệt Tinh, Hoạt Diêm La Vương Đình Lục
Địa Kiện Tinh, Hiểm Đạo Thần Úc Bảo Tứ
Địa Hao Tinh, Bạch Nhật Tử Bạch Thắng
Địa Tặc Tinh, Cổ Thượng Tao Thời Thiên
Địa Cẩu Tinh, Kim Mao Khuyển Đoàn Cảnh Trụ.
Tiêu Nhượng viết xong tất cả, rồi đọc lại một lượt cho mọi
người ai nấy đều kinh ngạc vô cùng.
Tống Giang liền nói với các Đầu Lĩnh rằng:
- Tôi là kẻ tiểu lại ngu hèn, ngờ đâu lại ứng vào các tinh tú
trên trời, cùng với anh em lại cùng chung một hội...Nay số trời đã định, tất phải
xum họp cùng nhau, vậy anh em ta phải y theo thứ tự, giữ lấy bổn phận mà làm,
chớ nên trái ý trời mới được.
Các Đầu Lĩnh nghe nói đều đáp rằng:
- Ý Trời đã định, còn ai dám cãi, từ nay đều xin nhất lực nhất
tâm...
Tống Giang sai lấy năm mươi lạng vàng, tạ ơn Hà Diệu Thông.
Hà Diệu Thông bèn bái tạ Tống Giang, cùng các vị Đầu Lĩnh, rồi cùng với bọn đạo
tràng xuống núi mà chia tay trở về.
Bấy giờ Tống Giang bàn với Quân Sư Ngô Dụng, cùng các Đầu
Lĩnh để chỉnh đốn lại trong sơn trại; Trước Trung Nghĩa Đường khắc một cái biển
vàng đề ba chữ "Trung Nghĩa Đường "rất to. Đoạn kim đình cũng thay một
bức biển lớn. Phía trước đặt ba cửa quan. Phía sau Trung Nghĩa Đường, lập một
toà Nhạn Đài. Đỉnh núi đặt một đại sảnh, phía Đông phía Tây đều có ngăn phòng,
chính giữa đặt một bàn thờ Tiều Cái.
Tống Giang, Ngô Dụng, Lã Phương, Quách Thịnh ở phòng bên
Đông; Lư Tuấn Nghĩa, Công Tôn Thắng, Khổng Minh, Khổng Lượng ở phòng bên Tây.
Lớp núi thứ hai có Chu Vũ, Hoàng Tín, Tôn Lập, Tiêu Nhượng,
Bùi Tuyên ở phòng bên tả; và Đới Tung, Yến Thanh, Trương Thanh, An Đạo Toàn,
Hoàng Phủ Đoan ở dẫy bên hữu. Bên tả Trung Nghĩa Đường có Sài Tiến, Lý Ứng, Tưởng
Kính, Lăng Chấn coi giữ việc thu phát tiền lương kho tàng, và bên hữu thì có
Hoa Vinh, Phàn Thụy, Hạng Sung và Lý Cổn.
Cửa quan đệ nhất đường bên Nam trước núi, cắt Giải Trân, Giải
Bảo coi giữ, Cử Quan thứ nhì Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng coi giữ. Cửa quan thứ ba Chu
Đồng, Lôi Hoành coi giữ.
Bên Đông núi một cửa quan, Sử Tiến, Lưu Đường coi giữ.
Bên Tây một cửa quan, Dương Hùng, Thạch Tú coi giữ. Bên bắc một
cửa quan Mục Hoằng, Lý Quỳ coi giữ.
Ngoài sáu cửa quan lại đặt thêm tám trại, bốn trại trên bộ,
và bốn trại dưới nước. Trại bộ chính Nam có Tầm Minh, Sách Siêu, Âu Bằng, Đặng
Phi. Trại Chính Đông có Quan Thắng, Từ Ninh, Tuyên Tán, Hắc Tư Văn; Trại chính
Tây có Lâm Xung, Đổng Bình, Đan Đình Khuê, Ngụy Định Quốc. Trại Chính Bắc có Hô
Duyên Chước, Dương Chí, Hàn Thao, Bành Dĩ; Trại thủy bên Đông Nam có Lý Tuấn,
Nguyễn Tiểu Nhị; Trại Tây Nam có Trương Hoành, Trương Thuận; Trại Đông Bắc có
Nguyễn Tiểu Ngũ, Đồng Uy; Trại Tây Bắc có Nguyễn Tiểu Thất, Đồng Mãnh, còn các
Đầu Lĩnh ai vào việc ấy.
Lại sai Hầu Kiện chế thêm các hiệu cờ khác nhau, trên núi chế
một ngọn cờ Hoành Hạnh, viết bốn chữ "Thế Thiên Hành Đạo" rất to. Trước
cửa Trung Nghĩa Đường chế hai lá cờ thêu, một bên có năm chữ "Sơn Đông Hô
Bảo Nghĩa"; và một bên năm chữ "Hà Bắc Ngọc Kỳ Lân ". Ngoài đặt
các cờ Phi Long, Phi Hổ, Phi Hùng, Phi Báo, Thanh Long, Bạch Hổ, Chu Tước, Huyền
Vũ, và các đồ Hoàng Việt, Bạch Mao, Thanh Phan, Tạo Cái, Phi Anh hặc đạo để
dùng ra trận.
Lại sai chế các thứ cờ Tứ Đầu, Ngũ Phương, Tam Tài, Cửu Diệu,
Nhị Thập Bát Tú, Lục Thập Tứ Quái, Chu Thiên Cửu Cung, Bát Quái, và tất cả một
trăm hai mươi bốn thứ cờ. Còn các việc ấn tín binh phù, thì giao cho Kim Đại Kiện
coi giữ.
Đoạn rồi chọn ngày lành tháng tốt, giết trâu giết ngựa tế lễ
trời đất qủy thần treo biển lên Trung Nghĩa Đường. Đoạn Kim Đình và cắm cờ
"Thế Thiên Hành Đạo "lên đỉnh núi, rồi cùng nhau yến ẩm làm vui. Hôm
đó Tống Giang tay cầm binh phù ấn tín, tuyên cáo hiệu lệnh cho các Đầu Lĩnh rằng:
- Từ nay anh em đều phải giữ theo chức trách, không được cưỡng
trái, để hại đến Đại Nghĩa trong sơn trại. Nếu ai trái lệnh không theo, thì lấy
quân pháp trị tội...
Nói đoạn liền kê các chức vụ của các Đầu Lĩnh cho mọi người
cùng biết:
Hai viên Tổng binh Đô Đầu Lĩnh ở sơn bạc, là Tống Giang, Lư
Tuấn Nghĩa.
Hai viên Quân Sư là Ngô Dụng, Công Tôn Thắng, coi giữ việc cơ
mật.
Một viên Tham Tán Quân Vụ, là Thần Cơ Quân Sư Chu Vũ.
Hai viên Đầu Lĩnh coi giữ tiền lương, là Sài Tiến và Lý Ứng.
Năm viên Hổ Tướng Mã Quân là Quan Thắng, Lâm Xung, Tần Minh,
Hô Duyên Chước, và Đổng Bình.
Tám viên mã quân Đại Khiêu Kị, kiêm chức Tiền Phong Sứ là Hoa
Vinh, Từ Ninh, Dương Chí, Sách Siêu, Trương Thanh, Chu Đồng, Sử Tiến, và Mục Hoằng.
Mười sáu viên Mã quân Tiểu Bưu Tướng, kiêm việc Thám tiểu là
Hoàng Tín, Tôn Lập, Tuyên Tán, Hắc Tư Văn, Hàn Thao, Bành Dĩ, Đan Đình Khuê, Ngụy
Định Quốc, Âu Bằng, Đặng Phi, Yến Thuận, Mã Lân, Trần Đạt, Dương Xuân, Dương Lâm,
Chu Thông.
Mười viên bộ quân Đầu Lĩnh, là Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng, Lưu Đường,
Lôi Hoành, Lý Quỳ, Yến Thanh, Dương Hùng, Thạch Tú, Giải Trân, Giải Bảo.
Mười bảy viên Tướng Hiệu Bộ Quân, là Phàn Thụy, Hạng Sung, Lý
Cổn, Tiết Vĩnh, Thi Aân, Mục Xuân, Lý Trung, Trịnh Thiên Thọ, Tống Vạn, Đỗ
Thiên, Trâu Uyên, Trâu Nhuận, Cung Vượng, Đinh Đắc Tôn, Tiêu Đĩnh và Thạch
Dũng.
Tám viên Đầu Lĩnh Thủy Quân là Lý Tuấn, Trương Hoành, Trương
Thuận, Nguyễn Tiểu Nhị, Nguyễn Tiểu Ngũ, Nguyễn Tiểu Thất, Đồng Uy và Đồng
Mãnh.
Tám viên Đầu Lĩnh coi bốn mặt tửu điếm, để dò xét tin tức. Điếm
bên Đông có Tôn Tân và Cố Đại Tẩu; Bên Tây có Trương Thanh và Tôn Nhị Nương.
Bên Nam có Chu Quý, Đỗ Hưng; Bên Bắc có Lý Lập, Vương Đình Lục.
Một viên coi đại quyền về việc do thám, là Thần Hành Thái Bảo
Đới Tung. Tám viên Đầu Lĩnh Bộ Quân, phi báo các việc cơ mật là Nhạc Hoà, Thời
Thiên, Đoàn Cảnh Trụ, Bách Thắng.
Hai viên Kiều Tướng Mã quân thủ hộ ở Trung Quân, là Lã
Phương, Quách Thịnh.
Hai viên Kiều Tướng Bộ quân, Thủ Hộ ở Trung Quân là Khổng
Minh, Khổng Lượng.
Hai viên chuyên việc hành hình là Xái Phúc, Xái Khánh.
Hai viên Đầu Lĩnh Mã Quân giữ việc do thám trong tam quân là
Vương Anh và Hổ Tam Nương. Mười sáu viên Đầu Lĩnh coi việc chế tạo sửa sang. Một
viên giữ việc văn thư giấy má, trong khi khi khiển tướng điều binh là Tiêu Nhượng.
Một viên Quân Chính Tư coi việc thưởng phạt là Bùi Tuyên. Một viên coi các việc
tính toán tiền nong, chế tạo chiến thuyền là Mạnh Khang. Một viên chuyên chế tạo
ấn tín là Kim Đại Kiện. Một viên chế các thứ cờ quạt áo bào là Hầu Kiện.
Một viên giữ việc chữa thuốc cho ngựa là Hoàng Phủ Đoan.
Một viên chuyên trị các khoa thuốc là An Đạo Toàn.
Một viên coi việc chế tạo các đồ quân khí bằng sắt là Thang
Long.
Một viên chuyên chế các thứ súng là Lăng Chấn.
Một viên coi các việc nhà cửa là Lý Vân.
Một viên coi việc giết mổ trâu bò gà lợn là Tào Chính.
Một viên coi việc yến tiệc là Tống Thanh.
Một viên coi việc rượu chè là Chu Quý.
Một viên coi đắp thành trì là Đào Tôn Vượng.
Một viên coi giữ cờ súy là Úc Bảo Tứ.
Hôm đó là ngày hai mươi hai, tháng tư năm thứ hai, niên hiệu
Tuyên Hoà, Tống Công Minh họp hết thẩy các Đầu Lĩnh ở Lương Sơn Bạc để truyền lệnh
cắt đặt xong việc. Các Đầu Lĩnh đều vâng lệnh ấn tín, cùng nhau yến ẩm ở Trung
Nghĩa Đường, rồi quay ra chia giữ các việc. Trong đó có người nào chưa cắt định
công việc thì cho ở tạm ở trước Nhạn Đài để chờ hiệu lệnh.
Ngày hôm sau Tống Giang lại sai khua trống tụ họp các Đầu
Lĩnh ở Trung Nghĩa Đường, đốt một lò hương, rồi nói với mọi người rằng:
- Anh em ta ngày nay xum họp ở đây, là tại số trời định trước,
chiếu ứng bởi các vì sao, vậy ta nên một dạ một lòng, thề cùng trời đất mà trăm
năm sinh tử có nhau, thì ngõ hầu mới khỏi phụ ý Trời trọng đãi... Các anh em
xin chớ sai lời.
Chúng nghe nói đều vui mừng khen phải, liền cùng nhau thắp
hương, mà cùng nhau quỳ ở trước Trung Nghĩa Đường, để tuyên lời thề nguyện.
Tống Giang quỳ ở hàng đầu, tuyên lời thệ rằng:
- "Ngày hai mươi ba, tháng tư, năm thứ hai, niên hiệu
Tuyên Hoà, bọn nghĩa sĩ ở Lương Sơn Bạc là: Tống Giang, Lư Tuấn Nghĩa, Ngô Dụng,
Công Tôn Thắng, Quan Thắng, Lâm Xung, Tần Minh, Hô Duyên Chước, Hoa Vinh, Sài
Tiến, Lý Ứng, Chu Đồng, Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng, Đổng Bình, Trun, Dương Chí, Từ
Ninh, Sách Siêu, Đới Tung, Lưu Đường, Lý Quỳ, Sử Tiến, Mục Hoằng, Lôi Hoành, Lý
Tuấn, Nguyễn Tiểu Nhị, Trương Hoành, Nguyễn tiểu Ngũ, Trương Thuận, Nguyễn Tiểu
Thất, Dương Hùng, Thạch Tú, Giải Trân, Giải Bảo, Yến Thanh, Chu Vũ, Hoàng Tín,
Tôn Lập, Tuyên Tán, Hắc Tư Văn, Hàn Thao, Bành Dĩ, Đan Đình Khuê, Ngụy Định Quốc,
Tiêu Nhượng, Bùi Tuyên, Âu Bằng, Đặng Phi, Yến Thuận, Dương Lâm, Lăng Chấn, Tưởng
kính, Lã Phương, Quách Thịnh, An Đạo Toàn, Hoàng Phủ Đoan, Vương Anh, Hổ Tam
Nương, Bào Húc, Phàn Thụy, Khổng Minh, Khổng lượng, Hạng Sung, Lý Cổn, Kim Đại
Kiện, Mã Lân, Đồng Uy, Đồng Mãnh, Mạnh Khang, Hầu Kiện, Trần Đạt, Dương Xuân,
Trịnh Thiên Thọ, Đào Tôn vượng, Tống Nhạc Hoà, Cung Vượng, Đinh Đắc Tôn, Mục
Xuân, Tào Chính, Tống Vạn, Đỗ Thiên, Tiết Vĩnh, Thi Aân, Lý Trung, Chu Thông,
Thang Long, Đỗ Hưng, Trâu Uyên, Trâu Nhuận, Chu Quý, Xái Phúc, Xái Khánh, Lý Lập,
Lý Vân, Tiêu Đĩnh, Thạch Dũng, Tôn Tân, Cố Đại Tẩu, Trương Thanh, Tôn Nhị
Nương, Vương Đình Lục, Úc Bảo Tứ, Bạch Thắng, Thời Thiên, Đoàn Cảnh Trụ, cùng
nhau giốc lòng thành kính lập lời thề nguyện, xin Thần minh soi xét chứng cho.
Nguyên Chúng tôi vốn người bốn bể, nay họp một nhà.
Theo tinh tú làm anh em, lấy đất trời làm cha mẹ.
Một trăm tám người, tuy khác mặt song cũng vẻ vang.
Một trăm tám người, tuy khác lòng, song đều trong sạch.
Vui phải cùng vui, lo phải cùng lo.
Sống phải cùng sống, chết phải cùng chết.
Đã liệt tên trên Thượng Đế, chớ để hổ với dân gian;
Một ngày thành tâm khí đã tin, trọn kiếp tâm can không đổi.
Nếu ai mang dạ bất nhân, bỏ lòng đại nghĩa, ngoài hay trong dở,
có trước không sau, thì Thượng Đế soi trên, quỷ thần soi dưới, thân tất lìa tan
vì đao kiếm, mà tội còn mang nặng với phong lôi; trăm năm không được hưởng
thanh bình, muôn kiếp còn sa vào địa ngục.
Đạo trời đất phân minh báo ứng, dám xin soi xét lòng
thành...".
Tống Giang đọc xong, mọi người vui vẻ mà kêu lên rằng:
- Xin nguyện trăm năm xum họp cùng nhau, muôn kiếp không hề
xa cách, mối giây liên lạc, bao giờ cũng được như nay...
Nói đoạn đều uống máu ăn thề, rồi cùng nhau chè chén, đến khi
quá say mới tan.
Miền Thủy Bạc, vũng Lương Sơn,
Nước bèo gặp gỡ, tâm can hẹn hò,
Tài kinh tế, chí giang hồ,
Giữa trời dựng một ngọn cờ nghĩa trung,
Từ đây thỏa chí tang bồng,
Mảnh gương nghĩa hiệp soi chung muôn đời,
Trăm năm nhắm bạn anh tài,
Làm trai cho đáng thân trai mới là...
Đêm hôm đó Lư Tuấn Nghĩa về nằm nghỉ trong trướng, chợt nằm
mê thấy một người cao lớn, tay cầm cây bảo cung, đến nói với Lư Tuấn Nghĩa rằng:
- Ta tên là Kê Khang, vì vua nhà Đại Tống, mà đến bắt giặc ở
đây. Vậy các ngươi nên mau mau mà tự trói lấy thân, đừng để cho ta phải động đến
thêm phiền.
Lư Tuấn Nghĩa nghe nói, đùng đùng nổi giận, vội cầm đao đuổi
sấn lên để chém. Bất đồ chàng giơ đao lên, thì thấy lưỡi đao đã gãy tự hồi nào
rồi, không sao mà chém được.
Lư Tuấn Nghĩa thấy vậy lấy làm cả kinh, vội vàng chạy ra giá
đao, để chọn lấy thanh khác. Chẳng dè khi ra tới giá đao, thì thấy bao nhiêu
gươm giáo đao thương, đều gãy mẻ hết một lượt, không còn cái nào dùng được nữa.
Khi đó người kia đuổi sấn đến đằng sau Lư Tuấn Nghĩa, Lư Tuấn
Nghĩa luống cuống không biết làm thế nào liền giơ tay phải lên để đánh. Chàng vừa
giơ được tay lên, thì người kia đã cầm thương, đánh cho một cái gãy hẳn một
cánh tay ngã lăn xuống đất. Đoạn rồi người kia lấy cuộn thừng ở lưng ra trói chặt
Lư Tuấn Nghĩa mà dong đi.
Được một lát đi đến chỗ khoảng giữa kê một cái án công, và có
một người ngồi nghiêm chỉnh, trông mặt về phía Nam. Người kia bắt Lư Tuấn Nghĩa
vào quỳ ở trên bãi cỏ trước chốn công đường, mà sắp sửa để tra hỏi. Chợt đâu lại
thấy ngoài cửa có tiếng khóc vang trời, rồi người kia lại quát lên rằng:
- Có việc gì cứ cho cả vào đây.
Đoạn rồi thấy một tụi rất đông, vừa khóc vừa đi vào trong đó.
Lư Tuấn Nghĩa trông lên thấy cả tụi Lương Sơn Bạc, một trăm lẻ bảy người đều
trói tay đi đất, mà lướt xướt cùng kéo nhau vào quỳ ở đó. Lư Tuấn Nghĩa thấy vậy,
trong lòng lấy làm kinh lạ vô cùng.
Bấy giờ Đoàn Cảnh Trụ quỳ ở gần Lư Tuấn Nghĩa, Tuấn Nghĩa bèn
khẽ hỏi Đoàn Cảnh trụ rằng:
- Cớ làm sao bắt được cả bọn ta đến đây thế?
Đoàn Cảnh Trụ khẽ nói với Lư Tuấn Nghĩa rằng:
- Tống Ca Ca biết Viên Ngoại bị bắt, không có kế gì cứu được,
liền bàn với Quân Sư làm khổ nhục kế như thế, để quy phục với triều đình, thì mới
có thể bảo toàn tính mạng cho Viên Ngoại được.
Cảnh Trụ vừa dứt lời, thì thấy người ngồi trên, vỗ tay xuống
án mà mắng rằng:
- Quân cường tặc kia, bay làm nên tội nghiệt đầy trời, mấy
phen triều đình sai quân đến đánh, bay đều cự địch với cả quan quân, ngày nay lại
còn giả trá kêu van, để mong tránh tội hay sao? Nếu ta tha cho chúng bay, thì
còn lấy đâu pháp luật để trị thiên hạ nữa được? Vả chăng chúng bay là đồ gian
tham phản trắc, ta không thể nào mà tin bay được. Đám quân binh của ta đâu?
Nói đoạn liền thấy hai trăm mười sáu người Hình Quan ở cạnh
vách đổ ra, cứ hai người dìu một, mà đem tất cả bọn Tống Giang, một trăm linh
tám người ra sân để chém.
Lư Tuấn Nghĩa thấy vậy kinh sợ rụng rời, mở mắt ra nom thì thấy
trên Công Đường có một cái bảng đề bốn chữ xanh "THIÊN HẠ THÁI BÌNH".
Lời bàn của Thánh Thán:
Một bộ sách bảy mươi hồi, đáng gọi là phô bày to lớn, đáng gọi
là kết thúc lớn lao, đọc đấy như đàn rồng ngàn dặm cùng đều vào tới bể, không
còn chút nào cảm thấy chưa xong, chỉ nực cười cho La Hán Trung khéo nối điêu
thêm, thấy còn xấu thêm ra nữa.
Hoặc có kẻ hỏi rằng: Thiên Văn Thạch Kệ, việc đó thực chăng?
Hay là Tống Giang đặt ra giả dối? Đó là trí khôn của kẻ ngây nói chuyện mơ
màng, tác giả tự viết ra, đến đây là hết, khéo đem họ tên một trăm linh tám người,
nhất nhất bày trình ra, điểm nhởn kết huyệt trong bảy mươi hồi của bộ sách vậy?
Xét bắt đầu từ Thạch Kệ, Kết cuối lại lấy Thạch Kệ. Đóng mở cho một bộ sách lớn,
kể việc thì 70 mươi hồi thì người 108 vị, làm quan tiết lớn sách nầy còn việc
đó người kia. Dù có hay không đối với nhà viết ra chuyện không cần kể tới, thì
đọc giả can chi phải thắc mắc hỏi đến?
Họp 108 người sau cùng nơi Thủy Bạc, với ý rằng không dạy được
họ, Chợt đâu khéo diễn một giấc mơ của Lư Tuấn Nghĩa, với ý dẫn ra một án
Trương Thúc Dạ thu đánh sau nầy cho trọn một sách mà không cần tả tới chuyện đó
nữa coi như đánh lúc nào xong lúc bấy giờ. Chao ôi; quân tử xưa kia chưa rừng
Tiểu Lâm cung thận như người xem xét sau nầy! Ta xem Thủy Hử đầy vẫy hàn vàn lời
nói, rồi cũng phải lấy bốn chữ "Thái Bình Thiên Hạ" kết chung, thì thấy
ý lắm vậy! Đời sau lại bỏ mất chỗ cuối, thêm vào một đoạn chiêu an, làm cho rõ
tội của triều đình, quy công về giặc cướp, thậm chí nghĩ đem hai chữ
"Trung Nghĩa" nêu cho họ, sau mà khéo phạm thượng tác loạn đến điều,
mà chẳng viết gì như thế nhỉ?
Những tên sau Thiên Cương, Địa Sát, xét ra không hợp Đạo làm
người, sao lại có án văn viết ra lạ lùng dễ mê hoặc lòng người đến thế? Ta muốn
làm sao dựng dậy Thi Nại Am mà hỏi cho ra.
Thi Nại Am
Dịch giả: Á Nam Trần Tuấn Khải
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét