Lãm Thúy, với những nỗi
Tôi nhận tập thơ của nhà thơ nữ Lãm
Thúy do anh Trần Hoài Thư gởi đến tặng, theo lời tác giả. Tập thơ đến
vào giữa mùa đông Hoa kỳ. Ngoài trời tuyết rơi trắng xóa trên những mái nhà,
trên những con đường. Thời tiết lạnh cóng dưới không độ. Ngồi nhà đọc thơ còn
gì thú hơn!
Trong bài: Tàn Thu nơi trang đầu của tập thơ, Lãm
Thúy viết:...
“Hàng cây trơ cành. Đợi
Mùa đông phủ tuyết lên
Nhánh khô gầy yếu đuối
Lặng lẽ chờ oan khiên...”
Bốn câu thơ trên đã gợi lên cho tôi một ấn tượng. Mùa đông.
Vâng. Mùa đông đang đến giữa cái băng giá của tuyết, của đá (icy) đóng trên những
cành cây trụi lá. Tàn Thu của Lãm Thúy không có con nai vàng ngơ
ngác, đạp trên lá vàng khô (ở quê nhà) mà một thời ai cũng thuộc “mùa
thu” của nhà thơ tiền chiến Lưu Trọng Lư. Ở đây Lãm Thúy không có con nai vàng
ngơ ngác... mà có những nhánh khô gầy, yếu đuối, buồn thảm... Và, lặng lẽ chờ
oan khiên (ảm đạm). Theo tôi: lá rụng, đó là một hệ sinh thái tự nhiên của đất
trời. Lá rụng, không có nghĩa là tự hủy diệt, mà vẫn còn đó qua một trạng thái
khác để nuôi cây. Rồi lá vẫn xanh trên cành (mùa xuân), vẫn khô gầy, yếu đuối (mùa đông). Để rồi, trong bốn câu cuối của bài Tàn Thu:
“Dẫu trời im đứng gió
Đời không hẹn bình yên
Lá khô từ thiên cổ
Tàn thu. Sầu mênh mông...”
“Tàn Thu” là bài thơ đầu trong tập “Còn Nguyên Nỗi Ngậm Ngùi”
đã “hấp dẫn” để tôi đọc tiếp những bài thơ khác trong thi tập của nhà thơ Lãm
Thúy.
Ở trang sau của bìa sách, tác giả ghi vài dòng tiểu sử thật
giản dị. Nhưng cũng đủ để cho người đọc biết được một phần đời của tác giả.
Sinh tại Nhơn Ái, Phong Điền, Cần Thơ. Tốt nghiệp Đại học Sư
phạm Cần thơ. Định cư tại Mỹ năm 1992. Biết được một ít thông tin về thân thế của
nhà thơ nữ này, đọc tiếp nơi trang Lời ngỏ tác gỉa ghi: “Lãm
Thúy làm thơ, tức là dàn trãi tâm hồn mình, diễn tả những cảm xúc, những rung động
với cái buồn, cái đẹp, nỗi yêu đương bằng chính những gì thành thực trong trái
tim và thường là nghĩ sao viết vậy, không sửa đổi, không trao chuốt; vì thế chắc
là thiếu phần tinh xảo và đặc sắc...”
Đó là những gì tôi đọc được trong “lời ngỏ” của thi tập.
Nhưng, càng đi sâu vào những trang thơ của tập thơ, có lẽ đây cũng chỉ là những
lời “khiêm tốn” đáng trân trọng của một nhà thơ nữ, có lẽ mới in tập thơ đầu
tay này?
Nói về nhà thơ nữ ở hải ngoại cũng khá nhiều. Nhưng
tìm được những bài thơ hay, phải nói là hiếm. Thơ hay, dễ làm cho đọc giả dễ nhớ
hơn là những bài thơ dỡ. Điều nầy, rõ ràng như một quy luật dành cho
người đọc thơ và thích thơ. Nhưng với tập thơ “Còn Nguyên Nỗi Ngậm Ngùi” của
Lãm Thúy thì chưa có bài thơ nào làm tôi chán, khi đọc.
Với 124 bài thơ nằm gọn trong 153 trang. Có bài dài hai
trang. Nhưng số nhiều, những bài thơ chỉ “ gói trọn” trong một trang. Ngắn. Dễ
đọc. Đúng như những gì nhà thơ Lãm Thúy đã viết trong “lời ngỏ”: nghĩ sao
viết vậy, không sữa đổi, không trao chuốt... Nhưng xuyên suốt 124 bài thơ
tôi đọc, ít ra cũng “gây một cảm xúc mạnh” đối với người đọc khó tính, khi đọc
thơ Lãm Thúy.
Có những bài thơ Lãm Thúy viết như một hoài niệm của những
ngày còn ở quê nhà (chiếm khoảng 1/3 của tập thơ). Nỗi hoài niệm rất dễ thương ở
những cô “ nữ sinh áo trắng” làm thơ học trò, dễ yêu và dễ nhớ. Hoài niệm về một
vùng quê sông nước mênh mông, hoài niệm về tình yêu...
“Nhớ thuở xuôi thuyền qua đó
Rộn ràng mặt nước, bến sông
Thơ ngây lòng vui hớn hở
Nhớ gì đò dọc hoài công!
Chiều xưa bên vườn thinh vắng
Bồi hồi chẳng biết thu đông
Có cô học trò áo trắng
Về qua, xuân hạ vô cùng...
Chiều nay về ngang bến cũ
Một trời Phước Nhơn bùi ngùi
Chẳng biết cây bằng lăng ấy
Còn hoa tím nữa hay thôi?..”
(Còn hoa tím nữa hay thôi?)
Nỗi hoài niệm về một vùng quê sông nước Phong Điền chằng chịt
những kênh rạch, những vườn cây trái xum xuê, những con người với tâm hồn cởi mở,
giàu lòng thương người... trong xóm làng, hay trên chợ nổi Phong Điền đã ảnh hưởng
đến cuộc sống của nhà thơ trên một vùng sông nước Hậu giang. Cho dù ở một
phương trời nào, thì dòng sông Hậu cũng vẫn là nhịp thở trong cuộc sống hằng
ngày của tác giả.
“Nghìn thu bến cũ chưa nhòa
Hậu giang ơi, bóng con đò chờ mong
Một đời người, một dòng sông
Hậu giang còn mãi giữa lòng hoài hương”
(Bến Cũ)
Dòng sông. Trong mỗi con người đều có một dòng sông để nhớ.
Có lẽ, nhà thơ Lãm Thúy cũng không thoát ra khỏi cái quy luật ấy, nhất là với một
người con gái đã mang trong mình một “tâm hồn thơ”. Cho nên, dù ở đâu thì cũng
về thôi. Về lại cái xứ sở thân yêu mà người thơ đã lớn. Về lại bên bờ con sông
cũ để xem hoa bằng lăng tím có còn nở bên bến sông xưa? Về đề nghe điệu hò trên
sông nước mênh mông, hay nghe lại điệu đờn ca tài tử trong lòng người dân thôn
xóm đã nuôi nhà thơ lớn lên từ trong tiếng đờn, tiếng hát ấy. Về thôi. Với những
câu thơ nặng tình, nặng nghĩa:...
“Về thôi, trăng úa lâu rồi
Về thôi, mòn mỏi lắm, người chờ mong
Về thôi, sầu đã thành dòng
Về thôi, gió đã lạnh lùng từ lâu.
(Về Thôi)
Hay trong bài “Nỗi Nhớ” Lãm Thúy đã bộc bạch một cách
rõ ràng tâm trạng của một người xa quê. Có lẽ nỗi nhớ của Lãm Thúy, cũng là nỗi
nhớ chung của chúng ta khi phải lìa bỏ dòng sông, bến cũ. Mà, với những con chữ
trong câu đầu của bài “Nỗi Nhớ” ta đã thấy nỗi nhớ đã réo lên trong máu huyết của
nhà thơ qua những cái phẩy ngắt câu thật dứt khoát, rõ ràng: vô cùng, vô tận,
vô biên. Cái gì vô cùng, vô tận, vô biên... Nhớ. Ta đọc bài Nỗi
Nhớ để thấy tấm lòng của Lãm Thúy:
“Vô cùng, vô tận, vô biên
Nỗi thương nhớ gởi về em, quê nhà
Mênh mông, bát ngát, bao la
Nỗi buồn gậm nhấm hồn ta từng ngày
Mà không, từng phút, từng giây
Vọng phương ấy, một phương này vời trông
Ai đâu cách mặt xa lòng
Sao ta lại thấy nghìn trùng mến thương
Một lòng hoài vọng cố hương
Trong tim vời vợi nỗi buồn tha phương
Còn xanh lá những con đường
Hoa cau, hoa bưởi sau vườn còn thơm?
Con đò neo bến chiều hôm
Còn nghe tiếng gọi bên vàm sông xưa?
Còn xa quê nữa, mấy mùa?
Còn hồi tưởng mấy cho vừa nhớ nhung
Cô đơn, trơ trọi, lạnh lùng
Nơi đây có một người không linh hồn.
Đấy, nỗi nhớ quê của Lãm Thúy mảnh liệt như thế đó. Đọc, tôi
khoái 4 câu thơ: còn xanh lá những con đường/ Hoa cau, hoa bưởi sau vườn
còn thơm?/ Con đò neo bến chiều hôm/ Còn nghe tiếng gọi bên vàm sông
xưa? Những câu lục bát như bức tranh thủy mạc mà Lãm Thúy đã vẽ lên, gây
cho người xem một cảm giác tươi mát, mà chỉ có làng quê sông nước Việt Nam mới
có. Tôi đoan chắc như thế. Trên xứ người làm sao mà nghe được mùi thơm của hoa
bưởi, hoa cau trong vườn? Làm sao mà nhìn thấy bóng con đò neo bến chiều hôm?
Làm sao mà nghe được tiếng gọi đò bên vàm sông cũ? Chỉ có làng quê
Việt mới có những hình ảnh ấy. Mà, sao lạ, hình ảnh đó nó quây quắt chẳng những
trong tâm thức của tác giả mà còn cả đến người đọc bài thơ này. Với những ngắt
câu bằng những dấu phẩy rõ rệt làm tăng thêm nỗi nhớ quê lạ lùng.
Tôi vốn là một người mê giáo lý của Phật Đà. Cho nên, khi tiếp
nhận tập thơ của Lãm Thúy, rõ ràng: có một sự đồng thuận ngay với tôi trong suốt
tập thơ Còn Nguyên Nỗi Ngậm Ngùi này; vì hầu như bài nào cũng có mang ít nhiều
giáo lý của Phật Đà trong đó. Có điều phải nói vì Lãm Thúy là nhà thơ nữ, cho
nên, vẫn không thoát ra khỏi nỗi lo âu rất là con gái khi nghĩ đến những người
thân của mình, dù biết: tất cả đều là huyễn trong cuộc sống. Cho dù trong cuộc
sống hôm nay, ngoài những công việc đa đoan hàng ngày của người phụ nữ trong
gia đình phải làm (chăm sóc cho chồng, cho con). Đó là một bản năng
rất quý của người phụ nữ Việt. Nhưng với nhà thơ, hình như tất cả có
một cái gì đó “tự nguyện” trả cho nhau “món nợ đời”. Biết đâu trong muôn ngàn
kiếp trước đã buộc vào nhau? Và, trong kiếp nhân sinh tạm bợ này, Lãm Thúy đã
nhìn thấy, đã biết... Và, cũng từ hai chữ “nhân duyên” ấy, mà nhà thơ cũng đi
cho hết cuộc đời: nhân duyên cột chặt không đành dứt .
Tuy nhiên với sự rung động từ một trái tim của người làm thơ
là nữ giới... thì sự lo âu cho những người thân làm sao tránh khỏi những phút
giây... mà trong bài thơ Bước Qua Cõi Chết nhà thơ đã viết lên những
dòng thơ sau. Dù đã biết:
“Biết rồi: sinh ký tử quy
Sống là cõi tạm, chết về thiên thu
Biết rồi cuộc thế phù du
Mất, còn cũng tựa chút mù sương tan...
Nhưng sau đó, Lãm Thúy lại viết:
Một lần, ai cũng qua cầu mà thôi
Nhưng ta mới quá nửa đời
Bước đi chưa nỡ, chân rời còn vương”
Hai câu thơ: Nhưng ta mới quá nửa đời/ Bước đi chưa nỡ,
chân rời còn vương. Đó là cái ý niệm chung của kiếp nhân sinh. Có ai mà không
muốn sống; dù cuộc sống ấy có thế nào? Khổ đau, bịnh tật? Nhưng, qua những câu
thơ năm chữ dưới đây, ta thấy Lãm Thúy đã xác định cho mình một khái niệm rất
rõ ràng trong cuộc sống:
“Người niệm chú từ bi
Có nghe lòng thanh tịnh?
Ta làm thơ tình si
Vẫn thừa niềm thành kính”
“Ta làm thơ tình si” mà Lãm Thúy đã viết ở trên, trong thi tập
ta thấy tình si của Lãm Thúy không là tình “lứa đôi, trai gái”. Mà tình si ấy
là: hoa, lá, muôn thú và con người. Niềm an lạc chung đó đã đưa nhà thơ đến rất
gần giáo lý Phật Đà rồi. Cho nên: cầu cho người an lạc/ Hồn thấy chốn vĩnh
hằng.
Rõ ràng, trong những con chữ, trong những câu thơ của Lãm
Thúy không cầu kỳ, không ẩn chứa nhiều mỹ ngữ như nhiều nhà thơ khác. Giản dị
trên những con chữ và giản dị trong tâm hồn của người thơ (có lẽ). Cho nên khi
đọc bài: Thiện Tai. Tôi nghĩ về sự suy nghĩ của tôi về nhà thơ nữ
này: giản dị về tâm hồn, và nhất là “đầy ấp Phật Tính, ngay cả trong giấc ngủ:
“Nghe anh, em lánh sự đời
Đêm ôm sách Phật ngủ vùi. Thiện tâm
Nghe trăng ghé lại chỗ nằm
“Nguyệt lai môn hạ...” Hỏi thầm: “nhàn chưa?”
Lòng trần gột rửa bợn nhơ
Bỏ miền tục lụy, tìm bờ giác, qua
Vẫn thương người hơn thương ta
Trấn an. Em nhủ: chắc là thiện căn
“Vẫn thương người hơn thương ta” đó là một trong muôn nghìn
giáo lý của Phật Đà. Nhưng, với bốn câu thơ đầu, tôi nghe như vẫn có cái gì đó:
nghịch lý (với tôi) có phải thế không nhà thơ?.
Dù sao, khi đọc xong tập thơ: Còn Nguyên Nỗi Ngậm Ngùi của
nhà thơ Lãm Thúy, tôi có thể hình dung ra ngay được con người của
nhà thơ (ít nhiều). Ngoài cái giản dị, chân chất trong những bài thơ, những
câu thơ ra, tôi nghĩ Lãm Thúy chưa “Tịnh” nỗi; vì “Tâm” còn “Động” ghê gớm với
“Đời”. Bởi:
“Thì em vậy đó: Tâm chưa tịnh
Lòng trần: Aí, ố vẫn còn nguyên”
Đã là con người làm sao tránh khỏi được cái “tham, sân, si”
của cuộc đời này. Nó như một ma lực cám dỗ. Nhưng, tôi lại chịu câu thơ
này: lúc khổ cũng mơ thuyền Bát Nhã.Và: vẫn thương người hơn thương
ta thì Lãm Thúy, có lẽ, tránh được những “ái, ố” tầm thường trong kiếp
nhân sinh để trong lòng nhà thơ lúc nào cũng “âm ỉ lửa hoan bi”.
Tóm lại, đây là một tập thơ dễ đọc, dễ thương, dễ gây trong
lòng độc giả một “ấn tượng” qua những ý, những lời thơ “mộc mạc” về quê hương,
về con người, về kiếp sống... Nhưng lại dễ đi vào lòng người.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét