Thứ Năm, 2 tháng 4, 2020

Tam quốc chí diễn nghĩa 2

Tam quốc chí diễn nghĩa 2
Hồi 7:
Viên Thiệu qua cầu đánh Công Tôn
Tôn Kiên sang sông đả Lưu Biểu
Tôn Kiên bị Lưu Biểu vây lại, đã tưởng chết, may đâu lại có Trình Phổ, Hoàng Cái, Hàn Đương, ba tướng cố sức cứu được thoát nạn, nhưng quân sĩ mất già nửa. Kiên kéo quân về Giang Đông, từ đấy Kiên với Biểu thù nhau.
Đây nói chuyện Viên Thiệu kéo quân về đóng ở Hà Nội, lương thảo túng thiếu. Quan mục Ký Châu là Hán Phức thấy vậy sai người đưa lương đến giúp để nuôi quân.
Mưu sĩ Thiệu tên là Phùng Kỷ bảo với Thiệu rằng:
- Đại trượng phu tung hoành thiên hạ, cần chi phải đợi người giúp lương. Ký Châu là đất giàu, lắm lương tướng quân lấy quách đi có được không?
Thiệu nói:
- Ta cũng muốn lắm, nhưng chưa nghĩ được kế gì.
Kỷ nói:
- Nay tướng quân lên mặt sai người đưa thư cho Công Tôn Toản, bảo y tiến binh lấy Ký Châu, tướng quân hẹn với Toản rằng hai bên cùng đánh. Toản tất thể nào cũng tiến binh. Hàn Phức là đức vô mưu, tất sẽ mời tướng quân đến coi đỡ việc châu. Tướng quân thừa dịp ấy mà lấy Ký Châu thì việc dễ như trở bàn tay.
Thiệu mừng lắm, viết ngay thư cho Công Tôn Toản.
Toản xem thấy thư Viên Thiệu bàn cùng đánh lấy Ký Châu rồi chia đôi đất, mừng lắm. Ngay hôm ấy Toản khởi binh.
Thiệu sai người mật báo cho Hàn Phức biết.
Phức bèn gọi hai mưu sĩ tên là Tuân Thầm và Tân Bình để bàn. Thầm nói:
- Công Tôn Toản đem quân nước Yên, nước Đại kéo lại đông lắm, thế mình không đương nổi. Vả Toản có Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi giúp đỡ, ta địch sao được? Nay Viên Thiệu trí dũng hơn người, thủ hạ nhiều, danh tướng lắm, tướng quân nên mời Viên Thiệu lại để cùng coi việc châu. Tôi chắc Thiệu sẽ hậu đãi, tướng quân sợ gì Công Tôn Toản nữa.
Phức liền sai biệt giả tên là Quan Thuần sang mời Viên Thiệu.
Trưởng sử là Cảnh Vũ can rằng:
- Viên Thiệu bây giờ đương thân cô, thế cùng, chỉ trông nhờ vào ta, ví như đứa trẻ con ở trên bàn tay không cho bú mớm thì chết ngay, nay lại đem châu quận của mình mà trao cho nó, thì có khác gì đưa con cọp vào giữa đàn dê!
Phức nói:
- Ta cũng là đầy tớ cũ họ Viên, tài ta lại kém Thiệu. Người ngày xưa từng chọn người hiền để nhường ngôi, sao các ngươi bây giờ hay ghen ghét thế?
Cảnh Vũ than rằng:
- Ký Châu hỏng mất!
Vì việc đó có hơn ba mươi người bỏ chức mà đi. Cảnh Vũ với Quan Thuần, hai người rủ nhau ra phục ở ngoài cửa thành để đợi Viên Thiệu đến.
Sau vài hôm, Viên Thiệu kéo quân lại. Cảnh Vũ, Quan Thuần rút dao, nhảy ra chực đâm Viên Thiệu. Tướng Thiệu là Nhan Lương chém chết Cảnh Vũ; Văn Sú chém chết Quan Thuần.
Thiệu vào Ký Châu, cho Phức làm phấn uy tướng quân, rồi cho Điền Phong, Thư Thụ, Hứa Du và Phùng Kỷ chia tay nhau ra giữ việc trong châu, đoạt cả quyền của Hàn Phức.
Phức bấy giờ hối cũng không kịp nữa bực mình bỏ cả nhà cửa vợ con, sang với thái thú Trần Lưu là Trương Mạc.
Công Tôn Toản thấy Thiệu được Ký Châu, liền sai em là Công Tôn Việt đến thăm Thiệu và giục Thiệu chia đất theo như lời đã ước với nhau.
Thiệu bảo Việt:
- Về mời anh ngươi lại đây, ta sẽ nói chuyện.
Việt về, đi chưa được năm mươi dặm, bỗng gặp một cánh quân mã ở cạnh đường xông ra, nói rằng:
- Ta là gia tướng của Đổng thừa tướng đây!
Rồi tên bắn ra tua tủa. Việt bị thương chết. Thủ hạ trốn được về báo với Công Tôn Toản.
Toản tức lắm, nói rằng:
- Viên Thiệu nhủ ta đem binh đến đánh Hàn Phức, chẳng qua là dụng mưu lừa dối ta. Nay lại giả trá là quân Đổng Trác để giết em ta, thù này thế nào ta cũng phải báo!
Nói rồi đem hết cả quân bản hậu kéo sang Ký Châu.
Thiệu thấy Toản kéo quân đến cũng dẫn quân ra. Hai bên gặp nhau ở trên sông Bản Hà. Thiệu dàn quân bên đông cầu, Toản dàn quân bên tây cầu.
Toản cưỡi ngựa đứng trên cầu, mắng to lên rằng:
- Thằng bội nghĩa kia! Sao mày dám lừa tao?
Thiệu cũng thúc ngựa đến cạnh cầu, trỏ tay vào Toản nói rằng:
- Hàn Phức hèn hạ, tự xin nhường Ký Châu cho tao, có việc gì đến mày?
Toản lại nói:
- Ngày trước tao tưởng mày là đứa có nhân nghĩa, bầu mày làm minh chủ. Bây giờ, xem những điều mày làm có khác gì chó má. Mày còn mặt mũi nào đứng trên cõi đời nữa?
Viên Thiệu giận lắm, thét rằng:
- Ai vào lôi cổ nó ra đây cho ta?
Thiệu nói chưa dứt lời thì Văn Sú vác giáo, thúc ngựa xông thẳng lên cầu. Toản đánh nhau với Sú chưa được mười hiệp, thua chạy. Sú đuổi theo. Toản chạy vào trong trận. Sú cũng phi ngựa xông vào giữa đám quân. Thủ hạ Toản có bốn tướng giỏi, kéo ùa cả ra đánh với Văn Sú, Sú đâm trúng một người ngã ngựa, còn ba người kia đều chạy. Sú đuổi Toản chạy ra đằng sau trận, Toản nhìn vào một cái hang núi toan chạy trốn vào đó. Sú thúc ngựa quát lên rằng:
- Mau xuống ngựa hàng đi!
Toản cung tên rơi mất cả, mũ lăn xuống đất, đầu tóc tả tơi, phi ngựa chạy quanh rặng núi. Chẳng may ngựa vấp quỵ hai chân trước. Toản cũng ngã quay xuống dưới bờ núi. Sú cầm ngọn giáo, xô lại để đâm. Bỗng đâu bên cạnh bờ có một tướng, người trẻ trung vác ngọn giáo phi ngựa ra đâm Văn Sú.
Công Tôn Toản lẻn trèo lên sườn núi, trông thấy tướng ấy mình cao tám thước, mày rậm, mắt to, mặt rộng, má bầu, uy phong lẫm liệt. Hai người đánh nhau năm sáu mươi hiệp, chưa rõ bên nào thua bên nào được. Quân cứu của Toản kéo đến. Sú quay ngựa lui về, tướng trẻ tuổi ấy cũng không đuổi theo.
Toản vội vàng xuống ngựa hỏi tên họ, tướng ấy vái một vái thưa rằng:
- Tôi là người ở Chân Định, xứ Thường Sơn, họ Triệu tên Vân, tên chữ là Tử Long. Nguyên tôi là người ở địa hạt Viên Thiệu, nhân thấy Thiệu không có bụng trung vua cứu dân, nên tôi bỏ xứ ấy đến đây theo ngài. Không ngờ lại gặp ngài ở chỗ này!
Toản mừng lắm mời Triệu Vân về trại, sửa sang lại áo giáp và đồ khí giới.
Hôm sau, Toản chia quân mã ra làm hai cánh, ngựa có hơn năm nghìn con, quá nửa toàn ngựa trắng. Vì khi xưa Toản đánh nhau với người rợ Khương, chọn tuyển ngựa trắng làm tiên phong, gọi là Bạch Mã tướng quân. Người rợ Khương trông thấy ngựa trắng là chạy. Từ đó Toản có rất nhiều ngựa trắng.
Thiệu sai Nhan Lương, Văn Sú làm tiên phong, mỗi người đem một nghìn quân cung nỏ cũng chia làm hai cánh tả hữu: Truyền lệnh cho cánh quân tả bắn hữu quân của Toản, cánh quân hữu bắn tả quân của Toản. Lại sai Khúc Nghĩa đem tám trăm tay cung, một vạn rưỡi quân bộ dàn ở giữa trận. Viên Thiệu đem quân mã, bộ vài vạn, đi sau để tiếp ứng.
Công Tôn Toản mới được Triệu Tử Long, chưa biết bụng dạ thế nào, sai lĩnh riêng một toán quân đi mặt sau, chức tiên phong giao cho đại tướng Nghiêm Cương. Toản tự lĩnh cánh trung quân, cưỡi ngựa đứng trên cầu, bên mình dựng một lá cờ đỏ thêu một chữ Suý bằng kim tuyến. Từ giờ thìn, đánh trống đến mãi giờ tỵ không thấy Viên Thiệu tiến binh.
Khúc Nghĩa sai những tay cung phục cả ở dưới mộc, hẹn đến lúc nào thấy có một tiếng súng lệnh mới được bắn tên ra.
Nghiêm Cương đánh trống, reo hò tiến lên, xông thẳng vào đánh Khúc Nghĩa. Quân Nghĩa thấy Cương vào cũng mặc, cứ để cho vào. Khi Cương đến gần, sát quân Nghĩa, mới có một tiếng pháo vang lên, tám trăm cung nỏ cùng bắn ra một lúc. Cương định chạy trở về, Nghĩa đã tế ngựa đến chém Cương chết lăn quay xuống chân ngựa.
Quân Toản thua. Hai bên tả hữu đổ ra để cứu, lại bị Nhan Lương, Văn Sú dẫn quân cung nỏ bắn sang, nên không thể nào cứu lại được nữa.
Quân Thiệu bấy giờ mới tiến lên, đến mãi cạnh cầu. Khúc Nghĩa phi ngựa lên trước, chém ngay tướng cầm cờ của Toản, chặt ngọn cờ gãy đôi rơi xuống đất.
Toản thấy cờ đổ, vội vàng quay ngựa xuống cầu chạy. Khúc Nghĩa đem binh xông vào đến tận hậu binh của Toản; gặp Triệu Tử Long. Tử Long cầm ngọn giáo xông vào đánh Khúc Nghĩa, đánh có vài ba hiệp, đâm Khúc Nghĩa chết ngay.
Tử Long cưỡi một con ngựa, phi vào đám quân Viên Thiệu, xông xáo như đi vào chỗ không người. Toản kéo quân đánh lại. Quân Thiệu lại thua.
Giữa lúc Khúc Nghĩa chém được tướng cầm cờ của Toản, Viên Thiệu sai quân thám mã ra xem, quân thám về báo rằng Nghĩa chém được tướng, chặt được cờ, đương đuổi Toản. Vì thế Thiệu không chuẩn bị gì cả, cùng với Điền Phong dẫn vài trăm quân vác kích, vài mươi tay cung, cưỡi ngựa ra xem, cười ha hả, cho Toản là hạng hèn hạ chẳng làm trò gì được. Trong khi Thiệu đang cười, nói nói, bỗng thấy Triệu Tử Long xông đến tận trước mặt. Những tay cung vội vàng bắn, Triệu Tử Long đâm luôn mấy đứa, chúng khiếp sợ bỏ chạy cả. Đằng sau thì quân Toản cuồn cuộn tiến lên vây Thiệu lại.
Điền Phong vội vàng bảo Thiệu rằng:
- Chúa công nên lánh vào trong bức tường kia.
Thiệu liền cầm mũ đầu mâu quăng xuống đất quát to lên rằng:
- Đại trượng phu muốn chết ở chiến trường, chứ lại núp vào tường cầu sống làm gì!
Quân Viên Thiệu liền cố sức liều chết mà chống cự, Triệu Vân không thể xông vào được nữa. Lúc ấy đại quân của Thiệu vừa kéo đến kịp; Triệu Vân bảo vệ Công Tôn Toản, đánh ra được khỏi vòng vây. Lúc về, đến đầu cầu bên này, quân Thiệu lại tiến lên, sang qua cầu. Quân Toản sa xuống sông chết rất nhiều.
Viên Thiệu xông thẳng lên trước, chưa được năm dặm, đã nghe thấy mé sau núi có tiếng hò reo, một toán quân mã kéo ra. Ba tướng đi trước là Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi. Ba anh em đang ở Bình Nguyên nghe thấy Toản đánh nhau với Thiệu, đem quân đánh giúp.
Ba người vừa đến nơi gặp Thiệu đương đuổi Toản liền tế ngựa chạy lại cứu. Thiệu trông thấy ba người hồn vía lên mây cả, con dao quý đang cầm trong tay rơi ngay xuống đất, chỉ vừa kịp thúc ngựa quay đầu chạy. Nhờ quân mã cố sức cứu, Thiệu mới về được khỏi cầu.
Công Tôn Toản cũng thu quân về trại, Lưu, Quan, Trương vào chào, cùng nhau hỏi han trò chuyện.
Toản nói:
- Giá Huyền Đức không đến cứu ta, ta còn bị khốn đốn nhiều.
Rồi Toản bảo ba người vào gặp Triệu Tử Long. Lưu Bị mới thấy Triệu Vân, đã có bụng yêu mến ngay, không muốn rời xa nữa.
Viên Thiệu thua một trận, bèn giữ trại, không ra đánh. Hai bên cầm cự nhau hơn một tháng. Có người về Trường An bảo với Đổng Trác. Lý Nho nói với Trác rằng:
- Viên Thiệu với Công Tôn Toản đều là hào kiệt bây giờ; nay hiện đương đánh nhau ở trên sông Bàn Hà. Thái sư nên giả chiếu của vua sai người ra giải hoà. Hai người ấy hoà thuận với nhau, tất cảm ơn và quy phục thái sư.
Trác nghe Lý Nho. Ngay hôm sau, sai thái phó là Mã Nhật Đê và thái bộc là Triệu Kỳ, đem chiếu mệnh đi dụ hai người.
Hai sứ đi đến Hà Bắc, Viên Thiệu ra ngoài một trăm dặm đón rước, lạy hai lạy, vâng lệnh chiếu dụ.
Hôm sau Mã Nhật Đê và Triệu Kỳ lại đến dinh Công Tôn Toản để dụ. Toản cũng vâng chiếu, liền sai sứ đưa thư sang cho Thiệu. Hai bên giảng hòa, Mã, Triệu về Trường An.
Toản lập tức rút quân về, rồi tiến cử Huyền Đức làm tướng ở Bình Nguyên.
Lưu Bị khi từ giã Triệu Tử Long, hai người cầm tay nhau rỏ nước mắt khóc, ngần ngừ không muốn xa nhau.
Vân than rằng:
- Trước kia tôi cũng nghĩ Công Tôn Toản là người anh hùng. Nay xem việc làm, thì bất quá cũng là một tuồng Viên Thiệu mà thôi!
Lưu Bị nói:
- Thôi, xin ông hãy chịu khó náu thân ở đây. Hai chúng ta thế nào cũng có ngày gặp nhau!…
Hai người buông nhau ra, nước mắt chứa chan. Lại nói đến Viên Thuật ở Nam Dương nghe tin Viên Thiệu mới được Ký Châu, sai sứ lại xin một nghìn ngựa, Thiệu không cho. Thuật giận. Từ đó hai anh em ghét nhau, Thuật lại sai sứ đến Kinh Châu hỏi vay Lưu Biểu hai vạn tạ lương. Biểu cũng không cho vay. Thuật cũng giận, sai người đưa mật đưa thư cho Tôn Kiên xui Kiên đánh Lưu Biểu.
Thư rằng:
“Trước kia Lưu Biểu chẹn đường ông, là do mưu kế của anh tôi Bản Sơ cả. Nay tôi lại thấy anh tôi bàn riêng với Lưu Biểu muốn nuốt cả Giang Đông. Ông nên chong chóng khởi binh đánh Lưu Biểu đi. Tôi thì xin đánh Bản Sơ hộ ông. Có thế thì hai mối thù mới báo được. Ông lấy Kinh Châu; tôi lấy Ký Châu. Ông đừng để mất cơ hội”.
Kiên được thư nói rằng:
- Lưu Biểu chẹn trước đường ta, nay không nhân dịp nào báo thù, còn đợi đến bao giờ?
Bèn họp các tướng Trình Phổ, Hoàng Cái, Hàn Đương để bàn. Phổ nói:
- Viên Thuật là người trí khá lắm, không nên tin vội.
Kiên nói:
- Ta muốn đánh báo thù, cần gì Viên Thuật giúp
Rồi sai Hoàng Cái đến bên sông trước, sắp sẵn chiến thuyền và chở nhiều quân lương khí giới, thuyền lớn thì chứa ngựa chiến để một ngày nào đó sẽ cất quân.
Quân do thám dò biết tình hình, về báo với Lưu Biểu, Biểu sợ lắm, kíp họp các tướng lại bàn.
Khoái Lương nói:
- Lo gì việc này, Chúa công nên sai Hoàng Tổ lĩnh quân ở Giang Hạ đi trước, làm tiền khu. Chúa công đem quân Kinh Tương đi sau này làm hậu viện. Tôn Kiên còn phải qua nhiều sông mới đến đây, còn dụng võ làm sao được?
Biểu cho là phải, sai Hoàng Tổ thu xếp sẵn sàng, rồi đưa đại quân ra nghênh địch.
Lại nói đến Tôn Kiên có bốn con, đều là con vợ cả là Ngô phu nhân. Con cả tên là Sách, tự là Bá Phù; con thứ hai tên là Quyền, tự là Trọng Mưu; con thứ ba tên là Dực, tự là Thúc Bật; con thứ tư tên là Khuông, tự là Quý Tá.
Vợ thứ hai Kiên, là em ruột vợ cả, đẻ được hai con, một trai một gái. Con trai tên là Lang, tự là Tảo An, con gái tên là Nhân.
Kiên lại nuôi một người con họ Du làm con nuôi, tên là Thiều, tự là Công Lễ.
Kiên có một người em, tên là Tĩnh, tự là Ấu Đài.
Khi Kiên sắp đi, Tôn Tĩnh dắt cả các con, sắp hàng ở trước ngựa, lạy mà can rằng:
- Nay Đổng Trác chuyên quyền, thiên tử hèn yếu, bốn bể loạn lạc, mỗi người giữ một phương. Giang Đông ta vừa mới yên được ít lâu, nay chỉ vì một chút giận nhỏ, mà anh mang đại quân đi, tôi tưởng không nên. Xin anh nghĩ lại.
Kiên nói:
- Chú đừng nói nhiều. Ý tôi muốn tung hoành trong thiên hạ, nay có thù lẽ nào lại không báo?
Con cả là Tôn Sách nói:
- Nếu cha đã quyết, con xin đi theo!
Kiên cho đi, rồi hai bố con kéo quân đến Phàn Thành.
Hoàng Tổ phục cung nỏ ở bên sông, thấy thuyền Kiên gần đến bờ, bắn tên ra như mưa. Kiên truyền quân sĩ không ai được bắn vội, hãy cứ nấp ở trong thuyền, chở đi chở lại dụ địch luôn ba hôm, thuyền cứ lượn vào bờ đến vài mươi lượt. Quân Hoàng Tổ thi nhau bắn ròng rã, đến hết sạch tên. Đến hôm thứ tư, Kiên sai quân ra rút những tên giắt đầy cả hai mạn thuyền, ước được vài mươi vạn rồi nhân lúc thuận gió, bắn cả vào bờ. Quân Hoàng Tổ chống đỡ không nổi, phải bỏ chạy.
Kiên kéo quân lên bờ, Trình Phổ, Hoàng Cái chia binh ra làm hai đường, đến đánh trại Hoàng Tổ. Đằng sau thì Hàn Đương kéo quân tiến lên. Ba mặt đánh dồn lại, quân Hoàng Tổ thua, bỏ Phàn Thành chạy về Đặng Thành.
Kiên sai Hoàng Cái ở lại giữ lấy thuyền bè còn mình thì đem quân đuổi theo.
Hoàng Tổ đem quân nghênh địch, bầy trận ở giữa cánh đồng, Kiên cũng dàn thành thế trận, rồi cưỡi ngựa ra đứng dưới cửa cờ. Tôn Sách mặc áo giáp gọn ghẽ, cầm mác, cưỡi ngựa đứng bên cạnh bố.
Hoàng Tổ dẫn hai tướng cưỡi ngựa ra, một tướng là Trương Hổ ở Giang Hạ, một tướng là Trần Sinh ở Tương Dương. Hoàng Tổ trỏ roi mắng:
- Đàn chuột ở Giang Đông kia! Sao dám xâm phạm vào đất của tôn thân nhà Hán?
Nói rồi sai Trương Hổ ra đánh.
Bên quân của Kiên, Hàn Đương nhảy ra nghênh địch. Hai bên đánh nhau chưa được ba mươi hiệp, Trần Sinh thấy Trương Hổ đuối sức cũng phi ngựa ra đánh giúp. Tôn Sách trông thấy, cắp chặt ngọn mác ở nách, giương cung đặt tên bắn tin ngay vào giữa mặt Trần Sinh. Sau tiếng dây cung bật, Trần Sinh ngã ngựa ngay. Trương Hổ thấy thế, giật nảy mình, bị ngay Hàn Đương giơ dao chém một nhát. Hổ đỡ không kịp bị Đương chém mất nửa đầu.
Trình Phổ xông ngựa vào trận để bắt Hoàng Tổ. Tổ bỏ cả mũ lẫn ngựa, chạy vào đám bộ quân để lẩn trốn.
Tôn Kiên đánh tràn cánh bại quân, đuổi thẳng mãi đến sông Hán Thuỷ, sai Hoàng Cái đem thuyền tiến lên đóng ở Hán Giang.
Hoàng Tổ thu quân vào ra mắt Lưu Biểu, nói rằng:
- Thế Tôn Kiên to quá, không sao địch được!
Biểu vội gọi Khoái Lương ra bàn.
Lương nói:
- Nay ta mới thua, binh lính ngã lòng cả. Bây giờ chỉ nên thành cao hào sâu, giữ cho vững vàng, rồi mật sai người sang cầu cứu Viên Thiệu, mới có thể giải vây được.
Sái Mạo nói:
- Tử Nhu bàn mưu ấy thực vụng. Nay quân địch tới ngoài thành, tướng địch đã đến bên hào, lẽ nào ta lại ngồi khoanh tay chịu chết! Tôi tuy không có tài cán gì, nhưng cũng dám xin lĩnh quân ra ngoài thành quyết chiến một trận.
Lưu Biểu nghe lời, cho Sái Mạo đem hơn một vạn quân ra ngoài thành Tương Dương, dàn trận ở dưới núi Nghiễn Sơn.
Tôn Kiên đem quân vừa thắng trận, kéo bừa lên đánh Sái Mạo. Mạo thúc ngựa ra. Kiên thấy Mạo liền hô:
- Thằng này là anh vợ bé Lưu Biểu đây, ai ra bắt lấy nó cho ta!
Trình Phổ vác ngay ngọn mâu chuôi sắt, tế ngựa ra đánh. Mới đánh nhau được vài hiệp. Mạo đã thua chạy. Kiên thúc quân vào giết chết vô số quân Mạo, thây người ngổn ngang khắp cả cánh đồng. Mạo trốn về Tương Dương. Khoái Lương thấy Mạo thua chạy về liền nói rằng:
- Tôi đã bày một kế hay, Mạo không nghe, cứ ra đánh để đến nỗi thua to. Nay nên chiếu quân pháp mà đem chém!
Lưu Biểu vừa lấy em gái Sái Mạo, không nỡ chém.
Tôn Kiên chia ra bốn mặt, vây thành Tương Dương để đánh.
Một hôm, bỗng một cơn gió nổi lên giật đổ lá cờ “Suý” ở trung quân. Hàn Đương nói:
- Điềm này là điềm gở, xin hãy rút quân về.
Kiên nói:
- Ta đánh trận nào được trận nấy, chỉ sớm tối hôm nay thì lấy được Tương Dương, sao lại vì một việc gió thổi gãy cờ mà bãi binh?
Kiên không nghe lời Hàn Đương, càng thúc quân đánh riết.
Khoái Lương một hôm xem thiên văn, bảo Lưu Biểu:
- Tôi trông thiên văn, thấy một ngôi tướng tinh chừng muốn sa, cứ chia phương hướng mà tính ra, thì ngôi sao ấy là Tôn Kiên. Chúa công nên lập tức đưa thư cho Viên Thiệu để cầu cứu.
Lưu Biểu viết thư xong, hỏi có ai dám xông ra ngoài vòng vây. Có mãnh tướng là Lã Công xin đi.
Khoái Lương bảo Lã Công rằng:
- Người đã có gan dám đi, nên nghe kế ta: Ngươi đem năm trăm quân mã đi, phải kén những tay bắn cung giỏi. Ra khỏi được vòng vây rồi lập tức chạy lên Nghiễn Sơn. Đằng kia tất nó đem quân lại đuổi. Ngươi phải lấy ra một trăm người, lên núi tìm đá chất sẵn; một trăm người nữa mang cung nỏ nấp ở trong rừng. Hễ nó đuổi đến nơi, chớ có chạy đường thẳng, cứ chạy quanh co, dử cho nó đến chỗ mai phục, rồi ở trên cùng bắn tên và ném đá xuống. Nếu thắng trận thì lập tức nổi hiệu súng liên châu, trong thành sẽ cho quân ra tiếp ứng. Nếu nó không đuổi thì đừng nổ súng báo hiệu làm gì, cứ đi sấn đi thôi. Đêm nay trăng không sáng lắm. Chiều tà có thể ra khỏi thành.
Lã Công vâng lĩnh kế ấy, sắp sẵn quân mã, đợi đến sâm sẩm tối, bí mật mở cửa phía đông, kéo quân ra khỏi thành.
Tôn Kiên đang ở trong trướng, nghe có tiếng reo, kíp cưỡi ngựa đem ba mươi tên kỵ mã ra cửa trại xem. Quân sĩ lại báo rằng:
- Có một toán quân mã ở trong thành kéo ra, chạy về mé Nghiễn Sơn.
Kiên không kịp gọi các tướng chỉ dẫn ba mươi tên kỵ mã đuổi theo.
Bấy giờ Lã Công đã đưa quân vào mai phục trong rừng rậm rồi. Một mình Kiên phóng ngựa chạy nhanh tới thấy quân đằng trước không còn cách xa mấy, Kiên bèn gọi to lên rằng:
- Đừng chạy nữa.
Lã Công quay ngựa lại đánh. Đánh được một hiệp, Lã Công lại chạy, lẻn vào trong đường núi. Kiên đằng sau theo hút, nhưng đi đến núi thì không thấy Lã Công nữa. Kiên toan trèo lên núi bỗng nghe thấy một tiếng cồng rồi đá đâu ở trên núi lăn xuống như mưa. Trong rừng tên bắn ra tua tủa. Kiên bị đá và tên bắn trúng vào đầu, phọt óc ra. Người và ngựa cùng chết cả ở chân núi.
Lúc ấy Tôn Kiên mới có ba mươi bảy tuổi.
Lã Công xuống chẹn đường bắt được ba mươi tên kỵ mã, giết tuốt cả rồi nổi hiệu súng liên châu. Trong thành nghe thấy, Hoàng Tổ, Khoái Việt, Sái Mạo cùng chia làm mấy ngả ra đánh. Quân Giang Đông xôn xao cả lên.
Hoàng Cái giữ thuyền ở dưới sông, nghe thấy tiếng reo ầm ĩ, cũng dẫn thuỷ quân kéo lên bờ, gặp ngay Hoàng Tổ, đánh nhau được vài hiệp thì Hoàng Cái bắt sống được Hoàng Tổ.
Trình Phổ bảo vệ Tôn Sách, vội tìm đường chạy, vừa gặp ngay Lã Công đến. Phổ tế ngựa ra, hai bên đánh nhau được vài hiệp. Phổ đâm một ngọn mâu. Lã Công chết ngã xuống chân ngựa.
Hai bên đánh nhau mãi đến tận sáng mới thu quân về.
Quân Lưu Biểu rút vào thành. Tôn Sách về đến Hán Thuỷ mới biết tin bố chết, quân Lưu Biểu đã khiêng xác vào thành mất rồi. Sách khóc lóc thảm sầu, quân sĩ cũng rền rĩ than khóc.
Sách khóc:
- Xác phụ thân ta còn ở bên địch, làm thế nào mang về quê hương được?
Hoàng Cái nói:
- Nay ta bắt sống được Hoàng Tổ, nên sai người vào thành giảng hoà, đem Hoàng Tổ đổi lấy thi thể của chúa công.
Nói chưa dứt lời có viên tướng tên là Hoàn Khải bước ra nói rằng:
- Tôi với Lưu Biểu có quen biết trước, xin nhận đi sứ vào thành.
Sách cho Khải đi. Lúc giáp Lưu Biểu, Biểu nói:
- Hài cốt Văn Đài ta đã nhập quan tử tế, ngươi về nói bên ấy tha Hoàng Tổ ra ta sẽ trả hài cốt cho mà đem về. Hai bên cùng bãi binh, từ nay về sau không phạm nhau nữa.
Khải từ tạ định đi, dưới thềm Khoái Lương nhảy ra ngăn rằng:
- Không nên! Không nên! Tôi có một kế này làm cho quân Giang Đông mảnh giáp không còn. Nhưng trước hết xin hãy chém đầu Hoàn Khải đi đã.
Thế rõ thực là:
Tôn Kiên đuổi giặc vừa toi mạng
Hoàn Khải cầu hòa lại gặp nguy
Chưa biết tính mệnh Hoàn Khải ra sao, xem hồi sau sẽ rõ.
Hồi 8:
Vương tư đồ khéo dụng liên hoàn kế
Đổng thừa tướng náo động Phượng Nghi đình
Khoái Lương nói với Lưu Biểu rằng:
- Ngày nay Tôn Kiên đã chết, các con còn bé cả, nên thừa kế tiến quân nhanh lên, chỉ đánh một trận là lấy được Giang Đông. Nếu chúa công trả thây Tôn Kiên và bãi binh về, để cho kẻ thù nuôi dưỡng sức khoẻ, đó là cái vạ của Kinh Châu về sau vậy!
Biểu nói:
- Ta còn có Hoàng Tổ ở bên ấy, sao nỡ bỏ được?
Lương nói:
- Bỏ một anh Hoàng Tổ vô mưu, mà lấy được cả Giang Đông, việc gì còn phải cân nhắc?
Biểu lại nói:
- Ta với Hoàng Tổ là bạn tâm phúc với nhau, bỏ y là trái nghĩa.
Biểu cho Hoàn Khải về, hẹn rằng hễ bên ấy tha Hoàng Tổ, thì bên này cho đem xác Tôn Kiên về.
Tôn Sách tha Hoàng Tổ, rồi sang rước linh cữu bố về, rút quân về Giang Đông, táng cha ở gò Khúc A.
Việc tang xong. Tôn Sách dẫn quân về Giang Đông, vời người hiền, dùng kẻ sĩ; khéo nhún mình trọng người; hào kiệt bốn phương dần dần kéo đến theo Tôn Sách cả. Trong khi ấy, Đổng Trác ở Trường An được tin Tôn Kiên đã chết, mừng mà nói rằng:
- Ta trừ được một mối lo lớn trong lòng!
Trác hỏi con Kiên bao nhiêu tuổi, có người thưa mười bảy tuổi. Trác không cho vào đâu; từ bấy giờ lại càng kiêu căng tự xưng là thượng phụ [1], khi ra khi vào dùng toàn nghi vệ thiên tử. Trác lại phong em là Đổng Mẫn làm tả tướng quân, tước Vu hầu; cháu là Đổng Hoành làm trị trung, coi cả quan cấm binh. Tôn tộc họ Đổng chẳng cứ già trẻ, ai cũng được phong tước hầu cả.
Cách Trường An hai trăm năm mươi dặm, Trác sai đắp một cái thành gọi là thành My Ổ, bắt hai mươi nhăm vạn dân đắp cao, dày, theo y như kiểu thành Trường An. Trong thành lại làm những cung thất kho tàng, chứa được đủ lương ăn trong hai mươi năm; lại kéo gái thanh tân tám trăm người chứa trong ấy; vàng, ngọc, gấm, vóc, trân châu vào không biết bao nhiêu mà kể. Họ hàng Trác đều được đem vào cả trong thành.
Trác thì đi đi về về Trường An, khi nửa tháng một lần, khi một tháng một lần. Công khanh đưa đón thường phải đứng trực ở ngoài cửa Hoành Môn.
Trác nhiều khi đặt trướng ở dọc đường, cùng với Công Khanh ăn tiệc.
Một hôm Trác ra ngoài cửa Hoành Môn, các quan đi tiễn, Trác mời các quan ở lại uống rượu, đoạn cho gọi mấy trăm hàng binh vừa dụ được ở đất bắc đến. Trác sai đem ra trước chỗ ăn tiệc, đứa thì đem chặt chân chặt tay, đứa thì đem khoét mắt xẻo mũi, đứa thì đem cắt lưỡi, đứa thì đem bỏ vạc dầu đun. Tiếng kêu khóc vang lừng trời đất.
Các quan đang ăn tiệc, thấy thế người nào người nấy đều run cầm cập, đánh rơi cả đũa. Trác vừa uống rượu vừa cười nói như không.
Lại một hôm khác, Trác ở sảnh đài, hội cả bách quan ngồi sẵn ra hai hàng. Rượu uống được độ vài tuần, thì Lã Bố đi tắt vào, ghé vào tai Đổng Trác nói thầm mấy câu, rồi thấy Trác cười mà nói rằng:
- À ra thế!
Nói rồi sai Lã Bố lôi quan tư không, tên là Trương Ôn, đang ngồi dự tiệc, đem xuống nhà dưới. Các quan không biết đầu đuôi thế nào đều thất sắc. Một lát thấy quân hầu bưng lên một cái mâm đỏ, giữa để đầu lâu Trương Ôn. Các quan đều sợ mất vía. Đổng Trác cười nói:
- Các quan đừng sợ. Trương Ôn liên kết với Viên Thuật, toan hại ta. Nhân hai đứa gửi thư cho nhau, đưa nhầm cho con ta là Lã Ôn hầu, nên ta mới đem chém. Các quan không có việc gì, đừng sợ.
Các quan dạ dạ rồi về.
Quan tư đồ Vương Doãn, hôm ấy về đến phủ, nghĩ đến những việc trông thấy ở trong bữa tiệc, ngồi đứng không yên. Đến đêm khuya, trăng sáng vằng vặc, Doãn chống gậy đi ra vườn sau, đứng bên cạnh bụi đồ mi[2], ngẩng mặt lên trời, mà khóc.
Chợt nghe có tiếng người thở dài ở cạnh đình Mẫu Đơn. Doãn ron rén lại nhìn xem ai thì là một con hát trong phủ, tên là Điêu Thuyền.
Điêu Thuyền từ thuở nhỏ được kéo vào phủ, học múa học hát, bấy giờ mới mười sáu tuổi, đủ cả tài sắc, Doãn thương yêu như con đẻ. Doãn đứng nghe một hồi lâu, mắng rằng:
- Con này đã có tư tình gì đây?
Thuyền quỳ xuống thưa rằng:
- Lạy cha, con đâu dám có tư tình.
Doãn hỏi:
- Không có tư tình thì việc gì canh khuya lại ra đứng đây mà thở vắn than dài?
Thuyền nói:
- Lạy cha! Xin cho con bày tỏ nỗi lòng.
Doãn nói:
- Con không được giấu giếm, phải nói cho thực.
Thuyền nói:
- Con nhờ ơn cha nuôi nấng, dạy bảo múa hát, lại được hậu đãi, dù thịt nát xương tan, cũng không báo được muôn một. Gần đây con thấy cha mặt thảm mày chau, tất cha có lo việc lớn gì trong nước, con vẫn không dám hỏi. Nhân chiều hôm nay con thấy cha đứng ngồi không yên, cho nên con cũng buồn rầu mà thở dài, không ngờ cha nghe thấy. Nếu cha có việc gì cần sai bảo đến con, dù có chết con cũng không ngại.
Doãn đập gậy xuống đất nói rằng:
- Ai ngờ cơ đồ nhà Hán lại ở trong tay con! Hãy theo cha đến nhà gác cha bảo!
Doãn đến đó, đuổi hết tỳ thiếp ra, dắt Điêu Thuyền ngồi lên trên sập, rồi thụp xuống lạy.
Điêu Thuyền sợ hãi, cúi rạp xuống đất, thưa rằng:
- Sao cha lại làm thế?
Doãn nói:
- Con hãy thương lấy sinh linh nhà Hán!
Nói rồi khóc như nước suối chảy. Thuyền thưa:
- Vừa rồi con đã thưa, cha có việc gì sai khiến, dẫu chết con cũng không từ.
Doãn lại quỳ xuống nói:
- Hiện nay trăm họ như bị treo ngược, vua tôi ngất ngưởng như trứng chồng, thật nguy cấp, phi con không ai cứu được. Tặc thần Đổng Trác sắp cướp ngôi vua, văn võ trong triều không ai nghĩ được kế gì. Đổng Trác có một thằng con nuôi là Lã Bố, sức khoẻ lạ thường. Ta xem hai đứa ấy cũng là tuồng hiếu sắc. Nay ta muốn dùng một kế liên hoàn: trước đem con gả cho Lã Bố, sau lại đem con dâng Đổng Trác. Con ở trong, tuỳ cơ lập kế, ly gián hai bố con nó, xui khiến thế nào cho Lã Bố giết Đổng Trác để trừ kẻ đại ác, giữ yên xã tắc, dựng lại giang sơn. Đó là nhờ ở sức con, con nghĩ thế nào?
Thuyền thưa:
- Con xin thưa, dẫu chết con cũng không từ. Xin đem ngay con dâng cho nó, con sẽ lập mưu ở trong.
Doãn nói:
- Việc này nếu tiết lộ họ nhà ta sẽ chết hết!
Thuyền thưa rằng:
- Xin cha chớ lo. Nếu con không báo đền được nghĩa lớn, con sẽ chết ở dưới muôn vàn ngọn giáo.
Doãn lạy tạ.
Hôm sau Doãn sai người đem ngọc minh châu, xưa nay vẫn cất kỹ một nơi, gọi thợ khéo, làm một cỗ mũ vàng, mật sai người đem biếu Lã Bố.
Bố mừng rỡ, thân đến nhà Doãn tạ ơn.
Doãn làm sẵn của ngon vật lạ đợi Bố đến. Doãn ra cửa đón rước vào hậu đường, mời ngồi lên trên.
Bố nói:
- Tôi là một tiểu tướng ở trong phủ, tư đồ là một vị đại thần trong triều, sao lại quá tôn kính như vậy?
Doãn nói:
- Nay thiên hạ không có ai là anh hùng, tôi chỉ thấy duy có tướng quân mà thôi. Tôi tỏ lòng tôn kính, không phải là tôn kính cái chức của tướng quân mà là tôn kính cái tài của tướng quân đó.
Bố mừng lắm, Doãn khẩn khoản mời rượu, khen lấy khen để mãi cái đức Đổng thái sư và cái tài Lã Bố.
Bố cười vang và uống rượu thoả thích. Bấy giờ Doãn mới đuổi đầy tớ lùi ra, chỉ để vài người tỳ thiếp đứng hầu rượu. Khi Bố ngà ngà say, Doãn nói truyền rằng:
- Gọi con em nó ra đây!
Một lát hai thị tỳ đỡ Điêu Thuyền trang điểm thật lộng lẫy bước ra. Lã Bố trông thấy giật mình, hỏi:
- Người nào vậy?
Doãn nói:
- Đó là con gái nhỏ lão, tên là Điêu Thuyền. Lão nay được ơn tướng quân có lòng hạ cố mà coi như chỗ chí thân, nên lão sai nó ra để chào tướng quân.
Liền sai Điêu Thuyền bưng chén rượu mời.
Thuyền nâng chén rượu mời Bố. Hai bên nhìn nhau, đầu mày cuối mắt…
Vương Doãn giả tảng say, nói:
- Con cố mời tướng quân uống vài chén con nhé! Cả nhà ta đều trông nhờ vào tướng quân đấy.
Bố mời Thuyền ngồi. Thuyền giả cách thẹn thùng, muốn lui vào, Doãn nói:
- Tướng quân là bạn chí thân với ta, con cứ ngồi đừng ngại.
Thuyền khép nép, ngồi bên cạnh Doãn.
Lã Bố nhìn Thuyền chòng chọc, không chớp mắt, lại uống thêm vài chén.
Doãn mới trỏ tay vào Thuyền mà bảo Lã Bố rằng:
- Lão vẫn có ý cho nó hầu hạ tướng quân làm tỳ thiếp, chưa biết tướng quân có bụng hạ cố thương đến không?
Bố nghe nói vội vàng đứng dậy, ra ngoài chiếu, tạ mà nói rằng:
- Nếu được như thế, tôi xin một đời làm khuyển mã để báo đáp ơn sâu.
Doãn nói:
- Nay mai xin chọn ngày lành tháng tốt, đưa nó đến phủ tướng quân.
Lã Bố mừng hớn hở, đưa mắt nhìn Điêu Thuyền. Điêu Thuyền cũng liếc mắt đưa tình đáp lại.
Một chốc tiệc tan, Doãn nói:
- Lão phu muốn mời tướng quân nghỉ lại đây chơi, nhưng sợ thái sư sinh nghi.
Bố hai ba lần tạ đi tạ lại, rồi lui về.
Được vài hôm, Vương Doãn ở trong triều gặp Đổng Trác, nhân thể không có Lã Bố ở đấy, bèn thụp xuống đất lạy, nói rằng:
- Tôi muốn rước thái sư quá bước lại nhà tôi xơi chén rượu, nhưng không biết thái sư có lòng hạ cố chăng?
Trác nói:
- Được quan tư đồ mời, tôi xin đến ngay.
Doãn lạy tạ, về nhà, trang hoàng nhà cửa lịch sự, bày đủ các món sơn hào hải vị, giữa gian sảnh, kê một cái sạp; gấm vóc rải cả xuống đất; trong ngoài trướng rủ màn che.
Buổi trưa hôm sau, Đổng Trác đến, Doãn mặc áo đại trào ra đón, lạy hai lạy rồi mời vào. Trác xuống xe, tả hữu hơn một trăm người vác kích đi thẳng vào nhà, đứng xếp thành hai hàng. Doãn xuống dưới thềm lạy hai lạy, Trác sai người dắt Doãn lên ngồi bên cạnh.
Doãn nói:
- Công đức thái sư to lắm! Y Doãn, Chu Công ngày xưa cũng không bằng!
Trác mừng lắm. Doãn sai tấu nhạc và dâng rượu, rất là cung kính. Đến chiều Trác uống rượu đã say, Doãn mời Trác vào nhà trong. Trác quát giáp sĩ lui ra. Doãn bưng một chén rượu, mừng Trác rằng:
- Chúng tôi thuở nhỏ có học thiên văn, đêm xem tượng trời, thấy khí số nhà Hán đã hết. Thái sư công đức đã vang lừng cả thiên hạ. Ngày xưa, vua Thuấn nối ngôi vua Nghiêu, vua Vũ nối ngôi cho vua Thuấn. Thế là hợp lòng trời và lòng người lắm.
Trác nói:
- Ta có đâu dám mong như thế!
Doãn nói:
- Xưa nay người có đạo thay người vô đạo, người không có đức nhường người có đức, có gì là không đúng.
Trác cười và nói rằng:
- Nếu mệnh trời về ta, tư đồ phải làm nguyên huân.
Doãn lạy tạ.
Bấy giờ đèn nến đốt sáng choang, chỉ có mấy đứa hầu gái đứng hầu rượu và dâng đồ ăn.
Doãn nói:
- Phường nhạc không đáng đem ra cung phụng thái sư. Nay có một con hát của nhà, xin thái sư cho phép được gọi ra hầu.
Trác nói:
- Hay lắm!
Doãn mới sai kéo bức màn ra, đàn sáo vang lừng, Điêu Thuyền đứng ở ngoài mành lượn múa dịu dàng, ở ngoài trông vào thực là ngoạn mục.
Có bài ca khen Điêu Thuyền như sau:
Người ở cung Chiêu Dương đó nhỉ
Cánh hồng bay phớn phở trên tay
Động Đình chừng đã qua bay
Lương Châu vỗ nhịp nhẹ giày gót sen.
Một cành gió lá hoa mềm
Mùi hương ngào ngạt dày thềm vẻ xuân.
Lại có một bài thơ nữa khen rằng:
Én liệng la đà nhịp phách ngà
Mây bay một áng diễu thềm hoa
Mày ngài gợi khách sầu man mác
Vẻ ngọc xui người dạ thiết tha
Hồ dễ nghìn vàng mua được miệng
Lọ dùng trăm báu xức vào da?
Rèm cao múa đoạn ai nhìn trộm
Nào biết Tương vương mấy kẻ là!
Điêu Thuyền múa xong, Trác gọi lại gần.
Điêu Thuyền ở ngoài thềm đi vào, lạy hai lạy.
Trác thấy Điêu Thuyền dung nhan xinh đẹp bèn hỏi Doãn:
- Con bé này là thế nào?
Vương Doãn thưa:
- Bẩm, nó là con hát ở phủ, tên là Điêu Thuyền.
Trác hỏi:
- Biết hát không?
Doãn sai Điêu Thuyền gõ nhịp hát một bài.
Thật là:
Môi son hé nở cánh đào tân
Ngọc trắng hai hàng nhả “ánh xuân”
Đầu lưỡi đinh hương đường kiếm sắc
Rắp toan chém cổ kẻ gian tham!
Đổng Trác khen nức nở.
Doãn sai Thuyền dâng rượu.
Trác cầm lấy chén rượu hỏi rằng:
- Xuân xanh năm nay bao nhiêu?
Thuyền thưa:
- Tuổi tiện thiếp vừa đôi tám.
Trác cười nói rằng:
- Thật là người chốn thần tiên!
Doãn đứng dậy thưa rằng:
- Chúng tôi có ý muốn đem dâng lên thái sư, không biết thái sư có nhận cho không?
Đổng Trác nói:
- Ơn ấy ta biết lấy gì báo lại.
Doãn nói:
- Nếu nó được hầu hạ thái sư thì thực phúc to cho tôi lắm.
Trác cảm ơn hai ba lần. Doãn lập tức sai đưa Điêu Thuyền đến tướng phủ. Trác đứng dậy cáo từ. Doãn đi tiễn Trác đến tận phủ rồi mới về.
Doãn cưỡi ngựa đến nửa đường, trông thấy hai bên đường có đèn đỏ, ở giữa là Lã Bố, cưỡi ngựa cầm kích đi lại. Lúc Vương Doãn đến, Bố dừng ngựa, một tay nắm lấy áo Vương Doãn rồi hỏi to rằng:
- Tư đồ đã gả Điêu Thuyền cho ta, nay lại đem Điêu Thuyền dâng thái sư, sao lại đùa như thế?
Doãn vội vàng ngăn Lã Bố, nói rằng:
- Nói chuyện ở đây không tiện, xin ngài hãy quá bước lại nhà lão phu.
Bố theo Doãn về. Hai người dắt nhau vào nhà trong. Chào hỏi xong. Doãn nói:
- Sao tướng quân lại trách lão?
Bố nói:
- Có người nói với ta rằng tư đồ dùng xe đưa Điêu Thuyền vào tận tướng phủ, là cớ làm sao?
Doãn thưa:
- Rõ khổ, tướng quân không biết! Hôm qua ở triều thái sư bảo tôi rằng: “Ta có một việc phải đến nhà ngươi”. Vậy tôi có sửa soạn tiệc nhỏ đón tiếp. Trong khi uống rượu, thái sư hỏi: “Ta nghe ngươi có con gái tên là Điêu Thuyền, đã gả cho con ta là Lã Phụng Tiên. Có thực không? Đem con lão ra đây cho ta coi!” Tôi không dám không vâng lệnh, phải gọi Điêu Thuyền ra lạy bố chồng. Thái sư lại truyền rằng: “Hôm nay tốt ngày, để ta đem Điêu Thuyền về cho Phụng Tiên!” Tướng quân thử nghĩ xem, thái sư thân hành đến nơi truyền bảo, lão phu sao dám gàn trở!
Lã Bố nói:
- Quan tư đồ không có lỗi gì, tôi trót nghĩ lầm. Ngày mai tôi xin mang roi đến chịu tội.
Doãn lại nói:
- Con tôi có ít nhiều đồ nữ trang. Khi nào nó về phủ tướng quân, tôi sẽ mang đến.
Lã Bố tạ, rồi về.
Sáng hôm sau, Bố ở nhà nghe ngóng, chẳng thấy tin tức gì, bèn sang tướng phủ, vào thẳng nhà trong hỏi tin những người hầu.
Một người thưa:
- Đêm qua thái sư cùng nghỉ với người hầu mới, bây giờ chưa dậy.
Bố giận lắm, lẻn vào sau buồng nằm của Đổng Trác để dò xem.
Bấy giờ Điêu Thuyền đã dậy rồi đang ngồi trong cửa sổ chải đầu, chợt trông xuống ao trước cửa sổ thấy bóng người cao lớn, đầu đội mũ bịt tóc, biết ngay là Lã Bố, Điêu Thuyền cố ý chau ngay đôi mày làm ra dáng buồn bã, tay cầm khăn thỉnh thoảng nâng lên lau nước mắt.
Lã Bố đứng nhìn hồi lâu rồi trở ra, một lát sau lại vào. Đổng Trác ngồi ở trung đường, thấy Bố đến, hỏi rằng:
- Ở ngoài không có việc gì chứ?
Bố thưa:
- Không.
Rồi đứng hầu một bên. Trác ăn cơm, Bố liếc mắt nhìn dòm trộm, thấy trong rèm có người con gái đi đi lại lại, hơi thò nửa mặt ngoảnh ra ngoài, liếc mắt đưa tình. Trác nhìn thấy dáng điệu của Bố như vậy, trong lòng nghi hoặc liền hỏi rằng:
- Phụng Tiên không có việc gì, hãy lui ra!
Lã Bố bực tức trở ra.
Trác từ khi được Điêu Thuyền, hơn một tháng trời không coi gì đến việc quan. Một bữa Trác hơi khó ở, Điêu Thuyền hết lòng hầu hạ, mặc áo không lúc nào cởi đai, cố ý chiều chuộng, Trác lại càng yêu quý hơn nữa.
Một hôm Lã Bố vào hỏi thăm, gặp lúc Đổng Trác đang ngủ, Điêu Thuyền đứng ở sau giường thò nửa người ra, trông thấy Bố, lấy tay trỏ vào tim mình rồi lại trỏ vào Đổng Trác, và luôn luôn gạt nước mắt.
Bố cảm thấy ruột như nát ra.
Trác nằm hai mắt lim dim, thấy Lã Bố nhìn chòng chọc về phía sau chỗ mình nằm, quay lại thì thấy Điêu Thuyền đứng ở sau giường. Trác nổi giận mắng Bố rằng:
- Mày ghẹo vợ yêu của tao à?
Bèn sai tả hữu đuổi Lã Bố ra và cấm từ nay không được vào nhà trong nữa.
Lã Bố tức giận trở về, đi đường gặp Lý Nho, kể lại đầu đuôi.
Nho lập tức vào ra mắt Đổng Trác, nói rằng:
- Thái sư muốn lấy thiên hạ, sao lại vì một việc nhỏ mọn mà trách mắng Lã Ôn hầu. Nếu y thay lòng đổi dạ, việc lớn hỏng mất.
Trác hỏi:
- Bây giờ nên làm thế nào?
Nho nói:
- Sớm mai gọi y vào, cho vàng lụa, dùng lời ngọt ngào an ủi y, thì sẽ không có việc gì xảy ra nữa.
Trác nghe lời, hôm sau cho gọi Lã Bố vào nhà trong, bảo rằng:
- Hôm qua trong cơn đau yếu, tinh thần hoảng hốt, ta có nói mấy câu, nhà ngươi đừng để bụng.
Nói rồi, sai đưa cho Lã Bố mười cân vàng và hai mươi tấm gấm.
Bố lạy tạ rồi về, nhưng từ lúc ấy tuy đứng hầu ở bên Đổng Trác, mà ruột gan lúc nào cũng vơ vẩn chung quanh Điêu Thuyền.
Khi Trác đã khỏi bệnh, vào triều bàn việc, Bố vẫn cầm kích đi theo.
Một bữa, Trác đang ngồi bàn tiệc với vua Hiến đế, Bố vác kích lẻn ra cửa sau, lên ngựa chạy đến tướng phủ, buộc ngựa ở cửa phủ, cầm kích vào thẳng hậu đường, để tìm Điêu Thuyền.
Thuyền bảo:
- Hãy ra vườn sau bên đình Phượng Nghi đợi thiếp!
Bố vác kích đi trước, đứng bên bao lơn ở dưới đình chờ một hồi lâu, thấy Điêu Thuyền rẽ hoa gạt liễu đi đến, chẳng khác gì tiên trên cung trăng.
Thuyền sụt sùi khóc bảo Bố rằng:
- Tiện thiếp tuy không phải Vương tư đồ sinh ra, nhưng tư đồ coi thiếp như con đẻ. Từ khi gặp tướng quân, được nhận cho làm kẻ nâng khăn sửa túi thiếp đã lấy làm mãn nguyện lắm. Ngờ đâu thái sư đem lòng bất lương, làm ô nhục thiếp, thiếp giận không chết ngay được, chỉ vì chưa gặp được tướng quân để từ giã lần cuối cùng, cho nên còn nhịn nhục sống đến bây giờ. Nay may được gặp nhau, thế là hả rồi. Tấm thân đã nhơ nhuốc này không xứng đáng thờ người anh hùng, thiếp xin chết ở trước mặt chàng để tỏ rõ lòng thiếp!
Điêu Thuyền nói xong, tay vịn bao lơn, mắt nhìn ra ao sen, định nhảy xuống.
Lã Bố vội vàng ôm ngay lấy Điêu Thuyền, khóc nói rằng:
- Lòng nàng tôi biết đã lâu, chỉ hiềm chưa được nói với nhau đấy thôi!
Điêu Thuyền gạt tay Lã Bố ra nói rằng:
- Kiếp này thiếp không được làm vợ chàng, xin hẹn để kiếp sau!
Lã Bố nói:
- Nếu kiếp này không lấy được nàng, tôi không phải là người anh hùng nữa.
Điêu Thuyền nói:
- Thiếp coi một ngày dài bằng một năm, xin chàng thương mà cứu vớt.
Bố nói:
- Tôi lên đến đây, sợ thằng giặc già nó nghi, tôi phải đi ngay.
Thuyền lôi vạt áo Lã Bố lại nói rằng:
- Chàng còn sợ thằng giặc già như thế, thiếp này không còn mong có ngày nào được trông thấy trời và đất nữa!
Bố đứng lại nói rằng:
- Đừng vội vàng, để tôi nghĩ cách đã.
Nói rồi vác kích định ra.
Điêu Thuyền níu lại nói rằng:
- Khi tôi ở chốn buồng the đã được nghe tiếng tướng quân, lừng lẫy như sấm rót vào tai, tưởng rằng ở đời này chỉ có một người như thế chớ không có hai. Ai ngờ tướng quân lại chịu dưới quyền áp chế của người khác!
Nói rồi, nước mắt chảy xuống như mưa.
Lã Bố thẹn đỏ cả mặt, dựa kích vào một chỗ, quay lại ôm lấy Điêu Thuyền, dỗ dành an ủi. Hai người quấn quấn quýt quýt không nỡ buông nhau ra.
Đổng Trác ở trên điện, bỗng ngoảnh lại không thấy Lã Bố trong bụng nghi ngay, vội vàng xin cáo từ lên xe về phủ. Thấy ngựa của Bố buộc trước cửa phủ, Trác bèn hỏi lính canh cửa. Lính canh nói:
- Ôn hầu vào nhà sau.
Trác mắng quân canh cửa, đi thẳng ngay vào hậu đường, không thấy Lã Bố. Trác gọi Điêu Thuyền cũng không thấy thưa. Trác hỏi người hầu gái. Người hầu gái thưa: Điêu Thuyền ở trong vườn sau ngắm hoa.
Trác vào vườn sau tìm, thấy Lã Bố và Điêu Thuyền đang nói chuyện với nhau ở bên đình Phượng Nghi, hoạ kích dựng một bên.
Trác giận quát to một tiếng.
Bố thấy Trác đến, cả sợ, quay đầu chạy.
Trác vớ ngay lấy ngọn hoạ kích đuổi theo. Bố chạy mau, Trác béo phục phịch, đuổi không kịp, bèn cầm kích ném theo Lã Bố. Bố gạt rơi xuống đất, Trác nhặt kích lại đuổi, nhưng Bố đã chạy xa. Trác đuổi ra tận cửa vườn, thì một người xăm xăm chạy đến, đâm sầm ngay vào Đổng Trác. Trác ngã quỵ xuống đất.
Thế rõ thực là:
Khí căm xông thẳng trên mây tía
Mình béo lăn kềnh đến đất đen.
Chưa biết người ấy là ai, xem hồi sau mới rõ.
Chú thích: 
1. Xưa Chu Vũ Vương gọi Lã Vọng là thượng phụ. Ở đây Đổng Trác tự ví mình là Lã Vọng.
2. Ta thường đọc là trà mi, vì chữ đồ và chữ trà (Trung Quốc) chỉ khác nhau có một nét.
Hồi 9:
Trừ hung bạo, Lã Bố giúp tư đồ
Chiếm Trường An, Lý Thôi nghe Giả Hủ
Người đi va vào Đổng Trác, tức là Lý Nho, Nho thấy Trác ngã, vội vàng đỡ Trác đứng dậy, dìu vào ngồi trong thư viện.
Trác hỏi Lý Nho:
- Ngươi đến đây làm gì?
Lý Nho thưa:
- Tôi chợt qua cửa phủ, thấy nói thái sư giận đi vào vườn sau tìm Lã Bố, tôi vội vàng chạy vào, thì gặp Lã Bố chạy ra, kêu lên rằng: “Thái sư giết ta”. Bởi thế, tôi hấp tấp vào đây để can ngăn thái sư, chẳng may chạm phải thái sư, thật đáng tội chết!
Trác nói:
- Không thể tha được thằng nghịch tặc ấy! Nó dám đùa bỡn ái cơ của ta. Thế nào ta cũng giết chết nó mới nghe.
Lý Nho can rằng:
- Thái sư không nghĩ cho chín; ngày xưa vua Trang Vương nước Sở, trong bữa tiệc “Dứt dải mũ” đã tha tội cho Tưởng Hùng đã đùa bỡn với người vợ yêu[1], đến sau bị binh nhà Tần làm khốn, được Tưởng Hùng cố sức liều chết cứu thoát được. Nay Điêu Thuyền chẳng qua là một đứa con gái mà Lã Bố là một mãnh tướng tâm phúc của thái sư, nếu thái sư nhân dịp này đem Điêu Thuyền cho Bố, chắc Bố cảm ơn lắm, lấy chết báo lại thái sư, xin thái sư nghĩ đi nghĩ lại.
Trác nghĩ ngợi hồi lâu rồi nói rằng:
- Ngươi nói cũng phải, để ta nghĩ kỹ xem.
Lý Nho tạ từ rồi ra. Trác vào ngay hậu đường gọi Điêu Thuyền ra hỏi rằng:
- Sao mày có tư tình với Lã Bố?
Điêu Thuyền khóc thưa rằng:
- Thiếp đang đứng xem hoa, bỗng Lã Bố đột ngột ở đâu đến. Thiếp vội vàng toan tránh. Bố nói: “Tôi là con thái sư, việc gì phải tránh?” Rồi y cầm kích ép thiếp đến đình Phượng Nghi. Thiếp thấy y có lòng bất lương, sợ xâm phạm tới mình thiếp, định đâm đầu xuống ao sen tự tận, nhưng lại bị y ôm chặt lấy. Đang lúc giằng co không biết sống chết thế nào, may có thái sư chạy lại cứu được tính mệnh.
Trác lại hỏi:
- Nay ta đem mày gả cho nó, mày có thuận không?
Điêu Thuyền giật mình, khóc rằng:
- Thiếp đã được vào hầu quý nhân, nay lại đem gả cho thằng ở, thiếp thà chết chứ không chịu được nhục này!
Bèn rút thanh bảo kiếm treo ở vách, toan tự vẫn.
Trác vội vàng giằng lấy thanh gươm và ôm chặt lấy Điêu Thuyền và nói rằng:
- Ta nói bỡn đấy mà!
Thuyền nằm ngả vào lòng Trác, bưng mặt khóc rằng:
- Đây hẳn là mẹo của Lý Nho, Nho với Bố hai đứa là bạn thân với nhau, nên Nho mới bày ra mẹo này, không kể gì đến thể diện của thái sư và tính mệnh của tiện thiếp, thiếp phải xả thịt chúng nó ra.
Trác nói:
- Ta sao nỡ bỏ nàng.
Điêu Thuyền lại nói:
- Thái sư dẫu có lòng thương yêu, cũng không nên ở đây lâu, sợ bị Lã Bố làm hại.
Trác dỗ dành Điêu Thuyền rồi nói rằng:
- Ngày mai chúng ta về My Ổ, cùng hưởng sung sướng, đừng lo gì nữa.
Thuyền mới lau nước mắt lạy tạ.
Hôm sau Lý Nho vào ra mắt, nói rằng:
- Hôm nay tốt ngày thái sư nên đem Điêu Thuyền gả cho Lã Bố.
Trác nói:
- Chuyện ấy ta đã nghĩ rồi. Lã Bố với ta là quan hệ cha con, làm thế không tiện. Ta tha tội cho Bố, ngươi nên truyền đạt cho Bố biết ý ta và tìm lời an ủi Bố thế là được rồi!
Nho nói:
- Thái sư đừng dễ mê hoặc vì một người đàn bà.
Trác giận đổi sắc mặt mắng rằng:
- Thế thì vợ mày mày có đem cho nó không? Việc Điêu Thuyền cấm không được động đến nữa, còn nói tao sẽ chém đầu.
Lý Nho trở ra, ngẩng mặt lên trời than rằng:
- Lũ chúng ta chết cả về tay người đàn bà!
Đời sau có thơ rằng:
Tư đồ khéo mượn khách má đào
Chẳng dùng gươm giáo, chẳng dùng dao
Hổ Lao ba trận hoài bao sức
Phượng Nghi chiến thắng ấy lạ sao!
Ngay hôm ấy Đổng Trác hạ lệnh về My Ổ, trăm quan đều tống tiễn. Điêu Thuyền ngồi trên xe, xa trông thấy Lã Bố đứng ở trong đám đông người, mắt nhìn vào trong xe.
Thuyền giả cách che mặt làm ra dáng đau khóc bi thảm.
Xe đã đi xa. Lã Bố còn cầm cương ngựa đứng trên gò đất, nhìn đám bụi mù mịt than tiếc bực dọc. Chợt nghe sau lưng có người hỏi rằng:
- Ôn hầu sao không theo thái sư đi, lại đứng đấy nhìn xe mà than thở?
Bố quay đầu lại xem ai, thì ra là tư đồ Vương Doãn.
Chào hỏi xong, Doãn nói:
- Tôi mấy bữa nay, hơi khó ở, không đi đâu, cho nên chưa có dịp gặp tướng quân. Bữa nay thái sư về My Ổ, nên tôi phải gượng ra tiễn, may sao lại gặp tướng quân. Xin hỏi tướng quân làm sao đứng đây thở than?
Bố nói:
- Chỉ vì con gái ông đấy!
Doãn giả cách thất kinh hỏi rằng:
- Từ hôm ấy đến nay con tôi vẫn chưa về với tướng quân à?
Bố nói:
- Thằng giặc già ấy lấy làm thiếp của nó đã lâu rồi!
Doãn lại giả thất kinh:
- Không ngờ lại như thế!
Bố bèn đem chuyện kể lại đầu đuôi cho Vương Doãn nghe. Vương Doãn mặt ngửa lên trời, chân giẫm xuống đất, thừ người ra không nói gì. Mãi hồi lâu, Doãn mới nói rằng:
- Không ngờ thái sư lại làm cái việc cầm thú ấy…
Rồi kéo tay Lã Bố, nói rằng:
- Xin tướng quân hãy đến nhà tôi nói chuyện.
Bố theo Doãn về. Doãn mời Bố vào nhà trong kín đáo, sai làm rượu khoản đãi.
Bố lại đem việc gặp Điêu Thuyền ở đình Phượng Nghi kể hết đầu đuôi cho Doãn nghe.
Doãn nói:
- Thái sư làm nhục con gái tôi, cướp vợ tướng quân. Thiên hạ người ta sẽ chê cười cho, nhưng người ta không chê cười thái sư đâu mà người ta chỉ chê cười tướng quân và tôi thôi. Tôi già yếu chẳng kể làm gì, chỉ tiếc thay tướng quân là bậc anh hùng tiếng tăm lừng lẫy một đời, mà phải chịu cái nhục này.
Bố nghe nói, cơn giận bốc lên bừng bừng, nắm tay đấm xuống bàn, kêu một tiếng thật to.
Doãn vội vàng nói rằng:
- Lão trót lỡ lời… xin tướng quân nguôi giận!
Bố nói:
- Ta thề sẽ giết chết thằng giặc già ấy để rửa nhục.
Doãn vội vàng lấy tay bưng miệng Bố can rằng:
- Tướng quân chớ nói, nhỡ ra có liên luỵ đến lão.
Bố nói:
- Đại trượng phu sinh ra trong trời đất, lẽ đâu lại cứ ngậm ngùi chịu làm tôi tớ người khác mãi ru!
Doãn nói thêm một câu rằng:
- Tài như tướng quân thì thái sư làm sao có thể kìm hãm được.
Bố lại nói:
- Tôi muốn giết thằng giặc già ấy, nhưng ngại rằng còn vướng tình cha con, sợ người sau chê cười chăng?
Doãn tủm tỉm cười nói rằng:
- Tướng quân họ Lã, mà thái sư thì họ Đổng. Thử hỏi lúc thái sư cầm kích lao tướng quân ở đình Phượng Nghi, liệu còn có tình cha con không?
Bố hăng hái đứng lên nói rằng:
- Nếu tư đồ không dạy tôi câu ấy, suýt nữa tôi lầm.
Doãn thấy Lã Bố đã quyết tâm giết Trác bèn bảo Lã Bố rằng:
- Giúp nhà Hán, tướng quân mới thực là trung thần để tiếng trong sử xanh mãi mãi. Nếu tướng quân giúp Đổng Trác thì là phản thần, sẽ để tiếng xấu muôn đời.
Bố đứng dậy lạy Vương Doãn và nói rằng:
- Ý tôi đã quyết rồi. Tư đồ không nên nghĩ nữa.
Doãn nói:
- Tôi sợ việc không xong thì vạ to.
Bố liền rút con dao đeo ở mình, đâm một nhát vào cánh tay, chảy máu ra để thề.
Doãn quỳ xuống lạy tạ, nói rằng:
- Hương hoả nhà Hán, nay không đến nỗi mất, đều là ơn tướng quân giữ kín, đừng để tiết lộ ra. Khi nào việc đến nơi tôi sẽ có mưu kế. Lúc đó tôi sẽ xin báo cho tướng quân biết.
Bố khẳng khái nhận lời rồi trở ra.
Doãn lập tức mời quan bộc sa là Sĩ Tôn Thuỵ, quan tư lệ hiệu uý là Hoàng Uyển đến để bàn việc ấy.
Thuỵ nói:
- Nay vua mệt mới khỏi, nên sai một người nói khéo đến My Ổ mời Trác vào đây để bàn việc nước. Một mặt lấy mật chiếu của thiên tử trao cho Lã Bố sai phục quân trong cửa triều, đợi Trác vào đến nơi sẽ giết đi. Chước ấy là hơn cả.
Uyển nói:
- Nhưng có ai dám đi mời không?
Thuỵ nói:
- Có quan kỵ đô uý Lý Túc là người cùng quận với Lã Bố. Vì Trác không thăng chức cho, vẫn mang bụng oán tức, ta sai người ấy đi chắc Trác không nghi ngờ[2].
Doãn cho là phải, bèn mời Lã Bố đến bàn bạc.
Bố nói:
- Ngày xưa xui ta giết Đinh Nguyên cũng là người ấy. Nay hễ sai mà không đi, ta sẽ chém ngay trước.
Các quan mật sai mời Lý Túc đến. Bố bảo Túc:
- Xưa ông xui tôi giết Đinh Kiến Dương để về với Đổng Trác. Nay Đổng Trác trên dối thiên tử, dưới hại sinh linh, tội ác đã nhiều, cả người và thần đều giận. Vậy ông hãy mang chiếu thiên tử, triệu Trác vào chầu, rồi ta phục binh giết nó đi, cố giúp nhà Hán, cùng làm trung thần nghĩa sĩ, ông tính thế nào?
Túc nói:
- Tôi cũng muốn trừ thằng giặc ấy đã lâu, hiềm vì chưa gặp ai cùng lòng. Nay tướng quân có bụng ấy, là trời giúp tôi đó. Tôi sao dám hai lòng?
Nói đoạn Túc bẻ một cái tên ra thề.
Doãn nói:
- Ông làm nổi việc này, lo gì chẳng được quyền cao chức trọng.
Hôm sau Túc dẫn vài mươi tên kỵ mã đến My Ổ, sai người báo tin cho Trác biết rằng có chiếu thiên tử đến. Trác cho mời vào, Lý Túc vào lạy, Trác nói:
- Thiên tử có chiếu gì?
Túc thưa:
- Thiên tử vừa mệt mỏi, muốn hội văn võ ở cung Vị Ương để bàn nhường ngôi cho thái sư, nên sai tôi cầm chiếu này đến đây.
Trác hỏi:
- Ý Vương Doãn thế nào?
Túc thưa:
- Vương tư đồ đã sai người đắp đền thụ thiện, chỉ mong đợi thái sư về.
Trác mừng rỡ nói rằng:
- Thảo nào đêm ta nằm mộng thấy một con rồng quấn vào mình. Hôm nay quả nhiên có tin mừng. Dịp này không nên để lỡ.
Bèn sai bốn tướng tâm phúc là Lý Thôi, Quách Dĩ, Trương Tế, Phàn Trù lĩnh ba nghìn quân phi hùng giữ My Ổ rồi ngay hôm ấy sắp xe kiệu vào kinh. Trác ngoảnh lại bảo Lý Túc:
- Hễ ta làm vua thì cho ngươi làm chức Chấp kim ngô.
Túc lạy tạ, xưng thần.
Trác vào từ giã mẹ. Mẹ Trác bấy giờ đã hơn chín mươi tuổi, hỏi Trác:
- Con đi đâu?
Trác nói:
- Con sắp đi nối ngôi vua nhà Hán. Nay mai mẹ sắp lên làm hoàng thái hậu đấy.
Mẹ nói:
- Ta mấy hôm nay cứ nóng ruột giật mình, sợ không phải điềm hay!
Trác nói:
- Mẹ sắp làm quốc mẫu, chẳng trách giật mình!
Nói rồi từ giã mẹ. Đến lúc đi, bảo Điêu Thuyền rằng:
- Ta làm thiên tử, sẽ lập nàng làm quý phi.
Điêu Thuyền đã biết rõ mọi chuyện, giả cách hớn hở mừng rỡ, lạy tạ.
Trác lên xe về Trường An, quân sĩ đi tiễn tiền hô hậu ủng. Đi chưa được ba mươi dặm, tự nhiên xe gãy một bánh. Trác xuống xe cưỡi ngựa, đi chưa được mười dặm, ngựa tự dưng lồng lên gầm thét dữ tợn, lôi đứt dây cương.
Trác hỏi Lý Túc:
- Xe gãy bánh, ngựa đứt dây cương, là điềm thế nào?
Túc nói:
- Thế là cái điềm thái sư nối ngôi nhà Hán, thay cũ đổi mới. Từ nay thái sư sẽ ngồi kiệu ngọc yên vàng.
Trác nghe lấy làm lọt tai.
Hôm sau đương đi bỗng có cơn gió dữ nổi lên ầm ầm, mây kéo nghịt trời, Trác lại hỏi Túc:
- Thế là điềm gì?
Túc nói:
- Chúa công sắp lên ngôi rồng, cho nên mới có những ráng hồng mây tía, để thêm oai trời.
Trác lại mừng không lo gì nữa.
Khi Đổng Trác đến Trường An, trăm quan đều ra đón rước duy có Lý Nho cáo bệnh ở nhà không ra đón.
Trác đến tướng phủ. Lã Bố vào mừng.
Trác nói:
- Hễ ta làm vua, Phụng Tiên sẽ thống lĩnh cả binh mã trong thiên hạ.
Bố lạy tạ rồi nghỉ ngay ở dưới trướng.
Đêm hôm ấy, có một lũ trẻ đi ngoài đường hát rong, gió đưa tiếng hát vào tận màn. Hát rằng:
“Thiên lý thảo
Hà thanh thanh
Thập nhật bốc
Bắt đắc sinh” [3]
(Cỏ ngàn dặm
Sao xanh xanh?
Trên mười ngày
Chẳng được sống)
Tiếng hát nghe thực ai oán.
Trác nghe thấy mới hỏi Lý Túc:
- Trẻ hát như thế, hay dở thế nào?
Túc thưa:
- Thế nghĩa là họ Lưu sắp mất, họ Đổng sắp lên.
Mờ mờ sáng hôm sau, Trác sai bày nghi vệ, rồi bắt kẻ hầu người hạ, đi theo vào trong triều. Bỗng thấy một đạo quân áo xanh, khăn trắng, tay cầm một cái sào dài, trên buộc mảnh vải dài một trượng, hai đầu viết hai chữ khẩu [4].
Trác lại hỏi Lý Túc:
- Người ấy làm thế là ý thế nào?
Túc nói:
- Nó là một thằng rồ.
Rồi bảo tướng sĩ cứ việc đẩy xe đi.
Trác vào đến triều, các quan đều mặc áo trào, đứng đón cả hai bên đường, Lý Túc tay cầm thanh bảo kiếm, vịn xe Đổng Trác đẩy đi. Đến cửa Bắc Dịch, quân sĩ đều bị ngăn cả lại ở ngoài cửa, chỉ có hai mươi người được đẩy xe đi vào.
Trác vào khỏi cửa, thấy bọn Vương Doãn, ai nấy đều cầm gươm đứng cửa điện, sợ hỏi Lý Túc:
- Họ cầm gươm là ý gì?
Lý Túc không trả lời, cứ việc đẩy xe thẳng vào.
Vương Doãn bấy giờ mới thét to lên rằng:
- Phản tặc đã đến đây, võ sĩ đâu?
Hai bên hơn một trăm võ sĩ kéo ra, người cầm gươm kẻ vác đao, cùng đổ xô lại đâm Đổng Trác. Trác mặc áo giáp ở trong, giáo đâm không thủng, chỉ bị thương ở tay, ngã xuống xe, Trác gọi to lên rằng:
- Con ta Phụng Tiên đâu?
Lã Bố đứng ở đằng sau, nghe thấy tiếng gọi đến tên, bèn thét lên một tiếng rồi chạy ra nói rằng:
- Nay ta vâng chiếu vua giết thằng giặc này!
Một ngọn kích đâm trúng ngay cổ họng Đổng Trác.
Lý Túc liền cắt đầu Trác, lấy tay xách lên.
Lã Bố tay trái cầm kích, tay phải thò vào bọc, lấy tờ chiếu ra, nói to lên rằng:
- Phụng chiếu vua, giết được tặc thần là Đổng Trác, còn các người khác tha cho cả!
Các tướng sĩ đều reo:
- Vạn tuế!
Đời sau có thơ rằng:
Bá nghiệp thành công hoá đế vương
Không thành cũng vẫn được giàu sang
Ai biết lòng trời không thiên vị
My Ổ thành ra đất nát hoang.
Lã Bố lại hô lên rằng:
- Giúp Đổng Trác làm điều tàn ngược, đều tự Lý Nho cả, ai đi bắt nó cho ta?
Lý Túc xin đi.
Chợt nghe có tiếng reo ngoài cửa triều rồi có người vào báo rằng:
- Người nhà Lý Nho đã trói Lý Nho đem lại nộp.
Vương Doãn sai điệu Nho ra chợ chém; rồi lại sai đem đầu và thây Đổng Trác đi diễu, loan báo khắp các ngả đường cho mọi người cùng biết.
Thây Trác to béo; quân sĩ lấy mồi cắm vào rốn đốt lửa làm đèn, mỡ chảy đầy cả ra đường cái; nhân dân ai đi qua cũng lấy gạch đá ném vào đầu, lấy chân đạp vào thây.
Vương Doãn lại sai Lã Bố cùng với Hoàng Phủ Tung, Lý Túc lĩnh năm vạn quân đến My Ổ bắt người nhà Đổng Trác và tịch biên gia sản.
Lý Thôi, Quách Dĩ, Trương Tế, Phàn Trù, nghe tin Trác đã chết, mà Lã Bố thì sắp đến My Ổ, liền dẫn quân phi hùng, ngay đêm hôm ấy chạy ra Lương Châu.
Lã Bố đến My Ổ, trước hết tìm Điêu Thuyền.
Hoàng Phủ Tung sai đem những con gái nhà lương thiện bị Đổng Trác bắt hiếp vào làm tỳ thiếp, tha cho về nhà cả. Còn bao nhiêu họ hàng thân thuộc nhà Đổng Trác, không cứ lớn bé già trẻ đều đem ra giết sạch. Mẹ Trác cũng bị giết, em Trác là Đổng Mân, cháu Trác là Đổng Huy cũng bị chém, đầu bêu đi các ngã ba. Lại tịch thu những của cải chứa ở trong nhà, vàng vài mươi vạn lạng, bạc vài trăm vạn lạng; vóc, nhiễu, châu báu, đồ đạc không biết bao nhiêu mà kể. Xong rồi Tung về báo để Vương Doãn biết.
Doãn khao thưởng quân sĩ thực to, mở tiệc yến ở lễ đường tướng phủ, họp cả các quan lại uống rượu ăn mừng.
Đang ăn bỗng có người vào báo rằng:
- Thây Đổng Trác đang phơi ở chợ, bỗng có một người đến cúi xuống thây khóc vang lên.
Doãn giận lắm, quát rằng:
- Giết được Đổng Trác, quan dân ai ai cũng mừng cả, đứa nào lại dám khóc? Võ sĩ đâu, ra trói cổ nó điệu vào đây ta hỏi!
Một lát quân dẫn người khóc vào, tưởng là ai, hoá ra quan thị trung Sái Ung, Doãn tức giận nói:
- Nay trừ được thằng giặc Đổng Trác đi, là may cho xã tắc lắm. Người là bề tôi nhà Hán, đã không mừng cho xã tắc, lại khóc thằng giặc là cớ làm sao?
Ung xin nhận tội nói rằng:
- Tôi tuy chẳng ra gì, cũng có biết đôi điều nghĩa lớn lẽ đâu lại theo Đổng Trác. Nhưng vì tôi với Trác có chút ơn tri ngộ nên tôi tự cảm xúc thương khóc. Tôi cũng biết như thế là có tội nặng. Nhưng xin ngài hãy rộng thứ cho: Nếu bị thích chữ vào mặt, vào chân nhưng vẫn được sống chép nốt pho Hán sử để chuộc tội, thì may cho tôi quá!
Các quan tiếc Ung là người tài, ai cũng cố sức nói hộ. Quan thái phó là Mã Nhật Đê cũng ghé vào tai Doãn nói thầm rằng:
- Sái Ung là người tài, không mấy đời có được. Để cho hắn sống làm nốt pho Hán sử cũng là một điều hay! Vả lại Ung là một người hiếu hạnh, nay đem giết đi, e mất lòng thiên hạ.
Doãn nói:
- Ngày xưa, vua Hiếu Vũ không giết Tư Mã Thiên, sau để cho Tư Mã Thiên chép nốt sách sử, vì thế cho nên mới có sách sử gièm pha truyền đến bây giờ. Nay đang lúc vận nước suy yếu, chính sự nhầm lẫn, không nên để kẻ nịnh thần cầm bút ở bên mình ấu chúa, chúng ta sẽ bị nó chê cười.
Mã Nhật Đế không nói gì nữa, đi trở ra, nói riêng với các quan rằng:
- Vương Doãn cũng không toàn mệnh được đâu! Người hiền là rường mối nhà nước, sách sử là điển cố nhà nước. Bỏ cả rường mối, dứt cả điển cố, bền lâu làm sao được?
Doãn không nghe lời Mã Nhật Đê, sai bỏ Sái Ung vào ngục, bắt phải thắt cổ chết.
Các sĩ phu bấy giờ nghe thấy chuyện, ai cũng thương khóc.
Người đời sau bàn rằng Ung khóc Đổng Trác đã là không phải, nhưng Doãn giết Ung thì cũng là quá lắm.
Có thơ than Ung rằng:
Đổng Trác chuyên quyền thực bất nhân
Ung sao rước lấy vạ vào thân?
Bây giờ Gia Cát nằm trong núi
Đâu chịu ra thờ kẻ loạn thần.
Lý Thôi, Quách Dĩ, Trương Tế, Phàn Trù trốn sang Thiểm Tây, sai người đến Trường An, dâng biểu xin tạ tội.
Vương Doãn nói:
- Đổng Trác làm loạn, là bởi bốn đứa giúp cả. Nay tuy đại xá thiên hạ, duy bốn đứa ấy, không thể tha được.
Sứ giả về báo Lý Thôi, Thôi nói:
- Xin tha không được, thì cùng đi trốn cả là xong!
Mưu sĩ là Giả Hủ bàn rằng:
- Các ông bỏ quân mà đi trốn một mình thì chỉ một người đình trưởng, cũng bắt trói lại được. Chi bằng ta tụ tập người Thiểm Tây và quân mã của mình, kéo thẳng vào Trường An đánh báo thù cho Đổng công. Được ra thì lấy danh nghĩa triều đình mà hiệu lệnh thiên hạ. Ngộ thua, bấy giờ sẽ chạy cũng chưa muộn.
Bọn Lý Thôi lấy làm phải, liền nói phao lên ở Tây Lương rằng:
- Vương Doãn muốn giết sạch cả người Tây Lương
Dân chúng đều sợ hãi.
Lũ Lý Thôi lại nói khích rằng:
- Chịu chết uổng công vô ích, có ai theo ta làm phản không?
Dân chúng xin theo cả. Bởi thế lũ Lý Thôi một được hơn mười vạn quân, chia làm bốn đường, kéo vào Trường An. Đi đường lại gặp con rể Đổng Trác là trung lang tướng Ngưu Phụ, đem năm nghìn quân đi báo thù cho bố vợ. Lý Thôi hợp hai toán làm một, sai Phụ làm tiền khu đi trước, bốn tướng dần dần kéo đi sau.
Vương Doãn nghe thấy binh Tây Lương kéo đến bèn bàn với Lã Bố, Bố nói:
- Tư đồ đừng lo. Tôi coi chúng nó như đàn chuột.
Rồi cùng với Lý Túc đem quân ra. Túc đi trước nghênh địch, cùng Ngưu Phụ đánh nhau một trận. Phụ chống không nổi thua chạy.
Chẳng ngờ canh hai đêm hôm ấy, nhân lúc Túc không phòng bị, Ngưu Phụ kéo quân đến cướp trại Lý Túc. Quân Túc rối rít bỏ chạy ra hơn ba mươi dặm, chết mất quá nửa. Túc vào ra mắt Lã Bố. Bố nổi giận mắng rằng:
- Sao mày dám làm mất nhuệ khí của ta?
Nói rồi liền chém Lý Túc, treo đầu ở cửa quân.
Hôm sau Lã Bố tiến binh, cùng Ngưu Phụ đối địch. Phụ địch sao nổi được Bố, cho nên lại thua chạy. Đêm hôm ấy Ngưu Phụ gọi tướng tâm phúc tên là Hồ Xích Nhi bảo rằng:
- Lã Bố kiêu dũng lắm, thế khó địch nổi. Sao bằng ta không cho bọn Lý Thôi biết, ngầm giấu vàng bạc, châu báu đem dăm ba người thân tín bỏ trốn đi.
Hồ Xích Nhi ưng thuận. Ngay đêm hôm ấy Ngưu Phụ nhặt nhanh vàng bạc, châu báu, bỏ trại đi, chỉ đem ba bốn người đi theo. Đi đến một con sông, lúc súc qua đò, Xích Nhi trông thấy của cải ngốt mắt, muốn chiếm lấy một mình, liền giết Ngưu Phụ đem đầu Phụ đến dâng Lã Bố. Bố hỏi đầu đuôi người đi theo khai rằng: “Xích Nhi giết Phụ để lấy của”, Bố giận, lập tức giết ngay Xích Nhi.
Lã Bố dẫn quân tiến lên, gặp ngay quân mã Lý Thôi kéo đến. Bố không đợi cho bày trận, vác kích tế ngựa thúc quân xông vào, quân Lý Thôi không chống được, lui hơn năm mươi dặm, dựa vào sườn núi cắm trại.
Lý Thôi cho mời Quách Dĩ, Trương Tế, Phàn Trù lại bàn rằng:
- Lã Bố tuy khoẻ nhưng vô mưu, không lo sợ mấy. Nay ta đóng quân ở cửa hang, mỗi ngày ra khiêu chiến một lần. Quách tướng quân thì lĩnh quân đánh ở mặt sau, bắt chước lối Bành Việt quấy rối Sở ngày xưa. Nghe khua chiêng thì tiến binh, nghe đánh trống thì rút quân. Trong khi ấy thì hai ông chia quân ra hai đường, đi tắt vào lấy Trường An. Bên nó đầu cuối không tiếp ứng được nhau, tất nhiên sẽ thua.
Mọi người dùng kế ấy.
Lã Bố dẫn quân đến dưới núi, Lý Thôi đem binh ra đánh. Bố hầm hầm xông vào trận. Thôi lui chạy lên núi. Trên núi tên đá bắn xuống như mưa. Bố không lên được. Chợt có người báo rằng:
- Quách Dĩ ở đằng sau đánh lại.
Bố vội vàng quay lại đánh, nhưng nghe thấy tiếng trống vang lên, quân Dĩ đã lui rồi. Bố vừa toan thu quân, thì một chiêng khua, quân Thôi trên núi lại đánh xuống. Bố chưa kịp đối địch, đằng sau Quách Dĩ lại tiến lên đánh. Khi Lã Bố trở lại thì Dĩ lại đánh trống rút quân về. Lã Bố tức đầy ruột, ròng rã bốn hôm. Bố muốn đánh không đánh được, muốn thôi cũng không thôi được. Đang lúc tức mình có thám mã lại báo rằng:
- Trương Tế, Phàn Trù, hai cánh quân mã kéo vào Trường An, kinh thành nguy cấp lắm!
Bố vội vàng thu quân về. Lý Thôi, Quách Dĩ nhân thế đánh dấn lại. Bố vội quá không tham đánh nữa chỉ tháo đường chạy về kinh cho nhanh, người ngựa xốn xáo tổn thất khá nhiều. Khi Bố về đến Trường An, thấy quân giặc đông nghịt, Bố đánh không được. Quân sĩ thấy Bố hung bạo, bỏ đi theo giặc khá nhiều, Bố lo lắm.
Vài hôm sau, dư đảng của Đổng Trác là Lý Mông, Vương Phương ở trong thành làm nội công cho giặc, mở trộm cửa thành, bốn mặt giặc kéo ùa cả vào. Lã Bố hết sức chống cự không nổi, dẫn vài trăm quân kỵ mã đến trước cửa Thanh Toà, gọi Vương Doãn bảo rằng:
- Thế nguy cấp lắm rồi, xin tư đồ lên ngựa, cùng ra cửa quan với tôi, ta sẽ tìm kế khác.
Doãn cứ vững vàng nghiêm chỉnh như không, nói rằng:
- May ra nhờ thần linh xã tắc, nhà nước được yên, là sở nguyện của tôi; nếu không tôi xin đem thân cùng chết với nước. Gặp hoạn nạn mà bỏ trốn tránh để thoát lấy thân, thì tôi không làm. Xin Ôn hầu vì tôi mà nói với các bạn ở Quan Đông hết sức lo tính việc nước.
Lã Bố hai ba lần giục, Doãn nhất định không đi.
Được một lúc, các cửa thành lửa cháy ngùn ngụt, Lã Bố phải bỏ cả vợ con, dẫn hơn một trăm quân kỵ mã, chạy ra ngoài cửa ải, đi theo Viên Thuật.
Lý Thôi, Quách Dĩ thả cho quân tha hồ cướp bóc, Quan thái thường khanh Chủng Phất, quan thái bộc Lỗ Quỳ, quan đại hồng lô Chu Hoàn, thành môn hiệu uý Thôi Liệt, việt kỵ hiệu uý Vương Kỳ đều chết vì nạn nước.
Quân giặc vây kín nội đình. Các thị thần xin vua lên cửa Tuyên Bình để dẹp loạn. Lúc vua lên cửa, lũ Lý Thôi trông thấy lọng vàng, liền dừng ngựa lại, miệng hô vạn tuế.
Vua Hiến đế đứng lên lầu hỏi rằng:
- Các ngươi chưa tâu xin, dám tự tiện vào Trường An, ý các ngươi muốn làm gì?
Thôi, Dĩ ngẩng lên tâu rằng:
- Muôn tâu bệ hạ, Đổng thái sư là bầy tôi nhà vua, tự dưng bị Vương Doãn mưu giết. Nay chúng tôi đến tìm Vương Doãn để báo thù cho Đổng công, chứ không dám làm phản. Chúng tôi được trông thấy Vương Doãn xin rút quân ngay.
Vương Doãn bấy giờ đứng ở cạnh vua, nghe thấy nói thế tâu rằng:
- Tôi nguyện vì nước giết Trác. Nay chẳng may sự đến thế này, xin bệ hạ đừng tiếc tôi mà lỡ việc nước ra. Tôi xin xuống gặp hai tên giặc.
Vua dùng dằng không nỡ. Doãn từ trên lầu Tuyên Bình nhảy xuống đất, quát to rằng:
- Vương Doãn đây!
Lý Thôi, Quách Dĩ rút gươm ra mắng rằng:
- Đổng thái sư tội tình gì mà mày giết?
Doãn nói:
- Tội Đổng Trác đầy trời suốt đất, nói sao cho xiết. Hôm nó chết ở Trường An, từ quan chí dân, ai là không mừng, chúng bay lại không biết à?
Thôi, Dĩ lại hỏi rằng:
- Ừ, như thái sư có tội đã đành, chúng tao có tội gì, sao xin tha cũng không được?
Vương Doãn chửi rầm lên mà mắng rằng:
- Nghịch tặc nói làm chi cho lắm! Vương Doãn tao chỉ chờ chết mà thôi.
Thôi, Dĩ giết Doãn ngay dưới lầu.
Sử quan có thơ khen Vương Doãn rằng:
Vương Doãn bày mưu hay
Gian thần bị giết ngay
Thương dân nên tức ruột
Xót nước lại chau mày
Sao tỏ, lòng trung giãi
Mây cao, khí nghĩa đầy
Đến nay hồn vía ấy
Quanh quất Phượng lâu này.
Lũ Lý Thôi giết Vương Doãn xong rồi, một mặt sai người bắt cả họ hàng nhà Doãn giết sạch. Sĩ dân ai nấy đều thương khóc, Lý, Quách lại bàn nhau rằng:
- Đã đến thế này, còn vua không giết nốt để mưu việc lớn, còn đợi đến bao giờ?
Hai đứa cầm gươm reo to, kéo vào trong cung.
Thế rõ thực:
Đầu sỏ tạ tội, tai nạn hết
Gặp quân tặc đảng lại sinh nguy.
Chưa biết tính mạng vua Hiến đế ra sao, xem hồi sau sẽ rõ.
Chú thích: 
1. Đời Xuân Thu, Sở Trang Vương một đêm cùng quần thần ăn tiệc, đèn chợt tắt, có người thừa cơ đến ghẹo vương phi. Vương phi vội dứt đứt dải mũ người ấy để làm tang vật rồi báo cho Trang Vương biết mà truy tìm. Trang Vương liền hạ lệnh cho quần thần trong bữa tiệc đều phải dứt hết dải mũ; đến lúc thắp đèn, mọi người đều đội mũ không có dải. Thế là không ai biết người ghẹo vương phi là ai nữa. Về sau người ta gọi bữa tiệc ấy là “Việt anh hội” nghĩa là “Hội dứt dải mũ”.
2. Túc có công xúi Lã Bố giết Đinh Nguyên để về với Trác, nên sai Túc đi mời Trác thì Trác không nghi ngờ, nhưng vì hận Trác nên đồng mưu với Lã Bố giết Trác.
3. Chữ thảo, chữ thiên, chữ lý, chắp lại thành chữ Đổng; chữ bốc, chữ nhật, chữ thập, chắp lại thành chữ Trác.
4. Hai chữ khẩu là chữ Lã, vải là chữ Bố
Hồi 10:
Giúp nhà vua, Mã Đằng khởi nghĩa
Báo thù bố, Tào Tháo cất quân
Lý Thôi, Quách Dĩ hai đứa muốn giết vua Hiến đế. Trương Tế, Phàn Trù can rằng:
- Không nên! Nay ta vội giết vua như thế, tôi e rằng thiên hạ không phục. Không bằng cứ để đấy, rồi dụ chư hầu vào trong cửa quan: trước hết trừ hết vây cánh, rồi sau ta sẽ liệu, như thế mới tính xong được việc thiên hạ.
Lý Thôi, Quách Dĩ nghe lời bèn đóng quân lại.
Vua ở trên lầu phán hỏi rằng:
- Vương Doãn đã bị giết rồi, sao quân mã chưa rút?
Lý Thôi, Quách Dĩ thưa rằng:
- Muôn tâu bệ hạ, chúng tôi có công với nhà vua, chưa được phong tước, cho nên chưa dám lui quân.
Vua phán hỏi:
- Các người muốn được phong tước gì?
Lý, Quách, Trương, Phàn bốn đứa cầu phong chức hàm gì, đều tự tay viết ra dâng lên, đòi vua phải phong như thế. Vua bắt buộc phải nghe theo:
1. Lý Thôi làm sa kỵ tướng quân, Trì Dương hầu, lĩnh chức tư lệ hiệu uý, được dùng cờ tiết, lưỡi phủ việt.
2. Quách Dĩ, làm hậu tướng quân, Mỹ Dương hầu, cũng được dùng cờ tiết, lưỡi phủ việt.
Hai người cùng giữ quyền chính trong triều.
3. Phàn Trù, làm hữu tướng quân, Vạn Niên hầu.
4. Trương Tế, làm phiêu kỵ tướng quân, Binh Dương hầu.
Trương, Phàn hai người lĩnh binh ra đóng đồn ở Hoằng Nông.
Còn lũ Lý Mông, Vương Phương đều được phong làm hiệu uý.
Bọn ấy lại sai người đi tìm đầu và thây Đổng Trác. Tìm được ít nhiều da xương vụn nát, chúng lấy gỗ thơm, khắc thành hình thể, chắp ghép đâu vào đấy, cúng tế thực to, áo mũ quan quách, dùng theo đám ma nhà vua, chọn ngày tốt làm lễ cất đám rước sang táng ở My Ổ.
Táng xong, bỗng nhiên trời nổi sấm sét, mưa to gió lớn, mặt đất ngập sâu vài thước. Một tiếng sét đánh vào áo quan Đổng Trác, đầu và thây bật cả ra ngoài.
Lý Thôi đợi tạnh mưa, lại đem táng lại. Đêm hôm ấy trời lại mưa to, sấm sét lại đánh vào áo quan Trác như trước; ba lần cải táng không xong, da xương thịt vụn Đổng Trác bị mấy lần sét đánh tan tành.
Lý Thôi, Quách Dĩ cầm được quyền chính, tàn đãi dân chúng, trăm họ khổ sở điêu đứng. Chúng lại mật sai những người tâm phúc hầu bên cạnh vua để dò la ý tứ.
Vua Hiến đế bấy giờ như ngồi trên chông gai.
Các quan trong triều thăng giáng đều do hai đứa Thôi, Dĩ cả. Muốn thu phục lòng người, chúng mời Chu Tuấn vào triều, phong làm chức thái bộc, cho dự triều chính.
Một hôm có người báo rằng:
- Thái thú Tây Lương là Mã Đằng, thái sử Tịnh Châu là Hàn Toại, hai người dẫn hơn mười vạn quân, kéo đến Trường An, nói rằng vào để đánh giặc.
Hai người ấy vốn đã có sai người vào Trường An, mật kết với thị trung là Mã Vũ, gián nghị đại phu là Chủng Thiệu, tá trung lang tướng là Lưu Phạm, để ba người ấy làm nội ứng. Ba người mật tâu với vua phong cho Mã Đằng làm chỉnh tây tướng quân, Hàn Toại làm chấn tây tướng quân, trao cho mỗi người một tờ mật chiếu, sai hợp sức nhau lại để đánh giặc.
Lý, Quách, Trương, Phàn nghe tin hai cánh quân ấy sắp đến, họp nhau để bàn. Mưu sĩ là Giả Hủ nói rằng:
- Hai đám quân ấy từ xa đến, chỉ nên đắp thành cao, hào sâu, cố thủ để chống lại, bất quá chỉ độ trăm ngày, chúng cạn lương là phải rút. Bấy giờ ta sẽ kéo quân đuổi theo, chắc chắn bắt được.
Lý Mộng, Vương Phương nói rằng:
- Kế ấy không hay. Chúng tôi xin lĩnh một vạn tinh binh ra đánh, lập tức chém đầu Mã Đằng, Hàn Toại dâng dưới cờ.
Giả Hủ nói:
- Hễ mà đánh nhau, tất ta thua!
Hai người bảo Hủ rằng:
- Nếu hai chúng tôi thua, xin chịu chém đầu. Nhưng nếu chúng tôi được, ông cũng phải nộp đầu cho chúng tôi.
Hủ mới bảo Lý Thôi, Quách Dĩ rằng:
- Ở phía tây Trường An, ngoài hai trăm dặm, có núi Trập Chất, đường ấy hiểm trở, nên sai Trương Tế, Phàn Trù hai tướng ra đóng đồn ở đấy giữ cho vững, rồi hãy để mặc Lý Mông, Vương Phương lĩnh quân ra đánh.
Lý, Quách nghe lời, điểm một vạn rưởi quân mã giao cho Lý Mông, Vương Phương. Hai người mừng rỡ, đem quân đi, ra khỏi Trường An hai trăm tám mươi dặm hạ trại đóng quân ở đó.
Quân Tây Lương đến, hai người dẫn quân ra đánh. Lúc hai bên dàn trận rồi, Mã Đằng, Hàn Toại sóng ngựa cùng ra trước trận, trỏ Lý Mông, Vương Phương nói rằng:
- Giặc phản nước kia, ai ra bắt lấy nó!
Nói chưa dứt lời, có tướng trẻ tuổi, mặt đẹp như ngọc, mắt sáng như sao, mình hổ tay vượn, bụng beo lưng sói, tay cầm một ngọn giáo dài, mình cưỡi con ngựa đẹp đẽ từ trong trận tế ra.
Tướng ấy vốn là con Mã Đằng, tên Mã Siêu, tự là Mạnh Khởi, mới có mười bảy tuổi, khoẻ mạnh không ai bằng.
Vương Phương thấy Siêu còn bé khinh thường, nhảy ngựa lại đánh. Chưa được mười hiệp, Mã Siêu đâm Phương chết ngã xuống đất, rồi quay ngựa trở về.
Lý Mông thấy Phương chết, tế ngựa theo sau Mã Siêu để đánh trả thù. Siêu cứ lững thững đi trở về làm ra vẻ không biết. Mã Đằng ở cửa trận gọi to: “Đằng sau có người đuổi theo”. Đằng nói chưa dứt lời, đã thấy Mã Siêu bắt sống Lý Mông ngay ở trên mình ngựa. Té ra Siêu vẫn biết có Mông đuổi, lờ như không trông thấy, đợi cho Mông đến, phóng dao ra đâm. Siêu mới tránh sang một bên, Mông đâm hụt, hai con ngựa giáp nhau. Siêu bấy giờ mới quờ tay vượn ra bắt sống được Mông.
Quân Lý Mông không có chủ, chạy trốn tán lạc cả. Mã Đằng, Hàn Toại thừa thế đuổi đánh, thắng to, xông thẳng đến cửa thành hạ trại rồi đem Lý Mông ra chém bêu đầu.
Lý Thôi, Quách Dĩ thấy Mông, Phương cùng bị giết cả, mới tin là Giả Hủ có tài biết trước, bấy giờ mới nhất định dùng kế của Hủ, chỉ giữ vững các cửa thành, mặc bên kia khiêu chiến thế nào cũng không ra. Quả nhiên chưa được hai tháng, quân Mã Đằng, Hàn Toại cạn lương, hai tướng phải bàn nhau rút quân về.
Giữa lúc ấy thì ở trong thành đầy tớ Mã Vũ ra thú với lũ Lý, Quách, kháo rằng chủ nó cùng với Lưu Phạm, Chủng Thiệu liên kết với Mã Đằng, Hàn Toại để làm nội ứng. Lý, Quách giận lắm bắt hết cả già trẻ, lớn bé ba nhà đem ra chợ chém, rồi mang ba đầu lâu ra bêu trước cửa thành.
Mã Đằng, Hàn Toại thấy quân lương đã hết, nội ứng lại bị tiết lộ, phải nhổ trại đem quân về. Lý, Quách sai Trương Tế đem quân đuổi Mã Đằng, sai Phàn Trù đem quân đuổi Hàn Toại. Quân Tây Lương thua to, may được Mã Siêu đi hậu quân đánh lùi được quân Trương Tế.
Phàn Trù đuổi Hàn Toại, dần dần đuổi kịp, gần đến Trần Thương, Hàn Toại quay ngựa lại bảo Trù rằng:
- Tôi với ông người cùng làng với nhau, nay sao vô tình quá thế!
Trù thấy nói dừng ngựa lại nhìn rồi nói rằng:
- Có lệnh trên sai, ta phải tuân theo!
Toại lại nói:
- Tôi lại đây cũng vì việc nước, sao lại quá bức bách nhau như thế?
Trù nghe xong quay ngựa lại, thu quân trở về, để cho Toại đi. Không ngờ có cháu Lý Thôi là Lý Biệt đi theo sau, thấy Phàn Trù tha Hàn Toại, về mách với chú. Thôi giận lắm muốn đem binh ra đón đánh Phàn Trù. Giả Hủ lại can rằng:
- Nay nhân tâm chưa được yên, mà cứ dấy binh mãi mãi không nên, sao bằng mở một tiệc rượu, mời Trương, Phàn đến để mừng công, rồi đang cuộc rượu bắt Trù đem chém chẳng phải khó nhọc gì.
Lý Thôi ưng theo kế ấy, bèn mở tiệc mời hai người đến. Trương, Phàn hớn hở đến ăn yến. Đang giữa tiệc Lý Thôi sầm mặt lại rồi hỏi rằng:
- Phàn Trù sao dám tư thông với Hàn Toại, định làm phản hay sao?
Trù giật nảy mình, chưa kịp trả lời thì mấy tay đao phủ đã vào kéo Trù ra, chém ngay trước tiệc. Trương Tế trông thấy khiếp đảm, cúi rạp xuống tận đất. Lý Thôi nâng Tế dậy mà nói rằng:
- Trù mưu phản, nên ta phải giết. Người là tâm phúc với ta, việc gì mà sợ.
Nói rồi Thôi đem quân của Trù, giao cho Tế quản lĩnh. Tế dẫn quân về Hoằng Nông.
Từ khi Lý Thôi, Quách Dĩ đánh được quân Tây Lương, chư hầu không ai dám chống lại. Giả Hủ lại khuyên rằng:
- Phải cốt giữ cho dân được yên; phải thu dùng những người hiền tài.
Từ bấy giờ trở đi triều đình mới hơi thấy có vẻ dễ chịu.
Nhưng không ngờ lại có đám giặc Khăn Vàng ở Thanh Châu nổi dậy, tụ quân vài mươi vạn khởi loạn, cướp bóc của dân. Thái bộc là Chu Tuấn xin tiến cử một người để đi dẹp giặc.
Thôi, Dĩ hỏi ai. Tuấn nói:
- Muốn phá giặc Sơn Đông, phi Tào Tháo không xong.
Lý Thôi nói:
- Bây giờ Tào Tháo ở đâu?
Chu Tuấn thưa:
- Hiện Tháo đang làm thái thú Đông Quận, trong tay có nhiều quân sĩ, giá sai người này đi đánh giặc, thì không mấy bữa giặc sẽ tan.
Lý Thôi mừng lắm, ngay đêm hôm ấy thảo tờ chiếu cho người mang ra Đông Quận, sai Tào Tháo cùng với tướng Tế Bắc là Pháo Tín đi đánh giặc. Tháo vâng chiếu họp với Pháo Tín, cùng tiến quân đánh giặc ở Thọ Dương.
Pháo Tín vào đất giặc, bị giặc giết chết. Còn Tào Tháo đuổi giặc đến tận Tế Bắc, giặc hàng vài vạn người. Tháo lại dùng ngay giặc làm tiền khu, quân đi đến đâu, giặc hàng đến đấy. Mới được hơn một trăm ngày chiêu an được hơn bốn mươi vạn quân hàng. Vừa đàn ông, đàn bà kéo lại theo Tháo hơn một triệu người. Tháo tuyển lấy những quân tinh nhuệ, đặt riêng một cánh quân gọi là quân Thạch Châu, còn bao nhiêu đuổi về cho làm ruộng. Từ đó uy danh Tào Tháo mỗi ngày một lừng lẫy, tiếng đồn về đến tận kinh, triều đình phong cho Tháo làm Chấn đông tướng quân.
Tào Tháo ở Duyện Châu chiêu mộ thu dùng những người hiền sĩ.
Ở làng Dĩnh Âm châu Dĩnh Xuyên, có một nhà hai chú cháu cùng đi theo Tào Tháo. Người chú họ Tuân tên Úc, tự là Văn Nhược, nguyên là con Tuân Côn. Úc trước đã thờ Viên Thiệu, bây giờ bỏ Thiệu về với Tháo. Tháo cùng Úc nói chuyện xong rồi mừng lắm nói rằng: “Người này là Tử Phòng[1] của ta đây!”, rồi cho làm hành quân tư mã.
Người cháu tên là Tuân Du, tên chữ là Công Đạt, vốn có tiếng là một danh sĩ, trước đã làm hoàng môn thi lang, sau bỏ quan về làng, nay theo chú sang với Tào Tháo. Tháo cho làm hành quân giáo thụ.
Tuân Du lại nói với Tháo rằng:
- Tôi nghe ở Duyện Châu có một người hiền sĩ, vốn ở Đông An, họ Trình tên Dục, tự là Trọng Đức, nhưng không biết bây giờ ở đâu? Người ấy chúa công nên dùng.
Tháo nói:
- Ta đã biết tiếng Trình Dục từ lâu.
Nói rồi sai người về tận Đông An để hỏi cho được, thấy họ bảo rằng: Trình Dục đang ở trong núi đọc sách. Tháo cho mời ra, Trình Dục đến bái kiến, Tháo mừng lắm.
Dục lại bảo với Tuân Úc rằng:
- Tôi là người quê kệch, học hành chưa được mấy, không xứng đáng với sự tiến cử của ông. Nay tôi biết có một người cùng làng với ông, tên là Quách Gia, tự là Phụng Hiếu, người ấy thực là hiền sĩ thời nay. Sao ông không triệu ra?
Úc sực nhớ đến nói rằng:
- Suýt nữa tôi quên mất người ấy!
Úc nói chuyện ngay với Tháo. Tháo cho đi mời Quách Gia. Gia đến Duyện Châu bàn việc thiên hạ với Tào Tháo, rồi lại tiến Tháo một người nữa, dòng dõi vua Quang Vũ, người Thanh Đức, họ Lưu tên Hoa, tự là Tử Dương.
Tháo cho mời Hoa đến. Hoa lại tiến hai người nữa, một người ở Sương Ấp, họ Mãn tên Sủng, tự là Bá Ninh; người nữa ở Vũ Thành, họ Lã tên Kiền, tự là Tử Khác. Tháo cũng đã biết tiếng hai người ấy, cho nên đặt ngay làm trung quân tùng sự.
Hai người lại tiến Tháo một người nữa, họ Mao tên Giới, ở Bình Kỳ, tự là Hiếu Tiên. Tháo cũng cho làm tùng sự.
Được ít bữa lại có một tướng nữa, đem vài trăm quân mã lại xin theo Tháo, người ở Cự Binh, tên là Vu Cấm, tự là Văn Tắc. Tháo thấy người ấy bắn cung cưỡi ngựa giỏi, võ nghệ hơn người, liền cho làm điển quân tư mã.
Một hôm Hạ Hầu Đôn lại dắt một người cực to lớn lại ra mắt Tào Tháo. Tháo hỏi ai, Đôn thưa rằng:
- Người ấy ở Trần Lưu, họ Điển tên Vi, sức khoẻ không ai địch nổi. Trước Vi đã theo Trương Mạc, liền giết vài mươi người rồi trốn vào núi ở. Tôi đi săn gặp Điển Vi đang đuổi hổ nhảy qua suối, nay tôi đem về dâng chúa công.
Tháo nói:
- Ta xem người này tướng mạo khôi ngô, tất là người có sức khoẻ.
Đôn lại nói:
- Điển Vi từng báo thù cho bạn, giết người xách đầu ra ngoài chợ, hàng mấy trăm người không dám đến gần. Y sử dụng được hai ngọn kích sắt, nặng hơn tám mươi cân, cắp ngồi trên ngựa, vung múa nhẹ như bay.
Tào Tháo lập tức sai Vi ra thử kích.
Vi cắp đôi kích lên ngựa nhẹ nhàng đi lại như bay.
Bỗng bấy giờ có một cơn gió to, lá cờ lớn trồng dưới trướng lung lay sắp đổ. Quân sĩ lại xúm xít ôm giữ không nổi.
Điển Vi thấy vậy, từ trên ngựa nhảy xuống, quát to một tiếng, đuổi quân sĩ lui ra, rồi một tay nắm chắc lấy, cột cờ đứng im phăng phắc giữa luồng gió.
Tháo thấy thế mừng nói rằng:
- Người này thực là Ác Lai[2] ngày xưa đây!
Liền cho làm tướng đô uý, cởi ngay áo gấm đang mặc cho Điển Vi, lại cho thêm một con ngựa thực tốt và một bộ yên chạm.
Từ bấy giờ bộ hạ Tào Tháo, văn có người tài, vũ có tướng giỏi, uy danh lừng lẫy cả Sơn Đông. Tháo bèn sai thái thú Thái Sơn là Ung Thiệu, về quân Lương Gia đón bố là Tào Tung.
Tung trước ở Trần Lưu, từ khi loạn lánh sang ở Lương Gia. Bấy giờ tiếp được thư bèn cùng em là Tào Đức và người nhà hơn bốn mươi người, lại đem hơn một trăm đầy tớ, ngồi mấy trăm cỗ xe, kéo nhau về Duyện Châu.
Lúc đi qua Từ Châu, quan thái thú ở đấy là Đào Khiêm, tên chữ là Cung Tổ, người ôn hậu hoà nhã, vốn xưa nay vẫn muốn làm quen với Tào Tháo, nay thấy bố Tào Tháo đi qua địa hạt mình bèn thân hành ra đón chào lạy cung kính, mở tiệc khoản đãi mấy ngày liền. Lúc Tung đi, Khiêm thân đưa ra khỏi thành, rồi lại sai đô uý là Trương Khải đem năm trăm bộ binh đi hộ tống.
Khi Tung và người nhà đi đến địa giới đất Hoa và Phí, bấy giờ vào cuối hạ sang thu, bỗng gặp cơn mưa to, phải vào nghỉ nhờ một ngôi chùa. Sư tăng trong chùa ra tiếp. Tung thu xếp cho người nhà nơi ăn chỗ nghỉ, rồi sai Trương Khải đem quân mã đóng hai bên hành lang chùa.
Bị mưa ướt cả quần áo và hành trang, quân sĩ đều kêu ca oán thán. Trương Khải mới gọi những đầu mục thủ hạ đến một chỗ vắng và bảo rằng:
- Chúng ta vốn là dư đảng Khăn Vàng, bất đắc dĩ phải đầu hàng Đào Khiêm. Từ ấy đến giờ chưa thấy được lợi lộc gì. Nay của cải nhà họ Tào chất đầy bao nhiêu xe cộ, các anh em muốn phú quý, cũng chẳng khó gì. Canh ba đêm hôm nay, chúng ta bổ cửa chùa vào giết hết cả nhà Tào Tung, lấy sạch của cải, rồi ta lại cùng nhau về rừng làm nghề lạc thảo, kế ấy anh em nghĩ thế nào?
Quân sĩ đều cùng thuận cả.
Đêm hôm ấy mưa gió chưa dứt. Tung đương ngồi bỗng nghe thấy bên ngoài bốn mặt có tiếng hò reo rầm rĩ. Tào Đức cầm gươm ra xem việc gì, bị đâm chết ngay.
Tung vội vàng dắt một người thiếp chạy vào buồng phương trượng, định nhảy qua tường đi trốn, chẳng may phải người thiếp to béo không ra lọt. Tung vội vàng cùng người thiếp ẩn vào trong chuồng tiêu, rồi cả hai đều bị loạn quân giết mất.
Ung Thiệu là người Tào Tháo sai đi đón bố, chạy thoát, sang ở với Viên Thiệu.
Khải giết hết cả nhà Tào Tung, lấy sạch của cải, đốt chùa, đem năm trăm quân trốn về Hoài Nam.
Đời sau có thơ rằng:
A Man vốn có tiếng gian hùng
Hại cả nhà Sa thật nhẫn lòng
Bỗng chốc gặp ngay người khác hại
Lòng giời báo ứng khiếp hay không?
Bấy giờ bộ hạ Ung Thiệu có một người trốn được về báo với Tào Tháo.
Tháo nghe tin khóc lăn xuống đất, mọi người vực dậy, Tháo nghiến răng lại nói rằng:
- Đào Khiêm hỡi! Dám thả cho quân giết bố tao. Thù này mày với tao không đội trời chung được! Nay ta khởi hết đại quân, sang giết sạch cả Từ Châu mới hả được giận này!
Liền sai Tuân Úc, Trình Dục lĩnh ba vạn quân ở lại giữ Nhân Thành, Phạm Huyện, Đông An, còn bao nhiêu quân kéo cả đến Từ Châu, sai Hạ Hầu Đôn, Vu Cấm, Điển Vi làm tiên phong. Tháo hạ lệnh rằng:
- Hễ đánh được thành trì nào, bao nhiêu dân trong thành đều phải đem giết nhẵn để báo thù cho cha ta.
Bấy giờ có thái thú ở Cửu Giang tên là Biên Nhượng vốn là bạn thân với Đào Khiêm, nghe thấy Từ Châu có nạn, đem năm nghìn quân lại cứu.
Tháo nghe thấy giận lắm, sai Hạ Hầu Đôn đón đường giết chết Biên Nhượng.
Trần Cung khi ấy làm tùng sự ở Đông Quận, chơi rất thân với Đào Khiêm, nghe thấy tin Tào Tháo khởi binh báo thù cho cha, định giết cả dân Từ Châu, sáng tinh sương hôm ấy đến xin vào ra mắt Tào Tháo. Tháo biết rằng Cung vào để nói cho Đào Khiêm, đã toan không tiếp sau lại nghĩ đến ân cũ nghĩa xưa, nên phải mời vào. Cung vào nói rằng:
- Nay tôi nghe thấy ông đem đại binh đến Từ Châu, báo thù cho tôn phụ, ông định đi đến đâu giết sạch muôn dân, cho nên tôi đến đây xin trình bày một lời. Đào Khiêm vốn là hiền nhân quân tử, phải là tội của Trương Khải, chứ không phải là tội của Khiêm. Vả lại, dân chúng các châu huyện có thù gì với tướng quân, xin tướng quân nghĩ lại cho kỹ rồi sẽ làm.
Tháo nổi giận nói rằng:
- Trước kia ông đã bỏ ta mà đi, nay còn mặt mũi nào lại trông thấy nhau? Đào Khiêm nó giết cả nhà ta, ta thề moi ruột móc gan nó ra, mới hả được giận. Ông làm thuyết khách cho Đào Khiêm, nhưng ta chẳng nghe, thì làm thế nào?
Trần Cung từ biệt Tào Tháo trở ra, than rằng:
- Chuyến này ta cũng không mặt nào trông thấy Đào Khiêm nữa!
Nói rồi giục ngựa sang với thái thú Trần Lưu là Trương Mạc.
Tào Tháo đi đến đâu cũng cho quân tàn hại dân chúng đến đấy, đào mồ quốc mả người ta, ai ai cũng sợ.
Đào Khiêm ở Từ Châu nghe thấy Tháo giết dân hại lắm, bèn ngửa mặt lên trời mà khóc rằng:
- Ta để cho dân Từ Châu mắc phải nạn này, phải mang tội với trời đất!
Rồi lập tức họp các quan lại để bàn. Tào Báo nói:
- Quân Tào đã đến nơi, lẽ đâu ta lại ngồi khoanh tay mà chịu chết. Tôi xin giúp sứ quân phá giặc.
Đào Khiêm bất đắc dĩ phải đem quân ra đón, xa trông thấy quân Tháo trắng xoá, tựa hồ như sương sa tuyết toả, ở trung quân dựng hai lá cờ trắng, trên đề bốn chữ to “Báo thù rửa hận”.
Quân mã dàn thành thế trận, Tào Tháo cưỡi ngựa ra, mình mặc đồ tang trỏ roi thét mắng.
Đào Khiêm cũng cưỡi ngựa ra dưới cửa cờ, nghiêng mình, vái mà nói rằng:
- Ta vốn muốn kết hiếu với minh công, nên mới sai Trương Khải đi hộ tống. Không ngờ tướng giặc Trương Khải, ngựa quen đường cũ; đến nỗi xảy ra việc như thế. Quả tình tôi oan, xin minh công xét kỹ cho.
Tháo quát mắng rằng:
- Thằng già kia, mày đã giết bố tao, còn dám mở mồm? Ai ra bắt sống thằng giặc già kia vào đây!
Hạ Hầu Đôn nhảy ra. Đào Khiêm vội vàng chạy về trận. Đôn xông lại. Tào Báo thúc ngựa ra đánh. Hai ngựa đang giao nhau, bỗng đâu nổi trận gió to, sỏi cát bay mù mịt; hai bên đều thu quân về.
Đào Khiêm vào thành bàn với quân sĩ
- Quân Tào thế to, khó địch lắm. Ta nên tự trói mình, thân đến dinh quân Tào, tuỳ nó hành tội, để cứu lấy dân trong quận Từ Châu!
Khiêm nói chưa dứt lời, có một người tiến lên thưa rằng:
- Sứ quân trấn thủ Từ Châu đã lâu, dân chúng ai cũng cảm phục. Nay quân Tào tuy nhiên, nhưng vị tất, đã phá được thành ngay. Sứ quân hãy cứ cùng với trăm họ giữ thành cho vững. Tôi tuy bất tài, nhưng dám hiến một kế nhỏ, làm cho Tào Tháo chết không có chỗ chôn.
Ai nấy giật mình hỏi kế làm sao?
Thế thực là:
Bởi muốn cầu thân nên kết oán
Ai hay đất tuyệt có đường sinh!
Chưa biết người hiến kế là ai, xem đến hồi sau sẽ rõ.
Chú thích:
1. Trương Lương, tướng giỏi nhà Hán.
2. Tên một võ tướng rất khoẻ ở đời chúa Trụ (nhà Thương).
Hồi 11:
Lưu hoàng thúc cứu Khổng Dung ở Bắc Hải
Lã Ôn hầu phá Tào Tháo thành Bộc Dương
Người hiến kế cho Đào Khiêm vốn là người ở Đông Hải, tên là My Chúc, tự là Tử Trọng.
Chúc nguyên là con nhà hào phú, một bữa ra thành Lạc Dương mua bán, đi xe về đến nửa đường gặp một người con gái xinh đẹp xin cho đi xe nhờ. Chúc xuống đi bộ, nhường xe cho người con gái ấy ngồi.
Người ấy cứ nhất định mời My Chúc lên ngồi. Chúc lên xe, ngồi thực nghiêm trang, mắt không trông ngang.
Đi được vài dặm, người con gái xin xuống xe, từ giã My Chúc, nói rằng:
- Ta là Hoả Đức tính quân ở phương nam, phụng mệnh Thượng đế xuống để đốt cháy nhà ngươi. Nay thấy ngươi đãi ta có lễ phép, nên ta bảo cho ngươi biết trước. Ngươi nên về nhà mau, dọn dẹp hết đồ đạc đi. Đêm nay ta sẽ đến.
Nói rồi biến mất.
Chúc thất kinh, vội vàng chạy về trong nhà có gì chạy đi hết. Tối hôm ấy quả nhiên trong bếp phát hoả, nhà cửa cháy hết.
Chúc cũng vì thế mà đem gia tài phân tán, cứu giúp người nghèo khó. Về sau Đào Khiêm đón về cử làm biệt giá tùng sự.
Bấy giờ My Chúc hiến kế rằng:
- Tôi xin sang quận Bắc Hải cầu Khổng Dung đến cứu. Lại xin sai một người nữa sang Thanh Châu cầu cứu Điền Khải. Hai nơi ấy cho quân mã đến thì Tào Tháo tất phải lui.
Khiêm nghe lời, viết hai bức thư, rồi hỏi:
- Dưới trướng có ai dám sang Thanh Châu không?
Một người xin đi, là Trần Đăng, tự là Nguyên Long, người Quảng Lăng.
Nguyên Long đi rồi, My Chúc cũng đi sang Bắc Hải, Đào Khiêm tự mang quân giữ thành.
Khổng Dung tự là Văn Cử, người làng Khúc Phụ, nước Lỗ, là cháu đời thứ hai mươi đức Khổng Tử; con quan đô uý thái sơn là Khổng Trụ. Dung vốn thông minh từ thuở nhỏ, năm lên mười tuổi Dung có vào yết kiến quan doãn ở Hà Nam tên là Lý Ung. Lúc đến cửa quan canh hỏi đi đâu Dung nói:
- Ta là thông gia với Lý tướng.
Khi vào đến nơi. Lý Ung mới hỏi:
- Tổ mày có họ hàng gì với tổ nhà tao?
Dung nói:
- Ngày xưa Khổng Tử hỏi Lão Tử[1] về việc lễ, nhà Dung với nhà ông chẳng phải đời đời thông gia với nhau là gì?
Ung lấy làm kỳ.
Được một hồi, có thái trung đại phu là Trần Vĩ đến chơi. Ung trỏ vào Khổng Dung và nói rằng:
- Thằng bé này là kỳ đồng!
Trần Vĩ bĩu môi nói rằng:
- Những đứa thuở nhỏ thông minh như thế, ngày sau lớn vị tất đã ra gì!
Dung liền ứng đối ngay rằng:
- Thưa ông, hẳn thuở nhỏ ông thông minh lắm!
Cả bọn đi với Trần Vĩ cùng cười ồ lên mà nói rằng:
- Người này lớn lên tất là người giỏi giang trong đời.
Từ đấy Dung nổi tiếng, sau làm trung lang tướng, dần dần được làm thái thú Bắc Hải.
Khổng Dung tính ưa thết khách, thường nói rằng:
- Trên chỗ ngồi lúc nào cũng đông khách, trong hồ lúc nào cũng có rượu, thế là sướng nhất trần gian.
Dung ở Bắc Hải được sáu năm, dân chúng rất là yêu mến. Hôm ấy Dung đương ngồi chơi với khách, có người vào báo rằng có My Chúc ở Từ Châu muốn vào hầu.
Dung cho mời vào hỏi có việc gì, Chúc đưa thư của Đào Khiêm ra, rồi nói rằng:
- Tào Tháo vây gấp lắm, xin minh công sang cứu cho.
Dung nói:
- Ta với Đào Cung Tổ là chỗ chí thân, vả Tử Trọng lại thân hành đến tận đây, lẽ đâu lại không cứu; nhưng ta với Tào Mạnh Đức không có thù gì. Vậy trước hết ta tưởng hãy nên sai người đưa thư giải hoà đã, nếu Tháo không nghe, bấy giờ ta sẽ khởi hành.
Chúc nói:
- Tào Tháo cậy có nhiều quân, quyết không chịu hoà.
Dung liền sai một mặt thì điểm binh sẵn, một mặt cho người đưa thư cho Tào Tháo.
Lúc đang bàn bạc, chợt có người báo rằng:
- Có dư đảng của đám Khăn Vàng ngày xưa, tên là Quản Hợi, đem mấy vạn quân đến thành để khiêu chiến.
Quản Hợi tế ngựa ra nói rằng:
- Bắc Hải nhiều lương, cho ta vay một vạn hộc, ta sẽ lui quân ngay. Hễ không ta đánh phá thành trì, già trẻ sẽ không một người nào sống sót.
Dung mắng mà nói rằng:
- Ta là bầy tôi nhà Đại Hán, giữ đất của nhà Đại Hán, có đâu lại đem lương cho giặc.
Quản Hợi giận lắm, múa đao tế ngựa nhảy thẳng vào đánh Khổng Dung. Tướng Dung là Tôn Bảo, vác giáo nhảy ra địch, được vài hiệp bị Hợi chém chết, quân Dung rối loạn, chạy cả vào thành, Hợi chia quân ra bốn mặt vây thành.
Dung trong lòng bực tức, My Chúc cũng buồn chán lắm. Hôm sau, Khổng Dung lên thành trông thấy thế giặc lớn mạnh, càng thêm lo phiền. Chợt thấy một người cưỡi ngựa vác giáo xông vào đám giặc, tả xung hữu đột như vào chỗ không người, rồi chạy thẳng đến dưới thành, gọi to mở cửa.
Dung không biết là ai, chưa dám mở cửa. Quân giặc sấn đến bờ hào, định vào giết người ấy, nhưng người ấy quay mình lại đâm một lúc chết luôn vài chục đứa. Chúng phải lui chạy cả.
Dung bấy giờ mới sai mở cửa mời vào. Người ấy xuống ngựa, bỏ giáo, lên thẳng trên mặt thành, chào Khổng Dung. Dung hỏi tên họ, người ấy thưa rằng:
- Tôi là người ở Hoàng Huyện, đất Đông Lai, họ là Thái Sử, tên là Từ, tự là Tử Nghĩa. Mẹ tôi được đội ơn ngài nhiều lắm. Hôm nọ tôi ở Liêu Đông về nhà thăm mẹ. Nghe tin giặc vây thành, mẹ tôi bảo tôi rằng: “Ta đã nhiều lần đội ơn ngài, nay con phải đi cứu”. Bởi vậy một mình tôi cưỡi ngựa đến đây.
Khổng Dung mừng lắm.
Nguyên khi trước Dung tuy không biết mặt Thái Sử Từ, nhưng vẫn biết tiếng là anh hùng. Nhân thấy Từ đi vắng xa, có mẹ già ở nhà, nhà cách thành hai mươi dặm, Dung thường sai người đem biếu gạo lụa. Bà mẹ cảm cái đức ấy nên sai con lại cứu.
Dung kính trọng Thái Sử Từ hết lòng, tặng một bộ áo giáp, ngựa và yên. Từ nói:
- Tôi xin mượn ngài một nghìn tinh binh nữa để ra ngoài thành phá giặc.
Dung nói rằng:
- Ông tuy khoẻ thực, nhưng thế giặc to lắm, không nên coi thường.
Từ nói:
- Mẹ tôi cảm hậu đức của ngài, nên sai tôi đến, nếu không phá được giặc, tôi cũng không còn mặt nào dám về trông thấy mẹ. Vậy xin cứ để tôi ra, quyết một trận tử chiến.
Dung nói:
- Ta nghe có Lưu Huyền Đức là anh hùng đời bấy giờ. Giá mà mời được Huyền Đức lại cứu, thì mới giải được vây. Chỉ hiềm chưa biết nhờ ai đi cho được.
Từ nói:
- Xin ngài viết thư, tôi xin mang đi!
Dung mừng, viết thư giao cho Từ. Từ mặc áo giáp lên ngựa, lưng đeo cung tên, tay cầm giáo, ăn no, sắm sửa đủ, mở cửa thành, phi ngựa ra đi.
Lúc gần đến bờ hào, quân giặc xúm vào đánh. Từ đâm luôn chết mấy đứa, vượt qua vòng vây chạy ra.
Quản Hợi thấy có người ở trong thành ra, tất là đi cầu cứu, liền đem vài trăm quân kỵ đuổi theo, tám mặt vây lại. Từ dừng ngọn giáo, giương cung đặt tên, bắn cả tám mặt, không phát nào là không có người ngã ngựa, giặc sợ không dám đuổi nữa. Từ thoát được, ngay suốt ngày đêm đến Binh Nguyên, vào ra mắt Lưu Bị.
Thư lễ xong, Từ nói hết sự tình Khổng Dung bị vây, rồi đưa thư ra, Lưu Bị xem thư xong, hỏi:
- Ông là ai?
Từ nói:
- Tôi là Thái Sử Từ, người nhà quê ở Đông Hải. Tôi với Khổng Dung không phải anh em họ hàng, cũng không phải láng giềng làng mạc; chỉ vì nghĩa khí đối với nhau nên có ý chia sẻ ưu hoạn với nhau. Nay Quản Hợi bạo loạn, Bắc Hải bị vây, không biết cậy vào đâu, nguy ở sớm tối, Khổng Dung nghe ngài là người nhân nghĩa, hay cứu người khốn, giúp kẻ nguy, nên sai tôi xông pha giữa vòng giáo mác, phá vòng vây đến đây cầu cứu ngài.
Lưu Bị tỏ vẻ tôn kính nói rằng:
- Khổng Bắc Hải cũng biết rằng trong đời có Lưu Bị à?
Lập tức cùng Quan Vũ, Trương Phi điểm ba nghìn tinh binh kéo sang Bắc Hải.
Quản Hợi thấy quân đến cứu, dẫn quân ra đối địch. Lại thấy quân Lưu Bị ít nên khinh thường không sợ.
Lưu Bị cùng với Quan, Trương và Thái Sử Từ cưỡi ngựa đứng ra trước trận. Quản Hợi hăm hở ra đánh.
Từ đang định xông ra, Quan Vũ đã nhảy ra trước.
Hợi địch sao nổi Quan Vũ: mới được vài mươi hiệp, một nhát thanh long đao đã chém chết ngay Quản Hợi ở dưới chân ngựa.
Từ, Trương hai ngựa cùng ra, hai giáo đều múa, xông vào đám quân giặc, Lưu Bị thúc quân đánh riết.
Khổng Dung ở trên thành trông thấy Từ, Quan, Trương ba người vào trong đám giặc, không ai đương nổi, xông xáo tựa hồ như hổ giữa đàn dê, liền kéo binh ra thành, hai đầu đánh dồn lại, quân giặc thua chạy, đầu hàng vô số, còn bao nhiêu tan vỡ cả.
Khổng Dung đón Lưu Bị vào thành; chào lễ xong rồi, mở một tiệc yến thực to ăn mừng, lại dẫn My Chúc ra chào Huyền Đức.
My Chúc nhân thể nói việc Trương Khải giết Tào Tung, nay Tào Tháo thả binh đến cướp phá Từ Châu, bởi vậy Đào Khiêm sai y đến cầu cứu Khổng Dung.
Lưu Bị nói:
- Đào Cung Tổ là người quân tử, không ngờ mắc phải oan này.
Dung nói:
- Ông là tôn thân nhà Hán, nay Tào Tháo tàn hại trăm họ, cậy khoẻ, khinh yếu. Sao ông không cùng với tôi đi cứu Đào Cung Tổ một thể?
Lưu Bị nói:
- Tôi đâu dám từ việc ấy, nhưng tướng ít, binh yếu, lo rằng không làm nổi việc.
Dung lại nói:
- Tôi nay đi cứu Cung Tổ tuy vì tình bạn, nhưng cũng vì nghĩa lớn, ông há không có bụng trượng nghĩa hay sao?
Lưu Bị đáp:
- Có phải thế xin Văn Cử hãy đi trước, khoan cho tôi còn sang Công Tôn Toản mượn thêm năm ba nghìn quân mã, rồi sẽ đến sau.
Dung lại dặn:
- Xin ông chớ sai hẹn.
Huyền Đức nói:
- Ông cho tôi là người thế nào? Thánh nhân đã dạy rằng: “Xưa nay ai cũng chết nhưng không có tin thì không ra người”. Nay dù mượn được quân hay không, thế nào tôi cũng phải đến cứu Từ Châu.
Dung bằng lòng, sai My Chúc về báo trước cho Đào Khiêm, rồi thu xếp khởi hành.
Thái Sử Từ lạy tạ Khổng Dung, nói rằng:
- Tôi vâng lời mẹ, sang đây giúp ngài. Nay công việc xong xuôi cả rồi, thứ sử Dương Châu là Lưu Gio, là người cùng một quận với tôi, có thư lại gọi, không đi không được. Xin để khi khác lại có dịp gặp nhau.
Dung đem vàng lụa tạ ơn. Từ không chịu lấy gì cả, ra về.
Mẹ Từ thấy Từ về mừng nói rằng:
- Mẹ mừng cho con báo được ơn Bắc Hải.
Nói xong lại sai Từ sang Dương Châu.
Nay không nói chuyện Khổng Dung khởi binh sang cứu Từ Châu vội. Hãy nói chuyện Lưu Bị đến gặp Công Tôn Toản và nói chuyện cả sự tình mình muốn sang cứu Từ Châu.
Toản hỏi rằng:
- Tào Tháo không có thù gì với ông, tội gì ông lại đi giúp bên nọ đánh bên kia?
Lưu Bị nói:
- Tôi đã hứa với người ta rồi, thế nào cũng phải đi.
Toản cho mượn hai nghìn quân mã, Lưu Bị xin cho Triệu Tử Long đi theo. Toản bằng lòng.
Lưu, Quan, Trương dẫn ba nghìn quân bản bộ của mình đi trước. Triệu Vân dẫn hai nghìn quân kéo đi sau, cùng đến Từ Châu.
Trong khi ấy thì My Chúc về báo với Đào Khiêm rằng:
- Khổng Dung đến giúp, lại mời thêm được cả Lưu Bị.
Trần Nguyên Long cũng về báo rằng:
- Điền Khải vui lòng đem quân sang cứu.
Bấy giờ Đào Khiêm mới hơi vững dạ.
Hai cánh quân Khổng Dung, Điền Khải mới đến, sợ quân Tào mạnh thế nên ở đằng xa, dựa vào sườn núi đóng trại chưa dám khinh tiến.
Tào Tháo thấy hai đám quân cứu viện đã đến, cũng chia quân ra giữ, chưa dám kéo cả vào phá thành.
Lưu Bị đến sau, vào ra mắt Khổng Dung. Dung nói:
- Quân Tháo thế lớn lắm, mà Tháo lại khéo dùng mưu mẹo, ta không nên tiến vội, đợi xem tình hình thế nào đã.
Lưu Bị nói:
- Tôi chỉ lo trong thành không có lương, khó giữ được lâu. Nay hãy xin sai Quan Vân Trường và Triệu Tử Long lĩnh bốn nghìn quân ở đây với ông. Tôi thì cùng với Trương Phi kéo qua trại Tào Tháo, đi tắt đến Từ Châu, để vào bàn với Đào sứ quân.
Dung mừng lắm, hẹn nhau với Điền Khải hai người lập thế ỷ giác(1), còn Vân Trường với Tử Long thì lĩnh binh để tiếp ứng hai bên.
Lưu Bị, Trương Phi hai người dẫn một nghìn quân mã, kéo qua bên cạnh trại Tào Tháo. Quân đang đi thấy trong trại nổi một tiếng trống, quân mã, bộ kéo ra như nước vỡ. Vu Cấm đứng đầu, dừng cương ngựa lại gọi to lên rằng:
- Bọn cuồng đồ xứ nào kéo đi đâu đấy?
Trương Phi chẳng nói chẳng rằng, xông thẳng vào đánh Vu Cấm. Hai bên đánh nhau được vài hiệp, Lưu Bị múa đôi dao, kéo quân tràn lên. Vu Cấm thua chạy, Trương Phi đi đầu chém giết, rồi lao thẳng đến dưới thành Từ Châu.
Trên thành trông xuống thấy lá cờ đỏ, viết năm chữ trắng thực to: “Bình Nguyên Lưu Huyền Đức”, Đào Khiêm kíp sai người mở cửa. Huyền Đức vào thành. Khiêm tiếp đón, mời về phủ nha, thi lễ xong, mở tiệc yến khoản đãi.
Đào Khiêm thấy Lưu Bị diện mạo hiên ngang, nói năng khoát đạt, trong bụng lấy làm mừng rỡ, sai ngay My Chúc đem cả bài, ấn Từ Châu ra, xin nhường chức cho Lưu Bị, Lưu Bị ngạc nhiên hỏi:
- Thế này là ý ngài ra làm sao?
Khiêm nói:
- Nay thiên hạ rối loạn, rường cột nhà vua không cất lên được. Ngài là tôn thân nhà Hán, nên ra sức giúp nước. Tôi nay già rồi, không làm gì được nữa, ngài chớ có chối. Tôi xin tự viết một bài biểu dâng lên triều đình.
Lưu Bị đứng ra ngoài chiếu lạy hai lạy nói rằng:
- Bị tuy là dòng dõi nhà Hán, nhưng công nhỏ, đức mỏng, làm một chức tướng ở Bình Nguyên còn sợ không nổi, nay vì đại nghĩa đến giúp ông, sao ông lại dạy thế? Hay là ông nghĩ tôi có bụng tham lam gì chăng? Nếu tôi có bụng thế, trời sẽ không thương tôi.
Khiêm nói rằng:
- Xin ngài chớ nghĩ thế, ấy là thực tình của tôi.
Khiêm hai ba lần nhường, Lưu Bị nhất định không chịu.
My Chúc thấy hai người, kẻ nhường người chối dùng dằng mãi, bèn tiến lên thưa rằng:
- Nay quân giặc ở dưới thành, xin hai ngài hãy bàn kế phá giặc đã. Khi nào đánh tan được giặc rồi, bấy giờ xin các ngài hãy nhường thành cho nhau.
Lưu Bị nói:
- Tôi hãy đưa thư cho Tào Tháo, khuyên y giải hoà, nếu y không nghe lời, bấy giờ ta sẽ đánh cũng không muộn.
Bèn truyền hịch cho ba trại hãy đóng binh không được động vội. Rồi sai người đưa thư cho Tào Tháo.
Tháo đương ở trung quân, cùng các tướng bàn việc, bỗng có người vào báo Từ Châu có chiến thư mang đến. Tháo mở ra xem. Thư rằng:
“Từ khi Bị được tiếp tôn nhau ở ngoài cửa quan đến giờ, mỗi người một phương, không được gần gũi bên ngoài.
Vừa rồi tôn phụ Tào hầu bị hại, là vì thằng Trương Khải bất nhân, chớ không phải là tội Đào Cung Tổ.
Hiện giờ, ngoài thì dư đảng giặc Khăn Vàng quấy nhiễu; trong thì bè cánh Đổng Trác làm loạn.
Xin minh công hãy lo việc triều đình trước, rồi sau hãy nghĩ đến thù riêng, rút quân vây Từ Châu về, để cứu nạn nước, thì Từ Châu may lắm, thiên hạ may lắm!”
Tào Tháo xem thư xong, nổi giận mắng rằng:
- Lưu Bị là ai, dám đưa thư lại ngăn ta, trong thư lại có ý mỉa mai?
Nói rồi truyền đem chém sứ đưa thư, rồi ra sức đánh thành.
Quách Gia can rằng:
- Lưu Bị từ xa lại cứu, trước dùng lễ sau dùng binh, chúa công nên lấy lời tử tế đáp lại, làm cho Lưu Bị khinh thường, phòng bị trễ nải, rồi ta sẽ tiến binh đánh thành, mới dễ phá được.
Tháo nghe lời, truyền thết đãi sứ giả, rồi viết thư trả lời.
Đang khi bàn bạc, chợt có ngựa lưu tinh lại nói rằng:
- Lã Bố đã đánh phá Duyện Châu, hiện đang tiến binh chiếm cứ Bộc Dương.
Nguyên Lã Bố từ khi gặp loạn Lý Thôi, Quách Dĩ, trốn ra cửa vũ quan, định đi theo Viên Thuật, Thuật ghét Bố là người phản phúc, không dùng. Bố lại đến với Viên Thiệu, được Thiệu dung nạp.
Thiệu cùng Bố đánh tan Thường Sơn, từ ấy Bố lấy làm đắc chí, khinh nhờn những tướng sĩ của Thiệu. Thiệu giận muốn giết. Bố lại bỏ sang với Trương Dương.
Dương dùng Bố. Bấy giờ Bàng Thư ở Trường An, cứu được vợ con Lã Bố, sai đưa lại trả. Lý, Quách biết, bèn chém Bàng Thư, rồi đưa thư cho Trương Dương sai giết Lã Bố. Bố lại bỏ Dương, sang với Trương Mạc.
Giữa lúc ấy thì em Trương Mạc là Trương Siêu đưa Trần Cung lại ra mắt Mạc.
Cung báo Mạc rằng:
- Nay thiên hạ bị chia xẻ, anh hùng đều nổi dậy, ông có đất nghìn dặm, sao lại chịu ở dưới quyền người khác, há chẳng hèn lắm sao! Nay Tào Tháo đánh mặt đông, Duyện Châu bỏ trống. Lã Bố là dũng sĩ đời nay, giá ông cùng với Lã Bố đánh lấy Duyện Châu, thì có thể làm nên nghiệp lớn.
Trương Mạc cả mừng, liền sai Lã Bố ra phá Duyện Châu, rồi chiếm cả Bộc Dương, chỉ có ba xứ Nhân Thành, Đông An, Phạm Huyện là nhờ có Tuân Úc, Trình Dục lập kế cố giữ được, còn các xứ khác đều bị phá vỡ cả. Tào Nhân đánh nhau mãi, nhưng đánh không nổi, vì thế phải cho đi cấp báo với Tào Tháo.
Tháo nghe tin báo giật mình, nói rằng:
- Nếu Duyện Châu mất, ta sẽ không còn chỗ về nữa. Phải kíp lo toan ngay.
Quách Gia nói:
- Lúc này chúa công nên tỏ chút ân tình với Lưu Bị, rút quân về lấy lại Duyện Châu.
Tào Tháo lấy làm phải, lập tức viết thư đáp trả lại Lưu Bị, rồi nhổ trại lui binh.
Sứ giả về Từ Châu, vào thành gặp Đào Khiêm, đưa trình thư của Tào Tháo, rồi nói quân Tào đã lui. Khiêm mừng lắm, sai người mời Khổng Dung, Điền Khải, Quan Vũ, Triệu Vân vào thành hội họp.
Yến tiệc xong, Khiêm mời Lưu Bị lên ghế trên, chắp tay thưa rằng:
- Lão phu này tuổi già, hai con lại không có tài, không kham nổi được việc lớn nước nhà. Lưu công là dòng dõi nhà vua, đức rộng tài cao, nên nhận lấy Từ Châu. Lão phu tình nguyện cáo về dưỡng bệnh.
Lưu Bị nói:
- Khổng Văn Cử sai tôi đến cứu Từ Châu là việc nghĩa. Nay bỗng dưng tôi giữ lấy Từ Châu, thiên hạ tất bảo tôi là người bất nghĩa.
My Chúc nói:
- Nay vận Hán đã suy, đất nước rối loạn, dựng công lập nghiệp chính ở lúc này. Từ Châu của giàu người nhiều, dân đinh kể có trăm vạn, Lưu sứ quân không nên từ chối.
Lưu Bị nói:
- Việc ấy tôi quyết không thể vâng mệnh.
Trần Đăng nói:
- Đào phủ quân nhiều bệnh lắm, không sao coi nổi được công việc, xin minh công đừng từ chối.
Lưu Bị nói:
- Viên Công Lộ bốn đời làm tam công, trong nước ai cũng trông mong. Nay Công Lộ ở Thọ Xuân, sao không tìm mà nhường?
Khổng Dung nói:
- Viên Thiệu là hạng người vô dụng, chẳng khác một bộ xương khô trong mả, còn đáng để làm chi. Nay trời cho sứ quân chẳng lấy, sau có hối lại cũng muộn.
Lưu Bị nhất định không chịu. Đào Khiêm khóc nói rằng:
- Nếu ông bỏ tôi mà đi, tôi chết cũng không nhắm mắt được!
Vân Trường nói:
- Đào công đã nói hết điều, thực lòng nhường cho, xin anh hãy nhận lấy việc châu.
Trương Phi cũng nói:
- Không phải là mình cố đòi lấy châu quận của người ta. Người ta có bụng tốt nhường cho mình, việc gì cứ phải khăng khăng từ chối?
Lưu Bị nói rằng:
- Các em muốn hãm ta vào việc bất nghĩa hay sao?
Đào Khiêm hai ba lần nhường, Lưu Bị cứ một mực không nghe.
Khiêm mới nói:
- Nếu ông nhất định không nghe thì gần đây có một ấp gọi là Tiểu Bái, có thể đóng đồn. Xin ông tạm đóng quân mà ở đó để bảo vệ Từ Châu. Ông nghĩ thế nào?
Mọi người đều khuyên Lưu Bị nên ở lại ấp Tiểu Bái, Lưu Bị nhận lời.
Khiêm khao quân xong, Triệu Tử Long cáo từ ra về. Lưu Bị cầm tay Triệu Tử Long rỏ nước mắt từ biệt.
Khổng Dung, Điền Khải cũng cáo biệt, dẫn quân về.
Lưu, Quan, Trương cùng dẫn quân bản bộ đến Tiểu Bái, sửa sang thành quách, phủ dụ dân cư ở đấy.
Tào Tháo kéo quân về, Tào Nhân ra đón, nói rằng:
- Lã Bố thế to, lại có Trần Cung giúp. Duyện Châu, Bộc Dương mất cả, duy còn có Nhân Thành, Đông An, Phạm Huyện, ba xứ ấy nhờ có Tuân Úc, Trình Dục bày mưu đặt mẹo nên còn giữ được vững.
Tháo nói:
- Ta chắc Lã Bố có sức khoẻ nhưng không có mưu mẹo, chẳng đáng lo lắm. Nay hãy lập trại đâu đấy, rồi sau sẽ bàn.
Lã Bố biết Tào Tháo đem quân về, đã đến Đằng Huyện bèn cho gọi phó tướng là Tiết Lan và Lý Phong, bảo rằng:
- Ta muốn dùng hai người đã lâu, nay mới có dịp. Hai người dẫn một vạn quân, giữ lấy Duyện Châu cho vững, để ta đem quân đi đánh Tào Tháo.
Hai người vâng lệnh. Trần Cung vội vàng hỏi rằng:
- Tướng quân bỏ Duyện Châu, định đi đâu?
Bố nói:
- Ta muốn đóng quân ở Bộc Dương, để thành thế “chân đinh”.
Cung nói:
- Hỏng mất! Tiết Lan không giữ được Duyện Châu. Ở phía nam đường này, cách đây một trăm tám mươi dặm, có núi Thái Sơn. Chỗ ấy hiểm lắm, nên đem một vạn tinh binh phục ở đó. Quân Tào Tháo nghe Duyện Châu mất, tất nhiên gấp đường tiến lên, thế nào cũng phải đi qua đó. Ta đợi cho nó kéo quân qua một nửa đổ ra đánh một trận có thể bắt được Tào Tháo.
Lã Bố bảo rằng:
- Ta đóng ở Bộc Dương, còn có mẹo hay hơn, ngươi biết đâu!
Bèn không nghe lời Trần Cung, sai Tiết Lan giữ Duyện Châu, còn mình thì đem quân đi.
Khi Tào Tháo đem quân đến quãng đường hẻm ở Thái Sơn, Quách Gia bảo rằng:
- Không nên đi vội. Chỗ này tất có phục binh!
Tháo cười nói rằng:
- Lã Bố là đồ vô mưu cho nên mới giao Duyện Châu cho Tiết Lan giữ, còn nó thì kéo quân sang Bộc Dương. Chỗ này chắc không có binh phục. Tào Nhân đâu, hãy lĩnh một cánh quân vây lấy Duyện Châu, để ta kéo quân lên đánh Lã Bố ở Bộc Dương!
Trần Cung ở Bộc Dương với Lã Bố nghe thấy quân Tào đã đến gần, bèn thưa với Lã Bố rằng:
- Quân Tào nay từ xa, tất mỏi mệt cả, nên đánh ngay, đừng cho nghỉ ngơi để dưỡng sức.
Bố nói:
- Ta một mình một ngựa tung hoành khắp thiên hạ, có sợ gì Tào Tháo. Cứ để cho nó đóng trại, ta sẽ bắt nó cho mà xem.
Quân Tào Tháo gần đến Bộc Dương, lập vững doanh trại. Hôm sau Tháo đem chư tướng ra dàn trận ở ngoài đồng. Tháo cưỡi ngựa đứng dưới cửa sổ, xa trông thấy binh Lã Bố kéo đến.
Hai bên bày trận xong, Lã Bố cưỡi ngựa ra trước hai bên có tám kiện tướng đứng kèm.
1. Trương Liêu, tên chữ Văn Viễn, người ở Mã Ấp, quận Nhạn Môn.
2. Tang Bá, tên chữ Tuyên Cao, người ở Hoa Âm, quận Thái Sơn.
Hai tướng ấy lại dẫn sáu tướng là Hách Manh, Tào Tinh, Thanh Liêm, Nguỵ Tục, Tống Hiến, Hầu Thành và năm vạn quân. Trống đánh vang lừng.
Tháo trỏ Bố nói rằng:
- Ta với ngươi không thù hằn gì, sao ngươi lại cướp châu quận của ta?
Bố nói:
- Thành trì nhà Hán, người nào cũng có phần, có phải của riêng của nhà ngươi đâu?
Liền sai Tang Bá tế ngựa ra đánh.
Bên Tào, Nhạc Tiến ra nghênh địch. Hai ngựa giao nhau, đôi dao đều múa, đánh nhau được ba mươi hiệp, chưa phân được thua. Hạ Hầu Đôn tế ngựa xông vào đánh giúp, Trương Liêu cũng vội ra đánh chẹn lại. Lã Bố nóng mắt vác kích phi ngựa xông vào trận. Đôn, Tiến đều thua chạy cả, quân Tào thua to, phải lui ba bốn mươi dặm.
Lã Bố thu quân về.
Tào Tháo thua một trận, về trại, cùng chư tướng luận bàn. Vu Cấm nói:
- Sáng nay lên núi trông thấy phía tây thành Bộc Dương. Bố có một trại, ước chừng chỉ có một ít quân đóng. Đêm nay tất nó tưởng ta vừa thua, không phòng bị gì. Ta nên dẫn quân ra đánh. Nếu lấy được trại ấy, quân Lã Bố tất sợ.
Tào Tháo nghe lời, sai sáu tướng là Tào Hồng, Lý Điển, Mao Giới, Lã Kiên, Vu Cấm, Điển Vi dẫn hai vạn quân mã bộ liền đêm hôm ấy theo đường nhỏ kéo vào phía tây Bộc Dương.
Hôm ấy Lã Bố về trại khao quân.
Trần Cung nói rằng:
- Trại mé tây là nơi khẩn yếu, nếu Tào Tháo đến đánh úp thì làm thế nào?
Bố nói:
- Hôm nay nó mới thua một trận, làm sao còn dám đến?
Cung nói:
- Tào Tháo là một tay dùng binh thực giỏi. Nên đề phòng nó đánh bất ngờ.
Bố bèn sai Cao Thuận, Nguỵ Tục và Hầu Thành dẫn binh đến giữ trại phía tây.
Chập tối hôm ấy, Tào Tháo kéo quân đến trại phía tây, bốn mặt ùa vào, quân giữ trại không chống nổi chạy tán loạn cả.
Tháo cướp được trại, gần đến canh tư, thì bọn Cao Thuận mới kéo quân đến. Tháo dẫn quân ra đánh. Hai bên đánh nhau đến gần sáng. Chợt nghe tiếng trống rầm rĩ. Lã Bố đem quân đến cứu.
Tháo bỏ trại chạy.
Đằng sau Cao Thuận, Nguỵ Tục, Hầu Thành đánh thốc lên, mặt trước thì Lã Bố kéo quân lại. Vu Cấm, Nhạc Tiến, hai người địch Bố không nổi. Tháo cứ trông về phía Bắc mà chạy.
Sau núi có một toán quân kéo ra, tả thì Trương Liêu, hữu thì Tang Bá, Tháo sai Lã Kiền, Tào Hồng ra đánh cũng không lại. Tháo lại quay chạy về phía tây. Đang chạy, chợt lại nghe thấy tiếng reo ầm ầm, rồi thấy một toán quân đến, đi đầu có bốn tướng là Hách Mạnh, Tào Tinh, Thành Liêm, Tống Hiến kéo ra chẹn đường Tào Tháo. Các tướng Tào liều chết mà đánh. Tào mới xông lên được trước. Bỗng nghe thấy tiếng mõ đánh, tên bắn ra như mưa.
Tào Tháo không thể nào tiến lên được nữa, không biết có cách gì thoát, vội kêu lớn rằng:
- Ai đến cứu ta?
Giữa lúc ấy, trong đội kỵ mã, có một tướng nhảy ra là Điển Vi, hai tay cầm hai ngọn kích, kêu to lên rằng:
- Chúa công đừng lo!
Nói rồi nhảy tót xuống ngựa, cắp đôi kích dài, lấy vài mươi ngọn đoản kích, nắm trong tay, ngoảnh mặt lại bảo người đi theo rằng:
- Lúc nào giặc đến cách độ mười bước, hãy gọi ta!
Rồi dang chân, bước nhanh, xông vào mũi tên mà đi. Quân kỵ bên Lã Bố vài mươi người xông đến, lính hô lên:
- Giặc còn cách mười bước rồi!
Vi nói:
- Cách năm bước hãy gọi!
Quân lại gọi rằng:
- Cách năm bước rồi!
Bấy giờ Vi cầm kích ném ra, cứ mỗi ngọn kích là quân Lã Bố chết một người, không sai một ngọn nào, một lúc giết chết vài mươi người. Quân Lã Bố tan chạy, Vi lại cầm hai thanh kích lớn, nhảy lên ngựa, xông vào đánh. Bốn tướng của Lã Bố là Hách, Tào, Hầu, Tống không địch nổi, đều chạy trốn cả.
Điển Vi đánh tan quân Lã Bố, cứu được Tào Tháo.
Các tướng theo sau cũng dần dần kéo đến cùng nhau tìm đường về trại.
Trông trời đã tà tà về chiều, đằng sau lại thấy tiếng reo. Lã Bố phi ngựa cầm kích, đuổi theo xông đến gọi to lên rằng:
- Thằng giặc Tào Tháo kia, đừng chạy nữa!
Bấy giờ bên Tào người ngựa mỏi mệt, mọi người nhớn nhác trông nhau, ai cũng muốn chạy thoát thân cả.
Thế là:
Đã hay thoát khỏi vòng vây trước
Còn sợ khôn đường giặc đuổi sau.
Chưa biết phen này Tháo sống chết thế nào, xem hồi sau sẽ rõ.
Chú thích: 
1. Theo sách “Sử ký” của Tư Mã Thiên, Lão Tử họ Lý tên Nhĩ.
Hồi 12:
Đào Cung Tổ ba lần nhượng Từ Châu
Tào Mạnh Đức một phen đánh Lã Bố
Tào Tháo đang chạy luống cuống, may đâu phía nam có một toán quân kéo đến. Nguyên là Hạ Hầu Đôn dẫn quân lại cứu, chẹn ngang đường đánh nhau với Lã Bố. Đánh nhau đến sâm sẩm tối, một cơn mưa to như trút nước xuống, hai bên đều dẫn quân về.
Tháo về đến trại, trọng thưởng Điển Vi, giao cho làm chức Lĩnh quân đô uý.
Lã Bố về trại, cùng Trần Cung bàn bạc, Cung nói:
- Ở trong thành Bộc Dương, có một nhà giàu, họ Điền, đầy tớ hàng trăm nghìn người, có tiếng ở trong một quận này. Ta nên khiến nhà ấy mật sai người đưa thư cho Tào Tháo nói rằng: “Lã Ôn hầu tàn bạo bất nhân, lòng người rất oán ghét; nay muốn đem quân sang Lê Dương, chỉ còn có Cao Thuận ở trong thành, nên lập tức tiến ngay, ta xin làm nội ứng…” Nếu Tháo đến, dụ cho vào trong thành, rồi bốn mặt phóng hoả, ngoài đặt quân phục. Tháo tuy có tài ngang trời dọc đất cũng không thoát được.
Lã Bố nghe theo, mật dụ họ Điền đưa thư cho Tào Tháo.
Tháo nhân lúc mới thua, còn đương lo lắng, chợt có người vào báo họ Điền ở Bộc Dương sai người đưa mật thư đến.
Thư rằng:
“Lã Bố đã đi sang Lê Dương, trong thành bỏ không. Xin ngài đến ngay, tôi nguyện làm nội ứng. Trên thành cắm lá cờ trắng, viết to một chữ “Nghĩa” làm mật hiệu”.
Tào Tháo cả mừng nói rằng:
- Trời cho ta Bộc Dương rồi!
Bèn trọng thưởng cho người đưa thư, rồi lập tức thu xếp khởi binh.
Lưu Hoa nói rằng:
- Lã Bố tuy vô mưu, nhưng có Trần Cung nhiều mẹo lắm. Tôi chỉ sợ trong việc này có phần lừa dối, ta phải phòng trước. Minh công muốn đi thì nên chia quân ra làm ba đội. Hai đội phục ở ngoài thành để tiếp ứng, một đội vào thành, như thế mới được.
Tháo nghe lời chia quân ra làm ba đội, đến thành Bộc Dương. Tháo đi trước nghe ngóng, trông thấy trên mặt thành cờ cắm đặc cả, trên góc cửa Tây có một lá cờ trắng và chữ “Nghĩa”, trong bụng đã mừng thầm.
Giờ ngọ hôm ấy, hai tướng trong thành kéo quân ra đánh, tiền quân là Hầu Thành, hậu quân là Cao Thuận.
Tào Tháo sai Điển Vi cưỡi ngựa xông ra, xông thẳng vào đánh Hầu Thành. Thành địch không nổi, quay ngựa chạy vào. Vì đuổi sấn đến tận bên cầu hào. Cao Thuận chống không được cũng lui binh vào trong thành.
Trong khi ấy có người trong thành, thừa cơ chạy ra ngoài, đến ra mắt Tào Tháo nói là người họ Điền, đưa trình mật thư, trong thư hẹn rằng:
“Đêm nay, hồi canh một, trên thành khua chiêng làm hiệu thì tướng quân tiến binh vào. Tôi làm nội ứng, dâng thành”.
Lý Điển can rằng:
- Chúa công nên đứng ở ngoài thành, để chúng tôi vào.
Tháo nói to rằng:
- Ta không đi thì ai chịu xông lên trước?
Nói rồi tự lĩnh binh xông thẳng vào. Bấy giờ mới đầu canh một, trăng chưa lên, chỉ nghe thấy trên cửa tây có tiếng tù và, rồi lại có tiếng reo. Trên cửa lửa đốt sáng rực; cửa thành mở to; cầu treo bỏ xuống.
Tào Tháo tế ngựa lên trước, đi thẳng đến tận nha thự, trên đường chẳng thấy một người nào cả. Tháo biết là mắc mưu, vội vàng quay ngựa trở lại hô quân lui ra.
Lúc ấy trong châu nha có một tiếng pháo nổ, bốn cửa thành lửa cháy rực trời; trống đánh vang lừng, người reo rầm rĩ, như sóng cồn bể réo. Mé đông, Trương Liêu trổ ra; mé tây Tang Bá chạy lại; hai bên đánh dồn vào. Tháo chạy ra cửa bắc lại Hách Manh, Tào Tính đánh cho một trận. Tháo chạy ra cửa nam, lại bị Cao Thuận, Hầu Thành chận đánh, may có Điển Vi trợn mắt nghiến răng, xông vào đánh cứu. Cao Thuận, Hầu Thành phải chạy ra ngoài thành. Điển Vi đuổi ra đến cầu treo, ngoảnh lại không thấy Tào Tháo.
Vi lại đánh vào trong thành, vào đến cửa gặp Lý Điển, Vi hỏi:
- Chúa công đâu?
Điển nói:
- Ta cũng tìm không thấy.
Vi bảo Điển:
- Ngươi ra ngoài thúc quân ứng cứu, ta vào tìm chúa công.
Lý Điển đi ra. Điển Vi vào thành, tìm mãi không thấy, lại đánh trở ra, ra khỏi bờ hào gặp Nhạc Tiến. Tiến hỏi:
- Chúa công đâu?
Vi nói:
- Tôi vào ra hai lần rồi, tìm chúa công mãi không thấy.
Tiến nói:
- Hai chúng ta phải cùng đánh vào để cứu chúa công.
Hai người cùng trở vào, đến bên thành, thì hoả pháo trên thành rơi xuống ngựa. Nhạc Tiến không sao vào được. Điển Vi xông pha khói lửa, lại vào thành đi tìm Tào Tháo.
Tào Tháo nhìn thấy Điển Vi đánh đến tìm mình nhưng Tháo bị bốn mặt quân mã chẹn lại chung quanh nên không ra được đường cửa nam, đành phải chạy về cửa bắc, thế nào gặp ngay Lã Bố, nhưng trong bóng lửa nhấp nhoáng, Bố không biết là ai.
Lã Bố cầm kích tế ngựa lại, Tháo lấy tay che mặt ra roi cứ tế ngựa đi thẳng. Lã Bố ở đằng sau sấn ngựa lại, cầm ngọn kích gõ vào mũ Tào Tháo hỏi rằng:
- Tào Tháo ở đâu?
Tháo trỏ tay nói rằng:
- Người cưỡi ngựa vàng ở đằng trước kia.
Bố tế ngựa đuổi người đằng trước, Tào Tháo quay ngựa lại chạy ra cửa đông, may gặp ngay Điển Vi. Vi hộ vệ Tháo, mở một đường máu ra được đến cửa thành.
Chung quanh thành lửa cháy ngùn ngụt, cỏ rác chồng chất khắp cả, chỗ nào cũng có lửa.
Điển Vi cầm kích gạt lửa ra hai bên, tế ngựa xông vào khói lửa ra trước. Tháo cũng theo sau ra được. Vừa đến cửa thành, có một cái xà cháy trên nhà rơi vào chân sau ngựa của Tào Tháo, ngựa ngã gục xuống. Tháo lấy tay đẩy cái xà ra, lửa bén vào cả cánh tay và đầu tóc. Điển Vi quay ngựa lại cứu. Vừa may Hạ Hầu Uyên cũng ở đâu đến. Hai người cứu được Tháo dậy, xông qua lửa chạy ra. Tháo cưỡi ngựa của Uyên, Vi đánh mở đường để chạy. Đánh nhau mãi đến sáng, Tháo mới về được trại.
Các tướng vào lạy hỏi thăm. Tháo ngoảnh mặt lên cười nói rằng:
- Ta lầm mắc phải kế thất phu, thề rằng thù này thế nào cũng báo được.
Quách Gia nói:
- Có kế gì nên làm ngay!
Tháo nói:
- Nay nên nhân kế của nó mà làm kế của mình: ta nói phao lên rằng ta bị lửa cháy chết bỏng, Bố tất dẫn quân lại đánh. Ta phục binh ở trong núi Mã Lăng, đợi nó đến nửa chừng, đổ ra mà đánh thì quyết bắt được Lã Bố.
Quách Gia nói:
- Thực là một kế hay.
Liền sai quân sĩ phát tang, để trở phao tin đi rằng Tào Tháo đã chết.
Có người đến Bộc Dương báo với Lã Bố rằng:
- Tháo bị lửa cháy bỏng cả chân tay, về đến trại thì chết.
Lã Bố lập tức điểm quân mã, kéo đến núi Mã Lăng. Quân đi gần đến trại Tào, một tiếng trống nổi, phục binh bốn mặt ồ ra. Lã Bố cố đánh, một sống một chết, mới thoát được, tổn hại mất nhiều quân mã, chạy về Bộc Dương giữ vững không dám ra nữa.
Năm nay có một thứ sâu, gọi là sâu hoàng ăn hại lúa má. Ở vùng Quan Đông (Trường An), mỗi hộc thóc giá năm mươi quan. Dân chúng đói quá phải ăn thịt lẫn nhau. Tào Tháo nhân hết lương, dẫn quân về đóng ở Nhân Thành. Lã Bố cùng đem quân về đóng ở Sơn Dương. Vì vậy hai bên cùng tạm bãi binh.
Bấy giờ Đào Khiêm ở Từ Châu đã sáu mươi ba tuổi, chợt bị bệnh, bệnh mỗi ngày một nặng, bèn mời My Chúc, Trần Đăng đến bàn việc. Chúc nói:
- Quân Tào Tháo bỏ Từ Châu đi, cũng chỉ vì Lã Bố cướp Duyện Châu mà thôi. Năm nay nó bãi binh cũng là vì mất mùa. Chắc rằng sang xuân thế nào nó cũng đến. Phủ quân đã hai lần nhường chức cho Lưu Huyền Đức, bấy giờ phủ quân còn khoẻ cho nên Huyền Đức nhất định không chịu nhận. Nay bệnh phủ quân đã nặng, nên lại cho mời Huyền Đức sang mà nhường chức một lần nữa, lần này Huyền Đức chắc không từ chối.
Khiêm mừng lắm, sai ngay người đi mời Lưu Bị lại bàn việc quân.
Lưu Bị đem Quan Vũ, Trương Phi và vài mươi tên kỵ mã đến Từ Châu. Đào Khiêm cho mời vào chỗ nằm. Lưu Bị hỏi thăm xong, Khiêm nói:
- Tôi mời ông đến đây không phải có việc gì đâu, chỉ có một việc: Tôi bây giờ bệnh đã nguy rồi, không biết sớm tối chết lúc nào. Vậy xin minh công thương lấy thành trì nhà Hán, nhận lấy bài ấn Từ Châu này, thì tôi xin chết mới nhắm được mắt.
Lưu Bị hỏi:
- Ông có hai con, sao không truyền cho, lại gọi tôi?
Khiêm nói:
- Tôi có hai thằng con, thằng lớn tên Thương, thằng bé tên Ung, hai đứa cùng hèn kém lắm, không sao kham nổi được việc nước. Tôi một mai nhắm mắt lại, cũng trăm nhờ minh công dạy bảo chúng nó, không nên cho chúng nó coi đến việc châu.
Lưu Bị nói:
- Một mình tôi đảm đương sao nổi việc to lớn ấy!
Khiêm thưa:
- Tôi xin cử một người để giúp ông, người ở Bắc Hải, họ Tôn, tên Càn, tự là Công Hựu. Ông nên dùng người ấy làm tùng sự.
Khiêm lại gọi My Chúc bảo rằng:
- Lưu công là hào kiệt đời nay, ngươi nên thờ cho khéo nhé!
Huyền Đức vẫn còn từ chối…
Lúc ấy Đào Khiêm lấy tay trỏ vào bụng rồi tắt thở.
Các quan làm lễ điếu viếng xong rồi, liền đem bài ấn giao cho Lưu Bị, Lưu nhất định không nhận.
Hôm sau cả dân châu kéo vào đầy phủ, van khóc nói rằng:
- Lưu sứ quân bằng không không chịu nhận việc quận này thì dân chúng tôi không sao sống yên được.
Quan, Trương hai người cùng khuyên hai ba lần, Lưu Bị mới chịu quyền lĩnh công việc Từ Châu; dùng Tôn Càn, My Chúc làm phụ tá; Trần Đăng làm mạc quan; đem hết quân mã ở Tiểu Bái vào thành, treo bảng khuyên dân yên nghiệp, rồi sắm sửa việc tang, Lưu Bị và quan quân lớn nhỏ, đều để trở. Tế lễ linh đình xong, an táng Đào Khiêm trên bãi cao ở bên sông Hoàng Hà, rồi đem từ di biểu của Đào Khiêm dâng lên triều đình.
Tào Tháo ở Nhân Thành, được tin Đào Khiêm đã chết và Lưu Bị lĩnh chức mục Từ Châu, giận lắm nói rằng:
- Thù ta chưa báo xong! Lưu Bị nửa mũi tên không tốn, ngồi yên mà được Từ Châu. Phen này ta quyết trước giết Lưu Bị, sau vằm thây Đào Khiêm để rửa oán cho thân phụ ta!
Lập tức truyền lệnh cất quân sang đánh Từ Châu. Tuân Úc lên can rằng:
- Xưa nay Cao tổ giữ ở Quan Trung, vua Quang Vũ giữ ở Hà Nội, đều là được sâu rễ bền gốc; tiến lên thì đánh được giặc, lui về thì giữ được thành, cho nên tuy có lúc nguy khốn, nhưng về sau cũng vẫn làm nổi được nghiệp lớn. Minh công lúc đầu vốn khởi sự ở Duyện Châu, mà đất Hà, đất Tế lại là đất hiểm trong thiên hạ và cũng là Quan Trung, Hà Nội ngày xưa. Nay nhược bằng minh công sang lấy Từ Châu, để binh ở đây thì Lã Bố lại thừa cơ đến cướp, thế là bỏ mất Duyện Châu. Nếu Từ Châu lại không lấy được, minh công sẽ đi đâu? Nay Đào Khiêm tuy chết, nhưng đã có Lưu Bị giữ. Dân Từ Châu đã quy phục Lưu Bị lắm, tất nhiên cố sức giúp Lưu Bị. Minh công bỏ Duyện Châu để sang lấy Từ Châu, thì khác nào bỏ cái lớn mà đi tìm cái nhỏ, bỏ chỗ gốc đi tìm chỗ ngọn, đem sự yên mà đổi lấy sự nguy. Xin minh công phải nghĩ cho chín đã!
Tháo nói:
- Năm nay mất mùa, thiếu lương ăn, quân sĩ cứ đóng ở đây cũng không xong.
Tuân Úc nói:
- Không bằng ta kéo sang mặt đông, lấy đất Trần cho quân sang ăn ở đó. Vả lại dư đảng Khăn Vàng là Hà Nghi, Hoàng Thiệu ở Nhữ Nam và Vĩnh Xuyên, cướp bóc châu quận, vàng lụa, lương thực có nhiều. Những giặc cỏ ấy phá dễ như chơi. Phá chúng nó, lấy lương thực để nuôi quân sĩ, như thế triều đình cũng mừng, dân gian cũng hả. Chính là một việc làm thuận lòng trời đó!
Tháo mừng lắm, liền cho Hạ Hầu Đôn, Tào Nhân ở lại giữ Nhân Thành, mình thì đem quân sang lấy đất Trần, Nhữ Nam và Dĩnh Xuyên.
Đám dư đảng Khăn Vàng là Hà Nghi và Hoàng Thiệu thấy quân Tào Tháo kéo đến, đem binh ra đánh. Hai bên giáp trận nhau ở núi Dương Sơn.
Quân giặc tuy nhiều nhưng toàn là những đồ lăng nhăng, hỗn độn không thành đội ngũ.
Tháo sai lấy cung mạnh, nỏ cứng bắn sang. Điển Vi cưỡi ngựa ra. Hà Nghi sai phó nguyên soái ra đánh, đánh nhau chưa được ba hiệp, bị Vi đâm chết lăn xuống dưới ngựa. Tào Tháo thừa thế dẫn quân sấn qua núi Dương Sơn đóng trại.
Hôm sau Hoàng Thiệu tự dẫn quân lại. Bày trận xong sai một tướng đi bộ ra, đầu đội khăn vàng, mình mặc áo xanh, tay cầm côn sắt, thét to lên rằng:
- Ta là Tiệt thiên dạ sao Hà Man, ai dám ra đây đấu với ta nào?
Tào Hồng quát to một tiếng, phi mình từ trên ngựa nhảy xuống đất, vác dao đi bộ ra.
Hai người ở trước trận đánh nhau ba bốn mươi hiệp chưa phân thắng bại, Hồng giả cách thua chạy. Hà Man sấn vào, Hồng dùng kế đà đao, quay mình lại chém trúng Hà Man; Hồng lại bồi thêm một nhát nữa, Hà Man chết.
Lý Điển thấy thế phi ngựa thẳng vào trận giặc. Tướng giặc Hoàng Thiệu chưa kịp đề phòng, bị Điển bắt sống.
Quân Tào đánh giết quân giặc, cướp được vô số tiền bạc, lương thực.
Còn Hà Nghi thế cô, dẫn vài trăm quân kỵ chạy về thung lũng Cát Pha.
Lúc đang đi đường, chợt gặp một toán quân ở trong núi kéo ra, một tráng sĩ đứng đầu, mình cao tám thước, lưng to mười chét tay, cầm thanh đao lớn ra chẹn đường. Nghi vác dao đánh, chỉ mới được một hiệp, đã bị tráng sĩ ấy bắt sống. Quân sĩ luống cuống đều xuống ngựa chịu trói. Tráng sĩ xua cả vào thung lũng Cát Pha.
Điển Vi truy kích Hà Nghi tới Cát Pha, thì có một tráng sĩ dẫn quân ra chặn lại. Vi hỏi:
- Mày cũng là giặc Khăn Vàng à?
Tráng sĩ đáp:
- Lũ Khăn Vàng có vài trăm kỵ mã, ta đã bắt nhốt cả trong thung lũng này.
Vi hỏi:
- Sao không đem ra nộp?
Tráng sĩ nói:
- Hễ mày địch được với thanh đao trong tay này thì tao đem chúng nó ra nộp.
Vi giận lắm, vác đôi kích lại đánh. Hai người đánh nhau từ giờ thìn đến giờ ngọ, không ai thua không ai được, hai bên cùng tạm nghỉ. Được một lát tráng sĩ lại ra thách đánh. Điển Vi cũng ra, đánh nhau đến mãi chiều tối. Hai ngựa cùng mỏi, hai người lại phải tạm nghỉ lần nữa. Quân thủ hạ Điển Vi chạy về báo với Tào Tháo.
Tháo thất kinh, vội vàng dẫn các tướng lại xem.
Hôm sau tráng sĩ lại ra thách đánh nhau.
Tháo trông thấy người ấy uy phong lẫm liệt, trong bụng mừng thầm, dặn Điển Vi rằng:
- Nay ngươi hãy giả cách thua đi!
Vi vâng lời ra đánh, được ba mươi hiệp. Vi giả cách thua chạy về trận, tráng sĩ sấn đến, trong cửa trận cung nỏ bắn ra tua tủa. Tráng sĩ phải quay trở về.
Tháo kíp dẫn quân lùi năm dặm, mật sai người đào sẵn một hầm hố, phục sẵn câu thủ [1].
Hôm sau lại sai Điển Vi dẫn hơn trăm quân kỵ ra.
Tráng sĩ cười mà nói rằng:
- Tướng đã thua, sao lại còn dám đến đánh?
Nói rồi liền phóng ngựa ra đánh.
Điển Vi đánh được vài hiệp lại quay ngựa chạy. Tráng sĩ cố sức đuổi theo, không ngờ cả người lẫn ngựa cùng sa xuống hố cả, bị quân phục ra trói lại đem về nộp Tào Tháo.
Tháo vội vàng xuống trướng, mắng đuổi quân sĩ, tự cởi trói cho tráng sĩ, sai người lấy áo mặc cho, mời ngồi tử tế, rồi hỏi tên họ làng mạc ở đâu, tráng sĩ nói:
- Tôi là người ở Tiêu Huyện, nước Tiêu, họ Hứa tên Chử, tự là Trọng Khang. Nguyên trước gặp buổi loạn lạc, tụ cả tôn tộc vài trăm người, đắp một cái luỹ ở trong thung lũng này để chống cự. Một bữa có giặc đến, tôi sai người nhà lấy đá vụn để sẵn, rồi tôi cầm đá ném ra, chẳng sai hòn nào. Giặc thấy vậy phải chịu lui. Lại một hôm nữa giặc đến, trong thung lũng tôi không có lương, phải hoà với giặc, xin đem trâu cày đổi cho nó, để lấy gạo. Lúc gạo giặc đã đưa đến rồi, giặc dắt trâu ra ngoài cửa thung lũng thì trâu đều chạy ngược trở lại, tôi lấy tay nắm lấy hai đuôi trâu kéo lại đi giật lùi được hơn một trăm bước. Giặc thấy thế đều thất kinh, không dám lấy trâu nữa. Bởi thế tôi mới giữ được ở đây yên ổn, không việc gì.
Tháo nói:
- Ta biết ngươi đã lâu. Nay ngươi có chịu hàng không?
Chử nói:
- Bụng tôi muốn thế đã lâu rồi.
Chử về dẫn cả họ hàng vài trăm người ra hàng Tào Tháo. Tháo cho làm đô uý, thưởng rất hậu rồi đem Hà Nghi, Hoàng Thiệu ra chém.
Nhữ Nam, Dĩnh Xuyên, từ ấy đều bình định cả.
Tháo rút quân về.
Tào Nhân, Hạ Hầu Đôn ra tiếp kiến, nói rằng:
- Mấy hôm nay quân đi do thám về báo rằng: ở Duyện Châu quân sĩ Tiết Lan, Lý Phong ra ngoài đi ăn cướp, thành bỏ trống không, chúa công đem quân vừa thắng trận trở về mà đánh, chỉ một trận là hạ được thành.
Tháo liền đem quân đi đường tắt đến Duyện Châu.
Tiết Lan, Lý Phong không ngờ có quân đến, chưa kịp phòng bị, nhưng cũng phải đem quân ra ngoài thành để đánh.
Hứa Chử nói:
- Tôi xin bắt hai đứa này để làm lễ ra mắt.
Tháo mừng sai Chử ra trận, Lý Phong vác hoạ kích lại đánh. Hai ngựa giao nhau mới được hai hiệp, Chử chém Phong chết lăn xuống dưới ngựa.
Tiết Lan vội vàng chạy về. Lý Điển chẹn ngang bên cầu. Lan không dám vào thành, dẫn quân kéo về Cự Giã, đang đi gặp ngay Lã Kiền tế ngựa lại đuổi bắn một phát tên. Lan chết ngã quay xuống đất. Quân Tiết Lan, Lý Phong vỡ tan cả. Tháo lấy lại được Duyện Châu.
Trình Dục xin tiến binh lấy lại nốt Bộc Dương.
Tháo sai Hứa Chử, Điển Vi làm tiên phong; Hạ Hầu Đôn, Hạ Hầu Uyên làm tả quân; Lý Điển, Nhạc Tiến làm hữu quân; Tào Tháo tự lĩnh trung quân; Vu Cấm, Lã Kiền làm hậu quân.
Quân Tào đến Bộc Dương, Lã Bố muốn ra đánh, Trần Cung can rằng:
- Không nên đánh vội. Đợi các tướng đến đây đủ cả, rồi hãy hay.
Bố nói:
- Ta có sợ ai!
Không nghe lời Trần Cung, Bố cứ đem quân ra trận, cầm ngang ngọn kích thét mắng.
Hứa Chử ra địch, hai bên đánh nhau hai mươi hiệp chưa bên nào được thua. Tháo nói:
- Một người không thắng nổi Lã Bố được.
Nói rồi sai Điển Vi ra giúp Hứa Chử đánh Lã Bố.
Hai tướng giáp lại đánh, bên tả thì Đôn, Uyên, bên hữu thì Điển, Tiến, cùng kéo ra, sáu tướng quây quần lại đánh một mình Lã Bố. Bố chống đỡ không xuể, phải quay ngựa chạy về thành.
Họ Điền ở trên thành thấy Bố thua chạy về, kíp sai người ra kéo cầu lên.
Bố gọi to:
- Mở cửa!
Điền nói:
- Ta đã hàng Tào tướng quân rồi!
Bố chửi to một hồi rồi đem quân sang Định Đào.
Trần Cung vội vàng bảo vệ vợ con Lã Bố mở cửa đông chạy ra ngoài thành.
Tháo lấy được Bộc Dương, tha cho họ Điền các lỗi khi trước.
Lưu Hoa bàn với Tào Tháo rằng:
- Lã Bố là một con hổ dữ. Nay nó đang cùng khốn không nên khoan dung cho nó một chút nào.
Tháo bèn sai Hoa giữ Bộc Dương, tự mình dẫn quân đến Định Đào. Bấy giờ Lã Bố cùng Trương Mạc, Trương Siêu ở trong thành, còn Cao Thuận, Trương Liêu, Tang Bá, Hầu Thành, đi tuần để kiếm lương chưa về.
Quân Tào Tháo đến Định Đào, đợi mấy ngày Lã Bố không chịu ra đánh, bèn rút quân lại bốn mươi dặm hạ trại. Nhân bấy giờ lúa mạch ở Tế Quận đã chín, Tháo sai quân ra gặt về để ăn.
Quân đi thám về báo với Lã Bố. Bố đem quân lại, đi đến gần trại Tào Tháo, trông về phía tả thấy rừng rậm um tùm, sợ có quân phục lại phải trở về.
Tháo biết quân Bố quay trở về, bảo với chư tướng rằng:
- Lã Bố nghi trong rừng có quân phục. Ta nên cắm rõ nhiều tịnh kỳ để đánh lừa nó. Mé tây trại có một dải đường đê không có nước, ta nên đem tinh binh ra phục ở đó. Ngày mai Lã Bố tất đến đốt rừng, quân phục trở ra đánh tập hậu chắc bắt được Lã Bố.
Tháo nói xong sai làm ngay. Trong trại Tháo chỉ để độ năm mươi người đánh trống và bắt bọn trai gái bắt được ở dân thôn hò reo, còn bao nhiêu tinh binh phục cả ở sau đê.
Quả nhiên Lã Bố nghi trong rừng có quân phục, hấp tấp về kể chuyện với Trần Cung. Cung nói:
- Tào Tháo có nhiều quỷ kế, không nên khinh chiến đâu.
Bố nói:
- Ta dùng mẹo hoả công, chắc phá được quân phục.
Liền sai Trần Cung, Cao Thuận giữ thành rồi hôm sau kéo đại quân vào rừng đánh giặc. Đi xa xa đã trông thấy trong rừng có cờ, kéo quân đi sấn lên, bốn mặt sai phóng hoả. Rừng cháy ngùn ngụt, nhưng chẳng thấy người nào; muốn kéo quân về trại Tào Tháo, thì nghe thấy tiếng trống đánh rầm rĩ cả lên. Trong bụng Lã Bố còn đương nghi nghi hoặc hoặc, thì chợt ở sau trại có toán quân kéo ra. Bố tế ngựa sấn lại. Bỗng nghe thấy một tiếng pháo nổ, rồi quân phục ở sau đê trổ ra.
Hạ Hầu Đôn, Hạ Hầu Uyên, Hứa Chử, Điển Vi, Lý Điển, Nhạc Tiến tế ngựa kéo ồ cả ra.
Lã Bố liệu không địch nổi, vội vàng chạy trốn. Tướng Bố là Thành Liêm bị Nhạc Tiến bắn một mũi tên chết. Quân Bố ba phần chết mất hai.
Quân thua có đứa chạy được về báo với Trần Cung. Cung nói:
- Thành trống không, khó giữ, chi bằng hãy bỏ chạy.
Liền cùng với Cao Thuận đưa vợ con Lã Bố bỏ Định Đào mà đi.
Quân Tào Tháo thừa thắng đánh bừa vào thành, đánh đến đâu được đến đấy, dễ như chẻ tre.
Trương Siêu tự vẫn chết. Trương Mạc chạy sang với Viên Thuật.
Một xứ Sơn Đông về tay Tào Tháo cả.
Tháo phủ dụ dân chúng sửa sang thành quách lại.
Lã Bố đang khi chạy trốn, gặp ngay các tướng đi kiếm lương đã về. Trần Cung cũng vừa tìm đến nơi.
Bố nói:
- Quân ta dù ít, còn đủ phá được Tào Tháo.
Liền lại kéo quân trở lại.
Thế thực là:
Được thua, thua được là thường
Quay binh đánh lại ai lường được đâu!
Chưa biết Lã Bố phen này được thua thế nào, xem hồi sau mới tỏ.
Chú thích:
1. Quân dùng câu liêm, để bắt người khi đã sa xuống hầm.
La Quán Trung
Người dịch: Hồng Việt
Theo https://www.sachhayonline.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Tưởng chừng như

Tưởng chừng như (Nói với Gaston,  15.Dec.2013-15.Dec.2020) Đập cổ kính ra tìm lấy bóng Xếp tàn y lại để dành hơi (Khóc Bằng Phi, Vua Tự Đứ...