Cái ghen đàn ông
Chờ cho người ấy trổ tài hùng biện đã chán chê đi rồi, Giao
Đài mới bỏ tờ tạp chí xuống bàn và nói:
- Không, người ta chẳng nên thật thà, nhất là khi người ta
yêu nhau.
Tuy rằng chẳng ai lại hoàn toàn thật thà với ai bao giờ, điều
ấy thì ai cũng thừa biết, vậy mà người nào cũng cứ ao ước sẽ có kẻ thật thà với
mình thì có lạ không. Khôi hài nhất là khi ta thấy ai có vẻ hơi thật thà với
ta, chỉ hơi hơi thôi, ta cũng lấy làm sung sướng lắm! Những kẻ đương lăn lóc
trong tình trường cũng vẫn có cái ảo tưởng là đôi bên hoàn toàn thật thà với
nhau... tựa hồ sự thực làm cho ta sung sướng như ta trúng số độc đắc! Này, các
anh, thôi đừng ai nên để cái lòng thật thà của người ta yêu đi kèm với hạnh
phúc! Nó tai hại lắm. Nó chỉ phá hoại chớ chẳng kiến thiết bao giờ.
Nghe đến đây, Lê Văn Thư, một người lúc nào cũng lạc quan,
bèn nổi giận mà rằng:
- Chà! Một người đàn bà như Giao Đài mà lại để ở miệng thốt
ra những lời lẽ đáng buồn đến như thế nữa ư? Này, chị Giao Đài, coi chừng kẻo
mà chị sẽ trở nên một thứ quái vật!
Giao Đài chỉ cười nhạt, lại khoan thai nói thêm:
- Nghĩa là cũng như mọi người, phải không, các anh? Người ta
ai không là một thứ quái vật?
Không để ý, Lê Văn Thư lại sốt sắng tiếp:
- Chết nỗi! Nếu lại không có sự thật thà cứu vớt thì nhân loại
còn có gì nữa! Thì làm gì có những ái tình, làm gì có cái tình bằng hữu, làm gì
có những tính tình tốt đẹp và những dây liên lạc mà người ta bảo là thiêng
liêng! Mà làm gì còn có hạnh phúc nữa!
Giao Đài lại cười rộ, coi anh Thư như một đứa trẻ ngây thơ. Rồi
nói:
- Coi chừng đó, anh ạ. Yêu nhau là một việc mà thật thà với
nhau lại là một việc khác.
Một người bèn hỏi:
- Vậy thì khi đã yêu nhau, người ta có nên thật thà với nhau
không?
Giao Đài chẳng cần nghĩ đáp ngay:
- Không! Không! Chẳng bao giờ, và chẳng nên một tí nào!
Sau cùng, Giao Đài khoan thai kể lại câu chuyện dưới đây để dẫn
chứng cho cái thuyết ấy.
Các anh, các chị đây hẳn còn nhớ vợ chồng anh giáo Hiển đấy
chứ? Chị ấy vì hậu sản mà thiệt phận năm ngoái ấy mà! ấy đó, một người đàn bà
đáng quý và đáng thương. Kẻ ngoại cuộc là các anh, các chị, ngồi đây hẳn phải
tưởng cặp vợ chồng ấy sung sướng cực điểm. Thưa không ạ! Anh Hiển, chi Hiển là
hai kẻ đau khổ nhất đời. Lúc buông tay nhắm mắt, chị ấy còn phải đem theo xuống
suối vàng một thứ mà ta quen gọi là "hận nghìn thu". Lúc khâm liệm
cho vợ, anh giáo Hiển cũng vẫn còn là kẻ không chút đỉnh lương tâm nào nữa!
Chỉ tại sự thật thà!
Tôi sở dĩ được rõ mọi điều vì chị Hiển coi tôi là bạn thân
hơn hết. Những chuyện gia đình, những điều tâm sự, những cái éo le, khuất khúc
mà không ai dám nói với một người thứ hai nào nữa, thì chị Hiển đã có kể lể cả
với tôi. Việc đôi lứa ấy vì ái tình mà lấy nhau, rồi ăn ở với nhau vẻ bề ngoài
ra làm sao, chẳng cần nói, các anh, các chị cũng thừa rõ...
Sau ngày cưới được năm hôm, chị Hiển đã đến chơi với tôi.
Cứ như những lời chị nói, cứ trông những cử chỉ của chị, cũng
đủ hiểu chị bằng lòng cuộc trăm năm đến có thể hoá điên vì sung sướng. Chồng chị
là người quân tử, có nhiều đức tính, lại yêu quý vợ nồng nàn hơn ai. Nếu cứ
theo nhịp ấy mà đi, thì giữa cái loài người khốn khổ này, anh Hiển, chị Hiển,
là một cặp vợ chồng tiên.
Mấy hôm sau nữa, khi lại thăm bạn vào lúc anh Hiển vắng nhà,
tôi thấy chị ấy có cái vẻ mặt của người hối hận vì đã trót làm điều gì tai hại
mà không còn phương gì cứu chữa nổi nữa. Mà quả vậy! Luôn mấy năm sau trong cặp
mắt ngây thơ vốn đầy những ánh sáng của chị, tôi thấy hình như có một thứ bóng
tối nó ám ảnh, nó làm thần thái của chị Hiển lu mờ như mặt trời bị lấp bóng
mây. Chị đã kể lể:
- Chị Đài ơi! Có lẽ từ nay mà đi, tôi đành cam phận là người
đàn bà khổ sở nhất đời rồi! Tôi đã nhỡ tay để hạnh phúc của tôi vỡ ra làm trăm
nghìn mảnh. Từ nay mà đi, tôi không còn dám màng tưởng đến những ngày mà tôi đã
thấy cuộc đời là có nghĩa lý là đáng sống như những ngày mới bước chân về nhà
chồng nữa. Thôi, thế là xong!
Nói thế rồi, chị Hiển buông xuôi hai bàn tay như người thất vọng
trước những mảnh vụn của một cái lọ quý giá mà mình đã vô ý đánh vỡ vậy. Chỉ một
cử chỉ ấy cũng đủ khiến tôi xúc động lắm, và đủ đoán nổi cái hệ trọng của việc
đã xảy ra. Tôi vội đứng lên, ra khép chặt cửa phòng rồi quay vào nghe chuyện.
- Chị ạ, mấy ngày tân hôn, nhà tôi không nói những lời nào
khác những lời của một kẻ si tình, say mê, yêu quý tôi. Nhà tôi đã có những lời
lẽ ngây ngô vô cùng, những lời mà tôi tưởng không ai biết nói như thế... Tôi đã
sung sướng bao nhiêu, bây giờ lại hối hận bấy nhiêu. Là vì đêm vừa qua, khi lên
giường chung gối chung chăn, không hiểu bởi những duyên cớ khốc hại gì, bởi thứ
ma quỷ độc địa nào nó xui giục, mà nhà tôi lại chợt hỏi: - Anh hỏi thế này em đừng
cho là lẩn thẩn nhé? Trước khi biết anh, em có hề yêu một người nào không?
Tôi ngạc nhiên thì ít, mà nổi giận thì nhiều. Bèn làm bộ bình
tĩnh hỏi lại:
- Sao anh lại hỏi thế nhỉ?
Chồng tôi vội vàng cắt nghĩa:
- Không! Anh hỏi thế không có gì là can hệ! Nếu em ngạc nhiên
là vì em chưa hiểu rõ nghĩa chữ yêu mà anh muốn nói. Yêu đây chẳng phải là thư
từ, đi lại, rồi làm những điều mà đức hạnh phải kết tội đâu. Yêu đây có nghĩa
trong sạch hơn, bi đát hơn, có thi vị hơn, vì yêu đây là ngưỡng mộ, là kính trọng,
là yêu vụng, giấu thầm, là "để ý", là vắng mặt thì khao khát mà gặp mặt
thì không dám ngỏ bầu tâm sự... Nói nôm na thì yêu đây nghĩa là có ý muốn người
ta hỏi mình làm vợ.
Ngừng một lát, chồng em lại tươi cười mà tiếp:
- Không can hệ, thật thế! Cũng như anh chẳng hạn... Trước khi
biết em và lấy được em, anh đã yêu không biết bao nhiêu người đàn bà, yêu theo
cái nghĩa đã nói trên. ừ, thế đi nữa thì có sao đâu! Việc gì có thành sự thực
hiển nhiên thì mới đáng kể, và nếu anh nói thế, chính là vì đối với em anh muốn
xử sự đặc biệt, nghĩa là cho em được hưởng cái lòng thật thà, có một không hai
của bọn đàn ông phần nhiều ích kỷ, gian ngoan.
Ngây ngô em hỏi lại:
- Sao bỗng dưng anh lại thật thà như thế?
- Là vì anh đoán anh biết. Anh hiểu rằng nhiều khi em thấy
trong óc thoáng qua cái ý tò mò muốn biết ấy cũng như đại đa số phụ nữ đối với
chồng. Nếu em chưa hỏi là vì chưa tiện dịp, và thế nào rồi cũng có phen em muốn
thử hỏi thế một câu chơi. Đã thế thì liệu rồi anh có giấu được em không? Giấu
sao được, em tin sao được. Chẳng khi nào một người đàn ông ngoài ba mươi tuổi
mà trước khi lấy vợ lại chẳng hề "để ý" đến một người đàn bà nào khác
bao giờ! Nếu quả trên đời này có hạng đàn ông ấy thật, đó phải là một hạng kỳ dị!
Em ngây mặt ra nghĩ, càng nghĩ càng thấy chồng nói đúng sự thật
lắm.
Chợt chồng em lại nói:
- Thí dụ như em chẳng hạn... năm nay em đã 24 tuổi rồi. Vậy
mà ái tình đến với người thiếu nữ rất sớm. "Nữ thập tam nam thập lục"
thật đúng như lời cổ nhân. Tạo hóa đã an bài ra thế, không một người con gái
nào lại vượt qua được cái công lệ ấy. Vậy thì vào tuổi dậy thì, người ta phải
mơ mộng, phải khao khát lòng yêu, phải để ý đến đàn ông. Anh nói chuyện đây là
dựa vào khoa học chứ không nói hồ đồ, vu vơ gì. Đã thế thì không thể nào em lại
không hề để ý đến một người đàn ông nào, trước khi là vợ anh, trong cái thời hạn
từ mười tám đến hai mươi tư tuổi. Vì rằng không phải ở đời này chỉ có một anh
là người đàn ông đáng yêu thôi, có phải thế không?
Trước những lý luận đanh thép của một người có khối óc tỉ mỉ
sáng suốt như thế, tôi biết là chối cãi thì không được, biết chối cãi thế nào?
Có ai lại đủ nghĩa lý để chối cãi một chân lý hay không?
Vả chăng, chồng tôi đã bảo là "không can hệ". Mà muốn
yêu chồng một cách hoàn toàn, tôi tưởng không còn cách nào khác là đem lòng thật
thà của mình mà dâng lên.
Chỉ nghĩ được có thế, tôi chẳng ngại đáp:
- Anh nói đúng đấy. Năm mười bảy tuổi, em cũng đã có yêu một
người, yêu theo những cái nghĩa anh đã phân giải lúc nãy. Không biết người ấy
có để ý đến em không! Người ấy không hề hỏi em làm vợ, và giá có chắc hẳn cũng
không được nào. Bây giờ thì người ấy cũng đã lấy vợ, cũng đã có con...
- Thế rồi sao nữa?
- Thế rồi... chả có gì nữa.
- Sau người ấy thì không để ý đến ai khác nữa?
Em thật thà cả cười:
- Thì đến anh, và lấy được anh, thế thôi.
Nhà em ngẫm nghĩ một lát, phê bình:
- Thế nghĩa là em đã yêu người ấy lắm, yêu lắm. Đến nỗi phải
chán đời cho đến lúc lấy chồng, nghĩa là trong bảy năm không còn sức để ý đến một
ai nữa, nếu không có anh.
Tôi không đáp. Chồng tôi thở dài, khiến tôi phải hỏi:
- Anh vì thế mà buồn đấy à? Sao anh ác thế? Sao anh lại bắt
em phải thật thà với anh để rồi làm em phải đau đớn?
Nhưng nhà tôi đứng lên, thản nhiên:
- Việc gì mà buồn! Có người đàn bà nào mãi cho đến lúc lấy chồng
mà cũng còn nguyên cái trinh tiết tinh thần bao giờ! Tôi chỉ cần sau khi lấy
tôi rồi thì vợ tôi không tư tưởng đến ai nữa. Thế thôi!
Rồi chúng tôi nói những chuyện khác, mãi cho đến lúc cả hai
cùng ngủ. Nhưng mà, ba giờ đêm, chợt thức dậy, tôi thấy nhà tôi, chị ạ, nhà tôi
ngồi ở bàn, hai tay bịt lấy thái dương. Tôi vùng dậy, hỏi một cách run sợ:
- Anh? Anh nghĩ ngợi đấy à?
Tôi muốn thà nhà tôi nói nặng còn hơn chỉ thản nhiên đáp một
cách độc địa thế này:
- Có thế!
Lúc ấy tôi bực lắm. Bao nhiêu nỗi phẫn uất của giống đàn bà
đã mấy nghìn năm bị áp chế, bị bó buộc vào vòng nô lệ của giống đàn ông ích kỷ
hình như dồn cả vào óc tôi. Tôi bèn nói:
- Thế tại ai gây ra chuyện ấy? Anh đã thật thà với em thì em
cũng phải thật thà với anh. Anh nghĩ xem, em chối có nổi không? Vả lại như ai
đã nói, điều ấy cũng chẳng can hệ gì.
Chồng tôi rền rĩ:
- Không! Chẳng can hệ gì cả!
Ấy cái ghen của đàn ông là như thế đấy. Họ tò mò, họ bắt mình
cung khai sự thật, để họ phải đau khổ, và làm mình cũng đau khổ. Họ có hàng trăm
cô nhân tình, họ ngủ với hàng nghìn con đĩ thì không sao. Vợ họ mà để ý một người
nào trước khi biết họ, thế cũng đủ họ muốn tự tử. Chồng tôi lại đứng lên, đau đớn
nói:
- Bây giờ thì tôi đã rõ sự thật, đã rõ rằng cái hạnh phúc của
tôi không hoàn toàn, và chỉ có giới hạn mà thôi.
Tức thì tôi hiểu ngay rằng thế là xong, vợ chồng mà đã thế
thì không thể nào có hạnh phúc được nữa. Tôi bưng mặt ngồi khóc như đứa trẻ
không có tội mà bị cha mẹ đánh mắng, chị có biết trong bao lâu không? Ngót một
tiếng đồng hồ! Tuy rằng không ai to tiếng với ai, song đêm ấy quả thật có một tấn
kịch vô cùng thảm đạm. Sau cùng thì chồng tôi đứng lên, ra vuốt ve tôi.
- Thôi, nín đi, em ạ. Anh xin lỗi em. Anh sẽ quên đi, và anh
cam đoan là sẽ quên được. Thật ra, trong việc này, em chẳng có một phần lỗi mọn
nào.
Tôi đã phải tìm nhiều lời lẽ an ủi chị Hiển, và tôi đã cầm
tay chị lôi lên miệng tôi mà hôn một cách đau thương như hôn một người yêu
trong một cảnh ngộ xót xa.
Năm sau, vì có giấy bổ tôi đi Thái Nguyên, tôi không được
cùng anh giáo Hiển dạy một trường, và do thế, phải cách biệt chị Hiển. Thỉnh
thoảng lắm mới lại có một lá thư trao đổi tin tức cho nhau. Không bao giờ quên
những tâm sự của mình, có khi chị Hiển gửi tôi những lá thư dài sáu trang, tám
trang, và tôi đã phải nhiều phen tùy chuyện kể trong thư mà hoặc vui hoặc buồn
cho bạn.
Một lần tôi rất vui vẻ vì chị Hiển báo tin rằng đã tìm thấy
cái hạnh phúc tưởng đã mất tích. Lời lẽ trong thư đại khái rằng:
- "Chị Giao Đài ơi, em hồi hộp báo tin mừng rằng có lẽ
chồng em đã không còn muốn làm một người vô nghĩa lý nữa. Nhà em đã biết nói đại
khái như thế này: "Theo ý tôi, một cuộc tình duyên hoàn toàn tốt đẹp phải
là: Hai người, trước khi yêu nhau đều chưa để ý đến người thứ ba hay là người
thứ tư nào cả, và sau khi đã ăn đời ở kiếp với nhau rồi, tất nhiên cũng phải giữ
chung tình như trước, nghĩa là vợ cũng như chồng không ai được có một phút điên
rồ, mặc dầu là chỉ trong một phút, ngoại tình bằng tinh thần. Như thế cho đến
lúc chết.
Vì lẽ người đời không ai lại vợ chồng cùng chết cả một lúc, tất
nhiên phải còn lại một người góa vợ hoặc một người góa chồng. Vậy thì các người
sống lại ấy cũng không bao giờ mơ tưởng đến một người thứ ba. Mãi cho đến lúc
chết nốt! ấy đó. Nhưng mà trên thế gian này, làm gì có cuộc tình duyên nào lại
duy nhất, lại tự nó chịu những sự kiềm chế như thế được. Vậy ta có thể kết luận
rằng không có cuộc tình duyên nào lại hoàn toàn cũng như không ai được hưởng
cái "không thể có được" thì chỉ là điên.
Nói thế rồi, chồng em kết luận rằng không quan tâm đến cái điều
của em mà xưa kia chàng coi như một cái tội lỗi. Em sung sướng vô cùng".
Tôi để ý đến cách phân tích nghĩa lý cuộc "tình duyên
hoàn toàn" của anh giáo Hiển thì nhiều, và mừng cho người bạn gái thì ít.
Nhân một dịp nghỉ, tôi về, đến chơi người bạn đồng nghiệp hiếu sự và điên ấy,
thấy hai vợ chồng đều vui tươi như hai cái hoa. Tôi đã toan đem cái ghen của
anh Hiển ra làm đầu đề câu chuyện mà chỉ vì sợ nhắc lại chuyện cũ thì không tốt
cho vợ chồng người ta lúc đương yên lành, nên lại thôi.
ấy thế mà một tháng về sau, tôi lại nhận được một bức thư của
bạn trong đó bạn khóc lóc rầm rĩ, lại khổ sở đau đớn. Rõ sốt ruột làm sao! Thật
là chuyện trẻ con! Anh Hiển nhất định buồn rầu, vì cho rằng chỉ có sự trinh tiết
của tinh thần mới là đáng quý, và, chị Hiển đã yêu một người khác trước khi lấy
anh ấy, thế là đủ không còn trinh tiết nữa rồi, và anh ấy tất phải khổ sở! Chị
Hiển viết dưới cuối thư:
"Trong khi nói là quên, chồng em đã dùng hết thời giờ, hết
cả tâm trí để nhớ, để buồn rầu!".
Cái ghen của anh Hiển có một thứ thế lực ở tâm giới anh đến nỗi
khiến anh hóa ra tầm thường, hóa ra đê hèn, hóa ra "bất thành nhân dạng".
Năm ngoái, chị Hiển sinh được một mụn con gái rồi lại bỏ mất.
Có lẽ vì phiền não quá nhiều. Chị đã lâm sản mà thiệt phận. Vì nhằm vào ba
tháng hè nên tôi thường ở bên giường chị ta. Lúc thở hắt ra, chị cũng lại có
tôi để chứng kiến cái khổ của chị, và tôi cũng không hiểu tại một lẽ huyền bí
gì của tạo hoá mà lại cứ tình cờ phải nhìn thấy tất cả những cái đau đớn của
người bạn khốn khổ ấy.
Khi thấy ông đốc tờ đã lắc đầu thất vọng ở một góc phòng rồi,
biết rằng cái giờ cuối cùng của mình đã đến, chị Hiển bèn gọi chồng vào để
"rối răng". Tôi đứng lên bước ra cửa thì chị bảo cứ ngồi lại. Trước mặt
tôi, chị Hiển kéo hai bàn tay của chồng về lòng, run rẩy nói bằng một thứ giọng
kỳ lạ:
- Em chết rồi, anh ơi! Quan đốc chẳng nói thì em cũng biết!
Chẳng còn bao lâu nữa! Em kiểm soát lại cuộc đời thì thấy rằng cũng không đến nỗi
thiếu thốn gì mấy, mà cũng đã hưởng nhiều thứ lắm, nhất là lại được làm vợ anh
để tự do yêu quý anh!... Em có thiếu thì chỉ thiếu cái lòng yêu của anh, không
phải cái yêu thương nhưng mà cái yêu hoàn toàn của anh, mà thôi... Xin anh cho
em được mang cái lòng yêu hoàn toàn ấy, cái ái tình bất vong bất diệt ấy, xuống
cửu tuyền! (Vì sắp chết nên chị nói văn chương kiểu cách lắm). Từ khi em ốm nặng
đã nhiều lần anh an ủi em là quên hẳn chuyện xưa. Bây giờ xin anh cam đoan lần
nữa trước mặt người bạn thân của em đây, cho linh hồn em được thỏa. Anh nói đi,
cho em nhờ!
Vào trường hợp này, trí người ta thông minh sáng suốt lắm. Vì
rằng khi thấy chồng ôm đầu nghĩ ngợi thì chị nói một cách xót xa:
- Giời ơi! Thì ra anh không yêu em, anh chưa quên hẳn chuyện
xưa! Anh còn phải nghĩ lâu như thế cơ mà!
Tôi rùng mình run sợ vì thấy anh Hiển đáp:
- Phải, anh đã nghĩ. Bây giờ nói thế nào, chắc em cũng không
tin đâu! Đấy em xem: anh không thể thật thà với em được!
Người vợ đáng thương ấy nấc lên mấy cái thì người chồng chữa
một cách đã quá muộn:
- Tuy vậy anh cũng vẫn yêu em, vì anh còn có bổn phận của một
người chồng.
Chị Hiển nấc lên một cái cuối cùng. Thế là tắt nghỉ. Và cách
đấy một phút chị còn ai oán nhìn tôi. Cái nhìn ấy phân vua với tôi về những sự
thống khổ của một linh hồn phải ôm một mối hận để lên cái thế giới của những
linh hồn.
Giao Đài thuật chuyện xong thì im lặng để chờ mọi người bình
phẩm.
Một người trong bọn chúng tôi đứng lên bực tức nói:
- Tội nghiệp! Một cuộc tình duyên như thế mà để đến nỗi một
điều nhỏ mọn vô nghĩa lý như thế phá hoại được.
Một người khác nói tiếp:
- Vì ái tình là một vật mỏng manh, chóng hỏng và dễ vỡ.
Người thứ ba thở dài mà rằng:
- Cái anh chồng trẻ con đáng khôi hài như thế mà không ngờ là
một tác giả của tấn thảm kịch như thế!
Người thứ tư nói:
- Tôi, tôi muốn nói rằng người vợ ấy không thật thà với chồng
ngay từ lúc mới bước chân về nhà chồng.
Nhưng anh Lê Văn Thư đứng lên hậm hực:
- Nhưng mà tôi thì tôi muốn cái thằng chồng khốn nạn ấy không
nên thật thà với vợ nó nữa vào lúc vợ nó đã thở hắt ra!
Giao Đài mỉm cười phân vua cả bọn:
- ấy đấy! Anh Thư bây giờ đã phản đối cái anh Thư lúc tôi
chưa kể chuyện rồi đấy nhé! Sao anh không chủ trương cái lòng thật thà mãi đi!
Tưởng chừng không ai phê phán gì nữa, sắp nói sang chuyện
khác, thì chị giáo Bích - một người từ nãy chưa nói gì - đứng lên cầm cái chặn
giấy gõ xuống bàn như lúc ra lệnh im lặng cho học trò và hỏi cả bọn:
- Các anh các chị nghĩ về anh giáo Hiển ấy thế nào? Một người
đàn ông mà tầm thường như thế ư? Mà khi người ta đã ghen đến như thế thì liệu
người ta còn có biết được cái hạnh phúc nữa không? ừ, ghen đến thế thì cuộc đời
có thấy sướng gì nữa không?
Vì chị giáo Bích cũng sắp lấy chồng nên người ta mỉm cười
nhìn nhau một cách kín đáo và nói lảng sang chuyện khác.
1937
Lòng tự ái
Trông thấy chồng về, chị vội vàng hỏi:
- Thế nào cậu? Dì nó đã đỡ chưa? Liệu có qua khỏi được không?
Phạm Quang đứng thở lử khử như người vừa mới phải đi bộ mười
cây số, tuy chàng chỉ đi có từ một nhà ở cuối phố về. Chàng từ tốn gác mũ lên
cái sừng hươu, cởi bộ áo ngoài, rồi nằm dài ngay ra sàn. Mãi mới đáp:
- Nguy lắm. Không biết nó có sống được không?
Vợ chàng ngừng hẳn đường kim mũi chỉ, cau lông mày lại hỏi:
- Thế dì ấy hiện giờ thế nào?
Quang uể oải đáp như người đương lúc nửa thức nửa ngủ:
- Cả một đêm, hôm qua li bì nói mê nói sảng mà lúc nào tỉnh
thì lại tỉ tê khóc lóc. Bác Dần mách rằng lúc mê sảng nó cứ gọi tên tôi. Không
khéo thì hỏng mất. Thôi thế mà ra tôi đã mắc một tội ác: giết một người đàn bà!
Chưa hiểu rõ đầu đuôi, tôi bèn hỏi chị Quang:
- Các bác nói đến ai thế?
- Dạ chúng tôi nói đến một người em họ của tôi đấy.
Một câu cắt nghĩa quá gọn ấy chỉ khiến tôi lại càng ngạc
nhiên hơn nữa, lại càng không hiểu gì nữa. Cái gì nhỉ? Chồng chị Quang lại có
can đảm nói những câu như thuộc về một thiên bi tình khi nhắc đến một người em
họ của vợ, lại trước mặt vợ như thế nữa ư?
- Thưa bác, tôi vẫn chưa hiểu gì cả?
Đến đây chị Quang nhìn tôi một cách láu lỉnh, nhìn chồng một
cách ranh mãnh, đằng hắng một cái rồi mới mỉm cười đáp tôi:
- Thưa bác, bệnh nhân ấy tức là em họ tôi, cô Oanh. Trước kia
khi chưa lấy tôi thì nhà tôi đã phải lòng cô Oanh chết mê chết mệt. Đến lúc hỏi
thì cô Oanh lại không thuận, ấy thế mới buồn chứ! Rồi nhà tôi hỏi tôi. Rồi cô
Oanh đi lấy chồng. Nhưng mà chẳng may cho cô Oanh lại lấy phải người chồng xấu,
không ra gì, chơi bời đủ ngón, lại hành hạ vợ một cách vũ phu nữa. Hiện giờ thì
chẳng rõ anh chàng bỏ cả vợ con ở nhà đi theo con đĩ nào. Cô Oanh buồn quá đâm ốm.
Có lẽ vì nhớ tiếc người cũ, vì hối hận nên cô mới nhắc đến tên người đã phải
lòng cô, người mà cô đã không lấy, tức là nhà tôi, như nhà tôi đã thuật mà bác
cũng được nghe.
Có lẽ Phạm Quang hổ thẹn cho rằng vợ nói chuyện không phải
lúc nên chàng giơ tay lên bưng lấy trán, thành thử muốn phản đối vợ như thế thì
kín đáo quá và làm ra bộ thản nhiên thì lại thành ra hớ hênh quá.
Nhưng chị Quang là người rất thông minh tức khắc hiểu ngay ý
chồng, chị vội nghiêm giọng đứng đắn hỏi:
- Thế cậu sang thăm vừa rồi thì có gì là đáng để tâm không?
- Tôi kéo ghế ngồi ở đầu giường thì dì ấy mở chăn ra nhìn
tôi. Chao ôi! Cặp mắt ấy có ngụ bao nhiêu nỗi khuất khúc của một linh hồn đương
đau khổ! Trong những tia sáng quắc một cách kỳ lạ ở đôi mắt của người đang ốm nặng,
tôi thấy như có sự hối hận, sự hy vọng, cái lo lắng phân vân. Rồi nó (anh ta vừa
gọi bệnh nhân là dì ấy, lại vừa gọi là nó) ấp úng hỏi tôi: "Anh! Anh vẫn
yêu em như xưa đấy à? Anh lại không giận em chút nào à?" - Tôi không biết
gật đầu hay lắc đầu, cũng không biết nên đáp ra sao. Lúc ấy bác Dần đang ẵm thằng
Chắt, đứa con chúng nó ở ngoài sân. Tôi bèn cầm hai tay nó kéo lên ngực tôi một
cách âu yếm lắm. Một lúc nó ngơ ngác nhìn tôi nghi hoặc đoạn rút tay ra quay mặt
vào tường. Sau cùng nó lại khóc, khóc tỉ tê, khóc hậm hực, khóc mãi. Tôi không
có can đảm ngồi nữa, loạng choạng đứng lên về đây. Giời ơi, biết làm thế nào
bây giờ?
Chị Quang ngây mặt ra một lúc, có vẻ buồn rầu một cách rất
thành thực, đoạn thở dài và ngậm ngùi nói:
- Rõ tội nghiệp! Dì Oanh nó thật là một người đáng thương.
Thái độ của chị khiến tôi lại càng phải kinh ngạc. Chúng ta
thử đặt mình vào địa vị người đàn bà có người chồng như thế xem cái ghen, cái
giận, cái uất nó sẽ ghê gớm như thế nào! Nếu ta có một người vợ mà lại đau đớn
vì một mối tình cũ như thế liệu cái mặt của chúng ta sẽ tươi bưới ra làm sao! Vậy
mà chị Quang đã chẳng những không ghen chồng, lại còn ngậm ngùi thương xót cô
em họ nữa!
Tôi thấy cái cần ghê gớm phải khen:
- Chị Quang! Chị thật là một người vợ hoàn toàn!
Bạn tôi thật có cái diễm phúc lớn mới được làm chồng một người
như chị. Tuy chỉ là một văn sĩ nghèo, anh ấy cũng có thể tự phụ được là người
sung sướng nhất trần gian. ở đời có được một người bạn tri kỷ của anh Quang lại
đồng thời là người bạn trăm năm của anh nữa thì thật quả bạn tôi đã cướp được hết
hạnh phúc của loài người.
Tôi tưởng khuây khỏa được bạn bằng cách vỗ vai bạn mà rằng:
- Anh này! Anh đã là một người sướng mà có lẽ anh không biết.
Chị Quang hớn hở hỏi tôi:
- Nào có gì lạ mà bác khen nhiều quá thế.
- Tôi cho là lạ lắm! Ghen tuông là cốt tính của người đàn bà!
Muốn sung sướng người ta tưởng phải yêu một cách hằn học đến bậc hóa ra ghen
tuông. Thế mà chị không ghen! Thế mà chị vẫn sung sướng.
Chị Quang mỉm cười khoan thai cắt nghĩa:
- Vì tôi là người đại lượng, có thế thôi. Nếu tôi đại lượng
thì vì lẽ gì tôi lại cấm nhà tôi làm một người đại lượng. Hai nữa dì Oanh nó chỉ
là một người lầm và đáng thương. Vì hỏi dì Oanh nó không được nên nhà tôi mới hỏi
tôi... Bác để ý cho: Tôi thì giầu mà Oanh thì là con nhà nghèo; dẫu rằng không
là bắt buộc tôi, tôi cũng thiết nghĩ: trong cái hạnh phúc của chúng tôi bây giờ,
dì Oanh nó cũng có một phần công lao! Chứ không ư? Nếu Oanh đã nhận lời thì
chúng tôi còn lấy nhau làm sao được. Cho nên tôi vẫn có cảm tình với Oanh. Người
đàn bà khác chắc phải ghen về trước, phải đề phòng về sau, phải ghét Oanh, phải
thấy Oanh khổ sở thì mới sung sướng. Nhưng tôi thì không thuộc hạng người ấy.
Hiện giờ thì đích thị là Oanh hối hận. Cái đó dễ hiểu lắm. Mà nguy nhất cho người
ta là khi đã mất lòng tự kiêu, tự ái. Đau đớn vì oán giận kẻ khác thì chẳng nói
chứ chính mình lại phải oán giận mình thì còn ai biết cứu chữa ra làm sao! Oanh
đã lâm cảnh ngộ đáng thương ấy thì tôi còn nỡ lòng nào ghen tuông với nhà tôi
làm gì. Ghen ghét Oanh mà làm gì! ấy cái nhẽ tôi là thế chứ không phải chúng
tôi là chị em họ.
- Phải lắm! Đã ghen thì chị em ruột cũng có thể đâm chém nhau
được nữa là chị em họ.
Chen vào giữa chúng tôi, anh Quang nói một cách căm tức:
- Mà tôi chẳng hiểu hiện Oanh đang ốm như thế nào? Mấy ông
lang băm nói huyên thuyên loạn xạ cả lên để cho không ai hiểu cả. Ông thì bảo
đau phổi, ông thì đau óc, ông thì lại kêu đau tim! Có là Giời cũng không hiểu!
Chị Quang nhìn chồng cười gằn:
- Mình rõ thật là gàn! Tất nhiên bệnh ấy là tâm bệnh thì dẫu
đã đau các cơ quan khác trong người, quả tim cũng chẳng phải là không đau! Theo
ý tôi Oanh mắc cả hai thứ bệnh: đau trong người và đau trong ý nghĩ. Có muốn chữa
chạy thì mình cứ việc chữa chạy cho cả quả tim, chứ cậy mấy cụ lang hủ lậu, thì
ăn thua gì!
- Mợ nói đâu ra đấy. Thế thì mợ thử giải quyết cho tôi một
phương cứu chữa xem sao? Nói không thì ai mà chả giỏi được.
Chị Quang chỉ tôi phân vua:
- Ơ kìa! Nói lạ nhỉ! Việc của mình chứ việc của em đấy à?
Tôi bênh vực bạn:
- Thì bác cứ làm phúc thử nghĩ hộ bác giai xem có phương kế
gì không?
Từ đấy trở đi chị lại cúi đầu trên đường kim mũi chỉ, mắt có
vẻ tư lự lắm. Tôi không hiểu đó là chị nghĩ phương kế cứu người đàn bà khốn khổ
mà chị đáng lẽ phải coi như kẻ tình địch hay là chị đã tiếc cái đại lượng phi
thường của mình chỉ vì lời khen ngợi sốt sắng của tôi. Cái điều ấy có thể lắm
vì trong đời vẫn có một số đông những người bướng bỉnh, những người mà ta muốn
thấy làm một việc gì thì ta phải ngăn ngừa hay là ta muốn họ không làm việc gì
thì ta lại phải hết lời xúi giục.
Chỉ biết rằng, đêm ấy bạn tôi giục tôi vào phòng ngủ để thuật
lại tỉ mỉ cho tôi nghe chuyện cái cô Oanh ấy, thì người vợ cứ chong đèn ngồi
khâu rất khuya.
Sớm hôm sau, lúc bạn tôi gọi tôi ra bàn dùng thức điểm tâm,
thì người vợ ít có ấy vui vẻ hỏi chồng:
- Thế nào? Cậu đã nghĩ ra cách gì chưa?
Quang nhăn mặt gắt một cách khôi hài:
- Lại còn nghĩ ra được cái gì nữa!
Chị Quang đưa mắt nhìn tôi mỉm cười rồi nói với chồng bằng một
giọng chế giễu:
- Rõ tội nghiệp! Kìa, nghĩ cả một đêm như Ngũ Tử Tư, đầu tóc
sắp trắng xóa ra rồi kia kìa.
Bạn tôi lại lấy tay bóp trán và cử chỉ ấy không hiểu tại sao,
tôi thấy là hệ trọng lắm. Tôi thấy như là người vợ chế giễu chồng được một câu
như thế thì sung sướng lắm, có lẽ người vợ bắt đầu không còn là người đàn bà
phi thường nữa, vì đã biết ghen. Nhưng chị Quang đã lại hỏi chồng:
- Có thế thôi mà mình cũng không nghĩ ra à?
Bất giác tôi thấy xấu hổ lắm. Câu nói ấy không những cho bạn,
mà còn như cho cả tôi cũng phải nghe. Sự thực thì, cả một đêm tôi cũng bâng
khuâng nghĩ hộ bạn mà không nghĩ ra phương kế gì cả. Cái lòng tự ái của giống
đàn ông xưa nay vẫn khinh thường đàn bà mà lại bị một người đàn bà chê bai một
cách gián tiếp là ngu dốt lúc ấy bị thương nặng và biến ra thành một sự bất
bình sôi nổi trong lòng tôi.
Nhưng chị Quang vốn là người rất thông minh. Thấy bạn chồng lại
đỏ mặt hơn chồng, chị bèn nói chữa:
- Phải lắm, như mình, thì chỉ bận tâm lo buồn thôi, chứ nghĩ
sao được giữa lúc tâm hồn bối rối. Tôi tuy chẳng giỏi giang gì, song tôi gần
như là kẻ ở ngoài cuộc, cho nên trí não tôi cũng có phần sáng suốt hơn.
Quang ngơ ngác nhìn lên, ngoan ngoãn hỏi vợ:
- Theo ý em thì nên như thế nào?
Trước khi đáp, người vợ còn cúi đầu ngẫm nghĩ, ý chừng để
giãi bày cho khôn khéo. Có lẽ muốn giấu cái hổ thẹn của mình nên chưa nghe vợ
đáp, Quang đã thở dài mà rằng:
- Buồn nhất là cơ sự này, tôi đã đoán được rằng không sớm thì
chầy, thể nào rồi cũng có lúc xảy ra... Hiện giờ, thằng chồng theo đĩ mà bỏ lửng
vợ, mà vợ thì đương nghĩ đến việc đệ đơn xin ly dị tại tòa. Cho mãi đến bây giờ,
tôi cũng chưa hiểu vì lẽ gì xưa kia Oanh lại từ chối lời cầu hôn của tôi! Từ chối
giữa lúc cả làng cho việc tôi hỏi Oanh làm vợ là may mắn cho Oanh lắm. Thế mới
lạ chứ, vì rằng chính nhà tôi đây, hồi ấy cũng phải ngạc nhiên về sự từ chối ấy.
Hay là tại hồi ấy, Oanh đã yêu ai rồi? Có phải cặp vợ chồng ấy đã vì ái tình mà
lấy nhau không? Oanh đã kiêu ngạo hay đã chung tình? Dù sao mặc lòng, xưa kia
tôi đã chung tình thì nay Oanh phải hối hận!
Chị Quang, một cách rất có ý tứ đáp lời cho câu hỏi lúc trước
của chồng:
- Mình tìm cách nào cho cô ấy không phải hối hận nữa, tôi dám
chắc bệnh sẽ khỏi ngay.
Bạn tôi vội nói:
- A! Tôi hiểu rồi đấy.
- ừ! Đã thế, mình còn chờ đợi gì nữa?
- Nhưng mà... nếu thế... nếu thế thì Oanh lại oán ghét tôi mất!
- Điều ấy cố nhiên...
Quang nghĩ hồi lâu để rồi lắc đầu:
- Không! Không thể được! Hiện giờ, Oanh đương hối hận, nghĩa
là đương yêu tôi... Oanh yêu tôi! Yêu nồng nàn, yêu thiết tha! Có nên làm mất
cái tình cảm tốt đẹp hiếm có ấy trong lòng một người đàn bà mà tôi đã yêu xưa
kia không? Phải đến như thế nào... Oanh bây giờ mới có tình cảm ấy với tôi chứ?
Đã thế thì tôi không thể nói dối được! Xưa kia, tôi bị người lãnh đạm, nhưng
lòng tôi đã được tự do yêu. Nếu nay tôi phải làm một việc để, do thế, tôi ghét
người ta thì chẳng những bỗng đâu tôi vứt cái tự do yêu người ta của tôi đi, mà
rồi người ta lại còn ghét thêm tôi nữa!
Vợ chàng giơ tay khuyên nhủ:
- Phải hy sinh! Phải có can đảm! "Yêu người yêu mình chỉ
là tự yêu"! Vẫn biết mình nói dối Oanh thì Oanh tất nhiên sẽ phải ghét mình,
nhưng mà tôi xin mình, cứ thử một mình mình biết, một mình mình hay, mà yêu kẻ
ghét mình tôi xem nào!
Nghĩ một lát nữa, rồi Quang nhăn nhó lại lắc đầu:
- Không! Tôi không thể làm cho Oanh đến nỗi phải ghét tôi được.
Tôi xin lỗi mình, mình là người đại lượng mình hiểu biết... Sự thực, tôi vẫn
còn thương Oanh lắm.
Chị Quang nổi nóng, gay gắt phân trần:
- Thế nhưng mà khi ông không chịu nói dối thì nghĩa là ông vẫn
dang tay vò nát quả tim đã bị thương của người ta! Ông không muốn bị căm hờn!
Phải, ông chỉ ích kỷ! Để cho người ta chết thì rồi ông thương xót một thể!
Phạm Quang ngã ngồi xuống ghế như một cái cây đổ. Chàng gần
như khóc:
- Thà để Oanh chết là hơn! Nếu chẳng may thế, tôi sẽ ấp mồ
Oanh mà khóc! Chết như thế, Oanh cũng được hả về phần hồn! Còn sống như em đoán
trước, xác thể không những tiêu mòn, mà cả đến linh hồn của Oanh cũng chẳng mát
mẻ nữa, vì rằng sự căm hờn đã đến chiếm chỗ trong tim.
Chị Quang lại cười gằn mà rằng:
- Thế thì mình nhầm! Sự căm hờn chỉ nuôi chứ không giết. Sự
căm hờn đẻ ra lòng tự kiêu, tự ái, mà lòng tự ái chính là một sức mạnh để tự vệ.
Chỉ có sự hối hận, sự tự mình phải giận mình, là giết mà thôi!
- Khốn nhưng tôi không muốn giết cái mối yêu ấy trong lòng
Oanh. Căm hờn là một cái xấu không nên có trong hồn một người đàn bà đã lầm
trong một phút, và do thế, mới đáng thương! Thà Oanh hối hận, thà Oanh tuyệt vọng!
Thà để Oanh chết vì ái tình! Để cho ái tình ấy đi theo linh hồn là cái bất vong
bất diệt, ái tình sẽ hóa ra cũng bất vong bất diệt!
Chị Quang run rẩy khẽ nói:
- Bảo Oanh chết, ờ thì được! Nhưng còn thằng Chắt? Nó mới có
6 tuổi! Mà nó là cháu tôi, cháu mình? Giết mẹ nó là giết nó! Mình không được
phép giết thêm một đứa trẻ vô tội!
Anh Quang ngạc nhiên nhìn vợ hồi lâu rồi mạnh bạo ra đi. Anh
đi đến nhà Oanh. Nửa giờ sau, về, mặt nhăn nhó, anh kể:
- Thế là xong, tôi đã đóng một vai trò tàn nhẫn hét sức!
- Thế nào?
- Tôi đã bảo Oanh như thế này: "Tôi chỉ còn thương hại
cô mà thôi! Cô hỏi tôi có giận cô không? Có yêu đâu mà giận! Sao xưa kia, cô đã
khinh tôi như thế? Bây giờ khổ sở, cô mới hối hận, mới quay lại yêu tôi... Cái
yêu như thế, hỏi có giá trị gì? Có ai lại vớt lại một bát nước mà ta đã hắt xuống
đất?" Oanh xúc cảm quá mạnh nên không nói được gì cả. Oanh nấc lên một cái
thì tôi bỏ mặc ra về.
Chị Quang so vai, hài lòng:
- Có thế, Oanh mới sống được.
Rồi chị ấy bảo tôi:
- Bác hãy chịu khó ở chơi đây ít lâu nữa mà xem. Việc này rồi
phải có kết quả tốt.
Một tuần lễ qua...
Bữa ấy, chợt vợ chồng Quang gọi tôi ra cửa sổ. Thì Oanh đã ẵm
con dong chơi ngoài đường! Bấy giờ tôi mới biết mặt người đàn bà ấy. Nàng có một
vẻ mặt bình tĩnh một cách lạ, đủ biết trong lòng cái hối hận, cái nhớ tiếc
duyên xưa không còn nữa. Nước da tuy còn xanh, nhưng dáng đi đã có vẻ cứng cáp
lắm rồi. Tôi có cái cảm giác là người đàn bà ấy không thể chết được nữa. Oanh ẵm
con một cách âu yếm như đã quên, quên hết mọi sự để mà chỉ nuôi con.
Quang cầm hai tay vợ:
- Anh cảm tạ mình! Em đã dạy anh biết hy sinh và đã cứu nổi
hai mạng.
Tôi châm một điếu thuốc lá để tự thưởng, vì tôi đã hiểu rõ
cái lòng tự ái, kiêu ngạo, nó vừa làm đau khổ và vừa nâng cao phẩm giá người
đàn bà.
Muốn nhìn lại lần nữa, thì bóng Oanh đã thoáng khuất sau một
hàng rào găng.
1937
Đi săn khỉ
Xưa kia tôi chưa biết "đi săn" là thế nào. Nhưng mà
từ thuở nhỏ, tôi vẫn ao ước có một khẩu súng để có thể được đi săn luôn luôn.
Những khi trông thấy hoặc một chiếc xe hơi sau lưng có buộc một con hổ, một con
nai, với bọn người đội mũ cát két tay giữ súng ngồi trên, hay là một nhà thiện
xạ đeo súng sau lưng cưỡi xe "bình bịch" có đèo một chùm giẽ giun ở
tay lái, vênh vang đi qua các phố xá thì lòng tôi lại nao nao lên kính phục và
thèm muốn. Thú đi săn đối với tôi có một sức ám ảnh mạnh như là của ngọt đối với
những ông nghiện, cái quần soóc đối với những gái tân thời, huy chương phẩm hàm
đối với những ông trọc phú, thịt chó hầm rựa mận đối với các nhà sư chân tu. Đến
nỗi cái tục đi săn cát két ở Tarascon tả trong sách của A. Daudet cũng làm cho
tôi ước ao, khao khát...
Do những lẽ ấy, tôi không trở nên một nhà thiện xạ bao giờ.
Nhưng mà nỗi khổ tâm của tôi là có rất nhiều bạn có súng, hay
đi săn, và ai ai cũng hơi hơi thiện xạ một chút. Cách đây vài năm, tôi về nhà
quê với một người bạn thì được bạn rủ đi bắn chim. Các ngài cứ việc tưởng tượng
cái sướng trong lòng tôi, bữa ấy!
Sau khi đi quanh các hàng rào tre của làng đã hai lần, không
gặp một con chim gáy, một con cò, một con quạ, chúng tôi đành vác súng về
không. Đến cổng làng, gặp một con chào mào đậu ngay ở một cành tre, tôi giơ
súng lên, thì bạn tôi vội nhặt một hòn đất ném cho con chim bay trước đi! Rồi bạn
cắt nghĩa:
- Bắn thế, có trúng chăng nữa cũng là phí đạn.
Tôi tức đến cực điểm, tưởng có thể tuyệt giao với bạn ngay được.
Than ôi! Cơ sự mà đến như thế, thì cái tình bạn hữu ở đời thật quả chỉ là một
danh từ điêu trá của văn chương. Tôi không thể nào tha thứ cho sự phản trắc ấy
của bạn được, vì lẽ, đối với tôi, điều cốt yếu chỉ là được bắn một phát mà
thôi, còn trúng hay trệch, chim thịt ngon hay không ăn được, cái ấy tôi không
quan tâm. Giữa lúc tôi bực mình chưa tiện nói ra, thì bạn lại nói:
- Có lẽ số chúng nó chưa chết nên hôm nay bác đi săn mà không
một con nào lai vãng đây cả. Chứ mọi hôm, cò cũng nhiều, gáy cũng nhiều.
Tưởng bạn nói thật, tôi cũng nguôi giận. Rồi bạn lại cắt
nghĩa rằng bữa nay bạn đi săn bằng ban, nghĩa là đạn một chứ không phải đạn
ghém trong cát tút. Như vậy bắn chim nhỏ rất khó trúng. Đạn ghém thì, sau khi bị
thúc khỏi miệng súng, những viên chì nhỏ nổ ra theo một vòng rộng như một cái
nón, con chim rất khó lòng mà bay thoát, một khi tầm súng ngắm đừng quá sai.
Sắp về đến nhà, tôi lại trông thấy một con chích chòe thấp
thoáng trong một cây ổi. Tức thì tôi giằng lấy khẩu súng ở tay bạn mà rằng:
"Đi săn mà lại không bắn một phát nào thì lọ lắm". Lần này, bạn để
yên...
Tôi giơ súng lên. Con chích chòe lúc ấy quay đuôi lại phía
tôi, ngửa cổ hót mấy tiếng trước gió rất vui vẻ. Trước cái ngực trắng của nó,
có một sợi lông vũ nhẩy ra ngoài cái trật tự của những lông mượt mà và phong
phanh theo làn gió đìu hiu. Tôi cảm động lắm, biết mình sắp làm một điều ác, rồi
sẽ phải hối hận như người đi bắn trong bài thơ La mort du bouvreuil. Nhưng dẫu
là ác, mà thấy hứng thú, thích chí, âu ta cũng cứ làm! Tôi ngắm rất đúng. Đùng
một tiếng, một làn khói lam toả ra ở miệng súng rồi tan ngay. Tôi tưởng con
chích chòe phải rơi xuống ngay đấy. Nhưng không, nó không chết mà cũng không
bay đi. Lúc súng nổ, nó giật mình, nhảy lên một cái rồi quay đầu nhìn về phía
có tiếng nổ, với hai con mắt kinh ngạc (thật thế, nó cũng biết kinh ngạc, tôi
xin cam đoan như thế). Như vậy thì có lẽ lúc viên đạn sắp xuyên qua lưng nó thì
nó nhẩy lên, để cho viên đạn đi đến chỗ không địa chỉ rồi thì nó lại đậu vào
chính cái chỗ viên đạn đã đi qua, lúc trước. Thật là một kỳ công của loài chim!
Tôi quay lại xin bạn viên đạn khác, thì thấy bạn đương hai tay ôm bụng, đầu gục
xuống ngực. Chung quanh cái mũi dọc dừa của bạn, đầy những vết nhăn là vết
nhăn...
Tôi sợ hãi quá đi mất! Chết! Cái gì thế? Một tai nạn gì thế?
Hay là viên đạn đã chạy giật lùi, đã trúng vào bạn đứng đằng sau tôi? Không! ấy
là bạn tôi cười! Nhìn thấy mặt tôi, bạn mới thẳng người lên, phá ra cười ầm ỹ.
Nghe thấy tiếng cười, con chích chòe trên cây hoảng sợ, vụt bay đi. Nó không để
cho tôi thời giờ xin đạn để bắn nó phát nữa.
Về nhà, cả ngày hôm ấy, tôi dùng thời giờ để cãi nhau với bạn
rằng lỗi là ở hòn đạn. Nếu tôi bắn đạn ghém, chắc con chim đã đi đời rồi. Hiểu
cái ê chề của tôi bữa ấy là vô cùng, bạn tôi đem số tử vi của tôi ra xem rồi kết
luận là bữa ấy tôi không đi vào hung tinh nên không bắn được chim. Vì bạn là một
ông thầy số làm phúc rất giỏi nên tôi cũng được an ủi.
Sở dĩ tôi có thuật cuộc đi săn chim chích chòe này thì các
ngài mới hiểu rõ cuộc đi săn khỉ tôi kể dưới đây.
Cách đây hai tháng, vào lúc tôi nghỉ dưỡng bệnh đau phổi ở Bắc
Cạn thì cuộc săn khỉ đã xảy ra ở Khao Kỳ. Tại sao tôi nói xảy ra, rồi các ngài
sẽ hiểu...
Khao Kỳ là một cửa động cách xa tỉnh lỵ Bắc Cạn chừng 20 cây
số, trên con đường thuộc địa từ Ngân Sơn đi ngược về Hà Nội. Nghe đồn ở đấy có
rất nhiều bú dù. Nhiều đến nỗi chúng thường từ trên núi leo xuống cửa động, rủ
nhau vào ruộng để ăn trộm mía hoặc bắp ngô.
Bữa ấy nhằm ngày chủ nhật nên các bạn tôi rủ nhau tổ chức một
cuộc đi chơi có săn bắn: bắn khỉ ở Khao Kỳ và nhân thể đi thăm động. Anh Diễm,
bạn tôi, có đủ mọi thứ tư cách: chó săn, xe hơi, một khẩu súng hai nòng. Cứ
trông cách thức chúng tôi sửa soạn thì rõ ra một cuộc đi săn vĩ đại. Trước hết
chưa chi hãy đi săn những thức ăn. Bánh tây, giò, chả, hộp cá, rượu vang, đầy cả
mấy cái túi vải. Một cuộc đi săn xa tỉnh lỵ 20 cây số, phải biết! Cho nên phải
có đủ những điều kiện nó làm cho chúng tôi hóa ra những tay thiện xạ hùng hồn.
Có chó săn, có xe hơi, chưa cho là đủ, chúng tôi lại gọi một người thợ ảnh để
chụp kỷ niệm nữa. Long trọng biết bao! Anh Diễm đã tuyên ngôn: "Chúng ta sẽ
để anh Phụng bắn phát súng thứ nhất là phát súng danh dự!". Đã vậy mà đạn
bạn ưa dùng lại là đạn ghém, thì bảo tôi có sướng hay không! Nghĩ đến cuộc đi
săn chích chòe, tôi doạ tôi: "Chuyến này, phải biết!". Trong cái óc
nông nổi của tôi thì đi săn không có gì là khó khăn. Ngắm cho đúng, ai mà không
ngắm được? Kẻ nào không bắn nổi một phát súng, ấy chỉ là đồ ngu!
Từ sáng sớm, bọn sáu người chúng tôi và con chó săn cao lớn
đã lên ngồi xe. Chiếc xe này là một chiếc Mathis cũ, bé nhỏ. Bạn tôi mua nó có
một trăm rưởi bạc, và do thế, bị cả tỉnh ghen ghét, cho là ăn chơi như đế
vương! Lúc tậu xe, anh Diễm có nói: "Đáng lẽ thì để trăm rưởi cưới vợ lẽ
cho nó ra vẻ một người Việt Nam xứng đáng và hoàn toàn, nhưng sau tôi lại nghĩ
thà tậu xe để đi săn và đi chơi có lẽ hơn, nên không lấy vợ lẽ nữa!". Than
ôi! Có xe hay có vợ lẽ, bạn tôi cũng chỉ là một khổ chủ. Cái xe thỉnh thoảng lại
giận dữ với anh. Những cái rầy rà nó gây cho anh ở dọc đường có khi lại rầy rà
hơn cả những cái rầy rà gây ra bởi một người vợ lẽ nữa.
Cho nên bữa ấy, cái xe đình công bằng cái còi. Bấm điện thế
nào cũng không thèm kêu. Đến nỗi lúc xe qua chợ, có cô thổ đứng nghênh ngang giữa
đường làm cho sáu người chúng tôi phải kêu: "ếp! ếp!". Tuy vậy những
người hàng phố cũng cau mày nhìn khổ chủ để ghen ghét về cái tội ăn chơi đế
vương. Người ta không thể nào tha thứ được cho anh Diễm, chỉ là một viên chức,
mà lại có xe ôtô nhà, mặc lòng anh đã phải ếp.
Nửa giờ sau, chiếc xe đế vương ấy đến động Khao Kỳ. Anh chàng
thổ, người gác am và gác đền, đã đón chúng tôi:
- Bẩm các quan, mời các quan hãy đi xem động đã, chứ bú dù
thì chốc nữa chúng mới kéo nhau xuống ruộng.
Tôi chẳng thấy thú vị gì trong cuộc đi xem động. Trèo một
trăm thước thềm đá, vào cửa động, nhìn các mầu, các vân của đá, các bàn thờ Phật,
những nhũ đá có hình rồng, hình rùa, với những tên các ngài đến du lịch quét bằng
vôi trắng khắp mọi chỗ, ngần ấy cái không khiến cho tôi khỏi nóng ruột về cái
thú đi săn.
Tôi thúc giục người thợ ảnh lúc chụp chúng tôi, tôi thúc giục
cả các bạn hữu nào thích ngắm cảnh, và bị họ ghét. Một giờ sau, chúng tôi ra khỏi
động, xuống cái am mà người ta gọi là "đền ngoài". Chẳng nói gì đến
săn nữa, bạn hữu tôi lấy các thức ăn đem ra, chén phè phỡn! Tôi rất không bằng
lòng các bạn, vì cái lương tâm thiện xạ của tôi. Tôi cho rằng người Việt Nam
mình chỉ được cái bộ ăn thôi, chứ không bao giờ làm nổi trò trống gì cả. Tôi tức
rằng việc đi săn mà tôi cho là rất hệ trọng, thì lại bị họ rẻ rúng như thế.
Nhưng mà các bạn thân của tôi mặc kệ tôi. Tôi chỉ còn có con chó săn là cùng ý
kiến.
Ăn xong, như một sự cố nhiên, có một vài người say rượu. Họ
thấy nhức đầu. Họ nằm lăn ra ngủ. Ông nào chưa ngủ thì cũng kêu: Mệt lắm! Người
nào không nhức đầu, không ngủ, thì uể oải châu đầu vào ống quần để nhặt cỏ may.
Anh Diễm cũng nằm dài ra cái giường tre mà nói:
- Thôi, chả săn bắn gì nữa, chốc tôi còn cầm lái xe về, nếu
không giữ sức khỏe thì nguy hiểm...
Thưa các ngài, như vậy thì bảo tôi có nên giết quách các bạn
thân của tôi đi không? Tức quá, tôi lôi anh Diễm lên, bắt anh phải chỉ bảo tôi
mọi cách mở súng, lắp đạn, đậy súng... Tôi hỏi anh thổ thì hắn đáp:
- Bẩm quan, bây giờ thì khỉ nó xuống ăn trộm ngô rồi còn gì!
Tuy vậy anh Diễm cũng bảo tôi:
- Thôi, súng đấy, đạn đấy, anh cứ việc ra ruộng mà săn. Để
tôi ngủ một lát.
Tôi đáp anh như một người có điều gì đáng tự phụ:
- Được lắm! Thế thì còn gì bằng nữa!
Rồi tôi theo anh chàng thổ, lội cỏ may mà ra ruộng, vừa đi vừa
vỗ đầu con chó.
Hắn chợt bảo tôi:
- Quan đi sẽ chứ! Quan cúi đầu xuống kẻo chúng trông thấy, lại
lên núi mất. Khỉ là một giống tinh lắm.
Chúng tôi chỉ đi cách am chừng vài chục bước. Trước mặt chúng
tôi là một quả núi cao lừng lững, có cây cối mọc hỗn loạn, um tùm. Chợt anh
chàng thổ khẽ nói:
- Kìa! Chỗ bụi kia thấy động đậy! Dễ chúng đấy!
Tôi định thần trông ra phía hắn trỏ. Quả là bụi cây có động đậy
thật, xong tôi không trông thấy một con khỉ nào. Tôi bèn hỏi:
- Hay là người nào?
Hắn đáp:
- Đâu làm gì có người nào!
- Thế ta bắn chứ?
Hắn cắt nghĩa:
- Chỗ nào xanh là lá cây. Chỗ nào mầu củ nâu là khỉ. Lông khỉ
hơi vàng. Quan cứ chỗ nào hơi vàng mà ngắm.
Chẳng nghĩ ngợi gì nữa, tôi bèn để súng lên vai. Tôi ngắm
đúng chỗ có mầu củ nâu trong bụi xanh. Tôi bấm cò, súng nổ đùng một tiếng. Sườn
núi cũng đáp bằng một tiếng đùng, do tiếng vang hắt lại.
Con chó săn chạy đến chỗ ấy lập tức.
Trên sườn núi thấy tiếng xào xạc của mấy con chim hoàng oanh
vừa bay vừa kêu thất thanh. Rồi thì, từ cái bụi xanh, bỗng thấy hiện ra một thiếu
nữ thổ với cái áo dài xanh, cái váy xanh, mặt mũi vừa ngơ ngác vừa tức giận:
- Rõ khéo khỉ ở đâu ấy! Đùa thế à? Chết người ta thì làm sao?
Thì ra đó là một thiếu nữ của rừng xanh đương lúi húi cắt cỏ
cho ngựa, khi thấy trời râm lại thì bỏ nón ra, gài lên một cành cây. Tôi đã bắn
trúng cái nón.
Tôi đương vừa lo sợ, vừa hổ thẹn, vừa mừng rỡ nữa, tim đương
đập thình thình trong ngực, thì cô sơn nữ ấy đã giơ cái nón ra, kêu:
- Bắt đền đấy! Thủng nát cả nón người ta ra rồi đây này! Rõ đồ
khỉ!
May đâu con chó săn cắn gâu gâu lên bênh vực tôi.
Tôi quay lại nhìn anh thổ để đổ lỗi cho hắn, thấy mặt hắn ngẩn
ra một cách hết sức vô duyên. Thấy cái mặt giận dữ kia với cái mặt ngây dại này
đều không phải là thuộc sự văn minh nên tôi không thèm xin lỗi cũng như không
thèm trách mắng.
Thấy tiếng súng nổ và tiếng đàn bà chu chéo vang cả một góc rừng,
các bạn tôi đều choàng dậy, chạy đến, tưởng dễ thường một vụ án mạng nào đã xảy
ra...
Khi hiểu chuyện, họ lăn ra cỏ may để mà cười. Tôi đi săn khỉ,
chính tôi bị gọi là khỉ.
Về tỉnh, khi những người quen thuộc hỏi thăm tin tức về cuộc
đi săn khỉ rất vĩ đại ấy, bạn Diễm đã nói một cách rất tự nhiên:
- Được một con!
Thành thử tôi cũng phải đáp như thế với người khác.
Thưa các ngài, từ đấy trở đi, không bao giờ tôi khao khát sự
đi săn nữa. Tôi tự cho mình đã đủ từng trải. Tôi đã dùng từ súng một nòng đến
súng hai nòng, từ đạn một đến đạn ghém, từ đi chân không đến đi xe hơi, từ
không có chó đến có chó, và bắn từ chim muông đến mãnh thú...
Và, cũng từ đấy, mỗi khi trông thấy những tay thiện xạ có hổ,
báo, hươu, nai sau ôtô hay giẽ giun ở tay lái xe bình bịch, tôi chẳng ngại lẩm
bẩm như một nhà triết học ghét sự tàn sát:
- Chà! Rõ đồ dã man!
1937
Máu mê
Còn mười lăm phút nữa thì tan sở. Thụy ngồi uể oải tựa đầu
vào thành ghế nhìn ra sân tòa Bưu điện bằng cái cửa sổ nhỏ. Những chiếc xe nhà
đen đã bắt ra phố để phát hành thơ từ chuyến ban đêm. Những chiếc xe hơi to lù
lù có chữ P.T.T. đã lấy hàng hoá, giấy má, các nơi, bây giờ rầm rộ qua sân để
vào kho colis postaux. ở buồng bên cạnh, những tiếng "tịch tịch te" của
tin dây thép vẫn khua lên như mưa rào. Thụy sung sướng thấy rằng hôm nay, cả
ngày, mình không có khách, không phải làm nhiều, cũng như đa số các viên chức
trung thành được sung sướng sau một ngày được ngồi yên mà đọc chuyện kiếm hiệp,
hay là cắn móng tay, hay là dùng chốt đinh ghim để lấy ráy tai. Phòng Thụy làm
là phòng giao hàng theo lĩnh hóa giao ngân, mà hôm nay, khách đến lấy chỉ ba bốn
người, tiền thu chưa được hai chục bạc. Do thế, Thụy đã được ngồi đeo kính đen
mà ngủ gần cả buổi sáng để làm lại cái sức khỏe tiêu phí vào một canh đỏ đen
đêm trước.
Còn năm phút nữa, Thụy sắp đứng lên mặc áo, thì một bạn đồng
nghiệp vào với một đống sổ sách. Thụy ký nhận, bắt người kia ký nhận, rồi hai
bên bắt tay nhau, chúc nhau bữa chiều ăn cơm ngon. Trước khi đi, người bạn đồng
sự còn nói:
- Này, thằng Cú Vọ nó đã đi thanh tra về rồi đấy. Mai thì nó
đến khám két của anh... Tôi biết đích xác như thế.
Cái tin sét đánh ấy khiến Thụy tái xanh cả mặt. Thụy không ngờ
rằng viên thanh tra Tây lại về nhanh như thế... Nghĩa là ngày mai, Thụy sẽ vào
tù: chàng đã mượn tạm của két ngót ba trăm bạc, mà lệ Nhà nước là không ai được
giữ trong két trên ba trăm.
Tức khắc chàng giở sổ ra cộng và được con số: 322đ56. Chàng đếm
tiền trong quỹ và được con số nhỏ lắm 32đ56. Thế nghĩa là chàng đã thụt két
đúng hai trăm chín mươi đồng bạc! Chàng kinh hoàng. Sao mà lại nhiều thế? Mới
thua có ba canh mà đã nhiều đến thế ư? Thì ra những lúc thua cay mà phải
"vay tạm" Thụy không hề quan tâm đến những con số. Sau một cuộc
"họa lai thần ám" đến thế thì người ta chỉ còn một cách: vào tù!
Thụy tần ngần ngẫm nghĩ hồi lâu rồi bỏ nốt vào túi số tiền
hơn ba chục bạc còn sót trong két. Chàng mặc áo ngoài, tắt đèn, khóa cửa buồng,
ra về với mấy chục viên chức khác.
- Ê, Chung! Chờ tao đã!
Chung, một viên chức ở buồng điện thoại, bạn thân của Thụy,
nghe tiếng gọi bèn dừng lại. Thụy nói:
- Hãy đi đằng này với tao!
Rồi chàng quay lại bảo người phu xe nhà đương kéo cái xe sơn
đồi mồi đi theo mình:
- Mày về thưa với bà rằng chiều hôm nay ông đi xơi cơm hàng
nhé! Thôi, cho về, để tao đi xe hàng.
Hai người gọi một xe. Lúc lên ngồi, Chung gắt:
- Khỉ quá! Giả dụ mày bảo trước tao từ sáng có hơn không!
- Đến chính tao cũng không bảo tao trước nữa là...!
Chiếc xe kéo hai người đến một phố Tây. Trông thấy một toán
tù nhân đi làm cỏ vê giữa bốn năm người lính khố xanh bồng súng và cầm roi, Thụy
thở dài, hỏi bạn:
- ở tù khổ lắm, nhỉ mày nhỉ?
Chàng nghĩ đến địa vị mình: một ông phán hạng sáu; có xe nhà,
có vợ đẹp, có con khôn... Ngày mai thì chàng sẽ như bọn tù kia: bị giam hãm, bị
xích tay đi các phố xá, làm những công việc nhục nhã... Chàng rùng mình hối hận,
nhưng dễ thường muộn rồi. Nhưng Chung chỉ phì cười mà đáp:
- Mày nói như thật ấy!
Một lát, thấy Thụy chỉ cho phu xe con đường không đi thẳng về
Hàng Buồm, Chung hỏi:
- Ơ hay! Đi đâu mà lăng nhăng thế này?
- Đi chén, nhưng mà cho phép tao lại đằng này hỏi tí việc đã.
Thụy muốn đến nhà lão Hàn Bầu, một tay trọc phú, chủ một dược
phòng nổi tiếng, một tay "vua thuốc lậu" đã làm cho nhiều người tuyệt
đường con cái, có huy chương, có bài ngà, có nhiều giấy bạc trong két, có nhiều
chất vô vị trong những chai thuốc bổ, và có những giấy văn tự hai mươi nhăm phần
trăm tiền lãi cho vay. Xưa kia, Thụy đã được tiến cử đến vay, và đã trả sòng phẳng.
Lần này, Thụy lại đến... Nếu được thì càng hay, bằng không thì vào tù.
Xe đỗ trước một hiệu thuốc có máy phóng thanh đương hát bài
Anh Khóa và có một số đông những người ngu dại đứng nghe những câu quảng cáo mà
chủ hiệu thuê một người đưa chen vào những đĩa hát. Hai người vào. Bà chủ nhà gọi
pha nước rối rít và kêu:
- Thưa ông, cậu cháu đi ba hôm nữa mới về ạ.
Thụy vội lau những giọt mồ hôi thình lình chảy ra ở thái
dương. Chàng nói chuyện trời nắng trời mưa mất nửa giờ để có thể đến lúc có gan
hỏi vay ngay người vợ lão Hàn, một người không có hề giao thiệp với ai về tiền
nong.
- Thưa ông, giá có sẵn thì tôi cũng vượt quyền cậu cháu đưa hầu
ông, song mới hôm qua, có mấy trăm lại giả mấy vạn lọ thuốc đau mắt rồi! Ông để
đến ngày kia hay ngày kìa thì ông quay lại.
Thụy lo sợ vô cùng, xấu hổ vô cùng. Chàng xoay xoay mũ, ấp
úng nói mấy câu cảm ơn vô duyên, rồi cùng Chung bước ra. Thụy bảo phu xe:
- Bây giờ kéo chúng tôi lên Hàng Buồm.
- Mày vay tiền để làm gì thế?
Giữa lúc ấy, Thụy cũng không cắt nghĩa cái cảnh ngộ của mình
cho người bạn thân, cho rằng có nói cũng vô ích. Chung không thể chạy đâu cho
chàng trong một đêm những ba trăm bạc được. Thụy đã muốn vui chơi với bạn cho
thật thỏa thích đêm cuối cùng để hôm sau vào tù cho cam lòng, nếu nói ngay, sợ
cuộc vui mất vui. Chàng chỉ đáp một cách thản nhiên:
- Vay có chút việc riêng.
Thụy đòi rượu Mai Quế Lộ thượng hảo hạng, gọi những món ăn rất
đắt, những món Chung chưa hề thấy ai gọi đến cả: Bách điểu qui sào, Tam sà đại
hội, Ngũ hổ nhập thiên thai, vân vân. Lại có cả món Ngũ tộc cộng hòa và món Tam
dân chủ nghĩa nữa. Nghe những cách mệnh danh lố bịch ấy, Chung phì cười.
Thụy cười nhại, đáp:
Thụy ăn như một kẻ mới ở tù ra, tuy chàng mới chỉ là kẻ sửa
soạn vào tù. Chàng uống như một cái phễu. Chàng nói lảm nhảm như một nhà sư lúc
đi phá giới ở nhà ả đào. Chung cũng hơi ngạc nhiên về thái độ ấy nó khác thường
lắm. Nhưng Chung không hỏi kỹ, vì sự thực, chính Chung cũng choáng váng hơi
men, cười nói huyên thiên. Lúc trả tiền, Thụy bất bình rằng ăn uống như thế mà
chưa hết 15 đồng. Chàng quay vào, gọi hầu sáng, thưởng cho một đồng bạc.
Lúc ra cửa hiệu, sáu người ăn mày đều được Thụy cho mỗi người
một hào. Khi hai cây thịt bị vứt lên một chiếc xe, Thụy nói:
- Đi hát!
- Mày còn bao nhiêu tiền?
- Còn độ mười lăm đồng giở lên.
- Sao mày lắm tiền thế mà lúc nãy còn đi vay? Sao mày chướng
thế?
- Tao không chướng thế thì sao tao lại đáng mặt cho đời gọi
là thằng Thuỵ?
Đến một nhà ở Khâm Thiên, Thụy đòi bàn đèn và rượu sâm banh,
chứ không đánh trống. Hai người hút thuốc phiện như hai cái ống khói, và tuyệt
nhiên không thèm sờ mó đến một chị em nào cả. Các cô đào rất lấy làm ngạc
nhiên. Có nhiều ả thấy khách quá dễ, đâm nhờn. Họ lẻn ra đường chuyện với nhân
tình mà Thụy và Chung cũng không buồn để ý.
Mười hai giờ đêm.
Chung đã nhắm nghiền mắt bên bàn đèn thì Thụy nói:
- Chung ơi, mày là người bạn thân nhất đời của tao... Mày có
hiểu cái vui chơi tối hôm nay của tao có mục đích gì không?
- Tao chỉ hơi ngạc nhiên, và cũng sắp hỏi mày đấy.
- Chung ơi, đêm nay là đêm cuối cùng sung sướng của chúng
ta... Rồi ngày mai thì tao không cùng đi một con đường đời với mày nữa!
- Mày say đến thế kia à?
- Thật đấy, Chung ạ. Bây giờ thì đã đến lúc tao nói: mai thế
nào thanh tra nó cũng khám két tao, nghĩa là tao vào tù. Cái két còn tiền nữa
thì đêm nay tao còn ăn chơi sang trọng hơn nữa để thết mày cho bõ, nhưng chỉ
còn có hơn ba chục. Vậy tao yêu cầu mày một điều là khi tao vào tù rồi thì mày ở
ngoài thỉnh thoảng giúp đỡ vợ con tao, cho đến lúc tao được ra... Chung ơi, vào
tù, vì thụt két, điếm nhục gia thanh, để vợ con đói khát... rồi thất nghiệp, rồi
khốn khổ...
Thụy ngừng lại để khóc hậm hực. Chung ngồi nhỏm lên, hiểu cả
sự nghiêm trọng của tình thế. Chung lo sợ hơn là chính mình sẽ phải vào tù.
Chung cũng ứa nước mắt.
Sau cùng, Chung đứng lên nói:
- Nếu còn có một cách thôi thì ta cũng nên không vì một lẽ gì
mà không thử. Đây này, mày còn hơn mười lăm đồng, phải không? Thì chi chầu hát
một chục thôi! Tao còn năm đồng nữa đây, thế là chúng ta có một chục... Đi gỡ!
Phải gỡ chứ! Biết đâu...
- Thôi, ăn thua gì! Nhọc xác! Để tao ngủ yên một đêm rồi mai
vào tù! Dạo này tao đen, tao biết!
- Không! Phải đi gỡ! Tao nhất định thế.
Chung lôi cổ Thụy dậy cho kỳ được.
Sòng bạc vẫn đông đủ như mọi đêm. Con bạc cũng vẫn như mọi
đêm, nghĩa là từ ông phủ hưu trí đến ông "vua thuốc lậu", những tay
sát phạt nhau mỗi canh bạc trăm, bạc nghìn cả. Bốn năm chục người ghê gớm trong
đó không ai chịu nói khẽ và cứ to tiếng gắt mắng người khác là nói to.
Một giờ đầu, Thụy và Chung được hai trăm. Nửa giờ sau, được
hai trăm nữa. Một giờ sau nữa thì lại được trăm nữa. Chủ sòng làm một câu:
- Thôi hẳn đêm nay hai bác vét cả làng.
Chung đếm lấy ba trăm bạc bỏ vào ví, chỗ thừa để mặc cho Thụy
"húc" với viên phủ hưu trí. Chung ngồi về phía sau cho con bạc khỏi
soi bói mình. Sau cùng, chàng đứng lên, ra bàn ăn lê, táo. Thụy cứ được, cứ được
mãi, dễ đến tất cả là tám trăm. Chung không để ý.
Đến lúc Thụy bắt đầu thua, chỉ còn trước mặt độ một trăm
thôi, Chung đâm tiếc của, cấu đùi bảo bạn đứng lên. Thụy nhất định cứ ngồi. Cái
bát bị ném đi, Thụy mất nốt trăm bạc. Chàng quay lại bảo bạn:
- Cho tao vay hai chục.
- Không!
- Hai chục thôi, tao lậy mày!
- Nhất định không! Cờ bạc thua hàng mười hôm liền, hôm nay được
có trăm bạc, phải thôi đi chứ. Húc mãi như thế để tự tử à? Có ai lại đánh bạc
như mày bao giờ?
Thụy đứng lên, vái lấy vái để:
- Hai chục nữa thôi, tao lạy mày! Chung lùi ba bước, quả quyết
đáp:
- Tao nhất định không đấy! Thụy chạy đến móc túi bạn.
Chung đẩy Thụy ra. Cáu tiết, Thụy ôm lấy Chung định cướp giật
số bạc trong túi áo. Chung hết sức mới đẩy được Thụy ra lần thứ hai. Đến lượt
Chung phải van xin:
- Tao lạy mày nữa. ấy trước sau chỉ được có trăm bạc thôi,
tao còn phải giả tây đen ngày mai, không có nó cho tao vào tù.
Chung tưởng nói thế thì bạn tỉnh ngộ, thì bạn hiểu cái tình
thế hiểm nghèo giữa hai con đường: yên lành và tù tội. Nhưng, Thụy không còn biết
nghĩa lý gì nữa, lại xô vào, giằng co với Chung. Bốn năm chục con bạc bắt đầu
nói: "Đồ ăn non!". Lão phủ hưu trí có đầy sát khí ở mặt và hai lưỡi
dao găm ở mắt. Anh chủ sòng cay lắm, như sắp chết điếng. Bọn tạ sắp sửa xông
vào cướp... Họ muốn phá sòng! Một vài người đàn bà bắt đầu kêu thất thanh.
Tức thì, nắm chặt bàn tay, đã đến lúc phải tỏ rằng mình cũng
còn có một vài miếng, Chung đấm luôn cho Thụy một cái vào giữa quai hàm! Nhưng
Thụy lại còn xông đến lần nữa. Thụy hóa điên! Chung lại nắm tay trái đấm luôn
vào cái quai hàm bên kia. Thụy ngã dúi xuống đất.
Chung đút hai tay vào túi quần, vênh mặt, ung dung nói với cả
bọn con bạc:
- Đấy, mời các ngài xem thằng này là thằng nào. Bạn thân cũng
có thể đánh chết được, nếu vào lúc cần thì đánh chết!
Cho thế chưa là đủ, Chung lấy con dao vẫn dùng gọt bút chì, cầm
ở tay. Chàng mở lưỡi dao nhọn, doạ:
- Mày mà mò đến chân lông tao thì tao xin cam đoan là sẽ có một
vụ án mạng!
Chung nói xong đi, ra. Thụy ngồi lên ôm mặt, nhăn nhó, Chung
bảo sõng:
- Mày có về thì về, hay ở lại thì cũng tùy mày.
Rồi ra thẳng, con dao vẫn lăm lăm trong tay.
Hôm sau, lúc ông thanh tra khám két, Thụy vẫn là một viên chức
đúng luật lắm. Các bạn đồng sự hỏi thăm một bên má tím bầm của chàng. Thụy đáp
là ngã gác.
Buổi trưa, lúc tan sở, Chung lại tìm Thụy. Chàng cảm động nói
với bạn:
- Mày mới thật là bạn tốt. Nếu mày không đánh ông đến trẹo
quai hàm thì... than ôi! Tao cám ơn mày lắm.
Một người nghe thấy tưởng Thụy nói đùa. Chính ra chàng nói một
cách rất đứng đắn.
Và từ đấy, làng đen đỏ không thấy mặt Thụy trong số những nạn
nhân. Chàng đã hiểu vì lẽ gì, bọn con bạc không bao giờ lại có thể khá được.
1937
Tự do
Buổi chiều hôm ấy, bà chủ vừa gãi đỏ cả hai bàn chân vừa kêu:
"Rõ khổ lắm! Nhiều muỗi quá thế này này!". Ông chủ lập tức gọi thằng
xe lên.
- Mày bận những công việc gì mà ba bốn tháng nay mày để cái
vườn hoa cứ rậm như cái rừng ấy thôi! Rõ đốn quá đi mất!
- Bẩm con không thấy ông bà bảo gì cả... Đã có hôm con toan lấy
kéo ra sửa thì cô Thư lại mắng, bảo cứ để rậm thế cho đẹp!
- Cô ấy là trẻ con... cô ấy còn biết gì nữa! Sáng sớm mai thì
tao cho mày nghỉ ở nhà mà sửa sang lại cái vườn!
- Bẩm vâng.
Ông chủ vừa nói vừa đi ra hiên.
Ông nhìn ra vườn lại kêu:
- Thế kia, chả trách được lắm muỗi! Mày cứ việc phạt cả đi
cho tao một lượt, không tiếc cái gì cả. Hoa hồng, râm bụt, rào găng, mày cứ cắt
phăng đi một nửa. Còn lá sả thì mỗi khóm mày nhổ bớt một nửa đi. Khi tao nói nhổ,
nghĩa là lấy cuốc mà đánh, chứ đừng nhổ thật, đứt tay, chết!.
° ° °
Sáng sớm hôm sau, khi thằng xe một tay vác cuốc, một tay xách
cái kéo khổng lồ ra vườn, thì nó gặp cô Thư đã vác chiếc ghế con ra định cùng
ngồi dưới gốc cam. Lúc ấy, ông chủ và bà chủ đều chưa dậy.
Thằng xe bèn nạt nộ con gái chủ nhà như những đầy tớ biết tự
trọng khác, những khi vắng mặt chủ nhà:
- Đi vào! Đem ghế vào! Bảnh mắt ra đã ra vườn làm gì cho vướng
người ta!
Thư, cô bé mới 12 tuổi, không những không giận thằng xe, lại
chỉ mỉm cười một cách ngây thơ, trỏ tay lên một cành cây vải, nói giọng khẩn
khoản:
- Anh xe! Anh bắt con chuồn chuồn kia cho tôi đi nhé!
Thằng xe vứt cuốc và kéo xuống đất, ngơ ngác tìm con vật
trong đám lá xanh. Khi thấy rồi, nó rón rén tiến đến chỗ ấy, từ từ đưa tay
ra... nhưng con chuồn chuồn vụt bay đi một cách ranh mãnh như là nhờ có người
muốn bắt mình thì mới bay vậy. Đâm ra bực mình, thằng xe lại gắt với cô con gái
chủ vô tội:
- Đi vào cho người ta sửa vườn.
Cô Thư phụng phịu gần khóc:
- Không, tôi không cho anh sửa vườn, nào nào!
- Này, khóc thì tôi mách cậu cho đấy! Cậu bảo thế chứ tôi tự
nhiên muốn sửa làm gì!
Cô Thư đến đây khóc thật. Những hạt nước mắt từ từ chảy ra
long lanh như hạt trai. Giọng cô bé nức nở như của một người đau đớn về một nỗi
buồn tê tái. Động tâm, thằng xe tức khắc phải đổi giọng:
- Thôi, chị Thư nín đi nào! Nín đi rồi tôi bắt cho một con
cào cào có nhiều áo tân thời y như của mợ, áo tím, áo đỏ, áo xanh! Thế cơ! Nín
đi cho ngoan nhé!
Lời hứa ấy có một sức mạnh đủ khiến cô bé không những nín bặt
mà lại còn bắt đầu cười gượng nữa.
Thằng xe bèn nhìn cái vườn hoa một lượt xem nên bắt đầu làm từ
chỗ nào. Những cây lá sả đã mọc rậm rạp và cao như những cây lau và nhảy bừa
bãi ngoài cái trật tự của những luống. Những cành hồng lều nghều vươn cành ra tứ
phía như chỉ rình cào xước cổ những khách thăm vườn để họ nhớ rằng hoa hồng nào
cũng có gai. Những cỏ tóc tiên mọc hỗn loạn làm cho những bờ cỏ không còn có vẻ
gì là tóc tiên nữa. Những cây dâm bụt thì để hoa rụng xuống đất úa ra ngả thành
màu nâu, nhớp nháp như những vũng bùn lầy. Chung quanh vườn, cái rào găng um
tùm và bề bộn như một tụm găng vô chủ sống tự do trong rừng sâu. Nhất là nó lại
che tịt mít cả: khách đi ngoài đường không tài nào trông thấy cái biệt thự xinh
đẹp ở bên trong nữa!
Cô Thư chờ đợi mãi, đã vào nhà ăn quà sáng và quên khuấy mất
con cào cào có những bộ áo tân thời như của mợ.
Vào lúc nắng từ trên đỉnh đầu chiếu thẳng xuống, thằng xe,
trong khi cắt một cành găng rồi lẳng xuống bãi cỏ, nghe thấy một hồi tiếng chim
non kêu: "Chích chích chích chích!...". Nó dừng tay nhìn rồi vội từ
trên cái thang gập nhảy bổ xuống, vồ lấy con chim lúc ấy đương sã hai cánh trên
một đám cỏ hoa. Nó sướng như một đứa trẻ thơ, vội chạy vào nhà, gọi to:
- Chị Thư ơi! Tôi bắt chim cho đây này!
Từ mấy đứa trẻ cho đến ông chủ và bà chủ, cả một gia đình lúc
ấy sướng bằng trúng số độc đắc. Người ta bỏ lửng bữa cơm. Người ta xúm quanh thằng
xe để nhìn con chim bị nắm trong một bàn tay thô bạo đương thất thanh kêu như
muốn nói: "Chết chết chết chết!".
Ông chủ nói to như tuyên bố một sự phát minh:
- À! Chim chào mào đây mà!
Thằng xe để con chim xuống đất rồi đứng khoanh tay như một
nhà binh vừa mới có chiến công.
Quả vậy, đó là một con chào mào. Hai cánh nó đã đủ lông tuy
trước ngực thì sợi tơ trắng chưa đủ che kín mảng thịt đỏ hỏn; đằng sau thì cái
bọng vẫn còn nặng nề, to tướng, cái mỏ hình chữ V có hai màu vàng dầy dặn ở hai
bên. Tuy vậy, một rúm lông trên đỉnh đầu đã nhu nhú mọc lên như một cái mào sổi.
Bà chủ bĩu mồm nói:
- Thế mà bảo là chào mào! Nó là con chim chìa vôi!
Thằng xe đáp ngay:
- Bẩm, chào mào hay chìa vôi cũng là nó!
Con chim non ngơ ngác nhìn quanh một cách sợ hãi; hai cánh vẫy
vẫy như muốn bay, nó vẫn kêu, nhưng lần này kêu khác lần trước... Tri huy!
Tri huy! Tri huy!... Nó như muốn nói "chí nguy!" để kêu gọi bố mẹ.
Rồi bất kỳ, nó bay bổng đánh vụt một cái qua đầu cô Thư, thẳng ra lối cửa ở mái
hiên. Cả nhà giật mình hồi hộp... Nhưng con chim chưa đủ tư cách ấy chỉ bay đến
bức tường con ở hàng hiên để đập ngực vào đấy, rồi rơi xuống đất một cách đáng
thương hại. Cô Thư chạy lon ton ra để vồ... Con chim lại cất cánh bay, và lần
này lái ra được vườn hoa để sa xuống một gốc cam. Phải thằng xe chạy ra mới vồ
nổi. "Chích chích chích chích!", trong cái bàn tay thô bạo, con
chim lại giẫy giụa kêu thất thanh. Giữa lúc ấy, trên cành cam ở đỉnh đầu thằng
xe cũng có chim kêu choáng lên:
- Hồ hồ ri íu! Hồ hồ ri íu!...
Kể về ngôn ngữ của "loài hai chân không lông vũ"
thì cái câu nói của loài có lông vũ ấy nó na ná cái hình thanh của một câu văng
tục vậy. Và hai con chim ở trên cành chính là bố mẹ con chim con.
Trông thấy con bố và con mẹ, thằng xe tinh nghịch giơ con con
ra. Hai con kia liệng bay xuống gần bàn tay nó như muốn tìm cách đánh tháo cho
con, hai cánh tuy đập đập nhưng toàn thân ở nguyên một chỗ giữa không khí, như
những lúc loài chim bói cá đứng ngắm cá trên mặt ao trước khi văng mình xuống
nước. Sau khi biết thật là không có cách nào, hai con bố mẹ mới lại bay lên đậu
ở cành cao. Hồ hồ ri íu! Hồ hồ ri íu!... Đồ... đồ láo! Đồ láo!
Ông chủ nhìn vợ, hỏi:
- Ghê không? Gớm chưa?
Bà vợ đáp:
- ấy tình mẫu tử của loài chim mà cũng đến như vậy.
Ông chủ lại bảo xe:
- Chim non rơi thế này, ắt phải rơi cả tổ. Mày ra xem chỗ ấy
có còn cái gì nữa không. Tao chắc còn con nữa, vì bao giờ loài chim cũng nở từng
đôi một.
Đứa đầy tớ ra tìm kiếm trên bãi cỏ gần hàng rào. Một lát sau
nó đem vào một cái tổ chim, với một chú chim non lại còn non hơn con trước, bé
hơn, chưa biết kêu.
Cả nhà đều ngạc nhiên. Con chim trước lồng lộn lên muốn bay
đi như thế, mà vừa bị đặt vào tổ, đã nằm ngay xuống cạnh "đứa em" -
hoặc "đứa vợ", vì loài chim không sợ loạn luân như loài người - một
cách vô tư lự, rồi, sau cùng, nhắm ngay mắt lại. Nó ngủ! Nó tưởng cái tổ của nó
lúc ấy vẫn như ở trên cành cây. Thư đưa tay đập khẽ vào vành tổ, tức thì cả hai
con vươn cổ lên để há mỏ ra như hai cái phễu.
Hai cái cổ mảnh dẻ lúc ấy lại bị phô ra đỏ hỏn, trông như có
thể đứt rất dễ, giữa hai làn lông măng còn tơ. Ông chủ lại nói to:
- A! Nó đói! Đi bắt cho nó vài con châu chấu! Bắt những con
non ấy!
Thằng xe lại chạy ra vườn. Hai con chim mất tổ lúc ấy ngơ
ngác vì cảnh gia đình tan nát, cứ bay lại đậu gần mái hiên, chuyền từ cành ổi
sang cây cam, từ cây cam sang cây chanh. Hồ hồ ri íu! Hồ hồ ri íu! Đồ láo! Trên
đầu có cái mũ chào mào giống như hình cái chìa vôi, dưới đuôi có một đám lông đỏ
màu hoa lựu, đeo cái can đảm trắng xoá ở trước ngực, hai con chim vẫn luôn mồm
chửi rủa những người đã phá tổ và cướp con của chúng. Nó cũng đau đớn đến bậc
hóa ra táo tợn như loài người.
Thằng xe đem vào mấy con châu chấu. Ông chủ bóp bẹp đầu con bọ,
ngắt càng của nó rồi đập vào vành tổ cho hai con chào mào vươn cổ lên. Ông mớm
mồi cho hai con chim non mãi đến lúc chúng ăn no. Thư rất sung sướng khi thấy bố
cũng nuôi chim cho mình.
Bữa ấy, hai người nhớn đã sống lại một khoảnh khắc của tuổi
trẻ.
Nhưng mà, trò đời thế, sau cùng thì cái gì người ta cũng có
thể chán được.
Cho nên lúc chiều, khi Thư vào phòng yêu cầu bố ra cho chim
ăn, ông bố bèn lấy dây gai buộc cái tổ chim rồi treo lủng lẳng dưới cành một
cây ổi, ở vườn hoa. Ông bảo con gái:
- Để thế cho con bố, con mẹ nó mớm cho con chúng nó.
Từ lúc cái tổ chim được treo ở cây ổi, vườn hoa bắt đầu có một
quang cảnh hoạt động, tới tấp... Đôi chào mào bay đi, bay về, rộn rịp, săn sóc
hai đứa con. Mỗi lần bay ở đâu xa về, một con (ý chừng là con vợ, vì bé nhỏ hơn
con kia) - lại có ở mỏ hoặc một con chuồn chuồn, hoặc một con sâu xanh, hoặc một
con bọ gì đó. Còn chồng thường đứng đề phòng loài người để báo những hiệu lệnh
riêng cho con vợ, những khi con vợ mạo hiểm đến chỗ cái tổ để mớm mồi cho hai
con.
Lần đầu, chúng nó còn e sợ, bay liệng quanh cái tổ như nghi
hoặc loài người cạm bẫy gì chúng. Mấy cái dây gai lòng thòng chung quanh nút buộc
dưới tổ cũng đủ làm cho đôi chim ấy, trong nửa giờ đồng hồ, chỉ dám mon men
chung quanh chứ không dám quyết định đến đậu vào vành tổ để mớm cho con. Mỗi
khi con vợ sắp sà vào cái tổ rơm, con chồng lại chuyền hết cành này sang cành nọ,
cứ đập cánh vù vù kêu luôn mồm: Hồ hồ ri íu!... Nào! Nào! Khéo! Nào
khéo!... Và, những khi nghe thấy tiếng bố mẹ, hai con con lại vươn cao cái
cổ đỏ hỏn và nhỏ như sợi sắp đứt, há hốc mỏ, cũng kêu gào... Chiết chiết
chiết chiết!
Lúc ấy, cô Thư ngồi nghiêm chỉnh trên ghế dưới hàng hiên chăm
chú nhìn sự vật, không bỏ qua một cử chỉ nào của loài chim. Thằng xe thì, sau
khi sửa xong cái rào găng, đã hỏi tội đến những đống lá sả. Ông bố, bà mẹ, thỉnh
thoảng từ bên trong ra hiên xem chim. Hôn con gái một cái, rồi lại vào.
Bỗng Thư reo lên:
- A a! Con mẹ nó đã mớm!
Quả vậy, con chim mẹ đã liều chết đậu vào cái tổ mớm mồi cho
con. Thấy bình yên như thường, nó nhìn chung quanh tổ một lượt như một người đi
xa, lúc về nhà cần phải xem xét nhà cửa và đồ đạc. Sau cùng, nó mổ một viên gì
trăng trắng ở tổ, móc lên, ngửa cổ nuốt... Cô Thư hỏi thằng xe thì nó đáp:
- Nó dọn cứt cho con nó đấy!
- Chỉ dối!
Thư nguẩy đầu nói thế, vì không tin.
Hai con chim, trên cây, lại vụt bay đi kiếm mồi. Năm phút
sau, cả hai cùng về, có mỗi con một con sâu ở mỏ.
Hồ hồ riu! Nào, nào, khéo!
Đến lúc trời tối sậm, hai con bố mẹ đậu yên một chỗ cao chót
vót ở ngọn cây xoan, giữa vườn hoa.
Sáng sớm hôm sau, thằng xe lại buộc cái tổ chim ra cành cây ổi.
Nó kêu:
- Mới có một đêm mà lông lá nó đã xù ra rồi! Chóng quá đi mất!
Vì lẽ thằng xe lại còn đi chợ, nấu cơm, giặt quần áo, làm những
việc vặt khác, nên hôm ấy, Thư ngồi một mình xem chim, không có người nói chuyện
với. Ông bố và bà mẹ cũng chẳng còn sốt sắng săn sóc đến cái tổ chim như hôm
qua. Tuy nhiên, Thư cũng được một ngày sung sướng. Cô bé vẫn có thể ngồi cả
ngày nhìn ra vườn, hoặc trốn vào một góc tường những khi thấy chim e ngại đến gần
tổ, hoặc nhô ra nhìn, những khi hai con chim con vừa được mớm xong. Cô bé không
thấy chán tí nào cả.
Ông bố chạy ra hỏi con:
- Thế nào? Nó có mớm không?
Thư quay lại, nghẹo cổ, cười và đáp:
- Bốn con sâu rồi cơ, ba ạ!
- Thế à!
Bà mẹ cũng chạy ra. Thư đòi:
- Mẹ ơi, mẹ mua cho con cái lồng chim đi mẹ! Mua để nhốt nó lại!
Bà mẹ khất lần:
- Ừ, mai rồi mẹ đi mua.
Lúc ấy, hai con chim bố mẹ lại bay đến tổ, lần lượt mớm mồi
cho con. Tuy đã dạn người lắm rồi, chúng cũng vẫn còn dặn nhau: "Nào, nào,
khéo! Nào khéo!". Trông thấy cái tình của loài chim sâu xa đến thế, nồng
nàn đến thế, bố mẹ Thư nhìn nhau, đắm đuối, hôn trộm nhau sau lưng con. Người vợ
nói:
- Giời sinh ra tài thật, nhỉ cậu nhỉ?
Người chồng gật gù cái đầu, đáp một câu vô vị:
- Chính thế.
Giữa lúc ấy, tiếng chim kêu bỗng líu la líu tíu khiến cho mọi
người vội quay nhìn ra. Con chồng thì cứ bay liệng từ cành này sang cành khác,
mỏ vẫn ngậm một con châu chấu mà vẫn hót được: "Hồ hồ ri íu!... Nào, nào
khéo!" Còn con chim vợ thì lại thay đổi ngôn ngữ bằng cách nói: "Tri
huy tri huy tri huy!" Nó cứ đập đập hai cánh bay nhảy ở một cành cây giáp
với cái tổ nhưng không đậu hẳn vào vành tổ. Nghe thấy tiếng mẹ, hai con con lại
há hốc mỏ, vươn cổ rõ cao. Nhưng mẹ chúng cứ bay đến gần chúng mà vỗ cánh, múa
may và hót bằng đủ các thứ giọng. Con bố cũng bay quanh, ra ý đề phòng bọn người.
Trên cây ổi, đó là hai chấm đỏ, lập lòe đâm bông như hoa lựu về mùa hạ của Nguyễn
Du. Hai con con kêu thế nào, con mẹ cũng không vào mớm.
Bọn người đứng dưới hiên đương ngạc nhiên về cái cử động khác
thường ấy, thì chợt, vù một cái, một con chim non đã bỏ tổ bay theo mẹ. Nó bay
lên đậu ở một ngọn cao ngất ngưởng. Hai con bố và mẹ hát khúc ca khải hoàn của
loài chào mào những lúc tự do ngửa cổ hót trước gió: "Thích tinh nào!
Thích tinh nào! Huých tô rô! Huých tô rô!" Rồi chúng dìu dắt đứa con cho
nó bay chuyền từng đoạn ngắn một cho đến lúc lên được ngọn cây xoan!
- Giời ơi! Nó bay! Nó bay mất!
Kêu xong, ông bố chạy vội ra cởi dây gai, đem cái tổ chim vào
nhà. Trong tổ vẫn còn lại con kia, chưa đủ sức bay theo bố mẹ.
Mấy hôm sau, con chim non vô phúc kia bị nhốt vào một cái lồng
son. Thằng xe đã phải suốt ngày bắt châu chấu. Cô Thư cứ việc lấy cái que xiên
vào con bọ để đưa qua nan lồng. Nằm nguyên một chỗ trong tổ, con chim hưởng sự
săn sóc của cô bé cũng như của ông bố nó. Cái mào trên đầu nó nhô cao lên. Ngực
nó đã kín. Cái bọng dưới đuôi nó dần dần bé đi. Sau ba ngày, nó cũng đã nghiễm
nhiên trông ra mẽ lắm, đã đến cái thời kỳ "kiếm lấy mà ăn" vậy.
Nó bắt đầu mổ được, và nhảy nhót bậu vào những nan lồng.
Nhưng đồng thời, hai con bố mẹ và con con ở ngoài vườn cũng cứ
ngày ngày đến khiêu khích nó, xui giục nó kiếm cách mau xổ lồng tháo cũi mà ra.
Nghe thấy những tiếng "Hồ ríu! Huých tô rô!..." con chim trong lồng
cũng đập cánh ngửa cổ hót đáp:
- Tri huy tri huy tri huy!
Ngây thơ, cô Thư lại đem lồng chim ra treo ở cây ổi. Ba con
chim bên ngoài tức khắc bay quanh cái lồng, ca hát véo von... Con chim ở bên
trong lồng lộn lên, rúc mỏ qua cái nan lồng, như điên, như cuồng, nhưng cô bé
ngây thơ lại tưởng nó nhảy nhót gì vui vẻ.
Trong lồng có một nửa quả chuối tiêu và một cóng nước lã. Dần
dần, con chim bỏ cả uống, quên cả ăn. Nó hóa ra gầy còm. Nhưng cái sự ấy người
ta không để ý đến.
Cô bé Thư cứ sáng sớm lại xách lồng ra treo vào cành ổi, để đến
chiều lại cất vào dưới mái hiên.
Ông bố, bà mẹ, cũng đôi khi nhìn đến cái lồng để không có một
cảm tưởng nào cả.
Thằng xe có bổn phận sáng nào cũng thay cóng nước lã, và bỏ
vào cái lồng một mẩu chuối, sau khi lôi mẩu chuối cũ đã xám xịt ở trong lồng
ra. Nó không để ý xem rằng mẩu chuối bị ít hay nhiều vết mổ. Nhưng lần nào thấy
người, con chim non cũng bay loạn xạ cả lồng.
Thế rồi, một hôm con chim chào mào non tuyệt thực, và chết,
giữa những câu ca hát quyến rũ của bố mẹ nó và chồng nó.
1937
Lấy vợ xấu
Vì có "việc quan", bữa ấy tôi phải vào tòa xứ Hà
Ðông. Tôi bước chân vào công đường lúc 9 giờ sáng, phải ngồi khoanh tay đợi
trên một chiếc ghế dài mãi cho đến 11 giờ. Cụ phán buồng giấy ấy, theo những
thông lệ thiêng liêng của nước Việt Nam cố hữu, đã tiếp tôi bằng sự nhăn nhó, sự
gắt gỏng, để mà, sau cùng, bảo tôi đến chiều thì quay trở lại để cụ tiếp một lần
nữa. Tôi đã vâng vâng dạ dạ như một người công dân hiểu rõ cái quyền hạn vô hạn
của một quan phán đầu tòa là thế nào.
Khi ra khỏi vườn hoa của tòa sứ, tôi phải đành đi tìm một
hàng cao lâu. Và, tại đó, tôi đã tình cờ được gặp anh Doãn, một người bạn đồng
học cũ ở lớp nhất một trường sơ học.
Anh ta có bộ âu phục rất chải chuốt. Xưa kia, lúc còn cắp
sách, anh ta cũng đã có tính làm đỏm như một cô con gái, và mãi cho đến bây giờ,
tính ấy cũng không thay đổi, sau một chặng đường mà anh ta đã đi trong mười
năm. Cái cổ áo không xộc xệch một tị, đôi mũi giầy không có một hạt bụi, cái ca
vát rất hợp thời trang, với cái khuy áo cài vào tử tế, đủ tỏ rằng anh thận trọng
y phục lắm. Chính anh Doãn nhận được ra tôi là ai, và đã đến bên bàn tôi, giơ
tay ra, kính cẩn như người ta muốn hỏi chuyện một khách lạ chưa quen biết một lần
nào.
- Thưa ông, ông chắc còn nhớ tôi, tôi là Doãn, trường Sinh Từ...
- À à! Anh Doãn! Vẽ chuyện lắm! Việc gì còn xưng hô kiểu
cách...
Mới có đến đấy, một người đàn bà to lớn đã bước vào, ngơ ngác
đứng sau lưng anh. Doãn bèn quay lại, giới thiệu tôi là bạn; giới thiệu người
đàn bà là vợ. Sau khi kéo ghế ngồi rồi, vợ anh Doãn gọi ngay một ấm chè Long Tỉnh,
thạo đời như một người đàn ông "cơm hàng cháo chợ, vợ cô đầu". Tôi
nhìn người đàn bà ấy, thấy đó là một sự trái ngược với người bạn cũ. Thật vậy,
đó không phải là một cặp vợ chồng tốt đôi. Tức thì tôi nhớ lại tất cả những đức
tính buổi xưa của Doãn.
Anh ta vốn thông minh, lại rất có óc mỹ thuật. Không kể về y
phục của Doãn xưa kia đã được cả trường khen là sang trọng, ngay đến một cái
bút chì, một hộp thuốc vẽ của anh, cũng đều là những đồ dùng đắt tiền và lọc
lõi vô cùng. Ngoài cái chức là một thiếu niên sành sỏi, Doãn hồi ấy lại còn được
chúng tôi gọi là một chàng Don Juan. Thật thế, anh có tài ngôn ngữ, có tài văn
chương, nên chim gái rất thạo. Những thiếu nữ si mê anh phần nhiều là những gái
đẹp có tiếng, vì cô nào không là hoa khôi thì anh ta không thèm bắt chim! Anh
đã thường khoe chúng tôi những giấy viết thư tình của anh với những cái phong
bì kiểu cách, đáng bảy xu một chiếc. Trong những lúc ấy, trước sự kính phục ghê
gớm của chúng bạn, anh Doãn thường đứng ưỡn ngực, chỗ cái xe đạp Peugeot grand
luxe khác của anh mà rằng: "Chúng mày xem! Phi hơn người thì thôi, tao
không thèm chơi".
Bây giờ thấy anh ngồi với một người vợ không có "mỹ thuật"
chút nào cả, lại thấy cái tính cầu kỳ của anh vẫn không thay đổi, tôi chợt nhớ
ngay đến câu phương ngôn: "Sướng lắm thì khổ nhiều". Ðó là một sự
nhãn tiền quả báo.
Vợ anh, thật vậy, là một người đàn bà có cái nhan sắc của một
người đàn ông không đẹp giai. Hai con mắt nhỏ, đôi gò má cao, cặp môi phàm phũ,
dáng người thô tục, những ngón tay tròn và dài như những quả chuối ngự. Như vậy
mà lại đi ăn mặc tân thời! Răng trắng nữa, trời ạ! Cái áo dài lượt thượt mầu
xanh, cái quần nhiễu trắng trai lơ, đôi giầy cao gót có quai kiểu gái nhảy, với
mẩu khăn vành dây, ngần ấy thứ lại càng làm lộ cái mỹ miều của sự thô tục, lại
càng làm tăng cái choáng lộn của sự kệch cỡm. Ðã thế, trong khi chuyện trò, thỉnh
thoảng lại chêm vào một vài câu tiếng tây, ra ý khoe khoang mình vốn là nữ học
sinh. Tôi bỗng có cái cảm tưởng man mác rằng người đàn bà này, những lúc nhà vắng,
hẳn đã huýt còi như một ông lính tây say rượu, hoặc là đã hát ầm ĩ bài J'ai
deux amours, bài Les gars de la marine... vân vân.
Tôi không ngạc nhiên ở chỗ anh Doãn lấy vợ xấu. ở đời, tôi đã
từng thấy cái câu "thánh nhân hay đãi khù khờ" hiện ra nhiều sự thực
và càng những thằng "thiên tinh địa quỷ" như Doãn mới lại càng... chết;
anh ta muốn chừng như cũng đoán nổi cái ý nghĩ kín đáo ấy trong lòng tôi.
Trong khi còn nói những chuyện nắng mưa theo khách sáo, chưa
kịp gọi món ăn nào cả, vợ anh Doãn đã làm ngay một câu:
- Thôi, tôi đói lắm, cho tôi xin bát mì, rồi tôi còn đi đằng
này! Hai ông xơi rượu thì cứ việc mà kề cà...
- Vâng, xin mời bác cứ tự nhiên cho tiện công việc.
Thế rồi người đàn bà ấy ăn uống nhồm nhoàm, và ho, và ợ nữa,
như một người đàn ông bình dân xứng đáng. Lúc ăn xong bát mì, người đàn bà cầm
hai cái đũa quệt ngang cặp môi như một bà lão nhà quê!
Sau khi vợ anh ra phố mua bán, Doãn bèn hỏi tôi:
- Chắc anh rất ngạc nhiên khi thấy một người như tôi mà lại
đi lấy một người vợ như thế ấy?
Tôi vội vàng ngừng đũa, làm ra vẻ ngạc nhiên:
- Sao? Sao anh lại hỏi tôi thế nhỉ?
Có lẽ sự vờ vĩnh của tôi không được tự nhiên mấy nên anh Doãn
mỉm cười mà rằng:
- Chà! Cái thằng mới sính đóng kịch làm sao! Thôi, trong chỗ
chúng ta, tôi cho phép anh cứ việc nói thẳng những điều anh nghĩ.
Tôi bèn nói:
- Vợ chồng là duyên số. ở đời này không phải hễ mình muốn thì
là được và không muốn thì là thoát.
Doãn gật đầu:
- Thật thế. Và, tôi xin kể vì lẽ gì mà tôi lại lấy nhà tôi.
Tôi giơ tay ngăn lại:
- Khoan đã! Thế anh có yêu vợ anh không? Vợ chồng anh có được
hưởng hạnh phúc không? Nếu không, xin đừng kể chuyện.
- Có chứ! Chúng tôi yêu nhau và hưởng hạnh phúc cũng như những
cặp vợ chồng chẳng biết hạnh phúc và ái tình là cái gì.
Từ đây trở đi là lời anh Doãn:
- "Trên một chuyến tàu từ Lào Cai về Hà Nội, cách đây
hai năm... Cũng như số đông thiếu niên, mỗi khi đi xe lửa, tôi dạo một lượt từ
toa đầu đến toa cuối cùng với cái hy vọng trông thấy một mỹ nhân để mình bắt
chuyện làm quen, ngỡ hầu quên được cái vô vị của mấy trăm cây số phong cảnh với
những tiếng bánh xe xình xịch nghiến trên đường sắt nó khiến ta mệt mỏi vô
cùng, buồn ngủ vô cùng. Cả chuyến hỏa xa ấy, than ôi, chỉ có một người đàn bà
là đẹp nhưng mà lại có chồng cùng đi theo. Còn thì phần nhiều là dân quê cả.
Tôi chán nản kiếm một chỗ rộng rãi, rồi thấy... nhà tôi trước
mặt tôi. Hồi ấy, người đàn bà ấy còn ăn mặc lối cổ: khăn nhung, giầy láng kiểu
mõm nhái, có đuôi gà, và có ba trăm hột vàng ở cổ. Cái "nhan sắc" của
người ấy thì như anh vừa trông thấy đó, ta chẳng rườm lời mà làm gì. Tôi nghĩ đến
đám phụ nữ có nhan sắc, được đời kính trọng... Tôi đã bảo tôi: "Tạo hóa thật
là bất công. Những người xấu như thế này, hẳn sẽ không bao giờ được hưởng ái
tình. Xưa nay ta yêu người đẹp đã nhiều để mà nhận thấy rằng sự yêu đương của họ
cũng nhiều khi vô vị lắm. Âu là ta thử yêu một người xấu xí xem ra làm
sao!" Thế là tôi đến ngồi bên cạnh người ấy, lân la hỏi chuyện.
Sau nửa tiếng đồng hồ, tôi được biết rằng đó là con gái một
nhà buôn bán khá giầu ở Lào Cai. Cô ả có việc về Hà Nội chừng độ một tuần lễ,
và khi về Hà thành, sẽ đến ở nhà một người trong họ. Như thế, nếu chúng tôi muốn
có một cuộc giăng hoa, cô ả rất có đủ thời gian! Và tôi lại nhận thấy ở người
đàn bà này một sự thông minh, một sự từng trải, nhiều duyên thầm, mà tôi chưa từng
thấy ở những phụ nữ có nhan sắc. Ðó không phải là điều quái lạ. Người con gái đẹp
chỉ trông thấy chung quanh mình những kẻ nịnh hót mà thôi. Vì anh nào cũng hiếu
sắc nên bọn đàn ông chúng ta thường thấy những đức tính ở bọn gái đẹp mà chính
họ không có. Cho nên chúng ta hết sức chiều đãi họ, nâng niu họ, khiến họ chẳng
phải chịu khó nhọc mảy may trong mọi cuộc phấn đấu với đời, thành ra người đàn
bà đẹp dễ trở nên quá đỗi kiêu ngạo, tưởng mình không có điều gì khuyết điểm nữa;
do đó, những cái xấu, những cái khó chịu, mà chúng ta thấy ở những mỹ nhân, những
khi ta thấy chán yêu. Trái lại, người đàn bà xấu bao giờ cũng giữ gìn và cư xử
thế nào để cho một khi người đàn ông nào đã đem lòng yêu mình thì không thể nào
chán được mình nữa. Vợ tôi chính thuộc vào hạng đàn bà xấu ấy. Cho nên, về sau,
tôi được hưởng của vợ tôi những sự săn sóc mà tôi đã phải đem cung cho bọn gái
đẹp, những khi tôi yêu... Xưa kia tôi đã thấy cái thú vị trong sự nâng niu đàn
bà thì, bây giờ, được đàn bà nâng niu, tôi càng thấy nhiều thú vị hơn nữa.
"Hôm ấy, về đến Hà thành, chúng tôi đã cùng nhau ăn một
bữa cơm ở một khách sạn, điều ấy dĩ nhiên! Rồi chúng tôi lại vào một căn phòng
trọ nữa, than ôi, điều ấy cũng lại dĩ nhiên! Và, khi thấy người đàn bà ấy đã
dâng cái tân tiết cho tôi, tôi cảm động lắm. Tôi đã hôn đi hôn lại vào cái mặt
xấu xí ấy mấy lần, với một vài ngấn lệ ở mặt tôi. Và sự xúc cảm mạnh ấy không đủ
ngăn chúng tôi yêu nhau hai ngày liền nữa.
"Lúc đầu, tôi không hứa si tình cũng như không hứa hôn sự.
Cô ả đã yêu tôi trong một cơn rạo rực của xác thịt, cũng như tôi, tôi đã yêu cô
ta sau một phút điên dại, vô lý của linh hồn. Cho nên, trước khi chia tay nhau,
tôi hỏi: "Này em, nếu rồi em... có mang thì làm thế nào?" Tôi đã có
thể hỏi một câu sống sượng như thế như hỏi một ả giang hồ, hay một "chị
em" dễ dãi, vì sự thực, một người xấu, chẳng khi nào được hưởng cái ái
tình thành thực của tôi. Nghe thấy thế, cô ả bỗng tái xám cả mặt. Thì ra cô ả
không hề nghĩ đến sự có mang! Nhớ ra thì quá muộn! Cái ấy không lạ gì: thời buổi
nào cũng có hàng mấy triệu phụ nữ quên rằng có thể có mang được, sau khi đã phó
thác thân thể mình cho một anh đàn ông.
"Những giọt nước mắt bắt đầu chảy ra. Cô ta bưng mặt
khóc, khóc, và khóc... Sau cùng, chỉ biết thổn thức nói: "Nếu thế thì... họ
hàng sỉ vả, bố mẹ đuổi khỏi nhà, rồi nhục nhã, rồi khổ, phải, rồi khổ!"
Thì ra cô nàng nhũn nhặn đến bực không dám có hy vọng lấy tôi nữa, và cũng
không dám thử hỏi một câu để có được một hy vọng bâng quơ nguy hiểm ấy nữa. Cô
biết mình xấu xí, không đáng lấy một người như tôi, và không dám cả nghĩ đến sự
đòi bồi thường sau cái thiệt hại do tôi gây ra. Dễ thường cô ả coi cái phút ngứa
ngáy xác thịt của tôi như là một thứ đặc ân cho mình nữa. Tôi lại hỏi:
"Sao lại tin tôi đến như thế? Tôi đã là đứa không ra gì, cô cũng lại hư đốn
nữa!". Cô ả thở dài, đáp: "Nếu không yêu anh thì thôi chứ cả một đời
em, chắc rồi cũng chẳng ai thèm yêu đến thứ em. Thôi thì thà rằng sẽ phải khổ một
đời vì đã quá yêu một phút!". Tôi đã cảm động về sự thành thực ấy một cách
rất sâu xa như là chưa bao giờ tôi cảm động đến thế.
"Cuộc ái ân chốc lát ấy, rồi sau tôi cũng quên đi, và chỉ
thỉnh thoảng nó mới lại đến ám ảnh tôi như một chút ký ức nhỏ mọn trong một
giây phút mà thôi. Tôi tưởng không bao giờ còn gặp cô gái Lào Cai ấy nữa.
"Năm tháng sau, một hôm tôi nhận được một phong thư như
thế này: "Thưa ông, tôi chờ ông ở hiệu cao lâu Ðông Hưng, vào khoảng 11 giờ
ngày 20. Tính mệnh tôi ở trong tay ông, xin ông bỏ chút thời giờ quý hóa đến
cùng một kẻ khốn khổ". Tôi ngạc nhiên lắm, vì tôi không nhớ đến cô gái Lào
Cai nữa. Nhất là cách xưng hô ông tôi lại làm cho tôi tưởng người viết thư là
đàn ông. Tôi rùng mình, nhớ đến những ông bạn cũ nghiện hút muốn làm tiền mình.
Rồi tôi đến chỗ hẹn.
"Ðó là cô gái Lào Cai!
"Cô nàng lúc ấy đã có một cái bụng to một cách đáng kính
trọng lắm. Chúng tôi vào ngồi trong quầy. Cô ả chỉ dám gọi tôi là ông chứ không
dám xưng hô anh em, như hồi xưa".
"Cô ta nước mắt chan hòa, nói ấp úng trong khi tôi ngồi
thản nhiên cắn hạt dưa. Cô ta vẫn nhũn như trước, vẫn sợ hãi tôi như trước, vẫn
ôm một mối tình vô hy vọng như trước: "Thưa ông, nếu ông là người đại lượng
thì ông nên cứu sống lấy tôi, vì đứa con bé trong bụng này chính là con ông...
Nếu không tôi phải tự tử, đứa bé phải chết, vì bố mẹ tôi đã biết, họ hàng tôi sắp
biết, mà nếu họ hàng biết thì tôi không sống được nữa, vì bố mẹ tôi nghiêm lắm!
Xin ông làm phúc cứu lấy một người khốn khổ nhất đời! Làm lẽ thứ mười, tôi cũng
xin vâng, miễn là họ hàng nhà tôi được nhận trầu cau của ông! Vả lại tôi cũng
không đến nỗi ăn hại ông...".
"Tôi xua tay, chán nản. Tôi nghĩ: Hạng gái hư hỏng ấy
thì mình lấy sao được! Nó ngủ được với mình thì nó sẽ cũng ngủ được với thằng
khác! Mình không làm nó chửa hoang thì thiên hạ cũng sẽ làm cho nó chửa hoang!
Thế thôi!
"Nhưng đứa bé trong bụng... con tôi! Cứ như sự kêu khóc ấy,
cứ như lòng thành thực ấy, người đàn bà này mà nói đến sự tự tử đó chẳng là lời
dọa nạt! Do thế, tôi nghĩ lại... Nếu ai cũng lý luận như tôi thì trong đời chẳng
còn ai lấy nhau vì tình, chẳng làm gì có những cuộc tiền dâm hậu thú nữa, bởi
có kẻ bạc tình nào cũng đã lý luận y như tôi! Phải chăng người đàn bà nào đã
quá tin một anh đàn ông không thể khác được! Trong một phút mà linh trí tôi
sáng suốt khác thường, tôi đã thấy mình hèn mạt, ích kỷ, khốn nạn! Tuy nhiên,
tôi còn thử thách: "Có chắc rằng đứa bé ấy chính là con tôi không?" Ðến
đây, cô ả nức nở, buông xuôi hai tay, hoàn toàn thất vọng: "Giời ơi, nếu
ông hỏi thế thì thôi, tôi chỉ còn có một cách là tự tử!". Cái thành thực ấy
khiến tôi không còn phải nghi ngờ lôi thôi.
"Tôi còn hỏi vặn nhiều câu, nhưng lần nào, cô ả dại dột ấy
cũng chỉ tỏ ra là người thành thực cực điểm.
"Ấy thế là... một người cầu kỳ, khó tính như tôi, đã cam
đoan rằng nếu không lấy được cô gái đẹp nhất Hà thành thì xin thề là sẽ không lấy
vợ, mà tôi, sau cùng đi lấy phải cô gái xấu xí nhất Bắc kỳ!"
Câu chuyện nói xong thì bữa rượu cũng vừa tàn. Chúng tôi bước
ra, tôi để đi đến tòa xứ Hà Ðông, Doãn để đi đến nhà ông cậu vợ mà vợ anh chờ
anh tại đó.
Tôi an ủi:
- Thôi, đó cũng là duyên số, không cần thiết phải lấy vợ đẹp,
chỉ cần có nhân ngãi đẹp. Vả lại, như anh đã nói, đáng lẽ anh phải nâng niu vợ
thì mới thấy thú vị, thì bây giờ anh lại được thấy cái thú vị ở chỗ vợ anh nâng
niu anh. Thế cũng đủ là hạnh phúc.
Nhưng anh Doãn bĩu mồm:
- Bẩm không ạ! Thưa ông, nó chỉ chiều đãi tôi có mấy tháng đầu
mà thôi. Bây giờ, có con với nhau rồi, vợ tôi chẳng cần gì nữa. Nó đã bắt đầu nặng
lời với tôi, nghe chị em ăn mặc rất lố lăng, và ghen lắm, ồ! Ghen lắm, hễ tôi
đi chơi khuya là thế nào cũng đập phá đồ đạc chạy ra đường kêu cứu "ông bà
hàng phố", ăn ở rõ ra một vị đức phụ chính thất có nhiều quyền và biết tự
trọng!
1937
Một con chó hay chim chuột
Hôm ấy, cụ Bá ông quả quyết mở ví tiền để trả cho anh lái chó
cái giấy bạc một đồng. Cụ sung sướng cực điểm vì rằng con Vện mà cụ mới mua đấy,
theo ý cụ, là một con chó có... dị tướng: béo tốt, chân thấp, mồm và tai vừa nhọn
vừa ngắn, mặt trùn trùn gẫy gập như mặt giơi, lông đã hung hung lại có vằn đen
như lốt hùm.
Cụ đã khoe với cả xóm rằng ai nuôi được thứ chó ấy ắt sẽ có
nhiều dịp phát tài - giống chó cũng có tướng như giống người, mà con Vện của cụ
thì lại quý hơn các thứ chó huyền đề hoặc là tứ túc mai hoa vì nó có tướng ngũ
đoản.
Chẳng hiểu cụ Bá xem tướng con Vện có đúng hay không! Sau khi
có nó ba bốn ngày, chưa cho cụ được dịp phát tài đâu, nó đã vồ lấy ống chân cụ
Bá bà mà ngoạm luôn cho một ngoạm. Tuy rằng mấy cái răng ngập vào thịt cũng
không sâu cho lắm, nhưng cụ bà bị toạc mất hai tấc váy lĩnh: cái triệu chứng
hao tài!
Có lẽ tướng ngũ đoản cũng chẳng đáng quý bằng cái váy lĩnh
nên chi cụ ông, mặc dầu đã hết sức can ngăn và hạch lại cụ bà rằng "Mới thả
cũi nó một ngày nó chưa quen hết người trong nhà, ai bảo bà đã đi về khuya lại
không đánh tiếng", cụ cũng chẳng giựt nổi của cụ bà cái đòn ống to tướng
lúc ấy cứ giáng xuống lưng con Vện như mưa...
- Này cắn trộm! Này phản chủ với bà!
- Ẳng ẳng ẳng ẳng!
Con Vện trong lúc chịu đòn, chỉ biết kêu có thế, nước mắt chảy
ra ràn rụa, trông cũng đáng thương hại lắm.
Thất bại trong cuộc làm thầy kiện cho con chó có dị tướng ấy,
cụ Bá ông hậm hực mất đến vài ngày, và khách hàng của cụ, từ đó cũng phải một
phen kệch. Bốn chiếc răng nanh chẳng dám dùng đến nữa, từ đấy, hễ thấy người lạ
mặt, con Vện chỉ đành gừ gừ một cách cho phải phép, hay là, quá lắm, cũng chỉ đến
gâu gâu rất suông. Cái bực tức ấy thật chẳng khác gì cái bực tức của những ông
quan viên nào đi che tàn, xuống xóm những tưởng sẽ được hưởng thế nọ... thế
này, mà kỳ chung chỉ được có một chầu chay thôi vậy!
Vẫn biết cắn là một tính thiên bẩm của loài chó thật song le,
bất cứ lần nào, hễ Vện ta vừa rụt chân, rụt cổ, ngứa mồm nhe nanh, hừ một cái,
là tức khắc bị những người suỵt suỵt ầm lên, cho nên nó nghĩ ngay đến cái đòn ống,
lại cho rằng sự mình bị quát mắng là một điều áp chế, nó chui ngay vào gậm phản
mà nằm rồi nhìn thế sự bằng cặp mắt bàng quan. Nếu nó biết nói, ắt nó đã làm một
câu: "Chặc! Thì ông mặc kệ".
Dần dần, nó chỉ biết đến bữa thì ăn, ăn xong tìm chỗ nào cao
ráo, ít ruồi, ít muỗi, đánh một giấc, cái đầu đặt giữa hai chân trước như người
nào đến cái tuổi mũ ni che tai... Nhưng mà các cụ nhà ta đã bảo rằng nhàn cư vi
bất thiện.
Cứ ngày nào cũng đủ hai bữa, sáng ngủ đến 9 giờ mới dậy, buổi
trưa nào cũng la siết 1 một giấc, cuộc đời như vậy cũng tẻ ngắt. Vện
ta phải nghĩ đến cách tán gái cho qua thời giờ. Đã không phải vất vả đến thân
lúc nào lại được ăn chơi mặc thích, Vện càng ngày càng béo tốt, lông cứ mượt mà
như nhung. Trông cũng có vẻ công tử bột lắm. Bộ mã đã bảnh bao cố nhiên trên đường
tình dễ đắc thắng: cái tiếng chơi bời của Vện chỉ trong ít lâu đã lừng lẫy cả
xóm: Vện đã nặn thêm ít nhiều xuất đinh cho cái "xã hội có mõm" và hễ
cứ nhà nào có chó cái là phải thấy tiếng "quấy khóc" của đàn chó con
lau nhau. Thì ra Vện cũng có số đào hoa như Người vậy.
Nếu có ai được mục kích công tử Vện tán gái thì mới rõ tâm lý
phụ nữ, với những cái thế lực của những bộ mã giẻ cùi.
Không có mùi soa nhưng lại thích cái mốt quay quay mùi soa đằng
sau gái nó là cái mốt của bọn đệ tử đảng "Càn Long" ở Hà thành, trước
mặt gái, Vện ta cũng vẫy cho đuôi luôn luôn phe phẩy, loanh quanh vài vòng thè
lưỡi, ghé mũi, hết sức bầy tỏ tấm lòng khuyển mã, ấy chỉ có thế mà các "tiểu
thư" Vàng, Bông, Cún, Mực, cô nào dữ và "lắm điều" vào bậc nhất,
và có răng nanh nhọn nhất, cũng không nỡ cự tuyệt con... người có duyên một
cách lạ ấy, cũng cảm ngay. Thật vậy, Vện chẳng bị tẽn hoặc bị cự tuyệt bao giờ.
Trò đời vẫn thế: thấy ai hơn mình là phải ghen ghét. Những
chó vô duyên khác thường họp đàn họp lũ nhau rồi đến tận nhà cụ Bá gây sự với Vện
luôn thôi! Không hề gì, cũng là hạng "có một vài miếng" nên Vện cũng
chẳng sợ. Lắm khi một mình cự địch với ba bốn cũng vẫn thắng trận như thường.
Cho nên từ các cô êu đài các đến các cô êu nghèo hèn, không một "mẻng"
nào mà lại thoát cái phong tình của Vện. Không phải con chó ấy tham lắm, nhưng
những khi chim chuột những hạng không có nhan sắc, dễ thường nó muốn thực hành
cái lý thuyết: Mùi nhang đã trải, mùi dầu thử chơi! Nói cho đúng ra, Vện lại
còn muốn được đời khen mình là yêu bình dân, vì sự thực thì Vện cũng có óc
"hoạt đầu" dữ lắm.
Nhưng mà có một lần, cái đàn những anh tình địch của Vện đông
quá; dễ đến mười mõm ấy; thảy đều vây quanh lấy Vện mà vồ, mà nhá, khiến cho,
không chống cự nổi nữa, Vện phải hộc tốc chạy về nhà, chui tọt vào gậm giường đứng
giữ thế thủ cẩn thận rồi nhe nhanh gừ gừ ra ý thách:
- Chúng mày có giỏi, vào đây với ông!
Đàn kia.. không có con nào dám vào, chỉ đứng ngoài mà gầu gầu
rầm lên ra ý chửi bới và văng tục.
Thật cũng chẳng may cho Vện quá, vì ngày hôm ấy cụ Bá có giỗ
tổ, giữa lúc ấy lại nhằm lúc cụ bà đương xới cơm cúng, và cụ ông đương kính cẩn
khấn khứa trước bàn thờ.
Bỗng dưng thấy tiếng chó sủa kinh thiên động địa, nhìn ra lại
thấy toàn một lũ "đầu trâu mặt ngựa" đương đứng xúm nhau giữa cửa để
chõ mõm vào mà tự do chửi rủa tàn tệ, mà dưới gầm thì là Vện, biết ngay lại
chuyện ghen tuông chi đó, bực mình và sợ bất kính trong lúc cúng tế, cụ Bá ông
quên cả chân mình đương có bít tất bông trắng nõn, nhẩy ngay xuống đất vớ cái
lau màn, ra dẹp tan lũ "ưng khuyển" rồi mới quay vào giọt cho Vện một
trận không tiếc tay.
Thói thường chó đen giữ mực, Vện cũng chẳng chừa.
Đêm ấy, một đêm giăng thanh gió mát, nhân khi cao hứng, Vện
phá rào chui ra ngoài đi với tình nhân. Giữa lúc hai bên chỉ non thề biển nặng
lời trên con đường nhỏ giáp với lũy tre quanh làng nó cũng là một thứ "con
đường Cổ Ngư" 2 chẳng hạn, thì một chú Cược thừa cơ chui qua cái
chỗ hở ở giậu, vào sân tự do lấy mất cái chậu thau đồng.
- Thấy sột soạt tiếng động lúc trộm đã chui ra, cụ Bá gọi Vện
mãi chẳng thấy đâu, phải lật đật ra sân soi thì... hỡi ơi nông nỗi!
Cách đấy vài phút, Vện lại chui qua lỗ hổng mà vào, hai mắt lấm
lét nhìn trộm chủ, ra vẻ lo sợ chẳng hiểu đương đêm soi đèn và gọi mình làm gì
thế kia... Thấy Vện có vẻ khả nghi, cụ Bá nhìn đến hàng rào rồi thất kinh chạy
đến chỗ hổng. Rành rành một mảng lông mắc gai theo cái triều lưng của Vện lúc
chui ra vẫn còn sờ sờ ở đó, cụ biết ngay ra là thủ đoạn của Vện, là nhờ Vện thì
chú Cược mới được thừa cơ!
Giữa lúc cụ đương tiếc đứt ruột, cô Khoang, một con chó trông
có quý tướng lắm, tứ túc mai hoa, "gót sen đẹp nõn", thật đáng gọi
là... hoa khôi của làng êu, cũng chui qua giậu mà vào. Cô vào gừ gừ một câu
nũng nịu những tiếng oanh thỏ thẻ muốn đại khái nói; "Giữa lúc này, gió
mát trăng thanh mà chàng nỡ bỏ em, vậy thì chàng không coi cái ái tình cao thượng
của đôi ta ra sao nữa ư?" Còn Vện giữa lúc ấy đã là một kẻ phạm nhân, mà
cũng cứ tự do mơn trớn tình nhân, không coi mặt cụ Bá vào đâu sất cả!
Chẳng thèm nghĩ đến "cặp uyên ương" cụ Bá bèn lấy gậy
vụt cho cả đôi một cách phàm phũ. Giận đến cực điểm, lại đau đớn về nỗi mắc lừa
cái tướng ngũ đoản, cụ quả quyết chỏ tay lên vầng giăng mà thề độc: hễ có khách
là trị tội, bắt Vện phải chịu... giềng hình!
Khách lại là chúng tôi.
Muốn an ủi cụ Bá, chúng tôi phải nói chế đi rằng:
- Chó ngũ đoản chẳng hiểu có lợi gì cho người nuôi không,
nhưng mà chén thì kể cũng đường được.
Trong lúc giốc bầu say tỉnh, chúng tôi chợt nhớ đến lúc con
chó Khoang sang xem cuộc hành hình người yêu của nó. Ôi, thật là một sự chung
tình đáng làm gương cho giai nhân tài tử ở đời soi chung!
Thấy con Vện bị trói chặt bốn chân, tiết ở cổ ứa ra như suối,
con Khoang vẫn cứ chạy quanh cái chỗ gớm ghiếc ấy để liếm vào mình mẩy con Vện
ra ý thương xót. Còn Vện thì nước mắt ràn rụa, khóc như một người thật. Nếu biết
nói như người, hẳn nó đã nói: "Em ơi, anh chết vì em đấy! Thôi cũng là dịp
cho anh tỏ dạ hy sinh tính mệnh để phụng sự ái tình!".
Nhưng những tư tưởng tốt đẹp ấy chỉ được phô diễn bằng mấy tiếng:
- Ẳng ẳng ẳng ẳng!.
1934
Chú thích:
1. Ngủ trưa (tiếng Pháp).
|
|
2. Tên cũ của đường Thanh Niên (Hà Nội) bây giờ.
|
Một đồng bạc
Tặng VŨ MỸ LƯƠNG
Thời xưa, khi loài người chưa đến nỗi phải sống chen chúc
nhau trong những căn nhà rộng như hang chuột của cái thế kỷ tiến bộ này, cổ
nhân cũng đã có những câu như "trạch lân xử" và "bán anh em xa
mua láng giềng gần" để thuyết minh về cái liên lạc hệ trọng giữa những người
sống gần gũi nhau, đề phòng những lúc nguy nan, tối lửa tắt đèn, hoạn nạn, dễ cầu
cứu nhau.
Ngày nay, nhờ nạn nhân mãn, những thuế thổ trạch quá nặng, bọn
người ít tiền chúng ta đã không còn biết cái tình liên lạc của "láng giềng",
để mà hiểu rõ cái gì là cái hệ trọng của người "ở chung" đối với ta,
lại thân mật hơn ông láng giềng thuở trước. Vì những lẽ cần kính trọng nhau, để
dễ cần dùng lẫn nhau, cần lấy lòng nhau vào nhiều dịp, nhất là không thể giấu
giếm, đậy điệm những cái xấu đi, cho nên những gia đình kim thời phải ở thuê
chung nhau một nhà, đối với nhau quả là thân thiết hơn cả họ hàng nữa.
Nói thế rồi, bây giờ tôi mới xin kể một chuyện của tôi đối với
một gia đình đã "trạch lân xử" với gia đình nhà tôi. Đọc rồi, độc giả
nên sẽ tha thứ cho tôi, vì tôi đã là một kẻ khốn nạn.
Kể từ khi ấy đến nay, tính ra đã bốn năm tròn. Nghĩa là sau khi
sống chung đụng nhau một thời gian khá dài, hai gia đình chúng tôi mỗi bên dọn
nhà đi một phương, đã bốn năm nay cách biệt hẳn nhau. ở cái thời buổi mà ai
cũng sống hấp tấp, vội vàng này, những điều thiêng liêng đáng ghi nhớ thế nào
đi nữa, thì rồi người ta cũng dễ quên khuấy ngay đi... Có phải thế không? Cho
nên bốn năm trời xa nhau, tôi chẳng còn nhớ gì đến người ta nữa, mặc lòng xưa
kia tôi đã cư xử và được đáp lại như anh em ruột thịt, tưởng chừng cái thân
tình quý hóa ấy sẽ sống trường cửu trong ký ức của đôi bên mãi mãi.
Còn về phần người ta, liệu người ta có nhớ gì đến chúng tôi
chăng? Có lắm. Bởi cớ nếu không, ắt đã chẳng có câu chuyện này...
Chỉ phiền một nỗi là khi người ta làm cái việc để tỏ rằng còn
nhớ đến chúng tôi, thì người ta đã túng bấn, nghèo khổ, chẳng còn được như trước
nữa. Vả lại, theo thường lệ, sở dĩ loài người ăn ở tử tế được với nhau, ấy chỉ
là vì chưa làm gì đến nỗi để cho quyền lợi xung đột nhau mà thôi. Nếu cả hai
bên ai cũng theo đuổi được cái điều kiện nay ăn miếng chả mai trả miếng bùi, một
bên có đi thì bên kia cũng phải có lại để cho được toại lòng nhau, thì làm gì
xã hội lại sẽ chẳng cứ mãi mãi là cảnh Bồng lai? Than ôi, cái áo rách nó mới đắc
tội làm sao, và khi người ta tìm đến chúng tôi, thì chẳng may cái áo người ta đã
rách!
Những tư tưởng ái nhân như kỷ cũng đôi khi làm rung động lòng
tôi, lúc ấy nó mới biến mất đi đâu, để nhường chỗ lại cho cái tính đa nghi, cân
nhắc, cái ích kỷ tổ truyền!... Vì chưng nghĩ đến mình, chỉ nghĩ đến mình và quyền
lợi của mình, sự ấy nó cũng tự nhiên và có nhiều thú vị riêng của nó, thí dụ nói
xấu và vu oan là một cách giồng cây đức của nhiều nhà làm báo chân chính chẳng
hạn, cho nên khi người ta mặc áo rách và mang trên mặt tất cả những nét lo âu của
sự túng bấn thì tôi chỉ còn kịp so vai một cái để lẩm bẩm rằng: "Lại
tống tiền là cùng đây chứ gì!" y như một tay nhà giàu đã thấy phiền
và chán nản ở cái sự cứ phải bỏ tiền ra thi ân...
Nhưng, bạn đọc đại lượng ơi, hãy khoan một chút, để tôi được
thuật ra đây ít ra một vài điều gì nó tỏ cái thân tình của chúng tôi ngày trước
đã.
Người chồng là một thiếu niên đồng tuế với tôi. Địa vị trong
xã hội thì thường thường bực trung, vì là một thư ký nhà buôn lương tháng độ bốn
chục. Lối đánh giá con người vào thời buổi bây giờ chỉ là lục lọi đến số tiền
lương tháng nhiều hay ít, chứ có phải kể đến học thức, nhân phẩm gì đâu! Nhưng
nếu phải giới thiệu ông láng giềng của tôi kỹ hơn nữa, thì tôi xin nói đó là một
người học thức trung lưu, đạo đức trung lưu, tài sản trung lưu; nghĩa là, nói
tóm lại, là một người chẳng đủ làm cho ai sợ nhưng cũng chẳng để cho ai khinh
được.
Còn người vợ, thì rất xứng đôi với chồng: nhan sắc bình thường,
nhân phẩm trung đẳng, còn học thức thì, theo như công lệ, cố nhiên là không có
chút nào rồi.
Cặp vợ chồng ấy rất tương đắc với vợ chồng chúng tôi. Tình
lân lý của đôi bên cứ theo thời gian mà càng ngày càng thêm bền chặt bằng cách
biếu xén nhau mọi của ngon vật lạ, mời mọc, thết đãi nhau luôn luôn, và cả hai
bên đều lấy thế làm thỏa mãn, dẫu rằng sau khi tôi thấy vợ tôi được nhận một thứ
thực phẩm đầu mùa hoặc hóa vật kỷ niệm gì, thì tôi lại giật mình đánh thót một
cái, băn khoăn kiếm cách đền lại. Và khi được trả lại, tôi cũng chỉ thấy họ
tươi cười cảm ơn mà nhận, ra vẻ sung sướng một cách rất thành thực, thế thôi.
Thật vậy, những trò giả dối ấy, chúng tôi vui lòng tự mình lừa dối mình để coi
nó là những hành vi chân thật. Không bao giờ chúng tôi lại chịu thú nhận rằng
thế là đã làm khổ nhau, và chỉ có thể tử tế được bằng cách cứ làm khổ nhau mãi
mãi mà thôi. Điều chẳng cần nói ra đây, là sau những cử chỉ rất anh hùng ấy,
thì cả hai bên đều mắc nợ, vì lương tháng hai bên cố nhiên không đánh thăng bằng
được cột thu và cột chi.
Do những lẽ ấy, trước còn xưng hô nhau: thưa ông, thưa bà. Rồi,
sau một thời kỳ "bác bác tôi tôi" đến cách gọi nhau là anh chị, như
ruột thịt chân tay. Cuối cùng, hai thằng nam nhi chúng tôi lại thân mật đến
"mày tao" với nhau nữa, những khi không có mặt hai người đàn bà. Ký
Bích - tên người bạn - với tôi tưởng chừng đã có thể từ đó sẽ sống chết có nhau.
Tôi còn nhớ rõ như mới hôm qua, một lần phát tài, vợ chồng ký
Bích mời vợ chồng chúng tôi đi lễ chùa Hương mà anh thì có bộ Âu phục màu gỗ hồng
rất đúng mốt, mà chị thì nhờ cái áo nhung đỏ mới may, tự nhiên xinh đẹp khác
thường như là đột nhiên biến thành cô tiên, tuy đó có thể chỉ là một tiên nga
trung lưu. Chúng tôi đã đủ sung sướng, hả hê vì thấy được quý hoá, để hai tháng
sau phải lo méo mặt thết lại bạn thân ba ngày nghỉ mát Sầm Sơn rồi mới ăn ngon,
ngủ yên được.
Nhưng mà... cảm động và đáng nhớ hơn nữa, là thái độ của anh
và chị Bích đối với con tôi, đứa con gái đầu lòng. Chị Bích thường chểnh mảng cả
việc bếp nước để lên giúp vợ tôi, hoặc kiên tâm ngồi ẵm con tôi như một người
vú em có lương. Khi con tôi đến lúc biết hóng chuyện, những khi đi làm việc,
anh Bích đã nhiều phen để nguội cả cơm canh vì mải lên "yêu cháu một
lát". Bao giờ tôi lại quên được những lời thông thường rất thi vị mà anh
"nói ngọng" sau khi quệt ngón tay trỏ vào má con bé, đại khái những:
- Cháu gái tôi, ồ là, tôi "êu" nó lắm cơ! à, cháu
tôi cười rồi! Bác "êu" cái má bánh "đúng" này này! Bác
"êu" cái miệng bé bé này này! Bác "êu" cái cằm quả táo này
này! Bé ơi, bé êu êu quí quí của bác ơi!... A hà cười! Thích quá, thích quá!
Rồi anh ký Bích hôn hít con bé mãi không thôi, làm nó cứ cười
toe toét, và làm cho tôi cảm thấy cả cái hạnh phúc của một thằng đã là "bố
trẻ con" mà con gái lại trông hay hay, mẫm mụi, nghĩa là tóm lại theo một
câu nói riêng thì là "trông cứ như con chó Cún".
Những lúc như thế, tôi đã rõ rằng tình bằng hữu, tình lân lý
của con người ở đời, dẫu sao, cũng chẳng phải chỉ là những danh từ điêu trá của
văn chương đâu!
Thế rồi, ngày hôm ấy...
Giữa lúc tôi đương đứng cạo râu trước gương, sắp sửa để đến
chỗ hẹn với một người bạn ở tỉnh xa về chơi mà tôi có bổn phận tiếp đãi thật
long trọng, thì chị Bích bước vào nhà. Vợ tôi lúc ấy lại đi đâu vắng...
Chị Bích làm cho tôi giật mình... Thật là bất ngờ quá đỗi!
Cái áo the nâu của chị, vừa rách lại vừa bạc, trông mới thảm hại làm sao! Đôi
guốc mòn gót, quai cao su lốp ôtô lộn ngược mà chị kéo lê sền sệt, cả gót chân
thừa ra ngoài, trông mới khổ sở làm sao! Thật là khác hẳn bà ký Bích ngày xưa,
bao giờ ra phố cũng áo lụa hoặc áo nhung rất lịch sự.
Tôi ngạc nhiên đến nỗi cứ ngẩn mặt ra, quên cả cạo râu, quên
cả mời khách ngồi. Tưởng bị tôi khinh, chị ta sau khi hỏi rằng vợ tôi có nhà
không, cũng đứng đấy, mặt cúi xuống để lúng túng, để bẽn lẽn và có lẽ để khổ sở
nữa. Tôi bèn đẩy ghế mời chị ta ngồi, và không gọi pha nước mới, tôi chỉ rót ra
đấy một chén nước chè cũ pha đã hai lần. Tôi bực mình cũng như bao nhiêu người
đương lúc vội ra đi mà bị có khách đến ám. Rồi tôi cứ tự do cạo râu trước
gương, sau khi hỏi qua loa một câu vô duyên:
- Thế nào, dạo này hai bác có phát tài không?
Thấy chị Bích hổ thẹn đáp cũng vô lý như câu hỏi:
- Không dám ạ, cảm ơn bác.
Đến lúc ấy tôi mới nhớ ra không biết ai đã nói với tôi rằng vợ
chồng ký Bích, từ khi không còn ở chung với tôi, đã lâm vào cảnh khổ sở, và đã
có hai con... Chồng thì đương làm ăn yên lành bỗng bị sở loại, vợ thì cứ ốm
luôn, hai đứa con cũng lại hay sài... Nghe đồn hình như bây giờ cái gia đình ấy
đem nhau ra nheo nhóc ở một gian nhà lá ngoài bãi Phúc Xá, và anh ký Bích bây
giờ phải bán bánh tây cà phê ban đêm, và chỉ ban đêm thôi: Anh hổ thẹn, sợ cắp
thúng và xách lò đi ban ngày gặp bạn hữu, họ mạc... Phải, phải chính thế, tôi
nhớ ra rồi! Người đã thuật chuyện ấy là bạn của cả Bích, lẫn tôi. Và nói thế là
để thương hại chứ không phải để nói xấu...
Nhớ lại như thế, tôi bỗng lại giật mình. Tôi tự nhủ: "Liệu
hồn! Lại bị tống tiền rồi đây!" Rồi tôi thấy phiền quá, vì chị Bích làm
cho tôi sợ hãi quá, nhất là không biết đến bao giờ mới để tôi ra đi cho thoát.
Khổ thật! Râu cạo mãi cố nhiên cũng phải đến lúc hết nhẵn,
tôi đành cất dao đi, và quay lại, ngồi xuống ghế đối diện chị ta. Và chẳng nhẽ
lại không nói gì, tôi đành mở mồm:
- Mời bác xơi tạm chén nước.
- Dạ, vâng.
Đáp xong, chị Bích uống chén nước một hơi, y như một người
đương đói lắm. Chẳng phải là một kẻ vô lương tâm hoàn toàn, tôi bỗng thấy hổ thẹn
về cái lãnh đạm của tôi. Và thay đổi thái độ:
- Thế ít lâu nay hai bác làm ăn ra sao? Tôi chẳng biết nhà
đâu mà đến chơi! Mà hai bác cũng không năng đến chơi với chúng tôi, thì tôi còn
biết gì được!
Mắt chị ta bỗng quắc lên vì sung sướng và hy vọng. Than ôi,
con người ta khi đã lâm vào cảnh nghèo, có ai mà lại không hèn! Cái hạnh phúc của
chị ta, lúc ấy nó có được chỉ vì thấy tôi nói một câu giả dối ra vẻ săn sóc, là
chẳng kém một cung phi đã già đời nằm dài trong lãnh cung mà một hôm được thấy
cái xe dê của vị quân vương. Đối với chị ta, lúc ấy tôi là một vị thiên phúc
chi tinh vậy! Bây giờ chị mới đủ can đảm ngập ngừng kể lể:
- Thưa bác, một hôm em gặp bác gái ở Đồng Xuân, nói rõ phố và
số nhà rồi hẹn lại chơi, cho nên hôm nay em mới dám đến đây... Thưa bác, từ dạo
ấy thì nhà em mất việc vì sở loại bớt người... Từ đấy tìm mãi việc làm không được.
Em thì cứ hay ốm yếu luôn, lại đẻ được hai cháu, mà hai cháu cũng cứ sài đẹn
luôn luôn... Hiện giờ thì túng kiết khổ sở lắm. Xưa kia, ở chung với bác, được
trăm phần thì nay không được lấy một phần... Chẳng dám nhìn mặt ai nữa, chẳng
dám tìm đến ai nữa. Nếu bác gái không bảo lại đây thì em cũng không dám đường đột
lại đây thế này đâu... Dạ bẩm thế bao giờ bác gái mới về ạ?
Tôi đáp cho phải phép:
- Đến chiều nhà tôi mới về... Chết nỗi, thế mà tôi không biết
rằng hai bác vận hạn nhiều thế.
Chị Bích giương to đôi mắt đăm đăm nhìn mãi tôi. Có lẽ đương
cầu Trời cho tôi bảo cứ ngồi đấy mà đợi vợ tôi vì thấy tôi thắng bộ vào như thế,
chị rất hiểu là tôi sắp ra đi có việc.
Còn tôi, lúc ấy, thì tôi nghĩ gì?
Tôi có nhớ đến cái tình chung chạ nặng hơn hàng xóm láng giềng
của chúng tôi khi xưa không? ừ, cái thân tình gần như ruột thịt những ngày vui
cũ, tôi có còn nghĩ gì đến hay không?
Tuy cũng có đấy, nhưng nhớ để rồi quên ngay. Vì tôi còn bận
tâm lo bạn tôi đương vì đợi tôi mà sốt ruột, bận tâm giận vợ tôi sao lại hẹn
nguy hiểm thế, và nhất là bận tâm vì áy náy không biết khu xử ra sao... Tiền!
Than ôi, lại chỉ những chuyện tiền!
Bao nhiêu cái gì là ích kỷ, là đê hèn, là chó má, là tàn nhẫn,
lúc ấy đều thức dậy cả trong cái tấm lòng khốn nạn của tôi. Cúi đầu xuống, tôi
bĩu môi nghĩ về vợ chồng ký Bích: "Sướng lắm thì khổ nhiều!" ấy thế
là những sự thù tạc, biếu xén, quà bánh, thết đãi của vợ chồng ký Bích khi xưa
đã làm cho tôi thấy là vinh dự, đáng quý hoá, thì bây giờ chỉ khiến tôi thấy đó
là kiểu cách, lôi thôi, phiền phức, giả dối, khó chịu, và nhất là tai hại, hầu
như là đã khiến cho vợ chồng tôi vì đối đáp lại những cái ấy mà đã có hồi
khuynh gia bại sản nữa! Tôi thấy họ đáng kiếp, không đáng thương tí nào.
Nhưng mà vợ tôi đã gọi người ấy đến; rõ mới tội nợ!
Thì... không mất tiền không xong! Tôi đành hỏi ngay:
- Bác cần tiêu bao nhiêu?
Cố nhiên là chị Bích nghĩ mãi mới đáp:
- Nếu được bác giúp cho độ ba đồng bạc thì cháu bé cũng sống
mà vợ chồng tôi cũng đỡ phải lo trong một tháng.
Lúc ấy, túi tôi có thừa năm đồng. Nhưng mà, như trên đã nói,
tôi còn phải thết đãi người bạn. Ngay bây giờ, chúng tôi rất cần đi ăn, đi
chơi! Nếu không, tôi sẽ chẳng ra giống người, vì ông bạn tỉnh xa của tôi đã đối
với tôi chu đáo, ân cần lắm! Thế rồi đáng lẽ đưa ra cho chị Bích vay hai đồng
thì, không hiểu sao tôi chỉ đưa ra có một đồng. Và tôi bỗng nói khác hẳn như đã
muốn:
- Thôi đây này, có đồng bạc cho cháu ăn quà, bác cầm lấy...
Chúng tôi tuy vậy dạo này cũng túng, chẳng có gì đâu... Đây là tôi cho cháu
nhé, chứ không phải chuyện nợ nần gì cả.
Tôi đã dùng cái lối rất cổ điển: cho hẳn, để mà "rào đường".
Vì tôi sợ nhất cái chuyện sẽ bị quấy nhiễu về sau! Vì cho thì một đồng đã là
to: còn cho vay thì lại là ít quá, không được tử tế như cho hẳn.
Chị Bích cầm tiền, cảm ơn, bẽn lẽn ra về.
Chị hài lòng chưa? Đủ sướng rồi hay còn cho là ít? Tôi cũng
không biết.
Chỉ biết hôm ấy, tôi đã tự đắc như một nhà từ thiện, vì lẽ cố
nhiên tôi coi đồng bạc ấy của tôi là rất to!
Quả như vậy, từ đấy trở đi, không bao giờ chị Bích còn dám
bén mảng đến cửa nhà tôi nữa. Tôi đã rất thành công trong cái sự rào đường một
người bạn nghèo. Rồi thì, chẳng cần phải lâu ngày, chuyện ấy cũng chóng bị quên
đi... Nhưng về phần chị Bích thì không. Chưa có nghìn vàng dễ thường không bao
giờ chị ta dám nghĩ đến sự đền ơn bát cơm Siếu mẫu, dẫu rằng người thi ơn kia,
quả thật đã chẳng có cái từ tâm của Siếu mẫu.
Vài tháng sau đó...
Bữa ấy nhằm một buổi sáng chủ nhật, tôi cùng mấy người bạn đã
lên một toa xe điện chạy từ Bạch Mai về Bờ Hồ. Khi đến chợ Hôm, chợt thấy chị
Bích ẵm con, bước lên. Đêm trước chúng tôi vừa mới thực hành cái truỵ lạc chủ
nghĩa. Vừa đem thi thố mấy ngón tài hoa, như nốc rượu, hút thuốc phiện, đùa
gái, văng tục, và nói xấu những người bạn thân vô phúc đêm ấy không có mặt tại
một tổ quỷ nào đó ở xóm Vạn Thái, cho nên sáng hôm nay, mặt chúng tôi đều bơ phờ,
hốc hác, thiên hạ cứ thoáng nhìn cũng đủ rõ là bọn này đã từ cái chốn ác hại
nào mà chui ra... Lại thêm lúc chi tiền, chúng tôi đã bị một ả đào lè nhè xin
thêm mãi, cho nên lúc ấy tôi đương bực mình cực điểm, thấy rằng cuộc đời đã bị
đầu độc, mà chưa biết bao giờ mới có một cuộc vui nào khác nữa đến tẩy độc
cho... Âu cũng là nhằm ngày đen đủi của chị Bích vậy.
Trông thấy chị lên xe, tôi lại giật mình, nhưng không thể
lánh mặt được, tôi đành ngả mũ chào chị, và cố nhiên cái vẻ mặt lúc ấy là phải
lãnh đạm. Cái áo the nâu của chị lại rách hơn trước một chút nữa. Và bây giờ
thì chân chị - hai bàn chân xưa kia xinh và trắng - xéo lấm, vì chắc đôi guốc
đã không còn dùng được rồi. Còn đứa con chị ẵm trong tay thì xanh xao, gầy quá,
đầu thì lấm tấm có mụn trốc, cặp môi thì đã thâm như của một dân bẹp tai! Lúc
chị Bích sắp nâng một bên vạt áo lên để giới thiệu con, tôi bỗng có cái cảm tưởng
lạ lùng y như người ta lúc sắp được thấy, trong cuốn sách phóng sự, bao nhiêu
điều xấu xa bí mật sắp bị phơi ra dưới ánh sáng vậy. Thật thế, không gì thất vọng
bằng một cái mặt trẻ con mà lại không đủ cái hay, cái kháu, để mời chào ta một
cái hôn... Tuy vậy, tôi cũng nhớ ngay đến thời xưa, khi con gái tôi mới đẻ, nó
đã được chị Bích quý hóa như thế nào. Và tôi đã hỏi mấy câu qua loa về đứa bé,
để rồi ngắt chuyện, xin diêm thuốc các bạn hữu cùng ngồi quanh đấy, ý muốn cho
chị Bích mau lấy áo đậy con lại.
Xe điện chạy chậm quá thật! Mười cây số mỗi giờ, giữa một tỉnh
to như Hà Thành! Thật là một cái hổ thẹn của văn minh! Vì rằng, than ôi! Tuy
tôi đã im lặng lờ hẳn đi, nhưng chị Bích đã bắt đầu kể lể!... Chị nói rõ về cảnh
nheo nhóc, mọi điều tai biến, mọi sự đói khát, đau khổ, mà cái số phận ác hại
đã hành hạ gia đình nhà chị từ bấy đến nay... Tôi thở dài. Tuy chị không kết luận
bằng cách xin giúp đỡ, nhưng tôi cũng đủ thông minh để hiểu lắm.
Lúc bấy giờ thì tôi phẫn uất đến cực điểm. Tôi cho tôi như một
con giun, ai xéo lắm ắt tôi cũng biết quằn! Đi hát, lúc chi tiền bị kè nhè là đồ
keo, lúc về giữa đường lại bị có kẻ muốn tống tiền, tôi tưởng như vậy thì từ
tâm đến bằng Đức Phật Tổ cũng phải cáu, dẫu rằng Phật Tổ không đời nào đi
hát... Đáng lẽ có thể bảo chị Bích là không biết điều, ở chỗ "cứ thấy bở
thì đào" như một kẻ bất nhã nào khác, tôi chỉ muốn nhắc cho chị đừng quên
cái đồng bạc trước của tôi. Chẳng nghĩ xa xôi, tôi hỏi thẳng:
- Từ lần ấy, bác có gặp nhà tôi nữa không?
Vô tình chị đáp ngay:
- Dạ, có gặp một lần ạ.
- Bác không nói gì cho nhà tôi biết về cái đồng bạc tôi giúp
bác đấy chứ?
Chị Bích ngơ ngác nhìn tôi mãi như ngạc nhiên vì sợ tôi lại nỡ
ngờ cái lòng thực thà hoặc biết nhận ơn của chị. Rồi chị tức khắc đáp:
- Dạ, có đấy ạ. Tôi có nói ngay rằng đã được bác cho vay một
đồng.
Tôi sung sướng lắm, và cau mặt hỏi nữa:
- Bác đã nói là tôi cho vay à?
Chị Bích liền gật đầu:
- Bẩm vâng.
Tôi tắc lưỡi, cau mặt hơn nữa, khẽ nói tha thiết:
- Rõ khổ quá! Thì sao bác lại không nói là tôi cho hẳn cháu?
Mà tốt hơn nữa thì bác đừng nói gì, có hay không! Chẳng nói bác ắt cũng thừa biết
đấy, bụng dạ đàn bà nhỏ nhen như cái lỗ kim... Thế là rồi nhà tôi nó sẽ không
bao giờ quên là bác đã nợ nó cái đồng bạc ấy.
Tôi kết luận bằng cái so vai, và một cái thở rất dài.
Từ đấy, chị Bích có một nét mặt ủ rũ đặc biệt nó khiến chị ta
không ngồi thẳng lên được nữa, như một con chim bị đạn. ắt đó là chị hối hận,
tiếc rẻ cái lòng nhân đức ghê gớm của tôi, và phân vân lo sợ về cái "bụng
dạ lỗ kim" của vợ tôi.
Đến chợ Đồng Xuân, chị ẵm con bước xuống. Trong cả thời gian
ngồi cạnh nách tôi, chị ta tịnh không dám bén mảng đả động đến chuyện tiền.
Cách đấy sáu tháng nữa, quả vậy, đúng sáu tháng.
Nhằm lúc cuối năm, vợ chồng tôi đi lên chợ Đồng Xuân mua vài
giò thuỷ tiên... Đương lúi húi mặc cả trước một bàn hoa, tình cờ lúc nghển lên,
chúng tôi trông thấy chị Bích đương đi từ cổng chợ ra, cách chỗ chúng tôi đứng
độ mươi thước. Tức thì vợ tôi vui vẻ gọi:
- Bác Bích! Bác Bích ơi!... Bích!
Một tay bế con, một tay cắp cái rổ trong đó có vài cây dưa cải
và một cái mũ thổ công đáng giá hai xu, tuy chỉ có thế thôi, chị Bích cũng quay
lại một cách rất khó khăn, chỉ vì buổi chợ quá đông người. Đến khi nhìn thấy rõ
chúng tôi rồi, thì...
Thì chị Bích lại vờ như không nhìn thấy nữa, ôm con và ôm rổ
cúi đầu quay đi thẳng, trước còn bước chậm, sau thoăn thoắt rõ nhanh, và sau
cùng, thì chạy hẳn!
Than ôi, chỉ vì một đồng bạc! Cái đồng bạc nhân đức rất đắc tội
ấy! Chị Bích lẩn mặt, chạy trốn, sợ bị đòi tiền.
Một đồng bạc! Chỉ vì nó, mà một người đã có cái can đảm chạy
trốn một người, sau khi cả hai người, vào lúc còn như nhau, đã sống bao nhiêu
năm trời chung đụng với nhau, rau cháo có nhau, yến tiệc có nhau, thân thiết với
nhau hơn ruột thịt, tay chân!
Bạn đọc ơi, viết đến dòng này, tôi lại thấy cả tấm lòng khốn
khổ và khốn nạn của tôi nôn nao lên... Chính thế đó, vì trước bàn giấy của tôi
có một cái gương Psyché, và khi tôi chợt ngưng bút để nhìn cái hình thù và cái
người ngợm của tôi trong gương, thì tôi buồn nôn, thì tôi ghê tởm cả cho chính
tôi, vì rằng, trừ một bọn nịnh sằng vẫn gọi tôi là danh sĩ, là văn hào, thì,
trong thiên hạ, than ôi lại vẫn có một số người đứng đắn kia nỡ lòng khen tôi
là "một người tử tế".
Tôi hối hận lắm, tôi khổ sở lắm, vì rằng từ đấy, không bao giờ
chúng tôi còn dịp nào gặp vợ chồng Bích đâu nữa, và nhất là vì giữa cái hôm chị
ta chạy trốn vợ chồng chúng tôi ấy, thì lại nhằm vào một bữa hãn hữu mà vợ tôi
đã nói: "Rõ tội nghiệp chị Bích quá nhỉ? Cậu ạ, em chỉ định tâm hễ gặp chị
ấy thì thế nào cũng giúp thêm chị ấy vài đồng, nhất là vào dịp Tết này".
Nhưng mà từ bấy đến nay, thời gian đã đem đến cho lòng người
cái gì là cái quên. Sự gì thì rồi ta cũng có ngày quên đi, cho dẫu là ái ân,
cho dẫu là đau thương, cho dẫu là hối hận.
Bởi cái cớ ấy, cho nên tuy lương tâm tôi đã mang nặng một vết
thương tình cảm để đôi khi bứt rứt hàng giờ, mà từ đó, tôi cũng chẳng làm nổi một
việc thiện nào thiện hơn cái việc ác này, tuy rằng nếu cố gắng tinh thần thêm
chút nữa, tôi chẳng thiếu gì những dịp để thực hiện rất nhiều cái đức ái nhân
như kỷ mà tôi có thể có được, hơn ai...
Vì sao? Vì khi ta có tiền thì ta chẳng nghĩ đến cái nhân, và
khi phải nghĩ đến cái nhân, thì ta lại chẳng có tiền. Cho nên sự đời chung qui
chỉ là những vòng chạy trong đèn cù, luẩn quẩn, loanh quanh, vì ta không thể
nào khác được, nếu không cứ việc sống thản nhiên để mà tầm thường và khốn nạn.
1939
Từ lý thuyết đến thực hành
Anh ta là một người Âu hóa. Thiên hạ kêu: chưa đủ. Riêng anh,
anh tự cho đã Âu hóa hoàn toàn.
ở Pháp về, anh chỉ giao thiệp với người Tây, chỉ yêu quý có
người Tây, nhất là ông Chánh văn phòng của anh. Anh lại chỉ có nói tiếng Tây
thôi, cho dẫu là những khi anh nói với những đồng bào mũi tẹt. Những việc ấy dễ,
bởi không tốn tiền.
Đến những việc tốn tiền... Tuy không bữa nào cũng dùng
"cơm Tây", anh cũng vẫn giấu bọn đồng bào An Nam rằng mình thường phải
ăn cơm ta, có khi ăn cả rau muống và cà pháo. Tự trong thâm tâm, anh vẫn khen
thượng đế đã ban phước cho cả cái giống An Nam được hưởng rau muống và cà pháo,
rẻ lạ, ngon lạ, có thể khiến người ta quên thịt, cá... Nhưng anh không nói thế
trước mặt thiên hạ bao giờ.
Thiên hạ chỉ thấy anh ăn ở, cử chỉ và ngôn ngữ hoàn toàn theo
Tây. Còn đến cái bàn thờ ông vải trong nhà anh, giữa những đồ đạc hoàn toàn Tây
phương, thì anh cắt nghĩa sau một cái so vai: "Để cho bà via khỏi la thét,
nghĩa là để cho phải phép". Câu ấy, anh cũng lại nói bằng Pháp ngôn. Và,
muốn dẫn chứng cho lời tuyên ngôn ấy, thỉnh thoảng anh lại mời các bạn hữu Tây,
Nam đến tổ chức một cuộc khiêu vũ gia đình.
Trước bàn thờ, lẽ cố nhiên. Vì trong nhà chỉ có chỗ ấy là đủ
rộng. Các ông vải đều đã kính phục cái Âu hóa ấy của con cháu đến tái cả mặt, nếu
các ông vải vẫn còn có mặt để tái...
Nhưng sự ấy chưa phải là cái cốt yếu cho chuyện này.
Cái cốt yếu là một quan niệm đặc biệt Tây phương, Âu hóa cả
trăm phần trăm, của anh, đối với một thứ tai nạn cũng từ Tây phương nhập cảng
vào đây, xứ sở của mọi thứ cổ hủ của dân Đại Cồ Việt mũi tẹt da vàng chúng ta.
Sở dĩ anh nói rõ quan niệm ấy ra có lẽ cũng chỉ vì muốn thiên
hạ phục mình là đã hoàn toàn Âu hoá.
Quan niệm ấy, là về nạn mọc sừng.
Nhưng mà, thì các ngài hãy trông xem! Đấy, anh đứng lên, đi
đi lại lại, hai tay đút túi quần, trong khi cao đàm, hùng biện về một vài vấn đề,
thỉnh thoảng lại tô điểm cho lý luận của mình bằng một vài cái gật đầu khoái
chí... Chẳng ai lại có thể hùng hồn hơn! Cử toạ ngồi nghe đều hoặc đã kính phục
hết sức bằng im lặng, hoặc muốn phản đối hết sức đấy, nhưng cũng chỉ dám phản đối
bằng im lặng. Từ mồm diễn giả lần lượt chui ra những nghĩa lý kỳ quặc có khi
ghê gớm, có khi như sự nguỵ biện, cũng có khi như sự lập dị, nhưng bao giờ, từ
trước đến sau, cũng tỏ ra một tấm lòng vô cùng thành thực và một sự hiểu biết
thấu triệt nó bắt buộc những ai muốn ngắt lời cũng phải cứ kính cẩn ngồi yên mà
im lặng. Sự thành thực, dẫu sao đi nữa, ta cũng không thể dễ mà coi khinh, cũng
như sự hiểu biết chu đáo đáng gọi là có đủ thẩm quyền ấy, khiến cho ta phải ngờ:
diễn giả chính là kẻ "đoạn trường ai có qua cầu...".
Nhưng mà... thì hãy lắng tai nghe anh ta đã...
- Mọc sừng, sự ấy, nếu nó là một cái nạn, thì cũng chỉ là một
cái nạn nhỏ, không đáng để ý mấy. Tôi không hiểu sao ai cũng chê cười một người
chồng mọc sừng! Ngay ở bên Pháp nữa, thiên hạ cũng không thiếu lời chế riễu người
mọc sừng. Đó là một sự dã man, vì người mọc sừng chỉ là một kẻ đáng thương. Mà
cũng không đáng thương nữa, nếu ta nghĩ kỹ... Một là vì bị vợ ngoại tình, ấy chỉ
là, như trên tôi đã nói, chịu một cái tai nạn quá đỗi nhỏ mọn, hai là mọc sừng,
nếu là một cái khổ, thì cũng là cái thứ khổ của trí tưởng tượng ốm yếu của anh
chồng mọc sừng mà thôi! Nếu muốn tin chắc chắn điều ấy hơn nữa, ta phải nói
thêm thế này: ở một xã hội mà nhiều người chồng ngoại tình hay mọc sừng, chính
đấy là dấu hiệu của văn minh. Vì sao? Vì hôn nhân, tự nó, là một điều khuyết điểm
vô cùng, khi nó giải quyết vấn đề tình ái... Hôn nhân là cái giấy hợp đồng buộc
lòng người trung thành suốt đời, trong khi lòng người, do đấng Thượng đế sinh
ra, là một sự trừu tượng, tự nó nó chỉ muốn thay đổi, có mới nới cũ đó thôi...
Lấy cái quan điểm của bọn nam nhi chúng ta mà xét, điều ấy càng rõ rệt. Đàn ông
lắm khi chê vợ, chán vợ, thấy không thể chung sống với vợ được nữa, chỉ còn một
cách ly dị, thì may sao đã tìm thấy phương tự cứu chữa, tự giải thoát, để tránh
cảnh tan nát của gia đình và cái hận nghìn thu của lũ con cái thơ dại, ở sự tự
an ủi mình bằng cách thỉnh thoảng lừa vợ một đêm, tìm cái hạnh phúc tạm bợ và
điêu trá trong cánh tay "người vợ một đêm". Đã giản dị chưa? Lừa được
vợ một đêm, thế là người đàn ông chê vợ phỉ chí, tự an ủi, đủ can đảm và hứng
thú cứ chịu đựng mãi được người vợ mà mình đã thấy là khó chịu... Và những phụ
nữ khôn ngoan, biết cái ngôi nội tướng của mình đã có bề lung lay, lắm khi đã
nhắm mắt làm ngơ cho chồng. Phải thế mới được. Phải chịu đựng cái đau đớn nhỏ ấy,
hoạ may mới tránh thoát cái đau đớn lớn hơn nó sẽ đợi ngày tức nước vỡ bờ, nó đến...
Vì rằng đấng Thượng đế sinh ra thằng đàn ông, mục đích Ngài chính là để cho nó
phản trắc đấy! Phản được rồi, nó sướng. Lòng tự ái được mơn trớn rồi, thì nó sẽ
xử một cách nhã nhặn hơn với vợ nó, một người mà nó không lừa được thì nó sẽ
giành cho những vố đau...
Một vài người cười ồ. Những thính giả khác chẳng ai nói gì cả.
Vẫn nguyên cái đà hùng biện, anh ta tiếp:
- Bây giờ... đến lượt chúng ta tự đặt mình vào địa vị người
đàn bà... Ô hay, sao chúng ta có thể ích kỷ đến thế được? Sao chúng ta lại
không công bình một tý nào cả? Sao chúng ta nỡ dã man đến thế? Đàn ông chúng ta
đi chơi gái bừa bãi thì chẳng sao, nếu vợ ta có hành động y như ta, chỉ y như
ta thôi, ta cũng đã coi như đổi đời. Vợ ngoại tình, khốn nạn, thế sao gọi là đại
hoạ, nếu chồng xưa nay vẫn ngoại tình be bét ra đấy thì không sao? Họ cũng đã xử
sự như mình. Chỉ có thế. Họ đã phải ngoại tình có lẽ là để khỏi phải nghĩ đến
cách quyết liệt hơn: ly dị. Cũng như mình, họ cũng chỉ thấy sự an ủi, cái thú sống,
ở sự lừa đảo thôi. Đã thế, sao đàn ông cứ ích kỷ? Khốn nạn, nào có gì, nếu đó
chỉ là vỏ quít dày và móng tay nhọn gặp nhau? Thêm nữa, một khi người đàn bà
dám ngoại tình, tôi cho đó là họ bắt đầu có can đảm, và bắt đầu giác ngộ nữa,
cũng như thuyền thợ dám đình công phản đối Chính phủ, cũng như phụ nữ dám vác
những lá cờ có dấu hiệu cách mệnh, la thét giải phóng và bình quyền! Cho nên,
như tôi đã nói, mọc sừng chính là dấu hiệu của văn minh. Người đàn bà, một khi
bắt đầu lừa chồng, là bắt đầu bỏ cái chính sách tiêu cực đề kháng tổ truyền mà
mấy nghìn năm bị coi là đứa tớ gái không lương đã kết quả nên thái độ...
Một người nói len vào:
- Thế thì ra tội là ở anh chồng đáng mọc sừng, bất cứ anh chồng
là hay, dở như thế nào?
Diễn giả đáp cứng cỏi:
- Bẩm chính thế. Vì dẫu ta tài giỏi, khỏe mạnh, giàu có đến
như thế nào đi nữa mặc lòng, nếu ta chẳng may mọc sừng, ấy là chính ta đã có lỗi,
đã hỏng ở một phương diện nào đó, mà chỉ vợ ta mới biết mà thôi! Cho nên, như
trên tôi đã nói, người chồng mọc sừng chẳng bao giờ đáng thương, nếu ta nghĩ kỹ...
Nếu ta khôn ngoan, đủ tư cách, đủ khỏe mạnh, đẹp cả tinh thần lẫn văn chương,
con vợ ta nó đã chẳng ngoại tình!... Vậy thì quyết nhiên anh chồng mọc sừng bao
giờ cũng có lỗi, và phải coi sự lừa dối của vợ là một lẽ chính đáng hợp tự nhiên
mà thôi. Huống chi, cái vấn đề ấy, phàm đã là người văn minh, thì chỉ nên coi
đó là những việc nhỏ nhặt rất tầm thường, không làm không được, thí dụ như đói
thì phải ăn, khát thì phải uống, hay là một chất đã quá đầy trong bụng thì phải
thoát nó ra ngoài, như là đại tiện, tiểu tiện, có thế thôi. Tôi xin nói thêm
cho rõ hơn nữa: nếu một người chồng vắng nhà lâu chẳng hạn, thì vợ người ấy có
đi ngoại tình, người ấy chỉ nên coi như vợ đã phải làm một sự cần không làm
không được, thí dụ mót đái thì phải đi đái, thế thôi. Sự giao hợp là cái gì? Nó
là điều xưa nay ai cũng coi là nhơ bẩn. Vậy thì sao lại cho nó một cái giá trị
mà nó không có, đại khái như chẳng may mọc sừng thì đau đớn đến nỗi muốn tự tử?
Một người lại hỏi:
- Thế thì triết lý của người chồng mọc sừng là thế nào?
- Là nhắm mắt làm ngơ. Là phải coi mình có lỗi, cho dẫu chưa
thấy lỗi mình ở chỗ nào! Nếu không có gì khuyết điểm, vợ nó đã phải trung thành
với mình chứ? Cốt nhất là đừng làm om lên. Như trên tôi đã nói: vợ cho chồng mọc
sừng hay chồng ngoại tình càng nhiều, ấy chính là dấu hiệu của văn minh. Quả thật
đó chẳng là điều vu khoát... Trong khi ngày cưới chỉ là ngày tận số của ái
tình, thì ngoại tình chính là sự cách mệnh tự nhiên đối với điều trói buộc nhân
tạo của hôn sự. Muốn tỏ mình đã văn minh, nhân loại chỉ nên coi sự thông dâm là
một điều giải phóng cho cái lòng người ham thay đổi... Tiến bộ là gì, nếu không
là sống tự do! ở Tây phương, người ta đã chiếm được sau những cuộc cách mệnh tốn
hàng triệu nhân mạng, những quyền tự do hội họp, tự do tư tưởng, tự do ngôn luận,
tự do đình công... Còn khuyết điểm, nếu chưa chiếm được hay công nhận một cái tự
do nữa, quý hóa nhất, là cái tự do giao hợp! Có cái ấy nữa, xã hội mới thật là
thiên đường! Vì thế, nên tôi đã nói rằng vợ bị chồng lừa, hay chồng bị vợ cho mọc
sừng, hai bên chỉ nên nhắm mắt làm ngơ đi mà thôi. Vì hai bên đều có lỗi. Thêm
nữa, cái tai nạn ấy, cái đau đớn ấy, nếu ta biết nâng nó lên trình độ một chi
tiết văn hoá, coi sự tự do giao hợp cũng như những cái tự do khác, thì loài người
há chẳng đã thoát khỏi cái vấn đề thiên cổ nó vẫn rình phá hoại hạnh phúc của
gia đình và cá nhân đó sao?
Một người khác cười nhạt phê bình:
- Gớm thật cho những tư tưởng quá khích của ông! Ông đã làm
cho cả bọn nam nhi... tiêu danh dự.
Người Âu hóa hỏi lại:
- Thưa ngài, mọc sừng, người đàn ông nào dám chắc suốt đời
không bị cái nạn ấy? Tôi xin nói để ngài chớ quên rằng người đẹp giai nhất đời,
anh hùng cổ kim chưa có ai bằng, là Nã Phá Luân Hoàng đế, thì ngài cũng đã mọc
sừng đó! Đứng trước một cái nạn nó hăm doạ tất cả các đàn ông trên cõi thế
gian, mà lại không biết nâng sự mọc sừng lên trình độ một chi tiết của văn hóa,
thì chỉ là chẳng biết lo xa một chút nào.
Có người hỏi:
- Ông đã xong cái bài đại luận về nạn mọc sừng chưa?
Anh ta gật đầu:
- Tôi đã kết luận.
Rất nhiều người phê bình:
- Cái anh chàng này Tây quá đi mất! Nguy thật! Tây ở cách ăn ở,
Tây ở cử chỉ, ngôn ngữ, lại Tây nốt cả ở cái linh hồn!
Anh ta mỉm cười đắc chí, thấy mình đã thành công. Mục đích của
các sự lập dị yêu ngôn và nguỵ biện của anh chỉ là để cho thiên hạ phục mình đã
"cả trăm phần trăm Âu hoá". Những câu chê bai kia, trái lại, anh cho
là lời khen.
Và, trong khi ai cũng để ý nghe diễn giả, thì không ai để ý
nhìn một thiếu niên đẹp giai lúc ấy chỉ đưa mắt liếc trộm cô vợ trẻ măng và đẹp
nõn, của diễn giả, ngồi ở phòng bên pha trà và sai đầy tớ rót tiếp cho đám
khách khứa đông đúc, từ lúc đầu cho đến lúc cuối cuộc diễn thuyết ấy, đã lắng
tai nghe mớ lý thuyết của chồng một cách cực kỳ chăm chú...
Riêng tôi, tôi tự nhủ: "Chính chỉ vì anh chồng này đã bị
mọc sừng rồi nên mới gián tiếp bênh vực bằng cái quan niệm ghê gớm kia".
Tôi đã lầm.
Việc ấy xảy ra sau, chứ không phải đã xảy ra trước như tôi tưởng.
Đã chừng một năm sau, thấy con người Âu hóa ngày ngày đi nằm
dài tại một tiệm hút. Thiên hạ nói thì ra anh đã bỏ vợ. Rõ mới buồn! Nguyên
nhân cuộc ly dị, chẳng ai hiểu rõ đầu đuôi ra sao. Chỉ biết hiện anh ta đau khổ
lắm. Tiệm hút, chỗ ẩn dật của anh, của những kẻ chán đời, anh chỉ còn có nó là
quý thôi!
Đáp lại các bạn chí thân, anh ta chỉ nói kín hở về nỗi khổ:
- Tôi... tôi đã yêu một người đàn bà!
Nhưng một hôm có người bạn thân khác không hiểu gì, trách anh
bạc tình, tồi tệ với vợ, dã man, và... đủ tất tả những trạng từ khác nữa. Thì
anh nổi giận hỏi lại:
- Mày ngu lắm! Thế khi vợ mày nó cắm sừng vào đầu mày thì liệu
mày có còn cứ muốn ăn ở suốt đời với nó không?
À, thì ra đầu đuôi là thế.
Tôi, kẻ ngoại cuộc, bỗng đâu tôi cũng chán đời. Và hoài nghi.
Thật thế, tôi tin rằng đất Đại Cồ Việt ta là cái đất cằn cỗi, những lý thuyết
và tư tưởng ở đâu đâu, tốt đẹp thế nào mặc lòng, cũng cứ đến đây là thành thối
nát. Tôi không tin dân An Nam ta lại có nổi một điều tín ngưỡng nào, một quan niệm
chắc chắn gì. Bởi thế, con người Âu hóa cực đoan ấy chỉ Âu hóa được ở cái lỗ mồm
mà thôi. Và, than ôi! Suy một người ra nghìn người, suy một sự ra vạn sự!
1939
Đời là một cuộc chiến đấu
Truyện vui
Trong thiên hạ này, ai dám bảo Pierre Quyền là một người khổ
sở? Ai! ừ, đứa nào dám hỗn láo đến thế? Há đó lại chẳng là một tội nặng cũng
như tội phạm thượng?
Phải biết: Pierre Quyền là con bố của một tay trọc phú lừng
danh. Phải biết: P. Quyền đã sang tận Pháp để làm du học sinh, rồi, về nhà, lấy
được một cô vợ đẹp nõn, cho dầu chẳng giật được mảnh văn bằng nào, cái đó cũng
lại là rất hợp thời trang nữa, vì ở xã hội này may mà đã có một số trí thức
chân chính kia không coi văn bằng là chứng cớ về chân giá trị của con người. Lại
phải biết nữa: P. Quyền, mới ba mươi tuổi đầu, cũng đã được hân hạnh là một dân
bẹp tai chính thức, mỗi ngày hút xoàng mất ba đồng bạc thuốc phiện, - cái điều
lý tưởng của một số đông thanh niên Nam Việt... Đứa nào nói ngoa thì không đáng
gọi là giống người! Xưa kia, lý tưởng thanh niên là khôn lớn thì làm quan. Bây
giờ cái lý tưởng ấy đã đổi: khôn lớn thì giầu, thì trúng số độc đắc, để có thể
an tâm nằm một chỗ mà hút, và không làm một việc gì cả, bất kể là hay hoặc dở,
nhưng hễ thấy ai làm việc gì cũng chửi chơi! - Nói tóm lại một câu thì Pierre
Quyền là một người hoàn toàn sung sướng, vì đã là một cái gương hưởng thụ đáng
cho bạn trẻ soi chung. Vậy bảo anh ta khổ sở là thằng nào? Đồ láo!
Tôi đương lấy làm ngạc nhiên vô cùng ở chỗ thấy trong đời là
có sự quái gở ấy, thì, một hôm, tôi lại ngạc nhiên hơn nữa, mà khám phá ra rằng
cái con người dám bảo Pierre Quyền là một kẻ khổ sở, lại chính là Pierre Quyền.
Thì có lạ không?
Vậy thì... ta không nên nóng vội. Mặc dầu những điều kiện hưởng
thụ của ta là "thư bất tận ngôn" đi nữa, nhưng khi óc ta đã có một
cái lý tưởng, bất cứ về loại nào - chỉ có một cái thôi - ta cũng có thể rất khổ
sở được, như những kẻ khổ sở nhất trần đời.
Và cũng như số đông những nhà trí thức ở nước Nam này, than
ôi! Pierre Quyền của chúng ta cũng có trong óc một thứ lý tưởng.
Tôi xin kể "mặt ngang mũi dọc" cái lý tưởng ấy nó
ra sao.
Cái lý tưởng ấy, anh Quyền chơi khoảnh, cứ giữ lấy một mình
như một mối tâm sự đau thương riêng, chứ không nói rõ cho tôi biết. Cho nên tôi
phải đoán phỏng, nếu có võ đoán cũng mặc kệ, vì nếu Quyền lại biết rằng tôi ngờ
anh là kẻ khổ sở thì có phen anh tuyệt giao với tôi! Vốn tròn, tôi không muốn mất
lòng ai cả.
Lần đầu mà anh mời tôi đến nhà, lên cái gác riêng tại đó anh
đóng bản doanh cho cái bàn đèn phù dung, thì đó là anh tỏ cho tôi biết rằng tôi
được hưởng một cái thân mật ít có, bạn hữu anh ít kẻ được thế. Anh đã, trong
khi phô phang những cái gì là đắc thắng trong đời, thì cũng đồng thời thổ lộ
cho tôi biết cái gì là đau khổ của anh. Thổ lộ bằng việc, chứ tất nhiên không bằng
ngôn ngữ. Quyền có là một nhà triết học chăng? Cái triết lý của con người ta ở
đời này có phải là hễ sống thì phải biết mùi tân toan chăng? Mà phải chăng một
bậc triết nhân là một người biết sáng tạo cho mình một cái khổ, nếu đời mình sống
chưa đủ thấy khổ?
Tôi cứ băn khoăn mãi về mấy câu hỏi ấy, quên cả rằng ngay trước
mặt mình, đó là một cảnh Bồng Lai hẳn hoi. Phòng hút của Quyền bài trí lịch sự
đặc biệt, toàn những đồ dùng lọc lõi, thật đã đúng như câu anh vẫn kiêu ngạo
nói: "Cái gì tôi đã chơi thì không ai có; cái gì ai đã có thì tôi không
thèm chơi".
Nhất là bộ khay đèn.
Thật là một kỳ công mà người sành sỏi nhất đời có thể thực hiện
nổi. Thật là một lý tưởng mà một bậc anh hùng hiệp sĩ nhất đời có thể thành tựu
được. Bao nhiêu cái tài hoa, bao nhiêu cái kiến thức thu lại và hiện hình ra,
trong cái tiểu giang sơn ấy! Kể cũng bõ công sang Tây du học lắm thay! Đèn thì
là đèn pha lê trong vắt như nước lọc. Tẩu thì là tẩu "sái tách",
nghĩa là khi ta kéo xong một mồi thuốc, nằm lơ mơ vừa được một phút, thì tự
nhiên nghe thấy một tiếng "tách" rất bí mật, rất hữu tình: đó là sái
trong tẩu đã rời ra tự nhiên, để cho về sau, ta chẳng cần lùa vào ruột tẩu cái
móc thô lỗ nó có thể hỗn xược như một sự khám xét của tây đoan tại nhà một ông
nghiện đã nức tiếng là trung quân ái quốc, Pháp Nam trung tín cả hai triều, vì
xưa nay chỉ có dùng thuốc ty mà thôi. Giọc thì là thứ giọc trúc tối cổ, bóng
hơn sơn quang dầu, tay mó vào, dầu có mồ hôi, không phải lau cũng không thấy ướt.
Kéo khêu bấc thì không phải là thứ kéo có bán tại các hiệu tạp hoá, nhưng là thứ
kéo đặc biệt dùng để cắt ruột người của những ông đốc tờ chuyên nghề mổ xẻ, mua
ở hiệu thuốc tây. Còn những cái lặt vặt khác như lọ đựng rượu, vịt dầu, lọ đựng
kéo, gác tiêm, cũng toàn bằng pha lê cả. Và nổi hơn hết, cầu kỳ hơn cả, là một
cái bàn tính nhỏ, khung bạc, chốt ngà mà con triện là những viên ngọc tròn, đỏ
và xanh. Cái bàn tính ấy, Pierre Quyền dùng để đo lường sức tiêu thụ thuốc, cái
lượng của khói đã lùa vào phổi. Một ông nghiện biết tự trọng, có đâu lại tính
nhẩm số những điếu thuốc đã hút bao giờ! Một bà vãi đọc kinh có đâu lại đếm cái
số câu kinh đã thốt ra khỏi miệng bao giờ! Vậy thì cái bàn tính ở khay đèn này
cũng có cái công dụng của giây tràng hạt của bà vãi ẻn. Một khi hút xong một điếu,
Pierre Quyền chỉ việc gạt một con triện bằng cái mũi tiêm là xong.
Than ôi cũng như nhân vô thập toàn bởi cớ Tạo hóa ố toàn, cái
bàn tính ấy vừa là biểu hiện, hạnh phúc lại vừa là tượng trưng đau khổ của con
người có lý tưởng ấy.
Và đấng cứu thế Christ bằng gỗ vàng tâm mà anh Quyền treo bằng
cách đóng đinh cả cái câu rút ấy một lần nữa trên tường, ở chỗ danh dự, lúc nào
cũng như nhăn nhó, cảm động, về cái khổ sở của con chiên chỉ ghẻ lở một cách
tinh thần kia. Vì tôi quên nói rằng Pierre Quyền là một tín đồ tin Kinh Thánh nữa.
Lúc mới nằm vào, tôi được hân hạnh bạn giao hẹn thế này:
- Chả mấy khi anh đến chơi, vậy đã phạm tội thì cũng nên phạm
thế nào cho bõ với sự thú tội, nghĩa là tôi hút một điếu thì anh cũng phải hút
một điếu.
Tôi gật đầu liền, vì lúc ấy chưa rõ cái đức tiêu sài đại lượng
của anh đối với nhà Đoan. Nhưng sau, hỏi và được anh đáp là mỗi bữa anh hút ít
nhất năm chục điếu, tôi mới thất đảm kinh hồn! Phải lạy van mãi mới được anh
ưng cho tôi chỉ phải theo anh 1 phần 10 thôi. Tôi hút điếu thứ ba, anh Quyền
hút đến điếu thứ ba mươi, thì vợ anh lên, ngồi chỗ dưới chân chúng tôi, pha cà
phê một cách vô cùng ngoan ngoãn.
Thấy người vợ trẻ măng như thế, mà lại không tỏ một tí gì là
oán giận chồng hoặc hổ thẹn về cái đức nghiện hút của chồng, tôi mới nhớ ra cái
gia tài ba cửa hiệu thợ may tây rất to thuộc quyền sở hữu của bạn tôi. Bỗng đâu
tôi có thể có được cái ý nghĩ khoan dung này: "ừ, nói cho cùng thì thằng
cha này hút cũng là phải! Tội gì mà chẳng nghiện, khi ta ở giữa một xã hội khó
thở, mà bao nhiêu kẻ có học thức, có tâm huyết, ngoài cái sự hy sinh làm mồi
cho ngục thất và máy chém thì thôi, cũng đến khoanh tay chịu vậy, chẳng làm được
trò gì!" Rồi, xa xôi, tôi khen Quyền là một người may mắn được hưởng hạnh
phúc.
Nhưng Quyền lại ra ý không bằng lòng. Bảo anh sung sướng, anh
cho thế cũng thí dụ như bảo anh là đồ ngu! Vì rằng anh cãi:
- Anh nói nông nổi lắm. Con người ta ở đời, phàm đã có một quả
tim để sốt sắng, một khối óc để nghĩ ngợi, thì có thể nào lại sung sướng được!
Tức quá, tôi bèn hỏi:
- Ừ, thế như anh, thì anh còn thiếu thốn cái gì để khao khát
cái gì nữa nào?
Vợ anh Quyền cũng họa theo:
- Thưa bác, ấy nhà tôi cứ nói ương thế đấy, mà không biết rằng
được thế này cũng đã là sung sướng hơn tiên.
Quyền lim dim cặp mắt, đáp bằng những lời triết lý viển vông:
- Vì rằng người ta ai cũng thế cả, dầu nghèo, hay giàu, dẫu
thừa thãi hay thiếu thốn, thì đều cùng khổ sở cả, duy cái khổ của thằng giàu
khác với cái khổ của thằng nghèo, thế thôi. Tôi không nói rằng tôi cũng có một
hoài bão riêng, một lý tưởng riêng, nhưng tôi nói rằng đối với ai cũng vậy cả,
cuộc đời chỉ là một chặng đường dài đi thì nhọc mệt, chán nản; vì rằng đời là một
cuộc chiến đấu...
Tôi chưa hiểu rõ nhưng rồi chúng tôi cũng nói sang những chuyện
khác. Quanh bàn đèn, ta có thiếu gì đầu đề mà bảo cứ phải bám mãi vào một lý
thuyết mà ta không hiểu cho nhau!
Anh Quyền, lúc ấy đã hút đến điếu thứ năm mươi.
Tự nhiên thấy anh ngồi lên, sốt sắng mời:
- Này! Làm một điếu nữa nhé?
- Thôi chịu! Say lắm rồi.
- Thì một điếu nữa thôi thì đã làm sao? Nghiện ngay đấy mà sợ!
- Không phải sợ nghiện nhưng thấy buồn nôn rồi. Khó chịu lắm.
- Thôi thế thì anh về đi cho xong.
- Anh đuổi, chứ anh giết tôi, tôi cũng xin chịu thôi.
Tôi thấy anh Quyền nằm xuống, ruỗi thẳng cả chân lẫn tay, thất
vọng hết sức. Mặt anh có những nét buồn rầu, đáng cho ta động mối thương tâm. Đến
lúc này, tôi mới hiểu ra rằng tuy vậy, Quyền vẫn không là người sung sướng thật!
Tôi bèn vội cứu chữa:
- Ờ thì tiêm cho tôi một điếu nữa vậy.
Rồi tôi hút, rồi bạn tôi gạt con triện trên bàn tính một cái,
rồi bạn tôi ngoay ngoáy tiêm một hồi dài. Để hút chứ không phải để mời tôi nữa.
Trên cái mặt hốc hác ấy, ở cặp mắt lờ đờ ấy, kể từ điếu thứ 52 trở đi hạnh phúc
hiện ra bằng nét và hào quang.
Tôi hỏi:
- Gớm, anh hút thêm mà sao hút nhiều thế?
Anh đáp rất tự nhiên:
- Nếu đã hút thêm, thì cứ phải hút từng mười điếu một dịp,
không hơn cũng không kém được.
- Sao lại không thể nào hút thêm một vài điếu mà thôi?
- Vì kiêng. Hút thêm dưới một chục sợ sái mất Thần Tài. Nếu
Thần Tài mà sái, có khi không có thuốc đâu mà hút nữa.
Câu mê tín ấy, Quyền đã nói một cách sốt sắng, cũng như đức
Giáo Hoàng có thể nói quyết: "Tôi tin rằng Thượng Đế!" vậy. Từ đấy,
tôi nằm yên, lim dim mắt lại xem anh ta "làm ăn" ra sao... Tiêm đến
điếu thứ 59, bỗng Quyền lại gạ tôi:
- Này, lại hút một điếu cuối cùng nữa nhé?
Biết từ chối là thất sách, tôi không đáp, chỉ ngồi lên nhăn mặt,
một tay nắn cổ. Rồi tôi "oẹ" một cái để chảy nước bọt vào ống nhổ, vờ
như đã buồn nôn. Thì Quyền không nài ép nữa.
Anh ta hút điếu thứ 59, điếu thứ 60, rồi thở dài một cái thật
là chán đời.
Anh gắt như tôi có lỗi nặng:
- Chó thật! Có một thằng bạn, mà lại không hút!
Rồi anh quay mặt vào tường, lại thở dài. Chẳng biết có phải
đó là anh đương đau đớn vì có nhân ngãi mới chết đó chăng! Chẳng hiểu có phải ấy
là anh đương khóc lóc đó chăng!
Nhưng bỗng anh cựa mình đánh thình một cái, quay mặt lại bàn
đèn một cách rất cả quyết. Trên mặt anh, tôi thấy cả một sự sốt sắng phi thường,
cả một cái can trường xuất chúng. Anh hút điếu thứ 61 để rồi thở dài một cái
sung sướng như một đứa trẻ vừa uống xong thìa dầu gan cá thu. Thế là, từ điếu
62 trở đi, tiếng thuốc chui vào nhị tẩu vo vo như máy xe hơi mở tốc lực mỗi giờ
70 cây số! Anh tiêm thuốc, hút, gạt bàn tính thoăn thoắt như một cô gái quay tơ
gieo thoi... Tôi đã hiểu cái gì là sự nhanh nhẹn, cái gì là mỹ thuật.
Cho đến điếu thứ 69, đã xe lại chậm chậm rồi. Người ấy lại tỏ
vẻ thẫn thờ nhớ tiếc, như một người nạ giòng than phiền cái tuổi xuân qua. Quyền
đã để một thời khắc khá lâu mới hút nốt điếu 70, chẳng khác một đứa trẻ rụt rè
mãi mới dám ăn cái bánh ngọt mà nó vừa muốn nếm lại vừa muốn giữ.
Dẫu sao, tôi cũng tưởng thế là xong bữa rồi.
Tuy vậy, vờ dở ngủ dở thức, lúc ấy mắt tôi vẫn lim dim...
Anh Quyền lại nằm đườn ra, rất lâu... Rồi anh co chân, ruỗi
chân, co tay, ruỗi tay, thở dài, khó chịu, ngán ngẩm. Rồi anh lại quay mặt vào
tường, như giận nhau với đèn dầu lạc, hoặc với tôi. Sau cùng thì, chao ôi! Anh
lại cựa mình đánh sầm một cái, quay mặt ra một cách vô cùng quả quyết lần thứ
hai nữa! ấy thế là điếu thứ 71 và 72 nhanh nhẹn, vui vẻ, hùng hồn bao nhiêu,
thì điếu thứ 78 và 79 buồn rầu, uể oải, phân vân, thất vọng bấy nhiêu... Anh để
cách 15 phút mới hút điếu thứ 80, tức là điếu hạ hồi phân giải.
Vì đến thế thì thôi, chứ anh ta không quay mặt vào tường đau
đớn để lại có dịp cựa mình hùng hồn.
Trong thiên hạ này, ai dám bảo Pierre Quyền là một người khổ
sở? Ai? ừ, đứa nào mà dám hỗn láo đến thế?
Tôi!
Đối với anh đời là đầy rẫy những cái tai biến, đại họa tức là
những điếu thứ 8, thứ 9, và điếu chẵn chục, tuy đời cũng có nhiều hứng thú cho
anh, như điếu thứ 1, 2, thứ 3, vân vân... kể từ số 50 trở đi.
Những lúc quay mặt vào tường nằm im lặng, cái xác thịt yên
nghỉ ung dung ấy, chính nó đương gói một linh hồn lao đao tan tác vì giông tố,
đương gắt gao chiến đấu, chẳng kém cái phương pháp trường kỳ để kháng chiến Nhật
của Tàu!
Anh Quyền có thể cứu chữa cái khổ ấy bằng cách mời một vài
người bạn sẵn lòng hút hộ cái điếu thứ... linh một để làm khởi điểm cho anh khỏi
bứt rứt lương tâm mà kéo những điếu sau. Nhưng đó là sự tốn tiền!
Mà bắt một ông nghiện tốn tiền, thì khó khăn khác gì bắt nhân
loại không đau khổ nữa.
1939
Gương… tống tiền
- Thôi chả chừa nổi đâu! Dậy cầm lấy hai hào đi mua về mà
kéo.
- Không, không việc gì. Tôi còn chịu được, bác cứ mặc tôi.
Lê Vân đáp xong bạn, mím môi quay mặt vào tường. Chàng tuy rất
khốn khổ, nhưng không muốn chịu luỵ bạn nữa. Nghiện hút đã ba năm mà muốn
"cai khan" là chuyện rất khó, song Vân đã quả quyết dám có ý nghĩ: chết
thì thôi. Nếu không thoát nạn phù dung, rồi Vân cũng đến phải tự tử. Vân đã
chán cái sống bêu rếu ở đời.
Hơn nữa, người bạn ấy chưa chắc đã có bụng chân thành. Biết
đâu chẳng định bắt chàng chịu ân rồi thì để có cớ buộc Vân làm một việc nhẫn
tâm mà Vân không muốn nghĩ đến nữa.
Trước kia, Vân đã là kẻ thắng trận trong tình trường. Nhưng
những phút sung sướng bao giờ cũng ngắn. Sau, người yêu của Vân phụ Vân. Chàng
bèn làm bạn với ả phù dung, những muốn hưởng hạnh phúc trong cái quên, muốn lên
cái cảnh thiên đường mà người ta có thể thò tay ra với được.
Từ một thiếu niên có tương lai tốt đẹp, Vân đã hóa ra kẻ bị
xã hội khinh bỉ... ma dại thân tàn. Giữa lúc này, người bạn cưu mang chàng xui
chàng... đem đánh giá những dòng chữ ái ân mà người yêu Vân đã gửi cho Vân khi
xưa.
Không, thà chịu chết còn hơn bị ghét. Hoặc phải có cách gì
sang trọng hơn kia. Chứ để bị khinh bỉ, Vân không muốn làm. Thà chàng cứ chịu
cho những cơn nghiện vô hình nó vật vã đã.
Sự tê mỏi các đầu xương và đau quặn ruột gan lôi Vân phải ngồi
nhỏm lên mà ôm bụng như bị có kẻ đâm: "Trời! Đau chết!". Người bạn vội
tung chăn dậy, đấm lưng cho chàng. Hai mắt Vân lúc đó quắc lên những ánh sáng,
long sòng sọc như mắt người điên. Mặt Vân chằng chịt những nét răn đau đớn.
Không thể chịu nổi nữa, Vân đã muốn đổi ý. Chàng đã thấy rằng
vẫn cứ yêu kẻ đã phụ mình là ngu. Lại thêm người bạn thừa cơ xúc xiểm:
- Anh Vân, nên biết nghe lẽ phải. ở đời này... tội gì? Đời bạc
như vôi mà mình cứ chung tình thì mình là thằng ngốc. Tôi vẫn còn nhớ cái ngày,
năm năm trước đây, anh đến tìm tôi nói ba hoa như đã nắm được hạnh phúc ở đời,
vì Loan thương yêu anh. Thế nhưng mà tôi còn nhớ rõ hơn: một ngày tiết lạnh gió
đông, anh đến tìm tôi để phô cái dáng người lừ đừ, nhọc đời của anh, rồi kéo
tôi đi hút thuốc phiện. Loan đã không đủ can đảm cưỡng lời mẹ cha, đã vâng chịu
lấy chồng! Anh còn nhớ không? Nằm dài bên khay đèn, anh kêu không còn cần gì nữa,
vì đời anh đã là đời bỏ đi! Bây giờ... bây giờ, đời anh quả thật đã là đời bỏ
đi! Nhưng mà, bây giờ thì... đời Loan ra làm sao? Loan là vợ một ông Tham! Có
hai đứa con, có một ô tô, có năm nóc nhà! Tôi muốn hỏi anh về cái khốn khổ của
anh đây, phải chăng Loan đã có một phần trách nhiệm?
Vân không đáp, nhắm mắt để rơi hai hàng lệ. Người bạn khẽ bảo:
- Những thư từ trước của Loan gởi cho anh đâu? Đưa quách đây
tôi!
Vân thở dài, thò tay móc túi rồi vứt xuống chiếu cái chìa
khóa va li của chàng.
Bà Tham ngồi nghe như một người chịu tội. Vân nằm đó ngượng lắm,
nhưng biết chạy trốn đi đâu? Hai nữa, chính vì Loan, thân thế chàng nay mới đổ
sụp đến thế. Rồi Vân nghĩ: "Phải chăng ta là kẻ đáng thẹn trước mặt người
đàn bà bạc tình?". Nghĩ rồi, hình như chàng thấy lương tâm đáp hộ rằng:
Không. Đã thế thì Vân cứ việc nằm dài, ngạo mạn nhìn Loan chứ ngại gì nữa.
Ông bạn của Vân cứ nói mãi, khiến Loan đến táng đởm kinh hồn:
- Thưa bà, không phải tôi có ý tống tiền bà. Tôi chỉ muốn
giúp bạn tôi. Bà trông lại mà xem cái bộ mặt ghê gớm, xanh xao vì ả phù dung của
một kẻ thất vọng vì tình. Nếu bà đã chung tình, bạn tôi có đâu đến nỗi. Bây giờ
bạn tôi cần độ ba trăm bạc để tính đường buôn bán, mong bà giúp cho. Rồi bạn
tôi sẽ trả lại hết những bức thư xưa của bà. Tôi cũng mong không khi nào ông
Tham nhà phải lo phiền về những cuộc ái ân mà vợ ông ta đã trải cảnh... trước
khi về với ông.
- Thưa ông vâng. Cảm ơn ông đã cho gọi tôi đến nói rõ mọi
chuyện. Nhưng tiền không có ngay bây giờ, ông để đến chiều, tôi xin cầm sang.
Ông bạn của Vân cười gằn:
- Vâng, chiều mời bà sang cho. Mà xin bà nghĩ cho kỹ. Hay bà
có đi trình sở Liêm phóng thì để tôi dự bị làm vỡ chuyện một thể!
Bà Tham tái mặt, lắp bắp: "Có khi nào!" Rồi, trước
khi xuống thang, Loan quay lại nói với Vân: "Tôi không đời nào để cậu khổ
sở, cậu cứ yên tâm!".
Hai tay đút túi quần, người bạn của Vân lắc lư cái đầu, đi đi
lại lại, giọng nói tuy ôn tồn nhưng gằn từng tiếng một mà hăm doạ bà Tham:
- Giá bà đúng hẹn cho thì phải hơn. Tôi thật không ngờ!
- Thưa ông, ông cũng xét cho... Giữa lúc này, chạy được ba
trăm bạc nào phải chuyện dễ!
- Mỗi phút bà để chậm là một phút khổ cho bạn tôi.
- Thế mới khốn nạn cho tôi! Trời ơi! Làm thế nào có ngay bây
giờ?
- Bà thử ngó lại mà đoán bệnh trạng bạn tôi xem? Xin tùy bà.
Loan đưa mắt nhìn thì lúc đó Vân đang mải miết đọc lại một lá
thư. Mặt Vân cứ theo dòng trong thư mà mỗi lúc một thêm tươi tỉnh. Sau cùng, chợt
thấy Vân ngồi lên xua tay reo lớn: "Hãy khoan!" Cả hai người chưa kịp
hiểu ra sao, Vân đã lại thêm: "Thôi, không! Tôi không muốn bắt đền Loan nữa!
Đó là lỗi tại tôi, chỉ tại tôi mà thôi!".
Người bạn đạp mạnh một cái xuống bàn. Nhưng Vân cứ bình tĩnh
tiếp:
- Thật thế bác ạ. Đây để tôi đọc bác nghe lời lẽ trong một lá
thư của Loan...: "Muốn cho vẹn chữ yêu thương cùng nhau, tất phải có thể
tính với nhau cuộc trăm năm mới được. Hai gia đình chênh lệch như vậy, chắc
không khi nào mình lấy nổi tôi đâu. Vậy thì, thà ta không nên yêu nhau, mai sau
mới mong khỏi phải đau lòng. Tôi van mình, xin đừng đem chữ yêu thương ra cám dỗ
tôi, để tôi sa ngã, rồi mai sau biết đâu chẳng đến đau khổ...?" Đấy, bác
xem!... Có phải lỗi tại Loan đâu. Sở dĩ tôi thế này là vì thân làm tội đời,
mình làm mình chịu! Thôi, Loan ạ, anh xin lỗi em. Em cứ việc về.
- Thế này là nghĩa lý gì?
Không đáp lời, Vân ném cả tập thư vào lò sưởi.
- Trời ơi! Thằng điên! Mày đốt mất ba trăm bạc!
Người bạn kêu xong chạy lại lò sưởi nhưng Vân nhanh chân đã đứng
ngăn được. Bị bạn đẩy, Vân ôm xốc lấy bạn đè xuống giường, chờ lúc tập thư đã
ra tro cả mới đứng lên. Cáu quá, người bạn sửa lại tóc và cổ cồn quát:
- Đồ khốn nạn! Thế này rồi thì mày bước khỏi nhà tao!
Vân gượng cười:
- Tôi xin lỗi bác. Mà bác có mời tôi cũng không mặt nào dám ở.
- Mời anh cứ ở chơi. Nhà tôi dắt các cháu đi xem hát, khuya mới
về.
- Thôi, thế là đủ, chả còn chuyện gì nữa. Mình sung sướng là
tôi sung sướng. Thôi, tôi đi được an lòng.
Vân nói xong, hấp tấp lại cầm lấy va li. Loan vội đưa ra tập
giấy bạc.
- Ô hay! Thế là cái gì?
- Tiền, số tiền ba trăm. Lúc ấy tôi đã toan đưa ra song sợ chỉ
béo thằng cha ấy nên tôi tìm kế trì hoãn. Tôi vẫn nghi hoặc lắm, không lẽ mình
lại nỡ xử thế với tôi. Chắc chỉ cái thằng khốn nạn ấy xúi giục! Thế rồi khi
mình vứt thư vào lửa, tôi sung sướng vô cùng. Không phải vì khỏi mất tiền,
nhưng vì mình vẫn có lòng yêu tôi. Tôi lại toan đưa ngay tiền ra. Song chợt
nghĩ rằng như vậy chỉ béo thằng khốn nạn kia, tôi lại không đưa nữa. Bây giờ
tôi mới đưa mình, để mình hưởng riêng mà thôi. Cầm lấy!
- Không! Tôi không muốn lấy thế. Đối với bạn tôi, như vậy là
bất lương. Dù người ấy hết là bạn tôi, tôi cũng không muốn bất lương với người
ta. Ai nỡ mặt chó lấy tiền tiêu riêng một mình!
- Ôi, chà vẽ! Việc gì mà phải đạo đức thế! Anh muốn không bất
lương, nhưng em đã có lòng thành. Xin chớ phụ lòng thành của em.
- Không, Loan ạ, anh không đáng hưởng. Năm năm xưa, anh đã
yêu em. Bây giờ anh lại yêu em. Nhưng còn cái lúc gọi em sang tống tiền. Lúc
đó, anh đã định phụ em, làm hại em. Tại sao trước sau đã chẳng giữ vững một
lòng yêu mà thôi? Tại sao lại có phút điên rồ mà... đổ khốn? Do thế, anh tuyên
án cho anh không đáng được hưởng sự giúp đỡ của Loan chút nào.
- Thôi thì dù sao anh cũng đã biết hối hận rồi. Người biết hối
không đến nỗi là người bỏ. Anh cứ nhận cho. Loan van anh.
Vân ngần ngừ một lát rồi giơ tay nhận tiền.
Vân lừ lừ cầm va li vào, đến giường ngồi phịch xuống. Chàng
chờ xem bạn có thái độ thế nào, nhưng bạn chỉ ngồi im. Vân làm ra bộ chịu nhục:
- Bác ơi! Bây giờ bác đuổi tôi đi thì tôi biết đi đâu? Thôi,
bác tha thứ cho tôi, tôi sẽ kiếm cách đền bù bằng cách khác.
- Bác dại lắm! Ba trăm bạc đối với nó mùi gì?
- Khốn nỗi tôi không muốn bạc tình.
- Thì nó chung tình gì với bác?
- Nhưng mà tôi đã trót yêu. Yêu nghĩa là tha thứ. Muốn tỏ với
đời rằng mình cũng đáng có lòng yêu thì phải quân tử.
- Bác là thằng gàn!
- Thế bác có dung cho tôi được nhờ vả những ngày tàn ở đây nữa
không?
- Có gì mà chẳng được. Nghĩa là cùng lúc túng quẫn, anh em mới
phải xui nhau "làm tiền". Song bác đã muốn quân tử thì thôi. Còn lúc
nãy, lúc quá nóng vì tiếc tiền, tôi đã nói những điều gì thì bác bỏ ngoài tai
cho. Bác đi xong tôi hối quá. Tôi thấy tôi đê tiện. May sao bác lại quay trở lại.
Thôi, những việc xảy ra ta nên quên đi. Bác cứ ở đây với tôi, tôi sẽ nghĩ cách
khác làm tiền.
- Trời ơi! Làm thế nào cho có tiền bây giờ!
- Lúc nãy thì lại chả nhớ đến cái lo ấy.
- Tôi không thể nào cai được, bác ạ.
- Hay là hút? Còn hai hào đây! Dù khuya, tôi cũng xin đi đấm
cửa.
- Dễ tôi phải hút đến bốn hào!
- Thôi, chỉ còn hai thì hãy hút hai. Mai ta lại chạy vậy.
Vân nghe xong đứng lên vỗ vào vai bạn:
- Anh thật là người tri kỷ của tôi.
Đoạn Vân vất xuống chiếu tập giấy ba trăm đồng. Người bạn ngẩn
người ra nhìn, kinh ngạc đến nỗi không nói được nữa. Vân cười sằng sặc khoan
thai kéo điếu thuốc lào rồi mới cắt nghĩa cho bạn nghe:
- Anh không tinh chút nào. Cách tống tiền của anh chỉ tổ để
nó oán. Đằng này, tôi tống tiền mà nên ơn nên nghĩa, mà nó phải yêu thương kia.
Lúc bước vào, trông thần thái nó rất mạnh bạo, đứa không có tiền tất không thế
được. Nó trì hoãn vì nó căm những sự hằm hè của anh mà thôi. Lúc ấy, chả lẽ lạy
nó? Tôi mới đánh vào mặt cảm tình. Những lúc đọc thư, vứt thư vào lửa chỉ là
đóng kịch cả. Thế cho nên có tiền ngay đấy, đấy anh xem. Mà trước khi muốn để
anh cùng chung hưởng giàu sang, tôi còn về thử anh đã. Cũng may cho anh vẫn giữ
được lòng tốt nên mới có sự này. Nếu anh đểu cáng thì tôi đã đi ngay, hưởng
riêng một mình tôi. Chúng ta là tri kỷ với nhau: tuy anh thiếu khóe gian hùng,
song có lòng trung hậu gỡ lại. Mà phải nhớ rằng không phải ba trăm này mà thôi
đâu. Ta tống tiền nó nhưng nó vẫn phải thương yêu ta, có thế mới đáng làm việc...
không danh giá gì cho lắm. Bây giờ tôi lại hút. Hết tiền sẽ lại có tiền, có tiền
bằng cách không phải tống tiền! Vậy anh đã vui chưa?
Nói xong, Vân nằm xuống giường bắc tay ngang trán mà cười gằn,
cười cái cười chua chát, ý vị: khinh người và cũng tự bỉ mình.
Ăn mừng
Bữa nay cụ Phán Uyên, đã được hiểu rõ cái gì là cái vinh
quang, những đồ mừng quý giá, những tấm câu đối đỏ treo la liệt khắp tường, đã
đủ an ủi về số tiền bỏ ra. Cái cảnh "ăn uống ầm ầm" hai hôm nay không
khiến cụ sốt ruột nữa. Đọc những chữ chúc mừng rất văn chương bằng dạ đen trên
nền đỏ, cụ mới khám phá ra rằng: chao ôi thì ra mình xưa nay vẫn có nhiều đức
tính mà chính mình không biết, để mà sướng như một kẻ chết được lắm câu đối
khóc có thể được thỏa cái vong hồn... Thật là linh đình, và vui vẻ. Thật là
vinh dự cho tổ tiên.
Trong hai ngày ăn uống thì hôm qua để cho họ hàng và con cháu
trong nhà. Chính hôm nay mới là để mời khách ở tỉnh. Đây, bàn các bạn đồng sự của
cụ, phần nhiều là nhà nho, số đông đã có nhiều phẩm hàm, huy chương. Tô điểm
cho dăm đám người ấy có một quan Bố và một quan Phủ, họ bên nhà vợ của cụ, và
đã làm cho cụ tăng thêm sĩ diện. Kia là bàn các ông cũng tai to mặt nhớn thuộc
tân học, bạn hữu của "anh tham" nghĩa là vào hàng con cháu cụ mà
thôi. ở buồng xép bên cạnh thì các cô đốc, cô giáo, bạn hữu của con gái cụ vậy.
Ai cũng về dự tiệc vui vẻ và đông đủ. Thì phải biết cái cách xử thế xưa nay cụ
là tròn trĩnh thế nào! Một khi cụ đã về làng thì cũng phải thế nào cho đẹp mặt
với người làng! Khách tỉnh về tới tấp hết lượt này đến lượt khác, phần nhiều bằng
xe nhà, và có cả hai chiếc xe hơi đỗ ngoài cửa đình nữa! Nghĩ như thế, cụ lại kiêu
ngạo như một đứa bé con...
- Chúng mày đâu cả rồi! Rõ thế đấy! Ngần ấy con người để sai
bảo mà gọi lấy thêm có một ít dấm nữa cũng không đứa nào đi lấy được đấy!
Lời gắt của cụ lẫn lộn mất vào tiếng đàn, tiếng trống, tiếng
hát, tiếng phách... Cụ nhìn trước nhìn sau, lắc đầu thở dài... Vì có ba tên người
nhà thì hai đứa đương bưng những bát cỗ mới hâm cho những bàn ở xa, còn một đứa
thì đương chới với, buộc bánh pháo dài vào ống máng. Cụ toan tiến bước xuống
phía nhà bếp thì chợt một bàn tay nắm cụ lại, trước một câu nói sốt sắng thế
này:
- Cụ ơi, cụ hãy vào đây với con!
Đó là một khách trẻ tuổi, mà cụ không nhớ rõ tên, âu phục chải
chuốt khiến cụ kính nể lắm.
- Con tấp tểnh cũng làm được một bài hát để mừng cụ, chẳng biết
hay dở như thế nào, xong cũng xin mạn phép các quan khách đây một phen...
Người ấy mời cụ ngồi xuống ghế, đưa ra một bài thơ bằng mực
đen giấy trắng, lại nhét luôn cả cái dùi trống vào tay cụ nữa, nói tiếp:
- Bài hát mừng cụ thì xin cụ thưởng thức mấy tiếng trống cho
chúng con cùng nghe.
Thẹn quýnh cả người, cụ Phán Uyên đẩy cái trống ra, ấp úng:
- Văn chương của ông... thì xin... để phần ông, vì thật tình,
tôi cũng không biết đánh trống cô đầu.
Rồi cụ giương mục kỉnh lên đọc bài hát nói ấy; xong mỗi câu lại
thấy mặt cụ vui tươi thêm lên. Sau cùng, cũng không biết bình phẩm dài lời, cụ
chỉ đưa trả tác giả bài hát với cái dùi trống và từ chối:
- Hay lắm! Nhưng mà tiếc rằng tôi không biết đánh trống, để
xin ông cho nghe... Văn hay lắm!
Khi đưa cho đào nương mảnh giấy, cụ rất hổ thẹn, thấy rằng
mình quê mùa một cách đáng giận, và thú ả đào quả thật là một thứ văn chương
tao nhã thật, chứ không phải chỉ là những trò bậy bạ như người ta vẫn nói xưa
nay.
Cố nhiên, tác giả những câu hát nói kia nhất quyết chối từ.
Cuối cùng, danh dự thưởng văn về tay người cao chức nhất bàn tiệc, là quan Bố
Chánh, ông anh họ nhà vợ của cụ chủ. Quan Bố gọi cụ Phán đến ngồi bên mình, rót
một cốc rượu nhỏ để trước mặt cụ, giao hẹn bằng một thứ tiếng đồng sang sảng,
nghiêm nghị và đáng sợ như những lệnh ban ra giữa công đường:
- Đây, cứ mỗi tiếng chát thì ông lại cạn một cốc rượu, vì mỗi
tiếng chát của tôi không những là thưởng một câu văn mà thôi, nhưng còn đồng ý
với tác giả để ca tụng cái cảnh phú quý, an nhàn của ông nữa.
Mọi người vỗ tay, rồi có đến hàng mấy chục người nữa vỗ tay
theo. Bên buồng xép ở tận trong kia, đám phụ nữ cũng bỏ đũa bát để đứng thấp
thoáng trong mành nhìn ra, chú ý đến cái đại sự ấy nó làm tăng phần trang trọng
cho cuộc vui tuy vậy trước vẫn tẻ ngắt. Cụ Phán Uyên xoa tay xin lỗi một cách
hiền lành đáng tức cười:
- Bẩm, mỗi tiếng chát lại một cốc rượu thì có lẽ cũng nhiều
quá, vậy xin cho xong bài thì hãy cho một cốc.
Tuy có một vài cụ phản đối lại cụ phán để về bè với quan Bố
nhưng sau cùng các quý khách cũng biết nể cái sức khỏe của mái tóc hoa râm. Rồi
thì cô đào e hèm dọn giọng, rồi bác kép vặn lại dây đàn, rồi quan Bố tom tom
tom cho khách ngừng đũa lắng tai nghe để trở nên một cử toạ nghiêm chỉnh.
Cành mai hạc đậu thêm xinh,
Bốn mươi năm nữa, khang ninh còn dài,
Ngày xuân cảnh thế tươi cười,
Đào nguyên há để riêng người ngày xưa!
Gia nhân chinh cát,
Trên tiệc đào kẻ trước dắt người sau...
Cuộc trăm năm trời có hẹn ai đâu?
Con hạc trắng bấy lâu về bến Nhuệ,
Mai cốt cách mai già mai vẫn thế
Đào nhởn nhơ đào thắm vẻ thêm xuân.
Lắng tai nghe tiếng chúc lẫn cung đàn,
Cất chén cúc mừng người trên thọ tịch,
Khách bạch ốc nào ai tiên trích
Xin dang tay "giật phịch" quả đào tiên...
Cõi trần cũng có Đào nguyên.
Quan Bố ngất ngưởng đánh luôn: tom tom tom chát tom!
Đoạn cụ gật gù nói rõ to:
- Hay thật đấy chứ! Văn chương như thế mới gọi là tân thời...
"Xin dang tay giật phịch quả đào tiên". Thế có lẳng lơ không? Chuyến
này thì cụ phán nhà tôi sẽ vì câu thơ ấy mà cải lão hoàn đồng!
Quan Bố ngừng một lát, trông trước nhìn sau, rồi vẫy tay gọi
một cô trong bốn cô đào rượu mải tiếp cho các quan khác gần đấy:
- Này, cô kia! Cô áo đỏ kia! Lại đây đỡ hộ chén rượu cho chủ
nhân cạn hộ đi.
Khi cô đào trẻ tuổi đến đứng bên cụ phán, bẽn lẽn nâng cốc rượu
thì nhanh như cắt, quan Bố đã nắm lấy một bên cánh tay cụ phán mà quệt một cái
vào ngực cô ả, để rồi cười nức nở cắt nghĩa:
- Này thì đây: xin dang tay giật phịch quả đào tiên! Các ngài
đã thấy chưa?
Lúc ấy cụ Phán Uyên đương mải hớp chén rượu, cho nên khi cụ vội
lôi được tay ra, cái cử chỉ bó buộc kia cũng đã xong hoàn toàn. Cụ thẹn đỏ cả mặt,
sung sướng, đến ứa nước mắt, vì lúc ấy, cử toạ khen cụ sốt sắng như khi họ đi
xem đá bóng mà gặp lúc có quả vừa sút vào gôn. Cụ vội vàng đứng lên chạy tuy
không biết định chạy đi đâu, như người muốn đi trốn. Sau cùng, cụ đánh trống lảng
bằng cách gọi đầy tớ ra mà mắng:
- Lấy thêm ít dấm tây vào bàn này! Sao mày đốn thế, mày để
tao gào rát cả cổ!
Tuy nhiên giọng gắt của cụ thật tình lúc ấy cũng không dữ tợn
là mấy, vì cụ vẫn còn thấy rõ cái cảm giác dịu dàng về một bên ngực cô đào trẻ
nó chưa tiêu tan hẳn mà lại còn như đọng quyện lại ở cả năm đầu ngón tay già
nua đã mấy chục năm rồi chẳng còn biết gì là mùi xuân.
Chợt thấy quan Phủ gọi cụ rồi nói một hồi dài:
- Này chủ nhân ơi! Nhà nho là thâm lắm đấy nhé! Thôi xin các
ngài cũng đừng ai nỡ ép duyên ông anh tôi nữa. Ông anh tôi đã trình bày cái cảnh
ngộ éo le, khó xử, của ông anh tôi, ra với thiên hạ rồi! Đấy các cụ xem: quan Bố
tôi vừa mới ép duyên xong thì ông anh tôi tức khắc gọi người nhà lấy thêm dấm.
Chao ôi, thế thì ông anh tôi đã đủ thâm trầm hay chưa? Vì rằng trong Kiều có
câu: Dấm chua lại tội bằng ba lửa nồng!
Rất nhiều người lại vỗ tay ran, cười to đến vỡ nhà vỡ cửa. Một
cụ bảo cô đào non áo đỏ:
- Này em ơi, thôi thế thì em cứ cam chịu ở trầm luân khổ hải
thôi chứ người quân tử chẳng vớt em đâu!
Một người trẻ tuổi đứng lên nói:
- Thưa các cụ trăm điều chẳng qua chỉ tại tác giả cái bài hát
nói ấy.
Ông khách âu phục trẻ tuổi từ nãy ngồi lặng im vừa thẹn vừa
kiêu ngạo về cái bài văn của mình, đương lắng tai nghe xem có ai thì thào chỉ
trích gì không, bấy giờ đành phải đứng lên, đón đỡ:
- Bẩm các cụ, chúng tôi không ngờ rằng cụ Bố tôi đây ngài lại
hiểu bài văn ấy một cách kỹ đến thế để mà đem lý thuyết thực hành ngay như thế.
Quan Bố cười khà khà, lên râu bảo thiếu niên:
- Thế thì đôi ta tri kỷ lắm chứ còn gì nữa! à quên, xin các cụ
thưởng một cốc cho tác giả bài văn hữu tình. Chị áo đỏ đâu, chị lại mời ông ấy
cho tôi một cốc nữa.
Lại vỗ tay...
Nhưng chợt một ông khác, cũng trẻ tuổi, mặt đỏ nhất tất cả, đứng
lên trịnh trọng nói:
- Bẩm trên các cụ, dưới các ông...
Mọi người giật mình lắng tai nghe biết là sắp có chuyện. Ông
kia tiếp:
- Quan Bố chánh thưởng tác giả bài hát nói ấy cốc rượu là vì
nó có tính cách hữu tình. Tôi cũng xin hoan nghênh. Nhưng mà xong rồi thì tôi
xin các cụ và các ông cho tôi phạt nhà thi sĩ ấy ba chén vì đó là một nhà thi
sĩ tham lam! Vì sao? Vì cụ phán nhà tôi đây bữa nay chỉ có khánh thành nhà mới
thôi, vậy mà bài hát mừng có câu mừng cả tiệc thượng thọ nữa, thì, cái lối
"tiện dịp" như thế là có hại cho tôi, vì sang năm đúng sáu mươi mà cụ
phán tôi không khao thượng thọ nữa thì là lỗi ở nhà thi sĩ ấy. Vậy thì phải phạt.
Tác giả bài hát nhìn quanh một lượt thấy trong dăm chục quan
khách có một số đông gật gù biểu đồng tình với ông phản đối kia, thì rất lấy
làm lo, bèn cãi:
- Tôi xin uống ba chén rượu ông phạt! Nhưng nếu sang năm cụ
Phán tôi lại khao thượng thọ nữa, thì ông sẽ đáp tôi ra sao? Và có lẽ ông chưa
nghe kỹ bài hát!
Ông kia gân cổ lên, hùng hồn chẳng kém:
- Tôi cho ông phạt trước tôi ba chén nữa, sau khi ông uống ba
chén mà các cụ phạt ông!
Nhiều người lên tiếng xôn xao, không chịu nhận trách nhiệm về
ba chén rượu phạt ấy, ông kia lại nói:
- Sao tôi lại chưa nghe kỹ! Ông chả có câu: "Cất chén
chúc mừng người trên thọ tịch" là gì! Vậy ông thử đọc tất cả câu đối đây
xem có ai mừng thọ tịch không?
Có một người cãi hộ:
- Nhưng mà thọ tịch ở đây là ý phụ không phải ý chính!
Tham Châu vỗ vai ông kia, khẽ gắt:
- Thôi đi, tôi van ông nữa, ông đừng gây sự thế! Ông say lắm
rồi! Và ông uống ít chứ!
- Thưa chú, tôi chưa say, và trước mặt công chúng thế này,
xin chú đừng mắng tôi! Chú còn là đàn em biết chưa!
Ông ấy vừa nói được có thế thì đã đưa tay lên giữ cổ, khòm
lưng xuống, rồi nôn ồng ộc ngay ra đấy như một cái ống máng! Thiên hạ ghê tởm
quay nhìn đi chỗ khác và nhà thi sĩ thì khẽ so vai một cái hả hê. Đầy tớ mau
quét dọn, trong khi Tham Châu nhăn nhó ôm xốc ông quý khách ấy vào bàn đèn thuốc
phiện:
- Các ông mau tiêm cho ông ấy một điếu cho giã rượu... Rõ khổ
quá, cứ uống như một cái phễu!.
1939
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét