Thứ Năm, 2 tháng 4, 2020

Tam quốc chí diễn nghĩa 1

Tam quốc chí diễn nghĩa 1
Hồi 1:
Tiệc vườn đào, anh hùng kết nghĩa
Chém Khăn Vàng, hào kiệt lập công
Thế lớn trong thiên hạ, cứ tan lâu rồi lại hợp, hợp lâu rồi lại tan: như cuối đời nhà Chu, bảy nước tranh giành xâu xé nhau rồi sau lại hợp về nhà Tần. Đến khi nhà Tần mất, thì Hán Sở tranh hùng rồi sau thiên hạ lại hợp về tay nhà Hán.
Nhà Hán, từ lúc vua Cao tổ (Bái Công) chém rắn trắng khởi nghĩa, thống nhất được thiên hạ, sau vua Quang Vũ lên ngôi, rồi truyền mãi đến vua Hiến đế; lúc bấy giờ lại chia ra thành ba nước.
Nguyên nhân gây ra biến loạn ấy là do hai vua Hoàn đế, Linh đế. Vua Hoàn đế tin dùng lũ hoạn quan, cấm cố những người hiền sĩ. Đến lúc vua Hoàn đế băng hà, vua Linh đế lên ngôi nối nghiệp; được quan đại tướng quân Đậu Vũ, quan thái phó Trần Phồn giúp đỡ. Khi ấy, trong triều có bọn hoạn quan là lũ Tào Tiết lộng quyền. Đậu Vũ, Trần Phồn lập mưu định trừ bọn ấy đi, nhưng vì cơ mưu tiết lộ nên lại bị chúng nó giết mất. Từ đấy, bọn hoạn quan ngày càng ngạo ngược.
Ngày rằm tháng tư năm Kiến Ninh thứ hai (167 sau công lịch) vua ngự điện Ôn Đức. Tự nhiên có cơn gió to ầm ầm từ góc điện nổi lên, rồi thấy một con rắn xanh lớn ở trên xà nhà quăng xuống quằn quại trên long án. Vua kinh hoàng ngã đùng ra, các quan tả hữu vội cứu vực vào cung; ở ngoài văn võ cũng sợ chạy cả. Được một lát con rắn biến mất và bỗng nhiên mưa to, sấm sét ầm ầm; lại thêm mưa đá rào rào mãi đến nửa đêm mới tạnh, đổ nhà đổ cửa không biết bao nhiêu mà kể.
Tháng hai, năm Kiến Ninh thứ tư (169) tỉnh Lạc Dương có động đất, nước bể dâng lên ngập lưng trời, dân cư ở ven bể bị sóng lớn cuốn trôi đi mất cả.
Năm Quang Hoá thứ nhất (178), một con gà mái tự dưng hoá ra gà trống. Mồng một tháng sáu năm ấy, một luồng khí đen dài chừng hơn mươi trượng bay vào trong điện Ôn Đức. Qua sang tháng bảy, lại có lắm điều gở lạ: cầu vồng mọc ở giữa Ngọc đường; rặng núi Ngũ Nguyên bỗng dưng lở sụt xuống.
Vua hạ chiếu, hỏi chư thần từ đâu mà sinh ra những điềm quái gở ấy. Có quan nghị lang là Sái Ung dâng sớ lên, lời lẽ thống thiết, nói rằng: “Cầu vồng sa xuống, gà mái hoá trống, ấy là bởi quyền chính trong nước ở tay đàn bà và ở tay hoạn quan”. Vua xem sớ ngậm ngùi thở dài, đứng dậy thay áo. Tào Tiết khi ấy đứng hầu sau ngai nghe trộm thấy, trong lòng căm giận, bèn mách bảo đồng bọn, bàn mưu kiếm cớ vu hãm Sái Ung, cách quan đuổi về quê quán.
Về sau bọn hoạn quan là Trương Nhượng, Triệu Trung, Phong Tư, Đoan Khuê, Tào Tiết, Hầu Lãm, Kiển Thạc, Trình Khoáng, Hạ Huy, Quách Thắng, cả thảy mười người gọi là mười quan “thường thị” bè đảng với nhau kéo cánh làm càn. Nhà vua tin dùng tôn trọng Trương Nhượng, gọi là “Á phụ” (nghĩa là vua coi như cha).
Từ đấy chính sự trong triều ngày càng đổ nát, lòng người náo loạn, giặc cướp nổi lên như ong.
Khi ấy ở đất Cự Lộc, có một nhà ba anh em: anh cả là Trương Giác, em hai là Trương Bảo, em út là Trương Lương.
Trương Giác vốn thi tú tài trượt, nhân thế bực mình vào núi hái thuốc. Đi đường gặp một ông cụ già mặt tròn mắt biếc, tay chống gậy lê, gọi Trương Giác vào trong một cái động, trao cho ba quyển sách và bảo rằng: “Đây là cuốn “Thái bình yêu thuật”, có được cuốn này ngươi nên thay trời dạy người, để cứu lấy đời. Nếu sau này manh tâm tà gian ắt bị ác báo”. Trương Giác sụp xuống lạy, hỏi họ tên thì cụ già nói: “Ta là Nam Hoa lão tiên”, nói đoạn hoá ra một trận gió biến mất.
Trương Giác được ba quyển sách ấy đem về ngày đêm học tập, không bao lâu biết đủ các phép hô gió mưa, tự xưng là Thái Bình đạo nhân.
Đến tháng giêng, năm Trung Bình thứ nhất (184), có bệnh ôn dịch. Trương Giác làm ra nước phép chữa bệnh, cứu được nhiều người, tự xưng là Đại hiền lương sư. Giác có đồ đệ năm trăm người, đi dạo các nơi, ai cũng biết phép thư phù niệm chú. Về sau đồ đệ ngày càng đông; Giác bèn chia học trò ra ba mươi sáu phương, phương lớn hơn một vạn người, phương nhỏ sáu bảy ngàn người, phương nào cũng đặt một người làm thủ lĩnh xưng là tướng quân. Giác nói phao lên rằng: “Trời xanh đã chết, trời vàng nên dựng”, “Đến năm Giáp Tý, thiên hạ thái bình”. Rồi sai người lấy đất thó trắng viết hai chữ “Giáp Tý” ở ngay giữa cửa. Nhân dân tám châu Thanh, U, Từ, Ký, Kinh, Dương, Duyện, Dư nhà nào cũng thờ mấy chữ hiệu: “Đại hiền lương sư Trương Giác”.
Trương Giác lại sai đồng đảng là Mã Nguyên Nghĩa mật đem vàng lụa vào kinh kết giao với tên hoạn quan Phong Tư, đi làm nội ứng, rồi bàn với hai em rằng:
- Không gì khó bằng thu phục được lòng dân, nay lòng dân đã quy thuận về ta, nếu không thừa thế chiếm lấy thiên hạ thì thật là đáng tiếc lắm.
Bèn một mặt sai may cờ vàng hẹn ngày khởi sự, một mặt sai đồ đệ là Đường Châu đem thư báo cho Phong Tư biết. Nhưng Đường Châu lại đi thẳng đến cửa cung tố cáo.
Được tin, vua liền triệu quan đại tướng quân là Hà Tiến điều binh bắt chém Mã Nguyên Nghĩa và bắt cả bọn Phong Tư bỏ ngục. Trương Giác thấy việc đã tiết lộ, vội vàng cử binh khởi sự, tự xưng là Thiên công tướng quân, Trương Bảo xưng Địa công tướng quân, Trương Lương xưng Nhân công tướng quân; nói với mọi người rằng: “Nay vận nhà Hán sắp hết, đại thánh nhân ra đời. Các ngươi nên thuận mệnh trời, theo về ta để cùng vui hưởng thái bình!”
Nhân dân bốn phương đội khăn vàng, đi theo Trương Giác có tới bốn năm mươi vạn người. Thế giặc dữ dội, quan quân thua chạy như vịt. Hà Tiến một mặt tâu vua, xin hoả tốc xuống chiếu cho các nơi phòng giữ giết giặc lập công; một mặt sai ba quan trung lang tướng là Lư Thực, Hoàng Phủ Tung, Chu Tuấn đem quân tinh nhuệ chia ra làm ba ngả dẹp giặc.
Trong khi ấy, quân Trương Giác có một toán xâm phạm vào bờ cõi U Châu. Quan thái thú châu ấy là Lưu Yên, người làng Kính Lăng, đất Giang Hạ, dòng dõi Lỗ Cung vương nhà Hán, nghe tin quân giặc sắp đến, liền triệu quan hiệu uý Châu Tĩnh đến bàn luận. Tĩnh nói:
- Quân giặc nhiều, quân ta ít, ông nên tức khắc chiêu mộ thêm quân thì mới kịp ứng phó.
Lưu Yên cho là phải, bèn sai treo bảng mộ quân.
Khi bảng treo đến Trác Quận thì có ngay một vị anh hùng ra ứng mộ. Vị anh hùng ấy không thích đọc sách mấy, tính ôn hoà, ít nói, mừng giận không hề lộ ra mặt, vốn có chí lớn, chỉ thích kết giao với những tay hào kiệt trong thiên hạ. Kể dáng người thì mình cao bảy thước rưỡi[1], hai tai chảy xuống gần vai, hai tay buông khỏi đầu gối, mắt trông thấy được tai, mặt đẹp như ngọc, môi đỏ như son, tức là dòng dõi Trung Sơn Tĩnh vương Lưu Thắng, cháu năm đời vua Cảnh đế nhà Hán, họ Lưu, tên Bị, tự là Huyền Đức.
Ngày trước con Lưu Thắng là Lưu Trinh, về đời vua Hán Vũ, được phong làm Trác Lộc đình hầu, sau vì tội góp thiếu tiền cúng tế bị mất chức, vì vậy còn sót một ngành ở Trác Quận.
Ông của Huyền Đức là Lưu Hùng, cha là Lưu Hoằng. Hoằng thi đỗ hiếu liêm [2], đã từng làm quan, nhưng mất sớm. Huyền Đức mồ côi cha, thờ mẹ rất hiếu, nhà nghèo, phải làm nghề đóng dép, dệt chiếu kiếm ăn.
Nhà Huyền Đức ở thôn Lâu Tang, mé đông nam có một cây dâu rất lớn, cao hơn năm trượng, xa trông từng lớp trên xoè ra như cái tán che cỗ xe. Có người thầy tướng đi qua trông thấy khen rằng: “Nhà có cây dâu này tất sinh quý tử”. Lúc Huyền Đức còn thơ ấu, cùng trẻ con chơi dưới gốc dâu, thường vẫn nói rằng: “Ngày sau ta làm vua, cũng ngự cái xe có tán che như cây dâu này”. Người chú là Lưu Nguyên Khởi nghe nói, lấy làm lạ bảo rằng: “Thằng bé này không phải người thường”. Nhân thấy Huyền Đức nhà nghèo, thường tư cấp cho.
Huyền Đức, năm mười lăm tuổi, mẹ cho đi học, thờ Trịnh Huyền và Lưu Thực làm thầy và cùng với Công Tôn Toản kết bạn học. Lúc Lưu Yên treo bảng mộ quân, thì Huyền Đức hai mươi tám tuổi.
Bấy giờ Huyền Đức đọc bảng văn rồi thở dài. Có một người đứng phía sau nói lớn lên rằng:
- Đại trượng phu như ông, không ra giúp nước, đứng thở dài đó, được việc chi?
Huyền Đức ngoảnh lại nhìn: người ấy mình cao tám thước, đầu báo, mắt tròn, râu hùm, hàm én, tiếng vang như sấm, dáng như ngựa phi, Huyền Đức thấy dung mạo khác thường, liền hỏi họ tên. Người ấy nói:
- Tôi họ Trương tên Phi, tự là Dực Đức, ở Trác Quận đã lâu đời. Gia tư có trang trại ruộng vườn, lại có lò mổ lợn và ngôi hàng bán rượu. Tôi chỉ thích kết giao với hào kiệt trong thiên hạ. Vừa rồi thấy ông xem bảng văn rồi thở dài, nên tôi mới hỏi.
Huyền Đức nói:
- Tôi đây vốn dòng dõi nhà Hán, họ Lưu tên Bị; nay thấy giặc Khăn Vàng nổi loạn, muốn ra dẹp giặc yên dân, chỉ hiềm sức mình không làm nổi, nên mới thở dài.
Phi nói:
- Nhà tôi gia tư cũng khá. Ý tôi muốn chiêu mộ trai tráng trong làng, cùng ông mưu đồ việc lớn, ông tính sao?
Huyền Đức mừng lắm. Hai người bèn rủ nhau vào hàng uống rượu.
Đương đánh chén, thấy một người cao lớn lực lưỡng, đẩy một cỗ xe đến cửa, vào hàng ngồi phịch xuống gọi nhà hàng:
- Rượu mau lên! Để ta uống xong còn vào thành ứng mộ!
Huyền Đức nhìn xem thấy người ấy mình cao chín thước, râu dài hai thước, mặt đỏ như gấc, môi như tô son, mắt phượng, mày tằm, oai phong lẫm liệt. Huyền Đức bèn mời cùng ngồi và hỏi họ tên. Người ấy nói:
- Tôi họ Quan tên Vũ, tự là Trương Sinh, sau đổi là Vân Trường, người làng Giải Lương, tỉnh Hà Đông. Nhân thấy có đứa thổ hào ỷ thế hiếp người, tôi bèn giết chết rồi đi làm kẻ giang hồ đã năm, sáu năm rồi. Nay nghe ở đây có lệnh chiêu binh phá giặc nên tôi đến ứng mộ.
Huyền Đức cũng đem chí mình ra nói, Vân Trường rất mừng. Bèn cùng đến trại của Trương Phi bàn tính việc lớn. Phi nói:
- Sau trại tôi có một vườn đào đang nở hoa đẹp lắm, ngày mai ta nên làm lễ tế trời đất ở trong vườn, rồi ba chúng ta kết làm anh em, cùng lòng hợp sức, sau mới có thể tính được việc lớn.
Huyền Đức, Vân Trường đều nói:
- Như thế tốt lắm!
Ngày hôm sau sửa soạn trâu đen ngựa trắng và các lễ vật ở trong vườn đào, ba người đốt hương lạy hai lạy thề rằng:
- Chúng tôi là Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi, dẫu rằng khác họ, song đã kết làm anh em, thì phải cùng lòng hợp sức, cứu khốn phù nguy, trên báo đền nợ nước, dưới yên định muôn dân. Chúng tôi không cần sinh cùng ngày, cùng tháng, cùng năm, chỉ muốn chết cùng năm, cùng ngày, cùng tháng. Hoàng thiên hậu thổ soi xét lòng này. Nếu ai bội nghĩa quên ơn thì trời người cùng giết.
Thề xong tôn Huyền Đức làm anh cả, Quan Vũ thứ hai, Trương Phi em út. Rồi mổ trâu đặt tiệc, tụ họp dũng sĩ trong làng được ba trăm người, cũng đến vườn đào uống một bữa rượu thật say. Hôm sau ba người sửa soạn khí giới, đương lo còn thiếu ngựa cưỡi, thì thấy báo có hai người buôn dắt một đàn ngựa đến trại.
Huyền Đức nói:
- Thực là trời giúp chúng ta!
Nói đoạn ba người cùng ra cửa trại đón.
Nguyên hai người khách ấy đều là lái buôn lớn ở Trung Sơn, một người tên Trương Thế Bình, một người tên Tô Song, hàng năm vẫn đem ngựa lên bán miền Bắc, chỉ vì lúc ấy dọc đường có nhiều giặc cướp nên quay trở về. Huyền Đức mời hai người vào trại, làm rượu khoản đãi và nói rõ ý mình đang muốn dẹp giặc yên dân. Hai người cả mừng, tình nguyện tặng năm mươi con ngựa tốt, năm trăm lạng vàng bạc và một nghìn cân sắt để làm khí giới.
Huyền Đức cảm tạ hai người khách và tiễn lên đường, rồi sai gọi thợ đến rèn hai thanh kiếm. Vân Trường đánh một thanh long đao nặng tám mươi hai cân, Trương Phi đánh một ngọn xà mâu dài một trượng tám thước. Mỗi người làm một bộ áo giáp, họp hương dũng được hơn năm trăm người đem nhau đến gặp Châu Tĩnh. Châu Tĩnh đưa đi yết kiến quan thái thú Lưu Yên. Ba người thi lễ xong, đều xưng họ tên. Huyền Đức kể rõ tôn phái. Lưu Yên cả mừng nhận Huyền Đức là cháu.
Vài hôm sau, có tin báo tướng giặc Khăn Vàng là Trình Viễn Chí đem năm vạn quân đến đánh Trác Quận. Lưu Yên sai Châu Tĩnh dẫn ba anh em Huyền Đức đem năm trăm quân đi trước phá giặc. Ba anh em Huyền Đức vui mừng hớn hở đi ngay. Lúc đến dưới núi Đại Hưng, thấy quân giặc đều xoã tóc chít khăn vàng. Hai bên đối trận, Huyền Đức nhảy ngựa vụt ra, tả có Vân Trường, hữu có Dực Đức, giơ roi mắng lớn:
- Quân giặc phản nước kia! Sao không xuống ngựa hàng ngay đi?
Trình Viễn Chí cả giận, sai phó tướng Đặng Mậu ra đánh. Trương Phi cầm mâu xông ra đâm trúng vào bụng Đặng Mậu. Đặng Mậu ngã lăn xuống ngựa chết.
Trình Viễn Chí thấy vậy, thúc ngựa múa đao xông thẳng vào định chém Trương Phi. Tức thì Vân Trường múa long đao tế ngựa ra đón địch. Trình Viễn Chí trông thấy hoảng sợ, chưa kịp trở tay đã bị đao Vân Trường xả làm hai đoạn.
Đời sau có thơ khen hai người rằng:
Anh hùng xuất hiện buổi sơ đầu
Người thử long đao kẻ thử mâu
Mới bước chân ra uy đã dữ
Tiếng tăm lừng lẫy cuộc ganh nhau.
Quân giặc thấy Trình Viễn Chí bị chém, đều vác ngược giáo ù té chạy, Huyền Đức thúc quân đuổi theo, giặc ra hàng không biết bao nhiêu mà kể. Ba người đại thắng kéo quân trở về. Lưu Yên thân ra đón tiếp, khao thưởng ba quân.
Hôm sau Lưu Yên tiếp được tờ điệp của quan thái thú Thanh Châu tên là Cung Cảnh, báo tin bị giặc Khăn Vàng bao vây, thành sắp vỡ, kịp xin cho quân đến cứu. Lưu Yên bàn với Huyền Đức. Huyền Đức nói:
- Bị này tình nguyện đem quân đi cứu.
Lưu Yên bèn sai Châu Tĩnh đem năm nghìn quân cùng Huyền Đức, Quan, Trương kéo đến Thanh Châu.
Giặc thấy có quân đến cứu, chia quân đón đánh. Huyền Đức thấy quân mình ít, khó đánh được, lui ba mươi dặm đóng trại, rồi bảo Quan, Trương rằng:
- Giặc nhiều, ta ít, tất phải dùng kỳ binh mới có thể thắng được.
Bèn sai Vân Trường dẫn một nghìn quân phục bên tả núi, Trương Phi dẫn một nghìn quân phục bên hữu núi, hẹn rằng nghe tiếng chiêng thì cùng kéo ra tiếp ứng.
Ngày hôm sau Huyền Đức cùng Châu Tĩnh dẫn quân đánh trống hò reo thẳng tiến. Quân giặc vội vã kéo ra đón đánh, Huyền Đức lui binh ngay. Giặc thừa thế đuổi tràn. Vừa qua sườn núi, trong quân Huyền Đức khua chiêng vang lên. Hai đạo quân tả hữu xô ra.
Huyền Đức thúc quân quay lại, ba mặt giáp đánh, quân giặc thua to, chạy đến dưới thành Thanh Châu, quan thái thú Cung Cảnh cũng đem dân binh ra trợ chiến, quân giặc bị chết rất nhiều, giải được vòng vây.
Đời sau có thơ khen Huyền Đức rằng:
Bày mưu đặt mẹo khéo ra công
Đôi hổ chung quy kém một rồng
Buổi mới đã nên công trạng lớn
Chia ba chân vạc đáng anh hùng.
Cung Cảnh khao quân xong, Châu Tĩnh muốn về. Huyền Đức nói:
- Mới rồi nghe tin quan trung lang tướng Lư Thực cùng Trương Giác đánh nhau ở Quảng Tôn. Bị này trước kia có học Lư tướng quân, nghĩa đạo thầy trò, muốn sang giúp sức.
Châu Tĩnh dẫn quân về một mình, còn Huyền Đức cùng Quan, Trương dẫn năm trăm quân bản bộ sang Quảng Tôn.
Khi ba người đến dinh quân Lư Thực, vào trướng thi lễ, bày tỏ ý kiến của mình, thì Lư Thực mừng lắm, lưu ở trướng tiền đợi khi dùng đến.
Bấy giờ quân Trương Giác mười lăm vạn, quân Lư Thực năm vạn, đang chống nhau ở Quảng Tôn, chưa rõ bên nào thua được.
Một hôm Lư Thực bảo Huyền Đức rằng:
- Trương Giác đã bị ta vây ở đây rồi. Duy hai em nó là Trương Bảo, Trương Lương đang chống nhau với Hoàng Phủ Tung và Chu Tuấn ở Dĩnh Xuyên. Ông nên đem quân ngay bản bộ và một nghìn quân ta giúp thêm, đến thẳng Dĩnh Xuyên dò xem tin tức ra sao, rồi cùng nhau hẹn ngày tiến đánh.
Huyền Đức lĩnh mệnh, đem quân đi cả ngày đêm đến Dĩnh Xuyên.
Lúc ấy Hoàng Phủ Tung, Chu Tuấn đem quân đánh giặc, giặc bị thua luôn, phải lui về Trường Xã, dựa theo bụi rậm đóng trại. Tung bàn với Tuấn rằng:
- Quân giặc dựa vào chỗ có cỏ rậm đóng quân thì ta nên dùng mẹo hoả công.
Bèn sai quân sĩ mỗi người bó một bó cỏ, ngầm đi mai phục. Đêm ấy trời nổi cơn gió lớn, vào khoảng canh hai, quân phục kéo vào phóng hoả, Tung và Tuấn đều dẫn quân đến đánh, khói lửa ngụt trời, quân giặc hoảng sợ, người không kịp mặt giáp, ngựa không kịp thắng yên, xô nhau mà chạy. Đôi bên đánh nhau đến sáng, Trương Lương, Trương Bảo phải dẫn tàn quân cướp đường mà chạy. Bỗng thấy một toán quân mã kéo toàn cờ đỏ xông ra chặn đường. Một tướng đi đầu, mình cao bảy thước, mắt nhỏ râu dài.
Viên tướng ấy là ai? Tức là quan kỵ đô uý, người ở Tiên Quận nước Bái, họ Tào tên Tháo, tự xưng là Mạnh Đức.
Cha Tào Tháo là Tào Tung, vốn xưa họ Hạ Hầu nhận làm con nuôi quan trung thường thị Tào Đằng, nên đổi theo họ Tào. Tháo tiểu tự là A Man và đặt một tên nữa là Cát Lợi. Lúc Tháo còn trẻ, thì chỉ thích săn bắn, ham múa hát, nổi tiếng là một tay cơ biến quyền mưu. Người chú Tháo thấy Tháo chơi bời vô độ, giận lắm, bèn mách với Tào Tung. Tung trách mắng Tháo. Tháo nghĩ ngay một kế, lúc thấy chú đến, giả tảng nằm quay ra đất, làm như trúng phong. Chú Tháo thấy vậy cả sợ, chạy đến bảo Tung, Tung vội lại xem, thấy Tháo không có bệnh chi cả, bèn hỏi:
- Chú mày nói mày trúng phong, đã khỏi rồi à?
- Thưa cha, thuở bé đến giờ con có bệnh ấy đâu! Chẳng qua chú con ghét con, cho nên đặt điều ra thế.
Tung tưởng thật. Từ đấy người chú kể tội Tháo, Tung đều không nghe nữa, nhân thể Tháo càng được tự do phóng đãng hơn xưa.
Bấy giờ có người tên là Kiều Huyền bảo Tháo rằng:
- Thiên hạ sắp loạn, phi có tay tài giỏi hơn đời thì không sao dẹp được loạn. Làm được như thế có lẽ chỉ có bác!
Người đất Nam Dương là Hà Ngung, một hôm trông thấy Tháo cũng tán tụng rằng:
- Nhà Hán sắp mất, yên được thiên hạ chắc chỉ có người này!
Người đất Nhữ Nam là Hứa Thiệu có tiếng là giỏi biết người, Tháo thân đến hỏi:
- Như tôi là người thế nào?
Thiệu không trả lời.
Tháo hỏi lại lần nữa.
Thiệu nói:
- Anh là năng thần [3] của đời trị và gian hùng của đời loạn!
Tháo nghe nói cả mừng.
Năm Tháo hai mươi tuổi thi đỗ hiếu liêm, bổ làm quan lang, sau lại thăng chức đô uý huyện Lạc Dương. Lúc mới đến nhận chức, Tháo sai treo hơn mười cái roi ngũ sắc ở bốn cửa huyện, không kể hào quý, hễ ai phạm pháp đều không tha. Chú quan trung thường thị Kiển Thạc vác dao đi đêm, Tháo đi tuần bắt được cũng đem nọc đánh ngay. Bởi thế trong ngoài kinh sợ, không ai dám làm trái phép. Sau Tháo được thăng chức lệnh doãn đốn kỷ. Nhân giặc Khăn Vàng nổi loạn, Tháo lại được thăng làm quan kỵ đô uý, đem năm nghìn quân kỵ mã và bộ binh đến Dĩnh Xuyên giúp đánh. Tình cờ dọc đường, gặp Trương Lương, Trương Bảo thua chạy, Tháo đón đánh một trận kịch liệt, chém giết hơn một vạn người, cướp được cờ, trống, ngựa, khí giới rất nhiều. Lương, Bảo cố chết mới chạy thoát. Tháo vào hội kiến Hoàng Phủ Tung, Chu Tuấn rồi lại dẫn quân đi đuổi Trương Lương, Trương Bảo ngay.
Nhắc lại Huyền Đức dẫn Quan, Trương đi gần đến Dĩnh Xuyên, nghe tiếng reo hò đánh nhau, lại trông thấy lửa sáng rực trời, vội thúc quân kéo đến, tới nơi giặc đã chạy tan hết rồi. Huyền Đức vào yết kiến Hoàng Phủ Tung, Chu Tuấn, nói lại ý kiến của Lư Thực. Tung nói:
- Nay Trương Lương, Trương Bảo thế cùng lực kiệt tất chạy đến Quảng Tôn nương nhờ Trương Giác. Ông nên đi gấp đường về giúp ngay Lư Thực.
Huyền Đức nghe lời, dẫn quân trở lại.
Khi mới đi được nửa đường, gặp một toán người ngựa, áp giải một xe tù, trên xe có một cái cũi nhốt một người tù, té ra chính là Lư Thực. Huyền Đức giật mình kinh hãi, vội xuống ngựa chạy đến hỏi thăm. Thực nói:
- Ta vây đánh Trương Giác, sắp sửa phá tan, chỉ vì Giác dùng yêu thuật, nên còn nhùng nhằng chưa phá hẳn được. Triều đình sai viên hoạn quan tên là Tả Phong đến dò xét quân tình. Phong đòi ăn của đút mà không được, vì lương quân ta còn thiếu, tiền đâu mà cung đốn họ, bởi thế Tả Phong căm giận, về triều tâu man cho ta ru rú ở trong luỹ cao không chịu đánh giặc, làm cho lòng quân chán nản. Triều đình nổi giận, sai quan trung lang tướng Đổng Trác đến cầm quân thay ta, và bắt ta về kinh hỏi tội.
Trương Phi nghe nói, nổi giận đùng đùng, toan giết hết toán quân áp giải để cứu Lư Thực. Huyền Đức vội ngăn lại bảo rằng:
- Không nên, triều đình đã có công luận, chú không được xử sự một cách nóng nảy như thế.
Quân sĩ lại giải Lư Thực đi.
Quan Công nói:
- Nay Lư trung lang đã bị bắt, người khác thay quyền, chúng ta đến đấy cũng vô ích, chi bằng hãy về Trác Quận.
Huyền Đức lấy làm phải, bèn dẫn quân về phía bắc.
Đi được hai ngày, bỗng nghe sau núi có tiếng đánh nhau hò hét. Huyền Đức cùng Quan, Trương cưỡi ngựa lên đồi cao trông xem, thấy quân Hán bị thua đương chạy, giặc khăn vàng đông như kiến cỏ đương đuổi theo sau, trên lá cờ viết bốn chữ “Thiên công tướng quân” rất lớn. Huyền Đức nói:
- Trương Giác đây rồi, đánh ngay đi!
Ba người đều phi ngựa dẫn quân ra đánh. Lúc ấy Trương Giác đương thừa thắng đuổi Đổng Trác, bỗng gặp ba người đem quân chẹn đánh, quân Giác hoảng loạn, phải thua chạy đến ngoài năm mươi dặm.
Ba người cứu được Đổng Trác về trại. Trác hỏi ba người hiện làm quan gì?
Huyền Đức nói: “Chân trắng” [4].
Trác khinh thường, không thèm đáp tạ lại.
Huyền Đức bỏ đi. Trương Phi cả giận nói rằng:
- Thằng cha này láo quá! Chúng ta lăn lộn vào đất chết để cứu nó ra, nó không ơn thì chớ, lại còn làm phách khinh người đến thế, nếu không giết nó, sao hả được giận này?
Bèn cầm dao vào trướng định giết Đổng Trác.
Đó chính là:
Nhân tình thế thái vẫn xưa nay
Ai biết anh hùng lúc trắng tay!
Nếu được người người như Dực Đức
Trên đời hẳn hết kẻ không hay!
Muốn biết tính mạng Đổng Trác thế nào, xem hồi sau sẽ rõ.
Chú thích: 
1. Một thước Trung Quốc bằng 1/3 mét.
2. Thực ra được phong là người hiếu đễ và liêm khiết ở địa phương.
3. Quan giỏi.
4. Ý nói là người chưa có chức tước và công trạng gì.
Hồi 2:
Trương Dực Đức giận đánh đốc bưu
Hà Quốc Cữu mưu giết quan hoạn
Trác tên chữ là Trọng Dĩnh, quê ở huyện Lâm Thao, quận Lũng Tây, làm quan thái thú ở Hà Đông, xưa nay vốn tính kiêu ngạo. Lúc ấy vì khinh Huyền Đức nên Trương Phi nổi nóng muốn vào giết ngay. Huyền Đức, Quan Công vội ngăn mà rằng:
- Không nên, hắn là quan triều đình, em chớ nên tự tiện giết hắn!
Phi nói:
- Nếu không giết nó, mà lại ở đây làm đầy tớ cho nó sai khiến, thì tôi không thể chịu được! Nếu hai anh muốn ở đây thì tôi xin đi ngay nơi khác.
Huyền Đức nói:
- Ba anh em ta kết nghĩa cùng sống chết, sao nỡ lìa nhau? Thôi cùng đi nơi khác là hơn cả.
Phi nói:
- Có thế thì cái tức này mới hơi hả.
Ngay đêm ấy ba người dẫn quân đến với Chu Tuấn. Tuấn khoản đãi rất hậu. Cùng nhau họp quân, tiến đánh Trương Bảo.
Bấy giờ Tào Tháo đương theo Hoàng Phủ Tung đánh Trương Lương, hai bên đánh nhau một trận to ở Khúc Dương.
Bên này Chu Tuấn tiến đánh Trương Bảo, Bảo dẫn tám chín vạn quân đóng ở mé sau núi. Tuấn sai Huyền Đức dẫn đội tiên phong ra đối địch với giặc. Trương Bảo sai phó tướng Cao Thăng phi ngựa ra thách đánh, Huyền Đức sai Trương Phi cự với Cao Thăng. Phi phóng ngựa cầm mâu cùng Thăng giao chiến, chưa được vài hiệp đã đâm Thăng ngã ngựa. Huyền Đức thúc quân xông lên, Trương Bảo ngồi trên ngựa xoã tóc múa gươm, giở yêu thuật, phút chốc gió ầm ầm, một luồng khí đen tự trên không toả xuống, trong luồng khí đen có vô số người ngựa xông ra, quân Huyền Đức sợ hãi rối loạn, Huyền Đức vội vàng thu quân về, cùng Chu Tuấn bàn mưu định kế. Tuấn nói:
- Nó dùng yêu thuật thì ta phá cũng dễ. Ngày mai nên sai quân chứa sẵn máu lợn máu chó, máu dê phục ở trên núi, đợi quân giặc kéo đến, đứng trên vẩy xuống, tự khắc giải được phép yêu.
Huyền Đức tuân lệnh, sai Quan Công, Trương Phi mỗi người dẫn một nghìn quân đem sẵn máu chó, máu lợn, máu dê và đồ uế vật, phục trên đỉnh núi.
Hôm sau Trương Bảo lại kéo cờ gióng trống đem quân đến thách đánh. Huyền Đức tự ra nghênh địch. Trương Bảo lại dùng phép yêu, phút chốc gió, sấm nổi lên, cát đá tung trời, trong luồng khí đen kéo ra vô số người ngựa. Huyền Đức quay ngựa chạy. Trương Bảo thúc quân đuổi theo, khi vào đến gần núi, quân mai phục của Quan, Trương nổ một tiếng trống lệnh, uế vật vung ra, tức thì những người ngựa bằng giấy đều tự trên không rơi xuống, sấm gió yên lặng, cát đá không bay nữa.
Trương Bảo thấy phép yêu đã bị phá vội vã lui quân song tả có Quan Công, hữu có Trương Phi, hai bên đổ ra, sau lưng có Huyền Đức, Chu Tuấn kéo đến, quân giặc bị thua to. Huyền Đức trông thấy hiệu cờ “Địa công tướng quân” phi ngựa đuổi theo. Trương Bảo cuống cuồng chạy trốn. Huyền Đức bắn ngay một phát tên trúng cánh tay trái, Trương Bảo đeo tên cố chết mà chạy vào Dương Thành, đóng chặt cửa, không dám ra nữa. Chu Tuấn đem quân vây thành, một mặt sai người đi dò tin tức Hoàng Phủ Tung. Thám tử về báo:
Hoàng Phủ Tung đánh trận nào thắng trận ấy. Triều đình thấy Đổng Trác thua luôn, hạ lệnh cho Tung thay Trác. Lúc Tung đến nơi thì Trương Giác đã chết rồi. Trương Lương thống xuất cả quân ấy cùng quân Tung chống cự, bị Tung đánh thắng luôn bảy trận chém được Trương Lương ở Khúc Dương. Trương Giác chết rồi cũng bị quật mả, cắt lấy thủ cấp đem về bêu ở kinh sư, còn quân giặc ra hàng hết cả.
Hoàng Phủ Tung có công, triều đình gia phong làm sa kỵ tướng quân, lĩnh chức mục Ký Châu.
Hoàng Phủ Tung dâng biểu tâu Lư Thực có công không tội, triều đình lại cho Lư Thực giữ nguyên chức cũ. Tào Tháo cũng có công, được thăng Tế Nam tướng sửa soạn đi nhậm chức.
Chu Tuấn nghe nói, hạ lệnh thúc quân hết sức đánh lấy Dương Thành. Thế giặc bây giờ rất nguy khốn. Một tên tướng giặc là Nghiêm Chánh đâm chết Trương Bảo, cắt lấy thủ cấp đầu hàng. Chu Tuấn đem quân bình luôn được mấy quận, rồi dâng biểu tâu bày việc thắng trận.
Bấy giờ còn ba tên dư đảng giặc Khăn Vàng là Triệu Hoằng, Hàn Trung và Tôn Trọng, tụ tập được mấy vạn đi đến đâu cũng cướp của đốt nhà, nói là báo thù cho Trương Giác. Triều đình giáng chỉ cho Chu Tuấn đem quân vừa thắng trận đi đánh. Tuấn vội vàng dẫn quân tiến ngay.
Lúc ấy giặc đương chiếm giữ Uyển Thành, Tuấn đem quân đến đánh. Triệu Hoằng sai Hàn Trung ra đối địch.
Tuấn phái Huyền Đức, Quan, Trương đánh góc thành tây nam, Hàn Trung sợ góc tây nam thất thủ, đem hết quân tinh nhuệ ra chống cự. Chu Tuấn đem hai nghìn quân thiết kỵ đến đánh góc đông bắc, giặc sợ thành hãm, vội bỏ góc tây nam. Huyền Đức đem quân đánh mạnh đằng sau, quân giặc thua to, phải chạy vào thành. Chu Tuấn chia quân vây kín bốn mặt, trong thành lương cạn. Hàn Trung sai người ra xin hàng. Tuấn không cho, Huyền Đức nói:
- Xưa vua Cao tổ lấy được thiên hạ, cũng hay chiêu kẻ đầu hàng, dung kẻ quy thuận, nay Hàn Trung đã hàng thuận, sao ông không cho?
Tuấn nói:
- Cái đó mỗi lúc mỗi khác, không thể câu nệ được. Xưa vào đời Tần, Sở, thiên hạ rối loạn, dân không biết ai là chủ, cho nên chiêu kẻ đầu hàng, thưởng kẻ quy phục để khuyến khích kẻ khác về với mình. Nay bốn bể đã về một mối, chỉ có giặc Khăn Vàng phản nghịch, nếu cho phép nó hàng, thì không sao khuyên được người lương thiện. Bọn giặc lúc đắc ý thì tha hồ giết người cướp của, lúc bị thua lại ra đầu hàng. Nếu nhận cho chúng đầu hàng, tức là nuôi cái mầm phản nghịch cho chúng nó, không phải là việc hay vậy.
Huyền Đức nói:
- Ngài dạy cũng phải, nhưng bây giờ bốn mặt thành vây kín như bờ rào sắt, giặc xin hàng không được, tất nhiên phải cố chết mà đánh. Nghìn người một bụng còn khó đương nổi, nữa là trong thành còn những mấy vạn người liều mạng. Chi bằng bỏ trống hai mặt đông, nam; chỉ đánh hai mặt tây, bắc. Giặc thấy có đường tháo, tất bỏ thành mà chạy, không còn bụng nào ham đánh, ta có thể bắt sống được chúng.
Tuấn lấy làm phải, lập tức hạ lệnh rút quân hai mặt đông nam, dồn lại đánh vào mặt tây, mặt bắc. Quả nhiên Hàn Trung dẫn quân bỏ thành chạy. Tuấn cùng Huyền Đức, Quan, Trương thúc quân đuổi đánh, bắn chết Hàn Trung, quân giặc đều tan vỡ chạy trốn.
Trong khi đang đuổi đánh xô xát, gặp ngay Triệu Hoằng. Tôn Trọng dẫn quân đến, cùng Tuấn đánh nhau. Tuấn thấy quân Hoằng thế mạnh, đem quân tạm lui. Hoằng thừa kế lại cướp được Uyển Thành. Tuấn đóng trại cách thành mười dặm.
Chu Tuấn đang sắp sửa đánh thành, bỗng thấy một toán ngựa từ phía đông dẫn đến; một viên tướng đi đầu mặt to, trán rộng, mình hổ, lưng gấu.
Tướng ấy họ Tôn tên Kiên, tên chữ là Văn Đài, dòng dõi Tôn Vũ ngày xưa, quê ở huyện Phú Xuân thuộc Ngô Quận.
Tôn Kiên năm mười bảy tuổi, một hôm ông cùng cha đi thuyền đến sông Tiền Đường, thấy một bọn giặc bể hơn mười đứa vừa cướp được tiền của khách buôn, đang chia nhau trên bờ. Kiên nói với cha rằng: “Con xin lên bắt lũ giặc này”. Bèn cầm dao nhảy vọt lên bờ, vừa múa đao vừa thét, chỉ đông chỉ tây như cách ra hiệu gọi người. Giặc tưởng quan quân đến bỏ hết của cải chạy trốn. Kiên đuổi giết được một đứa, bởi thế nổi tiếng ở mấy quận huyện, được tiến cử làm chức hiệu uý. Sau quân Cối Kê có đưa yêu tặc là Hứa Xương làm phản, tự xưng là Dương Minh hoàng đế, tụ họp đến mấy vạn quân. Kiên cùng quan tư mã ấy chiêu mộ dũng sĩ được hơn nghìn người họp với mấy quân châu quận đánh tan giặc ấy, chém được Hứa Xương và con là Hứa Thiều. Quan thứ sử Tang Mâm dâng biểu tâu công cho Kiên, triều đình bổ Kiên làm quan thừa ở Diêm Độc, sau lại đổi làm thừa ở Vu Thai, làm thừa ở Hạ Phi. Nay thấy giặc Khăn Vàng nổi loạn. Kiên tụ tập thiếu niên trong làng cùng bọn khách buôn và tinh binh ở Hoài Tứ cả thảy được một nghìn năm trăm người, dẫn đến tiếp ứng.
Chu Tuấn cả mừng, liền sai Kiên đánh cửa nam, Huyền Đức đánh cửa bắc, Tuấn tự đánh cửa tây, để cửa đông cho giặc chạy.
Tôn Kiên đi trước nhảy lên thành, chém luôn hơn hai mươi tên giặc, quân giặc sợ hãi bỏ chạy. Triệu Hoằng cầm giáo phi ngựa ra địch với Tôn Kiên, Kiên bèn tự trên mặt thành nhảy xuống, cướp giáo của Hoằng đâm Hoằng ngã ngựa, rồi lại nhảy lên ngựa Hoằng xông vào giết giặc.
Tôn Trọng dẫn quân lẻn ra cửa bắc, gặp ngay Huyền Đức, không còn bụng nào đối địch, chỉ chực chạy thoát thân. Huyền Đức bắn một phát tên. Trọng tự trên ngựa lăn xuống.
Lúc ấy đại quân Chu Tuấn tự sau dồn đến, chém được vài vạn đầu giặc. Giặc đầu hàng không biết bao nhiêu mà kể. Một dải Nam Dương hơn mười quận đều yên. Tuấn kéo quân về kinh, được phong làm sa kỵ tướng quân, lĩnh chức Hà Nam lệnh doãn.
Tuấn dâng biểu tâu công Tôn Kiên và Lưu Bị. Vì Kiên chạy chọt, nên được bổ làm tư mã đi nhậm chức ngay. Còn Lưu Bị chờ đợi mãi vẫn không được bổ dụng. Ba người buồn bã không vui, một hôm đi chơi giong đường phố gặp quan lang trung Trương Quân. Huyền Đức đến chào, nhân kể luôn công mình đánh giặc cho Quân nghe. Quân lấy làm kinh ngạc, bèn vào triều bệ kiến và tâu rằng:
- Trước đây giặc Khăn Vàng phản nghịch, căn do cũng bởi bọn hoạn quan mười người bán quan buôn tước, phi người thân không dùng, phi kẻ thù không giết, cho nên thiên hạ rối loạn. Xin bệ hạ chém ngay mười tên này, bêu đầu ở Nam Giao, rồi sai sứ giả đi bố cáo thiên hạ, ai có công thì trọng thưởng ngay. Như thế thì bốn bể tự khắc bình yên.
Mười tên hoạn quan vội tâu vua rằng:
- Trương Quân đặt điều tâu bậy, đáng tội khi quân.
Vua sai võ sĩ đuổi Trương Quân ra.
Mười tên hoạn quan bàn với nhau rằng: “Chắc hẳn có kẻ nào có công đánh giặc Khăn Vàng chưa bổ dụng nên sinh ra oán hận. Ta hãy bảo nha môn ghi tên một số người, cất nhắc cho họ một chút, rồi sau sẽ liệu”.
Bởi vậy Huyền Đức được bổ làm quan uý huyện An Hỷ, phủ Trung Sơn, Châu Định và phái đi nhậm chức ngay.
Huyền Đức giải tán quân sĩ cho về làng, chỉ đem theo hơn hai mươi người thân tín cùng Quan, Trương đến huyện An Hỷ, làm việc quan suốt một tháng, chẳng lấy lễ của dân một chút gì, nên ai nấy đều cảm phục. Sau khi nhậm chức, cùng Quan, Trương ăn một mâm, nằm một chiếu; khi Huyền Đức ngồi chỗ đông người, thì Quan, Trương đứng hầu hai bên, cả ngày không biết mỏi.
Huyền Đức đến huyện chưa được bốn tháng, bỗng triều đình xuống chiếu: “Những người nào có công đánh giặc mà làm trưởng lại, thì đều bị thải hồi”.
Huyền Đức nghĩ mình có lẽ cũng ở trong số bị thải ấy, còn đang nghi hoặc, bỗng thấy báo có đốc bưu đến huyện. Huyền Đức vội đi đón tiến. Lúc gặp viên đốc bưu, Huyền Đức vái chào một cách cung kính, viên đốc bưu ngồi trên mình ngựa, chỉ vẫy đầu roi đáp lại. Quan, Trương thấy vậy, tức giận vô cùng.
Khi đến nhà khách viên đốc bưu ngoảnh mặt hướng nam ngồi cao ngất ngưởng. Huyền Đức đứng hầu ở dưới thềm. Lúc lâu viên đốc bưu mới cất tiếng hỏi:
- Thầy huyện Lưu xuất thân từ chân gì?
Huyền Đức đáp:
- Bị này dòng dõi Trung Sơn Tĩnh vương, khởi thân từ Trác Quận, chém giết giặc Khăn Vàng, lớn nhỏ hơn ba mươi trận đánh, có chút công lao, nên được bổ chức này.
Viên đốc bưu thét mắng:
- Mi giả mạo hoàng thân, báo càn công trạng, hiện nay triều đình xuống chiếu, chính để thải bớt những bọn tham quan ô lại như mi đó.
Huyền Đức vâng dạ luôn mấy tiếng, lui về huyện nha, cùng viên đề lại bàn tính. Đề lại nói:
- Lão đốc bưu làm dữ như vậy, chẳng qua chỉ chực đòi của đút đấy thôi.
Huyền Đức nói:
- Ta không tơ hào của dân một tý gì, lấy đâu mà cung đốn hắn?
Ngày hôm sau viên đốc bưu đòi đề lại đến trước, bắt ép phải khai man là quan huyện hại dân.
Huyền Đức mấy lần đến để kêu van, đều bị quân canh cửa không cho vào.
Lúc ấy Trương Phi vừa uống mấy chén rượu giải buồn, cưỡi ngựa đi chơi qua nhà khách, thấy năm, sáu mươi ông già đang khóc than ở trước cửa. Phi hỏi cớ sao thì các lão đều nói:
- Viên đốc bưu cố ép đề lại khai man để hại ông Lưu. Chúng tôi biết tin, đến đây kêu giúp, nhưng không cho vào, lại sai quân gác cửa đánh đuổi chúng tôi.
Trương Phi cả giận, giương mắt tròn xoe, hai hàm răng nghiến ken két, nhảy ngay xuống ngựa, chạy sấn vào quán dịch, những quân canh cửa không tài nào cản lại được. Phi chạy thẳng vào hậu đường, thấy viên đốc bưu đang ngồi chễm chệ trên sảnh, đề lại bị trói ở dưới đất. Phi thét lớn lên rằng:
- Thằng mọt dân kia! Có biết ta là ai không?
Viên đốc bưu chưa kịp nói câu gì cả, đã bị Trương Phi túm tóc lôi tuột ra ngoài nhà khách, kéo thẳng về trước huyện, trói vào tàu ngựa, rồi bẻ cành liễu đánh vào hai đùi viên đốc bưu, đánh gãy luôn đến hơn mười cành liễu.
Huyền Đức đang lúc ngồi buồn bỗng nghe ngoài cửa huyện có tiếng xôn xao liền hỏi, tả hữu nói rằng:
- Trương tướng quân đang trói đánh một người nào ở cửa huyện.
Huyền Đức vội chạy ra xem, tưởng Phi trói đánh ai, té ra là quan thanh tra! Huyền Đức kinh ngạc, hỏi đầu đuôi.
Phi nói:
- Cái thằng hại nước mọt dân này, chẳng đánh cho chết còn đợi đến bao giờ!
Viên đốc bưu kêu:
- Ông Huyền Đức ơi! Cứu tôi với!
Huyền Đức vốn người nhân từ, trong lòng không nỡ liền bảo Trương Phi không được đánh nữa.
Quan Công cũng chạy lại nói rằng:
- Huynh trưởng làm nên biết bao công lớn, chỉ mới được bổ chức huyện uý nhỏ mọn này. Nay lại còn bị thằng đốc bưu nó sỉ nhục. Tôi nghĩ cái bụi chông gai không phải là nơi chim loan chim phượng đậu. Bất nhược ta giết quách thằng đốc bưu này đi, rồi bỏ quan về làng, mưu tính việc lớn còn hơn.
Huyền Đức bèn đem cái ấn treo vào cổ viên đốc bưu mà mắng rằng:
- Cứ cái tội mày hại dân, đáng nên giết chết mới phải, nhưng nay hãy tạm tha cho mày. Ấn đây, tao trả chúng mày. Từ nay chúng tao không ở đây nữa!
Viên đốc bưu được sống sót, về nói với quan thái thú Định Châu, quan thái thú tư giấy đi các nơi, sai người nã bắt anh em Huyền Đức.
Huyền Đức cùng Quan, Trương sang Đại Châu ở với Lưu Khôi. Khôi thấy Huyền Đức là người tôn thất nhà Hán, bèn giấu ở trong nhà, không cho ai biết.
Nói về mười hoạn quan, trong tay đã nắm được quyền to, bèn bàn tính với nhau hễ ai không theo, chúng đều giết đi cả. Triệu Trung, Trương Nhượng sai người đến đòi các tướng có công phá giặc Khăn Vàng ngày trước phải lễ vàng bạc mới được làm quan, bằng không thì tâu vua bắt bãi chức. Vì lẽ ấy mà Hoàng Phủ Tung, Chu Tuấn không chịu đút lót, đều bị bãi cả. Vua lại phong Triệu Trung làm sa kỵ tướng quân, bọn Trương Nhượng mười ba người đều phong tước hầu, triều chính mỗi ngày một suy đồi, nhân dân cũng ta oán.
Bởi thế ở Trường Sa có Khu Tinh nổi loạn, ở Ngư Dương có Trương Thuần, Trương Cử làm phản. Cử tự xưng là thiên tử, Thuần xưng là đại tướng quân. Những tờ biểu cáo cấp gửi về triều đình như bướm bay, bọn hoạn quan đều giấu cả, không tâu vua biết.
Một hôm vua đang cùng mười viên hoạn quan uống rượu ở vườn hoa sau cung, bỗng thấy quan gián nghị đại phu Lưu Đào đi tắt đến trước mặt vua mà khóc. Vua hỏi vì cớ gì. Đào nói:
- Thiên hạ nguy ngập đến nơi rồi, mà bệ hạ còn cứ vui chơi say tỉnh với bọn hoạn quan như thế ru?
Vua nói:
- Nhà nước đương yên ổn, có việc gì mà nguy ngập?
- Tâu bệ hạ! Hiện nay giặc cướp nổi lên tứ tung xâm chiếm khắp các châu quận, cái vạ đều bởi mười tên hoạn quan bán quan hại dân, lừa dối quân thượng mà ra cả. Cho nên những người chính nhân quân tử bỏ đi hết cả, cái nguy đã ở ngay trước mắt rồi còn gì?
Mười viên hoạn quan đều phủ phục trước mặt vua tâu rằng:
- Muôn tâu thánh thượng, quan đại thần đã không có lượng bao dung, chúng tôi biết mình chẳng thoát.
Cúi xin thánh thượng cho chúng tôi được toàn tính mạng trở về quê quán, tình nguyện đem hết gia sản giúp đỡ việc quân.
Nói đoạn đều khóc nức nở.
Vua cả giận mắng Đào rằng:
- Nhà ngươi cũng có người hầu hạ, sao không cho trẫm có người hầu hạ?
Tức thì sai võ sĩ lôi Lưu Đào ra chém.
Lưu Đào vừa đi vừa kêu lớn rằng:
- Trời ơi! Đào này chết không đáng tiếc, chỉ tiếc cái cơ nghiệp nhà Hán hơn bốn trăm năm nay bỗng tiêu diệt trong khoảnh khắc.
Võ sĩ đem Lưu Đào ra, sắp hành hình thì có một quan đại thần nói to lên rằng:
- Khoan, không được hạ thủ vội, đợi ta vào can vua đã.
Mọi người nhìn xem ai, thì là quan tư đồ Trần Đam.
Đam đi tắt vào cung tâu rằng:
- Tâu bệ hạ, chẳng hay Lưu gián nghị can tội gì mà bị giết?
Vua phán:
- Nó dám gièm pha cận thần của trẫm, lại xúc phạm cả trẫm nữa.
Đam tâu:
- Hiện thiên hạ ai cũng muốn nuốt sống ăn tươi mười tên hoạn quan. Vậy mà bệ hạ kính nó như cha mẹ. Chúng không có một chút công nào mà được phong đến tước hầu. Huống chi lũ Phong Tư kết liên với giặc Khăn Vàng, toan làm tay trong cho chúng nó. Nay nếu bệ hạ không tỉnh ngộ, xã tắc đến đổ mất!
Vua phán:
- Phong Tư làm loạn, việc còn mập mờ chưa rõ, còn trong bọn hoạn quan mười người, há không có một hai người trung nghĩa hay sao?
Trần Đam đập đầu xuống đất, cố can.
Vua nổi giận, sai lôi Đam ra, bắt bỏ ngục cùng với Lưu Đào.
Ngay đêm hôm ấy bọn hoạn quan vào ngục giết cả hai người rồi giả làm chiếu chỉ nhà vua cử Tôn Kiên làm thái thú Trường Sa và đem quân đi đánh Khu Tinh. Chưa đầy năm mươi ngày có tin báo thắng trận, khu Giang Hạ đều bình định cả. Vua chiếu xuống phong Kiên làm Ô Trình hầu, phong Lưu Ngu làm quan mục U Châu, đem quân đến Ngư Dương đánh Trương Thuần, Trương Cử. Ở Đại Châu Lưu, Khôi được tin bèn viết thư tiến dẫn Huyền Đức. Ngu mừng lắm, cử Huyền Đức làm quan đô uý, đem quân đến tận hang ổ giặc đánh mấy trận lớn, giặc bị thua luôn. Trương Thuần tính vốn hung bạo, không được lòng quân bị tên thủ hạ chặt đầu đem nộp rồi dẫn quân ra hàng.
Trương Cử biết thế mình không sao địch nổi, cũng tự thắt cổ chết.
Thế là cả cõi Ngư Dương đều bình định.
Lưu Ngu dâng biểu tâu công lớn của Lưu Bị. Triều đình tha tội đánh viên đốc bưu và bổ làm quan thừa ở Hạ Mật, sau lại nhắc lên làm quan uý ở Cao Đường. Công Tôn Toản lại dâng biểu tâu công đánh giặc trước kia của Huyền Đức và tiến cử làm quan tư mã, lĩnh chức huyện lệnh Bình Nguyên. Huyền Đức ở Bình Nguyên nhờ có lương tiền và quân mã, nên khôi phục lại được cảnh phồn vinh ngày trước. Lưu Ngu cũng có công dẹp giặc, nên được thăng làm quan thái uý.
Tháng tư, mùa hạ năm Trung Bình thứ sáu (189) vua Linh đế bệnh nặng, triệu quan đại tướng quân Hà Tiến vào cung bàn tính mọi việc quan trọng về sau.
Nguyên Hà Tiến vốn xuất thân con nhà hàng thịt, vì có em gái lấy vua, sinh được hoàng tử tên là Biện được lập làm hoàng hậu, nên Tiến nhờ đó được quyền cao chức trọng.
Vua lại yêu mến một mỹ nhân nữa họ Vương, sinh được hoàng tử tên là Hiệp. Hà hậu ghen ghét, bỏ thuốc độc giết Vương mỹ nhân, nên hoàng tử Hiệp phải nuôi ở trong cung Đổng thái hậu.
Đổng thái hậu là mẹ vua Linh đế, nguyên là vợ Giải Độc đình hầu Lưu Thường. Bởi khi trước vua Hoàn đế không có con trai, phải đón con trai Giải Độc đình hầu lên làm vua, tức là vua Linh đế. Linh đế lên ngôi; bèn đón mẹ vào phụng dưỡng ở trong cung và tôn làm thái hậu.
Đổng thái hậu thường khuyên vua lập hoàng tử Hiệp làm thái tử để nối ngôi vua về sau. Vua cũng yêu Hiệp hơn, nên có ý muốn lập Hiệp. Lúc ấy bệnh vua đã nguy, trung thường thị là Kiển Thạc tâu rằng:
- Tâu bệ hạ! Việc này quan hệ rất lớn, nếu muốn lập hoàng tử Hiệp, trước hết xin giết Hà Tiến mới khỏi lo ngại về sau.
Vua lấy làm phải, giáng chỉ vời Tiến vào cung. Tiến vừa đi đến cửa cung, gặp quan tư mã Phan Ẩn bảo Tiến rằng:
- Đừng vào cung, Kiển Thạc nó định mưu giết ông đấy!
Tiến cả sợ, vội về nhà, triệu các quan đại thần đến bàn định, muốn giết hết cả bọn hoạn quan.
Một người đứng lên nói:
- Thế lực của bọn hoạn quan, gây ra tự đời vua Xung, vua Chất, ngày nay lan rộng khắp cả trong triều, giết hết thế nào được. Nếu cơ mưu không kín, chết đến cả họ ngay, vậy xin nghĩ cho kỹ.
Tiến nhìn xem ai, thì là quan điển quân hiệu uý Tào Tháo.
Tiến mắng Tháo rằng:
- Trẻ con biết đâu việc lớn của triều đình!
Đang lúc Tiến còn dùng dằng chưa quyết. Phan An chạy đến báo rằng:
- Hoàng đế đã băng hà rồi, hiện Kiển Thạc đang bàn với mười tên hoạn quan định một mặt giấu kín không phát tang, một mặt giả làm chiếu chỉ, triệu Hà quốc cữu vào cung giết đi, rồi lập hoàng tử Hiệp lên ngôi.
Nói chưa dứt lời, có sứ giả đến triệu Tiến vào cung, Tào Tháo nói:
- Việc cốt yếu bây giờ là phải lập vua trước đã, rồi sau hãy nói đến việc trừ giặc.
Tiến nói:
- Có ai dám cùng ta vào cung lập vua mới và đánh giặc không?
Một người đứng phắt dậy nói rằng:
- Tôi xin đem năm nghìn tinh binh, chém khoá cửa cung, vào lập vua mới, giết hết bọn hoạn quan, quét sạch trong triều để yên thiên hạ.
Tiến nhìn xem, thì người ấy là con quan tư đồ Viên Phùng, cháu Viên Ngỗi tên là Thiệu, tự là Bản Sơ hiện làm quan tư lệ hiệu uý.
Tiến cả mừng, bèn điểm năm nghìn quân ngự lâm giao cho Viên Thiệu. Thiệu nai nịt đem quân đi trước. Hà Tiến dẫn bọn Hà Ngung, Tuân Du, Trịnh Thái, hơn ba mươi quan đại thần đi sau, cùng vào trong cung, đến trước linh cữu vua Linh đế, lập thái tử Biện lên làm vua. Các quan tung hô xong đâu đấy, Viên Thiệu bèn đi vào cung bắt Kiển Thạc, Thạc kinh hoảng chạy nấp vào dưới bụi cây trong vườn ngự uyển, bị trung thường thị là Quách Thắng giết chết. Quân cấm binh do Thạc quản lĩnh đều ra hàng hết cả. Viên Thiệu nói với Hà Tiến rằng:
- Bọn thái giám trước kết bè với nhau, bây giờ nên thừa thế giết cả đi.
Bọn Trương Nhượng biết tin, sợ hãi hết hồn, vội chạy vào cung van lạy Hà hậu rằng:
- Bày mưu hại quốc cữu trước đây chỉ có một mình Kiển Thạc thực quả không dính dáng gì đến chúng tôi. Nay quốc cữu nghe lời Viên Thiệu, muốn giết hết cả chúng tôi, thật là oan quá, xin mẫu hậu rủ lòng thương cứu cho.
Hà hậu nói:
- Các ngươi đừng lo, ta sẽ bảo hộ cho.
Bèn giáng chỉ triệu Hà Tiến vào cung, khẽ bảo rằng:
- Anh em ta hàn vi từ thuở nhỏ, nếu không có bọn Trương Nhượng, sao có phú quý ngày nay? Nay thằng Kiển Thạc bất nhân đã bị giết rồi, sao anh còn tin lời người ta nói mà toan giết cả bọn hoạn quan?
Hà Tiến nghe đoạn, ra bảo các quan rằng:
- Kiển Thạc bày mưu hại ta đem giết cả họ nó đi. Còn những người khác đừng nên giết hại!
Viên Thiệu nói:
- Nhổ cỏ không nhổ hết rễ, rồi mang vạ vào thân!
Tiến nói:
- Ý ta đã quyết, ngươi đừng nhiều lời nữa!
Các quan đều lui về cả.
Hôm sau thái hậu cho Hà Tiến tham xét công việc các bộ thượng thư, còn các người khá đều được thăng chức.
Đổng thái hậu nghe biết chuyện, bèn cho vời bọn Trương Nhượng vào cung phán rằng:
- Con em thằng Hà Tiến, trước kia vì có ta cất nhắc cho nên mới được sung sướng. Ngày nay con nó lên ngôi hoàng đế, các quan trong ngoài đều là vây cánh nó cả, uy thế nó to lắm, ta biết tính sao bây giờ?
Trương Nhượng nói:
- Tâu mẫu hậu, việc đó cũng dễ. Xin mẫu hậu cứ ra ngự triều đường, rủ mành mành coi xét việc chính, phong hoàng tử Hiệp lên tước vương, gia phong quốc cữu Đổng Trọng lên chức lớn coi giữ binh quyền và trọng dụng bọn hạ thần thì việc lớn có thể mưu tính xong được.
Đổng thái hậu cả mừng, sáng hôm sau lâm triều giáng chỉ phong hoàng tử Hiệp làm Trần Lưu vương, Đổng Trọng làm phiêu kỵ tướng quân. Bọn Trương Nhượng cũng đều được tham dự triều chính.
Hà thái hậu thấy Đổng thái hậu chuyên quyền, bèn sửa một tiệc yến ở trong cung, mời Đổng thái hậu đến dự.
Giữa tiệc, Hà thái hậu đứng dậy, nâng chén rượu vái hai vái mà thưa rằng:
- Chúng ta đều là đàn bà, không nên tham dự triều chính. Xưa bà Lã hậu chỉ vì tham giữ trọng quyền, đến nỗi nghìn người trong họ đều bị giết. Nay chúng ta chỉ nên ở yên trong cung cấm, việc triều chính đã có các nguyên lão đại thần bàn tính với nhau. Thế mới là hạnh phúc cho nhà nước, cúi xin thái hậu soi xét.
Đổng thái hậu nổi giận mắng rằng:
- Mày đã đem lòng ghen ghét, đánh thuốc độc giết Vương mỹ nhân. Nay mày cậy có con làm vua, cậy thế lực anh mày là thằng Hà Tiến, dám nói hỗn với tao à? Tao sai quan phiêu kỵ (trỏ vào Đổng Trọng) chặt cổ anh mày dễ như trở bàn tay cho mà xem!
Hà hậu cũng tức giận cãi lại rằng:
- Ta đem lời phải khuyên can, mà người lại trở mặt giận à?
Đổng thái hậu càng tức, lại nhiếc móc Hà hậu:
- Cái đồ bán thịt nhà mày, còn biết cái gì!
Hai người cãi nhau mãi, sau có bọn Trương Nhượng khuyên can, người nào mới về cung người nấy.
Đêm hôm ấy Hà hậu triệu Hà Tiến vào cung, kể lại việc đã xảy ra. Tiến về mời các quan tam công đến bàn bạc.
Buổi chầu sáng hôm sau, Tiến xui các đình thần tâu rằng:
- Đổng thái hậu nguyên là một vị Phiên phi[1], không nên ở lâu trong cung cấm. Xin rời ngay ra an trí ở Hà Giang, hạn lập tức phải đi ngay!
Hà Tiến một mặt sai người đưa Đổng thái hậu đi, một mặt phái quân cấm binh đến vây nhà phiêu kỵ tướng quân Đổng Trọng đòi lấy ấn thụ. Đổng Trọng biết việc chẳng lành, liền tự vẫn ở hậu đường. Lúc người nhà cất tiếng khóc, quân sĩ mới không vây nữa trở về.
Bọn Trương Nhượng, Đoàn Khuê thấy phe Đổng thái hậu thất bại, bèn đem vàng ngọc, châu báu đút lót em trai Hà Tiến là Hà Miêu và mẹ Tiến là Vũ dương quân, nhờ vào nói khéo với Hà thái hậu che chở cho. Bởi vậy mười tên hoạn quan lại được tin dùng.
Tháng sáu năm ấy, Hà Tiến ngầm sai người đến Hà Giang đánh thuốc độc giết Đổng thái hậu, đem linh cữu về kinh, táng ở Văn Lăng. Tiến cáo bệnh không đi đưa đám.
Một hôm quan tư lệ hiệu uý Viên Thiệu vào nói với Tiến rằng:
- Bọn Trương Nhượng, Đoàn Khuê đang đi nói phao lên rằng ông đánh thuốc độc giết Đổng thái hậu, để mưu việc lớn. Nếu bây giờ ông không giết ngay bọn chúng nó, tất có vạ lớn về sau. Xưa Đậu Vũ muốn nhờ bọn hoạn quan trong cung, vì mưu mô không kín lại bị chúng giết. Hiện giờ anh em vây cánh ông, đều là những tay anh tuấn, vả lại quyền ở trong tay, thật là cơ hội trời cho, không nên bỏ lỡ.
Tiến nói:
- Thong thả để sau sẽ bàn tính.
Mấy đứa tả hữu nghe lỏm được chuyện ấy, liền đi báo với Trương Nhượng. Bọn Trương Nhượng lại đem rất nhiều của báu lễ đút Hà Miêu. Miêu vào tâu Hà hậu rằng:
- Đại tướng quân phò tá vua mới, không làm điều nhân từ, chỉ chăm chém giết. Nay tự nhiên vô cớ lại toan giết cả mười hoạn quan, thật tự mình gây ra mầm loạn.
Hà hậu cho là phải.
Một chốc, Hà Tiến vào tâu xin giết bọn hoạn quan. Hậu nói:
- Bọn hoạn quan coi sóc việc trong cung cấm, phép cũ nhà Hán từ xưa vẫn thế. Cớ sao tiên đế vừa mới chầu trời mà người chỉ muốn giết những bầy tôi cũ. Thế không phải là tôn trọng sự thờ cúng đối với tiên đế!
Tiến vốn là một người nhù nhờ không quyết đoán, nghe Hà thái hậu nói như vậy, vâng dạ luôn miệng rồi lui ra.
Viên Thiệu đứng đón ngoài cửa, hỏi rằng:
- Việc lớn thế nào?
Tiến nói:
- Thái hậu không nghe thì làm thế nào?
Thiệu nói:
- Nên triệu những người anh hùng các nơi đem quân về kinh giết hết bọn hoạn quan này đi. Đến lúc việc đã cấp bách thì thái hậu muốn chẳng nghe cũng chẳng được.
Tiến nói:
- Kế ấy diệu lắm.
Bèn truyền hịch đi các trấn, triệu các tướng lĩnh đem quân về kinh đô.
Quan chủ bạ Trần Lâm can rằng:
- Việc ấy không nên. Tục ngữ có câu: “Bưng mắt bắt chim”, ấy là mình tự dối mình. Việc nhỏ mọn cũng không thể tự dối mà làm xong, huống chi là việc lớn nước nhà? Nay tướng quân dựa uy vua, cầm quyền lớn, như rồng bay hổ nhảy, muốn làm thế nào cũng được. Việc giết bọn hoạn quan thật dễ không khác quạt lò than đốt mấy sợi tóc. Làm việc một cách quyền biến, quyết đoán ngay, phát động nhanh như sấm sét tức là thuận đạo trời và lòng người. Nay nếu triệu các quan ngoại trấn, mỗi người một bụng, biết ai thế nào? Có khác đưa chuôi dao cho người cầm mà mình cầm đằng lưỡi không? Như thế không những việc không thành mà lại sinh biến loạn nữa.
Tiến cười nói:
- Đó là kiến thức của hạng người hèn nhát!
Một người đứng lên vỗ tay cười lớn mà rằng:
- Việc ấy dễ như trở bàn tay, hà tất phải bàn cho lắm!
Mọi người nhìn xem ai, người ấy chính là Tào Tháo.
Đó chính là:
Muốn giết tiểu nhân bên cạnh chúa
Nên nghe mưu sĩ ở trong triều.
Muốn biết Tào Tháo nói thế nào, xem hồi sau sẽ rõ.
Chú thích: 
1. Vợ các tước vương tước hầu.
Hồi 3:
Tiệc Ôn Minh, Đổng Trác mắng Đinh Nguyên
Dùng vàng bạc, Lý Túc dụ Lã Bố
Lúc ấy Tào Tháo nói với Hà Tiến rằng:
- Cái vạ hoạn quan, đời nào cũng có, nên vua chúa các đời không nên trao quyền bính và tin dùng chúng để chúng hoành hành như ngày nay. Bây giờ muốn trị tội chúng tưởng chỉ nên giết mấy đứa đầu đảng. Như vậy chỉ cần một kẻ coi ngục cũng đủ, hà tất phải triệu quân ngoài vào. Nếu muốn giết cả bọn chúng, cơ mưu tránh sao khỏi tiết lộ, tôi chắc công việc sẽ hỏng.
Hà Tiến tức giận mà rằng:
- Mạnh Đức cũng hai lòng sao?
Tháo lui ra ngoài nói:
- Làm loạn thiên hạ tất là Hà Tiến!
Tiến không nghe lời Tháo, mật sai người đem chiếu chỉ đi gấp đến các trận triệu quân vào kinh đô.
Nói về quan tiền tướng quân, tước Ngao Hương hầu sung chức thứ sử Tây Lương là Đổng Trác, trước vì đánh giặc Khăn Vàng bị thua, triều đình đã toan trị tội, bởi có đút lót cho mười tên hoạn quan nên không can gì. Sau lại khéo kết giao với bọn quyền quý trong triều, làm đến chức lớn, thống lĩnh hai mươi vạn quân Tây Lương, vẫn có lòng phản nghịch. Bây giờ tiếp được chỉ triệu vào kinh, trong lòng hớn hở, liền điểm binh lục tục khởi hành, sai con rể là trung lang tướng Ngưu Phụ đóng giữ Thiểm Tây, hắn tự đem bọn Lý Thôi, Quách Dĩ, Trương Tế, Phàn Trù dẫn quân đến Lạc Dương. Trác lại có người rể nữa, vừa là mưu sĩ cho hắn, tên là Lý Nho. Nho bảo Trác rằng:
- Nay tuy phụng chỉ vào kinh, biết đâu trong đó chẳng có nhiều điều ám muội? Chi bằng trước hãy sai người dâng biểu, cho danh nghĩa rõ ràng, mới có thể mưu toan việc lớn được.
Trác cả mừng, bèn sai thảo biểu dâng vào kinh trước.
Biểu rằng:
“Thiết tưởng thiên hạ đến nỗi loạn mãi thế này, đều bởi bọn hoạn quan Trương Nhượng khinh nhờn phép nước. Tôi nghĩ muốn cho nồi nước sôi khỏi dài ra ngoài cần phải rút bớt củi; mổ cái nhọt có chịu đau một lúc, mới khỏi nọc độc trong mình. Tôi xin bạo dạn gióng trống khua chuông, dẫn quân vào Lạc Dương, để giết bọn Nhượng; được như thế thì xã tắc may lắm, thiên hạ may lắm!”
Hà Tiến đem tờ biểu đưa các quan xem. Có quan thi ngự sử Trịnh Thái can rằng:
- Đổng Trác là giống sài lang, để hắn vào kinh, hắn sẽ ăn thịt người.
Tiến nói:
- Anh đa nghi như thế, mưu việc lớn sao được?
Lư Thực cũng can rằng:
- Tôi vốn biết Đổng Trác là đứa mặt người dạ thú, hễ để cho hắn vào chốn cấm đình, tất sinh tai vạ. Chi bằng ngăn cản đừng cho hắn vào là hơn.
Tiến cũng không nghe.
Trịnh Thái, Lư Thực đều bỏ quan mà đi. Các quan đại thần trong triều cũng bỏ đi quá nửa.
Tiến sai người đón Đổng Trác ở Thăng Trì, Trác đóng quân lại, không tiến vội.
Bọn Trương Nhượng được tin quân ngoài kéo vào cùng bàn nhau rằng:
- Đó là mưu của Hà Tiến, nếu chúng ta không hạ thủ trước, sẽ chết cả họ.
Bèn mai phục năm mươi tên đao phủ ở mé trong cửa Gia Đức, cung Trường Lạc, rồi vào tâu Hà thái hậu rằng:
- Nay đại tướng quân giả làm chiếu chỉ, triệu quân ngoại trấn vào kinh, định giết cả bọn chúng tôi, xin mẫu hậu rủ lòng thương cứu cho.
Thái hậu nói:
- Các ngươi nên đến dinh đại tướng quân mà tạ tội.
Nhượng nói:
- Tâu mẫu hậu, nếu chúng tôi đến tướng phủ, tất là thịt nát xương tan, còn sống sao được. Xin mẫu hậu tuyên triệu đại tướng quân vào cung mà dụ bảo cho. Nếu mẫu hậu không chút thương tình, thì chúng tôi xin chết ngay ở trước mặt mẫu hậu.
Thái hậu bèn giáng chỉ triệu Tiến vào.
Tiến tiếp chỉ, toan đi ngay.
Trần Lâm can rằng:
- Tờ chiếu này tất là mưu mô của mấy tên hoạn quan, ông không nên đi, nếu đi tất có vạ lớn.
Tiến nói:
- Thái hậu triệu ta, làm gì có tai vạ?
Viên Thiệu nói:
- Bây giờ mưu cơ đã lộ, tướng quân còn muốn vào cung hay sao?
Tào Tháo nói:
- Không gì bằng triệu ngay mười đứa hoạn quan ra đây đã, rồi hãy vào!
Tiến cười nói:
- Đó là kiến thức của trẻ con. Hiện quyền bính thiên hạ ở trong tay ta, mấy đứa hoạn quan dám làm gì nổi!
Thiệu nói:
- Nay ông định vào cung, chúng tôi xin đem quân hộ vệ để phòng sự bất trắc.
Viên Thiệu, Tào Tháo mỗi người kén năm trăm quân giao cho em Viên Thiệu là Viên Thuật thống lĩnh. Viên Thiệu nai nịt đâu đấy, dẫn quân dân ở mé ngoài cửa Thanh Toả, Thiệu cùng Tháo đeo gươm đi kèm, hộ vệ Hà Tiến.
Tiến đi đến trước cửa cung Trường Lạc, hoàng môn quan truyền chỉ rằng: “Thái hậu chỉ vời một mình đại tướng quân vào thôi, còn người khác đều không được vào”. Thành ra bọn Viên Thiệu, Tào Tháo đều phải đứng ngoài cả. Một mình Tiến ngang nhiên vào cung. Vừa đi đến cửa Gia Đức bọn Trương Nhượng quát mắng Tiến rằng:
- Đổng thái hậu có tội gì mà mày đánh thuốc độc giết chết? Cớ sao đám tang quốc mẫu mày giả tảng ốm không đi đưa? Mày vốn giống đê hèn, làm nghề mổ lợn bán thịt, có chúng tao tiến cử lên vua mới được vinh hiển thế này. Mày đã không báo ơn thì chớ, lại định mưu hại chúng tao? Mày bảo chúng tao là phường ngu trọc vậy ai là người thanh cao?
Tiến hoảng sợ muốn tìm lối ra, nhưng cửa cung đã đóng hết. Bọn đao phủ ồ ra, chém Tiến đứt làm hai đoạn.
Đời sau có thơ than rằng:
Nhà Hán thương ôi, vận đã cùng!
Mưu gì Hà Tiến lại tam công?
Mấy phen chẳng biết nghe lời phải
Thoát khỏi làm sao hoạ cửa cung?
Viên Thiệu chờ mãi không thấy Tiến ra, bèn gọi lớn lên rằng:
- Mời tướng quân ra về!
Bọn Trương Nhượng đem thủ cấp Hà Tiến từ trên tường ném ra tuyên dụ rằng:
- Hà Tiến mưu phản đã bị giết rồi. Còn những kẻ bị Tiến bắt ép phải theo, đều tha cả.
Viên Thiệu cất tiếng hô lớn lên rằng:
- Bọn hoạn quan dám giết đại thần, ai muốn giết chúng nó mau mau vào đây trợ chiến.
Bộ tướng của Hà Tiến là Ngô Khuông bèn phóng hoả đốt cửa Thanh Toả. Viên Thiệu dẫn quân sấn vào cung hễ gặp đứa hoạn quan nào cũng giết hết cả. Viên Thiệu, Tào Tháo phá cửa vào được trong cung, gặp Triệu Trung, Trình Kháng, Hạ Huy, Quách Thắng, đuổi đến trước lầu Thuý Hoa, lấy kiếm vằm ra như bùn.
Bấy giờ trong cung lửa cháy lưng trời. Bọn Trương Nhượng, Đoàn Khuê, Tào Tiết, Hầu Lãm, bắt ép thái hậu, thái tử cùng Trần Lưu vương đi vào nội sảnh rồi lẻn đường sau chạy đi Bắc cung. Lư Thực dẫu bỏ quan, nhưng chưa đi nơi khác, sực thấy trong cung có biến, bèn mặc giáp cầm giáo, đang đứng ở dưới gác xa trông thấy Đoàn Khuê đang giục thái hậu đi mau, bèn thét lớn lên rằng:
- Thằng Khuê kia! Sao dám bắt ép thái hậu đi đâu?
Đoàn Khuê bỏ chạy, thái hậu tự trong cửa sổ nhảy ra, Thực vội đến cứu được thoát.
Ngô Khuông đánh vào nội đình, gặp Hà Miêu cầm gươm đi ra. Khuông hô lớn lên rằng:
- Thằng Miêu thông mưu giết anh, nên giết đi thôi!
Các tướng đều nói:
- Phải, phải, chém thằng giặc giết anh ấy đi!
Miêu sợ cuống toan chạy, bị quân bốn mặt vây kín chém nhừ ra như bột.
Thiệu sai quân chia ra từng bọn đi giết gia quyến mười tên hoạn quan, bất cứ già trẻ lớn bé đều giết hết cả, thành ra có nhiều kẻ không có râu bị giết lầm.
Tào Tháo một mặt cứu hoả trong cung, mời Hà thái hậu tạm coi quyền chính, một mặt sai quân đuổi theo bọn Trương Nhượng và tìm vua Thiếu đế.
Nhắc lại bọn Trương Nhượng, Đoàn Khuê ức hiếp vua Thiếu đế và Trần Lưu vương xông pha khói lửa, đêm chạy đến núi Bắc Mang. Vào khoảng canh hai, bỗng nghe phía sau có tiếng người ngựa reo hò đuổi theo, viên tướng đi đầu là quan trung bộ duyên lại ở Hà Nam tên gọi là Mẫn Cống hô lớn lên rằng: “Thằng nghịch tặc kia chớ chạy!”
Trương Nhượng thấy nguy cấp quá liền đâm đầu xuống sông tự tử.
Thiếu đế cùng Trần Lưu vương chưa rõ lành dữ thế nào, đành phải nín hơi nấp vào trong bụi cỏ ở bờ sông, quân sĩ tìm hết bốn phía vẫn không biết Hoàng đế ở đâu.
Hai anh em vua phục trong bụi cỏ mãi đến canh tư, sương xuống lạnh buốt cả người trong lòng đói khát, ôm nhau mà khóc, nhưng sợ có người biết, chỉ nuốt nước mắt khóc thầm trong bụi rậm.
Trần Lưu vương nói:
- Chỗ này không nên ở mãi, phải tìm đường khác mới sống được.
Nói đoạn hai người nắm áo nhau bò lên bờ sông. Chỗ ấy gai góc rất nhiều, trong đêm tối đường đi không rõ, đương lúc bối rối không biết tính sao, bỗng thấy một đàn đom đóm hàng trăm nghìn con kéo đến, lập loè bay quanh trước mặt vua.
Trần Lưu vương nói:
- Đó là trời giúp anh em ta!
Bèn đi theo ánh sáng đom đóm, dần dần trông thấy đường cái. Đi đến canh năm hai người đau chân quá không thể bước đi được nữa. Bên sườn núi có một đống cỏ, anh em vua bèn nằm quay ra đó.
Trước mặt đống cỏ là một cái trại. Chủ trại đêm hôm ấy nằm mộng thấy hai vầng mặt trời sa xuống sau nhà, giật mình tỉnh dậy, khoác áo ra trông, thấy trên đồng cỏ bốc lên một luồng khí sáng xông lên tận trời, rất lấy làm lạ, vội chạy ra xem tận nơi, thấy có hai người nằm trên đống cỏ, liền hỏi:
- Hai cậu là con cái nhà ai?
Thiếu đế sợ không dám cất tiếng.
Trần Lưu vương trỏ vào Thiếu đế nói rằng:
- Đây chính là Hoàng đế bây giờ, gặp loạn mười đứa hoạn quan, phải trốn đến đây; còn ta là Hoàng đế Trần Lưu vương.
Chủ trại sợ hãi, lạy hai lạy tâu rằng:
- Hạ thần là em tư đồ Thôi Liệt ngày trước, tên gọi Thôi Nghị, vì thấy bọn hoạn quan bán quan hại nước, ghét bỏ người hiền, nên về ở ẩn ở đây.
Bèn đưa hai anh em Thiếu đế đi vào trong nhà, đem rượu cơm dâng tiến.
Nhắc lại, khi Mẫn Cống đuổi bắt được Đoàn Khuê hỏi vua ở đâu, Khuê nói đến dọc đường bị lạc, nên không biết. Cống bèn giết Khuê, cắt đầu treo vào cổ ngựa, rồi sai quân đi các nơi tìm vua, còn Cống một mình tự đi tìm một lối. Tình cờ đi đến ngay nhà Thôi Nghị.
Thôi Nghị thấy dưới cổ có cái đầu người, liền hỏi. Cống thuật lại đầu đuôi. Nghị bèn dẫn Cống vào trong nhà làm lễ triều kiến, vua tôi cùng nhau khóc lóc một hồi. Cống tâu rằng:
- Trong nước không thể một ngày không có vua, xin bệ hạ về kinh ngay cho.
Bấy giờ trong nhà Thôi Nghị chỉ có một con ngựa gầy, đem ra vua ngự. Mẫn Cống cùng Trần Lưu vương cùng cưỡi một con ngựa, khởi hành về kinh.
Đi chưa được ba dặm, thì gặp tư đồ Vương Doãn, thái uý Dương Bưu, tả quân hiệu uý Thuần Vu Quỳnh, hữu quân hiệu uý Triệu Mạnh, hậu quân hiệu uý Pháo Tính và trung quân hiệu uý Viên Thiệu, tất cả vài trăm người ngựa kéo đến nghênh tiếp xa giá, vua tôi đều nhìn nhau mà khóc. Một chốc sai đem thủ cấp Đoàn Khuê về kinh trước bêu lên làm lệnh, rồi đổi hai con ngựa tốt để vua và Trần Lưu vương cưỡi cùng về kinh đô.
Trước đây ít lâu, trẻ con ở kinh thành Lạc Dương thường hát mấy câu sau:
“Đế chẳng ra đế
Vương chẳng ra vương
Xe xe ngựa ngựa
Chạy ra Bắc Mang”.
Đến bây giờ quả là ứng nghiệm.
Xa giá vừa đi được vài dặm, bỗng thấy cờ kéo rợp trời, bụi bay mờ đất, một đoàn binh mã kéo đến. Các quan thấy sắc, vua cũng kinh hoàng. Viên Thiệu tế ngựa ra thét hỏi:
- Binh mã nào đấy?
Dưới bóng ngọn cờ thêu, một tướng phi ngựa ra hỏi lại rằng:
- Thiên tử đâu?
Thiếu đế sợ run không nói được. Trần Lưu vương sấn ngựa ra mắng rằng:
- Ngươi là ai?
Tướng ấy đáp:
- Thứ sử Tây Lương Đổng Trác!
Trần Lưu vương hỏi vặn:
- Ngươi đến hộ giá hay đến cướp giá?
- Tôi đến hộ giá.
- Đã đến hộ giá, sao hoàng đế ở kia, không xuống ngựa?
Trác cả sợ, vội vàng xuống ngựa, thụp lạy ở bên cạnh đường. Trần Lưu vương lấy lời phủ dụ. Trác từ đấy ăn nói giữ gìn, trước sau không hớ điều gì, trong bụng rất thán phục Trần Lưu vương, và có ý muốn bỏ vua nọ lập vua kia tự đó.
Ngày hôm ấy, vua về đến kinh, vào cung bái kiến Hà thái hậu, mẹ con than khóc cùng nhau. Lúc kiểm điểm trong cung, không biết cái ấn ngọc truyền quốc biến đi đâu mất.
Đổng Trác đóng đồn ở ngoài thành, hàng ngày đem quân mặc áo thiết giáp vào trong thành, đi nghênh ngang các phố, nhân dân rất sợ hãi. Trác lại tự do vào ra chỗ cung cấm, không kiêng sợ gì cả.
Hậu quân hiệu uý Pháo Tín đến chơi Viên Thiệu bàn với Thiệu rằng:
- Đổng Trác hình như có bụng khác, phải trừ ngay đi.
Thiệu nói:
- Triều đình vừa mới được yên, không nên làm kinh động.
Pháo Tín bàn với Vương Doãn. Doãn nói:
- Để rồi sẽ bàn!
Pháo Tín thấy không ai nghe mình, bèn đem quân bản bộ đến đóng ở Thái Sơn.
Đổng Trác chiêu dụ những quân bộ hạ của anh em Hà Tiến về cả tay mình, rồi bàn mảnh với Lý Nho rằng:
- Ta muốn bỏ Thiếu đế, lập Trần Lưu vương có nên không?
Lý Nho nói:
- Nên lắm. Nay đang lúc triều đình vô chủ, nên làm ngay mới được, nếu để chậm sẽ sinh biến. Ngày mai nên triệu các quan hội họp ở trong vườn Ôn Minh, đem việc phế lập ra biểu dụ, ai không nghe thì chém. Nắm được uy quyền, chính ở lúc này đây.
Trác mừng lắm, sáng hôm sau mở tiệc yến rất lớn, mời tất cả các công khanh đến. Ai cũng sợ Đổng Trác cho nên không ai vắng mặt cả.
Trác chờ các quan đến đông đủ, mới lững thững đến cửa vườn, xuống ngựa đeo gươm vào tiệc.
Rượu được vài tuần, Trác truyền lệnh dừng chén, nghỉ âm nhạc, rồi nói lớn lên rằng:
- Các quan hãy im lặng, nghe ta nói một câu chuyện: Vua là chủ tể thiên hạ, không có uy nghi không thể nào tôn phụng tôn miếu và xã tắc. Nay hoàng thượng nhu nhược, không bằng Trần Lưu vương thông minh ham học, xứng đáng ngôi rồng. Vậy ý ta muốn bỏ vua Thiếu đế, lập Trần Lưu vương, các quan nghĩ sao?
Các quan nghe đoạn, yên lặng nhìn nhau, không ai dám nói câu gì cả.
Bỗng có một người ngồi trong yến tiệc đẩy ghế đứng dậy, nói lớn lên rằng:
- Không được! Không được! Mày là thằng nào, dám nói càn rỡ như vậy? Hoàng thượng là con cả đức Tiên đế, xưa nay không chút lầm lỗi, sao bỗng dưng dám nói bỏ người này lập người kia! Mày muốn phản nghịch chăng?
Trác nhìn xem mới biết người ấy là quan thứ sử Kinh Châu, tên gọi Đinh Nguyên. Trác nổi giận quát lên rằng:
- Ai theo ta thì sống, ai chống ta thì chết!
Bèn rút gươm toan chém Đinh Nguyên.
Bấy giờ Lý Nho thấy một người đứng sau lưng Đinh Nguyên, khí vũ hiên ngang, uy phong lẫm lẫm, tay cầm cái phương thiên hoạ kích, có vẻ tức giận trừng mắt mà nhìn, vội vàng đứng dậy nói rằng:
- Hôm nay trong tiệc ăn uống, không nên bàn đến việc nước. Xin đến sáng mai họp bàn tại nhà nghị sự thì hơn!
Mọi người đều khuyên Đinh Nguyên lên ngựa về nhà.
Trác lại hỏi các quan rằng:
- Ta nói thế có hợp lẽ không?
Lư Thực nói:
- Ông lầm rồi! Xưa vua Thái Giáp không minh. Y Doãn bị đuổi ra Đồng cung; vua Xương Ấp lên ngôi vua mới có hai mươi bảy ngày mà làm hơn ba mươi điều ác, nên Hoắc Quang phải làm lễ cáo ở thái miếu rồi bỏ đi. Ngày nay vua dẫu còn trẻ tuổi, song vốn thông minh nhân từ, chưa có một chút lỗi lầm. Ông chẳng qua là thứ sử đường ngoài, chưa tham dự việc nước, lại không có tài lớn như Hoắc Quang, Y Doãn, sao dám cả gan bàn đến việc bỏ vua nọ lập vua kia? Thánh nhân nói rằng: “Có chí như Y Doãn thì hay bằng không có chí ấy mà làm thì là thoán nghịch!”
Trác cả giận, rút gươm sấn đến toan chém Lư Thực, quan thị trung là Sái Ấp và quan nghị lang là Bành Bá can rằng:
- Lư thượng thư là người có danh vọng lớn ở trong thiên hạ, nếu đem giết đi, e rằng thiên hạ không phục!
Trác mới thôi.
Quan tư đồ là Vương Doãn nói tiếp rằng:
- Việc phế lập không nên bàn sau khi uống rượu say. Xin để ngày khác lại bàn.
Các quan đều giải tán.
Lúc ấy Trác còn chống gươm đứng giữa cửa vườn, bỗng thấy một người cầm kích phi ngựa ở ngoài cửa. Trác hỏi Lý Nho:
- Người nào đấy?
Nho nói:
- Đấy là con nuôi Đinh Nguyên, họ Lã tên Bố, tự là Phụng Tiên, chúa công hãy nên tạm lánh đi.
Trác bèn lẩn trốn vào trong vườn.
Sáng hôm sau có tin báo Đinh Nguyên dẫn quân đến ngoài thành thách đánh. Trác nổi giận, cùng Lý Nho dẫn quân ra đối địch.
Lã Bố đầu búi tóc, đội kim quan, mình mặc chiến bào thêu trăm hoa, ngoài phủ giáp đường nghê, thắt bảo đới, phóng ngựa múa kích, theo Đinh Nguyên ra trước trận.
Đinh Nguyên trỏ vào mặt Đổng Trác mắng rằng:
- Nhà nước không may bị bọn hoạn quan lộng quyền, đến nỗi dân chúng lầm than. Mày không có chút công cán gì, sao dám mở mồm nói việc phế lập để loạn triều đình?
Đổng Trác chưa kịp trả lời, Lã Bố đã phi ngựa sấn sang, Đổng Trác hoảng chạy, Đinh Nguyên thúc quân đánh trận, quân Trác thua to, phải lui hơn ba mươi dặm đóng trại. Trác bàn với các tướng rằng:
- Ta xem Lã Bố là kẻ tài giỏi phi thường, nếu được người ấy về với ta, lo gì không được thiên hạ!
Một người ở dưới trướng bước ra thưa rằng:
- Chúa công lo chi điều ấy! Tôi vốn cùng làng với Lã Bố, hắn là người chỉ có sức khoẻ mà không có mưu, thấy lợi thì quên nghĩa. Tôi quyết xin đem ba tấc lưỡi nói cho Lã Bố chắp tay về với chúa công.
Trác cả mừng nhìn xem, thì ra người ấy là hổ bôn trung lang tướng Lý Túc. Trác bèn hỏi:
- Làm thế nào để dụ hắn?
Túc nói:
- Tôi nghe chúa công có một con ngựa xích thố tốt, mỗi ngày đi ngàn dặm. Nếu đem con ngựa ấy và thêm một số vàng ngọc nữa lấy lợi dụ hắn, hắn sẽ phản Đinh Nguyên về với chúa công ngay.
Trác quay lại hỏi Lý Nho rằng:
- Có nên làm như thế không?
Nho nói:
- Chúa công muốn lấy thiên hạ, thì tiếc gì một con ngựa.
Trác vui vẻ cho ngựa, lại cho thêm một nghìn lạng vàng, vài chục hạt châu, và một cái đai bằng ngọc. Lý Túc nhận các món ấy đem sang trại quân Lã Bố, bị quân canh đường bắt được. Túc nói:
- Các ngươi vào bẩm Lã tướng quân, có người bạn cũ đến thăm đấy.
Lã Bố sai mời vào.
Túc hỏi Bố rằng:
- Lâu nay hiền đệ vẫn được bình yên?
Lã Bố chắp tay thưa rằng:
- Lâu lắm mới gặp nhau, vậy chớ bây giờ anh ở đâu?
Túc nói:
- Tôi hiện làm chức hổ bôn trung lang tướng, nghe tin hiền đệ trổ tài giúp nước, tôi mừng rỡ vô cùng. Nhân có một con ngựa tốt, ngày đi ngàn dặm, lội nước trèo núi như chạy đường phẳng, gọi là ngựa xích thố, thành tâm đem dâng hiền đệ, thêm giúp oai hùng.
Lã Bố sai dắt lại xem, quả nhiên toàn thân con ngựa ấy một màu đỏ như lửa, tuyệt không có cái lông nào tạp, từ đầu đến đuôi dài một trượng, từ mông lên trán cao tám thước, lúc miệng gầm chân cất, có cái vẻ tung mây vượt biển.
Đời sau có người vịnh thơ khen ngựa xích thố rằng:
Ngàn dặm mù bay tít nẻo xa
Trèo non vượt nước khéo xông pha
Cương tơ chặt đứt rung chuông ngọc
Rồng đỏ trên trời hẳn mới sa?
Lã Bố trông thấy ngựa mừng lắm, tạ rằng:
- Anh cho con ngựa hay như thế, biết lấy gì đáp lại?
Túc nói:
- Tôi vì nghĩa đến đây, dám mong gì báo đáp!
Lã Bố sai làm rượu thết đãi. Rượu đã ngà say, Túc nói:
- Tôi với hiền đệ ít khi gặp nhau, nhưng được gặp lệnh tôn luôn.
Lã Bố nói:
- Anh say rồi, cha tôi khuất núi đã lâu, sao còn gặp được anh?
Túc cả cười mà rằng:
- Tôi đã say đâu, tôi nói lệnh tôn là nói Đinh thứ sử đó!
Bố có ý hổ thẹn nói rằng:
- Tôi ở với ông Đinh Kiến Dương, cũng là bất đắc dĩ.
Túc nói:
- Hiền đệ có tài ngang trời dọc đất, bốn biển ai chẳng quý trọng, phú quý công danh, coi dễ như thò tay lấy của ở trong túi, sao lại nói là bất đắc dĩ mà can chịu nép mình ở dưới người ta?
Bố thở dài nói:
- Tôi chỉ giận chưa gặp được chủ!
Túc cười nói:
- Chim khôn chọn cành mà đậu, người hiền chọn chúa mà thờ; nếu không sớm liệu ngày sau hối sao kịp?
- Anh xem trong triều, còn có ai đáng mặt anh hùng đời nay?
- Tôi xem các quan đại thần bây giờ không ai bằng được Đổng Trác, Đổng Trác tôn người hiền, kính kẻ sĩ, thưởng phạt công minh, chắc sau này làm nên nghiệp lớn.
Bố hăm hở nói:
- Quả vậy, tôi muốn về với ông ta, chỉ hiềm chưa có người tiến dẫn.
Túc bèn đem vàng, hạt châu và cái đai ngọc bày la liệt ở trước mặt Lã Bố. Lã Bố kinh hãi nói rằng:
- Sao có những thứ này?
Túc sai tả hữu lui cả, rồi bảo Lã Bố rằng:
- Đây là Đổng công mộ đại danh hiền đệ đã lâu, bảo tôi thân đem các vật này đến dâng hiền đệ. Con ngựa xích thố cũng của Đổng công kính tặng đấy.
Lã Bố nói:
- Đổng công có lòng quá yêu, tôi biết lấy gì đáp lại?
Túc nói:
- Bất tài như tôi còn làm đến chức hổ bôn trung lang tướng. Nếu hiền đệ về với Đổng công thì quý hiển chưa biết chừng nào.
Lã Bố nói:
- Nhưng tôi không có chút công gì làm lễ ra mắt?
Túc nói:
- Muốn có công cũng dễ lắm, chỉ trở bàn tay là được. Chỉ sợ hiền đệ không chịu làm thôi!
Lã Bố ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói:
- Tôi muốn giết Đinh Nguyên, dẫn quân về hàng Đổng Trác, có nên không?
Túc nói:
- Làm được như thế, thật là công rất lớn. Nhưng việc phải quả quyết làm ngay mới được!
Lã Bố hẹn đến hôm sau thì đem quân lại hàng.
Túc từ biệt về.
Đêm hôm ấy, hồi canh hai, Lã Bố cầm dao, vào thẳng màn Đinh Nguyên. Đinh Nguyên đang thắp nến xem sách, thấy Lã Bố đến bèn hỏi:
- Con vào có việc gì?
Bố nổi giận quát:
- Ta đây đường đường một đấng trượng phu, có đâu chịu làm con mày!
Nguyên nói:
- Phụng Tiên vì cớ gì mà thay lòng đổi dạ như thế?
Lã Bố bước thẳng lên giơ dao chém Nguyên một nhát, chặt lấy đầu rồi gọi lớn tả hữu rằng:
- Đinh Nguyên bất nhân, ta đã giết nó rồi. Ai theo ta thì ở đây, không theo thì đi!
Quân sĩ bỏ đi quá nửa.
Ngày hôm sau, Lã Bố cầm đầu Đinh Nguyên đến nhà Lý Túc, Túc đưa vào ra mắt Đổng Trác. Trác mừng lắm, làm rượu thết đãi, sụp xuống lạy Lã Bố trước và nói rằng:
- Trác này được tướng quân, ví như cây lúa bị nắng hạn lâu mà được trận mưa ngọt!
Lã Bố rước Trác ngồi lên, lạy mà nói rằng:
- Ngài có bụng yêu, tôi xin thờ ngài làm nghĩa phụ[1].
Trác lấy áo cẩm bào dát vàng đem ra cho Lã Bố rồi cùng uống rượu vui vẻ.
Đổng Trác tự đấy uy thế mỗi ngày một lớn, tự lĩnh chức tiền tướng quân, phong cho em là Đổng Mân làm tả tướng quân, tước Vu hầu; phong Lã Bố làm kỵ đô uý, trung lang tướng, tước Đô đình hầu.
Lý Nho khuyên Trác định ngay việc phế lập.
Trác bèn đặt một tiệc yến ở trong dinh, mời cả các công khanh đến; sai Lã Bố đem hơn một nghìn quân giáp sĩ, canh gác hai bên.
Hôm ấy quan thái phó Viên Ngỗi và trăm quan đều đến. Rượu được vài tuần, Trác cầm gươm nói rằng:
- Nay vua ngu yếu, không thờ được tôn miếu; ta muốn theo Y Doãn, Hoắc Quang ngày xưa, phế vua cho ra làm Hoằng Nông vương và lập Trần Lưu vương lên nối nghiệp. Ai không theo, ta chém!
Quần thần run sợ, không ai dám đáp lại, duy có quan trung quân hiệu uý là Viên Thiệu đứng vụt lên nói:
- Thiên tử mới lên ngôi, không làm điều gì thất đức, mày dám bàn bỏ con cả, lập con thứ, định làm phản hay sao?
Trác giận đáp lại:
- Việc thiên hạ ở trong tay tao, nay tao làm đấy, ai dám không nghe? Mày hãy thử xem lưỡi gươm tao có sắc không?
Viên Thiệu cũng rút gươm ra nói rằng:
- Gươm mày sắc, dễ gươm tao không sắc hay sao?
Hai người đối địch nhau ở ngay trên tiệc rượu.
Thế rõ thực là:
Đinh Nguyên trượng nghĩa thân vừa chết
Viên Thiệu tranh hùng thế cũng nguy.
Chưa biết tính mạng Viên Thiệu thế nào, xem hồi sau thì biết rõ.
Chú thích: 
1. Bố nuôi.

Hồi 4:                                                                                                    
Phế Hán Đế, Trần Lưu lên ngôi
Lừa Đổng tặc, Mạnh Đức dâng kiếm
Ðổng Trác muốn giết Viên Thiệu, Lý Nho can rằng:
- Việc chưa định xong không nên giết càn.
Viên Thiệu tay cầm thanh bảo kiếm, cáo từ các quan trở ra, treo trả cờ tiết ở cửa đông rồi bỏ về Ký Châu.
Trác bảo với quan thái phó Viên Ngỗi rằng:
- Cháu ngươi vô lễ, ta tha cho nó cũng là nể ngươi. Việc phế vua lập Trần Lưu, ngươi nghĩ thế nào?
Ngỗi thưa rằng:
- Thái uý nghĩ thế phải đấy!
Trác lại nói:
- Ai dám ngăn trở việc lớn này, thì ta sẽ lấy phép quân trị tội.
Các quan sợ hãi, đều nói:
- Ngài dạy thế xin vâng!
Cuộc yến tan, Trác hỏi quan thị trung là Chu Bật và quan hiệu uý là Ngũ Quỳnh rằng:
- Viên Thiệu phen này đi, rồi sẽ ra sao?
Chu Bật đáp:
- Viên Thiệu căm giận mà đi, hễ truy nã riết quá tất sinh biến. Vả lại họ Viên, đã bốn đời làm quan đến bậc tam công, thiên hạ được nhờ nhiều lắm; học trò, đầy tớ đâu đâu củng có. Nếu hắn thu dùng hào kiệt, tập họp đồ đảng, rồi những anh hùng trong thiên hạ nhân đó khởi lên, đất Sơn Ðông sẽ không ở trong tay ông nữa. Không bằng ông tha tội hắn, cho hắn một chức quận thú gì đấy, thì hắn mừng được khỏi tội, sẽ không gây ra hậu hoạn nữa.
Ngũ Quỳnh nói:
- Viên Thiệu là người thích mưu kế, nhưng không quyết đoán, không đáng lo cho lắm. Bất nhược cứ cho hắn một chức quận thú để thu phục lòng dân!
Trác nghe lấy làm phải, ngay hôm ấy sai người đến phong cho Thiệu làm thái thú quận Bột Hải.
Ðến mồng một tháng chín, Trác rước vua ra ngự đền Ôn Ðức, họp hết cả văn võ lại.
Trác tay cầm kiếm nói rằng:
- Thiên tử ngu yếu, không trị vì được, nay có một bài sách văn đọc cho các quan nghe.
Rồi sai Lý Nho tuyên đọc:
“Vua Hiếu Linh mất sớm, vua sau nối ngôi, bốn bề ai ai cũng trông mong.
Nay xét ra vua ta, thiên tử mỏng mảnh, kém vẻ uy nghi nghiêm chỉnh, cư tang biếng nhác, đức xấu đã rõ, không xứng ngôi lớn.
Hoàng thái hậu không có uy nghi của người mẹ, nhiếp chính rối tung. Việc bà Vĩnh Lạc thái hậu mất, dân chúng có nhiều dị nghị. Ðối với đạo tam cương và giường Trời Đất, phải chăng có thiếu sót nhiều?
Trần Lưu vương tên Hiệp, đức hạnh nghiêm trang, khuôn phép kính cẩn, cư tang thương xót, nói năng chính đính, lời hay tiếng tốt, thiên hạ ai ai cũng biết. Nên nối ngôi vua, làm phép cho vạn thế!
Nay phế vua ra làm Hoằng Nông vương, thái hậu thì phải trả quyền chính.
Xin tôn Trần Lưu vương lên làm hoàng đế,
Ứng thiên, thuận nhân, để yên bụng thiên hạ!”
Lý Nho đọc xong bài chiếu, Trác thét tả hữu vực vua xuống điện, lột tỉ thụ, bắt quỳ, ngoảnh mặt về phương Bắc, xưng thần nghe chiếu, lại bắt Hà thái hậu, cởi đồ phẩm phục ra mà đợi chiếu.
Vua và thái hậu kêu khóc, quần thần trông thấy ai cũng xót xa bi thảm.
Lúc ấy ở dưới thềm có một viên quan to, tức tối thét to lên rằng:
- Thằng giặc Ðổng Trác kia, mày dám lập mưu lừa trời dối đất, tao lấy máu cổ họng bôi vào mặt mày bây giờ!
Nói rồi cầm cái hốt ngà xông thẳng vào đánh Ðổng Trác.
Trác giận lắm, sai võ sĩ bắt lại xem ai, thì là quan thượng thư Ðinh Quản. Trác sai đem ra chém. Quản cứ luôn mồm chửi mắng Ðổng Trác cho đến lúc chết; chết rồi, thần sắc vẫn như lúc sống.
Người sau có thơ than rằng:
Giặc Ðổng lòng mang dạ khuyển lang
Cơ đồ nhà Hán đổ tan hoang,
Trong triều văn võ mồm câm cả
Chỉ có Ðinh công thực giỏi giang!
Trác mời Trần Lưu vương lên điện, Quần thần làm lễ mừng xong rồi. Trác sai bắt Hà thái hậu, vua và vợ vua là Ðường thị giam ở cung Vĩnh An, khoá cửa cung, cấm quần thần, không ai được vào thăm.
Thương thay! Thiếu Đế mới lên ngôi tháng tư, đến tháng chín đã phải phế.
Trần Lưu vương, nhờ Trác được lên ngôi trời, vốn tên là Hiệp, tên chữ là Bá Hoà, là con thứ vua Linh đế, tức là Hiến đế về sau. Lúc lập lên, Hiến đế mới lên chín tuổi, đổi niên hiệu năm đầu là Sơ Bình.
Ðổng Trác làm tướng quốc, lạy vua không phải xưng tên, vào chầu không phải bước rảo, lên điện được đeo kiếm, tác uy tác phúc, không ai bì được.
Lý Nho khuyên Trác nên dùng những người có danh vọng để thu phục lòng người; nhân thể Lý Nho tiến cử tài năng Sái Ung. Trác cho mời Sái Ung, Ung không chịu đến. Trác giận sai người bảo Ung hễ không đến thì giết cả họ. Ung sợ, phải đến. Trác thấy Ung đến, mừng lắm, một tháng thăng chức ba lần, làm đến chức thị trung. Trác rất hậu đãi Ung.
Thiếu đế, Hà thái hậu và Ðường phi bị giam ở cung Vĩnh An, đồ ăn, thức mặc, mỗi ngày một kém. Thiếu đế không lúc nào ráo nước mắt.
Một hôm Thiếu đế trông thấy hai con chim én bay ở trong sân, ngâm một bài thơ rằng:
Xanh xanh khóm cỏ dày
Cặp én phất phơ bay.
Trong veo dòng lạc thủy,
Người đồng nội khen hay.
Xa trông mây thăm thẳm,
Cung điện cũ ta đây.
Biết ai kẻ trung nghĩa,
Gỡ cho oán hận này!
Ðổng Trác thường sai người đến dò ý tứ; hôm ấy có kẻ bắt được bài thơ đem trình Ðổng Trác, Trác nói rằng:
- Làm bài thơ oán vọng này, đem giết đi là có cớ rồi!
Bèn sai Lý Nho và mười võ sĩ vào cung giết vua!
Vua, thái hậu và Ðường phi đương ở trên lầu, thấy người cung nữ báo rằng có Lý Nho đến, vua sợ giật mình.
Nho đem rượu thuốc độc dâng vua.
Vua hỏi việc gì. Nho thưa:
- Ngày xuân mát mẻ, Ðổng tướng quốc sai tôi đem dâng chén rượu thọ.
Thái hậu bảo Lý Nho:
- Có phải rượu thọ thì ngươi thử uống trước đi!
Nho giận lắm, hỏi vua:
- Ngươi không uống phải không?
Rồi gọi tả hữu cầm con dao với tấm lụa trắng, để trước mặt vua, mà nói rằng:
- Rượu thọ chẳng uống, thì phải chọn hai thứ này.
Ðường phi quỳ xuống nói rằng:
- Thiếp xin thay vua uống chén rượu này, xin ngài để toàn mệnh cho hai mẹ con vua.
Lý Nho quát mắng:
- Ngươi là đứa nào, mà dám đòi chết cho vua?
Nho cầm chén rượu đưa cho Hà thái hậu và bảo rằng:
- Bà phải uống trước đi!
Hà thái hậu nhiếc mắng Hà Tiến là đồ vô mưu, đem giặc vào kinh đô, để có cái vạ ngày nay.
Nho bức vua phải uống rượu.
Vua nói:
- Hãy khoan! Ðể ta cùng thái hậu từ biệt đã.
Vua đau xót lắm, làm bài ca như sau:
Trời đất chao, trăng sao cũng đổ
Bỏ ngôi cao, ra chỗ phiên phong
Bởi ai nên sự lạ lùng?
Việc đời ngán ngẩm, ròng ròng châu tuôn.
Ðường phi cũng làm bài ca rằng:
Trời nghiêng đất lại lở tan,
Phận mình thê thiếp, trái oan lạ thường!
Tử sinh nay đã khác đường,
Một người một bóng xót thương tấm lòng!
Vua và Ðường phi ca rồi, ôm nhau mà khóc. Lý Nho lại quát mắng:
- Tướng quốc đứng chờ tin! Các người dùng dằng để mong ai cứu đấy?
Thái hậu thét mắng:
- Thằng giặc Ðổng kia! Ngươi hại mẹ con ta, rồi trời lại hại ngươi! Chúng bay tùng đảng với nhau làm điều ác, rồi chúng bay sẽ bị giết cả họ cho mà xem!
Nho tức lắm, hai tay ôm lấy thái hậu ném xuống dưới lầu, giết chết; lại sai võ sĩ thắt cổ Ðường phi, rót rượu độc bắt Thiếu Đế uống chết, rồi về báo Ðổng Trác.
Trác sai đem táng ba mẹ con ở ngoài thành.
Tự bấy giờ, Trác đêm nào cũng vào cung thông dâm với các cung nữ, đêm thì lên ngủ trên sập rồng.
Thường thường Trác hay đem quân ra ngoài thành. Một bữa Trác đến Dương Thành. Bấy giờ đang tháng hai, dân mở hội hát, con trai con gái tụ họp nhau xem hội rất đông. Trác sai quân vây cả lại, rồi giết sạch, cướp đàn bà con gái và của cải chất đầy xe, treo hơn một nghìn đầu lâu ở dưới xe, nối đuôi nhau kéo về kinh đô, nói phao lên rằng đi đánh giặc thắng trận. Trác lại sai đốt đầu lâu người ở dưới cửa thành, còn đàn bà con gái và của cải thì đem chia cho quân sĩ.
Quan việt kị hiệu uý tên là Ngũ Phu, tên chữ là Ðức Du, thấy Ðổng Trác tàn bạo quá, tức lắm, thường mặc áo giáp nhỏ vào trong áo đại trào, giắt một con dao ngắn, rình tiện dịp để giết Trác.
Một hôm Trác vào chầu, Phu ra đón. Lúc Trác đến dưới gác. Phu rút dao ra đâm, không ngờ sức Trác khoẻ hơn, hai tay ôm chặt được Phu, Lã Bố trông thấy, chạy lại ôm Phu ra vật ngã xuống. Trác hỏi Phu rằng:
- Ai xui mày làm phản?
Phu trợn mắt thét mắng rằng:
- Mày không phải là vua tao, tao không phải là tôi mày, sao lại gọi là phản được? Tội mày đầy trời, ai ai là chẳng muốn giết mày? Tao tiếc rằng không xé nhỏ được xác mày ra để tạ thiên hạ!
Trác tức lắm, sai Phu đem ra mổ. Phu cứ mắng chửi Ðổng Trác không buông miệng cho đến lúc chết.
Ðời sau có thơ khen Ngũ Phu rằng:
Ngũ Phu này cũng bậc anh hùng
Tiết liệt xem ai được thế không?
Ðánh giặc, hãy còn danh tiếng để
Nghìn thu vằng vặc mảnh gương chung!
Ðổng Trác từ khi ấy ra vào trường có quân sĩ mặc áo giáp đi theo hộ vệ.
Viên Thiệu bấy giờ ở Bột Hải, nghe thấy Trác lộng quyền, sai người đưa mật thư cho tư đồ Vương Doãn, thư rằng:
“Giặc Trác dối trời bỏ chúa. Người ta đau xót đến nỗi không nỡ nói, thế mà ông cứ mặc kệ, để nó lăng ngược như con cá nhảy vượt qua đăng, làm thinh như không nghe không thấy, sao gọi là người trung thần ái quốc! Thiệu nay chiêu tập binh mã cũng muốn vì nhà vua, quét sạch quân giặc, nhưng chưa dám khinh động. Ông nếu cùng lòng với tôi, xin tìm cơ hội lo tính ngay đi. Có việc gì sai khiến, tôi xin vâng mệnh”.
Vương Doãn được thư, nghĩ mãi không tìm được kế gì. Một hôm đang lúc chầu ở nội các, Doãn thấy ở đó có đủ mặt các cựu thần, bèn nói với các quan rằng:
- Hôm nay là sinh nhật lão phu. Đến chiều xin mời các quan quá bước đến nhà lão phu xơi rượu.
Các quan đều nhận lời, hẹn đến chiều sẽ đến chúc thọ.
Chiều hôm ấy Doãn mở tiệc ở hậu đường. Các quan đến cả. Rượu được vài tuần, tự nhiên Doãn che mặt hu hu khóc.
Các quan giật mình hỏi rằng:
- Hôm nay là sinh nhật của quan tư đồ, sao ngài lại khóc như vậy?
Doãn thưa rằng:
- Hôm nay có phải là sinh nhật của tôi đâu! Tôi vì có một việc muốn nói với các vị, nhưng sợ Ðổng Trác sinh nghi, cho nên mượn cớ nói thác ra thế. Thằng Trác dối vua lộng quyền, xã tắc nay mai đổ mất. Ðức Cao Hoàng ngày xưa đánh nhà Tần, diệt nước Sở, bao nhiêu công phu mới nên được cơ đồ này, ngờ đâu nay mất vào tay thằng Ðổng Trác. Tôi khóc là vì thế!
Các quan nghe nói cũng đều khóc cả.
Trong đám ngồi có một người, vỗ tay cười ầm lên mà nói rằng:
- Các quan thử khóc từ tối đến sáng, lại khóc từ sáng đến tối, xem khóc có chết được thằng Ðổng Trác không?
Doãn ngoảnh lại xem ai, thì là kiêu kị hiệu uý Tào Tháo. Doãn giận nói rằng:
- Tổ tông nhà ngươi cũng ăn lộc nhà Hán, sao nhà ngươi không biết nghĩ cách báo quốc, lại còn cười à?
Tháo nói:
- Tôi cười, có phải cười gì đâu! Cười là cười các quan không biết nghĩ kế gì trừ được thằng Ðổng Trác. Tháo nay tuy không có tài cán gì, nhưng xin lập tức chặt được đầu thằng Ðổng Trác, treo ở cửa phủ để tạ thiên hạ.
Doãn liền đứng dậy hỏi rằng:
- Mạnh Ðức có kế gì tài thế?
Tháo nói:
- Tôi lâu nay sở dĩ nép mình thờ Ðổng Trác cũng là vì muốn thừa cơ giết nó. Nay nó rất tin tôi, tôi được gần nó luôn. Nghe quan tư đồ có con dao thất bảo, xin cho tôi mượn. Tôi nguyện phen này vào tận tướng phủ đâm chết thằng giặc Ðổng Trác, dẫu chết cũng không oán hận gì.
Vương Doãn mừng lắm nói rằng:
- Nếu Mạnh Ðức có bụng như thế, thực là may cho thiên hạ lắm!
Doãn thân hành rót chén rượu mời Tào Tháo. Tháo đổ rượu[1], cất lời thề. Doãn bèn đem dao thất bảo đưa cho. Tháo uống rượu xong, giắt dao đứng dậy đi ra. Các quan ngồi một lát rồi cũng về cả.
Hôm sau Tháo giắt dao đến tướng phủ, hỏi:
- Thừa tướng ở đâu?
Ðầy tớ nói:
- Ở trong gác.
Tháo vào, thấy Trác ngồi trên giường; Lã Bố đứng hầu bên cạnh.
Trác thấy Tào Tháo vào, hỏi rằng:
- Sao hôm nay Mạnh Ðức đến chậm thế?
Tháo nói:
- Thưa, ngựa tôi gầy hoá đi chậm.
Trác ngoảnh lại bảo Lã Bố rằng:
- Ta có ngựa tốt ở Tây Lương mới tiến. Phụng Tiên đi chọn một con đem lại đây cho Mạnh Ðức.
Bố vâng lời đi lấy ngựa. Tháo thấy còn một mình Trác, bụng đã bảo dạ rằng:
- Thằng này số nó đến lúc chết đây!
Lập tức muốn rút dao đâm ngay, nhưng lại sợ Trác khỏe chưa dám đâm vội.
Trác mình mẩy to béo, xưa nay không ngồi được lâu, bèn ngả mình nằm xuống; ngoảnh mặt vào trong. Tháo lại nghĩ rằng:
- Thằng này thực số chết!
Liền rút dao ra, chực đâm. Không ngờ Trác trông vào trong cái gương, thấy bóng Tào Tháo rút dao ra ở sau lưng, vội vàng quay đầu lại hỏi:
- Mạnh Ðức làm gì thế?
Bấy giờ Lã Bố vừa dắt ngựa đến ngoài gác. Tháo tay đương cầm con dao, vội quỳ xuống thưa:
- Tháo tôi có con dao quý xin dâng thừa tướng.
Trác cầm lấy dao xem, thấy dao dài hơn một thước, cán bằng ngọc thất bảo, lưỡi thực sắc, quả là dao quý, bèn đưa cho Lã Bố cất đi. Tháo còn đeo vỏ dao ở lưng, liền cởi ra, đưa nốt cho Lã Bố.
Trác đem Tháo ra xem ngựa. Tháo tạ rồi xin phép đem ngựa ra cưỡi thử. Trác sai đem yên cương đóng ngựa cho Tháo. Tháo dắt ngựa ra ngoài cửa tướng phủ, lên yên, rồi ra roi đi nước đại thẳng hướng đông nam mà chạy.
Tào Tháo đi khỏi. Lã Bố nói với Trác rằng:
- Vừa rồi tôi trông Tào Tháo hình như có ý muốn đâm trộm thái sư! Vì thái sư trông thấy, hắn mới nói lảng ra là đến dâng dao.
Trác nói:
- Ta cũng hơi nghi.
Ðang nói chuyện thì Lý Nho ở đâu đến. Trác hỏi Lý Nho. Nho nói:
- Tháo không có vợ con gì ở kinh, chỉ trọi một mình ở quán trọ, nay nên sai người đến gọi. Hắn đến ngay thì quả là hắn dâng dao thật, nếu thoái thác không đến, thì đích là thích khách. Lúc bấy giờ ta sẽ bắt mà hỏi.
Trác liền sai bốn người coi ngục đi gọi Tào Tháo. Lính đi một hồi lâu rồi trở về trình rằng:
- Tháo không về nhà trọ. Có người gặp hắn cưỡi ngựa ra cửa đông. Lính canh hỏi đi đâu thì hắn nói rằng thừa tướng sai đi có việc kíp, rồi tế ngựa đi thẳng.
Nho nói:
- Thôi, không còn nghi ngờ gì nữa, nó chột dạ chạy trốn, tất là có bụng hành thích.
Trác nói:
- Ta tin dùng nó thế, sao nó lại muốn hại ta?
Nho thưa:
- Tất nhiên có người đồng mưu. Bắt được Tào Tháo thì ra cả.
Trác liền tư đi các nơi, chỗ nào cũng vẽ hình ảnh Tào Tháo ai bắt được sẽ thưởng nghìn vàng, lại phong cho làm vạn hộ hầu; ai chứa chấp sẽ bị trị tội.
Trong khi ấy, Tháo cắm đầu cắm cổ chạy. Chạy đến Tiêu Quận, đi qua huyện Trung Mâu, bị quân canh cửa thành bắt được, đem nộp quan huyện. Tháo khai là khách buôn, họ tên là Hoàng Phủ.
Quan huyện nhìn kĩ Tháo, nghĩ ngợi một lúc rồi nói:
- Trước ta cầu quản ở Lạc Dương đã được gặp ngươi, chính ngươi là Tào Tháo, ngươi nói dối sao được? Lính đâu, hãy đem giam nó xuống trại, đến mai ta sẽ giải về kinh lĩnh thưởng.
Quan huyện nói thế rồi cho quân canh cửa thành cơm no rượu say rồi về.
Ðến nửa đêm, quan huyện sai người thân tín xuống gọi Tào Tháo lên, bảo dẫn vào nhà sau để hỏi. Tháo vào, quan huyện hỏi rằng:
- Ta nghe thừa tướng hậu đãi ngươi, sao ngươi lại tự chuốc lấy vạ vào thân?
Tháo nói:
- Ngươi như chim sẻ biết đâu được chí chim hồng! Đã bắt được ta thì cứ đem nộp mà lấy công, hà tất phải hỏi nhiều!
Quan huyện bèn đuổi cả tả hữu đi rồi bảo Tháo rằng:
- Anh đừng coi thường tôi. Tôi đây không phải là bọn tục lại đâu… Cũng vì chưa gặp được chủ đấy thôi!
Tháo nói:
- Ông cha ta, đời đời ăn lộc nhà Hán. Nếu ta không biết nghĩ cách báo quốc, có khác gì giống muông thú! Ta phải hạ mình thờ thằng Ðổng Trác là muốn tìm cơ hội thuận tiện giết nó. Nay việc không xong, cũng là lòng trời!
Quan huyện nói:
- Mạnh Ðức bây giờ định đi đâu?
Tháo nói:
- Ta muốn về làng, phát lời kêu gọi, vời cả chư hầu trong thiên hạ khởi binh giết Ðổng Trác. Ðó là sở nguyện của ta!
Quan huyện nghe nói, bèn cởi trói cho Tháo, mời ngồi lên trên rồi thụp xuống lạy hai lạy mà nói rằng:
- Ông thực là người trung nghĩa ở đời này!
Tháo cũng lạy đáp lại, rồi hỏi tên họ, quan huyện nói:
- Tôi họ Trần, tên Cung, tên chữ là Công Ðài; tôi có mẹ già và vợ con ở Ðông Quận. Nay cảm bụng trung nghĩa của ông, xin bỏ chức quan này, theo ông đi trốn.
Tháo mừng lắm. Ngay đêm hôm ấy, Trần Cung thu xếp hành trang và lộ phí, cả hai người thay quần áo, mỗi người đeo một thanh kiếm; cưỡi một con ngựa, đi về quê Tào Tháo.
Ði được ba hôm đến Thành Cao, trời đã xâm xẩm tối. Tháo cầm roi ngựa, trỏ vào một đám cây cối um tùm bảo Cung rằng:
- Ở trong này có Lã Bá Sa là bạn kết nghĩa với cha tôi. Tôi muốn vào hỏi thăm tin nhà, rồi ngủ đấy một đêm, nên không?
Cung nói:
- Thế thì hay lắm!
Hai người, đến cửa trại xuống ngựa vào chào Lã Bá Sa, Sa hỏi Tháo rằng:
- Ta nghe triều đình tầm nã anh gấp lắm. Cha anh phải lánh sang ở Trần Lưu rồi. Sao anh đến được đây?
Tháo bèn đem chuyện đầu đuôi kể với Lã Bá Sa, rồi lại trỏ vào Trần Cung nói:
- Nếu không gặp được quan huyện đây, thì bây giờ đã thịt nát xương tan rồi.
Lã Bá Sa vái Trần Cung rồi nói:
- Cháu nó không gặp được ngài, thì họ Tào còn gì! Đêm nay xin ngài hãy thong thả nghỉ lại đây.
Nói xong, đứng dậy vào trong nhà, một chốc trở ra, bảo Trần Cung:
- Nhà tôi không có rượu ngon. Để tôi sang xóm tây, mua một bình rượu ngon về uống.
Nói rồi lật đật cưỡi lừa ra đi.
Tháo với Cung ngồi ở nhà, chợt nghe thấy sau nhà có tiếng mài dao. Tháo bảo Trần Cung rằng:
- Lã Bá Sa đối với tôi không thân thiết gì lắm. Chuyện này đáng nghi đấy!
Hai người sẽ rón rén bước vào sau nhà tranh, chỉ nghe thấy có tiếng người nói:
- Trói lại mà giết!
Tháo bảo Trần Cung:
- Ðúng rồi! Nếu ta không hạ thủ trước, thì sẽ bị bắt mất!
Tháo và Cung hai người cùng rút kiếm đi thẳng vào, gặp người nào trong nhà giết người ấy; giết một lúc tám người. Khi vào đến bếp, chỉ thấy một con lợn trói bốn vó, sắp đem chọc tiết.
Cung giật mình nói:
- Mạnh Ðức ơi! Ta đa nghi quá, giết nhầm phải người tử tế rồi.
Hai người vội vàng trở ra lên ngựa đi. đi được độ hai mươi dặm gặp Lã Bá Sa cưỡi lừa về, trước yên treo hai bình rượu, tay xách một nắm rau quả. Lã Bá Sa hỏi hai người rằng:
- Hiền điệt với sứ quân sao lại đi?
Tháo nói:
- Tôi là người có tội, không dám ở lâu.
Lã Bá Sa nói:
- Ta đã dặn người nhà làm thịt con lợn rồi. Sứ quân với hiền điệt ngại gì một đêm, xin quay ngựa lại cho!
Tháo cứ tế ngựa đi. đi được vài bước, rút kiếm ra, quay ngựa trở lại, gọi Lã Bá Sa hỏi:
- Ai đi đằng sau ông đấy?
Sa quay đầu lại xem. Tháo chém ngay, Sa ngã xuống chết.
Cung cả sợ hỏi Tháo:
- Lúc nãy lầm đã đành, bây giờ sao lại còn đang tay như thế?
Tháo nói:
- Bá Sa về nhà, thấy nhiều người chết, tất nhiên không để im, nếu đem người đi đuổi thì ta bị vạ ngay.
Cung nói:
- Biết rằng mình lầm rồi, lại còn cố ý giết người nữa, thực là đại bất nghĩa!
Tháo nói:
- Thà ta phụ người, không để người phụ ta!
Cung im lặng, không nói gì nữa.
Ðêm trăng sáng ròi rọi, hai người cứ phóng ngựa đi. Đi được vài dặm, hai người vào nhà hàng ngủ. Sau khi cho ngựa ăn no, Tháo đi ngủ trước.
Cung suy nghĩ:
- Ta những tưởng Tào Tháo là người tốt, cho nên bỏ quan đi theo hắn. Ai ngờ hắn là hạng người tàn nhẫn. Nếu để hắn sống ở đời, tất có ngày hắn gây ra vạ lớn.
Nghĩ vậy bèn rút gươm toan giết Tào Tháo…
Ấy thực rõ là:
Mang tâm hiểm độc người đâu thế,
Trác, Tháo hai tên cũng một phường!
Chưa biết Tào Tháo sống chết thế nào, xem đến hồi sau sẽ tỏ.
Chú thích:
1. Một cách thể hiện lòng quyết tâm của người cổ đại Trung Quốc.
Hồi 5:
Phát hiệu triệu, các trấn hưởng ứng Tào Công
Phá cửa quan, ba anh hùng đánh Lã Bố
Trần Cung muốn giết Tào Tháo, nhưng lại nghĩ rằng:
“Mình theo hắn cũng là vì nước, bây giờ giết hắn e mang tiếng bất nghĩa. Chi bằng bỏ hắn đi nơi khác là hơn”.
Nghĩ rồi lại cài gươm, lên ngựa, không đợi trời sáng, đi thẳng về Đông Quận.
Tháo dậy, không thấy Trần Cung, nghĩ bụng:
- Người này thấy ta nói mấy câu, tưởng ta là đứa bất nhân, nên bỏ ta mà đi. Ta nên đi ngay, không thể ở đây lâu.
Suốt đêm hôm ấy Tháo đi đến Trần Lưu, tìm thấy bố, thuật lại sự tình với bố, muốn đem gia tài bán đi để mộ nghĩa binh.
Tào Tung nói:
- Gia tư nhà ta không có mấy tí, cha e không đủ để kham nổi việc lớn. Ở đây có ông Vệ Hoằng, đỗ khoa hiếu liêm, là người khinh tài trọng nghĩa, nhà giàu, nếu được ông ấy giúp, thì việc lớn có thể mưu đồ được.
Tháo bèn đặt một tiệc rượu, mời Vệ Hoằng đến nhà nói với Hoằng rằng:
- Nay nhà Hán vô chủ, Đổng Trác lộng quyền, dối vua hại dân, thiên hạ ai ai cũng nghiến răng tức giận. Tôi muốn hết lòng giúp nước, hiềm vì sức không đủ. Ngài là người trung nghĩa, rất mong ngài giúp đỡ cho.
Vệ Hoằng nói:
- Tôi có lòng ấy đã lâu, giận rằng chưa gặp ai là người anh hùng. Nay Mạnh Đức đã có chí lớn, tôi xin đem hết của cải ra giúp.
Tào Tháo mừng lắm, làm ngay tờ kêu gọi phát đi các đạo, rồi dựng một lá cờ trắng, đề hai chữ: “Trung nghĩa” để chiêu tập binh mã.
Không được mấy ngày, thiên hạ kéo đến ứng mộ đông như nước chảy.
Một bữa có người ở Dương Bình, nước Vệ, tên là Nhạc Tiến, tự là Văn Khiêm; lại có người ở Cư Lộc huyện Sơn Dương, là Lý Điển, tự là Man Thành, cùng đến xin theo. Tháo đều cho làm chân tay dưới trướng.
Lại có người nữa, người ở đất Thùy nước Bái, tên là Hạ Hầu Đôn tự là Nguyên Nhượng, nguyên là dòng dõi Hạ Hầu Anh ngày xưa; từ khi còn nhỏ đã tập đánh gậy; đến năm mười bốn tuổi đã theo thầy học võ. Có người chửi thầy. Đôn giết người ấy rồi trốn sang nơi khác ở. Bây giờ nghe thấy Tào Tháo khởi binh, Đôn cùng với một người em họ, tên là Hạ Hầu Uyên, đem một nghìn tráng sĩ lại họp với quân Tháo.
Hai người ấy vốn là anh em cùng họ với Tào Tháo, vì Tháo nguyên cũng là họ Hạ Hầu, tại bố Tháo là Tào Tung vào làm con nuôi họ Tào, nên mới đổi ra là họ Tào.
Được vài ngày nữa, lại có hai người họ Tào, Tào Nhân, Tào Hồng cũng đem hơn một nghìn quân lại giúp.
Tào Nhân, tự là Tử Hiếu; Tào Hồng tự là Tử Liêm, hai người cung mã đều thạo, võ nghệ tinh thông. Tháo mừng lắm, ngày ngày ở trong thôn, luyện tập quân mã.
Vệ Hoằng đem hết cả gia tài, sắm sửa cờ quạt và may áo giáp. Bốn phương lại đưa lương thực đến, không biết ngần nào mà kể.
Bấy giờ Viên Thiệu bắt được tờ kêu gọi của Tào Tháo, bèn tụ hội văn võ, đem ba vạn quân ở Bột Hải sang hội với quân Tào Tháo.
Tháo bèn làm một bài hịch gửi đi các quận. Hịch rằng:
“Anh em Tào Tháo chúng tôi kính đem nghĩa lớn, bá cáo cả nước:
Tặc thần Đổng Trác, lừa đất dối trời, giết vua phá nước ô uế chốn cung cấm, tàn hại kẻ dân lành. Bạo ngược bất nhân, tội ác chồng chất!
Nay vâng tờ mật chiếu của thiên tử, họp quân nghĩa binh thề quét sạch cả Hoa Hạ, tiễu trừ mọi quân hung bạo; rất mong các nơi đều dấy nghĩa binh, cùng hả lòng công phẫn để giúp vua cứu chúng.
Hịch này đến nơi, lập tức thi hành!”
Tờ hịch của Tào đã phát đi, chư hầu các trấn đều khởi binh hưởng ứng:
1. Viên Thuật, hậu tướng quân, thái thú Nam Dương.
2. Hàn Phức, thứ sử Ký Châu.
3. Khổng Du, thứ sử Dự Châu.
4. Lưu Đại, thứ sử Duyện Châu.
5. Vương Khuông, thái thú quận Hà Nội.
6. Trương Mặc, thái thú Trần Lưu.
7. Kiều Mạo, thái thú Đông Quận.
8. Viên Di, thái thú Sơn Dương.
9. Pháo Tín, tướng ở Tế Bắc.
10. Khổng Dung, thái thú Bắc Hải.
11. Trương Siêu, thái thú Quảng Lăng.
12. Đào Khiêm, thứ sử Từ Châu.
13. Mã Đằng, thái thú Tây Lương.
14. Công Tôn Toản, thái thú Bắc Bình.
15. Trương Dương, thái thú Thượng Đảng.
16. Tôn Kiên, Ô Trình hầu, thái thú Trường Sa.
17. Viên Thiệu, Kỳ Hương hầu, thái thú Bột Hải.
Quân mã các trấn, nơi nhiều nơi ít, trấn thì ba vạn, trấn thì một hai vạn, đều đem các văn quan võ tướng, kéo đến Lạc Dương.
Đây nói chuyện thái thú Bắc Bình là Công Tôn Toản đem một vạn rưỡi quân, khi đi qua huyện Bình Nguyên, ở Châu Đức, trông thấy ở đằng xa, trong đám cây dâu, có một lá cờ vàng, với vài người kỵ mã đến đón. Toản trông xem ai hóa ra Lưu Bị.
Toản hỏi:
- Hiền đệ sao lại ở đây?
Lưu Bị thưa:
- Ngày trước em nhờ anh được cử làm huyện lệnh Bình Nguyên, nay nghe thấy đại quân qua đây, nên em lại hầu. Xin mời anh hãy vào thành nghỉ.
Toản thấy có mấy người đi theo Lưu Bị, trỏ hỏi mấy người ấy là ai. Lưu Bị nói:
- Đây là Quan Vũ, Trương Phi, hai người anh em kết nghĩa với tôi đó.
Toản hỏi có phải hai người ấy là hai người cùng phá giặc Khăn Vàng hay không, Huyền Đức nói:
- Phá giặc Khăn Vàng chính là công hai người này cả!
Toản hỏi hiện bây giờ hai người làm chức gì? Huyền Đức thưa:
- Quan Vũ làm tay mã cung; Trương Phi làm tay bộ cung.
Toản than rằng:
- Như thế quả là mai một anh hùng! Nay Đổng Trác làm loạn, chư hầu cùng dấy binh đến đánh. Hiền đệ bỏ quách một chức quan quèn này, cùng với tôi đi đánh giặc giúp nhà Hán, nên không?
Lưu Bị vâng xin đi ngay.
Trương Phi nghe thấy tên Đổng Trác, nói rằng:
- Khi trước giá để tôi giết ngay thằng giặc ấy đi thì không phải rắc rối như ngày nay.
Quan Vũ nói:
- Bây giờ việc đã như thế, ta nên thu xếp đi ngay thôi.
Lưu Bị cùng Quan, Trương liền đem vài ba người lính kỵ, theo Công Tôn Toản đi. Tào Tháo ra tiếp. Các chư hầu cũng lục tục kéo đến cả, mỗi người đóng trại một chỗ, liên tiếp nhau hơn hai trăm dặm đất.
Tào Tháo giết trâu mổ ngựa, hội cả mười tám chư hầu bàn việc tiến binh.
Thái thú Vương Khuông nói:
- Nay làm việc đại nghĩa, nên lập minh chủ, để mọi người vâng theo hiệu lệnh, rồi sẽ tiến binh.
Tháo nói:
- Viên Bản Sơ nhà bốn đời làm tam công, lại có nhiều thủ hạ cũ; nguyên là con cháu danh tướng nhà Hán, nên tôn làm minh chủ.
Thiệu hai ba lần từ chối, nhưng mọi người đều nói:
- Phi Bản Sơ không xong!
Thiệu mới vâng lời.
Hôm sau lập một cái đàn ba tầng, chung quanh cắm cờ ngũ phương, tầng trên dựng một lá cờ tuyết mao trắng, một cây hoàng việt; binh phù tướng ấn đủ cả; chư hầu mời Thiệu lên đàn. Thiệu mặc áo chỉnh tề, đeo gươm đầu hàng, đốt hương lễ hai lễ, rồi đọc lời thề:
“Nhà Hán chẳng may; phép vua lơi lỏng. Tặc thần Đổng Trác, thừa kế làm ác, vạ đến ngôi vua, hại ra trăm họ.
Anh em chúng tôi là Thiệu… Sợ rằng xã tắc đắm mất nên phải tụ họp nghĩa binh, cùng nhau cứu nạn nước.
Phàm đã là người đồng minh, ai cũng phải dốc lòng hết sức để giữ lấy đạo làm tôi không được hai lòng.
Ai trái lời thề này, sẽ chết mất mạng, tiệt tự cháu con.
Xin trời đất tổ tôn chứng giám cho!”
Thiệu đọc xong, các tướng đều uống máu ăn thề. Mọi người nghe thấy lời nói khảng khái, ai cũng nước mắt chứa chan.
Thề xong xuống đàn, Thiệu lên trướng ngồi, chư hầu hai bên theo chức tước và tuổi chia định ngôi thứ. Tháo đứng dậy mời rượu. Rượu uống được vài tuần, Tháo nói:
- Nay đã lập minh chủ rồi, chúng ta đều phải vâng nghe điều khiển, cùng giúp việc nước. Không ai được cậy khỏe cậy tài, ganh tỵ nhau.
Viên Thiệu nói:
- Thiệu tuy bất tài, nhưng đã được các quan cắt làm minh chủ, xin hết sức công minh; ai có công phải thưởng; ai có tội phải phạt. Nước có hình luật quân có phép tắc, nên cùng giữ gìn, đừng ai vi phạm.
Các tướng đều nói:
- Chúng tôi xin tuân lệnh.
Thiệu lại nói:
- Em ta là Viên Thuật, coi việc lương thảo, ứng cấp các trại không được thiếu thốn. Sau nữa xin chọn lấy một người làm tiên phong, đi thẳng ngay vào cửa Dĩ Thủy khiêu chiến; còn các tướng khác phải chia nhau giữ các chốn hiểm yếu, để làm tiếp ứng.
Thái thú Trường Sa là Tôn Kiên, bước lên, xin đi tiên phong.
Thiệu nói:
- Phải đấy! Văn Đài hùng mạnh, có thể đảm đang chức ấy.
Kiên liền dẫn quân bản bộ của mình, kéo đến cửa Dĩ Thủy. Quân canh cửa vội vàng phi ngựa về Lạc Dương vào phủ thừa tướng cáo cấp.
Đổng Trác từ khi chuyên quyền, ngày nào cũng yến tiệc vui say. Lý Nho tiếp được tờ cáo cấp, vào bẩm với Trác. Trác thất kinh vội vàng họp các tướng sĩ bàn bạc.
Lã Bố thưa rằng:
- Phụ thân đừng lo, các chư hầu đóng ngoài cửa ải, con coi như cỏ rác. Con xin đem quân hổ lang, chém hết đầu chúng treo dưới cửa phủ!
Trác mừng mà nói rằng:
- Ta được Phụng Tiên thì cứ gối cao đầu mà ngủ không lo gì nữa.
Trác nói chưa dứt lời thì sau lưng Lã Bố có một người bước ra nói to lên rằng:
- Cắt tiết gà, lọ là phải dùng đến dao mổ trâu! Không phải phiền đến Lã Ôn hầu, tôi xin ra chém hết đầu chúng nó, dễ như lấy đồ ở trong túi.
Trác nhìn xem: Người ấy thân cao chín thước, mình hổ lưng lang, đầu báo tay vượn, là người Quan Tây, họ Hoa, tên Hùng.
Trác nghe nói thế, thích chí lắm, cho ngay làm kiêu kỵ hiệu úy đem năm vạn quân mã hộ cùng với Lý Túc, Hồ Chẩn, Triệu Xầm đi suốt ngày đêm ra cửa quan nghênh địch.
Trong bọn chư hầu, có Pháo Tín là tướng ở Tế Bắc, thấy Tôn Kiên được đi làm tiên phong, sợ Kiên cướp mất công đầu, bèn mật sai em là Pháo Trung, đem năm nghìn quân mã bộ đi đường tắt, ra thẳng trước cửa quan khiêu chiến. Hoa Hùng đem năm trăm quân thiết kỵ ra ngoài cửa quan, thét lớn: “Tướng giặc chớ chạy!” Pháo Trung vội lui, bị Hoa Hùng chém chết, tướng tá bị bắt sống rất nhiều. Hoa Hùng sai người đem đầu Pháo Trung về báo tiệp[1]. Trác giao ngay cho Hùng làm đô đốc.
Đây nói chuyện Tôn Kiên dẫn bốn tướng đến trước cửa Dĩ Thủy. Bốn tướng ấy là:
1. Trình Phổ, tên chữ Đức Mưu, người Thổ Ngân, ở Hữu Bắc Bình; Phổ cầm một ngọn xà mâu sắt.
2. Hoàng Cái, tên chữ Công Phúc, người ở Linh Lăng; Cái cầm một ngọn roi sắt.
3. Hàn Đương, tên chữ là Công Nghĩa, người Linh Chi, tỉnh Liêu Tây; Đương cầm một con dao lớn.
4. Tổ Mậu, tên chữ là Đại Vinh, người ở Phú Xuân, quận Ngô; Mậu hai tay cầm hai dao.
Tôn Kiên mình mặc áo giáp bạc, đầu đội mũ chóp đỏ, cắp dao Cổ Dĩnh, cưỡi ngựa Hoa Tôn, trỏ tay lên trên cửa quan mà mắng rằng:
- Thằng tiểu nhân đi phò giặc kia! Sao không mau mau xuống hàng?
Phó tướng của Hoa Hùng là Hồ Chẩn, dẫn năm nghìn quân xuống dưới cửa quan nghênh địch.
Tướng Kiên là Trình Phổ vác ngọn mâu, phi ngựa ra thẳng đánh Hồ Chẩn. Đánh nhau được vài hiệp Phổ đâm trúng cổ họng Chẩn, chết ngã từ trên ngựa xuống đất. Kiên bèn thúc quân xông đến trước cửa quan. Trên cửa bắn tên, ném đá xuống như mưa. Kiên phải lui binh về đóng ở Lương Đông, sai người đến chỗ Viên Thiệu báo tiệp và đến chỗ Viên Thuật thúc giục lương thảo.
Bấy giờ có người xui Thuật rằng:
- Tôn Kiên là một con hổ dữ ở đất Giang Đông, nếu ta để cho nó phá được Lạc Dương, giết được Đổng Trác, thì khác gì trừ được lang mà lại gặp hổ. Nay đừng phát lương, quân hắn sẽ tan vỡ.
Thuật nghe, bèn không cấp lương cho Tôn Kiên.
Kiên cạn lương, trong quân rối loạn. Quân do thám biết, về cửa quan báo tin. Lý Túc bàn với Hoa Hùng rằng:
- Đêm hôm nay ta đem một toán quân, đi lần con đường nhỏ xuống đánh đằng sau trại Tôn Kiên, tướng quân đánh đằng trước, chắc bắt được nó.
Hùng nghe kế ấy, truyền lệnh cho quân sĩ ăn no, để đêm xuống cửa quan đánh giặc.
Đêm hôm ấy, gió mát trăng trong. Quân Hùng đến trại Kiên bấy giờ độ nửa đêm, đánh trống hò reo kéo vào. Kiên vội vàng mặc áo cưỡi ngựa đi ra, vừa gặp Hoa Hùng đến. Hai bên đánh nhau được vài hiệp, mặt sau Lý Túc kéo vào sai quân sĩ phóng hỏa. Quân Tôn Kiên rối loạn. Các tướng đánh lộn nhau, duy có Tổ Mậu theo Kiên phá vây chạy. Hoa Hùng từ mặt sau đuổi dồn lên. Kiên cầm cung bắn hai phát tên, Hùng đều tránh được cả, lại giương cung bắn một phát nữa, kéo quá sức gãy mất cung thước hoa phải vứt bỏ cung tế ngựa chạy. Tổ Mâu bảo Kiên rằng:
- Cái mũ chóp đỏ trên đầu của chúa công, bị giặc nó nhận được. Xin cởi mũ đưa cho tôi đội.
Kiên liền cởi mũ đánh đổi cho Mậu, rồi hai người chia đường chạy ra hai ngã. Quân Hoa Hùng cứ đuổi theo người đội mũ chóp đỏ. Kiên chạy sang con đường nhỏ được thoát.
Tổ Mậu bị Hoa Hùng đuổi kíp lắm, bèn bỏ mũ ra, treo vào một cái cột nhà cháy dở, rồi trốn vào rừng rậm, núp một chỗ.
Quân Hùng, thấp thoáng dưới bóng trăng, trông thấy cái chóp mũ đỏ ở chỗ nhà cháy cứ vây bọc bốn mặt lại, không dám đến gần, rồi sau lấy tên bắn mãi mới biết bị lừa. Tổ Mậu ở trong rừng lúc bấy giờ xông ra, hai tay múa đôi dao, chực chém Hoa Hùng, Hùng thét to một tiếng, đưa một nhát dao, Mậu chết lăn xuống dưới ngựa.
Đánh nhau vừa đến tận sáng, Hùng mới kéo quân về.
Trình Phổ, Hàn Đương, Hoàng Cái tìm thấy Tôn Kiên, thu nhập quân mã lại rồi đóng trại ở.
Tôn Kiên thấy mất Tổ Mậu, thương xót lắm, bèn cấp tốc cho người đi báo Viên Thiệu. Thiệu thất kinh nói:
- Không ngờ Tôn Văn Đài mà thua Hoa Hùng!
Thiệu họp chư hầu để bàn bạc. Chư hầu đến cả, chỉ có Công Tôn Toản đến sau. Thiệu mời các tướng vào ngồi sắp hàng trong trướng rồi nói rằng:
- Em Pháo Tín không theo mệnh lệnh, tự tiện tiến binh, mình bị giết, quân sĩ chết nhiều. Đến nay Tôn Văn Đài cũng bị thua, mất hết nhuệ khí, các tướng định thế nào?
Chư hầu không ai nói gì cả. Thiệu ngẩng mặt lên nhìn chỉ thấy sau lưng Công Tôn Toản có ba người dị thường, đứng cười mát.
Thiệu hỏi ai. Toản gọi Lưu Bị ra và nói rằng:
- Người này là anh em bạn học với tôi thuở nhỏ, hiện đang làm quan lệnh Bình Nguyên. Tên là Lưu Bị.
Tháo hỏi:
- Có phải là Lưu Huyền Đức đánh tan giặc Khăn Vàng khi xưa không?
Toản nói phải, rồi bảo Lưu Bị ra chào các quan, nhân thể đem công lao và hoàn cảnh xuất thân của Bị ra, nói chuyện để các tướng nghe. Thiệu thấy nói Lưu Bị là tôn phái nhà Hán bèn sai lấy ghế mời ngồi.
Lưu Bị khiêm tốn không dám ngồi. Thiệu nói:
- Ta kính không phải là kính danh tước nhà ngươi mà là kính người tôn thất nhà vua đấy thôi!
Lưu Bị mới ngồi xuống ghế ở hàng cuối cùng. Quan Vũ, Trương Phi chắp tay đứng hầu đằng sau.
Đương khi ấy, có quân do thám lại báo:
- Hoa Hùng dẫn quân thiết kỵ xuống cửa quan, nó lấy sào cắm cái chóp mũ của Tôn thái thú, đến trước cửa trại, hò hét thách đánh.
Thiệu hỏi:
- Ai dám ra trận?
Sau lưng Viên Thuật, có một tướng lực lưỡng, tên là Du Thiệp bước ra thưa rằng:
- Tiểu tướng xin ra.
Thiệu mừng sai Thiệp ra. Vừa được một lát, có người về báo:
- Thiệp đánh nhau với Hoa Hùng được ba hiệp, bị Hùng chém chết rồi!
Các tướng cả sợ.
Thái thú Hàn Phức nói:
- Tôi có thượng tướng Phan Phụng có thể chém được Hoa Hùng.
Thiệu bèn sai Phan Phụng ra đánh. Phụng tay cầm một cái búa to, lên ngựa, ra được một lát, lại bị Hoa Hùng chém chết.
Các tướng không người nào còn máu mặt.
Thiệu nói rằng:
- Tiếc thay! Danh tướng của ta là Nhan Lương, Văn Sú chưa đến. Giá thử được một trong hai người ấy ở đây thì có sợ gì Hoa Hùng.
Nói chưa dứt lời một người ở dưới thềm, chạy ra, nói to lên rằng:
- Tiểu tướng xin ra chém đầu Hoa Hùng, đem dâng dưới trướng.
Mọi người nhìn xem thấy người ấy mình cao chín thước, râu dài hai thước, mắt phượng mày tằm, mặt đỏ như gấc, tiếng giống chuông kêu.
Thiệu hỏi là người nào. Toản thưa:
- Em Huyền Đức tên là Quan Vũ đấy!
Thiệu lại hỏi hiện làm chức gì? Toản thưa:
- Vũ theo Huyền Đức làm tay bắn cung.
Viên Thuật ở trong trướng thét lên:
- Thằng này là thằng nào! Mày dám khinh chư hầu chúng tao không có đại tướng hay sao? Thứ mày là một thằng cung thủ, mà dám nói khoác à? Chúng đâu, đuổi cổ nó ra ngoài kia!
Tào Tháo vội ngăn rằng:
- Công Lộ hãy nguôi cơn giận. Người ấy đã nói mạnh thế, chắc là có dũng lực. Xin hãy thử cho ra, hễ không đánh được, ta sẽ trị tội.
Viên Thiệu nói:
- Sai một tay bắn cung ra đánh, giặc nó có cười cho không?
Tào Tháo nói:
- Người ấy diện mạo oai vệ thế kia. Hoa Hùng biết đâu là tay bắn cung.
Quan Công nói:
- Nếu tôi không đánh được, xin chặt đầu tôi đi!
Tháo sai người rót chén rượu, đưa Quan Công uống trước khi đi. Quan Công nói:
- Xin hãy để chén rượu đấy, tôi đi rồi về ngay!
Nói rồi đi ra, vác long đao nhảy lên lưng ngựa. Được một lát chư hầu nghe thấy ngoài cửa quan tiếng trống đánh, tiếng người reo ầm ầm, tựa hồ như trời long đất lở, núi đổ non nghiêng, ai nấy đều thất kinh đang định sai người ra xem, thì đã thấy tiếng nhạc nhong nhong trở về, ngựa đã vào tới trung quân. Quan Công cầm đầu Hoa Hùng ném xuống đất, chén rượu của Tào Tháo đưa hãy còn nóng.
Đời sau có thơ khen rằng:
Uy vũ lừng danh đệ nhất công
Nha môn trống trận nổi thùng thùng
Chén rượu rót ra còn nóng hổi
Vân Trường đã chém chết Hoa Hùng.
Tào Tháo mừng lắm.
Lúc ấy, Trương Phi ở sau lưng Lưu Bị mới chạy ra nói to lên rằng:
- Đại ca đã chém chết được Hoa Hùng, sao không nhân thể đánh thốc vào cửa quan, bắt sống lấy Đổng Trác, còn đợi đến bao giờ?
Viên Thuật giận quát mắng rằng:
- Thằng láo! Đại thần của chúng tao đây còn phải khiêm tốn, thứ mày là tiểu tốt của một quan huyện, sao dám hỗn xược ở đây? Đuổi cả chúng nó ra ngoài kia.
Tào Tháo nói:
- Ai có công thì thưởng, cứ gì quý với tiện!
Viên Thuật nói:
- Có phải các ông chỉ trọng một người huyện lệnh thì tôi xin cáo thoái.
Tháo nói:
- Sao lại vì một lời nói, mà bỏ việc lớn?
Nói thế rồi Tháo bảo Công Tôn Toản hãy mời các ông ấy về trại.
Chư hầu tan, người nào về trại người ấy. Tháo mật sai người đem trâu và rượu đưa sang mừng và úy lạo ba anh em Lưu, Quan, Trương.
Quân Hoa Hùng thua, chạy về cửa quan báo Lý Túc. Túc vội vàng viết giấy báo Đổng Trác, Trác họp các quan lại bàn, Lý Nho nói:
- Nay ta mất thượng tướng Hoa Hùng, thế giặc to lắm. Viên Thiệu là minh chủ, có chú là Viên Ngỗi hiện đang làm thái phó, nếu chúng trong ngoài tiếp ứng cho nhau thì nguy lắm, ta nên trừ trước đi. Xin thừa tướng thân cầm đại quân, chia đường ra đánh thì mới được.
Trác nghe lời Nho, gọi Lý Thôi, Quách Dĩ, lĩnh năm trăm quân đến vây nhà thái phó Viên Ngỗi, già trẻ đều giết sạch, rồi đem đầu Ngỗi ra bêu trước cửa quan.
Trác khởi hai mươi vạn quân chia làm hai đường, một đường sai Lý Thôi, Quách Dĩ, đem năm vạn quân ra giữ cửa Dĩ Thủy, không đánh nhau vội; một đường thì Trác đem mười lăm vạn quân cùng với Lý Nho, Lã Bố, Phàn Trù, Trương Tế giữ cửa quan Hổ Lao, Trác sai Lã Bố lĩnh ba mươi vạn quân ra trước quan, đóng một trại lớn; Trác thì đóng đồn trên cửa quan.
Quân lưu tinh dò được tình hình, kíp vào trại Viên Thiệu báo. Thiệu họp các tướng lại bàn. Tháo nói:
- Đổng Trác đóng quân ở Hổ Lao, là cốt chẹn đường chư hầu. Nay nên chia quân ra, một nửa ra đó nghênh địch.
Thiệu bèn cắt Vương Khuông, Kiều Mạo, Pháo Tín, Viên Dị, Khổng Dung, Trương Dương, Đào Khiêm, Công Tôn Toản cả thảy tám vị chư hầu đến cửa Hổ Lao đón địch. Tào Tháo thì dẫn quân đi lại tiếp ứng. Chư hầu đều khởi binh đến, thái thú Vương Khuông đi trước.
Lã Bố đem năm nghìn quân thiết kỵ lại. Vương Khuông đem quân mã, bày thành thế trận, cưỡi ngựa đứng dưới cửa cờ, trông thấy Lã Bố ra trận mình mặc áo gấm đỏ trăm hoa, ngoài khoác áo giáo thú diện liên hoàn; dưới thắt dây lưng sư man, lưng đeo một bộ cung tên; tay cầm một ngọn họa kích, cưỡi ngựa xích thố.
Khuông ngoảnh lại hỏi ai dám ra đánh? Đằng sau có một tướng vác ngọn giáo, tế ngựa chạy ra; đó là một danh tướng ở Hà Nội, tên là Phương Duyệt. Hai ngựa giao nhau, chưa được năm hiệp, Duyệt bị Lã Bố đánh một ngọn kích ngã xuống ngựa. Bố xông thẳng vào. Quân Vương Khuông thua to, chạy tán loạn ra bốn mặt. Bố xông xáo vào đám quân Khuông, như chạy vào nơi không người. May sao Kiều Mạo, Viên Di đem hai cánh quân vừa đến, cứu được Vương Khuông, quân Bố mới lui. Chư hầu ba xứ mỗi xứ mất ít nhiều người ngựa, lui ba mươi dặm, đóng trại. Quân năm xứ đi sau cũng dần dần kéo cả đến, họp lại bàn nhau, đều cho Lã Bố là anh hùng, không ai địch nổi.
Khi đang lo nghĩ thì có quân vào báo rằng Lã Bố đến khiêu chiến. Chư hầu tám xứ đều lên ngựa kéo ra cả, chia quân ra làm tám đội ở trên gò cao; trông ở đằng xa thấy một toán quân mã, cờ bay phấp phới; Lã Bố xông đến.
Bộ tướng của Trương Dương, thái thú Thượng Đẳng tên là Mục Thuận vác ngọn giáo tế ngựa ra đánh, bị Bố đâm một ngọn kích chết lăn từ trên ngựa xuống đất.
Thấy thế, một bộ tướng của Khổng Dung, tên là Vũ An Quốc, vác một cái dùi sắt, tế ngựa chạy ra, Lã Bố đến, đánh nhau được mười hiệp, Bố đưa một ngọn kích đánh gãy cánh tay An Quốc. An Quốc vứt dùi sắt chạy. Chư hầu tám xứ cùng đổ ra mới cứu được An Quốc. Lã Bố lui quân trở về, các chư hầu lại về trại bàn với nhau.
Tào Tháo nói:
- Lã Bố anh hùng, không địch được. Nay nên họp cả mười tám nước chư hầu để bàn nhau tìm kế gì đánh được nó. Hễ bắt sống được Lã Bố, thì giết Đổng Trác chẳng khó gì nữa!
Trong khi đang bàn bạc, Lã Bố lại kéo quân đến thách đánh. Công Tôn Toản vác ngọn giáo nhảy ra đánh Lã Bố, mới được vài hiệp, Toản thua chạy. Lã Bố thúc ngựa xích thố sấn lại đuổi, ngựa này chạy nhanh như bay. Bố gần đuổi kịp Toản thì ở bên rìa đường, bỗng có một tướng, mắt tròn trợn ngược, râu hùm vểnh lên vác một ngọn bát xà mâu, tế ngựa đến thét lên rằng:
- Thằng ở ba họ kia đừng chạy nữa! Có Trương Phi người đất Yên đây!
Lã Bố thấy thế bỏ Toản, đánh nhau với Trương Phi. Trương Phi hăng hái cố đánh Lã Bố. Hai người đánh nhau được hơn năm mươi hiệp chưa rõ bên nào thua bên nào được. Quan Công đứng ngoài thấy thế cũng múa thanh long đao nặng tám mươi hai cân đến cùng đánh. Ba con ngựa đứng dàn kiểu chữ đinh, đánh nhau được ba mươi hiệp nữa hai người cũng vẫn không hạ được Lã Bố. Lưu Bị bấy giờ cũng cầm đôi gươm tế ngựa chạy vào đánh giúp. Ba người vây tròn lấy Lã Bố đánh chẳng khác gì quân đèn cù. Binh mã tám xứ ngây mặt ra trông.
Lã Bố cố sức chống đỡ không nổi, bèn nhắm giữa mặt Lưu Bị phóng vờ một ngọn kích. Lưu Bị tránh được. Lã Bố mở góc của trận, cắp đao ngược kích, phi ngựa chạy về. Ba người thúc ngựa sấn vào; quân mã tám xứ đều reo ầm lên, xô cả ra đánh. Quan Lã Bố chạy về trên cửa Hổ Lao. Ba người theo sau đuổi mãi.
Cổ nhân, có người làm bài ca kể chuyện Lưu Bị, Quan, Trương đánh Lã Bố rằng:
Vận Hán đến Hoàn Linh suy thế,
Vầng thái dương đã xế về đoài.
Gian thần Đổng Trác ra oai,
Phế vua; Lưu Hiệp rụng rời thất kinh.
Hịch Tào Tháo truyền nhanh các trấn,
Chư hầu cùng nổi giận dấy binh.
Bản Sơ thủ lãnh đồng minh,
Thề nhau giúp Hán yên bình non sông.
Kia Lã Bố anh hùng ai sánh,
Khắp mọi người dũng mãnh nào bằng?
Áo ngoài giáp bạc sáng choang,
Đầu trên nhấp nhoáng mũ vàng ngù bông.
Mặt thú dữ trập trùng bảo đái,
Cánh phượng bay phấp phới cấm bào.
Vó câu gió chạy ào ào,
Kích hoa sáng quắc soi vào nước trong.
Ra cửa ải tranh hùng ai dám?
Các chư hầu thất đảm kinh hồn.
Trương Phi nhảy vọt ra liền,
Xà mâu một ngọn trận tiền gương uy;
Vểnh râu hổ gầm ghì thét mắng,
Xoe mắt tròn lóng lánh lân la.
Đánh nhau mê mải chưa tha,
Vân Trường nóng tiết nhảy ra xông vào.
Nhoáng màu tuyết, ngọn đao sắc nước,
Áo chiến bào quắc thước màu hoa.
Quỷ thần thét, tiếng ngựa ra,
Căm căm khí tức, mắt hoa đỏ ngầu.
Huyền Đức cũng giục mau ngựa nhảy.
Múa đôi gươm vùng vẫy ra oai.
Ba người vây bọc vòng ngoài;
Kẻ đâm người đỡ liền tay không rời.
Tiếng quát háo lay trời động đất,
Sát khí bay cao ngất mây xanh,
Ôn hầu thế núng nhìn quanh,
Quay đầu ngựa chạy về nhau núi nhà,
Cán họa kích đảo đà tếch trước,
Cờ ngũ hành xơ xác bướm bay.
Giật cương chạy rẽ đường mây,
Hổ Lao trại ấy tọt ngay vào thành.
Ba người đuổi Lã Bố đến dưới cửa quan, trông thấy trên cửa quan có tàn lọng che, gió bay phấp phới, Trương Phi kêu to rằng:
- Hẳn Đổng Trác ở đây rồi! Đuổi Lã Bố làm gì nữa, không bằng bắt thằng Đổng Trác mới thực là đào cây nhổ đến tận rễ.
Vừa nói vừa tế ngựa lên cửa quan để bắt Đổng Trác.
Thế mới thực là:
Bắt giặc nên tìm tên đầu sỏ
Kỳ công lại phải đợi người tài.
Chưa biết rồi chuyện ra làm sao, xem đến hồi sau mới rõ.
Chú thích: 
1. Báo tin thắng trận.
Hồi 6:
Đốt Kim Quyết, Đổng Trác làm càn
Giấu ngọc tỷ, Tôn Kiên trái ước
Trương Phi tế ngựa sấn vào cửa quan, nhưng tên và đá bắn xuống như mưa, không thể nào tiến vào được, phải quay ngựa trở về.
Chư hầu tám xứ cùng mời Lưu, Quan, Trương đến mừng công rồi sai người về trại Viên Thiệu báo tin mừng. Thiệu bèn đưa tờ hịch đến Tôn Kiên bảo Kiên tiến binh.
Tôn Kiên liền đem Hoàng Cái, Trình Phổ, đến trại Viên Thuật, rồi cầm gậy vạch xuống đất nói rằng:
- Đổng Trác với tôi thật không có thù hằn gì, nay tôi không nghĩ gì đến thân, xông pha mũi tên hòn đạn để trừ nó, trước vì nước nhà, sau để báo thù riêng cho nhà tướng quân (trỏ Viên Ngỗi), thế mà tướng quân nghe lời gièm pha, không phát lương cho tôi, để đến nỗi tôi bị thua, sao tướng quân đành lòng thế được?
Thuật thấy vậy, sợ hãi không biết nói sao, bèn sai đem chém người gièm pha để tạ lỗi Tôn Kiên. Khi ấy bỗng có người đến báo với Kiên rằng:
- Trên cửa ải có một tướng cưỡi ngựa đến trại, muốn vào hầu tướng quân.
Kiên từ giã Thuật về trại, gọi hỏi ai, hoá ra viên tướng yêu của Đổng Trác, tên là Lý Thôi.
Kiên hỏi:
- Mày lại đây làm gì?
Lý Thôi nói:
- Thừa tướng chỉ kính trọng tướng quân thôi! Nay thừa tướng muốn kết thân với tướng quân; thừa tướng có một cô con gái muốn gả cho con trai tướng quân.
Tôn Kiên nổi giận mắng rằng:
- Đổng Trác là thằng nghịch thiên vô đạo, làm xã tắc nghiêng đổ, ta muốn giết cả chín họ nó đi để tạ thiên hạ, sao lại thèm kết thân với nó! Tao tha chém cho mày, mày về mau đem dâng cửa ải cho tao. Mau mau lên! Chậm thì tao băm xương ra bây giờ!
Lý Thôi lủi thủi ra về, kể với Đổng Trác. Trác giận lắm, bèn hỏi Lý Nho.
Nho nói:
- Lã Ôn hầu thua trận mới rồi, quân sĩ ngã lòng cả, không có bụng đánh nhau nữa. Nay nên kéo quân về Lạc Dương, đem vua sang Trường An, để ứng vào lời đồng dao mấy hôm nay nói rằng:
Mé tây một nhà Hán
Mé đông một nhà Hán
Hươu chạy về Trường An
Mới khỏi phải gặp nạn.
“Mé tây một nhà Hán” nghĩa là: đức Cao tổ ngày xưa đóng đô ở Trường An, truyền ngôi được mười hai vua. “Mé đông một nhà Hán” nghĩa là: vua Quang Vũ đóng đô ở Lạc Dương, cũng truyền ngôi được mười hai vua. Thế là vận trời xoay vần. Nay thừa tướng lại lên thiên đô về Trường An, mới khỏi lo được.
Trác mừng nói rằng:
- Ngươi không nói thì ta không biết!
Trác bèn đem Lã Bố về Lạc Dương, rồi hội ngay các quan văn võ để bàn việc thiên đô.
Khi các quan đã đến đông, Trác nói rằng:
- Nhà Hán ta ở Lạc Dương, hơn hai trăm năm nay, khi số đã hết. Ta xem bây giờ vượng khí tụ ở Trường An. Vậy ta muốn rước vua về đó, các quan nên gấp rút sắm sửa hành trang.
Tư đồ là Dương Bưu nói rằng:
- Trường An bị tàn phá đã lâu rồi. Nay bỗng dưng ta bỏ cả tôn miếu, hoàng lăng mà đi sang đó, tôi sợ rằng thiên hạ kinh động, mà thiên hạ kinh động lên thì dễ, yên lại thì khó. Xin thừa tướng hãy xét cho kỹ.
Trác giận mắng Dương Bưu:
- Ngươi lại dám ngăn trở việc lớn nước nhà à?
Thái uý là Hoàng Uyển cũng nói rằng:
- Dương tư đồ nói thế phải đấy: Trước kia trong lúc Vương Mãng thoán nghịch, kế đến Canh Thuỷ, Xích Mi nổi loạn, Trường An bị đốt cháy thành ra tro sỏi. Vả lại nhân dân xiêu tán, trăm phần không còn một hai phần. Tôi nghĩ không nên bỏ cả cung điện mà đi ra chỗ đất hoang ấy.
Trác nói:
- Ở Lạc Dương đây trộm giặc nhiều lắm, nhân dân hoạn lạc, đi mất cả. Trường An có núi Hào, núi Hàm hiểm trở; lại gần Lũng Hữu, đá gỗ và gạch ngói dễ kiếm, sửa sang cung thất, độ hơn một tháng thì xong, không ai được nói lôi thôi nữa!
Tư đồ là Tuân Sảng lại can rằng:
- Thừa tướng thiên đô đi thì thiên hạ tất sẽ nhiễu động ngay.
Trác tức mình gắt rằng:
- Ta vì thiên hạ mà lo việc thiên đô, có sá gì những đứa tiểu dân!
Ngay hôm ấy Trác cách chức Dương Bưu, Hoàng Uyển, Tuân Sảng, giáng xuống làm thứ dân.
Trác trở ra lên xe, thấy có hai người đứng trước vái, trông ra thì là thượng thư Chu Bật và hiệu uý Ngũ Quỳnh. Trác hỏi có việc gì. Bật nói:
- Chúng tôi nghe thừa tướng muốn thiên đô, nên lại can ngăn.
Trác giận nói:
- Trước tao nghe hai chúng bay, dùng thằng Viên Thiệu cho nó làm quan, bây giờ nó làm phản. Thế ra nó với chúng bay cùng một đảng!
Nói rồi Trác sai võ sĩ đem Chu Bật, Ngũ Quỳnh ra cửa phủ chém, rồi hạ lệnh thiên đô, hạn đến ngày hôm sau phải đi.
Lý Nho xui Đổng Trác:
- Nay tiền lương thiếu thốn nhiều, ở Lạc Dương nhiều nhà giàu, ta nên tịch thu của cải, lấy phát lương cho quân. Phàm bao nhiêu môn hạ Viên Thiệu ngày trước, nên đem giết cả đi để lấy của, sẽ thu được vô số.
Trác lập tức sai năm nghìn quân thiết kỵ đi bắt cả những người giàu ở Lạc Dương, cả thảy mấy nghìn hộ, mỗi người cầm một lá cờ lên đầu, để bốn chữ “Phản thần nghịch đảng” rồi đem ra ngoài thành chém tuốt, bao nhiêu của cải lấy sạch.
Lý Thôi, Quách Dĩ bắt hết cả dân Lạc Dương, ước mấy trăm vạn, đưa sang Trường An, cứ mỗi một toán dân lại cho một đội quân đi đàn áp, người chết ở dọc đường không biết bao nhiêu mà kể. Lại cho quân sĩ đi hãm hiếp đàn bà con gái, cướp hết lương thực của dân, tiếng kêu khóc động trời chuyển đất. Người nào đi chậm, đằng sau có quân lính đốc thúc; quân lính cầm dao, giết người ngay ở giữa đường.
Lúc Trác ra đi, sai phóng hoả đốt cả cửa nhà dân chúng, và tôn miếu, cung phủ; Nam, Bắc hai cung, lửa khói mù mịt: bao nhiêu cung cấm hoá ra tro cả.
Trác lại sai Lã Bố khai quật hết cả những lăng tiên hoàng, hậu phi để lấy vàng bạc châu báu. Quân sĩ thấy vậy cũng thừa thế đào mả các nhà quan, nhà dân.
Đổng Trác sai xếp những đồ vàng bạc vóc nhiễu được vài nghìn xe, rồi bức thiên tử và hậu phi phải sang Trường An.
Tướng Đổng Trác tên là Triệu Xầm, thấy Trác đã bỏ Lạc Dương, bèn dâng ngay cửa Dĩ Thuỷ cho Tôn Kiên. Kiên kéo binh vào trước, Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi vào cửa Hổ Lao; chư hầu cũng dẫn quân vào cả.
Tôn Kiên đi đến Lạc Dương thấy trong thành lửa cháy ngùn ngụt, ngọn lửa bốc lên tận trời; dưới đất khói đen mù mịt; trong một quãng hai ba trăm dặm, tịnh không có tiếng gà kêu chó cắn. Đầu tiên Kiên sai quân vào dập lửa, đoạn ra lệnh cho chư hầu đến đóng quân mã ở trên bãi đất hoang. Tào Tháo đến, thấy Viên Thiệu cũng ở đấy, bèn hỏi rằng:
- Nay Đổng tặc đã kéo về Trường An rồi, ta nên thừa thế mà đuổi theo bắt nó mới phải, Bản Sơ lại đóng quân ở đây, là ý làm sao?
Thiệu nói:
- Chư hầu đều mỏi mệt cả, đuổi theo, tôi sợ không được việc gì.
Tháo nói:
- Thằng giặc Đổng Trác đốt cung thất, bức vua thiên đô: Trong nước rối động, dân không biết theo ai. Ấy là lúc trời hại nó đấy, nhân lúc này chỉ đánh một trận là yên thiên hạ, sao các ông không đánh?
Chư hầu đều nói:
- Ta không nên khinh động.
Tháo giận nói rằng:
- Đồ trẻ con cả, không đáng cùng mưu đồ việc lớn!
Nói rồi tự dẫn hơn một vạn quân, sai Hạ Hầu Đôn, Hạ Hầu Uyên, Tào Nhân, Tào Hồng, Lý Điển, Nhạc Tiến, luôn ngày đêm đuổi theo Đổng Trác.
Khi Đổng Trác đi đến Vinh Dương, thái thú là Từ Vinh ra tiếp.
Lý Nho nói:
- Thừa tướng mới đi khỏi Lạc Dương, tôi sợ có quân đuổi theo nên sai Từ Vinh phục quân ở bên cạnh núi ngoài thành; hễ có quân đuổi theo đi qua thì cứ để cho đi, đợi khi nào đi khỏi chỗ quân phục, trong này ta đánh trở ra, nó tất thua chạy, bấy giờ ông sẽ đánh chen đường, còn quân đi sau tất không dám đuổi nữa.
Trác nghe kế ấy, sai Lã Bố đem tinh binh đi chặn hậu. Bố đang đi bỗng có một toán quân Tào sấn đến. Bố cười nói rằng:
- Lý Nho đoán không nhầm!
Bố đem quân mã bày dàn, Tào Tháo tế ngựa gọi to:
- Nghịch tặc! Bay bức thiên tử và đem trăm họ đi đâu?
Lã Bố mắng rằng:
- Thằng phản chủ kia, sao dám nói càn?
Hạ Hầu Đôn vác giáo nhảy ngựa, xông thẳng vào để đâm Lã Bố. Đôn với Bố đánh nhau được vài hiệp. Lý Thôi dẫn một đội quân từ bên tả kéo ra. Tháo lại sai Hạ Hầu Uyên ra địch. Lúc bấy giờ lại thấy ở bên hữu có tiếng reo. Quách Dĩ kéo quân ra. Tháo sai Tào Nhân ra địch, nhưng đằng kia ba mặt quân mã đánh dồn lại, thế khó đương nổi. Hạ Hầu Đôn chống với Lã Bố không lại, phi ngựa chạy về. Bố thúc quân vào đánh gấp. Quân Tháo thua chạy kéo về Vinh Dương. Khi chạy đến dưới sườn núi, bấy giờ đã canh hai, trăng sáng như ban ngày. Tháo sắp sửa hội quân lại làm bếp thổi cơm ăn, bỗng nghe thấy bốn mặt tiếng reo ầm ầm, quân phục của Từ Vinh xông ra. Tào Tháo vội vàng tế ngựa cướp đường chạy trốn; không ngờ gặp ngay Từ Vinh, Tháo lại quay đầu chạy. Vinh giương cung bắn một phát tên trúng ngay vào vai Tháo. Tháo vừa đeo tên vừa chạy; chạy qua một rặng núi, có hai tên lính phục trong đám cỏ, trông thấy ngựa Tháo đi đến, hai ngọn giáo cùng phóng ra. May đâu một tướng vừa tế ngựa đến, múa dao chém chết hai tên lính, cứu được Tào Tháo.
Tháo trông xem ai thì là Tào Hồng. Tháo bảo Hồng rằng:
- Thôi! Ta đành chết ở đây, hiền đệ nên trốn đi mau.
Hồng nói rằng:
- Xin ông lên ngựa ngay. Tôi tình nguyện đi bộ.
Tháo hỏi:
- Giặc đuổi đến nơi, ngươi làm thế nào?
Hồng nói:
- Thiên hạ có thể không có tôi, nhưng không thể không có ông!
Tháo nói:
- Ta nếu lại được sống, thực là nhờ ngươi đó!
Tháo lên ngựa. Hồng cởi áo giáp, cắp dao chạy theo sau.
Chạy đến độ canh tư, chẹn mất đường đi. Đằng sau nghe thấy tiếng reo hò đã đến nơi. Tháo nói:
- Thôi! Mệnh ta đến thế này, sống sao được nữa!
Hồng kíp vực Tháo xuống ngựa, cởi áo bào ra, cõng Tháo lội qua sông. Vừa sang đến bờ sông bên kia, quân đuổi cũng vừa đến, tên bắn qua sông như mưa, Tháo cứ mặc cả quần áo ướt, lướt thướt mà chạy, chạy mãi đến mờ mờ sáng, được ba mươi dặm, đến một gò đất mới tạm ngồi nghỉ hơi một chốc.
Bỗng nghe có tiếng reo, một toán quân mã kéo lại, thì ra Từ Vinh cứ bên kia sông chạy theo lên mạn trên sang đò đuổi kịp.
Trong khi Tháo đương hoảng hốt. Hạ Hầu Đôn, Hạ Hầu Uyên vừa đem vài mươi quân kỵ đến, quát to lên rằng:
- Từ Vinh, chớ được hại chủ ta!
Vinh xông đến đánh Hạ Hầu Đôn. Đôn vác giáo đâm Vinh ngã xuống ngựa, rồi đánh tan quân Vinh. Đằng sau, Tào Nhân, Lý Điển, Nhạc Tiến cũng dần dần tìm đến, ra mắt Tào Tháo, nửa lo nửa mừng. Tháo thu thập tàn quân, còn độ năm trăm, kéo về Hà Nội. Tàn quân của Trác chạy về Trường An.
Đây nói ở Lạc Dương, các chư hầu chia quân đóng trại. Tôn Kiên dập tắt lửa trong cung, đóng quân trong thành, đặt trướng ngay trên nền đền Kiến Chương rồi sai quân quét dọn những gạch ngói ở các cung điện. Phàm những lăng tẩm mà Đổng Trác đã khai quật lên, Kiên sai chôn cất lại cả. Lại cất ba gian điện, lợp cỏ ở trên nền nhà Thái Miếu, đặt linh vị các vua, giết trâu mổ bò, mời các chư hầu đến tế. Tế xong rồi, các tướng ai về trại ấy.
Kiên về trại, đêm hôm ấy trăng sao vằng vặc, Kiên cầm thanh kiếm ra sân, ngẩng mặt lên xem thiên văn thấy trong toà tử vi có khí trắng lờ mờ. Kiên than rằng:
- Đế tinh không được tỏ, cho nên tặc thần loạn nước, muôn dân phải lầm than, kinh thành không còn gì nữa.
Vừa nói vừa rỏ nước mắt khóc.
Bên cạnh có tên lính trỏ tay bảo Kiên rằng:
- Kìa, ở phía nam điện này có hào quang năm sắc, từ dưới đáy giếng bốc lên.
Kiên liền sai quân sĩ đốt đuốc xuống giếng tìm xem. Một lát quân mò đem lên được một cái thây người đàn bà chết đã lâu ngày nhưng chưa nát; người này mặc theo lối của cung đình, dưới cổ có đeo một cái túi gấm; mở túi ra xem thấy có một cái hộp nhỏ son son, khoá vàng; mở ra thấy một cái ấn bằng ngọc, vuông bốn tấc, trên núm dấu chạm năm con rồng; bên cạnh có sứt một miếng phải lấy vàng bịt lại; mặt dấu khắc tám chữ triện:
“Phụ mệnh vu thiên, ký thọ vĩnh xương”[1], Kiên được ấn ngọc ấy, hỏi Trình Phổ. Phổ nói:
- Đấy là ngọc tỳ truyền quốc. Ngày xưa, Biện Hoà ở dưới núi Kinh Sơn trông thấy chim phượng hoàng đậu ở trên hòn đá, đem đá ấy về tiến vua Văn Vương nước Sở. Lúc phá đá ra trong có hòn ngọc. Đến đời nhà Tần, năm thứ hai mươi sáu (221 trước công nguyên) vua Tần sai thợ ngọc giũa ra làm ấn quốc bảo. Tám chữ triện viết ở trên mặt ấn là chữ Lý Tư. Năm thứ hai mươi tám Tần Thuỷ Hoàng đi tuần đến hồ Động Đình, gặp sóng to gió lớn, thuyền sắp đắm, vua vội vàng ném ngọc tỷ ấy xuống hồ mới không việc gì. Đến năm thứ ba mươi tám, Thuỷ Hoàng đi tuần đến núi Hoa Âm, đương đi gặp một người tay cầm ngọc tỷ đứng đón đường, đưa cho quân hầu nói rằng: “Đem cái này về trả Tổ Long[2]”. Nói xong rồi biến mất. Ấn ngọc ấy lại về nhà Tần. Đến năm sau, Thuỷ Hoàng mất. Tử Anh đem ngọc tỷ dâng vua Cao tổ nhà Hán. Đến lúc Vương Mãng khởi loạn, hoàng hậu, vua Hiếu Nguyên cầm ngọc ấy đánh Vương Tâm, Tô Hiến sứt mất một góc, phải lấy vàng bịt vào. Vua Quang Vũ được ấn ngọc ấy ở Nghi Dương, truyền đến bây giờ. Khi mười tên hoạn quan làm loạn, bức đem Thiếu Đế ra Bắc Mang, lúc về thấy mất ngọc tỷ. Nay tướng quân lại tìm được, tất là trời cho tướng quân đó. Điềm này là điềm báo tướng quân sẽ làm vua. Vậy tướng quân không nên ở lâu chốn này, mà nên về ngay Giang Đông để mưu toan việc lớn!
- Ngươi nói chính hợp ý ta. Ngày mai ta sẽ cáo bệnh về.
Bàn định xong, Kiên truyền quân sĩ không được nói hở cho ai biết. Không ngờ trong đám quân sĩ có một người cùng làng với Viên Thiệu, biết việc đó, muốn nhân dịp tiến thân, ngay đêm hôm ấy lẻn sang báo với Viên Thiệu.
Thiệu thưởng cho người ấy rồi giữ lại ở trong quân.
Hôm sau Tôn Kiên sang trại Viên Thiệu để cáo từ, nói rằng:
- Tôi hơi khó ở, xin phép về Trường Sa.
Thiệu cười nói rằng:
- Tôi đã biết bệnh ông rồi. Bệnh ấy là bệnh ngọc tỷ!
Kiên thất sắc, hỏi rằng:
- Ai nói với ông thế?
Thiệu nói:
- Nay chúng ta vì nước đánh giặc. Ngọc tỷ là của báu triều đình. Ông bắt được, nên ở chỗ minh chủ, đợi khi nào giết được Đổng Trác, thì đem trả lại nhà vua, nay ông giấu ấn ấy mà bỏ đi, định làm gì?
Kiên cứ chối:
- Ngọc tỷ làm gì có ở tôi?
Thiệu nói:
- Cái gì bắt được ở dưới giếng đền Kiến Chương, bây giờ đâu?
Kiên nói:
- Tôi không có của ấy. Cưỡng bức nhau làm gì thế?
Thiệu nói:
- Mau mau bỏ ra đây, kẻo vạ đến thân bây giờ?
Kiên trỏ tay lên trời thề rằng:
- Tôi được của ấy mà giấu đi, thì sẽ chết dưới mũi tên hòn đạn.
Các tướng đều nói rằng:
- Văn Đài đã thề như thế, chắc là không bắt được ngọc tỷ.
Thiệu gọi người làm chứng ra, hỏi Tôn Kiên rằng:
- Lúc mò được ngọc, có người này ở đấy không?
Kiên giận lắm, rút ngay gươm ra, định chém người ấy. Thiệu cũng rút gươm ra bảo rằng:
- Hễ mày chém nó thì đúng là mày dối tao.
Nhan Lương, Văn Sú đứng sau lưng Viên Thiệu, cũng rút gươm ra. Sau lưng Tôn Kiên, Trình Phổ, Hoàng Cái, Hàn Đương cũng cầm dao lăm lăm ở tay. Các tướng đều xúm lại can đôi bên. Kiên lập tức trở ra, lên ngựa về phổ trại, bỏ Lạc Dương đi.
Thiệu giận lắm, liền viết một lá thư, sai người tâm phúc ngay đêm hôm ấy đem sang Linh Châu, đưa cho quan thứ sử là Lưu Biểu, sai Biểu chẹn đường Kiên, lấy lại ngọc tỷ.
Hôm sau có người báo rằng:
- Tào Tháo đuổi Đổng Trác, đánh nhau ở Linh Dương thua to trở về.
Thiệu bèn sai người đón Tháo vào trại, mở tiệc rượu cùng với Tháo giải phiền. Trong khi uống rượu, Tào Tháo than rằng:
- Ta trước kia khởi nghĩa lớn, cốt là muốn vì nước trừ hại. Các ông đã có bụng trượng nghĩa mà đến với tôi, ý tôi muốn phiền Bản Sơ đem quân Hà Nội sang đóng ở Mạch Tân; còn các quân Toan, Táo cứ giữ vững Thành Cao, giữ cửa ải Ngao Thương, ngăn Hoàn Viên, Đại Cốc, khống chế những nơi hiểm yếu. Còn Công Lộ đem quân Nam Dương sang đóng ở Đan Triết, tiến vào cửa Vũ Quan, để cho cái uy thế ở Tam Phụ[3] to lên. Nơi nào cũng thành cao, hào sâu, không đánh nhau, chỉ giữ làm nghi binh, để cho thiên hạ trông rõ hình thế, cho ta là kẻ thuận đi trừ kẻ gian, thì việc lớn có thể định ngay được. Thế mà các ông dùng dằng mãi chẳng tiến quân, làm mất cả lòng mong đợi của thiên hạ, tôi lấy làm xấu hổ quá!
Lũ Thiệu không ai nói câu gì. Một chốc tiệc tan.
Tháo thấy lũ Thiệu mỗi người một bụng, nghĩ cũng không làm được việc lớn, bèn tự kéo quân về Dương Châu.
Công Tôn Toản thấy tình cảnh thế, cũng chán. Một bữa, Toản bảo với Lưu, Quan, Trương:
- Tôi xem Viên Thiệu không làm nên được trò trống gì đâu. Ở lâu tất sinh biến. Chi bằng chúng ta hãy về.
Bèn nhổ trại về phía bắc. Đi đến huyện Bình Nguyên, Toản sai Lưu Bị làm tướng ở đó, giữ lấy đất, nuôi lấy quân.
Thái thú Duyện Châu Lưu Đại, thiếu lương hỏi vay thái thú Đông Quận là Kiều Mạo. Mạo không cho vay, Đại đem quân xông vào dinh Mạo, giết Mạo đi rồi thu phục quân sĩ và thu hết quân lương.
Viên Thiệu thấy chư hầu mỗi người đi một ngả, cũng rời Lạc Dương kéo quân về Quan Đông.
Thứ sử kinh Châu là Lưu Biểu, bắt được thư của Viên Thiệu xin đem quân chẹn đường Tôn Kiên, liền sai ngay Khoái Việt và Sái Mạo dẫn một vạn quân ra đón đường đánh Kiên.
Lưu Biểu, tên chữ là Cảnh Thăng, quê ở Cao Bình, đất Sơn Dương, cũng là tôn thân nhà Hán. Lúc còn nhỏ Biểu kết bạn với bảy danh sĩ, bấy giờ người ta gọi là “Giang Hạ bát tuấn”. Trong tám người ấy thì một người là Lưu Biểu, còn bảy người nữa là: 
1) Trần Tường; 
2) Phạm Phang; 
3) Khổng Giực; 
4) Phạm Khang; 
5) Đàn Phu; 
6) Trương Kiệm; 
7) Sầm Hinh.
Biểu cùng với bảy người ấy kết làm bạn, nhưng ngoài ra còn có mấy người phù tá. Một là Khoái Lương, người ở Diên Bình, hai là Khoái Việt cũng người Diên Bình, ba là Sái Mạo người ở Tương Dương.
Khoái Việt, Sái Mạo dẫn một vạn quân ra chẹn đường. Tôn Kiên vừa đến đó, Khoái Việt bày trận rồi nhảy ngựa ra.
Kiên thấy Việt, hỏi rằng:
- Khoái Việt cớ sao chẹn đường ta?
Việt nói:
- Ngươi đã làm tôi nhà Hán, sao được giấu ngọc tỷ truyền quốc? Đưa ngay ra đây, ta sẽ cho đi…
Kiên tức lắm, sai ngay Hoàng Cái ra đánh. Sái Mạo múa dao lại địch. Được vài hiệp, Cái hoa ngọn roi, đánh trúng ngay miếng kính che ngực Mạo. Mạo quay đầu ngựa chạy. Kiên thừa thế đuổi đánh khỏi cửa ô. Lúc bấy giờ, ở trong núi bỗng thấy chiêng trống khua rầm lên. Thì ra Lưu Biểu vừa dẫn quân đến. Kiên ngồi trên ngựa chào hỏi tử tế, rồi nói với Lưu Biểu rằng:
- Ta với Cảnh Thăng là láng giềng với nhau. Sao Cảnh Thăng lại nỡ tin lời Viên Thiệu và xử tệ với ta vậy?
Biểu nói:
- Nhà ngươi giấu quốc bảo, muốn làm phản à?
Kiên lại thề:
- Ta mà có của ấy ở trong mình, xin chết ở dưới mũi tên viên đạn.
Biểu nói:
- Muốn cho ta tin, nhà ngươi phải để cho ta khám cả đồ hành lý.
Kiên nổi khùng, mắng Lưu Biểu rằng:
- Tài sức mày thấm vào đâu, mà dám khinh tao!
Hai bên sắp sửa giao binh đánh nhau, Lưu Biểu lui ngay. Kiên thấy vậy thả ngựa sấn lại. Bấy giờ quân phục ở sau hai rặng núi kéo ồ ra; sau lưng Khoái Việt, Sái Mạo ập lại, vây bọc lấy Tôn Kiên ở giữa trận.
Thế rõ thực là:
Ngọc tỷ đem về không dùng được
Lại vì của ấy động binh đao.
Chưa biết Tôn Kiên làm thế nào mà thoát được, xem hồi sau sẽ rõ.
Chú thích: 
1. Chịu mệnh của trời, sống lâu và thịnh vượng mãi.
2. Tức là Tần Thủy Hoàng.
3. Kinh Chiêu (Kinh Đô), Bằng Dực, Phù Phong, ba nơi giúp đỡ lẫn nhau.
La Quán Trung
Người dịch: Hồng Việt
Theo https://www.sachhayonline.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Tưởng chừng như

Tưởng chừng như (Nói với Gaston,  15.Dec.2013-15.Dec.2020) Đập cổ kính ra tìm lấy bóng Xếp tàn y lại để dành hơi (Khóc Bằng Phi, Vua Tự Đứ...