Thứ Sáu, 3 tháng 4, 2020

Tam quốc chí diễn nghĩa 8

Tam quốc chí diễn nghĩa 8
Hồi 43:
Gia Cát Lượng khua lưỡi bẻ bọn nho
Lỗ Tử Kính dùng sức bác lời chúng
Lỗ Túc và Khổng Minh từ biệt Huyền Đức. Lưu Kỳ, xuống thuyền đến quận Sài Tang. Hai người ngồi trong thuyền nói chuyện. Lỗ Túc dặn Khổng Minh rằng:
- Tiên sinh có vào ra mắt Tôn tướng quân, thì đừng nói thật bên Tào Tháo lắm quân nhiều tướng nhé!
Khổng Minh nói:
- Điều ấy Tử Kính không phải dặn. Tôi sẽ liệu lời đối đáp.
Khi thuyền cập bến, Túc mời Khổng Minh về nghỉ trong nhà khách, rồi thân vào gặp Tôn Quyền trước. Quyền đương họp các quan văn võ ở trong triều bàn việc, nghe tin Lỗ Túc về, gọi ngay vào, hỏi:
- Tử Kính sang Giang Hạ thấy hiện tình thế nào?
Túc đáp:
- Cũng đã biết được ít nhiều, xin để thư thả sẽ thưa.
Quyền đưa tờ hịch của Tào Tháo cho Túc xem và bảo rằng:
- Hôm nọ Tào Tháo sai sứ đưa hịch đến đây, ta đã cho sứ quay về. Nay đương bàn việc ấy với các quan chưa xong.
Túc lấy tờ hịch xem. Trong hịch nói đại khái như sau:
“Ta phụng mệnh vua, đánh kẻ có tội. Cờ trỏ về nam, Lưu Tôn phải bó tay, dân Kinh Tương nghe thấy tin, răm rắp hàng phục. Nay thống lĩnh trăm vạn hùng binh, nghìn viên thượng tướng, muốn cùng với tướng quân họp săn ở Giang Hạ, để đánh Lưu Bị, cùng chia đất đai, giao hảo với nhau mãi mãi. Xin đừng ngờ vực, trả lời ngay cho”.
Lỗ Túc xem xong, hỏi:
- Ý chúa công thế nào?
Quyền nói:
- Ta cũng chưa quyết định.
Trương Chiêu nói:
- Tào Tháo thống lĩnh quân trăm vạn, mượn tiếng thiên tử, đánh dẹp bốn phương, mình chống cự lại thì là nghịch. Vả lại chỗ dựa của chúa công để chống với Tào Tháo là sông Trường Giang. Nay Tháo đã lấy được Kinh Châu, ta không còn độc chiếm cái thế hiểm trở của con sông đó rồi, khó địch được nữa. Vậy, cứ ý tôi, đầu hàng là kế vẹn toàn.
Các mưu sĩ đều nói:
- Lời Tử Bố chính hợp lòng trời!
Tôn Quyền ngồi ngần ngừ không nói.
Trương Chiêu lại tiếp:
- Chúa công không nên nghi ngại gì nữa. Nếu hàng Tào thì dân Đông Ngô được yên, mà sáu quận Giang Nam cũng giữ được.
Tôn Quyền vẫn cúi đầu không nói gì.
Một lát Quyền đứng dậy, thay áo. Lỗ Túc theo sau, Quyền biết ý cầm tay Túc hỏi rằng:
- Ý ông thế nào?
Túc nói:
- Vừa rồi, bọn họ nói như thế, là không hiểu bụng tướng quân. Mọi người, ai cũng có thể hàng Tào Tháo được, duy có tướng quân thì không hàng được.
Quyền hỏi:
- Sao vậy?
Túc nói:
- Như Lỗ Túc này mà hàng, thì Tháo phong cho làm quan, áo gấm về làng, mà cũng không phải mất đất đai gì cả. Tướng quân mà hàng Tào thì về đâu? Chức tước bất quá phong hầu là cùng, xe một cỗ, ngựa một con, đầy tớ vài ba người, muốn ngồi ngoảnh mặt về nam mà xưng cô[1] có còn được nữa không? Xem như thế, ý họ ai cũng chỉ biết thân người nấy mà thôi, có nghĩ gì đến chủ đâu! Xin tướng quân chớ nghe, nên sớm định kế lớn.
Quyền than rằng:
- Ta nghe họ nghị luận thật là thất vọng. Tử Kính mới ngỏ kế lớn, chính hợp ý với ta. Quả thật trời đem Tử Kính cho ta đó! Nhưng Tháo mới được quân Viên Thiệu, gần đây lại được quân Kinh Châu, thế lớn lắm, ta sợ địch không nổi.
Túc nói:
- Tôi vừa sang Giang Hạ, đem được em Gia Cát Cẩn là Gia Cát Lượng về đây, chúa công nên gọi vào hỏi, sẽ biết tình hình thế nào.
Tôn Quyền hỏi:
- Ngoạ Long tiên sinh có ở đây à?
Túc nói:
- Hiện đương nghỉ ở ngoài nhà khách.
Quyền nói:
- Hôm nay đã tối rồi, đừng cho vào gặp vội. Để ngày mai họp cả văn võ dưới trướng, trước hết cho gặp các tay anh tuấn Giang Đông đã, rồi sẽ mời lên triều đường bàn việc.
Túc nhận mệnh trở ra. Hôm sau Túc vào nhà khách, ra mắt Khổng Minh, lại dặn rằng:
- Hôm nay ông vào gặp chủ tôi, xin chớ nói Tào Tháo nhiều binh lắm tướng.
Khổng Minh cười, đáp rằng:
- Tôi sẽ tuỳ cơ mà liệu, không để lỡ việc đâu!
Túc mới dẫn Khổng Minh đến dưới trướng, đã thấy bọn Trương Chiêu, Cố Ung, toàn ban văn võ hơn hai chục người, mũ cao đai rộng, y phục chỉnh tề, ngồi có thứ tự rồi, Khổng Minh chào hỏi từng người, thông tính danh đâu đấy, rồi đến ngồi trên ghế tân khách.
Bọn Trương Chiêu thấy Khổng Minh phong thái đàng hoàng, tự nhiên, độ lượng, khảng khái, biết rằng người này tất là người đi thuyết khách. Trương Chiêu mới gợi trước rằng:
- Chiêu tôi là một kẻ học trò ngu hèn bên Giang Đông, lâu nay vẫn được nghe tiếng tiên sinh nằm khểnh trong Long Trung, ví mình với Quản Trọng, Nhạc Nghị, lời ấy chẳng biết thực hay hư?
Khổng Minh đáp:
- Phải. Lượng tôi cũng có hợm mình mà ví thế.
Chiêu lại nói:
- Mới đây, tôi mới nghe Lưu Dự Châu ba lần cầu đến tiên sinh ở trong lều tranh, may được tiên sinh như cá được nước, những toan thu sạch cả Kinh Tương, thế mà nay chỉ có một buổi sáng mà về tay Tào Tháo hết; chẳng hay ông thế nào?
Khổng Minh nghĩ thầm rằng:
- Trương Chiêu là tay mưu sĩ bậc nhất của Tôn Quyền, nếu mình không áp đảo được hắn thì sao thuyết phục được Tôn Quyền?
Bèn đáp rằng:
- Kẻ lấy đất Hán Thượng, ta coi dễ như trở bàn tay, hiềm vì chủ ta là Lưu Dự Châu, muốn làm điều nhân nghĩa, không nỡ cướp cơ nghiệp của người đồng tông, cho nên nhất định không lấy. Lưu Tôn là một đứa trẻ thơ, tin nghe lời nịnh, bí mật hàng Tào, cho nên mới để cho Tào Tháo ngông cuồng. Nay chủ ta đóng quân ở Giang Hạ, sẽ có kế khác, những kẻ tầm thường có hiểu sao được?
Chiêu nói:
- Nếu thế thì tiên sinh lời nói không đi đôi với việc làm rồi. Tiên sinh đã ví mình với Quản Trọng, Nhạc Nghị, mà Quản Trọng ngày xưa giúp Hoàn công trị được chư hầu, định được thiên hạ; Nhạc Nghị ngày xưa giúp nước Yên đương suy yếu mà hạ được hơn bảy mươi thành nước Tề. Hai người ấy thực là có tài tế thế. Tiên sinh thì trước ở trong lều tranh, chỉ cười phong cợt nguyệt, xếp gối ngồi cao; Nay đã theo Lưu Dự Châu, thì phải vì dân mà mưu điều lợi, bỏ điều hại, dẹp trừ kẻ loạn tặc mới phải chứ! Vả khi tôi xem Lưu Dự Châu chưa được tiên sinh, ai cũng mong ngóng, đến đứa trẻ con cũng cho đó là hổ sinh cánh, nhà Hán sắp sửa lại hưng, họ Tào sắp đổ. Cựu thần trong triều đình, ẩn sĩ nơi rừng rú, ai cũng lau mắt chờ xem, tưởng là tiên sinh với Lưu Dự Châu, sắp xua tan mây mù trên trời cao, để cho thiên hạ lại được nhìn thấy ánh sáng mặt trời mặt trăng; cứu vớt dân ra khỏi cơn nước lửa, giúp đỡ thiên hạ yên ổn làm ăn, chính là lúc này vậy. Ai ngờ từ khi tiên sinh về với Dự Châu, quân Tào mới đến, đã bỏ giáp quẳng gươm, trông thấy bóng là chạy; trên không báo được Lưu Biểu, để yên thứ dân; dưới lại chẳng giúp được con côi, giữ lấy bờ cõi, bỏ Tân Dã, chạy khỏi Phàn Thành; thua Đương Dương, chạy ra Hạ Khẩu, chẳng có lấy một chỗ dung thân. Thế chẳng hoá ra Dự Châu từ khi được tiên sinh lại không bằng trước ư? Quản Trọng, Nhạc Nghị chắc cũng như thế đó ư? Đó là mấy lời quê kệch, xin tiên sinh đừng chấp.
Khổng Minh nghe xong, cười ha hả mà rằng:
- Cái chí khí của chim bằng, các loại chim há biết được sao? Ví như người bệnh nặng, trước hết phải cho uống nước cơm, nước cháo, thuốc thang; lúc nào phủ tạng điều hoà, thân thể hồi phục, bấy giờ mới cho bổ bằng cá thịt, trị bằng thuốc mạnh, thì gốc bệnh mới tiệt, sinh mệnh mới an toàn. Nếu bệnh còn nặng, phủ tạng còn yếu, đã trị ngay bằng thuốc mạnh, bổ ngay bằng vị ngon, thì khó lòng chữa khỏi được. Chủ ta, trước thua ở Nhữ Nam, đến nhờ Lưu Biểu, quân không đầy một nghìn, tướng chỉ có Quan, Trương, Triệu chính là lúc bệnh đang nguy ngập. Tân Dã là một huyện nhỏ, hẻo lánh, dân cư thưa thớt, lương thực ít ỏi, chủ ta chẳng qua đến nương tạm đó mà thôi, có phải muốn khư khư ngồi giữ cái xó ấy đâu? Trong hoàn cảnh quân sĩ không sẵn, thành quách không bền, quân không luyện tập, chạy ăn từng bữa, thế mà lửa cháy Bác Vọng, nước ngập Bạch Hạ, khiến bọn Hà Hầu Đôn, Tào Nhân phải lòng run mật vỡ; thiết tưởng Quản Trọng, Nhạc Nghị dùng binh cũng vị tất đã hơn gì! Đến như Lưu Tôn hàng Tào, Dự Châu hoàn toàn không biết; vả lại, không nỡ nhân lúc loạn mà cướp lấy cơ nghiệp người đồng tông. Thật là đại nhân, đại nghĩa! Còn trận thua ở Đương Dương, vì có vài vạn dân, già trẻ dắt díu nhau đi theo, không nỡ bỏ, nên mỗi ngày chỉ đi được mười dặm, không thiết đến lấy Giang Lăng, cam chịu thất bại, ấy cũng là đại nhân đại nghĩa vậy. Còn như ít không địch được nhiều, thì được thua chỉ là việc thường thôi. Ngày xưa vua Cao tổ luôn thua Hạng Vũ, sau chỉ một trận ở Cái Hạ là thành công; đó không phải là mẹo tài của Hàn Tín đó ư? Tín thờ Cao tổ đã lâu cũng không mấy khi thắng; bởi vì kế lớn nhà nước, xã tắc an nguy, đều đã có chủ trương. Không như cái lũ khoác lác hư danh, bịp bợm, ngồi một xó mà lý thuyết suông thì không ai bằng; đến lúc có việc thì trăm phần chẳng được phần nào, thật đáng để cho thiên hạ chê cười!
Bị thuyết một hồi, Trương Chiêu không còn thở ra được câu nào nữa. Lại có một người cất tiếng hỏi rằng:
- Nay Tào Tháo quân hàng trăm vạn, tướng ước nghìn viên, uy thế như rồng như hổ, nuốt chửng Giang Hạ, ông bảo làm sao?
Khổng Minh trông xem ai, thì là Ngu Phiên. Khổng Minh nói:
- Tào Tháo thu quân rơm rác của Viên Thiệu, nhặt quân ô hợp của Lưu Biểu, dù đông mấy trăm vạn cũng không đáng sợ gì hết.
Ngu Phiên cười mát:
- Quân thua ở Đương Dương, kế cùng ở Hạ Khẩu, đi van xin cứu viện không xong, còn nói không sợ, thật là khoác lác để bịp người đó thôi!
Khổng Minh đáp:
- Lưu Dự Châu đem vài nghìn quân nhân nghĩa địch sao được trăm vạn quân tàn bạo? Lui về giữ Hạ Khẩu là để chờ thời cơ đấy! Nay Giang Đông, binh tinh lương đủ, lại có sông Trường Giang hiểm trở, thế mà còn xui chủ uốn gối hàng giặc. Từ đó mà suy, thì Lưu Dự Châu thật không sợ gì giặc Tháo vậy!
Ngu Phiên chịu cứng. Lại có một người lên tiếng hỏi:
- Khổng Minh muốn uốn lưỡi Tô Tần, Trương Nghi sang làm thuyết khách ở Giang Đông này chăng?
Khổng Minh nhìn xem ai thì là Bộ Trắc, bèn đáp rằng:
- Bộ Tử Sơn chỉ biết Tô Tần, Trương Nghi là biện sĩ, chuyên nghề nói mép, chứ chưa biết Tô Tần, Trương Nghi cũng là những trang hào kiệt. Tô Tần đeo ấn làm tướng sáu nước, Trương Nghi hai lần làm tướng nhà Tần, đều có tài giúp gây nên cơ nghiệp, đâu thèm so sánh với những kẻ sợ thế mạnh, lấn người yếu, tránh kiếm, lẩn đao. Các ngươi muốn nghe thấy Tào Tháo phao tin đã vội co vòi xin hàng rồi, còn dám cười Tô Tần, Trương Nghi sao được?
Bộ Trắc im ngay, không dám nói gì nữa.
Lại có một người hỏi rằng:
- Thế Khổng Minh cho Tào Tháo là người thế nào?
Khổng Minh nhìn xem ai, thì là Tiết Tung bèn đáp rằng:
- Tào Tháo là giặc nhà Hán, can gì phải hỏi?
Tung nói:
- Ông lầm rồi. Nhà Hán truyền ngôi kế thế mãi đến nay, số trời sắp hết, giờ đây, Tháo đã nắm được hai phần ba thiên hạ rồi, nhân tâm ai cũng quy phục cả. Duy chỉ có Lưu Dự Châu không biết thiên thời, muốn gượng tranh với Tháo, khác nào trứng chọi với đá, sao chẳng thất bại?
Khổng Minh quát to lên rằng:
- Tiết Kính Văn sao dám thở ra câu vô quân, vô phụ vậy? Người ta sinh ra ở đời phải lấy trung hiếu làm cốt. Ông đã làm tôi nhà Hán, nếu kẻ nào phản nghịch, phải thề giết nó đi, mới là phải đạo. Nay tổ tôn Tào Tháo đời đời ăn lộc nhà Hán, Tháo đã không nghĩ báo ơn, lại mang lòng phản nghịch, thiên hạ đều oán ghét cả. Ông lại dám đổ cho số trời, thật là con người vô quân vô phụ, không xứng đáng bàn luận! Chớ có nói nữa!
Tiết Tung đỏ mày xay mặt, câm như miệng hến. Lại một người hỏi rằng:
- Tào Tháo tuy rằng mượn tiếng thiên tử để sai khiến chư hầu, nhưng cũng còn là con cháu ông tướng quốc Tào Tham[2] ngày xưa. Lưu Dự Châu vẫn tự xưng là dòng dõi Trung Sơn Tĩnh vương, nhưng không có bằng cớ nào; hiện mắt trông thấy chỉ là một người dệt chiếu, bán giày, sánh với Tào Tháo sao được?
Khổng Minh nhìn xem ai, thì là Lục Tích, liền cười nói rằng;
- Ông có phải là người ăn cắp quýt ở trong bữa tiệc của Viên Thiệu đó không? Xin hãy ngồi nghe ta giảng giải cho: Tào Tháo đã là con cháu tướng quốc họ Tào, thì là đời đời làm tôi nhà Hán, nay dám chuyên quyền ngang ngược, khinh nhờn cả vua; như thế hắn không những là vô quân mà lại là khinh cả tổ tiên mình; không những là loạn thần nhà Hán, mà còn là đứa con bất hiếu của họ Tào nữa. Lưu Dự Châu đường đường một đấng tôn thất, đương kim hoàng đế hiện đã xét gia phả và phong tước cho, sao dám bảo là không có căn cứ? Vả đức Cao tổ ngày xưa, xuất thân làm đình trưởng, mà sau được thiên hạ, thì dệt chiếu, bán giày có gì là nhục? Kiến thức ông như trẻ con, không nên ngồi nói chuyện với cao sĩ.
Lục Tích ngồi im thin thít.
Lại có người hỏi rằng:
- Khổng Minh chỉ được cái già mồm lý lẽ, không phải là chính luận; không cần dài dòng làm gì nữa, hãy xin hỏi Khổng Minh đã học được những sách gì?
Khổng Minh nhìn xem thì là Nghiêm Tuấn, liền đáp:
- Tìm từng chương, dò từng câu, chỉ là bọn hủ nho mà thôi, sao có xây dựng được nước non cơ nghiệp? Vả như ngày xưa Y Doãn cày ở đất Sằn, Tử Nha câu trên sông Vị, Trương Lương, Trần Bình, Đặng Vũ, Cảnh Cam, đều có tài giúp nước cả, mà cũng không cần xét xem ngày thường học những sách vở gì! Có đâu lại bắt chước bọn thư sinh, bo bo sách vở, cãi đen bàn trắng, múa văn khua bút đó ư?
Nghiêm Tuấn cúi đầu tiu nghỉu ngồi im. Lại một người lớn tiếng hỏi:
- Ông chỉ được việc nói khoác là giỏi, vị tất đã có thực học, tôi chỉ sợ bọn nhà nho cười cho thôi.
Khổng Minh nhìn xem thì là Trình Đức Khu ở Nhữ Nam, liền đáp:
- Nho cũng có nho quân tử, cũng có nho tiểu nhân. Nho quân tử thì trung vua yêu nước, giữ chính ghét tà, chuyên làm những điều ích lợi chung, tiếng để đời sau. Còn như loại tiểu nhân thì chỉ gọt dũa văn chương, miệt mài nghiên bút; còn trẻ làm phú đầu bạc đọc kinh, dưới bút dẫu có nghìn lời, trong bụng không được một mẹo. Xem như Dương Hùng[3] văn chương có tiếng một đời, mà phải hạ mình đi thờ Vương Mãng rồi cũng đến đâm đầu xuống lầu mà chết. Thế gọi là nho tiểu nhân, dẫu ngày làm hạng vạn câu thơ, cũng có ích gì đâu!
Trình Đức Khu cũng ứ cổ nốt.
Các tướng thấy Khổng Minh ứng đối như nước chảy, ai cũng sợ mất vía. Lúc đó, còn có hai người là Trương Ôn, Lạc Thống sắp sửa muốn hỏi. Bỗng bên ngoài có một người chạy vào quát to lên rằng:
- Khổng Minh là bậc kỳ tài đời nay, các ngươi lấy môi mép vặn người ta, đó không phải kính trọng khách. Đại quân của Tào Tháo đã đến bờ cõi, tìm kế chống giặc chẳng tìm, cứ ngồi đấu khẩu như thế ích gì?
Các tướng nhìn xem ai, thì là Hoàng Cái, tự là Công Phúc, người Linh Lăng, hiện đương làm quan coi lương ở Đông Ngô. Lúc ấy Hoàng Cái bảo Khổng Minh rằng:
- Tôi nghe “Nói nhiều dù được lợi, cũng không bằng ngồi im không nói”. Sao ông không đem lời vàng đá ra mà nói với chủ tôi, đâu lại thừa hơi mà cãi vã với họ làm gì?
Khổng Minh đáp:
- Các ông ấy không biết việc đời mà hỏi, chẳng lẽ không nói.
Hoàng Cái, Lỗ Túc dẫn Khổng Minh vào đến cửa giữa gặp Gia Cát Cẩn. Khổng Minh chào hỏi, Cẩn nói:
- Hiền đệ đã sang Giang Đông, sao không lại thăm ta?
Khổng Minh đáp:
- Em đã thờ Lưu Dự Châu, nên phải đặt viêc công lên trước, rồi sau mới tới việc tư. Việc công chưa xong, nên chưa dám đến, xin anh tha thứ cho.
Cẩn nói:
- Hiền đệ vào yết kiến Ngô hầu xong, rồi đến chỗ ta nói chuyện.
Nói đoạn, đi thẳng.
Lỗ Túc nói:
- Mới rồi tôi dặn những điều gì, không nên quên đấy.
Khổng Minh gật đầu xin vâng. Hai người lên đến thềm chào hỏi tử tế. Tôn Quyền xuống đón, đãi rất tử tế. Thi lễ xong, Quyền mời Khổng Minh ngồi. Các quan văn võ đứng sắp hàng hai bên.
Lỗ Túc đứng bên cạnh Khổng Minh, chỉ đợi xem Khổng Minh nói với Quyền như thế nào. Khổng Minh giãi bày ý kiến Huyền Đức, rồi liếc mắt nom Tôn Quyền, thấy Quyền mắt biếc râu đỏ, tướng mạo đường bệ, liền nghĩ thầm rằng:
- Người này tướng mạo khác thường, chỉ ưa nói khích chứ không ưa thuyết phục; đợi khi nào hỏi, bấy giờ ta sẽ khích cho mấy câu là hơn!
Khi tả hữu dâng trà xong, Tôn Quyền nói:
- Tôi thường được nghe Lỗ Tử Kính nói đến tài túc hạ, nay may được gặp, xin túc hạ có điều gì hay chỉ bảo cho.
Khổng Minh đáp:
- Chúng tôi không tài ít học, không đáng để ngài hỏi.
Quyền nói:
- Túc hạ mới rồi ở Tân Dã, giúp Lưu Dự Châu đánh nhau với Tào Tháo, tất biết tình hình bên Tào thế nào?
Khổng Minh đáp:
- Lưu Dự Châu binh đơn, tướng ít; thành Tân Dã đã nhỏ lại không có lương, đâu dám chống nhau với Tào Tháo.
Quyền hỏi:
- Quân Tào nhiều hay ít?
Khổng Minh nói:
- Cả quân mã, quân bộ và quân thuỷ, ước được hơn trăm vạn.
Quyền trố mắt, ngạc nhiên hỏi:
- Ông nói dối ta chăng?
Khổng Minh đáp:
- Không dám dối đâu! Tào Tháo ở Duyện Châu đã có hai mươi vạn; bình xong Viên Thiệu, lại thêm được năm sáu mươi vạn; quân mới mộ ở Trung Nguyên được ba bốn mươi vạn. Tính ra có kém gì một trăm năm mươi vạn. Thế mà Lượng nói có một trăm vạn là vì sợ người Giang Đông mất vía đó thôi!
Lỗ Túc đứng cạnh, nghe nói, tái mặt lại, đưa mắt cho Khổng Minh. Khổng Minh cứ lờ đi.
Quyền lại hỏi:
- Chiến tướng của Tào Tháo nhiều hay ít?
Khổng Minh nói:
- Những mưu sĩ lắm mưu nhiều trí và những tướng đấu tài đánh giỏi ít ra cũng được vài nghìn.
Quyền lại hỏi:
- Nay Tào Tháo đã bình được Kinh Sở, còn có tham vọng gì nữa không?
Khổng Minh đáp:
- Tào Tháo hiện nay hạ trại kín ven sông, sắm sửa thuyền bè, chẳng lấy Giang Đông thì lấy đâu?
Quyền lại hỏi:
- Đối với âm mưu ấy của Tháo, nên đánh hay không, xin túc hạ hãy quyết định giúp ta một lời?
Khổng Minh nói:
- Lượng tôi có một lời, nhưng chỉ sợ tướng quân chẳng chịu nghe thôi.
Quyền nói:
- Xin cho nghe mấy lời cao kiến.
Khổng Minh nói:
- Trước kia thiên hạ đại loạn, nên tướng quân phải dấy binh ở Giang Đông, Lưu Dự Châu tụ quân ở Hán Nam, để cùng tranh giành với Tào Tháo. Nay Tháo đã dẹp được nạn lớn, tình hình sắp ổn định xong. Vừa đây Tháo lại phá được Kinh Châu, uy lừng bốn bể. Bây giờ, dẫu có anh hùng cũng không có đất dụng võ, cho nên Dự Châu phải trốn tránh đến đây. Vậy xin tướng quân lượng sức mà tính toán công việc. Nếu tướng quân có thể lấy quân Ngô, Việt mà chống Tào Tháo được, thì nên sớm cự tuyệt nó đi. Nếu không muốn thế, sao không theo ngay lời các mưu sĩ đã bàn, thu quân mã, xếp áo giáp lại, rồi ngoảnh mặt về phương bắc mà hàng?
Tôn Quyền chưa kịp đáp, Khổng Minh lại nói rằng:
- Tướng quân ngoài mặt thì giả tiếng phục tùng nhưng bên trong bụng vẫn còn ngờ vực. Việc kíp rồi mà không quyết đoán, thì vạ đến nơi rồi đó!
Tôn Quyền lại hỏi:
- Nếu quả như lời ông, thì sao Lưu Dự Châu không hàng Tào đi?
Khổng Minh đáp:
- Ngày xưa Điền Hoành[4] là một tráng sĩ nước Tề còn biết giữ nghĩa không chịu nhục, huống chi Lưu Dự Châu là tôn thân nhà Hán, anh hùng lừng lẫy trên đời, kẻ sĩ thảy đều trông mong. Việc không xong là bởi trời, có đâu lại chịu luồn cúi người ta?
Tôn Quyền nghe Khổng Minh nói xong, nét mặt hầm hầm, rũ áo đứng dậy, lui vào nhà sau. Các quan cùng tủm tỉm cười và giải tán.
Lỗ Túc trách Khổng Minh rằng:
- Sao tiên sinh lại nói thế? May mà chủ tôi rộng lượng, không nỡ trách ngay, chứ những lời tiên sinh vừa nói là khinh miệt chủ tôi lắm đấy.
Khổng Minh ngẩng mặt cười, nói:
- Sao không có lượng bao dung như thế? Ta đã có mẹo phá được Tào Tháo, vì không hỏi tới, nên ta không nói đó thôi.
Túc hỏi:
- Nếu quả tiên sinh có mẹo hay, tôi xin vào mời chủ tôi ra để tiên sinh dạy cho.
Khổng Minh nói:
- Quân trăm vạn của Tào Tháo, ta coi như đàn kiến, chỉ giơ tay một cái là tan ra như cám cả!
Túc nghe nói, liền vào nhà sau gặp Tôn Quyền. Quyền lúc ấy vẫn còn bực, ngoảnh lại bảo Lỗ Túc rằng:
- Khổng Minh khinh ta quá chừng!
Túc nói:
- Tôi cũng đã trách Khổng Minh, thì Khổng Minh cười và trách lại rằng chúa công không có lượng dung người, cho nên Khổng Minh có mẹo phá Tào cũng không muốn nói ra cho biết. Xin chúa công hãy thử hỏi Khổng Minh xem thế nào?
Quyền bèn lập tức nguôi giận làm vui, nói:
- À, thế ra Khổng Minh vẫn có mẹo hay, nên nói khích ta. Ta một lúc nghĩ nông cạn, tý nữa lỡ mất việc to.
Lập tức cùng Lỗ Túc lại ra triều đường, mời Khổng Minh vào nói chuyện.
Quyền xin lỗi Khổng Minh rằng:
- Vừa rồi tôi trót lỡ lời, xin tiên sinh tha lỗi cho.
Khổng Minh cũng tạ lại rằng:
- Lượng nói năng lỗ mãng, xin tướng quân cũng thứ tội cho.
Quyền mời ngay Khổng Minh vào nhà sau làm tiệc khoản đãi. Được vài tuần rượu, Quyền hỏi rằng:
- Tào Tháo vốn chỉ ghét Lã Bố, Lưu Biểu, Viên Thiệu, Viên Thuật, Lưu Dự Châu với tôi mà thôi. Nay đã trừ được cả, duy chỉ còn Dự Châu với tôi. Tôi không thể đem cả nước Ngô dâng cho người ta được. Kế của tôi đã quyết, nhưng khi Lưu Dự Châu giúp cho thì cũng không ai đương nổi được Tào Tháo bây giờ. Mà Dự Châu lại vừa mới thua trận, làm thế nào mà chống được nạn này.
Khổng Minh nói:
- Dự Châu tuy mới thua, nhưng Quan Vân Trường còn thống lĩnh hàng vạn tinh binh; Lưu Kỳ ở Giang Hạ cũng có chừng vạn quân sĩ. Quân Tào Tháo từ xa đến, tất cũng mỏi mệt; mới đây, lại đuổi Dự Châu, quân khinh kỵ đi ba trăm dặm một ngày, khác nào nỏ cứng giương lên đã đuối sức, chưa chắc bắn thủng được mảnh lụa mỏng. Vả lại người phương bắc không quen đánh thuỷ; quân dân ở Kinh Châu gặp thế bí phải phục Tào, chớ không phải là tự nguyện. Nay tướng quân thật muốn đồng tâm hiệp lực với Dự Châu, thì làm gì không phá được Tào Tháo? Quân Tào mà bị phá, tất phải kéo về bắc, thì thế Kinh, Ngô lại mạnh, mà hình thành thế chân vạc được. Cơ hội được thua, chỉ trong lúc này, xin tướng quân hãy nghĩ cho kỹ mà quyết đi!
Quyền mừng lắm, nói:
- Mấy lời của tiên sinh, thật đã làm sáng mắt tôi. Ý tôi đã quyết, không còn hồ nghi gì nữa.
Ngay hôm ấy, Quyền bàn bạc cất quân để cùng đi phá Tào Tháo và sai Lỗ Túc đem ý định đó truyền ra cho văn võ đều biết. Rồi đưa Khổng Minh đến nhà khách nghỉ ngơi.
Trương Chiêu biết Tôn Quyền muốn cất quân, mới bàn với mọi người rằng:
- Lại mắc phải mẹo của Khổng Minh mất rồi!
Chiêu vội vàng vào ra mắt Tôn Quyền, nói:
- Chúng tôi nghe chúa công muốn dấy binh đánh nhau với Tào Tháo. Chúa công hãy nên so mình với Viên Thiệu xem thế nào? Tào Tháo khi trước binh mọn, tướng ít, còn đánh được Viên Thiệu; huống bây giờ cầm hơn trăm vạn quân trong tay sang đánh mặt nam, há nên khinh địch? Nếu chúa công nghe lời Gia Cát Lượng, hấp tấp dấy binh, thì thật là đem củi khô đi chữa cháy vậy.
Tôn Quyền chỉ cúi đầu, ngồi im.
Cố Ung nói:
- Lưu Bị vì bị Tào Tháo đánh thua, nên muốn mượn quân ta để cự lại Tháo, chúa công sao lại để cho người ta lợi dụng mình? Xin hãy nghe lời Tử Bố.
Tôn Quyền cũng ngần ngừ không quyết. Bọn Trương Chiêu ra, Lỗ Túc lại vào nói rằng:
- Bọn Trương Chiêu lại khuyên tướng quân đừng cất quân để xin hàng Tào Tháo; đó đều là mưu của kẻ chỉ biết giữ mình và vợ con đó thôi, xin chúa công đừng nghe.
Tôn Quyền vẫn còn do dự. Túc lại nói:
- Nếu chúa công hoài nghi, tất bị chúng làm lỡ việc.
Quyền nói:
- Ngươi hãy lui ra, để ta còn nghĩ kỹ đã.
Túc trở ra. Bấy giờ bọn võ tướng có nhiều người muốn đánh, nhưng bọn quan văn thì ai cũng muốn hàng; mọi người bàn bạc phân vân, không nhất trí.
Tôn Quyền vào nhà ăn ngủ không yên, vẫn phân vân chưa định. Ngô quốc thái[5] thấy thế mới hỏi:
- Con suy nghĩ đến việc gì đến nỗi bỏ cả ăn lẫn ngủ thế?
Quyền nói:
- Nay Tào Tháo đóng quân ở Giang Hán, có ý muốn đánh xuống Giang Nam, hỏi các văn võ, kẻ muốn hàng, người muốn đánh. Nếu đánh thì e mình ít không địch nổi nhiều; muốn hàng thì sợ Tào Tháo không dung; bởi thế con phân vân chưa định.
Ngô quốc thái nói:
- Con không nhớ lời chị ta lúc lâm chung dặn lại thế nào ư?
Tôn Quyền sực nhớ lời trước, như người say tỉnh lại, như người ngủ mê thức dậy.
Ấy là:
Nhớ lời quốc thái truyền khi mất,
Nên để Chu lang lập chiến công.
Muốn biết lời di chúc của quốc thái, xin xem hồi sau.
   




Chú thích cuối trang
 Vương tự xưng là cô cũng như hoàng đế tự xưng là trẫm.
 Công thần của Hán Cao tổ.
 Dương Hùng: nhà từ phú đời Hán, từng làm quan dưới thời Vương Mãng, nhân phạm tội sợ ngồi tù, nhảy từ trên lầu xuống tự sát.
 Điền Hoành người nước Tề thời cuối Tần. Khi vua Tề bị bắt, Điền Hoành tự xưng là vua Tề. Hán Cao tổ sai người đến dụ hàng, Điền Hoành cùng bộ hạ không chịu khuất phục, tự sát.
 Vợ lẽ Tôn Kiên, dì ghẻ Tôn Quyền.
Khổng Minh dùng kế khích Chu Du
Tôn Quyền quyết mưu đánh Tào Tháo
Lại nói Ngô quốc thái thấy Tôn Quyền nghi hoặc không quyết, mới bảo:
- Khi hấp hối, mẹ con dặn phải theo di chúc của Bá Phù là phàm công việc trong nước không quyết định được thì hỏi Trương Chiêu, việc bên ngoài không quyết định được nên hỏi Chu Du. Nay sao con không mời Chu Du về mà hỏi?
Quyền mừng lắm, lập tức sai sứ ra Phiên Dương mời Chu Du về bàn việc.
Nguyên Chu Du đang ở hồ Phiên Dương, luyện tập quân thuỷ, nghe tin Tào Tháo đem quân đại quân đến Hán Thượng, liền cấp tốc về Sài Tang để bàn việc quân. Sứ giả chưa kịp đi, thì Chu Du đã về đến nơi. Lỗ Túc vốn thân với Chu Du, đi ra đón trước, và thuật lại đầu đuôi việc trước cho Du nghe.
Chu Du nói:
- Tử Kính đừng lo, tôi đã có chủ trương rồi, hãy nên mời ngay Khổng Minh đến.
Lỗ Túc lên ngựa đi luôn.
Chu Du vừa ngồi nghỉ ngơi, chợt báo có Trương Chiêu, Cố Ung, Trương Hoành và Bộ Trắc, bốn người đến thăm. Du mời vào trong nhà ngồi chơi, hỏi han sức khoẻ mọi người. Trương Chiêu nói:
- Đô đốc có biết việc mất còn của Giang Đông không?
Du nói:
- Chưa biết.
Chiêu nói:
- Tào Tháo cầm trăm vạn quân, đóng ở Hán Thượng. Hôm trước, có đưa tờ hịch đến đây, mời chúa công hội săn ở Giang Hạ. Tuy hắn định thôn tính ta, nhưng chưa nói rõ ra thôi. Bọn Chiêu chúng tôi đã khuyên chúa công nên hàng đi, hoạ may Giang Đông mới tránh được vạ. Không ngờ Lỗ Túc dắt ngay anh Gia Cát Lượng, quân sư của Lưu Bị ở Giang Hạ về. Vì hắn muốn trả thù Tào Tháo, nên nói khích chúa công. Lỗ Túc thì ù lì, không hiểu gì cả. Nay chỉ đợi đô đốc về để quyết định dứt khoát việc ấy.
Du hỏi:
- Thế ý kiến các ông có giống nhau không?
Bọn Cố Ung đáp:
- Chúng tôi đã bàn bạc, ý kiến đều giống nhau cả rồi.
Du nói:
- Ta cũng muốn hàng đã lâu. Các ông hãy đi về đi, sáng mai ra mắt chúa công, ta sẽ có quyết định.
Được một lát, lại có tin bọn chiến tướng là Trình Phổ, Hoàng Cái, Hàn Đương đến.
Du mời vào. Thăm hỏi xong, Trình Phổ hỏi:
- Đô đốc có biết Giang Đông nay mai về tay người khác không?
Du nói:
- Chưa biết.
Phổ nói:
- Bọn tôi từ khi theo Tôn tướng quân, mở mang cơ nghiệp, lớn nhỏ hơn trăm trận đánh, mới có được sáu quận thành trì. Nay chúa công nghe bọn mưu sĩ muốn hàng Tào Tháo. Thật là việc nhơ nhuốc đáng tiếc! Chúng tôi thà chết chứ không khi nào chịu nhục. Xin đô đốc khuyên chúa công quyết kế khởi binh. Chúng tôi xin thề cố chết mà đánh.
- Thế ý kiến các ông có giống nhau không?
Hoàng Cái phẫn uất đứng dậy, vỗ tay lên trán, nói:
- Tôi thề rằng đầu này mất thì mất, chớ không bao giờ hàng Tào!
Cả bọn cũng đồng thanh nói không khi nào chịu hàng.
Du nói:
- Ta đang muốn quyết chiến với Tào Tháo, há chịu hàng. Xin các tướng hãy về, ta vào ra mắt chúa công sẽ có quyết định.
Bọn Trình Phổ trở ra. Chưa giập bã trầu, lại có quan văn là Gia Cát Cẩn và Lã Phạm đến.
Du đón vào. Chào hỏi xong xuôi, Gia Cát Cẩn nói:
- Em tôi là Gia Cát Lượng từ Hán Thượng lại đây nói việc Lưu Dự Châu muốn kết với Đông Ngô để đánh Tào Tháo. Các quan văn võ bàn định chưa xong, vì em tôi là sứ giả, nên tôi không tiện nói nhiều, chỉ đợi đô đốc về quyết định.
Du nói:
- Ý ông thế nào?
Cẩn nói:
- Hàng thì dễ yên, đánh thì khó giữ.
Chu Du cười, nói:
- Tôi đã có chủ trương, ngày mai đến phủ sẽ quyết định.
Chợt lại có bọn Lã Mông, Cam Ninh đến, Du mời vào cùng bàn luận việc đó. Kẻ muốn hàng người muốn đánh, tranh luận gay go.
Chu Du nói:
- Không phải nói chi cho lắm, ngày mai xin cứ đến cả phủ để thảo luận.
Mọi người ra về. Chu Du cười nhạt lúc lâu mới thôi.
Chiều hôm ấy được tin Lỗ Túc đưa Khổng Minh đến, Du ra tận cửa đón vào. Thi lễ xong, chia ngôi chủ khách ngồi chơi. Túc hỏi Chu Du rằng:
- Nay Tào Tháo huy động lực lượng lớn xâm chiếm miền Nam, hoà với đánh, chỉ có hai đường, chúa công chưa quyết định, cốt đợi tướng quân. Ý kiến tướng quân thế nào?
Du nói:
- Tào Tháo mượn tiếng thiên tử, thì không nên kháng cự; vả lại thế Tào to lắm, chưa dễ địch nổi. Đánh thì tất thua, mà hàng thì dễ yên. Ý ta đã quyết, ngày mai ta vào hầu chúa công xin sai sứ đi hàng Tào.
Lỗ Túc ngạc nhiên, nói:
- Ông nói lầm rồi! Cơ nghiệp Giang Đông đã trải ba đời rồi, sao một chốc mà để vào tay người khác? Tôn Bá Phù trước đã dặn phàm công việc ngoài phó thác cho tướng quân. Chính lúc này phải trông cậy vào tướng quân để giữ sao cho cơ nghiệp Đông Ngô vững như Thái Sơn. Chẳng dè tướng quân cũng theo lời mấy đứa… hèn nhát đó sao?
Du nói:
- Sáu quận Giang Đông, nhân dân đông đúc biết bao. Nay nếu bị nạn binh đao tất quy oán cho ta, nên ta nhất định xin hàng.
Lỗ Túc nói:
- Không thể thế được. Tướng quân là bậc đại anh hùng, Đông Ngô là nơi hiểm trở, vị tất Tào Tháo đã làm mưa gió gì được!
Hai người cùng tranh luận, Khổng Minh chỉ ngồi thu tay cười mát. Du hỏi:
- Tiên sinh có việc gì mà cười?
Khổng Minh đáp:
- Tôi có cười gì đâu, chỉ cười Tử Kính không thức thời.
Túc hỏi:
- Sao tiên sinh bảo tôi không thức thời?
Khổng Minh đáp:
- Công Cẩn muốn hàng Tào, rất là hợp lẽ.
Du nói:
- Khổng Minh là người thức thời, tất một lòng như ta.
Túc nói:
- Khổng Minh! Sao ông lại nói thế?
Khổng Minh đáp:
- Tháo rất giỏi việc dùng binh, thiên hạ không ai địch nổi. Trước chỉ có Lã Bố, Viên Thiệu, Viên Thuật, Lưu Biểu là dám chống cự. Mấy người ấy đều bị Tháo giết cả rồi, thiên hạ không còn ai nữa! Chỉ có Lưu Dự Châu là không thức thời, mới dám gượng gạo chống lại, nay thân cô thế cô ở đất Giang Hạ, mất còn chưa biết ra sao? Tướng quân quyết kế hàng Tào, để bảo toàn vợ con, phú quý; còn như vận nước đổi thay, phó mặc trời, có chi đáng tiếc!
Lỗ Túc giận lắm, nói:
- Người muốn cho chủ ta uốn gối chịu nhục với lũ giặc nước à?
Khổng Minh nói:
- Ta có một kế, không phải cần đến khiêng dê gánh rượu, không phải nộp nước dâng ấn, cũng không cần phải thân sang sông; chỉ sai một người sứ với chiếc thuyền nhẹ đưa hai người sang sông mà thôi. Tào Tháo được hai người ấy, thì lập tức trăm vạn quân cũng cởi giáp, cuốn cờ rút lui ngay.
Du hỏi:
- Dùng hai người nào mà lui được quân Tào?
Khổng Minh nói:
- Đất Giang Đông mà bỏ hai người ấy, bất quá như cây to rụng một cái lá, kho lớn mất một hạt thóc. Nhưng Tào Tháo được hai người ấy, lập tức sẽ cuốn cờ, cởi giáp, vui mừng rút lui ngay.
Du lại hỏi:
- Hai người nào?
Khổng Minh nói:
- Khi tôi ở Long Trung, nghe tin Tháo mới dựng một cái đài ở trên sông Chương Hà, gọi là Đồng Tước, trang hoàng lịch sự, rồi kén những con gái đẹp trong thiên hạ nhốt đầy trong đó. Tháo vốn là đồ hiếu sắc, biết bên Giang Đông ông Kiều công có hai người con gái, con lớn là Đại Kiều, con nhỏ là Tiểu Kiều. Hai người đều nhan sắc, chim sa cá lặn, hoa nhường, nguyệt thẹn. Tháo từng thề rằng: Một là ta thề đạp bằng bốn bể, dựng nên nghiệp hoàng đế; hai là lấy được hai chị em nàng Kiều ở Giang Đông, đem về đài Đồng Tước để vui tuổi già, thì dẫu chết cũng không tiếc gì đời nữa! Nay Tháo tuy đem quân trăm vạn, chực chiếm Giang Nam, nhưng thật ra chỉ vì hai người con gái ấy. Tướng quân sao không tìm Kiều công, đem nghìn vàng mua lấy hai người con gái rồi sai người mang dâng cho Tào Tháo, Tháo mãn nguyện tất rút quân về. Đó cũng là kế Phạm Lãi dâng Tây Thi cho Ngô Vương, sao không kíp làm đi?
Du hỏi:
- Có gì làm chứng về việc Tào Tháo muốn được hai nàng Kiều không?
Khổng Minh nói:
- Con nhỏ Tào Tháo là Tào Thực, tự là Tử Kiến, có tài đặt bút thành văn. Tháo sai làm một bài phú, gọi là phú đài Đồng Tước. Ý chính trong bài phú ấy, chỉ nói về nhà Tào nếu làm thiên tử thì thề sẽ lấy cho kỳ được hai nàng Kiều.
Du hỏi:
- Ông có nhớ bài phú ấy không?
Khổng Minh nói:
- Tôi thích lời văn hoa mỹ của bài ấy, nên cũng thuộc.
Du nói:
- Xin thử đọc cho nghe.
Khổng Minh đọc luôn bài phú, trong bài có mấy câu:
“Lập song đài ư tả hữu hề! Hữu Ngọc long dữ Kim phụng; lãm nhị kiều ư Đông Nam hề! Lạc chiêu tịch chí dữ cộng”.
(Nghĩa là: Dựng hai đài ở bên tả bên hữu, có đài Ngọc long, có đài Kim phụng. Nhốt hai nàng Kiều bên Đông Nam; để sớm chiều cùng vui vầy)[1].
Chu Du nghe xong mấy câu ấy, đỏ mặt tía tai, đứng phắt dậy trỏ tay về phương Bắc mà mắng rằng:
- Thằng giặc Tào này khinh ta quá chừng!
Khổng Minh vội ngăn lại, nói:
- Ngày xưa chúa rợ Hung Nô hay xâm lấn bờ cõi, thiên tử nhà Hán còn phải đem công chúa gả cho nó, để cầu hoà, nay tướng quân tiếc làm chi hai người con gái thường dân ấy?
Du nói:
- Ông chưa rõ Đại Kiều là vợ Tôn Bá Phù, Tiểu Kiều là vợ Du đó.
Khổng Minh giả vờ sợ sệt nói:
- Tôi thật vô tình, nói năng lỗ mỗ, tội đáng chết, đáng chết!
Chu Du nói:
- Ta thề cùng thằng giặc già một còn một mất!
Khổng Minh nói:
- Tướng quân nên nghĩ cho chín, kẻo hối về sau.
Du nói:
- Ta đã vâng lời Tôn Bá Phù uỷ thác, có lẽ hạ mình hàng Tào. Vừa rồi ta nói thế, là thử lòng nhau đó thôi. Ta từ khi ở Phiên Dương về đây, vẫn có chủ trương đánh miền Bắc; dù dao búa kề đầu cũng không lay được. Xin Khổng Minh giúp ta một tay, cùng phá giặc Tào.
Khổng Minh nói:
- Nếu ngài không bỏ Lượng, thì Lượng xin đem hết lòng khuyển mã, sớm tối vâng lời sai khiến.
Du nói:
- Ngày mai ta vào yết kiến chúa công, sẽ bàn ngay việc cất quân.
Khổng Minh và Lỗ Túc từ biệt Chu Du ra về.
Sáng sớm hôm sau, Tôn Quyền ra công đường; bọn quan văn là Trương Chiêu, Cố Ung, hơn ba mươi người; bọn quan võ là Trình Phổ, Hoàng Cái, hơn ba mươi người, áo mũ san sát, gươm đeo sáng quắc, chia ngôi thứ đứng hai bên.
Một lát, Chu Du vào yết kiến, thi lễ xong, Tôn Quyền ân cần thăm hỏi. Du nói:
- Gần đây, nghe Tào Tháo đóng binh ở Hán Thượng, có đưa thư sang đây, ý kiến chúa công thế nào?
Quyền đưa tờ hịch cho Chu Du xem.
Du xem xong, cười nói:
- Thằng giặc già cho Giang Đông ta là không có ai chăng, sao dám quá khinh nhờn ta thế!
Quyền hỏi:
- Ý ngươi thế nào?
Du nói:
- Chúa công đã cùng với văn võ bàn định chưa?
Quyền nói:
- Mấy hôm nay bàn luận việc ấy; người thì khuyên ta nên hàng, kẻ lại bảo ta nên đánh; ý ta chưa định bề nào, xin Công Cẩn quyết định cho.
Du nói:
- Ai khuyên chúa công hàng?
Quyền đáp:
- Bọn Trương Chiêu đều muốn hàng.
Du hỏi ngay Trương Chiêu:
- Xin cho ý kiến muốn hàng của tiên sinh thế nào?
Chiêu nói:
- Tào Tháo mượn tiếng triều đình để dẹp đánh bốn phương, nay lại mới được Kinh Châu, uy thế ngày càng lớn. Giang Đông ta mà có cự được với Tào Tháo là nhờ dựa vào sông Trường Giang; giờ đây Tào Tháo có hàng trăm nghìn chiếc thuyền, thuỷ lục cùng tiến, ta lấy gì mà chống được. Không bằng hãy hàng, rồi sau sẽ liệu kế khác.
Chu Du nói:
- Đó là lời bàn của bọn hủ nho. Giang Đông từ khi lập nước đến giờ, đã trải ba đời, sao nỡ chốc lát bỏ mất?
Quyền mới hỏi:
- Thế đánh thì có kế gì?
Chu Du nói:
- Tháo tuy giả danh là tướng nhà Hán, thật ra là giặc nhà Hán. Mà tướng quân là bậc thần võ hùng tài, nhờ cơ nghiệp của cha anh, binh giỏi lương nhiều, đáng lẽ tung hoành cả trong thiên hạ, trừ kẻ bạo tàn, sao lại phải hàng giặc? Vả lại, Tháo đi chuyến này mắc phải nhiều điều kỵ trong binh pháp; đất bắc chưa yên, còn cái hoạ Mã Đằng, Hàn Toại sau lưng, mà Tháo dám ở lâu để đánh phương Nam, là một điều kỵ; quân Bắc không quen đánh dưới nước, mà Tháo dám bỏ yên ngựa dùng thuyền bè, tranh giành với Đông Ngô, là hai điều kỵ; đang mùa đông rét mướt, ngựa không có cỏ khô ăn, mà dám khởi binh, là ba điều kỵ; đem quân ở lục địa tiến sâu vào chỗ sông hồ, không quen thuỷ thổ, nhiều người đau ốm, là bốn điều kỵ. Quân Tháo phạm bốn điều kỵ ấy, dẫu nhiều cũng phải thua. Tướng quân bắt được Tháo ở chính lúc này. Du chỉ xin vài vạn tinh binh, đến đóng ở Hạ Khẩu, đủ phá được Tào Tháo cho tướng quân xem.
Tôn Quyền đứng vùng dậy nói:
- Thằng giặc già muốn cướp ngôi nhà Hán đã lâu, chỉ e có hai anh em họ Viên, Lã Bố, Lưu Biểu với ta mà thôi. Nay mấy người ấy đã mất, duy chỉ còn có ta. Ta cùng với giặc già, thề không chung sống. Người nói đánh, chính hợp ý ta. Quả là trời cho ngươi xuống giúp ta đó!
Chu Du nói:
- Tôi xin vì tướng quân quyết một trận huyết chiến, dù chết cũng không từ. Chỉ sợ tướng quân còn hồ nghi chưa định.
Quyền rút ngay thanh gươm đeo ở mình, chặt xuống góc bàn trước mặt, nói rằng:
- Các quan các tướng, ai còn nói hàng Tào, sẽ như cái góc bàn này.
Nói xong, tặng luôn thanh gươm cho Chu Du, phong Chu Du làm đại đô đốc. Trình Phổ làm phó đô đốc; Lỗ Túc làm tân quân hiệu uý. Nếu văn quan võ tướng, ai không tuân lệnh, dùng thanh gươm ấy chém đi.
Chu Du nhận gươm, nói:
- Ta phụng mệnh chúa công, đem quân đánh Tào Tháo, chư tướng và quan viên, ngày mai đều phải ra trại trận ở cạnh bờ sông nghe lệnh. Ai chậm chạp lầm lỗi cứ chiếu theo trong bảy điều cấm lệnh, năm mươi tư tội trảm quyết thi hành.
Nói rồi, Du từ biệt Tôn Quyền bước ra khỏi phủ; các quan văn võ giải tán, đâu về đấy.
Chu Du về đến dinh, cho mời Khổng Minh vào bàn việc. Khổng Minh đến. Du nói:
- Hôm nay, trong phủ bàn định đã xong, xin tiên sinh cho biết kế hay để phá Tào Tháo.
Khổng Minh nói:
- Bụng Tôn tướng quân chưa thật ổn, không thể định kế được vội.
Du hỏi:
- Thế nào là trong bụng chưa ổn?
Khổng Minh nói:
- Vẫn còn có ý sợ quân Tào nhiều, quân mình ít không địch nổi. Tướng quân nên nói rõ quân số để Tôn tướng quân vững dạ thì việc lớn ắt xong.
Du nói:
- Tiên sinh nói phải lắm!
Du bèn vào ngay, ra mắt Tôn Quyền. Quyền hỏi:
- Đêm khuya Công Cẩn còn đến đây, chắc hẳn có việc gì?
Du thưa:
- Ngày mai cất quân, chúa công còn nghi hoặc chút nào không?
Quyền nói:
- Ta chỉ còn lo quân Tào nhiều lắm, sợ không địch nổi thôi.
Du cười, nói:
- Tôi chỉ vì việc ấy mà đến đây, nói rõ để chúa công biết. Chúa công thấy hịch Tào Tháo nói dối có trăm vạn quân, nên sinh lòng nghi sợ, không xét rõ hư thực thế nào. Nay xét ra, hắn huy động quân mã trong nước chẳng qua được mười lăm, mười sáu vạn, mà đã mệt mỏi cả rồi; số quân thu được của họ Viên cũng độ bảy tám vạn, nhưng đa số vẫn còn nghi ngờ chưa phục. Quân số tuy nhiều cũng không đáng sợ. Tôi chỉ xin năm vạn quân là đủ phá nổi. Chúa công chớ nên áy náy nữa.
Quyền vỗ vào lưng Chu Du mà nói rằng:
- Công Cẩn nói đến điều ấy, thật gỡ được mối hoài nghi cho ta. Tử Bố không biết gì, ta mất tin cậy. Chỉ có ngươi với Tử Kính là hợp bụng với ta thôi. Vậy thì ngươi hãy cùng với Tử Kính, Trình Phổ mang quân đi trước. Ta thu xếp thêm quân mã, tải nhiều lương thực, làm hậu ứng cho. Tiền quân phỏng có điều gì không được như ý, thì đã có ta đây. Ta phen này quyết nhau với giặc Tào, không còn hồ nghi gì nữa!
Chu Du từ tạ ra về, bụng nghĩ thầm rằng:
- Khổng Minh đã đoán trúng được cả ruột gan Ngô hầu, mà mưu kế gì cũng hơn ta một bậc. Nếu để lâu tất gây vạ cho Đông Ngô ta, chi bằng giết quách đi cho rảnh.
Rồi lập tức sai người mời Lỗ Túc vào, bàn việc muốn giết Khổng Minh.
Túc can rằng:
- Không nên! Nay giặc Tào chưa phá được, mà đã giết mất người hiền sĩ, thế là tự mình hại người giúp việc cho mình đó.
Du nói:
- Người này giúp Lưu Bị, tất gây vạ cho Đông Ngô về sau.
Túc nói:
- Nên sai anh ruột y là Gia Cát Cẩn sang dụ y về với Đông Ngô chẳng hay hơn ư?
Du chịu là phải. Sáng hôm sau, Du đến hành dinh, ngồi cao trên trướng, quân đao phủ đứng sắp hàng hai bên, hội họp cả văn võ lại để truyền lệnh.
Nguyên Trình Phổ hơn tuổi Chu Du, thấy Du quyền to hơn mình, có ý không vui, giả ốm không đến, sai con là Trình Tư đi thay.
Du truyền lệnh cho các tướng rằng:
- Phép vua không thể thân sơ, chức phận ai nấy phải giữ. Hiện nay Tào Tháo lộng quyền, tệ hơn Đổng Trác, giam thiên tử ở Hứa Đô, đóng bạo quân ở biên cảnh. Ta nay phụng mệnh ra đánh, các ông cùng phải gắng sức đồng lòng. Quân đi đến đâu, không được quấy nhiễu dân sự. Ai có công thì thưởng, ai có tội thì phạt, không tư vị ai cả.
Nói đoạn, sai Hàn Đương, Hoàng Cái làm tiền bộ tiên phong, lĩnh chiến thuyền đi ngay hôm ấy, đến cửa sông Tam Giang đóng trại, chờ có lệnh khác sẽ hay; Tưởng Khâm, Chu Thái làm đội thứ hai; Lăng Thống, Phan Chương làm đội thứ ba; Thái Sử Từ, Lã Mông làm đội thứ tư; Lục Tốn, Đổng Tập làm đội thứ năm; Lã Phạm, Chu Trị đi tuần phòng cả bốn mặt, và đốc thúc quan quân thuỷ lục phải song song tiến lên, hẹn nội nhật hôm ấy phải đi cả.
Các tướng được lệnh, ai nấy thu xếp thuyền bè vũ khí ra đi. Trình Tư về thuật lại với cha rằng Chu Du điều binh hợp phép lắm. Trình Phổ giật mình nói:
- Ta vẫn khinh Chu lang nhu nhược, không xứng đáng làm tướng. Nay y giỏi như thế, thật là tướng tài! Ta há chẳng phục sao?
Lập tức Phổ đến trại Chu Du tạ tội, Du cũng khiêm tốn tạ lại.
Hôm sau, Du mời Gia Cát Cẩn đến bảo rằng:
- Lệnh đệ là Khổng Minh có tài vương tá, sao lại hạ mình đi thờ Lưu Bị. Nay mai y đến Giang Đông, phiền tiên sinh chớ có quản công, đến dụ y về với Đông Ngô, thì Chúa Công được thêm một tay giỏi, mà anh em tiên sinh lại được đoàn tụ, chẳng hay lắm ru?
Cẩn thưa:
- Từ khi tôi đến Giang Đông, chưa lập được một chút công nào, nghĩ cũng xấu hổ lắm. Nay đô đốc đã sai, tôi xin cố gắng.
Nói rồi lên ngựa chạy ngay đến ngay nhà khách, vào thăm Khổng Minh. Khổng Minh mời vào, hỏi han trò chuyện rồi, Cẩn khóc mà nói rằng:
- Em có biết Bá Di, Thúc Tề ngày xưa không?
Khổng Minh nghĩ thầm đây tất là Chu Du cho đến dụ mình, liền đáp lại rằng:
- Bá Di, Thúc Tề là bậc thánh hiền đời xưa.
Cẩn nói:
- Hai ông ấy dẫu đến lúc chết đói ở núi Thú Dương, anh em cũng còn ở với nhau một chỗ. Nay ta với em, ruột thịt một nhà, thế mà mỗi người thờ một chủ, sớm tối không được đoàn tụ với nhau, chẳng đáng thẹn với Di Tề lắm ư?
Khổng Minh nói:
- Anh nói là tình em giữ là nghĩa. Anh với em cùng là dòng dõi nhà Hán. Nay Lưu hoàng thúc là tôn thất nhà Hán, nếu anh bỏ Đông Ngô về thờ hoàng thúc với em, thì trước không hổ thẹn với bầy tôi nhà Hán, sau nữa anh em lại được họp mặt nhau, thế là tình nghĩa hai đường vẹn cả. Anh nghĩ thế nào?
Cẩn nghĩ bụng, mình đến dụ nó, chẳng hoá nó lại dụ mình. Rồi ngồi ngẩn mặt ra, chẳng nói được câu gì. Lát sau Cẩn đứng dậy ra về yết kiến Chu Du, thuật lại lời Khổng Minh. Du nói:
- Ý ông làm sao?
Cẩn nói:
- Tôi đội hậu ơn Tôn tướng quân, có đâu nỡ bỏ!
Du nói:
- Ông đã có bụng trung với chủ như thế, không phải nói nữa. Còn Khổng Minh ta sẽ có cách thuyết phục y.
Thế mới là:
Trí đối trí, tưởng là dễ hợp,
Tài chọi tài, lại hoá ghen nhau.
Chưa biết Chu Du có mẹo gì thuyết phục được Khổng Minh, xin xem hồi sau sẽ rõ.
   




Chú thích cuối trang
 Chính trong bài phú đài Đồng Tước thì vế sau là: “Liên nhị kiều ư đông tây hề, nhược trang không chi chuế đống”, nghĩa là “Liền hai cái cầu ở bên đông bên tây, như cầu vồng ở trên không”. Khổng Minh đổi chữ kiều là cầu ra chữ Kiều là nàng Kiều, đông tây ra đông nam để khích Chu Du, vì Đại Kiều là vợ Tôn Sách, Tiểu Kiều là vợ Chu Du.
Cửa Tam Giang, Tào Tháo hao binh
Hội Quần anh, Tưởng Cán mắc mẹo
Lại nói Chu Du nghe Gia Cát Cẩn nói, giận Khổng Minh lắm, âm mưu muốn giết. Hôm sau điểm quân xong, Du vào chào từ biệt Tôn Quyền. Quyền nói:
- Ngươi cất quân đi trước, ta lập tức đi sau tiếp ứng!
Chu Du từ tạ trở ra, cùng với Lỗ Túc, Trình Phổ cất quân đi và mời Khổng Minh đi cùng một thể. Khổng Minh vui vẻ nhận lời, lên cả thuyền, giương buồm kéo đến Hạ Khẩu, cách cửa Tam Giang ba bốn mươi dặm đóng trại. Thuyền bè đỗ rất có trật tự.
Chu Du hạ trại ở giữa, trên bờ thì dựa vào núi Tây Sơn lập doanh trại, chung quanh cũng lập đồn phòng bị cả. Khổng Minh ở riêng một chiếc thuyền nhỏ. Chu Du phân phát đâu đấy rồi sai người mời Khổng Minh đến bàn việc. Khổng Minh đến trung quân vào gặp Chu Du, Du nói:
- Ngày trước quân Tào Tháo ít, quân Viên Thiệu nhiều, thế mà Tháo đánh được Thiệu, ấy là bởi vì Tháo dùng mưu Hứa Du, trước hết triệt lương thực ở Ô Sào. Nay quân Tào tám mươi ba vạn, quân ta chỉ độ năm sáu vạn, cự sao nổi, tất cũng phải đốt lương của Tháo trước, rồi mới phá được. Tôi đã dò biết được lương thảo Tào Tháo chứa cả ở núi Tụ Thiết. Tiên sinh ở Hán Thượng đã lâu, am hiểu đường đất, xin phiền tiên sinh cùng với Quan, Trương, Tử Long, đi ngay đến đó triệt lương của Tào Tháo. Tôi xin giúp thêm một nghìn quân mã. Hai bên cùng vì việc chủ cả, xin tiên sinh đừng có thoái thác.
Khổng Minh nghĩ thầm rằng:
- Chắc họ dụ ta không nổi, nên lập kế hại ta. Nếu ta từ chối, họ hẳn chê cười, chi bằng cứ vâng lời rồi sẽ liệu kế khác.
Nghĩ vậy Khổng Minh vui vẻ xin vâng lệnh.
Chu Du thấy Khổng Minh nhận lời cũng mừng lắm. Khổng Minh từ giã ra về. Lỗ Túc hỏi nhỏ Chu Du:
- Ông sai Khổng Minh đi đốt lương là ý làm sao?
Du nói:
- Ta muốn giết Khổng Minh, nhưng ngại thiên hạ chê cười, cho nên mượn tay Tào Tháo giết đi, để khỏi lo về sau.
Túc nghe nói, liền đến chơi Khổng Minh, xem Khổng Minh có biết ý gì không, nhưng chỉ thấy Khổng Minh cứ điềm nhiên như không, sắp sửa điểm quân mã để đi. Túc thương hại mới hỏi gợi rằng:
- Tiên sinh đi chuyến này, chắc có thành công được không?
Khổng Minh cười, nói:
- Ta đánh thuỷ, đánh bộ, đánh mã, đánh xe, môn nào cũng giỏi, khó gì mà chẳng thành công, chớ chẳng như ông và Chu lang chỉ biết có một nghề mà thôi đâu!
Túc hỏi:
- Tôi với Công Cẩn, thế nào là chỉ biết có một nghề?
Khổng Minh nói:
- Tôi nghe trẻ con ở Giang Nam có hát rằng: “Mặt bộ cầm quân tài Tử Kính, ra sông đánh thuỷ có Chu Du”. Xét như vậy, thì ông chỉ tài trên bộ, chẹn đường giữ ải; còn Chu lang thì chỉ biết đánh thuỷ, chớ đánh bộ thì kém.
Túc lại mang lời ấy về nói với Chu Du. Du nổi giận nói:
- Sao dám bảo ta không đánh được mặt bộ? Có phải thế thì không khiến Khổng Minh đi nữa, để ta tự mang quân đến cướp lương Tào ở núi Tụ Thiết cho mà xem.
Túc lại đem chuyện nói với Khổng Minh, Khổng Minh cười, bảo:
- Công Cẩn sai ta đi cướp lương, là cố ý mượn tay Tào Tháo giết ta. Ta mới nói đùa một câu, Công Cẩn đã không chịu được. Hiện nay đang lúc dùng người, chỉ mong sao cho Ngô hầu đồng tâm với Lưu sứ quân, mới thành công được. Nếu mang bụng hại lẫn nhau, thì việc lớn sẽ hỏng mất. Tào Tháo lắm mưu, xưa nay hắn chỉ quen cướp lương của người ta, lẽ đâu hắn chẳng phòng giữ cẩn thận. Công Cẩn mà đi, tất nó bắt được. Nay hãy đánh mặt thuỷ trước, để làm bớt cái nhuệ khí của hắn đi, rồi sẽ liệu kế khác đánh phá mới được. Tử Kính nên về nói với Công Cẩn cho khéo.
Lỗ Túc lập tức đang đêm về nói với Chu Du, thuật lại lời Khổng Minh. Du lắc đầu, giẫm chân xuống nói rằng:
- Kiến thức người này, hơn gấp mười ta, nếu không trừ ngay đi, tất để vạ về sau.
Túc can rằng:
- Nay đang lúc cần người, xin hãy coi việc nước là trọng, đợi khi nào phá xong được Tào Tháo, bấy giờ sẽ liệu cũng vừa.
Du nghe lời.
Nay lại nói Huyền Đức dặn dò Lưu Kỳ giữ lấy Giang Hạ, còn mình cùng với các tướng dẫn quân sang Hạ Khẩu. Từ xa trông sang phía nam bờ sông, thấy cờ bay phấp phới, gươm giáo sáng quắc, biết là Đông Ngô đã cất quân, bèn đem cả quân Giang Hạ đến đóng ở Phàn Khẩu. Huyền Đức họp các tướng sĩ lại bàn:
- Khổng Minh từ khi sang Đông Ngô đến nay không thấy tin tức gì, không biết sự thể ra sao? Ai có thể đi dò xét tình hình về báo cho ta?
My Chúc xin đi. Huyền Đức sai mang dê, rượu và đồ lễ sang Đông Ngô, giả tiếng khao quân, để dò xét hư thực. Chúc vâng lệnh, bơi một chiếc thuyền thuận dòng sang sông, thẳng đến trại Chu Du. Quân sĩ vào báo,Du mời vào. My Chúc lạy hai lạy, dâng đồ lễ vật và bày tỏ ý Huyền Đức. Du nhận lễ rồi mở tiệc khoản đãi.
Chúc nói:
- Khổng Minh sang đây đã lâu, xin cho về một thể.
Du nói:
- Khổng Minh đang cùng ta lập mưu phá Tào Tháo, về thế nào được? Ta cũng muốn gặp Lưu Dự Châu để cùng bàn việc, nhưng ta đang thống lĩnh đại quân, không thể đi xa được. Nếu Dự Châu có lòng hạ cố đến chơi một chút, thì ta hả lòng mong đợi lắm.
My Chúc vâng lời, lạy từ trở ra.
Lỗ Túc hỏi Chu Du rằng:
- Ông muốn tiếp Lưu Huyền Đức để bàn việc gì?
Du nói:
- Huyền Đức như con thú dữ trong đời, không thể không trừ được. Nay ta thừa cơ dụ y đến giết đi, để trừ một mối lo to cho nước nhà.
Túc can ngăn hai ba lần, Du nhất định không nghe, truyền ngay lệnh rằng:
- Huyền Đức đến đây, thì phục sẵn năm mươi tên đao phủ ở trong buồng; hễ lúc nào ta quẳng cái làm hiệu, thì ùa ra giết đi.
My Chúc về ra mắt Huyền Đức, thuật chuyện Chu Du muốn mời đến chơi để bàn bạc việc gì. Huyền Đức sai thu xếp một chiếc thuyền nhẹ, định đi ngay, Vân Trường can rằng:
- Chu Du là người đa mưu, lại không có thư của Khổng Minh, hoặc có mưu lừa gì chăng, không nên khinh thường.
Huyền Đức nói:
- Ta nay kết liên với Đông Ngô, cùng phá Tào Tháo. Nay Chu Du muốn gặp ta, nếu ta không đi thì không phải là tình đồng minh với nhau. Hai bên cứ ngờ vực lẫn nhau, việc to hỏng mất.
Vân Trường nói:
- Nếu huynh trưởng muốn sang đó, em xin đi theo.
Trương Phi cũng xin đi. Huyền Đức nói:
- Chỉ Vân Trường đi là đủ. Dực Đức với Tử Long ở nhà giữ trại; Giản Ung phải giữ Ngạc Huyện cho vững, ta đi sẽ về ngay.
Phân công đâu đấy rồi, Huyền Đức bèn cùng Vân Trường chỉ đem hai mươi tên quân, bơi một chiếc thuyền nhỏ sang Giang Đông.
Huyền Đức ngắm trông chiến thuyền Giang Đông cùng với tinh kỳ binh giáp dàn ra hai bên tả hữu tề chỉnh lắm, trong bụng cũng đã mừng thầm.
Quân sĩ vào báo với Chu Du rằng Lưu Dự Châu đã đến. Du hỏi:
- Y đem thuyền đến nhiều hay ít?
Quân sĩ bẩm:
- Chỉ có độc một chiếc thuyền và hơn hai mươi tên tuỳ tùng.
Du cười, nói:
- Bọn này thật đáng chết!
Lập tức sai quân đao phủ mai phục đâu đấy, rồi ra trại đón Huyền Đức vào.
Huyền Đức dẫn Vân Trường và tuỳ tùng vào thẳng trung quân. Đôi bên chào nhau xong, Du mời Huyền Đức ngồi lên trên. Huyền Đức nói:
- Tiếng tướng quân lẫy lừng cả thiên hạ, Bị này tài đức gì, dám đâu phiền đến tướng quân phải trọng vọng.
Nói rồi chia ngôi chủ khách ngồi chơi. Chu Du mở tiệc khoản đãi.
Khi ấy Khổng Minh tình cờ ra chơi bờ sông, nghe tin Huyền Đức đến gặp Chu Du, thất kinh, vội lẻn vào trung quân xem động tĩnh ra làm sao, thấy trên mặt Chu Du đầy những sát khí, trông vào hai bên màn vách thì thấy đặc những quân đao phủ. Khổng Minh sợ hãi nói:
- Thế này thì làm thế nào?
Nói rồi lại nhìn Huyền Đức, chỉ thấy Huyền Đức cười cười nói nói như không; lại thấy một người cắp gươm đứng hầu sau lưng Huyền Đức, nhìn xem ai thì là Quan Vân Trường, Khổng Minh mừng, nói:
- Chủ ta không có gì đáng lo nữa rồi!
Nói xong không vào nữa, quay ra bờ sông đứng đợi.
Chu Du mời mọc Huyền Đức uống rượu; được vài tuần, Du bèn đứng dậy cầm chén để mời, sực trông thấy Vân Trường cắp gươm đứng sau Huyền Đức, liền hỏi ai. Huyền Đức nói:
- Em tôi là Quan Vân Trường đó!
Du giật mình hỏi:
- Có phải là người chém Nhan Lương, Văn Sú khi xưa khi đó không?
Huyền Đức đáp:
- Chính phải!
Du thất kinh, mồ hôi đổ toát ra cả áo. Rồi rót rượu mời Vân Trường uống. Một lát, Lỗ Túc vào.
Huyền Đức nói:
- Khổng Minh ở đâu, nhờ Tử Kính mời lại đây gặp một lát.
Chu Du nói:
- Đợi khi nào phá xong Tào Tháo, bấy giờ sẽ gặp nhau cũng được.
Huyền Đức nín lặng. Vân Trường đưa mắt cho Huyền Đức. Huyền Đức biết ý, đứng ngay dậy từ biệt Chu Du mà rằng:
- Nay tôi hãy xin cáo biệt, khi nào phá được giặc thành công, xin lại sang mừng.
Du cũng không giữ lại, tiễn ra cửa dinh. Huyền Đức từ biệt ra đến bờ sông, đã thấy Khổng Minh ở trong thuyền, Huyền Đức mừng rỡ. Khổng Minh nói:
- Chúa công có biết việc nguy cấp hôm nay không?
Huyền Đức ngạc nhiên nói:
- Không biết có việc gì?
Khổng Minh nói:
- Nếu không có Vân Trường thì chúa công đã bị Chu Du hại rồi.
Huyền Đức bấy giờ mới vỡ lẽ; bèn mời Khổng Minh cùng về Phàn Khẩu.
Khổng Minh nói:
- Tôi tuy ở kề miệng hổ, nhưng vững như Thái Sơn. Chúa công trở về, đúng đến hôm 20 tháng 11 là ngày Giáp Tý, phải sai Tử Long mang một chiếc thuyền nhỏ chờ tôi ở mé Nam bờ sông, chớ có sai hẹn,
Huyền Đức hỏi ý làm sao, Khổng Minh nói:
- Cứ xem gió đông nam nổi lên lúc nào, thì tôi về lúc ấy.
Huyền Đức đi chưa được vài dặm, chợt thấy trên thượng lưu có năm sáu chục chiếc thuyền bơi đến, một đại tướng cầm ngang ngọn mâu đứng trên mũi thuyền, thì là Trương Phi. Nguyên Phi sợ Huyền Đức gặp lỡ làng gì, một mình Vân Trường không địch nổi, cho nên mới đem thuyền đến tiếp ứng. Ba người cùng nhau về trại.
Lại nói, Chu Du tiễn xong Huyền Đức về trại. Lỗ Túc hỏi rằng:
- Ông đã mời Huyền Đức đến đây, sao lại không giết nữa?
Du nói:
- Quan Vân Trường là một hổ tướng đời nay, cùng với Huyền Đức không rời nhau lúc nào, nếu ta hạ thủ, thì y tất giết ta trước.
Túc nghe nói cũng rợn tóc gáy. Chợt lại có tin vào báo Tào Tháo sai người đưa thư đến. Du gọi vào. Sứ giả dâng thư lên. Du cầm thư xem thì thấy đề ở ngoài phong bì rằng: “Đại thừa tướng nhà Hán giao cho Chu đô đốc phải mở thư này”. Du nổi giận, không mở thư ra xem nữa, xé nát, quẳng xuống đất và quát sai điệu sứ giả ra chém.
Lỗ Túc can rằng:
- Hai nước đánh nhau, không nên chém sứ giả.
Du không nghe, nói:
- Phải chém để thị oai!
Rồi Du sai chém luôn sứ giả, cho đầy tớ mang đầu về bên Tào. Đoạn Du hạ lệnh cho Cam Ninh làm tiên phong, Hàn Đương làm tả dực, Tưởng Khâm làm hữu dực, Du thì tự lĩnh các tướng đi tiếp ứng; sáng hôm sau, canh tư thổi cơm ăn, canh năm mở thuyền, đánh trống hò reo bắt đầu sang đánh Tào.
Tào Tháo thấy Chu Du xé thư chém sứ giả, bèn nổi giận đùng đùng, lập tức sai Sái Mạo, Trương Doãn và bọn hàng tướng Kinh Châu làm tiền bộ, Tháo tự lĩnh hậu quân, đốc thúc chiến thuyền kéo đến của Tam Giang. Vừa tới nơi, đã thấy thuyền Đông Ngô đen kịt cả sông, một đại tướng ngồi đầu thuyền gọi to lên rằng:
- Ta là Cam Ninh đây, ai dám ra đây quyết chiến với ta không?
Sái Mạo sai em là Sái Huân tiến lên trước. Hai thuyền gần nhau, Cam Ninh giương cung đặt tên bắn sang một phát. Huân ngã gục ngay xuống. Ninh thúc thuyền đánh dấn vào, muôn ngàn cung nỏ nhả tên như mưa, quân Tào không sao địch nổi. Lại có Hàn Đương ở tả, Tưởng Khâm ở hữu, hai mặt cùng xông thẳng vào đội quân Tào. Quân Tào quá nửa là quân vùng Thanh, Từ, xưa nay không quen đánh thuỷ, chèo chống không vững, chiến thuyền chòng chành, nghiêng ngả trên mặt sông. Bên này, ba đội thuyền của bọn Cam Ninh tung hoành trên mặt nước. Chu Du lại thúc thuyền đánh giúp, quân Tào chết hại không biết bao nhiêu mà kể. Đánh nhau từ giờ tỵ đến giờ mùi, Chu Du tuy thắng, nhưng vẫn sợ quân Tào nhiều lắm, mình địch không nổi, lập tức khua chiêng thu thuyền về trại.
Quân Tào thua trận trở về. Tháo lên trại trên cạn, chỉnh đốn lại quân mã, rồi đòi Trương Doãn, Sái Mạo vào trách mắng:
- Quân Đông Ngô ít, thế mà nó đánh được mình, đó là các người không chịu hết lòng đó thôi!
Sái Mạo thưa:
- Quân thuỷ ở Kinh Châu, lâu nay không được luyện tập, mà quân ở Thanh, Từ thì không quen đánh thuỷ, nên mới bị thua. Nay nên lập một thuỷ trại, cho quân Thanh, Từ ở trong, quân Kinh Châu ở ngoài, hàng ngày phải tập tành, khi nào giỏi mới dùng được.
Tháo nói:
- Người đã làm thuỷ quân đô đốc, thế nào tiện thì cứ làm, việc gì còn phải hỏi ta?
Trương, Sái hai người ra luyện quân thuỷ. Suốt dải ven sông, lập ra một thuỷ trại cực to, thuyền lớn đóng xung quanh phía ngoài, thuyền nhỏ ở trong. Chia ra làm hai mươi cửa, có đường đi lối lại nối liền, đèn đuốc sáng rực trời; doanh trại trên cạn dài hơn ba trăm dặm, khói, lửa nghi ngút.
Lại nói, Chu Du được trận về trại, khao thưởng ba quân, sai người báo tin thắng lợi với Ngô hầu. Đêm hôm ấy, Chu Du lên cao đứng trông, thấy mé tây ánh lửa rực trời. Tả hữu bẩm rằng:
- Đó là ánh đèn đuốc ở bên quân Tào đó!
Du cũng hoảng. Hôm sau Du muốn thân đến xem thuỷ trại Tào Tháo, liền sai sửa soạn một chiếc thuyền lầu, đem theo đồ âm nhạc và vài viên tướng khoẻ, mỗi người đeo một bộ cung tên thực tốt, từ từ bơi sang. Đến cạnh trại Tháo, Du truyền đỗ thuyền lại, kèn, sáo nổi lên inh ỏi. Du nhìn trộm thuỷ trại địch, giật mình, nói rằng:
- Thật là đạt mức tuyệt diệu của quân thuỷ!
Lại nói rằng:
- Ai là đô đốc thuỷ quân bên Tào thế?
Tả hữu bẩm:
- Sái Mạo và Trương Doãn.
Du nói:
- Hai người này ở Giang Đông đã lâu, thạo nghề đánh thuỷ, ta phải lập mẹo trừ trước đi, mới có thể phá được Tào Tháo.
Giữa lúc ấy, quân vào báo với Tào Tháo rằng Chu Du đến xem trộm trại. Tháo sai chèo thuyền đuổi bắt. Du thấy cờ hiệu trong trại thuỷ phe phẩy vội sai nhổ neo, chèo thuyền bay vùn vụt; khi thuyền Tháo ra khỏi cửa trại, thì Chu Du đã đi xa hàng chục dặm rồi. Quân Tào đuổi không kịp, quay về báo với Tào Tháo.
Tháo hỏi các tướng:
- Hôm qua ta vừa thua một trận, mất cả nhuệ khí, hôm nay nó lại sang xem trộm trại ta, ta nên dùng kế gì mà phá cho được?
Tháo hỏi chưa dứt lời, có một người bước ra thưa rằng:
- Tôi thuở nhỏ là bạn đồng học với Chu Du, chơi với nhau thân lắm. Nay xin đem ba tấc lưỡi sang Giang Đông dụ người ấy lại hàng.
Tháo mừng lắm, trông ra thì là Tưởng Cán, tự là Tử Dực quê ở Cửu Giang hiện đang làm mạc tân. Tháo bèn hỏi:
- Tử Dực chơi với Chu Du thân lắm à?
Cán thưa:
- Thừa tướng yên tâm, tôi sang tả ngạn chuyến này nhất định thành công.
Tháo lại hỏi:
- Có cần mang đồ vật gì đi không?
Cán nói:
- Chỉ một tiểu đồng đi hầu, với hai người chèo thuyền là đủ.
Tháo mừng lắm, mở tiệc rượu tiễn Tưởng Cán. Cán đội khăn cát đằng, mặc áo vải rộng tay, ngồi một chiếc thuyền con, đến thẳng trại Chu Du, sai người vào báo là có bạn cũ Tưởng Cán lại thăm.
Chu Du đang ngồi trong trướng bàn việc, nghe tin Tưởng Cán đến chơi, cười mà nói rằng:
- Thuyết khách đến đây rồi!
Liền nghé vào tai các tướng dặn dò như thế… như thế. Ai nấy vâng lệnh đi ra. Du sửa lại áo mũ chỉnh tề, dẫn vài trăm tuỳ tùng đều mặc áo gấm, đội mũ hoa, tiền hô hậu ủng đi ra. Tưởng Cán dẫn một tiểu đồng, mặc áo xanh, ngang nhiên bước tới. Du đón tiếp rất lễ độ.
Cán hỏi:
- Công Cẩn lâu nay mạnh khoẻ chớ?
Du đáp:
- Tử Dực xông pha sóng gió đến đây, làm thuyết khách cho Tào Tháo đó chăng?
Cán ngạc nhiên, nói:
- Ta lâu nay không gặp túc hạ, nên đến thăm hỏi, cớ sao lại nghi ta là thuyết khách?
Du cười, nói:
- Ta đây tuy không thông minh bằng Sư Khoáng[1] ngày xưa, nhưng nghe tiếng đàn cũng biết bụng người.
Cán nói:
- Túc hạ bạc đãi cố nhân thế, tôi xin cáo thoái.
Du cười, kéo cánh tay Cán mà nói:
- Ta chỉ sợ anh làm thuyết khách cho Tào Tháo, nếu không có ý ấy, thì can gì phải đi ngay?
Hai người cùng vào trướng, chào hỏi xong, phân chủ khách ngồi chơi, lập tức Du cho mời hết các tay anh kiệt vào ra mắt Tử Dực. Được một lát, các văn quan võ tướng mặc toàn áo gấm, tỳ tướng mặc toàn áo giáp bạc, xếp thành hai hàng đi vào. Du bảo vái chào cả một lượt, rồi mới ngồi sang hai bên. Đoạn Du truyền mở tiệc cực to, cử khúc nhạc thắng trận, mọi người thay phiên nhau đứng dậy mời rượu. Du bảo với các quan rằng:
- Đây là ông bạn học với tôi từ ngày bé, tuy ở bên Giang Bắc đến chơi, nhưng không phải là thuyết khách của Tào Tháo, các quan đừng nghi.
Nói rồi cởi thanh kiếm đeo trong mình giao cho Thái Sử Từ và dặn rằng:
- Ông đeo thanh kiếm này làm người giám tửu. Hôm nay chỉ được nói chuyện bầu bạn vui vẻ với nhau thôi, ai nói động đến chuyện quân sự giữa Đông Ngô với Tào Tháo sẽ bị chém lập tức.
Thái Sử Từ vâng lệnh, đeo thanh gươm ngồi giám tiệc. Tưởng Cán sợ hãi, chẳng dám nói lôi thôi gì cả.
Chu Du nói:
- Tôi từ khi cất quân ra đến nay, chưa từng nhắp một giọt rượu. Hôm nay gặp được cố nhân, lại không có điều chi nghi kỵ, nên uống một bữa thực say!
Nói rồi, Du cười ha hả, cuộc rượu thật thoả thuê.
Trên tiệc, bát đũa ngổn ngang. Lúc đã chếnh choáng hơi men, Du dắt tay Tưởng Cán ra ngoài trướng; quân sĩ áo mũ lịch sự, vác kích cầm giáo đứng hầu, Du hỏi:
- Thế quân ta có hùng tráng không?
Cán đáp:
- Thật là quân như hổ như báo cả.
Du lại đưa Cán đến sau trại, lương thảo chồng chất như núi. Du nói:
- Lương của ta có đủ dùng không?
Cán đáp:
- Quân đã giỏi, lương lại nhiều, quả tiếng đồn không ngoa.
Du giả say, cười ầm lên, nói:
- Tưởng nhớ lại khi ta cùng với Tử Dực còn học với nhau, có mong đâu được như ngày nay.
Cán nói:
- Công Cẩn có biệt tài, được thế cũng đáng!
Du cầm tay Cán, nói:
- Tài trai sinh ở đời gặp được chủ tri kỷ, ngoài là nghĩa vua tôi, trong là tình xương thịt, nói thì nghe, kế thì dùng, hoạ phúc có nhau. Như thế, dẫu đến Tô Tần, Trương Nghi, Lục Giả, Lục Sinh có sống lại, miệng nói như nước, lưỡi sắc như dao, cũng không lay chuyển được lòng ta!
Nói rồi lại cười ầm lên.
Tưởng Cán mặt xám lại như tro. Du lại dắt Cán vào trướng uống rượu với các tướng, nhân đó mà trỏ vào các tướng mà nói:
- Đây toàn là anh kiệt ở Giang Đông cả đấy! Hội hôm nay nên gọi là hội Quần anh.
Bữa rượu kéo dài mãi đến tối, đèn nến thắp lên, Du đứng dậy múa gươm hát mấy câu:
Trượng phu cốt lập công danh
Công danh đã lập, lòng mình thảnh thơi!
Lòng thảnh thơi, vui chơi thích tính,
Chén say rồi đủng đỉnh hát ngông…
Du hát đoạn, cử toạ cười ầm cả lên. Đến canh khuya, Cán tạ từ, nói:
- Tửu lượng tôi không sao kham được nữa.
Du sai cất tiệc, các tướng đâu về đấy.
Du nói:
- Lâu nay không ngủ chung với Tử Dực, nay phải gác chân lên nhau mà ngủ một đêm.
Du giả làm say quá, dắt Cán vào màn, rồi để nguyên cả áo mũ nằm ngủ, nôn oẹ bừa bãi.
Cán ngủ sao được, nghe thấy bên ngoài trống đã điểm canh hai, bèn đứng dậy, trông thấy đèn vẫn còn sáng mà Chu Du thì đã ngủ say, tiếng ngáy như sấm. Cán trông lên bàn, thấy một đống thư từ, mới lẻn ra xem trộm. Đó toàn là thư các nơi gửi về, trong có một phong ngoài đề: “Sái Mạo, Trương Doãn cẩn phong”. Cán giật mình, mở ra xem, trong thư nói như sau:
“Chúng tôi hàng Tào Tháo, không phải có bụng mong phú quý đâu, cũng là bất đắc dĩ. Nay đã lừa được quân Tào nhốt cả trong thuỷ trại rồi. Khi nào được dịp, xin nộp đầu Tào Tháo ở dưới cờ. Nay mai có người đến, sẽ có tin báo, xin chớ nghi ngờ gì cả. Nay kính thư”.
Cán xem xong nghĩ rằng:
- Té ra hai thằng này vẫn kết liên với Đông Ngô!
Lập tức giấu ngay tờ thư ấy vào tay áo, Cán định xem thêm thư khác, thì thấy Chu Du trở mình, bèn vội vàng tắt đèn đi ngủ. Du nói lảm nhảm trong mồm rằng: “Tử Dực, vài hôm nữa cho anh xem đầu Tào Tháo!” Lại thấy Du nói: “Tử Dực! Anh hãy ở đây, ta sẽ cho anh xem đầu giặc Tháo!” Lúc Cán hỏi lại thì Chu Du đã ngủ khì ra rồi.
Cán nằm trên giường, đến mãi canh tư, thấy có người vào trướng gọi: “Đô đốc đã tỉnh chưa?” Chu Du ra bộ nằm mê sực tỉnh, hỏi rằng:
- Ai nằm trên giường thế kia?
Người ấy đáp:
- Đô đốc mời Tử Dực cùng ngủ, đã quên rồi à?
Du hối hận nói:
- Ta chưa khi nào uống rượu say thế này; hôm nay say quá, không biết có nói lỡ điều gì không?
Người ấy nói:
- Giang Bắc có người đến đây…
Du nói:
- Nói se sẽ chứ!
Rồi gọi Cán:
- Tử Dực! Tử Dực!
Cán bấy giờ vẫn tỉnh, nhưng vờ ngủ say không thưa, Du lẻn ra ngoài trướng. Cán lắng tai nghe lỏm, thì thấy người bên ngoài nói rằng: “Trương Doãn, Sái Mạo cho người lại bảo chưa thể nào hạ thủ được…” Những câu sau nói nhỏ quá nên Cán nghe không rõ.
Một lát, Chu Du trở vào, lại gọi:
- Tử Dực!
Cán vẫn vờ ngủ không thưa. Du cũng cởi áo đi ngủ.
Cán nằm nghĩ thầm rằng:
- Chu Du là người cẩn thận, sáng dậy không thấy thư, tất nhiên sẽ không để cho mình được thoát!
Vừa sang canh năm, Cán dậy gọi Chu Du. Du vẫn ngủ say. Cán bèn đội khăn mặc áo, lẻn ra ngoài trướng, gọi tiểu đồng, đi thẳng đến cửa trại. Quân canh hỏi:
- Tiên sinh đi đâu?
Cán nói:
- Ta ở đây mãi, sợ lỡ việc đô đốc, nên ta tạm cáo từ.
Quân sĩ cũng không cản trở gì cả.
Cán xuống thuyền bơi như bay về ra mắt Tào Tháo.
Tháo hỏi:
- Tử Dực đi có được việc không?
Cán thưa:
- Chu Du chí khí cao nhã lắm, không sao dụ được.
Tháo giận, nói:
- Đi đã không được việc, lại bị nó chê cười cho à?
Cán thưa:
- Tuy rằng không dụ được Chu Du, nhưng cũng điều tra được một việc giúp thừa tướng. Xin hãy cho tả hữu lui cả ra ngoài.
Cán lấy thư ra và thuật lại đầu đuôi câu chuyện cho Tào Tháo nghe.
Tháo nổi giận, nói:
- Chà! Hai thằng dám vô lễ thế à?
Lập tức cho đòi Trương Doãn, Sái Mạo vào. Tháo hỏi:
- Nay ta định sai các ngươi tiến quân đây!
Mạo bẩm:
- Quân sĩ tập chưa được giỏi, không nên tiến vội.
Tháo gắt rằng:
- Nếu đợi đến lúc quân sĩ tâp giỏi, thì đầu tao đã nộp cho Chu Du rồi!
Hai người không hiểu ý thế nào, lúng túng chẳng biết nói năng ra sao. Tháo bèn quát võ sĩ lôi hai người ra chém. Một lát võ sĩ đem đầu vào dâng, Tháo sực nghĩ ra ngay, nói rằng:
- Thôi! Ta mắc mẹo rồi!
Người sau có thơ than rằng:
Xưa nay Tào Tháo tiếng khôn ngoan,
Khôn thế sao lại mắc mẹo gian?
Hỡi ơi! Sái, Trương, quân bán chúa,
Rước voi giày mả, chết không oan!
Các tướng thấy Tháo giết Trương, Sái, bèn vào hỏi nguyên nhân làm sao, Tháo biết mình mắc mưu, nhưng vẫn không chịu nhận lỗi, bèn bảo các tướng rằng:
- Hai người ấy khinh thường quân pháp nên ta giết đi.
Ai nấy đều thở dài buồn bã. Tháo chọn Mao Giới và Vu Cấm cử thay làm thuỷ quân đô đốc.
Quân do thám tin về cho Chu Du. Du mừng rỡ, nói:
- Ta chỉ lo hai người ấy, nay đã trừ xong, lòng ta thanh thản vô cùng.
Lỗ Túc nói:
- Đô đốc dùng binh như thế, lo gì chẳng phá được Tào Tháo.
Du nói:
- Ta chắc rằng các tướng không ai hiểu mưu ta, chỉ có Gia Cát Lượng kiến thức hơn ta, chắc mẹo này cũng không giấu được hắn. Tử Kính thử sang dò xem hắn có biết hay không, rồi về báo cho ta.
Ấy là:
Muốn đem phản gián mưu vừa đạt,
Ướm hỏi người ngoài có biết không?
Chưa biết Lỗ Túc đi dò Khổng Minh thế nào, xem đến hồi sau mới rõ.
   




Chú thích cuối trang
 Sư Khoáng: nhạc sư nước Tấn thời Xuân thu, rất giỏi phân biệt âm thanh.
Dùng chước lạ, Khổng Minh mượn tên
Dâng kế mật, Hoàng Cái chịu nhục
Lỗ Túc vâng lời Chu Du xuống thuyền thăm dò Khổng Minh, Khổng Minh đón vào khoang thuyền ngồi chơi. Túc nói:
- Mấy bữa nay bận việc quân, chưa lúc nào rảnh đến hầu chuyện tiên sinh được.
Khổng Minh nói:
- Chính tôi cũng chưa đến mừng đô đốc được.
Túc hỏi:
- Có việc gì mà mừng?
Khổng Minh nói:
- Việc Công Cẩn sai ông đến dò tôi xem có biết hay không, việc ấy chính nên mừng.
Lỗ Túc tái mặt hỏi:
- Sao tiên sinh biết?
Khổng Minh đáp:
- Mẹo ấy chỉ lừa được Tưởng Cán. Tào Tháo tuy cũng mắc mẹo, nhưng hắn tất nghĩ ra, song không chịu nhận lỗi đâu. Nay Trương, Sái hai người đã chết, Giang Đông không phải lo gì nữa, sao chẳng mừng được! Tôi lại nghe Tào Tháo cho Vu Cấm, Mao Giới lên thay lĩnh chức thuỷ quân đô đốc. Hai người ấy chỉ có mang tính mệnh cả thuỷ quân Tào Tháo mà quẳng đi, chớ làm chi được!
Lỗ Túc nghe xong, nói một vài câu qua loa rồi từ biệt ra về. Khổng Minh dặn Lỗ Túc:
- Tử Kính có về, đừng nói với Công Cẩn rằng tôi biết trước việc ấy nhé! Sợ rồi Công Cẩn mang lòng ghen ghét. Lại kiếm chuyện để mưu hại tôi.
Lỗ Túc vâng lời trở về, ra mắt Chu Du, kể hết đầu đuôi, Du thất kinh, nói:
- Người này quyết không sao để được, ta phải chém đi mới xong.
Lỗ Túc can:
- Nếu ta giết Khổng Minh, sẽ bị Tào Tháo cười cho.
Du nói:
- Ta sẽ lấy phép công mà chém, cho hắn chết cũng không oán được ta.
Lỗ Túc hỏi:
- Phép công gì?
Du nói:
- Tử Kính không phải nói, đến mai sẽ biết.
Hôm sau, Du hội cả các tướng dưới trướng, mời Khổng Minh đến bàn việc. Khổng Minh đến, Du hỏi:
- Nay sắp đánh nhau với Tào Tháo ở trên mặt sông, nên dùng vũ khí gì đánh cho tiện?
Khổng Minh thưa:
- Trên mặt sông lớn, cốt lấy cung tên làm đầu.
Du nói:
- Lời tiên sinh hợp ý tôi lắm! Hiện trong quân đang thiếu tên bắn, phiền tiên sinh trông nom giúp cho việc làm mười vạn chiếc tên. Đây là việc công, xin tiên sinh chớ nên từ chối.
Khổng Minh nói:
- Đô đốc đã sai, tôi xin hết sức. Xin hỏi mười vạn tên khi nào dùng đến?
Du hỏi:
- Trong mười hôm, có làm xong không?
Khổng Minh nói:
- Quân Tào nay mai sắp đến, nếu đợi mười ngày, việc lớn hỏng mất.
Du hỏi:
- Tiên sinh liệu độ mấy hôm thì xong?
Khổng Minh thưa:
- Trong nội ba ngày sẽ nộp đủ mười vạn tên.
Du nói:
- Việc quân không phải trò đùa đâu!
Khổng Minh nói:
- Đâu có dám đùa với đô đốc, tôi xin làm giấy cam đoan, nếu ba ngày không xong, cam chịu trọng tội.
Du mừng lắm, gọi ngay quan chính tư[1] mang giấy tờ ra làm cam kết, rồi mở tiệc khoản đãi và nói:
- Khi nào xong việc, sẽ có hậu thưởng.
Khổng Minh nói:
- Hôm nay đã không kịp rồi, ngày mai bắt đầu làm, đến ngày thứ ba, xin đô đốc sai năm trăm quân đến bờ sông nhận tên đem về.
Khổng Minh uống thêm vài chén rồi từ biệt.
Lỗ Túc hỏi Chu Du:
- Người này nói khoác chăng?
Du nói:
- Rõ ràng hắn tự mua lấy cái chết, chứ ta cũng không bắt ép gì hắn. Hôm nay đông đủ mặt các quan, làm tờ cam kết, dù hắn có mọc cánh cũng không bay thoát. Ta dặn bọn thợ cố làm dây dưa, và không cấp đủ cho đồ dùng, tất nhiên hắn lỡ hẹn. Khi ấy ta trị tội, xem có kêu ca được nữa không? Tử Kính thử sang thăm dò tình hình, về báo cho ta biết.
Lỗ Túc vâng lệnh, đến gặp Khổng Minh.
Khổng Minh nói:
- Ta đã bảo Tử Kính đừng nói chuyện gì với Công Cẩn, e Công Cẩn lại tìm kế hại ta. Không ngờ Tử Kính không chịu giấu giếm hộ, hôm nay, quả nhiên lại có chuyện. Trong ba ngày, làm sao vót nổi mười vạn tên, Tử Kính phải cứu ta mới được.
Túc nói:
- Ông tự rước lấy tội, tôi biết cứu làm sao bây giờ?
Khổng Minh nói:
- Tử Kính cho ta mượn hai chục chiếc thuyền, mỗi chiếc dùng ba chục tay thuỷ thủ tốt. Trên thuyền căng vải xanh che chung quanh, và xếp hơn nghìn bó cỏ ở hai bên mạn thuyền. Ta sẽ có kế. Đến ngày thứ ba bảo đảm có đủ mười vạn tên cho mà xem. Nhưng chớ để cho Công Cẩn biết nữa, nếu hắn biết thì kế ta hỏng mất đó.
Túc vâng lời, nhưng chưa hiểu rõ mưu mô khổng Minh ra sao. Lúc về gặp Chu Du, quả nhiên Túc không đả động gì đến việc mượn thuyền, chỉ bảo không thấy Khổng Minh dùng đến tre, gỗ, lông chim và sơn nhựa gì cả, chỉ nói rằng đã có cách.
Du rất ngạc nhiên nói:
- Thử đợi đến hôm thứ ba xem sao.
Lỗ Túc cắt riêng hai chục chiếc thuyền nhanh nhẹ, mỗi chiếc ba chục người bơi, đủ đồ vải căng, cỏ bó, dự bị sẵn sàng cho Khổng Minh. Ngày thứ nhất không thấy gì, ngày thứ hai cũng vậy. Mãi đến hôm thứ ba, độ canh tư, Khổng Minh mới lén sai người mời Lỗ Túc xuống thuyền. Túc hỏi:
- Ông gọi tôi đến có việc gì?
Khổng Minh nói:
- Mời ông cùng đi lấy tên một thể.
Túc hỏi:
- Lấy tên ở đâu?
Khổng Minh nói:
- Tử Kính không phải hỏi, cứ đi sẽ biết.
Nói rồi, sai lấy thừng chạc dàng cả hai chục thuyền làm một, cho bơi thẳng lên phía bắc.
Đêm ấy, sương mù phủ kín trời, trên mặt sông lại càng mờ mịt, giáp mặt không trông thấy nhau. Khổng Minh giục quân chèo thuyền đi thật gấp. Quả thật là sương mù rất đẹp, rất nên thơ.
Lỗ Túc sợ hãi hỏi:
- Quân Tào ùa ra thì làm thế nào?
Khổng Minh cười đáp:
- Tôi chắc Tào Tháo thấy sương mù thế này, không dám cho quân ra. Chúng mình cứ yên trí uống rượu làm vui, đợi khi nào sương tan thì về.
Canh năm đêm ấy, thuyền đến sát thuỷ trại của Tào Tháo. Khổng Minh sai đổ thuyền quay mũi về hướng tây, dàn thành hàng chữ nhất, rồi đánh trống và hò reo ầm ĩ.
Trong trại Tào, nghe thấy tiếng trống đánh, tiếng reo hò, Mao Giới, Vu Cấm vội vàng phi báo với Tào Tháo.
Tháo truyền lệnh rằng:
- Sương mù dày đặc, quân giặc kéo đến bất thần, tất có mai phục, không nên khinh động.
Tháo chỉ ra lệnh cho quân cung nỏ bắn tứ tung ra, lại sai người lên trại cạn gọi Trương Liêu, Từ Hoảng mỗi người dẫn ba nghìn quân cung nỏ cấp tốc đến bờ sông trợ chiến. Hiệu lệnh đến nơi thì Vu Cấm, Mao Giới sợ quân nam tràn vào thuỷ trại, đã sai quân bắn rào rào ra rồi một lát quân trên cạn cũng đến, ước hơn vạn người, đều chĩa vào chỗ có tiếng trống bắn xuống như mưa. Khổng Minh một mặt lại sai quay mũi thuyền về phía tây, áp vào trại thuỷ đỡ lấy tên; một mặt vẫn cứ thúc trống hò reo ầm ĩ. Khi mặt trời đã mọc, sương mù dần tan, Khổng Minh sai thu thuyền kéo về. Các bó cỏ trên hai chục chiếc thuyền, bó nào cũng chi chít những tên cắm.
Khổng Minh sai quân sĩ đồng thanh reo to lên rằng:
- Tạ ơn thừa tướng giúp tên!
Khi quân vào báo cho Tháo biết, thì thuyền nhẹ nước xuôi, đã đi xa hàng hai chục dặm rồi, đuổi không kịp nữa. Tào Tháo tức bực vô cùng.
Khổng Minh quay thuyền về nói với Lỗ Túc rằng:
- Mỗi thuyền được ước chừng năm sáu nghìn tên mà không hề tốn chút công sức nào của Đông Ngô cả. Thế là đã được hơn mười vạn tên, nay mai lại đem tên bắn lại quân Tào, chẳng tiện lắm ư?
Túc nói:
- Tiên sinh thực là thần thánh. Làm sao lại biết đêm nay có sương mù lớn thế?
Khổng Minh nói:
- Làm tướng mà không biết thiên văn, không tường địa lý, không biết được thuật pháp, không hiểu được âm dương, không tính trận đồ, không giỏi binh thế, đó là tướng xoàng. Từ ba hôm trước, ta đã tính biết hôm nay có sương mù lớn, nên mới dám nhận thời hạn ba hôm. Công Cẩn hạn cho ta mười ngày, mà thuyền thợ, đồ dùng không có gì đủ, chực đem một tội lỗi nhỏ để hại ta; nhưng số mệnh ta đã có trời, hại làm sao nổi!
Lỗ Túc chịu là giỏi.
Thuyền vừa cập bến, đã thấy năm trăm quân của Chu Du đứng chực lĩnh tên. Khổng Minh bảo lên thuyền mà lấy, được hơn chục vạn chiếc đem về nộp. Lỗ Túc vào ra mắt Chu Du, thuật lại cả việc đi lấy tên. Du giật mình, thở dài than rằng:
- Khổng Minh mẹo thần, tính giỏi, ta thật không bằng!
Ngày sau có thơ rằng:
Sương mù mờ mịt khắp Trường Giang
Gần xa không rõ nước mênh mang
Tên bắn như mưa thuyền không núng
Khổng Minh tài trí vượt Chu lang.
Một lát, Khổng Minh cũng vào gặp Chu Du. Du ra ngoài trại đón và khen rằng:
- Mưu kế tiên sinh tài tình lắm, khiến người ta phải kính phục.
Khổng Minh nói:
- Đó chỉ là một chút mẹo vặt, có gì là lạ đâu?
Du mời Khổng Minh vào trướng uống rượu, rồi hỏi rằng:
- Hôm qua, chúa công tôi cho người đến thúc giục tiến quân, tôi chưa nghĩ được mẹo gì lạ, xin tiên sinh dạy cho.
Khổng Minh thưa:
- Tài tôi thường lắm, nghĩ sao được diệu kế?
Du nói:
- Hôm trước, tôi xem thuỷ trại của Tào Tháo cực kỳ nghiêm chỉnh, rất hợp binh pháp, không dễ phá được. Tôi đã nghĩ ra một mẹo, chưa biết có dùng được hay không, xin tiên sinh quyết định giúp.
Khổng Minh nói:
- Đô đốc đừng nói vội, xin hãy cùng viết vào lòng bàn tay, xem có khớp nhau không đã.
Du mừng lắm, sai đem nghiên bút ra, viết ngầm vào bàn tay một chữ, rồi đưa bút cho Khổng Minh. Khổng Minh cũng viết một chữ. Hai người ngồi lại gần, xoè bàn tay ra, rồi cùng cười ầm cả lên. Té ra trong tay Chu Du đề một chữ “Hoả”, trong tay Khổng Minh cũng một chữ “Hoả”.
Chu Du nói:
- Hai chúng ta đã hợp ý nhau, chắc không còn nghi ngờ gì nữa, xin đừng tiết lộ cho ai biết.
Khổng Minh nói:
- Việc là việc chung cả hai nhà, có lẽ đâu lại để lộ chuyện. Tào Tháo đã hai phen mắc mẹo của tôi, nhưng chắc lần này hắn cũng không phòng bị. Đô đốc cố gắng lên thì thế nào cũng được.
Tan tiệc đâu về đấy, các tướng không ai biết câu chuyện ra sao.
Tào Tháo, từ khi mất mười lăm mười sáu vạn tên, trong lòng buồn tức lắm. Tuân Du hiến kế rằng:
- Giang Đông có Chu Du, Gia Cát Lượng, hai người hợp mưu với nhau, khó lòng phá nổi. Ta hãy sai người đến Giang Đông trá hàng, làm tay trong, dò xét đầy đủ tình hình mới có thể phá được.
Tháo nói:
- Ngươi nói chính hợp ý ta. Vậy ngươi thử xem ai đi làm được việc ấy?
Tuân Du thưa:
- Sái Mạo bị giết, em hắn là Sái Trung, Sái Hoà hiện đang làm phó tướng. Thừa tướng nên ban ơn cho họ vui lòng gắn bó với ta, rồi sai sang trá hàng, tất Đông Ngô không nghi kỵ.
Tháo theo lời ấy, đang đêm, gọi hai người vào trướng dặn rằng:
- Hai người hãy dẫn một số quân sang Đông Ngô trá hàng, hễ thấy động tĩnh gì, sai người về mật báo ngay. Khi nào thành công, ta sẽ ban thưởng thêm; chớ có ăn ở hai lòng nhé!
Sái Trung, Sái Hoà bẩm:
- Xin thừa tướng chớ nghi, vợ con chúng tôi ở cả Kinh Châu, chúng tôi có đâu dám thế! Hai chúng tôi quyết lấy đầu Chu Du, Gia Cát Lượng về dâng dưới trướng.
Tháo trọng thưởng cho hai người.
Hôm sau, hai người đem năm trăm tên quân, chở vài chiếc thuyền, thuận gió xuôi xuống bờ phía nam. Chu Du đang tính toán việc tiến quân, chợt có tin báo có thuyền ở Giang Bắc sang, tự xưng tên là Sái Hoà, Sái Trung, em ruột Sái Mạo, đến hàng. Du cho gọi vào. Hai người vừa khóc vừa lạy, nói:
- Anh chúng tôi là Sái Mạo, không có tội gì, tự dưng bị Tào Tháo giết mất. Chúng tôi muốn báo thù cho anh, nên sang đầu hàng. Mong đô đốc thu dụng cho, chúng tôi xin làm tiền bộ.
Du mừng rỡ, trọng thưởng cho hai người rồi sai dẫn quân theo Cam Ninh làm tiền bộ. Hai người lạy tạ, chắc mẩm Du đã trúng kế rồi.
Du gọi Cam Ninh vào dặn rằng:
- Hai thằng này không mang theo vợ con, chẳng phải thực bụng hàng đâu, đúng Tào Tháo sai đến làm gian tế đây. Nay ta muốn biến kế của nó thành kế của mình, để nó báo tin về cho Tào Tháo. Ngươi phải ân cần khoản đãi chúng nó, nhưng phải đề phòng. Đợi khi nào ta cất quân đi, sẽ đem giết chúng để tế cờ. Ngươi phải cẩn thận, không được để lỡ việc.
Cam Ninh vâng lời trở ra. Lỗ Túc vào gặp Chu Du, nói:
- Việc Sái Trung, Sái Hoà đến hàng chỉ là giả dối, không nên dùng vội.
Du mắng rằng:
- Hai người ấy vì Tào Tháo giết oan mất anh, nên đến hàng để trả thù, giả gì mà giả? Ngươi hay đa nghi thế, dùng làm sao được người giỏi trong thiên hạ?
Túc nín lặng lui ra, đến nói với Khổng Minh. Khổng Minh chỉ cười.
Túc nói:
- Ông cười gì thế?
Khổng Minh nói:
- Tôi cười ông không biết đó là Công Cẩn dùng mưu. Sông to cách trở, do thám đi lại khó khăn. Tháo sai hai người sang trá hàng để dò xét quân ta. Công Cẩn lại muốn mượn kế nó làm kế mình, dùng chúng thông báo tin tức đỡ mình. Binh pháp cần phải dối trá, mưu của Công Cẩn rất hay.
Túc bấy giờ mới hiểu.
Đêm hôm ấy, Chu Du đang ngồi trong trướng, bỗng thấy Hoàng Cái lẻn vào ra mắt, Du hỏi:
- Công Phúc đang đêm đến đây, tất có mưu hay bàn bạc.
Cái thưa:
- Quân giặc nhiều, quân ta ít, không nên cầm cự lâu. Sao không dùng kế hoả công?
Du hỏi:
- Ai xui ông hiến kế ấy?
Cái thưa:
- Tôi tự nghĩ ra, không có ai bày vẽ cho cả.
Du nói:
- Ta vẫn muốn dùng kế ấy, cho nên mới giữ Sái Trung, Sái Hoà ở đây, để chúng nó đưa tin tức về cho nhau; nhưng hiềm vì không có ai thi hành kế trá hàng cho ta cả.
Cái thưa:
- Tôi xin đảm nhận.
Du nói:
- Nếu không chịu khổ sở một chút, thì khi nào Tào Tháo chịu tin?
Cái thưa:
- Tôi đội hậu ân của họ Tôn, dẫu gan óc lầy đất cũng cam.
Du lại tạ rằng:
- Ông chịu thực hiện kế khổ nhục này, thật là may mắn cho Giang Đông quá.
Cái thưa:
- Tôi chết cũng không oán hận chút nào!
Nói rồi tạ trở ra.
Hôm sau, Chu Du nổi trống họp các tướng. Khổng Minh cũng đến, Chu Du nói:
- Tháo dẫn hàng trăm vạn quân, doanh trại liên tiếp hơn ba trăm dặm, không phải một ngày mà phá xong được. Nay truyền cho các tướng, mỗi người phải lĩnh lương thảo ba tháng, phòng chống nhau với giặc.
Du nói vừa dứt lời, Hoàng Cái tiến ra nói:
- Đừng nói ba tháng, dẫu cấp cả ba mươi tháng lương thảo cũng chẳng làm trò gì? Nội trong cả tháng này, có thể phá được thì phá, nếu không phá nổi, thì chi bằng theo lời Tử Bố, bỏ giáp quẳng gươm, ngoảnh mặt về bắc mà hàng đi cho rảnh!
Chu Du nghe nói tái mặt lại, nổi giận đùng đùng, thét lớn:
- Ta đây phụng mệnh chúa công, chỉ huy ba quân phá Tào, ai dám nói đến hàng là chém. Nay đang lúc hai bên đối địch, mày dám mở mồm ra nói câu ấy, làm ngã lòng quân, không chém đầu mày thì còn bảo được ai!
Liền quát võ sĩ lôi Cái ra chém.
Cái cũng tức giận nói lớn:
- Ta từ khi theo Phá lỗ tướng quân[2] đến nay, tung hoành miền đông nam trải qua ba đời rồi, khi ấy đâu đã có ngươi?
Du giận quá, thét chém cho mau.
Cam Ninh bước lên can rằng:
- Công Phúc là cựu thần của Đông Ngô, xin hãy khoan thứ cho.
Du quát lên rằng:
- Sao mày dám nói lôi thôi, làm loạn phép tắc của tao?
Lập tức thét tả hữu lấy roi vụt Cam Ninh túi bụi rồi đuổi ra.
Các quan đều quỳ xuống can rằng:
- Tội Hoàng Cái thực là đáng chết, nhưng giết Cái thì không có lợi cho việc quân. Xin đô đốc hãy khoan thứ cho, tạm ghi tội lại đó, đợi phá xong Tào Tháo, sẽ đem chém cũng chưa muộn.
Chu Du vẫn hầm hầm, các quan nằn nì kêu van mãi, Du mới nói:
- Nếu không nể mặt các quan, thì ta quyết lấy đầu mày đó! Nay hãy tha cho mày tội chết!
Du bèn sai tả hữu vật cổ Hoàng Cái xuống đánh một trăm roi.
Các quan lại kêu van, Du hất đổ cả bàn đi, quát mắng các quan, và thét bảo đánh đập. Tả hữu lật áo Hoàng Cái, vật sấp xuống đánh, đánh năm chục roi. Các quan lại xúm vào xin tha. Du đứng dậy, chỉ mặt Hoàng Cái nói:
- Mày còn dám coi thường tao chăng? Hãy cho chịu năm chục trượng đó, nếu còn vô lễ, hai tội sẽ trị nhân thể.
Rồi vừa đi vừa mắng nhiếc om sòm trở vào trong trướng.
Các tướng ra vực Hoàng Cái dậy, thấy da thịt tả tơi, máu me đầm đìa. Khi về đến trại, ngất đi mấy lần. Ai đến hỏi thăm cũng ứa hai hàng nước mắt. Lỗ Túc cũng đến thăm, rồi xuống thuyền trách Khổng Minh rằng:
- Hôm nay Công Cẩn giận đánh Hoàng Cái như thế, chúng tôi là bộ hạ Công Cẩn nên không ai dám mạnh dạn can ngăn đã đành; tiên sinh là khách, sao chỉ thu tay đứng xem, không nói giúp cho một câu gì?
Khổng Minh cười nói:
- Tử Kính còn dối ta!
Túc nói:
- Từ khi tôi cùng với tiên sinh sang sông đến giờ, chưa hề có câu gì dối nhau, sao tiên sinh lại nói thế?
Khổng Minh nói:
- Thế ra Tử Kính không biết Công Cẩn đánh đau Hoàng Cái là mưu kế đó ư? Tại sao còn cần đến tôi khuyên can?
Lỗ Túc bấy giờ mới biết, Khổng Minh nói:
- Không dùng mẹo khổ nhục, làm sao đánh lừa được Tào Tháo? Nay đô đốc tất sai Hoàng Cái sang trá hàng, và mượn bọn Sái Trung đưa tin về trước. Tử Kính có đến chơi với Công Cẩn, chớ có nói là ta biết mẹo ấy nhé! Chỉ nên nói rằng ta cũng oán Công Cẩn ác quá là xong.
Túc về, vào gặp Chu Du. Du mời vào sau trướng ngồi chơi. Túc nói:
- Hôm nay, làm sao đô đốc đánh Công Phúc đau quá thế?
Du hỏi:
- Các tướng có ai oán ta không?
Túc nói:
- Nhiều người thắc mắc lắm!
Du hỏi:
- Ý Khổng Minh thế nào?
- Khổng Minh cũng oán đô đốc bạc đãi tướng sĩ.
Du cười, nói:
- Phen này ta mới lừa được Khổng Minh!
Túc hỏi làm sao, Du nói:
- Đánh Hoàng Cái là kế của ta đó. Ta muốn sai hắn trá hàng, nên trước hết dùng kế khổ nhục để đánh lừa Tào Tháo, rồi sau dùng kế hoả công thì mới có thể thắng được.
Túc trong bụng phục Khổng Minh là cao kiến, nhưng không dám nói rõ.
Hoàng Cái đau nằm trong trướng, các tướng đều đến hỏi thăm. Cái chẳng nói năng gì cả, cứ thở dài sườn sượt. Chợt báo có quan tham mưu là Hám Trạch lại thăm. Cái sai mời vào tận chỗ nằm, đuổi tả hữu lui ra ngoài. Hám Trạch hỏi:
- Tướng quân có thù hằn gì với đô đốc chăng?
Cái nói:
- Không thù hằn gì cả.
Trạch nói:
- Thế thì vừa rồi ông bị đòn có phải là kế khổ nhục không?
Cái hỏi:
- Sao ông biết?
- Tôi xem bộ dạng Công Cẩn, mười phần đã đoán được chín.
Cái nói:
- Tôi chịu hậu ân họ Tôn đã ba đời, không lấy gì báo được, nên hiến kế ấy để phá Tào Tháo. Thân tôi tuy đau khổ, nhưng lòng tôi hả hê. Tôi xem trong đám tướng sĩ, không ai là tâm phúc của tôi; duy có ông là người trung nghĩa, nên tôi mới dám thổ lộ can trường.
Trạch nói:
- Phải chăng ông muốn dùng tôi dâng thư trá hàng?
Cái đáp:
- Quả thị tôi có ý đó, chưa biết ông có chịu giúp cho không?
Hám Trạch hớn hở nhận lời.
Ấy thực là:
Dũng tướng quên mình mong báo chúa,
Mưu thần vì nước lại đồng tâm.
Chưa biết Hám Trạch sang dâng thư làm sao, xem đến hồi sau sẽ rõ.
   




Chú thích cuối trang
 Quan giữ hình luật trong quân.
 Chỉ Tôn Kiên.

Hám Trạch mật dâng thư giả hàng
Bàng Thống khéo dùng liên hoàn kế
Hám Trạch tự là Đức Nhuận, người làng Sơn Âm, quận Cối Kê, nhà nghèo nhưng chăm học, phải đi làm thuê; thường hay mượn sách về xem, xem xong một lượt là nhớ như in không bao giờ quên nữa. Trạch lại có tài biện bác, có can đảm. Tôn Quyền dùng làm tham mưu. Trạch chơi với Hoàng Cái thân thiết lắm, nên Cái nhờ dâng thư trá hàng, Trạch vui lòng nhận ngay và nói:
- Đại trượng phu ở đời, không lập được công danh sự nghiệp gì, chẳng hoá ra cùng với cỏ cây mục nát ư? Ông đã quên mình báo chúa, đây tôi dám há tiếc thân!
Hoàng Cái nhảy choàng xuống đất lạy tạ. Trạch nói:
- Việc không nên để lâu, xin đi ngay hôm nay!
Cái nói:
- Thư tôi đã viết sẵn rồi.
Trạch nhận lấy thư. Đến đêm giả làm ông lão đánh cá, bơi chiếc thuyền con sang thẳng bờ phía bắc. Đêm hôm ấy, sao lạnh đầy trời; vừa canh ba thì thuyền Hám Trạch tới cạnh thuỷ trại quân Tào. Quân tuần tiễu trên sông bắt được, vào báo với Tào Tháo.
Tháo hỏi:
- Có lẽ là gian tế chăng?
Quân thưa:
- Chỉ có một ông lão đánh cá, tự xưng là tham mưu bên Đông Ngô, tên là Hám Trạch, lại trình việc cơ mật.
Tháo sai dẫn vào. Bấy giờ trên trướng, đèn đuốc sáng loà, Tháo ngồi ngất ngưởng trên ghế hỏi rằng:
- Ngươi đã làm tham mưu bên Đông Ngô, nay đến đây có việc chi?
Trạch nói:
- Trước kia, tôi thấy người ta đồn Tào thừa tướng cầu người hiền như kẻ khát nước. Nay nghe lời nói thật không ăn khớp chút nào. Thôi, Hoàng Công Phúc, ngươi nghĩ lầm mất rồi!
Tháo nói:
- Ta sắp sửa đánh nhau với Đông Ngô, thấy ngươi một mình đi lẻn đến đây, lẽ nào chẳng phải hỏi?
Hám Trạch nói:
- Hoàng Công Phúc là cựu thần ba đời bên Đông Ngô. Nay vô cớ bị Chu Du dập đánh khổ sở trước mặt các tướng. Công Phúc lấy làm căm tức vô cùng, bởi vậy, muốn sang hàng thừa tướng để báo thù, liền bàn với tôi. Tôi với ông ta như anh em ruột một nhà, cho nên dâng hộ tờ mật thư, chưa biết thừa tướng có dùng cho không?
Tháo hỏi:
- Thư đâu?
Hám Trạch đưa thư ra trình. Dưới đèn, Tháo mở xem, trong thư nói rằng:
“Tôi là Hoàng Cái, đội ơn sâu họ Tôn, đáng lẽ không dám ăn ở hai lòng mới phải. Nhưng xét tình thế bây giờ, thì đem quân sáu quận Giang Đông mà địch với quân trăm vạn ở Trung Nguyên, ít địch sao nổi nhiều, thiên hạ đều thấy rõ cả. Các tướng sĩ bên Đông Ngô, bất kỳ khôn dại, ai cũng biết cái lẽ như thế. Duy có Chu Du ba tuổi ranh, tính tình nông nổi, tự cao tự đại, muốn đem trứng chọi với đá, lại ỷ thế lộng quyền, phạt kẻ vô tội mà không thương người có công. Tôi là cựu thần, bỗng dưng bị đánh, căm tức biết ngần nào!
“Tôi được nghe tiếng thừa tướng đem bụng chân thành đãi người, nhún mình dùng kẻ sĩ. Vậy tôi xin đem quân lại hàng, mong lập lấy chút công và rửa nhục trước. Lương thảo cùng đồ khí giới, sẽ xin đem cả thuyền lại nộp sau. Khóc ra máu, lạy trình thư này, xin đừng hồ nghi gì cả!”
Tháo ngồi trên ghế, xem đi xem lại tờ thư hơn chục lượt, rồi bỗng dưng đập tay xuống án, trợn mắt nổi giận lên mà nói rằng:
- Hoàng Cái dùng kế khổ nhục, sai người đến dâng thư trá hàng, dám to gan đánh trống qua cửa nhà sấm phải không?
Và thét tả hữu lôi Trạch ra chém. Khi Trạch bị dẫn đi, nét mặt vẫn thản nhiên như không. Trạch chỉ ngẩng mặt lên trời cười ngất.
Tháo sai lôi lại quát hỏi:
- Ta đã biết rõ ruột gan ngươi, ngươi còn cười gì nữa?
Trạch nói:
- Thưa! Tôi đâu dám cười ông! Tôi cười Hoàng Công Phúc không biết người đó thôi!
Tháo hỏi:
- Thế nào là không biết người?
Trạch đáp:
- Chém thì cứ chém, việc gì phải hỏi lôi thôi?
Tháo nói:
- Ta đây học binh thư từ nhỏ, còn lạ gì những mẹo ấy, ngươi lừa ai thì được, chớ lừa ta sao nổi?
Trạch nói:
- Xin ông hãy cho tôi biết mẹo lừa ở chỗ nào?
Tháo nói:
- Để ta nói thẳng cho ngươi biết, để ngươi có chết cũng không oán thán gì được nữa. Nếu các ngươi thật tâm muốn hàng, sao không định trước ngày giờ? Thế có phải là gian hay không?
Trạch nghe xong, phì cười, nói:
- Nói thế mà không biết thẹn, dám khoe khoang biết nhiều binh thư! Thôi, biết điều thì thu quân về cho mau, đừng có đánh chác gì nữa mà bị Chu Du tóm được. Đồ vô học kia! Tiếc thay, ta chết uổng về tay ngươi!
Tháo hỏi:
- Sao lại bảo ta là vô học?
Trạch đáp:
- Ngươi không biết cơ mưu, không hiểu đạo lý, vô học rành rành ra đấy còn gì!
Tháo nói:
- Ngươi cứ vạch những chỗ không đúng của ta ra xem nào?
Trạch nói:
- Ngươi không kính trọng người hiền, hà tất phải nhiều lời làm gì? Ta chỉ có chết là hết!
Tháo nói:
- Nếu ngươi đưa ra đủ lý lẽ thì tự nhiên ta sẽ kính phục ngay.
Trạch nói:
- Thế ngươi không biết câu: “Trốn chúa đi lén, không thể hẹn giờ sao? Nếu hẹn trước mà lỡ ra việc trong chưa xong, ngoài đã có binh tiếp ứng, chẳng hoá ra lộ chuyện mất à? Do đó gặp lúc thuận tiện thì làm, chứ hẹn trước làm sao được. Ngươi không hiểu lẽ đó, định giết người tử tế, quả là đồ vô học.
Tháo nghe xong, dịu ngay nét mặt, bước xuống xin lỗi nói:
- Tôi xét việc không tinh, lỡ phạm đến oai ngài, xin tha thứ cho.
Hám Trạch nói:
- Tôi với Hoàng Công Phúc đã dốc một lòng đến hàng, khác nào trẻ nít mong cha mẹ, còn có điều gì là dối trá nữa.
Tháo mừng lắm nói:
- Nếu hai ông mà lập được công to này, ngày sau sẽ được phong tước cao hơn những người khác.
Trạch nói:
- Chúng tôi có phải vì tước lộc mà lại đây đâu, chính vì thuận lẽ trời, hợp lòng người đó thôi.
Tháo sai đem rượu khoản đãi. Một lát, có người vào ghé tai nói nhỏ với Tào Tháo. Tháo nói:
- Đưa thư ra xem nào!
Người đó trình thư lên. Xem xong, Tháo tỏ vẻ vui mừng. Hám Trạch nghĩ thầm đây hẳn là Sái Hoà, Sái Trung đưa tin về báo chuyện Hoàng Cái bị đòn, nên Tháo mừng việc ta đến hàng là thật bụng hẳn.
Tháo nói:
- Phiền tiên sinh trở về Giang Đông, cùng với Hoàng Công Phúc hẹn ngày đưa tin sang bên này cho tôi biết trước, để đem quân ra tiếp ứng.
Trạch thưa:
- Tôi đã bỏ xứ Giang Đông mà đến đây, không mặt mũi nào dám về nữa. Xin thừa tướng sai người tin cẩn khác.
Tháo nói:
- Nếu sai người khác, tôi e tiết lộ việc chăng?
Trạch từ chối mãi rồi nói:
- Tôi có về thì phải đi ngay, không ở đây lâu được.
Tháo thưởng cho vàng lụa. Trạch không nhận, từ tạ trở ra, lại bơi chiếc thuyền nhỏ về Giang Đông.
Trạch thuật lại tất cả với Hoàng Cái. Cái nói:
- Giá không được ông là người biện bác giỏi, thì ta chịu khổ cũng uổng công.
Trạch xin ra trại Cam Ninh để dò ý tứ Sái Trung, Sái Hoà. Cái nói:
- Hay lắm!
Trạch đến trại, nói với Ninh rằng:
- Hôm qua tướng quân cứu Hoàng Công Phúc mà cũng bị đánh, tôi rất căm tức.
Ninh chỉ cười không nói. Giữa lúc ấy thì Sái Trung, Sái Hoà ở đâu vừa đến. Trạch đưa mắt cho Cam Ninh, Ninh hiểu ý nói ngay rằng:
- Công Cẩn chỉ hợm tài, chẳng coi chúng ta ra gì. Ta nay bị nhục thật xấu hổ với các người bên sông Trường Giang.
Nói đoạn, mắm miệng nghiến răng, đập tay xuống bàn gầm thét. Trạch giả tảng ghé vào tai Cam Ninh nói mấy câu. Ninh cúi sầm ngay mặt xuống, nín lặng, chỉ thở dài ba tiếng.
Sái Trung, Sái Hoà thấy hai người có ý muốn làm phản, mới hỏi thử:
- Chẳng hay tướng quân và tiên sinh sao buồn bực làm vậy?
Trạch nói:
- Các ngươi biết thế nào được những điều đau khổ trong lòng chúng ta!
Sái Hoà nói:
- Có lẽ hai vị định phản Đông Ngô mà hàng Tào Tháo chăng?
Hám Trạch tái mặt lại. Cam Ninh tuốt gươm đứng dậy nói:
- Việc của ta bị lộ rồi, phải giết hai thằng này đi mới có thể giữ kín được!
Sái Trung, Sái Hoà vội nói:
- Hai ông chớ lo, chúng tôi cũng xin đem việc tâm phúc bày tỏ với các ông.
Ninh nói:
- Nói mau lên!
Hoà nói:
- Tào công sai hai chúng tôi đến trá hàng đây, nếu hai ông có ý quy thuận Tào công, chúng tôi xin dẫn tiến.
- Có thật thế không?
Hai người đồng thanh đáp:
- Đâu dám nói dối!
Ninh vờ mừng rỡ nói:
- Nếu được như thế, thì chính là trời đem lại dịp may cho ta rồi!
Hai người nói:
- Việc Hoàng Công Phúc và tướng quân bị nhục, tôi đã báo tin về cho thừa tướng rồi.
Hám Trạch cũng nói:
- Ta đã dâng thư hàng của Công Phúc sang thừa tướng rồi, nay đến rủ Hưng Bá cùng đến hàng đây.
Ninh nói:
- Đại trượng phu đã gặp được minh chủ, cũng nên quyết một lòng đi theo.
Bốn người chén tạc chén thù, bàn việc tâm sự với nhau. Hai anh em họ Sái lập tức viết thư báo cho Tào Tháo, nói Cam Ninh sẽ cùng với chúng làm nội ứng. Hám Trạch lại viết thư riêng sai người đưa sang Tào Tháo. Trong thư nói Hoàng Cái muốn đến, nhưng chưa có dịp thuận tiện, khi nào thấy đoàn thuyền có cắm cờ xanh ở đầu, đó chính là thuyền đến hàng.
Tháo được luôn hai bức thư, trong bụng vẫn nghi nghi hoặc hoặc, liền hội các mưu sĩ lại bàn rằng:
- Bên Trường Giang, Cam Ninh bị Chu Du làm nhục, xin làm nội ứng, Hoàng Cái bị đòn, sai Hám Trạch sang xin hàng, đều chưa đáng tin lắm. Ai dám sang trại Chu Du dò xem hư thực ra sao?
Tưởng Cán bước ra nói:
- Tôi bữa trước sang Đông Ngô, chưa làm được việc gì, vẫn còn áy náy. Nay xin liều đi chuyến nữa, quyết dò được sự thật về báo với thừa tướng.
Tháo mừng rỡ, sai ngay Tưởng Cán đi. Cán cưỡi chiếc thuyền nhỏ, bơi thẳng đến cạnh thuỷ trại phía nam Trường Giang cho người vào báo. Chu Du thấy Cán lại đến, mừng nói rằng:
- Ta thành công được là nhờ người này đây.
Lập tức dặn Lỗ Túc: “Mời Bàng Thống đến bảo cứ làm như thế… như thế cho ta”.
Bàng Thống tự là Sĩ Nguyên, quê ở Tương Dương, tránh loạn sang ngụ bên Giang Đông. Lỗ Túc thường tiến cử lên Chu Du. Thống chưa kịp đến ra mắt, thì Du đã sai Túc đến hỏi kế phá Tào. Thống mật bảo Túc rằng:
“Muốn phá quân Tào, phải dùng hoả công, nhưng trên mặt sông to, một chiếc thuyền bén lửa thì các thuyền khác tản ra chạy được cả. Chỉ có dùng kế liên hoàn, khiến Tháo phải ghép cả thuyền vào một chỗ, mới có thể thắng được”.
Túc về nói lại với Chu Du. Du phục lắm và bảo Túc:
- Chỉ có Bàng Sĩ Nguyên mới thực hiện được kế ấy cho ta mà thôi.
Túc nói:
- Chỉ sợ Tào Tháo xảo quyệt, đi thế nào được?
Chu Du còn đang phân vân, tìm chưa ra cơ hội, thì được tin Tưởng Cán lại sang. Du mừng lắm, một mặt dặn dò Bàng Thống thi hành mưu kế, một mặt cho người mời Tưởng Cán vào. Cán thấy không ai ra đón, trong bụng ngờ vực, liền sai buộc thuyền ở chỗ hẻo lánh rồi vào. Du hầm hầm nổi giận nói rằng:
- Tử Dực sao dám khinh ta thế?
Cán cười, đáp:
- Ta nghĩ ông là chỗ tình nghĩa anh em cũ, muốn đến bày tỏ tâm sự, sao lại bảo ta lừa lọc?
Du nói:
- Ngươi muốn dụ ta hàng Tào, trừ phi sông cạn đá mòn ta mới chịu! Lần trước ta nghĩ tình bạn cũ, mời uống rượu và lưu ngủ chung giừơng; không ngờ ngươi ăn cắp thư của ta, lẻn về báo với Tào Tháo, để Trương Doãn, Sái Mạo bị giết, làm hỏng việc của ta. Hôm nay ngươi bỗng dưng lại, chắc không có bụng tốt đâu! Nếu ta không nghĩ đến tình xưa, thì chỉ cho ngươi một nhát dao đứt làm hai đoạn! Ta cũng muốn tống ngươi về cho rảnh, nhưng độ vài hôm nữa ta sẽ đánh phá Tào Tháo, nên phải giữ ngươi lại, kẻo tiết lộ quân cơ!
Liền sai tả hữu đưa Cán ra nghỉ trong một cái am, gần núi Tây Sơn, và bảo:
- Đợi khi nào ta phá xong Tào Tháo, sẽ tiễn ngươi sang sông cũng vừa.
Tưởng Cán đang chực nói thì Chu Du đã trở vào sau trướng rồi. Tả hữu lấy ngựa cho Tưởng Cán cưỡi, và dẫn đến am nhỏ sau núi, cắt hai tên lính hầu hạ.
Cán ở đó vừa buồn vừa lo, ăn ngủ không yên. Đêm hôm ấy, trăng sao vằng vặc. Cán dạo ra sau am, nghe văng vẳng có tiếng đọc sách. Cán lần theo, mãi đến cạnh núi, thấy có căn nhà tranh, ánh đèn le lói. Cán nhòm vào thấy một người đang ngồi đọc binh thư, trước đèn treo một thanh kiếm. Cán nghĩ người này hẳn là dị nhân đây, liền gõ cửa vào chơi. Người đó ra đón Cán vào, tư thế rất trịnh trọng. Cán hỏi tên họ, người đó đáp:
- Tôi là Bàng Thống, tự là Sĩ Nguyên.
Cán nói:
- Có phải là Phượng Sồ tiên sinh đó không?
Thống đáp:
- Chính phải.
Cán mừng, nói:
- Tôi lâu nay vẫn nghe tiếng ngài, sao nay lại ẩn dật ở đây?
Thống nói:
- Chu Du cậy tài khinh người, nên tôi phải đến ở chỗ này. Xin hỏi ông là ai?
Cán đáp:
- Tôi là Tưởng Cán.
Thống mời vào thảo am nói chuyện. Cán nói:
- Cứ như tài của tiên sinh, đi đâu mà chẳng được trọng dụng. Nếu tiên sinh chịu sang với Tào công, tôi xin tiến dẫn.
Thống nói:
- Tôi muốn bỏ đất Giang Đông này đã lâu. Ông đã có lòng tiến dẫn, thì phải đi ngay mới được, nếu để chậm trễ, Chu Du biết, sẽ làm hại mất.
Ngay đêm hôm ấy, Thống cùng với Cán xuống núi, ra bờ sông tìm chiếc thuyền của mình trước, chở như bay về Giang Bắc.
Về đến trại, Cán vào trước, thuật chuyện lại với Tào Tháo. Tháo thấy có Phượng Sồ tiên sinh đến, ra ngay ngoài trướng đón vào, chia ngôi chủ khách ngồi chơi, rồi hỏi:
- Chu Du tuổi còn non choẹt mà đã hợm mình khinh người, không dùng được mưu hay. Tôi được nghe tiếng lớn của tiên sinh đã lâu, nay đã có lòng hạ cố, có điều gì xin tiên sinh cứ dạy bảo cho.
Thống thưa:
- Tôi vẫn được nghe thừa tướng dùng binh rất giỏi, nay xin cho được xem việc bố trí quân sĩ thế nào.
Tháo sai đem ngựa và mời Bàng Thống đi xem trại trên cạn trước. Hai người dóng ngựa lên chỗ cao đứng quan sát. Thống khen rằng:
- Những trại này tựa vào sườn núi, men rừng, trước sau liên hệ với nhau, ra vào có cửa, lui tới có đường, dẫu Tôn, Ngô, Nhương Thư ngày xưa cũng không thể hơn được!
Tháo nói:
- Tiên sinh chớ có quá khen, còn mong dạy bảo giúp cho.
Lại mời Thống đi xem trại dưới nước, thấy ở mé nam chia làm hai mươi bốn cửa, thuyền lớn bao bọc phía ngoài như một bức thành: Giữa là những thuyền nhỏ, lối ra vào thật phân minh. Thống cười, nói:
- Thừa tướng dụng binh thế này, tiếng đồn quả nhiên không ngoa!
Rồi lại trỏ sang Giang Nam, nói:
- Chu lang! Chu lang! Nay mai tất chết!
Tháo mừng lắm, về trại, mở tiệc thết đãi, cùng thống đàm luận về cách dùng binh. Thống lý lẽ hùng biện, ứng đối trôi chảy. Tháo kính phục lắm, ân cần mời mọc. Thống giả say, hỏi rằng:
- Bẩm thừa tướng, ở đây có thầy lang giỏi không?
Tháo hỏi:
- Cần thầy lang làm gì?
Thống nói:
- Tôi xem chừng thuỷ quân của thừa tướng ốm nhiều, cần có thầy lang giỏi mới chữa được.
Bấy giờ, quân Tào không quen thuỷ thổ, bệnh thổ tả phát ra, nhiều người bị chết. Tháo đang lo nghĩ, chợt nghe Thống nói thì làm gì chẳng phải hỏi. Thống bèn nói:
- Phương pháp luyện tập thuỷ quân của thừa tướng thật là tuyệt diệu, nhưng tiếc chưa được toàn diện.
Tháo hỏi gặng hai ba lần. Thống nói:
- Tôi có một kế, khiến cho thuỷ quân không mắc tật bệnh gì, có thể yên ổn thành công.
Tháo mừng lắm, hỏi kế hay. Thống nói:
- Trong sông lớn này, nước thuỷ triều khi lên khi xuống, sóng gió liên miên. Người phương bắc không quen ngồi thuyền bị sóng đánh nghiêng ngả mới sinh ra bệnh. Nếu đem thuyền lớn nhỏ, ghép lại thành từng cụm độ ba chục chiếc hoặc năm chục chiếc, đầu đuôi dùng xích sắt ghép liền với nhau, trên thuyền lát ván phẳng phiu, như thế chẳng những người đi lại dễ dàng, mà đến ngựa chạy cũng được. Nên làm ngay lúc này đi, thì còn lo chi thuỷ triều và sóng gió nữa.
Tào Tháo bước xuống tạ, nói:
- Giá tiên sinh không vạch cho kế hay này, thì phá sao được Đông Ngô!
Thống nói:
- Tôi cũng mới nghĩ nông cạn thế thôi, xin thừa tướng thử liệu xem có nên không?
Tháo lập tức truyền thợ rèn, ngày đêm đúc dây xích và đánh lớn ghép chặt các thuyền lại. Quân sĩ được tin, ai nấy đều mừng rỡ.
Người sau có thơ rằng:
Xích Bích dùng binh đánh hoả công
Bày mưu đặt mẹo khéo thông đồng
Nếu không có kế liên hoàn ấy
Công Cẩn làm sao lập được công?
Bàng Thống lại nói với Tào Tháo rằng:
- Tôi xem tình hình các bậc hào kiệt bên Giang Đông, lắm người oán Chu Du. Tôi xin đem ba tấc lưỡi, dụ bọn ấy về hàng thừa tướng. Còn một mình Chu Du không có người giúp đỡ tất bị thừa tướng bắt sống thôi. Du đã bị tan, thì Lưu Bị cũng chẳng giở trò gì được nữa.
Tháo nói:
- Tiên sinh lập được công to này, Tháo sẽ tâu với thiên tử, phong ngài làm chức tam công.
Thống nói:
- Tôi không phải vì phú quý đâu, chỉ muốn cứu dân đó thôi. Thừa tướng có sang sông, chớ nên tàn hại dân lắm.
Tháo nói:
- Tôi thay trời mà trị dân, lẽ đâu lại giết hại dân?
Thống xin tờ chứng nhận của Tháo để phòng khi quân Tháo kéo sang khỏi động chạm đến họ hàng nhà mình.
Tháo nói:
- Họ hàng tiên sinh ở cả đâu?
Thống thưa:
- Ở cả bờ sông bên kia, nếu được giấy đó thì bình an vô sự.
Tháo sai viết giấy đóng dấu vào rồi giao cho Thống. Thống lạy tạ nói:
- Sau khi tôi đi rồi, thừa tướng nên gấp rút tiến quân, chớ để cho Chu Du biết.
Tháo cho là phải. Thống từ biệt ra đến bờ sông, sắp bước chân xuống thuyền, bỗng có một người nắm chặt lấy Bàng Thống mà nói rằng:
- Ngươi to gan thật! Hoàng Cái dùng kế khổ nhục. Hám Trạch đưa thư trá hàng, còn ngươi lại đến bày kế liên hoàn. Ta chỉ sợ bọn ngươi đốt không xuể được thôi! Bọn ngươi mưu mô ác độc, chỉ lừa được Tào Tháo, chớ bịt sao nổi mắt ta!
Bàng Thống rụng rời hết vía.
Ấy là:
Cứ tưởng đông nam nhiều mẹo giỏi
Ai ngờ tây bắc lắm người khôn!
Chưa biết người ấy là ai, xem đến hồi sau sẽ hiểu.
Mở tiệc yến, Tào Tháo ngâm thơ
Khóa chiến thuyền, bắc quân dùng võ
Bàng Thống nghe người đó nói giật nảy mình, vội ngoảnh lại trông thì là bạn cũ Từ Thứ. Trong bụng Thống bấy giờ mới yên. Nhìn trước nhìn sau không có ai, Thống mới nói:
- Nếu anh làm lộ kế của tôi, thì nhân dân tám mươi mốt châu bên Giang Nam đều do tay anh giết cả đấy!
Từ Thứ cười, nói:
- Thế còn tính mạng tám mươi ba vạn quân mã ở đây sẽ ra sao?
Thống nói:
- Nguyên Trực! Anh định phá kế của tôi thật à?
Thứ nói:
- Tôi đội ơn sâu Lưu hoàng thúc, không lúc nào quên. Tào Tháo làm mẹ tôi chết, tôi đã thề suốt đời không bày một mưu kế gì cho y cả; lẽ đâu tôi lại phá kế của anh? Chỉ vì tôi cũng ở trong đám quân này, một mai giao tranh gay go khốc liệt thì tránh sao khỏi tai nạn? Anh hãy bày cho tôi một kế thoát thân, tôi sẽ xin gắn miệng lại mà đi ngay chỗ khác.
Thống cười, nói:
- Nguyên Trực nghĩ xa lắm, nhưng kế ấy thì có khó gì!
Thống liền ghé vào tai Từ Thứ nói nhỏ vài câu. Thứ mừng rỡ, vái tạ. Thống từ biệt xuống thuyền về Giang Đông.
Lại nói, chiều hôm ấy, Từ Thứ sai người lẻn đến các trại, phao một tin đồn. Hôm sau, quân lính túm năn tụm ba, chỗ nào cũng ghé tai, chạm trán thì thầm với nhau. Quân do thám về báo với Tháo rằng: trong quân có tin đồn Hàn Toại, Mã Đằng ở Tây Lương làm phản đang kéo về đánh Hứa Đô.
Tháo giật mình, vội vàng họp các mưu sĩ lại bàn bạc:
- Ta dẫn quân sang đánh mặt nam, lúc nào cũng lo lắng về bọn Mã Đằng, Hàn Toại. Tin đồn chưa biết hư thực thế nào, nhưng cũng nên đề phòng mới được.
Tháo vừa dứt lời. Từ Thứ bước ra thưa:
- Tôi từ khi đội ơn thừa tướng thu dùng, chưa lập được chút công lao nào. Nay tôi xin lãnh ba nghìn quân mã, ra giữ ải Tản Quan, nếu xảy việc gì khẩn cấp, sẽ xin báo tin lên thừa tướng.
Tháo mừng, nói:
- Nếu Nguyên Trực chịu khó đi cho, ta không còn lo ngại gì nữa. Hiện ở cửa ải cũng đã có quân sĩ, ông thống lĩnh cả một thể. Ta cấp cho ông ba nghìn quân mã bộ nữa, cùng Tang Bá làm tiên phong, ông nên lập tức đi ngay, đừng trì hoãn.
Từ Thứ từ biệt Tào Tháo, cùng Tang Bá lĩnh quân đi. Đó chính là kế Bàng Thống cứu Từ Thứ.
Đời sau có thơ rằng:
Tào Tháo nam chinh dạ những sầu,
Lo vì Đằng, Toại nổi qua mâu.
Một lời Bàng Thống xui Nguyên Trực,
Có khác chi như cá thoát câu.
Tào Tháo từ khi sai Từ Thứ đi khỏi, trong bụng tạm yên. Một hôm, cưỡi ngựa đi xem xét chung quanh các trại trên bộ, rồi đến thuỷ trại. Tháo đi trên chiếc thuyền to, giữa cắm cờ hiệu chữ Suý. Hai bên bày thuỷ trại, trên thuyền phục hơn một nghìn tay cung nỏ. Tháo ngồi chót vót tầng trên.
Hôm 15 tháng 11 năm Kiến An thứ mười hai (207) khí trời tạnh tẽ, sóng gió êm lặng, Tháo sai mở một tiệc rượu có cả ca nhạc trên thuyền to để hội các tướng. Trời tối dần, vầng trăng hiện trên đỉnh núi phía Đông, vằng vặc như ban ngày: dải sông Trường Giang nằm vắt ngang như tấm lụa. Tháo ngồi trên thuyền, ta hữu vài trăm người, mặc toàn gấm vóc, vác qua, cầm kích đứng hầu hai bên. Các quan văn võ ngồi theo ngôi thứ. Tháo đứng ngắm bốn phương trời mênh mông, bát ngát: dãy núi Nam Bình lồ lộ như tranh vẽ; phía Đông bờ cõi Sài Tang, phía Tây sông dài Hạ Khẩu; phía Nam dãy núi Phàn Sơn; phía Bắc khu rừng Ô Lâm. Tháo lấy làm khoan khoái, nói với quan quân:
- Ta từ khi khởi nghĩa, vì nước trừ những kẻ hung bạo, thề quyết quét sạch bốn biển, san phẳng thiên hạ, duy chỉ còn Giang Nam là chưa lấy được thôi! Nay ta có trăm vạn hùng binh, lại nhờ sức các ông, lo gì chẳng thành công? Sau khi ta thu phục được Giang Nam, thiên hạ yên ổn rồi, ta sẽ tha hồ cùng với các ông chung hưởng phú quý, vui vẻ đời thái bình!
Văn võ cùng đứng dậy nói:
- Chúng tôi chỉ mong sao thừa tướng chóng thành công, trọn đời chúng tôi đều được nhờ phúc ấm của thừa tướng.
Tháo mừng lắm, sai tả hữu đi rót rượu mời các quan. Uống mãi đến đêm, Tháo say, trỏ sang phía Nam, nói:
- Bớ Chu Du! Lỗ Túc! Chúng mày không biết lòng trời. Nay may có người của chúng mày đến hàng ta làm nội ứng, phá từ trong phá ra, đó là trời giúp ta vậy!
Tuân Du thưa:
- Thừa tướng không nên nói, e bị tiết lộ.
Tháo cười ha hả, nói:
- Mọi người có mặt ở đây đều là tâm phúc của ta cả, nói ra có ngại gì!
Lại trỏ sang Hạ Khẩu nói:
- Bớ Lưu Bị, Gia Cát Lượng kia! Bọn mày không biết sức mình như con sâu cái kiến, cứ hòng đẩy núi Thái Sơn. Sao ngu lắm thế?
Rồi ngoảnh lại bảo các quân:
- Ta nay đã 54 tuổi rồi, nếu lấy được Giang Nam thì sở nguyện của ta cũng đạt được. Khi xưa, ta quen thân với Kiều công ở Giang Nam, biết ông có hai người con gái xinh đẹp tuyệt trần. Về sau, không ngờ về tay Tôn Sách và Chu Du. Ta vừa xây xong đài Đồng Tước trên bờ sông Chương, nếu hạ được Giang Nam, ta sẽ bắt hai nàng Kiều ấy đem về đài Đồng Tước, để vui hưởng tuổi già, ta mới mãn nguyện!
Nói rồi cười ầm cả lên!
Ông Đỗ Mục ở đời nhà Đường có vịnh một bài thơ rằng:
Dưới cát gươm chìm, sắt chửa tiêu,
Giữa mài nhận biết việc tiên triều.
Gió đông nếu chẳng vì Công Cấn,
Đồng Tước đêm xuân khoá nhị Kiều!
Tào Tháo đang vui cười, bỗng thấy con quạ vừa kêu vừa bay về phía Nam. Tháo hỏi:
- Quạ ấy làm sao mà đang đêm lại kêu?
Tả hữu bẩm:
- Quạ thấy sáng trăng, tưởng trời đã sáng, cho nên bay ra kêu.
Tháo lại cười ầm lên.
Bấy giờ, Tháo đã quá say, cầm một ngọn giáo, đứng trên mũi thuyền, đổ một chén rượu xuống sông rồi lại uống luôn ba chén đầy nữa, cắp ngang ngọn giáo, nói với các tướng:
- Từ khi ta cầm ngọn giáo này, phá Khăn vàng, bắt Lã Bố, diệt Viên Thuật, thu Viên Thiệu, thọc sâu vào Tái Bắc, ruỗi thẳng đến Liêu Đông, tung hoành bốn bể, thật không phụ ý chí của kẻ đại trượng phu! Ta làm một bài hát, các ông đều hoạ chơi cho vui.
Bài hát rằng:
Cuộc vui có được là mấy chốc?
Có khác chi hạt móc sáng ngày.
Nguồn sâu lai láng vơi đầy,
Giải phiền hoạ có rượu này làm vui!
Tràng áo xanh ngậm ngùi lòng tớ.
Hươu ngoài đồng hớn hở gọi nhau.
Khách ta, ta đã gặp nhau,
Gảy đàn, thổi sáo ngó hầu thêm vui!
Trăng sáng tỏ, bùi ngùi trong dạ,
Nỗi lo này biết ngỏ cùng ai?
Chuyện trò kể lể xa xôi,
Nhớ người nghĩa cũ cười vui đề huề…
Quạ đêm trăng bay về nam hậu,
Lượn ba vòng biết đậu cành nao?
Nước càng sâu, núi càng cao,
Chu công trọng khách xôn xao kéo về…
Tháo hát đoạn, mọi người hoạ theo, cười đùa vui vẻ. Bỗng một người bước vào, nói:
- Giữa lúc hai bên đang đối địch, tướng sĩ đang cố sức, sao thừa tướng nói gở vậy?
Tháo nhìn xem thì là Lưu Phúc, thứ sử Dương Châu. Phúc trước làm quan ở Hợp Phì, xây đắp nhiều thành quách, tập họp những dân xiêu tán, mở trường học, khai khẩn ruộng đất, dạy dỗ nhân dân. Phúc theo Tào Tháo đã lâu, lập được nhiều công trạng.
Khi ấy, Tháo cắp ngang ngọn mâu, hỏi lại rằng:
- Ta nói gở điều gì?
Phúc thưa:
- Những câu: “Trăng sáng… Quạ bay lượn ba vòng… Không biết đậu vào đâu…”, là những câu gở.
Tháo nổi giận, nói:
- Mày sao dám bẻ tao?
Nói rồi phóng một ngọn giáo, đâm chết Lưu Phúc. Ai cũng kinh hãi, bữa tiệc cũng tan.
Hôm sau, Tháo tỉnh rượu, hối hận quá. Con Phúc là Lưu Hy kêu xin đem thây cha về táng. Tháo khóc, nói:
- Hôm qua, ta say rượu quá, lỡ giết mất cha ngươi, giờ hối lại không kịp mất rồi. Vậy nên dùng lễ tam công làm ma cho cha ngươi.
Lại sai quân sĩ hộ tống linh cữu đưa về an táng.
Hôm sau, thuỷ quân đô đốc Mao Giới và Vu Cấm vào bẩm rằng:
- Các thuyền lớn nhỏ đã ghép đâu vào đấy, tinh kỳ khí giới cũng đủ cả. Xin thừa tướng điều khiển cho quân sĩ luyện tập để nay mai cất quân.
Tháo ra trại thuỷ, ngồi trên một chiến thuyền to ở chính giữa đòi các tướng đến nghe lệnh. Quân thuỷ và quân bộ đều chia làm năm hiệu cờ. Quân thuỷ, tướng trung quân cờ vàng là Mao Giới, Vu Cấm; tướng tiền quân cờ đỏ là Trương Cáp; tướng hậu quân cờ đen là Lã Kiền; tướng tả quân cờ xanh là Văn Sính; tướng hữu quân cờ trắng là Lã Thông. Quân mã bộ thì Từ Hoảng làm tướng tiền quân, cờ đỏ; Lý Điển làm tướng hậu quân, cờ đen; Nhạc Tiến làm tướng tả quân, cờ xanh; Hạ Hầu Uyên làm tướng hữu quân, cờ trắng; Hạ Hầu Đôn, Tào Hồng thì tiếp ứng cả hai đường thuỷ lục; Hứa Chử, Trương Liêu hộ vệ và đi lại đốc chiến. Còn bao nhiêu tướng tá, đội nào cứ theo đội ấy mà đi.
Lệnh truyền vừa dứt, trong trại thuỷ nổi ba hồi trống, các đội thuyền buồm lần lượt theo từng cửa tiến ra. Hôm ấy nổi gió tây bắc, buồm vải kéo lên, các thuyền xông pha sóng gió vững chắc như đi trên mặt đất. Quân sĩ trên thuyền nhảy nhót ra oai, kẻ phóng giáo, người múa gươm tả hữu, trước sau, đội nào cơ ấy, rất là nghiêm chỉnh. Lại có hơn năm chục chiếc thuyền nhỏ ở ngoài, đi lại tuần phòng, đốc thúc. Tháo đứng trên tường đài quan sát quân tập luyện, trong bụng vui mừng, cho rằng quân tướng thế này đánh đâu chẳng được. Liền sai hạ buồm, thuyền nào lại theo đội ấy kéo về trại.
Tháo lên trướng, nói với các mưu sĩ:
- Nếu không có trời giúp, thì sao ta được diệu kế của Phượng Sồ? Dây xích ghép thuyền thành cụm, quả nhiên đi dưới nước như đi trên đất bằng!
Trình Dục thưa:
- Thuyền ghép cả lại làm một tuy vững chắc thật, nhưng nếu bị đánh hoả công thì khó bề xoay xở, không thể không đề phòng được.
Tháo cười lớn, nói:
- Ngươi tuy cũng đã lo xa, nhưng chưa hiểu biết đầy đủ.
Tuân Du nói:
- Trọng Đức nói phải đấy, sao thừa tướng còn cười?
Tháo nói:
- Phép đánh hoả công phải nhờ sức gió. Đang mùa này, chỉ có gió tây bắc, làm gì có gió đông nam. Nếu nó dùng hoả công tức là nó lại đốt quân nó, đây ta có sợ gì? Giả thử vào tiết tiểu xuân tháng mười thì ta đã phòng bị từ lâu rồi!
Các tướng đều phục lắm, nói:
- Thừa tướng cao kiến lắm, chúng tôi còn kém xa!
Tháo ngoảnh lại bảo các tướng:
- Quân các châu Thanh, Từ, Yên, Đại, xưa nay không quen cưỡi thuyền. Nay không dùng kế ấy, thì qua thế nào được đại Trường Giang hiểm trở?
Bỗng hai tướng nhảy ra, bẩm rằng:
- Tiểu tướng tuy sinh trưởng ở U, Yên, nhưng ngồi thuyền đánh thuỷ cũng được. Nay xin thừa tướng cho mượn hai chục chiếc thuyền tuần tiễu, bơi thẳng sang bờ nam, cướp lấy cờ trống đem về, để mọi người biết quân miền bắc đánh thuyền cũng giỏi.
Tháo nhìn xem thì là Tiêu Súc và Trương Nam tướng cũ Viên Thiệu, Tháo nói:
- Các ngươi sinh trưởng miền bắc, e đánh thuyền không quen. Quân Giang Nam qua lại trên mặt nước, luyện tập thành thạo, chớ nên khinh thường mà đùa với tính mạng.
Hai người kêu to rằng:
- Nếu không đánh được, xin chịu thi hành quân pháp.
Tháo nói:
- Chiến thuyền đã ghép liền cả rồi, chỉ còn thuyền nhỏ, chở độ vài chục người, e đánh nhau không tiện.
Tiêu Súc bẩm:
- Nếu dùng thuyền to, sao gọi là tài? Chúng tôi chỉ xin lĩnh hai chục chiếc thuyền nhỏ, chia đôi mỗi người dẫn một nửa, sang thẳng trại thuỷ Giang Nam, cướp được cờ chém được tướng trở về mới nghe.
Tháo nói:
- Ta trao cho các ngươi hai chục chiếc thuyền và năm trăm quân tinh tráng, mang toàn giáo dài nỏ cứng; sáng mai sẽ huy động các thuyền trong trại thuỷ ra giữa sông làm thanh thế và sai Văn Sính dẫn ba chục chiếc thuyền đi tuần để tiếp ứng cho hai người về.
Tiêu Súc, Trương Nam mừng rỡ lui ra.
Hôm sau, canh tư thổi cơm, canh năm nai nịt gọn gàng, trong trại thuỷ chiến trống nổi lên thuyền bè ùa ra, dàn trên mặt sông. Một dải Trường Giang, cờ hiệu xanh đỏ rợp trời. Tiêu Súc và Trương Nam dẫn hai chục chiếc thuyền tuần tiễu, xuyên qua trại tiến lên, nhắm Giang Nam lướt tới.
Nói về bên Giang Nam, từ hôm trước nghe tiếng trống đánh ầm ầm; ở xa trông sang thấy Tào Tháo điểm duyệt quân thuỷ; quân sĩ vào báo với Chu Du. Du trèo lên núi cao quan sát, nhưng quân Tào đã thu cả về trại rồi. Hôm sau trống lại thúc ầm ĩ, quân sĩ trèo lên gò cao nhòm sang thấy một số thuyền nhỏ rẽ sóng bơi đến. Du hỏi các tướng ai dám ra địch, thì Hàn Đương, Chu Thái, hai người cùng đứng ra nói:
- Tôi xin tạm làm tiên phong phá địch!
Du mừng rỡ truyền lệnh cho các trại phải giữ gìn cẩn thận, không đâu được khinh động. Hàn Đương, Chu Thái, mỗi người lĩnh năm chiếc thuyền tuần tiễu chia làm hai ngả kéo ra.
Lại nói Tiêu Súc, Trương Nam cậy có sức mạnh, chèo thuyền như bay sang bờ nam. Hàn Đương chỉ mặc một áo giáp che ngực, tay cầm giáo dài, đứng trên đầu thuyền. Thuyền Tiêu Súc đến trước, sai quân bắn tới tấp sang thuyền Đông Ngô, Đương giơ lá mộc lên đỡ. Tiêu Súc khoa giáo dài đâm Hàn Đương, bị Đương đâm lại một mũi, chết gục ngay xuống. Trương Nam ở phía sau, thét lên ruổi tới. Chu Thái chèo thuyền ra địch. Trương Nam vác giáo đứng trên mũi thuyền, hai bên cung nỏ bắn nhau tới tấp. Chu Thái tay mộc tay đao, khi hai thuyền còn cách nhau độ bảy tám thước, Chu Thái nhảy ngay sang thuyền Trương Nam, chém một nhát, Nam ngã lăn xuống nước. Thái múa đao chém lia lịa, thuyền địch tan chạy. Hàn Đương, Chu Thái thúc thuyền đuổi đánh, ra đến giữa sông vừa gặp thuyền Văn Sính đến, hai bên lại dàn thuyền kịch chiến.
Chu Du dẫn các tướng trèo lên đỉnh núi trông sang bờ bắc, thấy thuyền to dàn khắp mặt nước, cờ hiệu phấp phới, hàng ngũ chỉnh tề. Lại ngoảnh xem Hàn Đương, Chu Thái cầm cự với Văn Sính; hai người dốc toàn lực ra đánh, Văn Sính phải bỏ chạy. Hai người thúc thuyền đuổi theo. Du sợ đuổi vào nơi nguy hiểm, liền phất cờ trắng và sai khua chiêng thu quân. Hai người mới quay thuyền về trại.
Chu Du vẫn còn đứng trên núi, nhìn chiến thuyền bên kia vào cả thuỷ trại, ngoảnh lại bảo các tướng rằng:
- Chiến thuyền Giang Bắc nhiều hơn lá tre, Tào Tháo lại nhiều mưu kế, ta tìm cách gì phá cho được?
Mọi người chưa kịp thưa lại, bỗng thấy lá cờ vàng giữa trại Tào bị cơn gió to thổi gãy gục, bay ra giữa sông. Du cười lớn, nói:
- Đó là điềm không hay rồi!
Du đang mải quan sát, bỗng một trận gió đùng đùng thổi đến, sóng vật tới bờ. Cái dải cờ bay tạt vào mặt Chu Du. Du sực nghĩ tới điều gì, bỗng kêu rú lên một tiếng rồi ngã vật ra phía sau, miệng thổ máu tươi. Các tướng vội vàng vực Du đứng dậy, thì Du đã mê man không biết gì nữa rồi.
Rõ là:
Vừa mới cười xong sao bỗng ngất,
Quân nam đâu dễ phá quân Tào.
Chưa biết tính mạng Chu Du thế nào, xem đến hồi sau sẽ rõ.
La Quán Trung
Người dịch: Hồng Việt
Theo https://www.sachhayonline.com/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Thi sĩ Trần Hòa Bình "Phiêu du trong gió"

Thi sĩ Trần Hòa Bình "Phiêu du trong gió" Vào quãng những năm 80 của thế kỷ trước, nhà thơ Trần Hòa Bình viết bài thơ “Sơn Tây m...