Hồi 49:
Đàn Thất tinh, Gia Cát cầu phong
Cửa Tam Giang, Chu Du phóng hỏa
Lại nói Chu Du đứng trên đỉnh núi, quan sát hồi lâu, bỗng
nhiên ngã vật về phía sau, miệng thổ máu tươi, bất tỉnh nhân sự. Tả hữu vực vào
trướng, các tướng đến thăm; ai nấy đều ngơ ngác nhìn nhau, nói:
- Quân Tào hàng trăm vạn, khác nào hổ rình kình đớp. Không
may, đô đốc bị tai nạn thế này, nếu quân Tào kéo đến, thì làm thế nào?
Lập tức một mặt sai người về báo với Ngô hầu; một mặt tìm thấy
thuốc điều trị.
Lỗ Túc thấy Chu Du nằm một chỗ, trong lòng buồn bã, đến chơi
Khổng Minh, thuật chuyện Chu Du bị bệnh bất ngờ.
Khổng Minh nói:
- Theo ý ông thì ra làm sao?
Túc nói:
- Đó cũng là phúc Tào Tháo mà vạ Đông Ngô thôi!
Khổng Minh cười, nói:
- Bệnh Công Cẩn, tôi có thể chữa được.
Túc nói:
- Nếu được như thế, thì may cho Đông Ngô quá!
Liền mời Khổng Minh cùng đến thăm Chu Du.
Lỗ Túc vào trước ra mắt Chu Du, thấy Du trùm chăn kín đầu.
Túc hỏi:
- Bệnh tình đô đốc ra sao?
Du nói:
- Ruột gan đau quặn, thỉnh thoảng lại mê mẩn.
Túc hỏi:
- Đô đốc đã dùng thuốc gì rồi?
Du nói:
- Uống vào lại nôn oẹ ra, không thuốc nào chịu.
Túc nói:
- Tôi vừa đến chơi Khổng Minh, Khổng Minh nói có thể chữa được
bệnh đô đốc. Ông ta đang ở ngoài trướng, xin cho mời vào khám chữa!
Du sai mời vào, rồi bảo tả hữu đỡ dậy ngồi trên giường.
Khổng Minh nói:
- Mấy bữa nay không đến hầu, ngờ đâu ngọc thể bất an!
Du nói:
- Người ta hoạ phúc sớm tối khôn lường, biết đâu mà giữ cho
xuể!
Khổng Minh cười, nói:
- Trời kia gió mưa bất thường, người ta có liệu trước được
không?
Du nghe nói tái mặt đi, rên khừ khừ.
Khổng Minh hỏi:
- Trong bụng đô đốc, nghe như hơi đầy có phải không?
Du đáp:
- Phải.
Khổng Minh nói:
- Nên uống những vị thuốc mát mới được.
Du nói:
- Tôi đã uống nhưng đều vô hiệu.
Khổng Minh nói:
- Trước hết phải chữa cái khí, nếu khí thuận, thì thở hít
cũng dễ, rồi tự nhiên sẽ khỏi bệnh.
Du tin chắc Khổng Minh hiểu được ý mình, liền hỏi thử rằng:
- Muốn cho thuận được khí, nên uống thuốc gì?
Khổng Minh cười, nói:
- Tôi có một phương thuốc, làm cho đô đốc thuận được khí.
Du hỏi:
- Phương thuốc gì, xin tiên sinh cho biết?
Khổng Minh mượn giấy bút, bảo tả hữu lui ra ngoài rồi viết mười
sáu chữ như sau:
“Muốn đánh Tào công
Phải dùng hoả công
Muôn việc đủ cả
Chỉ thiếu gió đông”.
Viết xong, đưa cho Chu Du và nói:
- Căn bệnh của đô đốc ở đây!
Du xem xong giật mình, nghĩ rằng:
- Khổng Minh thật là thần thánh, biết hết cả ruột gan ta! Cần
phải nói rõ sự thật mới xong!
Rồi cười, nói với Khổng Minh:
- Tiên sinh đã biết gốc bệnh của tôi, vậy phải dùng thuốc gì
trị được? Việc gấp đến nơi rồi, xin dạy cho.
Khổng Minh nói:
- Tôi tuy rằng bất tài, nhưng có gặp được một dị nhân truyền
cho quyển “Kỳ môn độn giáp thiên thư” có thể gọi được gió, bảo được mưa. Đô đốc
muốn cần đến gió đông nam, thì phải lập đàn tại núi Nam Bình, gọi là đàn Thất
tinh, bề cao chín thước, chia làm ba tầng, dùng một trăm hai chục người cầm cờ
đứng xung quanh. Tôi xin lên đàn, dùng phép, mượn gió đông nam thật to ba ngày
ba đêm để đô đốc dùng binh. Đô đốc nghĩ thế nào?
Du nói:
- Chẳng cần đến ba ngày ba đêm, chỉ một đêm gió to là xong việc.
Nhưng xin tiên sinh phải làm ngay cho, chớ để chậm chạp.
Khổng Minh nói:
- Ngày 20 tháng 11 là ngày giáp tý, bắt đầu tế gió, đến ngày
22 là ngày bính dần thì gió im, có được không?
Du nghe nói mừng lắm, đứng choàng dậy, lập tức sai quân đến
núi Nam Bình đắp đàn, và điều một trăm hai mươi tên lính cầm cờ giữ đàn, sẵn
sàng nghe lệnh.
Khổng Minh từ biệt Chu Du, cùng với Lỗ Túc lên ngựa đến núi
Nam Bình, xem xét địa thế. Rồi sai quân sĩ lấy đất đỏ ở phương đông nam đắp
đàn, chu vi rộng 24 trượng mỗi tầng cao ba thước, cả thảy là chín thước.
Tầng dưới cắm 28 lá cờ sao.
Phương đông 7 lá cờ xanh, theo hình chòm sao Thanh long là:
giốc, cang, đê, phòng, tâm, vĩ, cơ. Phương bắc 7 lá cờ đen, theo hình chòm sao
Huyền vũ là: đẩu, ngưu, nữ, hư nguy, thất, bích. Phương tây 7 lá cờ trắng, theo
hình chòm sao Bạch hổ là: khuê, lâu, vị, mão, tất, thuỷ, sâm. Phương nam 7 lá cờ
đỏ, theo hình chòm sao Chu tước là: tỉnh, quỷ, liễu, tính, trương, dực, chẩn.
Tầng thứ hai 64 lá cờ cắm xung quanh, theo phương vị 64 quẻ,
đứng dàn ra tám mặt.
Tầng trên nữa dùng bốn người; người nào cũng phải đội mũ bịt
tóc, mặc áo the thâm, áo dài đai rộng, giày đỏ quần vuông. Mé trước, một người
đứng bên tả, cầm cái cần dài, trên đầu cầm cắm lông gà, để chiêu gió; một người
đứng bên hữu cũng cầm cái cần dài, trên đầu cần buộc cờ hiệu thất tinh, để khiến
chiều gió. Mé sau, một người bên tả cắp thanh bảo kiếm, một người bên hữu bưng
cái lư hương. Ở dưới chân đàn lại có 24 người vác cờ xí và khí giới đứng quanh
bốn phía.
Đến ngày 20 giáp tý, tháng 11, giờ tốt, Khổng Minh tắm gội sạch
sẽ, mặc áo phù thuỷ, xoã tóc đi chân không đến trước đàn, dặn Lỗ Túc:
- Ông về giúp Chu Du điều quân, nếu tôi cầu không được gió
cũng đừng nên trách.
Lỗ Túc từ biệt ra về. Khổng Minh dặn các tướng sĩ coi đàn:
- Không ai được tự tiện bỏ chỗ đứng mà đi chỗ khác; không ai
được quay đầu ghé tai, nói năng bậy bạ; không ai được thất kinh sợ hãi. Ai trái
lệnh sẽ bị chém đầu!
Chúng đều tuân lệnh răm rắp:
Khổng Minh khoan thai bước lên đàn, quan sát phương hướng đâu
đấy, đốt hương rót nước, ngẩng mặt lên trời khấn thầm một hồi, rồi xuống đàn
vào trướng nghỉ. Lại truyền cho quân sĩ thay đổi nhau ăn uống.
Mỗi ngày Khổng Minh lên đàn ba lần, xuống đàn ba lần, mà mãi
vẫn không thấy có gió đông nam.
Đây nói Chu Du mời Trình Phổ, Lỗ Túc và các tướng chực sẵn dưới
trướng, chỉ đợi có gió đông nam là cất quân đi. Một mặt báo tin cho Tôn Quyền để
tiếp ứng. Hoàng Cái đã dự sẵn hai chục chiếc hoả thuyền, mũi thuyền cắm chông sắt,
trong thuyền chứa đầy lau sậy, củi khô tẩm dầu mỡ, trên rắc lưu hoàng, diêm
tiêu, dùng vải xanh che kín. Trên mũi thuyền cắm cờ xanh, đuôi thuyền đóng sẵn
một cái xuồng dự bị, sẵn sàng đợi lệnh Chu Du.
Cam Ninh, Hám Trạch kèm riết Sái Trung, Sái Hoà trong thuỷ trại,
ngày nào cũng uống rượu, không cho một tên lính nào lên đến bờ; xung quanh toàn
là quân mã Đông Ngô bao vây chặt chẽ, chờ lệnh cấp trên.
Chu Du đang ngồi bàn việc trong trướng, có thám tử vào báo rằng:
- Thuyền của Ngô hầu đã bỏ neo cách trại tám mươi lăm dặm, chỉ
đợi tin lành của đô đốc.
Du liền sai Lỗ Túc truyền báo cho quan quân, tướng sĩ: ai nấy
đều phải thu xếp thuyền bè, khí giới cho đủ; khi nào có lệnh xuống, không được
chậm chạp một phút nào, nếu ai lầm lỡ, lập tức chiếu quân pháp trị tội. Các tướng
được lệnh ấy, ai nấy khoa chân múa tay, sẵn sàng chiến đấu.
Hôm ấy, trời gần tối, bầu trời sáng sủa, không phe phẩy một
tí gió nào. Du nói với Lỗ Túc:
- Khổng Minh nói sai rồi, trời đông tháng rét thế này, làm gì
có được gió đông nam?
Túc nói:
- Tôi chắc Khổng Minh không phải là người nói bậy.
Gần đến canh ba, bỗng nhiên nghe thấy tiếng gió thổi, cờ quạt
tung bay. Du ra trướng xem, thấy đuôi cờ bay về phía tây bắc. Một lát, gió đông
nam nổi lên ầm ầm, Du giật mình nói:
- Người này có phép đoạt được trời đất, có thuật tài hơn quỷ
thần. Nếu để sống thì thế nào cũng gây vạ lớn cho Đông Ngô, chi bằng giết trước
để khỏi lo về sau.
Nói rồi, lập tức gọi hai tướng bộ quân đô uý là Đinh Phụng, Từ
Thịnh, đến bảo rằng:
- Hai người dẫn một trăm quân, Từ Thịnh đi đường thuỷ, Đinh
Phụng đi đường bộ, cùng đến cả đàn Thất tinh ở núi Nam Bình, không hỏi han chi
cả, cứ việc chặt phăng ngay đầu Gia Cát Lượng, đem về đây lấy thưởng.
Hai tướng lĩnh mệnh. Từ Thịnh dẫn một trăm tay đao phủ, nhổ
thuyền đi trước, Đinh Phụng dẫn một trăm tay cung nỏ lên ngựa đi sau, đến cả
núi Nam Bình. Dọc đường thấy gió đông nam đang nổi to lắm.
Người đời sau có thơ rằng:
Xoã tóc lên đàn khấn gió đông.
Gió đâu phút chốc nổi đùng đùng,
Ví không Gia Cát dùng mưu lạ,
Công Cẩn khôn ngoan luống uổng công?
Quân mã Đinh Phụng đến trước; trông lên thấy tướng sĩ đang cầm
cờ đứng đón gió trên đàn. Phụng xuống ngựa, cắp gươm lên đàn, không thấy Khổng
Minh đâu, đâm hoảng, hỏi các tướng sĩ ở đó, thì họ nói Khổng Minh vừa xuống đàn
đi rồi. Phụng vội vàng xuống đàn đi tìm thì thuyền Từ Thịnh cũng vừa đến. Hai
người tụ ở bờ sông. Tiểu tốt báo rằng chiều hôm qua, có một chiếc thuyền đỗ ở bến
trước mặt và mới rồi thấy Khổng Minh xõa tóc xuống thuyền, thuyền ấy vừa ngược
sông. Hai tướng lập tức chia làm hai đường thuỷ lục đuổi theo.
Từ Thịnh sai kéo căng buồm, lướt nhanh như gió. Đuổi cách
thuyền trước không xa mấy, Thịnh đứng trên mũi thuyền gọi to lên rằng:
- Quân sư đừng đi vội, đô đốc tôi có lời mời!
Khổng Minh đứng ở sau thuyền cười ha hả nói:
- Ông hãy về bẩm với đô đốc dùng binh cho khéo, Lượng tôi tạm
về Hạ Khẩu, khi khác sẽ xin đến hầu.
Từ Thịnh nói:
- Xin hãy dừng thuyền một chút, có việc khẩn cấp muốn nói.
Khổng Minh nói:
- Ta đã biết đô đốc chẳng dung, thể nào cũng sai giết ta, nên
đã dặn trước Tử Long đến đón, tướng quân không cần phải đuổi theo nữa!
Từ Thịnh thấy thuyền Khổng Minh không có buồm nên cố sức đuổi
theo; khi đuổi gần kịp, thấy Triệu Tử Long giương cung đặt tên, đứng ở lái thuyền,
gọi to lên rằng:
- Ta là Triệu Tử Long ở Thường Sơn đây! Ta phụng mệnh đến đón
quân sư, sao ngươi dám đuổi theo? Đáng lẽ ta cho một phát tên kết liễu đời người
mới phải, nhưng e mất tình hoà khí giữa hai nhà. Song cũng phải cho ngươi biết
tay ta mới được!
Nói đoạn bắn một phát, đứt phăng dây cột buồm ở thuyền Từ Thịnh;
cánh buồm rơi xuống sông, thuyền quay ngang ngay ra. Triệu Tử Long liền sai
giương buồm theo chiều gió mà đi, thuyền bay vùn vụt như tên, đuổi cũng không kịp.
Đinh Phụng ở trên bờ, gọi Từ Thịnh ghé thuyền vào, bảo rằng:
- Gia Cát Lượng mưu thần tài thánh, không ai bì được. Lại có
Triệu Vân, sức địch muôn người. Ngươi có biết trận đánh ở Đương Dương, Trường Bản
không? Chúng mình chỉ việc quay về báo là hơn cả.
Hai tướng bèn về ra mắt Chu Du, thuật lại việc Khổng Minh đã
hẹn trước Triệu Vân sang đón. Chu Du giật mình nói:
- Người này đa mưu quá, làm cho ta chẳng yên tâm chút nào.
Lỗ Túc nói:
- Hãy để phá xong Tào Tháo, rồi ta sẽ liệu.
Du đồng ý, đòi các tướng đến nghe lệnh. Trước hết, sai Cam
Ninh đem Sái Trung và hàng binh đi men theo bờ phía nam, mang toàn cờ hiệu, đến
thẳng rừng Ô Lâm là kho lương của Tào Tháo, kéo sâu vào đến nơi, đốt lửa lên
làm hiệu. Chỉ để một mình Sái Hoà ở lại trong trại, có việc dùng đến.
Thứ nhì, gọi Thái Sử Từ vào dặn:
- Ngươi lĩnh ba nghìn quân, đến thẳng địa giới Hoàng Châu, chặn
đường quân Tào ở Hợp Phì đến tiếp ứng. Lúc nào giáp chiến quân Tào thì đốt lửa
làm hiệu; trông thấy cờ đỏ tức là quân tiếp ứng của Ngô hầu tới. Hai đội này đi
xa hơn cả, phải đi trước.
Thứ ba, gọi đến Lã Mông, lĩnh ba nghìn quân đi ra rừng Ô Lâm
để tiếp ứng Cam Ninh, đốt trại Tào Tháo.
Thứ tư, sai Lăng Thống lĩnh ba nghìn quân, chặn ngang biên giới
Di Lăng, hễ thấy Ô Lâm nổi lửa, thì dẫn quân đến tiếp ứng.
Thứ năm, gọi Đổng Tập lĩnh ba nghìn quân đến thẳng Hán Dương
theo đường Hán Xuyên đánh vào trại Tào Tháo, hễ nhìn thấy cờ trắng, kéo ra Hán
Dương tiếp ứng Đổng Tập.
Sáu đội chiến thuyền chia đường cùng tiến.
Lại sai Hoàng Cái chuẩn bị hoả thuyền, một mặt cho quân mang
thư hẹn với Tào Tháo đêm nay đến hàng; một mặt điều bốn đội thuyền đi theo
Hoàng Cái để tiếp ứng. Đội nhất là Hàn Đương, đội nhì là Chu Thái, đội ba là Tưởng
Khâm, đội tư là Trần Vũ. Mỗi đội mang ba trăm chiếc thuyền, hai chục chiếc hoả
thuyền đi hàng đầu. Chu Du cùng với Trình Phổ ngồi trên chiếc thuyền to đốc chiến;
Từ Thịnh, Đình Phụng làm tả hữu hộ vệ. Còn Lỗ Túc, Hám Trạch và bọn mưu sĩ ở
nhà giữ trại. Trình Phổ thấy Chu Du có tài điều khiển quân sĩ rất lấy làm kính
phục.
Lại nói, Tôn Quyền sai sứ mang ấn tín đến báo Chu Du là đã cử
Lục Tốn làm tiên phong, tiến thẳng ra Kỳ Hoàng, Ngô hầu tự đem quân làm tiếp ứng.
Du lại sai người đốt hoả pháo ở núi Tây Sơn, và phất cờ hiệu ở núi Nam Bình.
Đâu đấy chuẩn bị đầy đủ, chỉ đợi đến chập tối là khởi sự.
Nói về Lưu Huyền Đức ở Hạ Khẩu, đương chờ Khổng Minh về, chợt
thấy một đội thuyền kéo đến, là thuyền Lưu Kỳ lại thăm dò tình hình. Huyền Đức
mời ngồi trên lầu và nói:
- Gió Đông Nam nổi đã lâu, mà Tử Long đi đón Khổng Minh vẫn
chưa thấy về, tôi rất lo ngại.
Quân sĩ chỉ đằng xa về phía Phàn Khẩu nói:
- Chiếc thuyền buồm căng gió tiến lại kia, chắc là thuyền
quân sư rồi!
Huyền Đức, Lưu Kỳ vội vàng xuống đón. Phút chốc thuyền ghé
vào bờ. Khổng Minh và Tử Long bước lên. Huyền Đức mừng rỡ, hỏi han trò chuyện,
Khổng Minh nói:
- Các việc khác xin hãy để thư thả; khi trước, tôi có hẹn
quân mã và chiến thuyền, đã thu xếp xong chưa?
Huyền Đức nói:
- Xong đã lâu, chỉ đợi quân sư về cắt đặt.
Khổng Minh cùng với Huyền Đức, Lưu Kỳ lên trướng ngồi, rồi bảo
Tử Long:
- Tử Long đem ba nghìn quân mã sang sông, đi tắt đến đường hẻm
Ô Lâm, tìm chỗ nào cây cối rậm rạp mai phục. Cuối canh tư đêm nay, Tào Tháo thế
nào cũng chạy qua đường ấy, đợi quân Tào đi được nửa chừng thì đốt lửa lên, đổ
ra mà đánh. Tuy không giết được cả, nhưng chắc giết được một nửa.
Vân nói:
- Ô Lâm có hai đường, một đường sang Nam Quận, một đường về
Kinh Châu, biết đón ở đường nào?
Khổng Minh nói:
- Nam Quận địa thế hiểm lắm, Tào Tháo không dám qua, tất phải
sang Kinh Châu, để kéo về Hứa Đô.
Triệu Vân lĩnh kế đi trước.
Khổng Minh lại gọi Trương Phi đến, bảo rằng:
- Dực Đức lĩnh ba nghìn quân mã sang sông, mai phục trong
hang Hồ Lô, Tào Tháo không dám qua nam Di Lăng, tất chạy qua bắc Di Lăng. Ngày
mai, lúc tạnh mưa, quân Tào đến đó thổi cơm; hễ thấy có khói thì đốt lửa ở sườn
núi rồi đổ ra mà đánh. Tuy không bắt được Tào Tháo, nhưng công của Dực Đức cũng
không phải là nhỏ.
Phi lĩnh kế đi ngay.
Lại dặn My Chúc, My Phương, Lưu Phong phải mang thuyền đi
quanh sông vây bắt bại quân, tước lấy khí giới. Ba người lĩnh kế tiến quân.
Khổng Minh đứng dậy bảo Lưu Kỳ rằng:
- Một dải Võ Sương vô cùng hiểm yếu, xin công tử dẫn quân về
ngay, bố trí ở các cửa bến. Quân Tào thua chạy đến đó, xông ra mà bắt, nhưng chớ
nên đi xa thành luỹ của mình.
Lưu Kỳ từ biệt Huyền Đức và Khổng Minh đem quân đi.
Khổng Minh bảo Huyền Đức rằng:
- Chúa công nên đóng quân ở cửa Phàn Khẩu, lên núi cao mà xem
Chu Du đêm nay thành công lớn.
Bấy giờ, Vân Trường đứng cạnh, Khổng Minh không đả động gì đến.
Vân Trường không sao nhịn được, nói to lên rằng:
- Tôi từ khi theo anh tôi đi đánh dẹp đến nay kể cũng đã lâu,
chưa khi nào tôi phải lùi lại sau. Nay gặp trận đánh to thế này, không thấy
quân sư hỏi han gì đến là ý làm sao?
Khổng Minh cười, nói:
- Vân Trường đừng trách, tôi muốn nhờ tướng quân giữ cho một
chỗ hiểm yếu, nhưng còn hơi ngại một chút, chưa dám phiền đến.
Vân Trường nói:
- Nghi ngại điều gì, xin cho tôi biết?
Khổng Minh nói:
- Khi xưa, Tào Tháo đãi tướng quân hậu lắm, thế nào tướng
quân chẳng nhớ ơn. Nay Tào Tháo thua trận, tất chạy qua đường Hoa Dung. Nếu sai
túc hạ đi, tất nhiên túc hạ tha cho hắn thoát, bởi thế, chưa dám phiền tới.
Vân Trường nói:
- Quân sư nghĩ thế, thật là có bụng tốt. Khi xưa Tào Tháo có
trọng đãi tôi. Nhưng tôi đã chém Nhan Lương, Văn Sú, giải vây thành Bạch Mã để
báo ơn rồi. Nay nếu có gặp y, tôi đâu dám dễ dàng tha y được.
Khổng Minh nói:
- Nếu tướng quân tha thì làm sao?
Vân Trường nói:
- Xin theo quân luật.
Khổng Minh nói:
- Nếu thế, phải làm giấy cam đoan.
Vân Trường xin ký giấy cam đoan, rồi hỏi lại rằng:
- Tào Tháo không chạy qua đường ấy, thì quân sư dạy thế nào?
Khổng Minh nói:
- Tướng quân nên tìm trái núi nào cao ở đường hẻm Hoa Dung,
chất cỏ đốt lửa lên, để dử quân Tào đến.
Vân Trường nói:
- Tào Tháo thấy có lửa, biết có mai phục, sao hắn chịu đến?
Khổng Minh cười, nói:
- Tướng quân không nhớ trong binh pháp có câu “Hư hư thực thực”
đó ru? Tháo giỏi dùng binh, có thể mới lừa được hắn. Hắn trông thấy lửa, cho là
ta hư trương thanh thế, tất nhiên tìm đến lối đó. Tướng quân không được thả cho
hắn đi!
Vân Trường lĩnh mệnh dẫn Chu Thương, Quan Bình và năm trăm
quân đao phủ ra đường Hoa Dung mai phục.
Huyền Đức nói nhỏ với Khổng Minh rằng:
- Em tôi là người nghĩa khí lắm. Nếu Tào Tháo quả nhiên đi
qua đó, chỉ sợ em tôi lại tha mất thôi!
Khổng Minh thưa:
- Tôi xem thiên văn, biết số Tào Tháo chưa chết, nên mới để một
mối tình nghĩa ấy cho Vân Trường làm, cũng là một việc hay.
Huyền Đức nói:
- Tiên sinh mưu kế như thần, trên đời hiếm có!
Khổng Minh cùng Huyền Đức sang cả Phàn Khẩu xem Chu Du đánh
trận, để Tôn Càn, Giản Ung ở lại giữ thành.
Nói về Tào Tháo ở trong thuỷ trại, cùng tướng tá bàn bạc, chỉ
đợi tin Hoàng Cái. Hôm ấy gió đông nam nổi to, Trình Dục vào bẩm rằng:
- Hôm nay có gió đông nam, xin thừa tướng đề phòng mới được.
Tháo cười, nói:
- Hôm nay là ngày đông chí, khí nhất dương mới sinh ra, trách
nào chẳng có gió đông nam, có gì lạ!
Chợt quân sĩ vào báo có thuyền Giang Đông đưa mật thư của
Hoàng Cái đến. Tháo gọi vào. Người ấy dâng thư lên, trong thư nói: “Chu Du
phòng bị cẩn mật lắm, chưa tìm được kế thoát thân. Nay nhân có lương thảo ở hồ
Phiên Dương mới tải đến, Chu Du sai tôi đi ra tiếp nhận, dịp may đã tới, sớm tối
gì tôi cũng giết được danh tướng Giang Đông, đem thủ cấp sang hàng. Chỉ vào khoảng
canh hai đêm nay hễ thấy thuyền nào cắm cờ xanh thì chính là thuyền lương”.
Tháo mừng lắm, họp các tướng trên thuyền to, đợi xem thuyền
Hoàng Cái đến.
Lại nói bên Giang Đông, chiều tối hôm ấy, Chu Du gọi Sái Hoà
ra, sai quân trói lại. Hoà kêu là vô tội. Du mắng rằng:
- Mày là thằng nào, dám đến đây trá hàng? Nay ta đang thiếu một
thứ lễ vật tế cờ, hãy mượn cái đầu mày đấy!
Hoà cố cãi không được, kêu to lên rằng:
- Cam Ninh, Hám Trạch cũng đồng mưu với tôi!
Du nói:
Nói đoạn, sai điệu Sái Hoà ra bờ sông dưới cột cờ đèn, rót rượu
đốt vàng, chém đầu lấy máu tế cờ, xong dong thuyền kéo đi.
Hoàng Cái ngồi trên chiếc hoả thuyền thứ ba, chỉ mặc một áo
giáp che bụng, tay cầm dao cực sắc, trên cờ hiệu để bốn chữ “Tiên phong Hoàng
Cái”, thuận gió giương buồm đến thẳng núi Xích Bích.
Bấy giờ, gió đông thổi mạnh, sóng cuốn ầm ầm. Tháo ngồi trên
thuyền, trông sang phía nam, mặt trăng lấp ló, toả sáng dòng sông, tựa hồ muôn
vạn rắn vàng giỡn trên mặt nước. Tháo đón gió vui cười, tỏ vẻ đắc chí lắm.
Chợt một tên quân chỉ tay nói:
- Phía nam sông có cánh buồm nhấp nhô xuôi gió tiến lại.
Tháo lên cao đứng trông. Quân nói:
- Thuyền cắm toàn cờ xanh, giữa có một lá cờ to đề mấy chữ lớn
“Tiên phong Hoàng Cái”.
Tháo mừng, nói:
- Công Phúc lại hàng, thật là trời giúp ta!
Thuyền Đông Ngô lướt tới gần. Trình Dực đứng ngắm hồi lâu, bỗng
bảo Tháo:
- Thuyền này khả nghi lắm, không nên cho vào gần trại.
Tháo hỏi:
- Sao ngươi biết?
Dực thưa:
- Thuyền tải lương thì nặng mới phải, thuyền này đã nhẹ lại nổi
bồng bềnh. Vả lại, đêm nay gió đông nam to lắm, nếu có âm mưu gì, thì làm thế
nào?
Tháo nghe ra, liền hỏi các tướng:
- Ai dám ra cản thuyền ấy lại cho ta?
Văn Sính nói:
- Tôi quen nghề sông nước, xin đi một chuyến!
Nói xong, lập tức nhảy xuống chiếc thuyền nhỏ, tay vẫy vài
mươi chiếc thuyền tuần tiễu đi ra. Sính đứng đầu thuyền, gọi to lên rằng:
- Thừa tướng truyền cho các thuyền kia không được vào gần trại
vội, hãy thả neo đậu cả lại giữa sông!
Quân sĩ cũng đều quát lớn:
- Hạ buồm xuống cho mau!
Quân nói chưa dứt lời, cung nỏ đã bắn sang rào rào, Văn Sính
bị tên trúng cánh tay trái, ngã ngay xuống thuyền. Quân Tào rối loạn chạy về.
Thuyền bên này còn cách trại Tào độ hai dặm, Hoàng Cái cầm dao vẫy một cái, các
thuyền mé trước nhất tề đốt lửa. Lửa được gió, gió bốc lửa, thuyền bay vùn vụt
như tên, rực cháy ngút trời: hai chục chiếc hoả thuyền tràn vào thuỷ trại.
Thuyền trong trại Tào Tháo bén lửa bốc cháy tứ tung, lại bị
xích sắt khoá chặt, không sao chạy thoát. Bên kia sông, pháo nổ đùng đùng, bốn
mặt hoả thuyền ùa đến. Trên mặt sông Tam Giang gió cuốn lửa bay, trên trời dưới
nước đỏ rực như mặt trời mọc. Tào Tháo trông lên các trại trên bờ lại thấy mấy
chỗ bốc cháy.
Hoàng Cái ngồi trên chiếc thuyền nhỏ với vài thuỷ thủ bơi
thuyền, xông vào trong đám lửa, tìm bắt Tào Tháo. Tháo thấy thế nguy cấp lắm, định
bỏ thuyền to chạy lên bờ; chợt có Trương Liêu chở một chiếc thuyền con đến, đỡ
Tháo xuống; Tháo vừa xuống được thì chiếc thuyền to đã bắt lửa cháy rồi. Trương
Liêu và vài chục người bảo vệ Tào Tháo chạy lên bờ. Hoàng Cái thấy có người mặc
áo cẩm bào đỏ xuống thuyền, biết là Tào Tháo, sai bơi mau ngay thuyền đến, tay
cầm dao sắc gọi to lên rằng:
- Tào tặc chớ chạy, Hoàng Cái đã đến đây!
Tào Tháo luôn miệng kêu khổ, Trương Liêu giương cung lắp tên,
đợi Hoàng Cái tới gần, bắn ra một phát. Lúc này gió thổi vù vù, Hoàng Cái đang ở
trong đám lửa, nghe sao thấy tiếng tên bắn, nên bị trúng ngay vào giữa vai, ngã
lăn xuống sông.
Ấy là:
Vạ lửa đang nguy lây vạ nước,
Đau đớn chưa khỏi lại đau tên.
Chưa biết tính mệnh Hoàng Cái sống thác thế nào, xem đến hồi
sau sẽ biết.
Hồi 50:
Gia Cát Lượng khéo tình đường Hoa Dung
Quan Vân Trường vì nghĩa tha Tào Tháo
Lại nói đang đêm hôm ấy Trương Liêu bắn trúng Hoàng Cái ngã
xuống sông, cứu được Tào Tháo chạy lên bờ, tìm được ngựa thì quân sĩ đã rối loạn
cả rồi.
Hàn Đương xông vào đánh thuỷ trại, bỗng quân sĩ báo tin có một
người ở dưới bánh lái đang gọi tên mình. Hàn Đương lắng nghe, thấy tiếng gọi:
- Công Nghĩa cứu ta với!
Đương nhận đúng là tiếng Hoàng Cái, vội vàng vớt lên, thấy
Hoàng Cái bị tên bắn trúng, bèn ghé răng cắn rút tên ra, nhưng đầu tên mắc
trong thịt, Đương vội vàng cởi áo ướt của Cái ra, lấy gươm khoét thịt lấy đầu
tên, rồi xé vải cờ buộc chặt lại; lại cởi chiến bào của mình thay cho Hoàng
Cái, sai thuyền đưa về trại chữa thuốc.
Hoàng Cái xưa nay bơi lội đã quen, cho nên đang lúc đại hàn,
ngã xuống sông cũng không việc gì.
Đêm hôm ấy, lửa đỏ rực trời, tiếng reo dậy đất. Bên tả, hai đội
quân của Hàn Đương, Tưởng Khâm, từ mé tây núi Xích Bích đánh đến. Bên hữu, hai
đội quân của Chu Thái, Trần Vũ từ mé đông núi Xích Bích đánh vào; ở giữa đại đội
chiến thuyền của Chu Du, Trình Phổ, Từ Thịnh, Đinh Phụng xốc tới. Trong thì lửa
đốt, ngoài thì quân đánh. Đó thật là: thuỷ chiến cửa Tam Giang, dàn quân núi
Xích Bích. Quân Tào người bị giáo đâm, kẻ trúng tên bắn, chết cháy, chết đuối,
không biết bao nhiêu mà kể…
Đời sau có thơ rằng:
Chiến tranh, Ngô, Nguỵ quyết thư hùng,
Xích Bích thuyền bè phút sạch không!
Lửa bốc đùng đùng mây biển đỏ,
Chu Du nhờ đó phá Tào công!
Lại có bài thơ tứ tuyệt rằng:
Non cao, trăng quạnh nước mênh mông,
Chinh chiến thời xưa khéo lạ lùng.
Quân sĩ Giang Đông, không đón Nguỵ,
Gió đông có ý giúp Chu lang.
Lại nói Cam Ninh sai Sái Trung đưa đường vào cướp trại Tào
Tháo; đến nơi Ninh chém chết ngay Sái Trung, rồi đốt lửa lên làm hiệu. Lã Mông
thấy trung quân có hiệu lửa, liền đốt luôn vài chục nơi để tiếp ứng Cam Ninh. Đổng
Tập, Phan Chương cũng chia nhau đốt lửa hò reo, trống đánh rộn rã.
Tào Tháo cùng với Trương Liêu dẫn hơn chục quân kỵ mã chạy
trong rừng lửa, nhìn ra phía trước chẳng chỗ nào là chỗ không có lửa cháy. Đang
chạy, thì thấy Mao Giới cứu được Văn Sính, dẫn vài chục quân vừa chạy đến. Tháo
sai quân tìm đường, Trương Liêu chỉ tay nói:
- Chỉ còn có đường Ô Lâm rộng rãi để chạy thôi.
Tháo chạy tắt ra đường Ô Lâm. Bỗng có một toán quân đuổi tới,
gọi to lên rằng:
- Giặc Tào đừng chạy nữa!
Trong ánh lửa, hiện ra lá cờ hiệu Lã Mông. Tháo thúc quân cứ
việc chạy, để Trương Liêu đi sau đánh nhau với Lã Mông. Một lát, lại thấy trước
mặt có lửa bốc, một toán quân ở trong hang núi kéo ra, gọi to lên rằng:
- Lăng Thống ở đây!
Tào Tháo rụng rời hồn vía, may đâu có một toán quân cũng vừa
chạy đến, kêu lớn:
- Thừa tướng đừng sợ, có Từ Hoảng ở đây!
Và xốc vào đánh Lăng Thống một chập, rồi tháo đường chạy cả về
phía bắc. Lại thấy một toán quân mã đóng trên sườn núi, Từ Hoảng ra hỏi, thì là
Mã Diên và Trương Khải, tướng cũ Viên Thiệu đã hàng Tào. Hai tướng ấy có ba
nghìn quân mã, cắm trại ở đó. Đêm hôm ấy, trông thấy lửa sáng rực trời, chưa
dám khinh động, vừa may gặp Tào Tháo. Tháo sai hai tướng dẫn một nghìn quân đi
trước mở đường, còn bao nhiêu bắt đi kèm để bảo vệ.
Tháo được toán quân dồi dào sinh lực ấy, trong bụng hơi vững.
Mã Diên, Trương Khải hai tướng tế ngựa đi trước, chưa được mười dặm, bỗng nghe
tiếng quát ầm ĩ, một toán quân đổ ra, tướng đi đầu thét lên rằng:
- Tao là Cam Hưng Bá ở Đông Ngô đây!
Mã Diên đang chực giao chiến thì đã bị Cam Ninh đưa một nhát
dao, lăn ngay xuống ngựa. Trương Khải vác giáo xông tới. Ninh quát to một tiếng,
Khải trở tay không kịp, bị một nhát dao chết nốt. Hậu quân phi báo Tào Tháo.
Tháo lúc đó chỉ mong quân Hợp Phì đến cứu; không ngờ Tôn Quyền chặn ở đường Hợp
Phì, trông thấy lửa sáng dưới sông, biết là quân mình thắng trận, liền sai Lục
Tốn đốt lửa làm hiệu. Thái Sử Từ thấy có hiệu lửa, liền hợp quân với Lục Tốn
đánh bừa vào, Tào Tháo phải chạy rẽ ra Di Lăng. Giữa đường, gặp Trương Cáp,
Tháo sai Cáp đi chặn hậu. Tháo ra roi tế ngựa chạy mãi đến canh năm, ngoảnh lại
trông thấy khói lửa đã xa, mới tạm yên tâm, và hỏi:
- Đây là xứ nào?
Tả hữu bẩm:
- Đây là phía tây rừng Ô Lâm, phía bắc đất Nghi Đô.
Tháo ngồi trên ngựa, nhìn thấy cây cối um tùm, núi non trùng
điệp, bỗng nhiên cười sằng sặc mãi không thôi. Các tướng hỏi:
- Thừa tướng cười gì?
Tháo nói:
- Ta không cười ai, chỉ cười Chu Du ít mưu, Gia Cát Lượng kém
mẹo. Nếu phải ra tay, ta cho phục sẵn một đạo quân ở chỗ này, thì sẽ ra sao nhỉ?
Tháo nói chưa dứt lời, đã thấy trống đánh thùng thùng, lửa bốc
ngùn ngụt. Tháo sợ hãi quá, suýt nữa ngã ngựa. Một toán quân xông ra, rồi một
tướng thét lên:
- Ta là Triệu Tử Long, phụng mệnh quân sư, đợi ở đây đã lâu rồi!
Tháo sai Từ Hoảng, Trương Cáp hai người ra địch Triệu Vân,
còn mình cứ việc cắm cổ chạy. Tử Long không đuổi theo, chỉ cố cướp đoạt tinh kỳ,
khí giới thôi. Tháo thoát nạn.
Lúc này, trời đã gần sáng, mây đen phủ kín cả bầu trời, gió
đông nam vẫn chưa tắt. Bỗng nhiên một trận mưa đổ xuống như trút nước, ướt cả
áo giáp. Tào Tháo và quân sĩ đội trời mà chạy, người nào người nấy bụng đói như
cào, Tháo thả quân vào các làng mạc cướp gạo và tìm lửa để thổi cơm ăn. Sắp thổi
cơm, thì một toán quân đuổi đến. Tháo hoảng quá, trông ra thì là Lý Điển, Hứa
Chử, đưa một bọn mưu sĩ vừa chạy tới. Tháo mừng rỡ, thúc quân đi luôn không ăn
vội, và hỏi:
- Phía trước mặt kia là địa phận nào?
Quân sĩ bẩm:
- Một bên là đường to đi nam Di Lăng, một bên là đường núi đi
bắc Di Lăng.
Tháo lại hỏi:
- Đi đường nào về Nam Quận, Giang Lăng cho gần?
- Đi đường nam Di Lăng, qua cửa hang Hồ Lô, về Nam Quận gần
hơn.
Tháo bảo ngay đi đường nam Di Lăng. Đến cửa hang Hồ Lô, quân
sĩ đã đói lả cả rồi, không nhấc chân được nữa. Ngựa cũng kiệt sức, lắm con ngã
lăn ra dọc đường. Tháo cho quân tạm nghỉ. Quân sĩ khi nãy vào các làng mạc, kẻ
thì cướp được gạo củi, người thì giật được nồi niêu, liền đem cả ra tìm chỗ khô
ráo, bắc bếp thổi cơm, cắt cả thịt ngựa nướng ăn. Rồi người nào người nấy cởi
áo ra hóng gió cho khô; ngựa tháo yên cho gặm cỏ.
Tháo ngồi trong rừng, bỗng dưng lại ngẩng mặt cười sằng sặc.
Các tướng hỏi:
- Vừa rồi thừa tướng cười Chu Du, Gia Cát Lượng, đã xuất hiện
ngay một đám Triệu Tử Long, tổn hại bao nhiêu quân mã. Sao bây giờ thừa tướng lại
cười?
Tháo nói:
- Ta vẫn cười Gia Cát Lượng, Chu Du là kém mưu trí, nếu ta
dùng binh, thì phục sẵn quân ở chỗ này, ngồi chơi ăn sẵn, chúng ta chẳng chết
cũng bị trọng thương. Họ không tính đến nước đó, nên ta cười.
Tháo đang cười cười nói nói, bỗng phía trước phía sau tiếng
hò reo nổi lên ầm ĩ. Tháo giật mình, bỏ cả giáp, nhảy lên ngựa, phần; lớn quân
sĩ chưa kịp thu ngựa về, đã thấy bốn mặt lửa cháy đùng đùng, một đạo quân dàn
trước cửa hang, tướng đi đầu là Trương Dực Đức, cắp mâu kìm ngựa, hét lớn:
- Bớ giặc Tháo, mi định chạy đi đâu?
Tướng sĩ trông thấy Trương Phi, đều rụng rời hết vía. Hứa Chử
vội vàng cưỡi ngựa không yên ra địch Trương Phi; Trương Liêu, Từ Hoảng cũng tế
ngựa xúm vào đánh. Quân sĩ hai bên đánh nhau lộn bậy. Tháo tế ngựa chạy thoát.
Các tướng cũng dần dần rút cả.
Trương Phi đuổi theo. Tháo cắm cổ chạy. Khi chạy đã xa. Tháo
ngoảnh nhìn các tướng, thấy bị thương rất nhiều. Đang đi, quân sĩ bẩm rằng:
- Trước mặt là ngã ba đường, xin hỏi thừa tướng đi đường nào?
Tháo hỏi:
- Đi đường nào cho gần?
Quân sĩ bẩm:
- Con đường lớn phẳng phiu lắm, nhưng xa hơn năm chục dặm;
con đường nhỏ sang Hoa Dung gần năm chục dặm, nhưng hẹp và gồ ghề khó đi.
Tháo sai người lên núi quan sát, người ấy trở xuống báo rằng:
- Trong đường nhỏ có mấy chỗ khói bốc nghi ngút, đường lớn
thì không thấy gì.
Tháo truyền cho các tướng đi theo đường nhỏ Hoa Dung.
Các tướng hỏi:
- Có khói lửa, tất có mai phục, sao lại đi đường ấy?
Tháo nói:
- Các tướng không biết trong binh thư có câu “Hư là thực, thực
là hư” à? Gia Cát Lượng khôn ngoan, cho nên sai người đốt lửa ở sườn núi hẻo
lánh để ta không dám đi qua núi, rồi phục binh sẵn ở đường lớn. Ta đã biết tỏng
rồi, khi nào còn mắc mẹo hắn.
Các tướng đều nói:
- Thừa tướng mưu cơ giỏi lắm, khó ai bì kịp!
Rồi cùng nhau đem quân chạy theo lối Hoa Dung. Bấy giờ, quân
mã mỏi mệt, thương binh phải gượng gạo dắt díu, cõng đỡ nhau mà đi, quần áo ướt
sũng, tả tơi; vũ khí cờ quạt xơ xác. Trong số này, phần nhiều bị đuổi riết ở đường
Di Lăng mới rồi, chỉ còn cưỡi ngựa trần, yên cương chẳng có. Vả đang lúc trời
đông rét mướt, khổ não không sao kể xiết.
Đang đi, Tháo thấy tiền quân dừng ngựa đứng lại. Tháo hỏi làm
sao; quân quay về bảo rằng:
- Đường hẻm chân núi, vì buổi sáng mưa to, nước đọng thành
vũng, bùn lầy ngập vó ngựa, khó đi lắm.
Tháo điên tiết, quát mắng:
- Phép hành quân, gặp núi phải mở lối, gặp nước phải bắc cầu,
có lẽ đâu bùn lầy không đi được?
Lập tức truyền lệnh, cho quân già yếu và bị thương từ từ đi
sau. Còn bao nhiêu quân cường tráng phải gánh đất, kiếm cỏ rác để đắp đường cho
phẳng phiu; phải làm ngay để lấy đường đi, ai trái lệnh sẽ chém đầu. Quân sĩ được
lệnh phải tụt xuống ngựa, đẵn tre chặt gỗ để lấp đường.
Tháo lại sợ sau lưng có quân đuổi theo, sai Trương Liêu, Hứa
Chử, Từ Hoảng dẫn một trăm lính kỵ, tuốt gươm cầm sẵn trong tay, tên nào chậm
chạp thì chém. Lúc này, quân sĩ đều đói mệt, lăn queo ra đường. Tháo thét người
ngựa giẫm lên trên mà đi, chết hại không biết bao nhiêu, tiếng kêu khóc vang cả
đường sá.
Tháo giận, nói:
- Sống chết có số, việc gì mà phải khóc? Hễ đứa nào khóc nữa
thì chém!
Trong ba toán quân mã, một toán ở lại sau, một toán đi trước
đắp đường, lấp hố, còn một toán đi kèm với Tào Tháo. Đi khỏi quãng hiểm trở, ra
đến đường cái phẳng phiu hơn. Tháo ngoảnh lại thấy chỉ còn hơn ba trăm quân mã,
quần áo tả tơi. Tháo giục đi cho mau. Các tướng thưa:
- Người ngựa kiệt sức quá rồi, xin cho tạm nghỉ một chút!
Tháo nói:
- Đến hẳn Kinh Châu, sẽ nghỉ cũng vừa!
Lại đi được độ vài dặm. Tháo ngồi trên ngựa, giơ roi cười sằng
sặc lên. Các tướng hỏi:
- Thừa tướng lại cười gì thế?
Tháo nói:
- Người ta khen Chu Du, Gia Cát Lượng lắm mưu nhiều trí nhưng
theo ta, chỉ là lũ xoàng thôi. Nếu họ phục sẵn một toán quân ở đây, thì chúng
ta đành khoanh tay chịu trói cả.
Tháo nói chưa dứt lời, tiếng pháo đâu lại nổ lên đùng đùng,
hai bên năm trăm quân đao phủ dàn ra, đi đầu là Quan Vân Trường cầm thanh long
đao, cưỡi ngựa xích thố, chắn ngang đường đi. Quân Tào nhìn thấy, ba hồn bảy
vía lên mây cả, ngơ ngác nhìn nhau, Tháo bảo các tướng rằng:
- Đã đến đường đất này, chỉ còn liều chết mà đánh thôi!
Các tướng nói:
- Người tuy còn có thể địch nổi, nhưng ngựa thì đã kiệt sức
quá rồi, đánh sao được nữa?
Trình Dục nói:
- Tôi vẫn biết Vân Trường vốn kiêu ngạo với người trên, nhưng
không chấp kẻ dưới; coi thường người khoẻ, nhưng không nỡ hiếp người yếu; ân
oán phân minh, tín nghĩa rõ ràng. Thừa tướng khi xưa có ân tình với ông ấy, nay
nên thân ra kêu cầu, hoạ may mới thoát được nạn này.
Tào Tháo nghe lời, tế ngựa ra nghiêng mình nói với Vân Trường:
- Tướng quân lâu nay vẫn mạnh khoẻ chứ?
Vân Trường cũng nghiêng mình đáp lại:
- Tôi phụng mệnh quân sư, đợi thừa tướng ở đây đã lâu.
Tháo nói:
- Tháo tôi thua trận, thế nguy, đến đây không còn đường nào nữa.
Xin tướng quân nghĩ đến tình nghĩa khi xưa làm trọng.
Vân Trường nói:
- Trước đây, tôi tuy đội ơn sâu của thừa tướng, nhưng đã chém
Nhan Lương, Văn Sú, giải vây thành Bạch Mã, để đền đáp rồi. Còn việc hôm nay
tôi đâu dám vị chút tình riêng mà bỏ việc công cho được.
Tháo nói:
- Thế tướng quân còn nhớ đến việc qua năm cửa ải chém sáu tướng
không? Đại trượng phu phải trọng điều tín nghĩa. Tướng quân thông hiểu sách
Xuân thu, há không biết việc Dữu Công Chi Tư đuổi theo Tử Chạc Nhụ Tử[1] đó
ư?
Vân Trường xưa nay vẫn là người trọng nghĩa, nhớ đến ân tình
Tào Tháo khi xưa đãi mình rất hậu và việc ra khỏi năm cửa ải chém sáu tướng,
không khỏi động lòng. Vả lại, trông thấy quân Tào đứa nào cũng rơm rớm nước mắt,
đứng run cầm cập, lòng càng không nỡ. Bởi thế, quay ngựa lại bảo quân sĩ rằng:
“Bốn mặt giãn cả ra!” rõ ràng có ý tha cho Tào Tháo. Tháo thấy vậy, liền cùng với
các tướng kéo ồ cả đi. Vân Trường quay ngựa lại, thì Tào Tháo đã đi qua rồi.
Vân Trường quát to lên một tiếng, quân Tào vội xuống ngựa, quỳ lạy, sụt sùi
khóc lóc. Vân Trường càng không nỡ, còn đang do dự thì Trương Liêu tế ngựa vừa
đến. Vân Trường lại nhớ đến tình bạn cũ, thở dài một tiếng, thả cho đi hết.
Người sau có thơ rằng:
Tào Man thua chạy đến Hoa Dung
Khéo đâu đường hẻm gặp Quan Công.
Chỉ vì tình nghĩa còn ghi tạc,
Nên để rồng tù thoát xuống sông.
Tháo thoát được nạn Hoa Dung, ra khỏi cửa rừng, ngoảnh lại
trông quân mình chỉ còn hai mươi bảy tên lính kỵ. Mãi đến chiều tối, sắp tới
Nam Quận, lại thấy lửa bốc sáng rực, một đội quân mã kéo ra chặn đường.
Tháo hoảng quá, nói:
- Thôi! Mạng ta đến đây là hết!
Một lát, tiền quân lại gần, té ra quân mã của Tào Nhân. Tháo
bấy giờ mới hoàn hồn.
Tào Nhân ra nghênh tiếp và nói:
- Tuy biết tin thua trận, nhưng không dám bỏ thành đi cứu,
nên đóng ở gần để nghênh tiếp.
Tháo nói:
- Ta suýt nữa không được trông thấy nhà ngươi!
Bèn dẫn quân vào Nam Quận nghỉ ngơi. Tiếp đó Trương Liêu cũng
về tới nơi, thuật lại chuyện nhân đức của Vân Trường. Tháo kiểm lại các tướng
thấy nhiều người bị thương lắm, bèn cho phép nghỉ ngơi cả ở đó.
Tào Nhân mở tiệc rượu để Tào Tháo giải buồn, có đủ mặt các
mưu sĩ. Tháo bỗng nhiên ngẩng mặt lên khóc hu hu. Các mưu sĩ hỏi:
- Khi thừa tướng ở trong hang hổ trốn nạn, còn chẳng sợ hãi
gì. Nay đã về đến thành nhà, người được ăn uống thảnh thơi, ngựa được nghỉ ngơi
dưỡng sức, lẽ ra nên thu xếp quân mã, để đánh báo thù, việc gì phải khóc?
Tháo nói:
- Ta khóc Quách Phụng Hiếu đó. Nếu Phụng Hiếu còn sống thì
không đến nỗi có trận thua này.
Nói rồi vỗ bành bạch vào bụng và khóc rằng:
- Thương xót thay Phụng Hiếu! Đau đớn thay Phụng Hiếu! Mến tiếc
thay Phụng Hiếu!
Các mưu sĩ ai cũng hổ thẹn, nín lặng chẳng ai nói gì cả.
Hôm sau, Tháo gọi Tào Nhân vào bảo rằng:
- Ta nay phải về Hứa Đô, thu xếp quân mã, để đánh báo thù.
Ngươi cần giữ vững lấy Nam Quận. Ta có một mật kế trong phong giấy này, khiến
Đông Ngô không dám nhòm ngó Nam Quận nữa.
Tào Nhân bẩm:
- Còn Hợp Phì, Tương Dương, thì nên giao cho ai giữ?
Tháo nói:
- Kinh Châu giao cho ngươi trông nom; Tương Dương ta đã sai Hạ
Hầu Đôn đến giữ rồi. Còn Hợp Phì là nơi hiểm yếu nhất ta sai Trương Liêu làm chủ
tướng, Lý Điển, Nhạc Tiến làm phó tướng, trấn thủ đất ấy. Nếu có việc gì nguy cấp
thì phi báo cho ta biết.
Tháo dặn dò đâu đấy, rồi dẫn các tướng lên ngựa về Hứa Đô, lại
đem theo cả các quan văn võ đã hàng ở Kinh Châu đi, Tào Nhân sai Tào Hồng giữ
Di Lăng và Nam Quận, để phòng Chu Du đến cướp.
Lại nói, Quan Vân Trường tha Tào Tháo, rồi dẫn quân trở về. Bấy
giờ các đạo quân đều bắt được ngựa, khí giới, tiền lương, đem cả về Hạ Khẩu. Chỉ
có Vân Trường về tay không, ra mắt Huyền Đức. Khổng Minh đang chúc mừng Huyền Đức,
thấy nói Vân Trường đến, vội vàng đứng lên cầm chén rượu ra đón và nói rằng:
- Mừng tướng quân lập được công to nhất một đời, và trừ được
hại lớn cho cả thiên hạ! Đáng lẽ tôi phải ra tận xa đón mừng mới phải!
Vân Trường nín lặng chẳng nói gì. Khổng Minh lại nói:
- Hay là tại chúng tôi không ra ngoài xa đón tiếp, cho nên tướng
quân không bằng lòng chăng?
Rồi ngoảnh lại bảo tả hữu:
- Sao các ngươi không báo tin cho ta biết trước?
Vân Trường nói:
- Tôi xin đến chịu tội.
Khổng Minh nói:
- Hay là Tào Tháo không chạy qua đường Hoa Dung chăng?
Vân Trường đáp:
- Chính hắn chạy qua đường ấy, nhưng vì tôi bất tài, nên hắn
chạy thoát được.
Khổng Minh hỏi:
- Thế có bắt được tướng sĩ nào không?
Vân Trường đáp:
- Không bắt được gì cả.
Khổng Minh nói:
- Thôi! Chắc là Vân Trường nghĩ đến ân Tào tháo khi xưa, cố ý
tha cho hắn rồi. Tờ cam kết hiện còn ở đây, không thể không chiếu theo quân luật
được!
Liền quát võ sĩ lôi Vân Trường ra chém:
Đó là:
Cũng liều một chết đền ơn cũ,
Nên để nghìn thu nức tiếng thơm.
Chưa biết tính mạng Vân Trường ra thế nào, xem đến hồi sau sẽ
rõ.
Chú thích:
1. Xuân thu: Dữu Công Chi Tư người nước
Vệ, đuổi Tử Chạc Nhụ Tử. Hai người đều bắn giỏi, nhưng Tử Chạc vì ốm, không cầm
được cung. Dữu Công nói: “Doãn Công dạy ta bắn, lại là học trò ngươi. Vậy ta
không muốn đem nghề của ngươi làm hại ngươi”.
Hồi 51:
Tào Nhân đại chiến quân Đông Ngô
Khổng Minh chọc tức Chu Công Cẩn
Lại nói Khổng Minh định chém Vân Trường. Huyền Đức nói:
- Trước kia khi ba anh em tôi kết nghĩa, đã thề cùng sống chết
có nhau. Nay Vân Trường tuy phạm pháp, nhưng tôi không nỡ trái lời thề trước. Vậy
xin hãy tạm ghi tội lại đấy, để lập công chuộc tội.
Khổng Minh mới tha.
Nói về Chu Du quân điểm tướng, xét thưởng công lao rồi báo
tin cho Ngô hầu biết. Bao nhiêu quân hàng Du đem cả sang sông Trường Giang mở
tiệc rất to, khao thưởng ba quân, rồi tiến đánh Nam Quận. Tiền đội đến bờ sông,
trước sau đóng năm trại. Chu Du ở trại giữa.
Du đang cùng tướng sĩ bàn kế đánh, thì có tin báo Huyền Đức
sai Tôn Càn đến mừng. Du cho mời vào. Càn chào hỏi xong, nói rằng:
- Chúa công tôi sai đến bái tạ đức lớn của đô đốc, có chút lễ
mọn dâng lên.
Du hỏi:
- Huyền Đức nay ở đâu?
Càn thưa:
- Hiện đã đóng quân ở cửa Du Giang.
Du giật mình hỏi:
- Khổng Minh có ở đó không?
Càn thưa:
- Chúa công tôi và Khổng Minh cùng có ở đó.
Du nói:
- Ông hãy về trước, tôi cũng thân đến tạ lễ.
Túc hỏi:
- Vừa rồi đô đốc làm sao mà giật mình thế?
Du nói:
- Lưu Bị đóng quân ở Du Giang, tất có ý muốn lấy Nam Quận.
Chúng ta tốn bao nhiêu tiền lương, quân mã, nay Nam Quận chỉ trở bàn tay là lấy
được. Thế mà bọn Lưu Bị mang lòng bất nhân, chực ăn cỗ sẵn. Thà ta chết rồi thì
thôi, chớ ta còn đây, sao chịu cái nước thế!
Túc nói:
- Dùng kế gì để quân bên kia chịu rút lui?
Du nói:
- Ta đến chơi nói chuyện phải chăng cho họ nghe. Họ biết điều
thì thôi, bằng không thì ta phải sửa trước Lưu Bị đi mới được!
Túc nói:
- Tôi xin đi theo.
Thế rồi Chu Du cùng với Lỗ Túc dẫn ba nghìn quân lính kỵ sang
cửa Du Giang.
Trước hết nói Tôn Càn về ra mắt Huyền Đức, thuật chuyện Chu
Du muốn lại tạ ơn. Huyền Đức hỏi Khổng Minh:
- Chu Du muốn đến đây là ý thế nào?
Khổng Minh cười, nói:
- Có phải vì một chút lễ nhỏ mà đến tạ đâu, chỉ vì Nam Quận đấy
thôi.
Huyền Đức nói:
- Họ đem quân mã đến thì làm thế nào?
Khổng Minh nói:
- Họ đến thì chúa công cứ nói như thế, như thế…
Bàn định rồi, sai dàn chiến thuyền ra cửa Du Giang; trên bờ
cũng bố trí quân mã nghiêm chỉnh. Một lát có tin báo Chu Du, Lỗ Túc dẫn quân đến.
Khổng Minh sai Triệu Văn dẫn vài tên lính kỵ ra tiếp. Du trông thấy quân mã
hùng tráng lắm, trong bụng áy náy không yên. Đến cửa ngoài dinh, Huyền Đức, Khổng
Minh cùng ra đón vào trong trướng, chào hỏi xong xuôi, mở tiệc khoản đãi.
Huyền Đức nâng chén cảm ơn Chu Du đã giúp mình đem quân đánh
lui Tào Tháo. Rượu được vài tuần, Chu Du hỏi rằng:
- Dự Châu dời quân đến đây, có ý muốn lấy Nam Quận chăng?
Huyền Đức đáp:
- Nghe tin đô đốc có ý lấy Nam Quận, nên tôi dẫn quân đến
giúp. Nếu đô đốc không lấy, thì tôi lấy vậy.
Du cười, nói:
- Đông Ngô tôi muốn chiếm cả Hán Giang đã lâu. Nay Nam Quận
đã ở trong tay rồi, lẽ đâu lại không lấy.
Huyền Đức nói:
- Được, thua cũng chưa biết đâu mà nói trước được. Khi Tào
Tháo về, giao các xứ Nam Quận cho Tào Nhân giữ, thế nào chẳng có kế lạ để lại.
Lại thêm Tào Nhân sức khoẻ vô địch, e rằng đô đốc không lấy nổi.
Du nói:
- Nếu tôi không chiếm được Nam Quận, bấy giờ ngài muốn thế
nào tuỳ ý.
Huyền Đức nói:
- Có Tử Kính, Khổng Minh ở đây làm chứng, sau này xin đô đốc
đừng có hối.
Lỗ Túc ngần ngừ chưa lên tiếng, Du nói:
- Đại trượng phu đã hứa ra một lời, can chi mà phải hối.
Khổng Minh nói:
- Đô đốc nói phải lắm. Ta hãy nhường Đông Ngô lấy trước, nếu
không xong, chúa công sẽ lấy, có ngại gì đâu!
Du và Túc từ biệt Huyền Đức và Khổng Minh, lên ngựa ra về.
Huyền Đức hỏi Khổng Minh:
- Vừa rồi tiên sinh bảo tôi nói như thế, nhưng nghĩ cho kỹ
thì thấy chưa hợp lý lắm. Tôi nay cô cùng, không nơi nương náu, muốn được một xứ
Nam Quận này để lấy chốn dung thân. Nếu để Chu Du lấy trước, thì thành trì đã về
tay Đông Ngô rồi, ta ở vào đâu cho được?
Không Minh cả cười, nói:
- Chúa công đừng ngại, cứ mặc sức cho Chu Du quần nhau với
Tào Nhân. Nay mai sẽ rước chúa công vào ngồi chễm chệ ở trong thành Nam Quận.
Huyền Đức hỏi:
- Kế ấy thế nào?
Khổng Minh đáp:
- Chỉ cần như thế, như thế…
Huyền Đức mừng lắm, cứ đóng quân ở cửa Du Giang, không động
tĩnh gì nữa.
Lại nói Chu Du, Lỗ Túc về đến trại. Túc hỏi:
- Làm sao đô đốc hứa cho Lưu Bị lấy Nam Quận?
Du nói:
- Ta gảy móng tay cũng lấy nổi Nam Quận, ta nói thế chẳng qua
để lấy lòng họ đó thôi.
Và hỏi luôn các tướng:
- Ai dám đi lấy Nam Quận trước?
Một người xin đi bước ra: đó là Tưởng Khâm.
Du nói:
- Ngươi làm tiên phong, Từ Thịnh, Đinh Phụng làm phó tướng, dẫn
năm nghìn quân mã tinh nhuệ sang sông trước. Ta sẽ dẫn quân theo sau tiếp ứng.
Nói về Tào Nhân ở Nam Quận, sai Tào Hồng giữ Di Lăng để làm
thế ỷ dốc. Bỗng có tin báo quân Đông Ngô đã qua Hán Giang, Nhân nói:
- Cứ giữ vững không ra đánh là tốt hơn cả!
Có tên kiện tướng là Ngưu Kim đứng phắt lên nói rằng:
- Giặc đến dưới thành mà không ra đánh, thế là nhát. Vả lại
quân ta mới thua, cần phải lấy lại nhuệ khí. Tôi xin mượn năm trăm tinh binh,
quyết một trận sống mái.
Nhân nghe theo, sai Kim Ngưu dẫn năm trăm quân ra đánh. Đinh
Phụng tế ngựa lại địch. Đánh nhau với nhau mới chừng năm hiệp, Phụng vờ thua bỏ
chạy. Ngưu Kim dẫn quân đuổi theo đến giữa trận. Phụng hô quân bao vây chặt chẽ.
Kim tả xung hữu đột, không sao ra được vòng vây. Tào Nhân ở trên mặt thành thấy
thế, liền mặc giáp, lên ngựa, dẫn vài trăm tráng sĩ kéo ra, ra sức khua đao,
đánh xốc vào trận Ngô. Từ Thịnh ra địch không lại. Nhân đánh vào giữa vòng vây,
cứu được Ngưu Kim ra. Khi ngảnh lại, thấy còn vài chục quân kỵ chưa ra được
Nhân lại quay ngựa đánh vào, cứu ra nốt. Vừa gặp Tưởng Khâm chận đường, Tào
Nhân và Ngưu Kim cố sức đánh tan. Lại thêm Tào Thuần là em Tào Nhân cũng đem
quân ra tiếp ứng, hai bên đánh lộn một trận, quân Ngô thua chạy, Tào Nhân thắng
trận trở về.
Tưởng Khâm bị thua, về ra mắt Chu Du. Du nổi giận định chém.
Các tướng kêu van, Khâm mới được tha. Du lập tức điểm binh, muốn quyết chiến với
Tào Nhân. Cam Ninh nói:
- Đô đốc chưa nên vội vàng. Nay Tào Nhân sai Tào Hồng giữ Di
Lăng, làm thế ỷ dốc. Tôi xin lĩnh ba nghìn tinh binh, đến chiếm Di Lăng trước,
rồi đô đốc lấy Nam Quận sau.
Du nghe theo, sai Cam Ninh dẫn quân đánh Di Lăng. Quân thám
báo tin cho Tào Nhân biết. Nhân bàn với Trần Kiều. Kiều nói:
- Nếu mất Di Lăng thì Nam Quận cũng khó giữ, phải đi cứu mau
mới được.
Nhân sai Tào Thuần và Ngưu Kim đi lẻn đến cứu Tào Hồng, Tào
Thuần sai người báo tin cho Tào Hồng biết trước, và báo Tào Hồng ra ngoài thành
dử giặc.
Cam Ninh dẫn quân đến Di Lăng, Tào Hồng ra thành tiếp chiến:
đánh nhau độ hai chục hiệp, Hồng thua chạy. Cam Ninh cướp được Di Lăng. Chiều tối
hôm ấy, Tào Thuần, Ngưu Kim vừa dẫn quân đến nơi, liền hợp với quân Tào Hồng
vây chặt Di Lăng.
Thám mã phi báo với Chu Du rằng Cam Ninh bị vây ở trong thành
nguy cấp lắm. Du nghe giật mình.
Trình Phổ nói:
- Phải cấp tốc chia quân đến cứu mới được!
Du nói:
- Đây chính là chỗ xung yếu, nếu chia quân đi cứu lỡ Tào Nhân
kéo đến đánh úp thành thì làm thế nào?
Lã Mông nói:
- Cam Hưng Bá là đại tướng Giang Đông, không cứu sao được?
Du nói:
- Ta muốn thân đi cứu, nhưng không biết có ai thay được ta ở
đây không?
Mông nói:
- Để Lăng Công Tục trông coi. Tôi xin làm tiên phong, đô đốc
chặn hậu. Chỉ độ mười ngày, chắc chắn thắng trận trở về thôi!
Du nói:
- Không biết Công Tục có chịu đỡ việc cho ta ở nhà không?
Lăng Thống thưa:
- Trong mười ngày, tôi có thể đảm đương được; ngoài mười ngày
thì không sao kham nổi.
Du mừng lắm, để lại hơn một vạn quân, giao cho Lăng Thống, rồi
kéo quân sang ngay Di Lăng.
Lã Mông nói với Chu Du rằng:
- Mé nam thành Di Lăng có con đường nhỏ, thông sang Nam Quận.
Ta nên sai năm trăm quân chặt cây cối chận đường ấy trước. Quân địch bị thua, tất
chạy ra đường ấy. Ngựa không đi được, tất phải bỏ ngựa chạy tháo thân, ta sẽ bắt
được cả ngựa.
Du nghe lời, sai quân theo kế mà làm. Kéo đến gần thành. Du hỏi
các tướng:
- Ai dám phá vòng vây xông vào cứu Cam Ninh?
Chu Thái xin đi, và lập tức cắp đao lên ngựa, đánh thốc vào
giữa quân Tào, đế thẳng dưới thành. Cam Ninh trông thấy Chu Thái đến, mở cửa
thành ra đón. Thái hỏi:
- Đô đốc tự khởi binh đến cứu đấy.
Ninh ra lệnh cho quân sĩ nai nịt chỉnh tề, ăn uống no nê, sẵn
sàng nội ứng.
Tào Hồng, Tào Thuần và Ngưu Kim nghe tin quân Chu Du sắp đến,
một mặt sai người sang Nam Quận báo tin cho Tào Nhân, một mặt chia quân ra cự địch.
Khi quân Ngô đến, quân Tào ra đánh, Cam Ninh, Chu Thái ở trong thành, chia làm
hai đường kéo ra. Quân Tào rối loạn, quân Ngô bốn mặt đánh giết kịch liệt. Quả
nhiên Tào Hồng, Tào Thuần, Ngưu Kim chạy theo đường nhỏ, nhưng bị nghẽn đường,
ngựa không sao đi được, phải bỏ luôn cả ngựa mà chạy, Quân Ngô bắt được hơn năm
trăm ngựa chiến.
Chu Du thúc quân cấp tốc đuổi đến Nam Quận, vừa gặp Tào Nhân
đến cứu Di Lăng. Hai bên hỗn chiến một trận. Trời gần tối, hai bên cùng thu
quân về.
Tào Nhân vào thành, bàn bạc với các tướng. Tào Hồng nói:
- Nay mất thành Di Lăng, nguy cấp lắm rồi, sao không bóc cẩm
nang của thừa tướng để lại cho mà xem, để gỡ nạn này.
Nhân nói:
- Lời các ngươi hợp ý ta lắm!
Rồi mở thư ra xem, có ý mừng rỡ, truyền lệnh:
- Canh năm thổi cơm ăn, sáng rõ thì quân mã lớn nhỏ bỏ ra
ngoài thành. Trên mặt thành cứ việc dàn cắm tinh kỳ nghiêm chỉnh, hư trương
thanh thế; quân thì chia làm ba cửa kéo ra.
Lại nói, Chu Du cứu được Cam Ninh, dàn quân ở ngoài thành Nam
Quận, thấy quân Tào chia làm ba cửa kéo ra. Du trèo lên tượng đài quan sát, thấy
trên mặt thành cờ quạt chi chít, nhưng không có người nào đứng giữ. Lại thấy
quân sĩ người nào cũng thắt hầu bao. Du đoán Tào Nhân đang chuẩn bị chạy, liền
xuống đài ra lệnh chia quân làm hai cánh tả hữu, nếu tiền quân thắng trận thì cứ
việc đuổi đến, khi nào nghe tiếng chiêng khua mới được trở về. Lại sai Trình Phổ
đốc thúc hậu quân. Còn Du thì tự mình đem quân vào lấy thành.
Hai bên dàn trận, trống đánh thùng thùng, Tào Hồng tế ngựa ra
thách đánh. Du thân đến cửa mở, sai Hàn Đương ra địch Tào Hồng. Giao chiến độ
ba chục hiệp, Hồng thua chạy. Tào Nhân lại ra tiếp chiến, bên này Chu Thái
phóng ngựa đón đánh. Được chừng mười hiệp, Nhân cũng thua chạy nốt. Thế trận
bên Tào rối loạn, Du thúc hai cánh quân đánh ùa ra, quân Tào đại bại. Du đuổi
mãi đến thành Nam Quận, quân Tào không vào thành, chạy cả về phía tây bắc. Hàn
Đương, Chu Thái dẫn tiền quân cố sức đuổi theo. Du thấy cửa thành ở toang, trên
mặt thành lại không có ai liền truyền quân sĩ cướp thành. Vài chục quân kỵ mã
vào trước, Du tế ngựa theo sau.
Bấy giờ Trần Kiều ở trên chòi canh trông thấy Chu Du vào
thành, mừng thầm nói:
- Thừa tướng tính toán như thần!
Lập tức hiệu mõ nổi lên, quân phục hai bên bắn ra như mưa. Những
tên vào trước ngã lăn cả xuống hào, Chu Du vội vàng quay ngựa chạy ra, thì bị một
phát tên trúng cạnh sườn, nhào xuống ngựa. Ngưu Kim ở trong thành đánh ra toan
bắt Chu Du. Từ Thịnh, Đinh Phụng lăn xả vào cứu thoát. Quân Tào ở trong thành đổ
ra, quân Ngô giày xéo lẫn nhau, sa xuống hố không biết bao nhiêu mà kể. Trình
Phổ vội vàng thu quân về. Tào Nhân, Tào Hồng chia làm hai cánh quân đánh bất ngờ
chận đường quân Ngô. Tào Nhân thắng trận dẫn quân vào thành. Trình Phổ thu binh
bại về trại. Đinh, Từ hai tướng dìu được Chu Du đem về trướng, gọi thầy thuốc lấy
kìm rút mũi tên ra, rồi đắp thuốc vào. Du đau đớn quá, không ăn uống gì được.
Thầy thuốc dặn rằng:
- Đầu mũi tên có thuốc độc, chưa khỏi ngay được đâu. Nếu trái
ý điều gì mà nổi cơn tức giận lên, thì vết thương lại vỡ ra đó!
Trình Phổ truyền lệnh cho ba quân phải giữ gìn các trại cho vững,
không đâu được khinh động. Được ba hôm Ngưu Kim dẫn quân đến khiêu chiến. Trình
Phổ nín thinh, không động tĩnh gì hết, Ngưu Kim chửi mắng mãi đến chiều tối mới
về. Hôm sau lại đến chửi mắng thách đánh. Trình Phổ sợ Chu Du biết uất lên, nên
không dám báo cho biết. Ngày thứ ba, Ngưu Kim đến tận trước trại chửi bới, hò
reo.
- Chúng ta phải bắt sống Chu Du!
Trình Phổ bàn với các tướng muốn tạm rút quân để về ra mắt
Ngô hầu rồi sẽ định đoạt sau. Chu Du tuy bị đau, nhưng trong bụng vẫn có chủ
trương. Du vẫn biết quân Tào đến sỉ nhục, nhưng không thấy các tướng vào bẩm. Một
hôm Tào Nhân dẫn đại quân đánh trống reo hò ầm ầm kéo đến khiêu chiến, Trình Phổ
giữ trại không ra. Du gọi các tướng vào trướng hỏi:
- Ở đâu đánh trống hò reo thế?
Các tướng bẩm:
- Đó là quân ta thao diễn đấy.
Du nổi giận lên nói rằng:
- Sao dám dối ta làm vậy? Ta vẫn biết quân Tào hàng ngày đến
trước trại chửi mắng. Trình Đức Mưu đã cùng cầm binh quyền với ta, sao cứ ngồi
đó mà nhìn cho được?
Lập tức sai gọi Trình Phổ đến hỏi,
Phổ thưa:
- Tôi thấy đô đốc còn yếu, mà thầy thì dặn đừng để cho đô đốc
tức giận, bởi thế quân Tào đến thách đánh, không dám bẩm cho đô đốc biết.
Du nói:
- Các ông không muốn đánh, là ý thế nào?
Phổ thưa:
- Các tướng đều muốn tạm thu quân về Đông Ngô, đợi đô đốc khoẻ
hẳn, sẽ định đoạt sau.
Du nghe xong, đang ngồi trên giường choàng ngay dậy, nói:
- Đại trượng phu đã ăn lộc của chúa, nên chết ở đám chiến trường,
lấy da ngựa bọc thây mới sướng! Lẽ đâu vì một mình ta mà bỏ cả việc lớn nhà nước?
Nói đoạn, mặc áo giáp nhảy lên ngựa, các tướng thấy vậy ai
cũng rùng mình. Du dẫn vài trăm kỵ mã ra cửa trại, thấy quân Tào đã dàn thế trận,
Tào Nhân đang dừng ngựa dưới cửa cờ, trỏ roi mắng lớn:
- Thằng nhãi con Chu Du kia! Mi chắc sẽ chết yểu, không dám
coi thường quân tao nữa!
Tào Nhân vừa nói dứt lời, Chu Du đã từ trong đám quân kỵ nhảy
vọt ra, nói:
- Thằng thất phu Tào Nhân đã biết Chu lang chửa?
Quân Tào trông thấy Chu Du, ai cũng ngạc nhiên. Tào Nhân ngoảnh
lại bảo các tướng rằng:
- Cứ chửi mắng tợn vào!
Quân sĩ xúm lại mắng nhiếc om sòm. Du giận lắm, sai Phan
Chương ra đánh, nhưng Chương chưa kịp giao phong, thì Du bỗng rú lên một tiếng,
mồm đổ máu tươi, ngã quay xuống ngựa. Quân Tào xô lại; các tướng đổ ra, đánh túi
bụi một trận, cứu được Chu Du đem về trong trướng.
Trình Phổ vào hỏi:
- Quý thể đô đốc ra sao?
Du bảo thầm với Trình Phổ rằng:
- Đó là mẹo của ta đấy!
Phổ hỏi:
- Mẹo ấy thế nào?
Du nói:
- Ta vốn không đau đớn gì lắm; ta làm ra thế, là có ý để cho
quân Tào cho là ta đau nặng, tất nhiên khinh địch. Nên sai quân sĩ vào trong
thành trá hàng, nói rằng ta đã chết. Đêm nay Tào Nhân tất đến cướp trại, ta phục
quân bốn mặt, chắc một trận bắt sống được Tào Nhân.
Trình Phổ nói:
- Kế ấy hay lắm!
Liền sai quân tướng khóc lóc ầm ĩ. Ai nấy giật mình, đồn tin
đô đốc bị vỡ nhọt chết. Các trại đều để tang.
Tào Nhân ở trong thành, bàn với các tướng rằng:
- Chu Du cơn tức uất lên, nhọt tên bật vỡ, đến nỗi mồm thổ ra
huyết, ngã lăn xuống dưới ngựa, chẳng mấy bữa tất chết!
Mọi người đang bàn bạc, thì có vài chục tên lính kỵ bên Ngô
sang hàng, trong đó có hai tên nguyên là lính cũ bên Tào bị Đông Ngô bắt được.
Tào Nhân vội gọi vào hỏi, chúng bẩm rằng:
- Chu Du hôm nay vỡ cái nhọt tên, về đến trại thì chết. Hiện
các tướng đã cử ai, để trở. Chúng tôi bị Trình Phổ ức hiếp quá, cho nên đến
hàng và báo tin ấy.
Tào Nhân mừng lắm, bàn định đến đêm đi cướp trại, và chém lấy
đầu Chu Du đưa về Hứa Đô.
- Kế ấy phải làm ngay không nên trì hoãn!
Tào Nhân sai ngay Ngưu Kim làm tiên phong; tự mình cầm trung
quân; Tào Hồng, Tào Thuần làm hợp hậu. Bao nhiêu quân kéo đi cả, chi còn Trần
Kiều và một ít quân ở lại giữ thành.
Đầu canh một, quân Tào trong thành kéo thẳng đến trại Chu Du,
nhưng không thấy một người nào, chỉ có cờ giáo cắm dàn ra đó thôi. Tào Nhân biết
là mắc mẹo, vội vàng rút lui. Bỗng đâu bốn mặt pháo nổ ầm ầm. Rồi mé đông Hàn
Đương, Tưởng Khâm kéo vào; mé tây Chu Thái, Phan Chương đổ lại; mé nam Từ Thịnh,
Đinh Phụng đánh sang; mé bắc Trần Vũ, Lã Mông ập đến. Quân Tào liểng xiểng, ba
lộ quân tan vỡ, đầu đuôi không cứu được nhau. Tào Nhân dẫn vài mươi tên quân kỵ
chọc thủng vòng vây, gặp ngay Tào Hồng, liền cùng nhau dắt một toán quân mã
linh tinh mà chạy. Mãi tới canh năm gần tới Nam Quận, bỗng lại một hồi chiêng
trống nổi lên, rồi Lăng Thống dẫn quân ra chận đường, đánh giết một hồi, Tào
Nhân lẻn chạy theo đường tắt, lại gặp Cam Ninh bồi luôn cho trận nữa. Tào Nhân
không dám về Nam Quận. Chạy tắt ra đường lớn Tương Dương, quân Ngô đuổi theo một
quãng nữa, rồi trở về.
Chu Du, Trình Phồ thu cả quân mã, kéo nhau đến Nam Quận. Vừa
đến nơi đã thấy trên mặt thành tinh kỳ đỏ rực cả, một tướng trên chòi canh gọi
to lên rằng:
- Xin lỗi đô đốc, tôi phụng mệnh quân sư lấy được thành đã
lâu rồi. Tôi là Triệu Tử Long ở Thường Sơn đây.
Chu Du giận lắm, liền sai đánh thành. Trên thành tên bắn xuống
rào rào. Du truyền rút quân về để bàn bạc, và sai Cam Ninh dẫn một nghìn quân đến
lấy Kinh Châu; Lăng Thống dẫn một nghìn quân đến lấy Tương Dương; rồi sẽ tính đến
Nam Quận cũng vừa. Du đang cắt đặt mọi việc thì có thám mã lại báo rằng.
- Gia Cát Lượng lấy được Nam Quận, liền dùng binh phù của Tào
Nhân cấp tốc điều quân giữ thành Kinh Châu đến cứu, rồi sai Trương Phi úp lấy
Kinh Châu.
Lại có một thám mã về báo rằng:
- Hạ Hầu Đôn giữ ở Tương Dương, Gia Cát Lượng cho người đem
binh phù đến, nói dối rằng Tào Nhân cầu cứu, dụ cho Hạ Hầu Đôn ra khỏi thành, rồi
sai Vân Trường úp lấy Tương Dương. Thành trì hai nơi đều rơi vào Huyền Đức mà
Huyền Đức không hề tốn một chút công sức nào!
Chu Du hỏi:
- Gia Cát Lượng làm thế nào mà lấy được binh phù?
Trình Phổ nói:
- Hắn tóm được Trần Kiều, thì binh phù lọt vào tay hắn chớ
gì!
Chu Du nghe nói, kêu to một tiếng, nhọt đau vỡ tung ra.
Rõ là:
Mấy lớp thành trì đâu mất cả,
Đôi phen cay đắng bõ hay chưa?
Chưa biết tính mệnh Chu Du thế nào, xem đến hồi sau sẽ rõ.
Hồi 52:
Gia Cát Lượng khéo chối từ Lỗ Túc
Triệu Tử Long lừa mẹo lấy Quế Dương
Chu Du thấy Khổng Minh lấy được Nam Quận, lại nghe tin mất cả
Kinh Châu, Tương Dương rồi, trách nào chẳng tức? Du tức quá, uất lên, nằm ngất
đi hồi lâu mới tỉnh. Các tướng khuyên giải hai ba lần. Du nói:
- Nếu không giết được Gia Cát Lượng đi, thì làm sao ta hả dạ
được? Trình Phổ hãy giúp ta, đánh lấy lại Nam Quận cho Đông Ngô.
Đang nói chuyện thì Lỗ Túc đến. Du nói:
- Ta muốn cất quân quyết một trận sống mái với Lưu Bị và Gia
Cát Lượng để đoạt lại thành trì, Tử Kính giúp ta một tay.
Túc nói:
- Không nên! Hiện nay ta với Tào Tháo còn đang kình địch chưa
biết được thua thế nào. Vả lại chúa công cũng chưa hạ được Hợp Phì. Ta với Huyền
Đức không nên thôn tính lẫn nhau, quân Tào thừa cơ kéo đến thì nguy lắm. Huống
chi, Huyền Đức lại quen thân với Tào Tháo. Nếu ta làm quá, hắn tất dâng thành
trì cho Tào Tháo, hợp sức lại đánh Đông Ngô, thì làm thế nào?
Du nói:
- Chúng ta dùng mưu lập mẹo, hao binh tổn tướng, tốn kém tiền
lương. Bọn hắn ngồi ăn cỗ sẵn thì ta chịu sao cho được?
Túc nói:
- Công Cẩn hãy nhẫn nại một chút, để tôi đem lời phải chăng bảo
Huyền Đức, xem hắn nói thế nào, bấy giờ ta sẽ cất quân đi cũng không muộn.
Các tướng nói:
- Tử Kính nói phải lắm!
Lỗ Túc đem theo tuỳ tùng đến thẳng Nam Quận, gọi cửa.
Triệu Vân ra hỏi. Túc nói:
- Tôi muốn vào chơi thưa chuyện với Huyền Đức.
Vân đáp:
- Chúa công tôi với quân sư ở cả trong thành Kinh Châu, không
có ở đây.
Túc không vào Nam Quận nữa, đi thẳng đến Kinh Châu. Nhìn thấy
tinh kỳ nghiêm chỉnh, quân oai hùng tráng, Túc khen thầm:
- Khổng Minh thật không phải người thường!
Quân sĩ vào báo, Khổng Minh sai mở cửa thành mời Lỗ Túc vào
nhà, chào hỏi xong, ngồi theo thứ tự chủ khách. Hết tuần trà. Túc nói:
- Chúa công tôi và đô đốc Công Cẩn sai tôi đến thưa chuyện với
hoàng thúc: Trước kia, Tào Tháo đem trăm vạn quân giả danh muốn lấy Giang Nam,
nhưng thực tế muốn trừ hoàng thúc. May có Đông Ngô tôi, đánh lui giặc Tào, cứu
được hoàng thúc. Chín quận Kinh Châu, đáng lẽ về Đông Ngô mới phải. Thế mà
hoàng thúc dùng quỷ kế, cướp cả Kinh, Tương, để cho Đông Ngô tôi tốn bao nhiêu
tiền lương, quân mã, mà hoàng thúc ngồi chễm chệ hưởng lợi một mình, e rằng
chưa được hợp tình hợp lý lắm!
Khổng Minh đáp lại:
- Tử Kính là người cao minh, sao cũng nói thế? Người ta thường
có câu: “Của ai lại về tay người ấy”. Chín quận Kinh, Tương, nguyên là cơ nghiệp
của Lưu Cảnh Thăng, chớ có phải của Đông Ngô đâu. Chúa công tôi vốn là em Cảnh
Thăng. Cảnh Thăng tuy đã mất rồi, nhưng con ông ấy hiện vẫn còn đó. Thế là chú
giúp cháu mà giữ lấy Kinh Châu, có gì mà chẳng được.
Túc nói:
- Nếu là công tử Lưu Kỳ chiếm lấy, thì nói còn có lẽ; nhưng
nay công tử lại ở Giang Hạ, chớ có ở đây đâu.
Khổng Minh hỏi:
- Tử Kính có muốn trông mặt công tử không?
Lập tức sai người vào mời công tử. Một lát, hai người đỡ Lưu
Kỳ tự phía sau bình phong đi ra. Kỳ chào Lỗ Túc, rồi nói:
- Tôi mấy bữa nay mệt mỏi, không thi lễ được, xin Tử Kính thứ
lỗi cho!
Lỗ Túc giật mình, ngồi ngẩn mặt không nói được câu gì; hồi
lâu mới nói:
- Nếu chẳng may công tử qua đời đi, thì thế nào?
Khổng Minh đáp:
- Công tử còn ngày nào, giữ ngày ấy; bằng không bấy giờ sẽ liệu!
Túc nói:
- Nếu công tử có mệnh hệ nào thì phải đem thành trì trả lại
Đông Ngô nhé!
Khổng Minh nói:
- Lời Tử Kính đúng lắm!
Rồi mở tiệc chiêu đãi. Tiệc tan, Túc từ biệt về ngay đêm hôm ấy,
thuật chuyện với Chu Du. Du nói:
- Lưu Kỳ còn đang trai trẻ, làm sao mà chết được? Thế thì bao
giờ lấy lại được Kinh Châu?
Túc đáp:
- Đô đốc yên tâm, việc ấy cứ mặc tôi lo liệu, làm thế nào lấy
được Kinh Châu về cho Đông Ngô thì thôi.
Du hỏi:
- Tử Kính có ý kiến gì hay thế?
Túc đáp:
- Tôi xem bộ Lưu Kỳ tửu sắc quá độ, bệnh đã vào cao hoang[1],
mặt mũi xanh xao, võ vàng, hơi thở yếu ớt, thường thổ ra huyết, khéo lắm cũng
chưa chắc đã thọ được nửa năm nữa. Bấy giờ ta sẽ đến đòi Kinh Châu, Lưu Bị hẳn
chẳng vin được cớ gì nữa!
Chu Du vẫn còn tức giận. Chợt có sứ của Tôn Quyền đến. Chu Du
mời vào. Sứ thưa:
- Chúa công vây Hợp Phì, đánh mãi không hạ được. Nếu truyền lệnh
đô đốc thu đại quân về, rồi mang một số đến Hợp Phì đánh giúp.
Du phải đem quân về Sài Tang dưỡng bệnh, rồi cho Trình Phổ dẫn
quân sĩ, chiến thuyền đến Hợp Phì giúp Tôn Quyền.
Huyền Đức từ khi lấy được Kinh Châu, Nam Quận, Tương Dương
trong bụng hả hê, bàn kế giữ lâu dài. Bỗng một người bước lên hiến kế. Huyền Đức
trông ra là Y Tịch. Cảm ân tình khi xưa, Huyền Đức tỏ ý kính trọng lắm, mời ngồi
hỏi chuyện. Tịch thưa:
- Ngài muốn tìm kế lâu dài, sao không cầu hiền sĩ mà hỏi?
Huyền Đức nói:
- Hiền sĩ ở đâu?
Tịch đáp:
- Ở Kinh, Tương này có năm anh em họ Mã, cùng có danh tiếng.
Người em út tên là Mã Tốc, tự là Ấu Thường. Nhưng chỉ có người tên là Lương, tự
Quý Thường có lông mày trắng là giỏi hơn cả. Làng xóm đã có câu ca dao: “Mã thị
ngũ Thường, bạch my tối lương”. Sao ngài không cho mời người ấy đến bàn mưu định
kế?
Huyền Đức liền sai người đi mời Mã Lương đến, Huyền Đức tiếp
đãi sang trọng, rồi hỏi kế giữ Kinh, Tương.
Lương thưa:
- Kinh, Tương bốn mặt trống trải, không thể giữ được lâu. Nên
để công tử Lưu Kỳ ở đó dưỡng bệnh, chiêu mộ những người cũ ra giúp việc. Chúa
công tâu vua cho công tử làm thứ sử để yên lòng dân. Chúa công nên sang mặt nam
đánh lấy bốn quận: Võ Lăng, Trường Sa, Quế Dương và Linh Lăng. Rồi thu góp tiền
lương để làm căn bản, đó là kế lâu dài đấy.
Huyền Đức mừng lắm, hỏi:
- Trong bốn quận ấy, nên lấy quận nào trước?
Lương thưa:
- Linh Lăng ở gần mé tây Tương Giang, nên lấy trước; thứ đến
Võ Lăng sau sẽ lấy Quế Dương ở mé đông Tương Giang; cuối cùng lấy Trường Sa.
Huyền Đức cho Mã Lương làm tùng sự; Y Tịch làm phó; mời Khổng
Minh đến bàn bạc; đưa công tử sang Tương Dương, thay cho Vân Trường về Kinh
Châu. Rồi cất quân đi lấy Linh Lăng, sai Trương Phi làm tiên phong, Triệu Vân
đi đốc hậu. Khổng Minh, Huyền Đức đi làm trung quân, tổng số nhân mã một vạn rưỡi;
để Vân Trường giữ Kinh Châu, My Chúc và Lưu Phong giữ Giang Lăng.
Thái thú Linh Lăng là Lưu Độ, nghe tin quân mã của Huyền Đức
đến, bàn với con là Lưu Hiền. Hiền nói:
- Xin cha hãy yên tâm, hắn tuy có Trương Phi, Triệu Vân hùng
dũng, nhưng ta cũng có thượng tướng Hình Đạo Vinh sức địch muôn người, có thể
chống cự nổi.
Lưu Độ sai ngay Hình Đạo Vinh dẫn hơn vạn quân ra cách thành
ba chục dặm, lập một cái trại dựa vào sườn núi ven sông. Thám mã báo:
- Khổng Minh dẫn một toán quân đến.
Đạo Vinh mang quân ra địch. Hai bên dàn trận, Đạo Vinh tay
xách một cái búa khai sơn, quát to lên rằng:
- Quân nghịch tặc kia! Sao dám xâm phạm vào bờ cõi ta?
Chỉ thấy bên đối phương hiện ra một toán cờ vàng, trong đám cờ
có một xe bốn bánh trên có một người đội khăn lượt, mặc áo cánh hạc, cầm quạt
lông, vẫy Đạo Vinh báo rằng:
- Ta là Gia Cát Khổng Minh ở Nam Dương đây! Tào Tháo mang
trăm vạn quân, bị ta dùng một mẹo nhỏ giết cho không còn mảnh giáp rút về, bọn
ngươi địch với ta sao nổi? Nay ta đến chiêu an, sao không hàng đi cho mau?
Đạo Vinh cười, nói:
- Trận đánh ở Xích Bích là mưu của Chu Du, can gì đến ngươi
mà ngươi dám đến đây khoác lác?
Nói đoạn vác búa xông vào đánh.
Khổng Minh quay xe chạy vào trong trận, cửa trận khép lại. Đạo
Vinh vác búa tế ngựa xông vào, thế trận bên này bỗng chia thành hai ngả mà chạy.
Đạo Vinh trông thấy phía giữa có một đám cờ vàng, đoán chắc Khổng Minh ở đó,
nên cứ nhằm chỗ ấy mà đuổi; qua một trái núi, đám cờ vàng đứng dừng lại. Rồi cửa
trận mở ra, xe bốn bánh biến mất, chỉ thấy một tướng cầm mâu tế ngựa ra quát to
một câu: “Ta là Trương Dực Đức đây!” rồi xốc lại đâm Đạo Vinh. Đạo Vinh khoa
búa đón đánh, được vài hiệp, nghe chừng địch không nổi, liền quay ngựa chạy. Dực
Đức đuổi theo, tiếng hò reo ầm ĩ, quân phục hai bên đổ ra. Đạo Vinh cố chết mà
chạy. Trước mặt lại gặp một đại tướng chẹn đường thét lớn:
- Mày có biết Triệu Tử Long ở Thường Sơn không?
Đạo Vinh biết thân chẳng địch nổi, lại không đường chạy, phải
xuống ngựa xin hàng. Tử Long trói giải về nạp Huyền Đức và Khổng Minh. Huyền Đức
sai điệu ra chém, Khổng Minh vội ngăn lại, rồi bảo Đạo Vinh:
- Hễ bắt được Lưu Hiền cho ta, thì ta cho hàng!
Đạo Vinh dạ dạ xin đi. Khổng Minh nói:
- Ngươi dùng kế gì bắt được nó?
Đạo Vinh thưa:
- Nếu quân sư tha cho tôi về, tôi sẽ dùng lời lẽ khéo léo lừa
nó. Đêm nay, quân sư đến cướp trại, tôi làm nội ứng, bắt sống Lưu Hiền, đem về
nộp quân sư. Lưu Hiền đã bị bắt, thì Lưu Độ tự nhiên phải hàng thôi!
Huyền Đức không tin. Khổng Minh nói:
- Hình tướng quân không sai lời đâu.
Liền tha cho Đạo Vinh về.
Về đến trại, Vinh thuật cả đầu đuôi câu chuyện cho Lưu Hiền
nghe. Hiền hỏi:
- Thế thì ta nên tính làm sao?
Đạo Vinh thưa:
- Nên nhân kế ấy mà dùng kế ta. Đêm nay, cho quân phục hết ở
ngoài trại; trong trại giả vờ cắm cờ quạt, đợi Khổng Minh đến cướp trại, thì đổ
ra bắt sống lấy.
Lưu Hiền nghe theo.
Canh hai đêm hôm ấy, quả nhiên có một toán quân, mỗi người
xách một bó cỏ, kéo đến cửa trại, nhất tề đốt lửa lên. Lưu Hiền, Đạo Vinh đổ ra
đánh thì quân đốt lửa rút chạy cả. Hai người thừa thế đuổi theo đến hơn chục dặm,
quân đốt lửa biến đâu hết. Hai người vội vàng quay về trại, thì thấy ánh lửa
chưa tắt, trong trại một tướng kéo quân xông ra, trông xem là Trương Phi.
Lưu Hiền gọi Đạo Vinh:
- Không nên về trại nhà nữa, đến cướp trại Khổng Minh đi
thôi.
Hai bên bèn quay trở lại; đi chưa được chục dặm, bất ngờ gặp
Triệu Vân chẹn đường đánh ra, phóng giáo đâm ngay Đạo Vinh chết lăn xuống ngựa.
Lưu Hiền vội vàng quay ngựa chạy về, lại gặp phải Trương Phi đuổi đến, bắt sống,
trói lại đem về nộp Khổng Minh.
Lưu Hiền kêu rằng:
- Đó là Đạo Vinh xui tôi như thế, chớ không phải chủ ý của
tôi.
Khổng Minh sai cởi trói, cho mặc áo tử tế, và cho uống rượu để
hoàn hồn; rồi sai người đưa vào thành dụ cha ra hàng, nếu không hàng, sẽ phá
tan thành trì, giết sạch cả nhà.
Lưu Hiền trở về Linh Lăng, kể lại với cha chuyện Khổng Tử
nhân đức và khuyên cha ra hàng. Lưu Độ nghe theo, dựng cờ hàng trên mặt thành,
rồi mở toang cửa thành, đem ấn tín đến nộp Huyền Đức xin hàng. Khổng Minh cho
Lưu Độ giữ nguyên chức thái thú quận này, con là Lưu Hiền thì cho về Kinh Châu
theo giúp việc quân. Nhân dân toàn quận Linh Lăng vui mừng, phấn khởi.
Huyền Đức vào thành yên dân, khao thưởng ba quân rồi hỏi các
tướng rằng:
- Linh Lăng đã lấy xong, còn quận Quế Dương thì ai dám đi lấy?
Triệu Vân dạ xin đi, Trương Phi cũng hăng hái xin đi. Hai người
tranh nhau, Khổng Minh nói:
- Tử Long xin trước, thì chỉ một mình Tử Long được đi thôi.
Trương Phi không chịu, nhất định đòi xin đi. Khổng Minh cho
hai người rút thăm, ai rút trúng thì đi. Tử Long lại rút trúng. Trương Phi phát
khùng lên nói:
- Tôi không cần phải người giúp đỡ, chỉ xin lĩnh ba ngàn quân
đi, lấy thành trì dễ như bỡn.
Triệu Vân nói:
- Tôi cũng chỉ xin ba nghìn quân đi, nếu không lấy nổi thành,
xin chịu quân lệnh.
Khổng Minh mừng lắm, bắt lập tờ quân lệnh, rồi kén ba nghìn
tinh binh giao cho Triệu Vân mang đi. Trương Phi hằn học không chịu, Huyền Đức
quát bảo lui ra. Triệu Vân dẫn quân mã đến thẳng Quế Dương.
Thám mã báo tin cho thái thú quận này là Triệu Phạm, Phạm vội
họp tướng sĩ lại bàn bạc. Quản quân hiệu uý là Trần Ứng, Pháo Long xin lĩnh
binh ra đánh.
Hai người đều xuất thân là tay săn bắn ở vùng núi Quế Dương.
Trần Ứng tài lao đinh ba, Pháo Long thì từng bắn giết được hai con hổ một lúc.
Hai người cậy mình có sức khoẻ, liền bẩm với Triệu Phạm:
- Nếu Lưu Bị tới, chúng tôi xin làm tiền bộ.
Triệu Phạm nói:
- Ta nghe Lưu Huyền Đức là hoàng thúc nhà Hán, lại có Khổng
Minh lắm mưu; Quan, Trương cực khoẻ. Nay kéo quân đến đây, lại là Triệu Tử
Long, khi hắn ở Trường Bản, xông xáo trong đám quân trăm vạn như vào chỗ không
người. Quế Dương ta có được bao nhiêu quân mã mà địch cho lại, thà đầu hàng còn
hơn.
Trần Ứng thưa:
- Tôi xin ra đánh, nếu không bắt được Triệu Vân, bấy giờ thái
thú ra hàng cũng chưa muộn.
Triệu Phạm ngăn lại không được, đành phải cho đi.
Trần Ứng dẫn ba nghìn quân mã ra khỏi thành, đã thấy Triệu
Vân đến. Ứng dàn xong trận, cầm đinh ba tế ngựa đi ra. Vân trỏ giáo mắng rằng:
- Chủ ta Lưu Huyền Đức, là em Lưu Cảnh Thăng, nay giúp công tử
Lưu Kỳ giữ Kinh Châu, sai ta đến đây yên dân, sao ngươi dám chống lại?
Trần Ứng cũng mắng lại:
- Ta đây chỉ phục Tào thừa tướng, đâu có theo Lưu Bị?
Vân giận lắm, khua giáo tế ngựa đến đánh, Ứng cũng múa đinh
ba đón đỡ, được bốn năm hiệp, Ứng liệu địch không nổi, quay ngựa chạy về.Vân đuổi
theo. Ứng ngoảnh cổ lại thấy ngựa Triệu Vân đã gần kịp, liền lao đinh ba sang.
Vân bắt được lao trả lại. Ứng vội né mình tránh khỏi, thì ngựa của Vân đã đến
nơi rồi. Vân vươn tay núm được Trần Ứng, quẳng xuống đất, thét quân sĩ trói lại
đem về trại. Quân địch tan tác chạy hết.
Vân về trại mắng Trần Ứng rằng:
- Cái thứ nhà ngươi thấm vào đâu, mà dám địch nhau với ta? Ta
không thèm giết, tha cho ngươi về bảo Triệu Phạm mau mau ra hàng.
Ứng tạ tội, ôm đầu thui thủi trở về, nói hết lại với Triệu Phạm,
Phạm nói:
- Nguyên ta vẫn muốn hàng, chỉ tại ngươi cố cưỡng muốn đánh mới
đến nỗi này.
Nói rồi mắng Trần Ứng lui ra, mang ấn tín và dẫn vài mươi tên
kỵ đến tận trại Triệu Vân xin hàng. Vân ra trại tiếp vào, mở tiệc thết đãi, tiếp
nhận ấn tín. Rượu được vài tuần, Phạm nói:
- Tướng quân họ Triệu, tôi cũng họ Triệu, năm trăm năm trước
đây dễ thường là một nhà với nhau. Tướng quân quê ở Chân Định, tôi cũng quê ở
Chân Định, lại cùng làng. Nếu tướng quân không chê, cho tôi được kết làm anh
em, thực là vạn hạnh.
Vân mừng lắm, cùng hỏi tuổi nhau. Vân đẻ trước Phạm bốn
tháng. Phạm nhận Vân làm anh. Hai người cùng làng, cùng tuổi, lại cùng họ, mười
phần tương đắc với nhau cả mười. Mãi đến chiều mới tan tiệc, Phạm từ giã trở về
thành.
Hôm sau, Phạm mời Vân vào thành yên dân. Vân dặn quân sĩ cứ ở
ngoài trại, chỉ đem năm chục lính kỵ mã vào thành. Cư dân đốt hương bày đồ bái
vọng đứng đặc dọc đường nghênh tiếp. Vân phủ dụ đâu đấy, Phạm mời Vân vào dinh
ăn tiệc. Khi rượu đã ngà ngà say. Phạm lại mời Vân vào nhà sau uống tiệc nữa.
Vân bấy giờ đã say, Phạm bỗng nhiên gọi một người đàn bà ra nâng chén mời Triệu
Vân. Vân trông thấy người ấy ăn mặc đồ trắng, nhan sắc nghiêng nước nghiêng
thành mới hỏi Phạm:
- Người này là ai?
Phạm thưa:
- Đó là Phàn thị, chị dâu tôi.
Tử Long dịu sắc mặt lại, tỏ vẻ kính trọng. Phàn thị chuốc rượu
xong, Phạm mời ngồi xuống. Vân cảm tạ. Phàn thị lui vào nhà trong.
Vân bảo Phạm rằng:
- Hiền đệ sao dám phiền đến lệnh tẩu mời rượu vậy?
Phạm cười, đáp:
- Cũng vì có chút duyên cớ, xin anh chớ ngại. Anh ruột tôi đã
quá cố cách đây ba năm, chị tôi ở goá một mình, chưa trót đời được. Tôi đã
khuyên chị tôi cải giá. Chị tôi nói: “Hễ được người nào đủ ba điều kiện thì mới
lấy: một là văn võ kiêm toàn, tiếng đồn khắp cả thiên hạ; hai là tướng mạo đường
vệ, uy nghi khác người; ba là phải cùng một họ với anh tôi!” Anh thử nghĩ xem
thiên hạ có mấy người lại hợp được cả ba điều kiện ấy không? Thế mà tôn huynh
đường đường bậc anh hào, tiếng vang bốn bể, lại đồng họ với anh tôi, thật hợp với
lời ước của chị tôi lắm. Nếu không hiềm chị tôi xấu xa, xin tướng quân cho được
nâng khăn sửa túi, để kết thân mãi mãi với nhau, tướng quân nghĩ sao?
Vân nghe nói, nổi giận, vùng dậy thét lớn:
- Ta với ngươi đã kết làm anh em, thì chị dâu ngươi cũng như
chị dâu ta, lẽ đâu làm việc loạn luân như thế!
Triệu Phạm hổ thẹn quá, đáp rằng:
- Ta đối đãi tử tế, sao lại dám vô lễ làm vậy?
Liền liếc mắt cho tả hữu, có ý muốn sát hại. Vân biết ý, đánh
Phạm ngã lăn xuống đất, rồi ra thẳng cửa phủ, lên ngựa về trại.
Phạm gọi Trần Ứng, Pháo Long vào bàn bạc. Ứng nói:
- Hắn đã tức giận bỏ đi, vậy phải đánh nhau mới xong.
Phạm nói:
- Chỉ sợ đánh không nổi hắn thôi!
Pháo Long bàn rằng:
- Để hai chúng tôi đến trá hàng ở trong đám quân bên ấy. Thái
thú nên dẫn quân lại khiêu chiến, chúng tôi rình bắt sống hắn ngay tại trận là
xong.
- Cần phải mang theo một số quân mã.
Long nói:
- Chỉ năm trăm quân kỵ là đủ rồi.
Đêm hôm ấy hai người dẫn năm trăm quân đến trại Triệu Vân xin
hàng. Vân biết rõ là trá hàng, nhưng cũng cho gọi vào. Hai người vào trướng,
nói rằng:
- Triệu Phạm muốn dùng kế mỹ nhân để lừa tướng quân, định đợi
lúc nào tướng quân say rượu thì giết đi, lấy đầu đem đến nộp Tào Tháo, thật là
bất nhân. Chúng tôi thấy tướng quân tức giận, sợ liên luỵ đến mình, cho nên đến
xin hàng.
Vân giả cách mừng rỡ, mở tiệc khoản đãi ân cần. Hai người uống
rượu say quá, Vân sai trói lại. Rồi tra hỏi bọn thủ hạ, quả nhiên là đến tráo
hàng. Vân gọi cả năm trăm quân của Ứng Long vào, cho ăn uống no say, rồi ra lệnh:
- Trần Ứng, Pháo Long hai người muốn hại ta, không can gì đến
bọn ngươi. Bọn ngươi phải theo kế ta, sẽ được trọng thưởng.
Quân sĩ lạy tạ. Vân lập tức sai chém hai người, rồi sai năm
trăm quân dẫn đường, mình thì dẫn một nghìn quân đi sau, đang đêm đến thẳng
thành Quế Dương gọi cửa, bảo rằng:
- Trần, Pháo, hai tướng đã giết được Triệu Vân rồi, xin thái
thú ra thành thương nghị.
Quân trên thành đốt đuốc lên soi, thấy đúng là quân mã của
nhà. Triệu Phạm vội vàng ra thành. Vân quát ngay tả hữu bắt trói lại. Rồi vào
thành uý lạo trăm họ đâu đấy và báo tin về Huyền Đức.
Huyền Đức và Khổng Minh đến Quế Dương, Vân ra ngênh tiếp. Triệu
Phạm bị trói đúng ở dưới thềm. Khổng Minh hỏi, Phạm thuật lại cả chuyện muốn gả
chị dâu, Khổng Minh bảo Vân rằng:
- Đó là việc tốt lành, tướng quân sao gàn thế?
Vân thưa:
- Triệu Phạm đã cùng với tôi kết nghĩa anh em, nếu lấy chị
dâu hắn, thì miệng đời chê cười là một. Người goá chồng bước đi bước nữa là thất
tiết, là hai. Triệu Phạm mới hàng, chưa biết bụng dạ thế nào là ba, Chúa công mới
dẹp yên được Giang Hán, ngủ còn chưa yên, Vân tôi đâu dám vì một người đàn bà
mà bỏ việc lớn của chúa công?
Huyền Đức nói:
- Bây giờ, việc lớn đã xong xuôi cả rồi, cho người lấy nàng ấy,
ngươi có thuận không?
Vân thưa:
- Thiên hạ chả thiếu gì con gái, chỉ lo công danh không lập
được, chớ có lo gì không có vợ con!
Huyền Đức khen rằng:
- Tử Long thế mới thực là trượng phu!
Rồi trọng thưởng cho Triệu Vân, và tha Triệu Phạm cho làm
thái thú quận Quế Dương như cũ.
Trương Phi kêu lên rằng:
- Chỉ một mình Tử Long lập được công, còn tôi là đồ vô dụng
hay sao? Tôi xin lĩnh ba nghìn quân đến lấy Võ Lăng, quyết bắt sống thái thú
Kim Toàn về nộp.
Khổng Minh mừng lắm, nói:
- Dực Đức muốn đi cũng được, nhưng phải tuân theo một điều kiện.
Đó là:
Quân sư nghĩ được nhiều mưu lạ,
Tướng sĩ tranh nhau lập chiến công.
Chưa biết Khổng Minh nói điều gì, xem hồi sau sẽ rõ.
Chú thích:
1. Hai huyệt ở trong người, châm cứu
không tới, thuốc uống cũng không đến, nói chung những bệnh không chữa được.
Hồi 53:
Quan Vân Trường tha Hoàng Trung không giết
Quan Vân Trường tha Hoàng Trung không giết
Tôn Trọng Mưu đánh Trương Liêu bị thua
Khổng Minh bảo với Trương Phi rằng:
- Khi trước Tử Long ra lấy Quế Dương, phải lập tờ quân lệnh mới
được đi. Nay Dực Đức muốn ra lấy Võ Lăng, cũng phải làm như thế.
Trương Phi liền lập tờ quân lệnh, và hớn hở lĩnh ba nghìn
quân, cấp tốc đến Võ Lăng.
Kim Toàn nghe tin Trương Phi đến, liền tụ tập tướng sĩ kéo ra
nghênh địch. Quan tòng sự là Củng Chí can rằng:
- Lưu Huyền Đức là hoàng thúc nhà Hán, nhân nghĩa tưới khắp cả
thiên hạ. Thêm vào đó, Trương Phi khoẻ mạnh lạ thường, không thể địch nổi, chi
bằng đầu hàng là hơn.
Kim Toàn nổi giận nói:
- Mày muốn thông đồng với giặc làm tay trong à?
Lập tức quát võ sĩ lôi ra chém. Tướng tá xúm lại kêu xin,
nói:
- Chưa xuất quân đã chém người nhà, như thế không lợi!
Toàn mới mắng đuổi Chí ra, rồi dẫn quân ra ngoài thành, chưa
được hai chục dặm thì gặp Trương Phi đến. Phi dừng ngựa, chỉ mâu quát mắng Kim
Toàn. Toàn hỏi bộ tướng:
- Ai dám ra địch?
Người nào người nấy luống cuống, sợ hãi, không dám ra. Toàn
phải tế ngựa múa đao ra đón đánh. Phi gầm lên một tiếng như sét đánh. Kim Toàn
mất vía, không dám giao phong, quay ngựa chạy về. Phi dẫn quân đuổi theo đánh
giết túi bụi. Kim Toàn chạy về đến dưới thành, thì bên trên tên bắn xuống như
mưa. Toàn giật mình, trông lên thấy Củng Chí đứng ở trên mặt thành nói rằng:
- Ngươi không theo thiên thời, tự rước lấy bại vong, ta cùng
bách tính đầu hàng Lưu hoàng thúc vậy!
Củng Chí nói chưa dứt lời thì một mũi tên bắn tin vào mặt Kim
Toàn. Toàn ngã nhào xuống ngựa. Quân sĩ cắt ngay đầu, nộp Trương Phi Củng Chí
ra thành xin hàng. Phi sai Chí mang ấn tín đến Quế Dương ra mắt Huyền Đức. Huyền
Đức mừng lắm, cho ngay Củng Chí thay chức Kim Toàn.
Huyền Đức thân đến Võ Lăng phủ dụ nhân dân, rồi viết thư báo
cho Vân Trường biết tin Tử Long, Dực Đức, mỗi người đã lấy được một quận. Vân
Trường viết thư về nói:
“Còn lại một quận Trường Sa nếu huynh trưởng không coi em là
kẻ bất tài, xin giao cho em được giành được công lao đó thì hay lắm!”
Huyền Đức mừng rỡ, bằng lòng để Vân Trường đi lấy Trường Sa.
Về đến nơi, Vân Trường vào ra mắt Huyền Đức và Khổng Minh. Khổng Minh nói:
- Khi Tử Long lấy Quế Dương. Dực Đức lấy Võ Lăng, đều chỉ đem
có ba nghìn quân thôi. Nay thái thú Trường Sa là Hàn Huyền, tuy chẳng ra gì,
nhưng hắn có một viên đại tướng là Hoàng Trung, tự là Hán Thăng, quê ở Nam
Dương tướng cũ của Lưu Biểu, cùng với Lưu Bàn (cháu Lưu Biểu) trấn thủ Trường
Sa; về sau Hoàng Trung theo Hàn Huyền. Nay tuy gần sáu mươi tuổi, nhưng sức địch
muôn người, chớ nên coi thường. Vân Trường có đi, thì phải đem nhiều quân mã mới
được.
Vân Trường nói:
- Sao quân sư lại đề cao người khác mà làm giảm oai phong nhà
mình thế? Cái thứ lính già ấy, có kể vào đâu! Tôi không cần đến ba nghìn quân
mã, chỉ xin đem năm trăm quân của tôi, quyết chém đầu Hoàng Trung, Hàn Huyền về
dâng dưới trướng.
Huyền Đức cố gàn lại, nhưng Vân Trường nhất định không nghe,
chỉ đem năm trăm quân bản bộ đi.
Khổng Minh nói với Huyền Đức rằng:
- Vân Trường khinh thường Hoàng Trung, tôi e lỡ việc. Chúa
công nên đi tiếp ứng cho.
Huyền Đức nghe lời, sau đó cũng dẫn binh tiến đến Trường Sa.
Lại nói, thái thú ở Trường Sa là Hàn Huyền, xưa nay tính khí
nóng nảy, giết người như ngoé, ai cũng oán ghét. Bấy giờ nghe tin Vân Trường đến,
Huyền liền gọi lão tướng Hoàng Trung vào bàn bạc.
Trung nói:
- Chúa công cứ yên tâm, chỉ một con dao với một cái cung này,
một nghìn đứa lại thì một nghìn đứa chết!
Nguyên Hoàng Trung có sức khoẻ giương được cung hai tạ, bắn
trăm phát tin cả trăm. Trung vừa nói chưa dứt lời, thì có một người ở dưới thềm
bước ra thưa:
- Không cần đến lão tướng quân phải ra đánh, chỉ một tay tôi
cũng bắt sống được Quan Vũ đem về.
Hàn Huyền trông xem ai, thì là quản quân hiệu uý là Dương
Linh. Huyền mừng lắm, sai ngay Dương Linh dẫn một nghìn quân ra nghênh chiến.
Linh đi độ năm chục dặm thấy bụi bay mù mịt, quân Vân Trường đã kéo đến. Dương
Linh vác giáo ra ngựa, đứng trước trận mắng nhiếc thách đánh. Vân Trường giận lắm,
chẳng nói nửa lời, tế ngựa múa đao xông ngay vào đánh. Dương Linh giơ giáo đón
đỡ. Chưa được ba hiệp, Linh bị Vân Trường chém nhào xuống ngựa, rồi đuổi đánh
quân Linh đến tận dưới thành.
Hàn Huyền thấy vậy kinh hãi vô cùng, liền sai Hoàng Trung ra
đánh. Huyền lên mặt thành đứng xem. Trung cắp đao lên ngựa, dẫn năm trăm kỵ
binh vượt qua cầu treo. Vân Trường thấy một lão tướng xông ra biết là Hoàng
Trung, cũng dàn năm trăm quân của mình thành hàng chữ nhất, rồi cắp ngang thành
long đao ghìm ngựa hỏi:
- Tướng kia có phải là Hoàng Trung đó không?
Trung đáp:
- Đã biết tiếng ta, sao dám xâm phạm bờ cõi của ta?
Vân Trường nói:
- Ta lại đây chỉ cốt lấy đầu ngươi đó thôi!
Nói đoạn, xông vào chiến đấu, hơn một trăm hiệp chưa phân thắng
bại. Hàn Huyền sợ Hoàng Trung túng thế, vội khua chiêng thu quân. Hoàng Trung dẫn
quân vào thành. Vân Trường cũng rút quân lui, cách thành mười dặm hạ trại.
Vân Trường nghĩ thầm rằng:
“Lão tướng này, tiếng đồn không sai, đánh nhau tới hàng trăm
hiệp không sơ hở chút nào. Ngày mai ta sẽ dùng kế đà đao, quay lưng lại chém mới
xong”.
Hôm sau, cơm sáng no nê, Vân Trường lại đến khiêu chiến. Hàn
Huyền ngồi trên mặt thành, sai Hoàng Trung ra ngựa. Trung lại dẫn vài trăm quân
kỵ mã vượt cầu treo ra đánh nhau với Vân Trường, tới năm sáu chục hiệp mà vẫn
chưa phân được thua. Quân hai bên vỗ tay hoan hô ầm ĩ. Trống đang thúc dồn dập
thì Vân Trường quay ngựa chạy về, Hoàng Trung đuổi theo. Vân Trường sắp sửa
quay đao chém vật lại, bỗng nghe sau lưng “huỵch” một tiếng, vội ngoảnh lại thấy
Hoàng Trung bị ngựa sa chân trước, ngã lăn xuống đất. Vân Trường liền quay ngựa
lại, hai tay giơ thanh long đao thét lớn:
- Ta hãy tha tính mạng cho ngươi, mau mau về đổi ngựa khác ra
đánh nữa.
Hoàng Trung vội vàng đứng dậy, nhảy lên ngựa chạy tế vào
thành, Hàn Huyên kinh hãi, hỏi nguyên nhân, Trung thưa:
- Con ngựa này lâu nay không ra trận mạc, cho nên lỡ xảy ra
làm vậy.
Huyền hỏi:
- Ngươi bắn tên trăm phát trăm trúng, làm sao không bắn?
Trung đáp:
Huyền đưa con ngựa xám của mình cho Hoàng Trung. Trung bái tạ
trở ra, trong bụng nghĩ thầm:
“Hiếm người được nghĩa khí như Vân Trường! Hắn đã không nỡ hại
ta, ta sao nỡ giết hắn? Mà không bắn, thì sợ trái tướng lệnh!”
Suốt đêm nghĩ đi nghĩ lại, Hoàng Trung không biết quyết định
bề nào cho phải.
Sáng sớm hôm sau, có tin Vân Trường lại đến khiêu chiến.
Trung lĩnh quân ra thành. Vân Trường hai hôm không đánh đổ được Hoàng Trung, bực
dọc vô cùng, liền hăm hở ra sức đánh đỡ. Chưa đầy ba chục hiệp, Trung giả thua
chạy. Vân Trường đuổi theo. Trung nghĩ ân tình hôm trước, không nỡ bắn ngay,
bèn cài đao vào bao và giương cung bắn dây không. Vân Trường né tránh nhưng
không thấy có tên bay đến, lại đuổi. Trung lại bắn dây không lần nữa. Vân Trường
lại lánh, nhưng vẫn không thấy tên, cho là Hoàng Trung không biết bắn, càng vững
dạ đuổi theo. Khi sắp đến đầu cầu, Hoàng Trung đứng trên cầu, giương cung đặt
tên, bắn một phát, tin ngay vào quai mũ Vân Trường. Quân trước mặt reo ầm cả
tên. Vân Trường giật mình, đeo cả tên chạy về trại. Bấy giờ Vân Trường mới biết
Hoàng Trung có tài bắn xuyên lá liễu cách xa hàng trăm bước. Bữa nay sở dĩ bắn
lên chỏm mũ mình là có ý báo ơn không giết hôm trước đó thôi.
Hoàng Trung về thành, ra mắt Hàn Huyền. Huyền quát tả hữu
trói Trung lại. Trung kêu là vô tội. Huyền mắng rằng:
- Ta nhận xét ròng rã ba hôm nay, người còn dám dối ta à? Hôm
đầu, ngươi không đánh hết sức, tất có bụng tây vị; hôm qua, ngã ngựa, hắn không
giết, thế là thông đồng với nhau; hôm nay, hai lần ngươi bắn dây không, đến lần
thứ ba lại chỉ bắn vào quai mũ, thế có phải là ngươi với hắn vẫn thông đồng với
nhau không? Nếu không giết ngươi đi, tất để mối lo về sau.
Liền quát tay đao phủ lôi Hoàng Trung ra ngoài cửa thành chém
đầu. Các tướng định vào kêu van, Huyền nói:
- Hễ ai kêu van cho Hoàng Trung, tức là đồng loã!
Quân vừa đưa Hoàng Trung ra đến cửa, sắp sửa khai đao, bỗng
có một tướng khoa đao đánh thốc vào pháp trường, chém chết ngay tay đao phủ, cứu
được Hoàng Trung, rồi thét lớn:
- Hoàng Hán Thăng là thành luỹ xứ Trường Sa, nay giết Hán
Thăng thì khác gì giết cả trăm họ Trường Sa. Hàn Huyền là thằng tàn bạo bất
nhân, khinh miệt hiền sĩ, ta nên giết đi mới phải! Ai đi theo ta thì lại cả
đây!
Mọi người nhìn xem, té ra là Nguỵ Diên người ở Nghĩa Dương, mặt
đỏ như gấc, mắt như sao băng. Nguyên Nguỵ Diên từ khi ở thành Tương Dương chạy
theo Huyền Đức không kịp, liền đến theo Hàn Huyền. Huyền ghét Diên là người
kiêu ngạo, không chịu trọng dụng, nên Diên ẩn náu ở đó. Hôm ấy, cứu được Hoàng
Trung, Diên rủ trăm họ đi giết Hàn Huyền. Diên vừa hô một tiếng hơn một trăm
người theo liền. Hoàng Trung cản lại không được. Diên đánh thẳng lên mặt thành,
khoa đao chém đứt đôi Hàn Huyền rồi xách đầu dẫn bá tính ra hàng Vân Trường.
Vân Trường mừng lắm, vào thành phủ dụ dân chúng, rồi mời
Hoàng Trung vào chơi; Trung cáo ốm, từ chối. Vân Trường sai người về mời Huyền
Đức, Khổng Minh đến.
Nói về Huyền Đức, từ khi Vân Trường đi lấy Trường Sa, cùng với
Khổng Minh đem gấp quân đi sau tiếp ứng. Đang đi, bỗng nhiên có một cơn gió nổi
lên cuốn đổ lá cờ xanh. Một con quạ tự bắc bay về nam, kêu ba tiếng rồi bay mất.
Huyền Đức hỏi:
- Thế là điềm gì?
Khổng Minh đang cưỡi ngựa, bấm tay xem một quẻ đáp:
- Điềm này chắc chắn Vân Trường đã lấy được Trường Sa, và được
thêm một đại tướng nữa, đến giờ ngọ nhất định có tin về báo.
Được một lát, quả nhiên có một tên lính chạy về báo rằng:
- Quan tướng quân đã lấy được Trường Sa, và được thêm hai
hàng tướng là Hoàng Trung, Nguỵ Diên nữa. Hiện Quan tướng quân đang mong đợi
chúa công đến để yên dân.
Huyền Đức mừng lắm, dẫn quân vào thành. Vân Trường ra đón vào
trong nha, thuật lại chuyện Hoàng Trung cho Huyền Đức nghe. Huyền Đức thân đến
tận nhà Hoàng Trung mời, bấy giờ Hoàng Trung mới chịu hàng và xin chôn cất Hàn
Huyền ở phía đông thành.
Đời sau có thơ khen Hoàng Trung rằng:
Tướng quân khí khái lớn tày trời,
Đầu bạc phơ phơ dạ chẳng dời.
Dù chết cũng cam không oán giận,
Cúi đầu hổ thẹn chịu hàng người.
Tuyết pha gươm báu khoe tài mạnh,
Gió cuốn chân câu vẫn đánh hoài!
Danh tiếng nghìn thu còn nhớ mãi,
Tương đàm vằng vặc bóng trăng soi
Huyền Đức đãi Hoàng Trung tử tế lắm, Vân Trường lại đưa Nguỵ
Diên vào ra mắt. Khổng Minh sai võ sĩ lôi ra chém. Huyền Đức giật mình hỏi:
- Nguỵ Diên là người có công, không tội tình gì, sao quân sư
lại giết đi?
Khổng Minh nói:
- Ăn lộc của chủ mà giết chủ, thế là người bất trung; ở đất ấy
mà lại dâng đất ấy, thế là quân bất nghĩa. Vả lại, tôi xem sau gáy hắn có cái
phản cốt, mai sau tất sinh lòng phản nghịch, cho nên chém trước để trừ vạ sau
này!
Huyền Đức ngăn lại, nói:
- Nếu chém hắn đi, tôi e những người theo hàng khác sợ hãi,
mong quân sư hãy tha cho hắn.
Khổng Minh trỏ vào mặt Nguỵ Diên, bảo rằng:
- Nay ta hãy tha chết cho, ngươi hãy hết lòng báo chúa, không
được manh tâm này khác. Nếu ăn ở hai lòng ta sẽ lấy đầu đó!
Nguỵ Diên dạ dạ mấy tiếng lui ra.
Hoàng Trung tiến cháu Lưu Biểu là Lưu Bàn, hiện đang nghỉ ở
Duy Xuyên. Huyền Đức triệu đến, cho coi quận Trường Sa. Bốn quận bình định đâu
đấy, Huyền Đức thu quân về Kinh Châu, đổi tên cửa Du Giang là huyện Công An. Từ
đó Huyền Đức lắm tiền nhiều lương, hiền sĩ tấp nập theo về, chia quân mã đóng đồn
bốn phía, trấn giữ các cửa ải.
Lại nói, từ khi Chu Du về Sài Tang dưỡng bệnh, sai Cam Ninh
giữ quận Ba Lăng, Lăng Thống giữ quận Hán Dương; hai nơi này đều phải sắp sẵn
chiến thuyền đợi lệnh. Còn Trình Phổ thì dẫn các tướng sĩ đến Hợp Phì.
Nguyên Tôn Quyền, từ sau trận Xích Bích, vẫn đóng quân tại gần
Hợp Phì, đánh nhau với quân Tào, lớn nhỏ đánh hơn chục trận, thắng bại chưa
phân. Quyền phải hạ trại cách thành năm chục dặm, không dám đóng gần thành.
Nghe tin Trình Phổ kéo quân đến, Quyền mừng lắm, thân ra ngoài dinh uý lao quân
sĩ. Có tin báo Lỗ Túc đến trước, Quyền xuống ngựa đứng đợi. Túc thấy thế cuống
cuồng nhảy xuống ngựa, thi lễ. Các tướng thấy Quyền kính trọng Lỗ Túc như thế,
ai cũng ngạc nhiên. Quyền mời Túc lên ngựa, dóng cương cùng đi và bảo nhỏ Túc rằng:
- Ta xuống ngựa đón tiếp như thế, ngươi đã thấy vẻ vang chưa?
Túc nói:
- Bẩm chưa ạ?
Quyền hỏi:
- Thế nào mới là vẻ vang?
Túc đáp:
- Chỉ mong chúa công uy đức bao trùm cả chín chúa, gây thành
đế nghiệp, cho tôi được ghi tên vào tre lụa, mới là vẻ vang.
Quyền vỗ tay cười ầm lên. Vào tới trướng, Quyền mở đại tiệc
khao thưởng các tướng sĩ, và bàn việc đánh Hợp Phì.
Chợt có tin Trương Liêu sai người đến khiêu chiến thư đến,
Tôn Quyền mở thư xem, giận quá, nói:
- Trương Liêu khinh ta lắm! Hắn thấy Trình Phổ vừa đem quân đến
nên cố ý cho người khiêu chiến. Ngày mai ta không cần đem quân mới ra chỉ dẫn
quân cũ đánh một trận thật to, xem làm sao!
Lập tức truyền lệnh cho ba quân, canh ba đêm hôm ấy kéo kéo
sang thành Hợp Phì.
Khoảng giờ thìn, quân mã đi được nửa đường thì vừa gặp quân
Tào. Hai bên dàn trận. Tôn Quyền đội mũ chỏm vàng, mặc áo giáp vàng, nai nịt gọn
ghẽ cưỡi ngựa ra trận. Bên tả có Tống Khiêm, bên hữu có Giả Hoa, cầm hai ngọn
kích đứng hộ vệ. Dứt ba hồi trống, về phía trận quân Tào cửa cờ mở toang, ba
viên tướng nhung phục chỉnh tề đứng đợi: Trương Liêu ở giữa, Lý Điển bên tả, Nhạc
Tiến bên hữu. Trương Liêu tế ngựa ra, thách Tôn Quyền quyết chiến. Quyền múa
thương muốn ra, thì Thái Sử Từ đã vác giáo tế ngựa ra trước. Hai tướng đấu nhau
bảy tám mươi hiệp, chưa phân thắng bại, Lý Điển bảo với Nhạc Tiến:
- Trước mặt có người đội mũ chỏm vàng, đó là Tôn Quyền, nếu bắt
sống được hắn, thì báo thù được cho tám mươi ba vạn đại quân của ta.
Điển nói chưa dứt lời, Nhạc Tiến một đao một ngựa nhanh như
chớp, cất lẻn lướt thẳng đến chỗ Tôn Quyền, khoa đao chém xuống. Tống Khiêm, Giả
Hoà vội vàng giơ hoạ kích ra đỡ; Tiến lia một nhát dao, hai ngọn kích gãy cụt.
Hai người chỉ còn hai cái cán kích, cứ nhè đầu ngựa mà giọt. Tiến phải quay ngựa
chạy về. Tống Khiêm giật ngọn giáo ở trong tay quân sĩ đuổi theo. Lý Điển
giương cung bắn giữa bụng Tống Khiêm, Tống Khiêm nhào luôn xuống ngựa. Thái Sử
Từ nghe phía sau có người ngã ngựa liền bỏ Trương Liêu chạy về trận. Liêu thừa
thế đánh dấn vào, quân Ngô bối rối, chạy tán loạn, Liêu trông thấy Tôn Quyền,
thúc ngựa đuổi theo, gần sát đến nơi, thì một toán quân thọc ra, đi đầu là
Trình Phổ, chặn đánh một trận, cứu được Tôn Quyền, Trương Liêu thu quân về Hợp
Phì.
Trình Phổ bảo vệ Tôn Quyền về trại, quân sĩ lục tục kéo về
sau. Quyền thấy mất Tống Khiêm khóc ầm cả lên.
Trưởng sử là Trương Hoành nói rằng:
- Chúa công cậy thế hùng mạnh, coi thường quân giặc, để cho
ba quân ai cũng rùng mình. Giá thử có chém được tướng, cướp được cờ, uy danh lừng
lẫy chiến trường, cũng là việc của một người tướng mọn, chớ không phải việc
chúa công! Xin chúa công hãy bỏ cái tính cậy khoẻ của Mạnh Bôn, Hạ Dục[1] lại,
để nghĩ đạo vương bá mới phải. Vả lại, Tống Khiêm chết trong đám tên đạn cũng
vì chúa công khinh địch gây ra. Từ rày trở đi, mong chúa công giữ gìn cẩn thận
mới được.
Quyền tạ rằng:
- Đó quả là lỗi tại ta, sẽ xin sửa chữa.
Một lát, Thái Sử Từ vào trướng bẩm rằng:
- Tôi có một tên thủ hạ là Qua Định, có bà con với tên giám
mã của Trương Liêu. Nhân tên này bị Liêu đánh mắng oán giận lắm. Chiều nay, hắn
sai người đến báo tin đốt lửa làm hiệu, đâm chết Trương Liêu, để báo thù cho Tống
Khiêm. Vậy tôi xin mang quân đến làm ngoại ứng.
Quyền hỏi:
- Qua Định ở đâu?
- Nó đã lẻn vào trong thành Hợp Phì rồi, tôi xin lĩnh năm
nghìn quân mã đi đây.
- Trương Liêu là người đa mưu, hắn tất phòng bị trước, không
nên vội vàng.
Quyền vì thương xót Tống Khiêm, nóng muốn báo thù, liền sai Từ
dẫn năm nghìn quân làm ngoại ứng.
Qua Định nguyên là người làng với Từ. Hôm ấy, đi lẻn vào đám
quân Tào, theo về Hợp Phì, tìm thấy tên giám mã. Hai tên bàn nhau.
Qua Định nói:
- Tôi đã sai người đi báo tin cho Thái Sử Từ rồi. Đêm nay thế
nào cũng đến tiếp ứng. Anh định kế hoạch ra sao?
Tên giám mã nói:
- Chỗ này cách trung quân khá xa, đêm khuya không kịp tới được.
Chỉ nên ra đốt đống cỏ, rồi anh chạy ra kêu ầm lên là có bọn phiến loạn, tất
nhiên quân sĩ trong thành sẽ bối rối, nhân đó giết chết Trương Liêu.
Qua Định nói:
- Kế ấy hay lắm!
Đêm đó, Trương Liêu thắng trận trở về, khao thưởng ba quân, rồi
truyền lệnh cho tướng sĩ không được cởi áo giáp nằm nghỉ. Tả hữu bẩm:
- Hôm nay thắng trận, quân Ngô phải trốn xa cả, sao tướng
quân không cởi giáp nghỉ ngơi?
Liêu nói:
- Không phải rồi! Khéo làm tướng đừng thấy được mà mừng, đừng
thấy thua mà lo. Phỏng thử quân Ngô đoán ta không phòng bị, thừa cơ đến đánh úp
thì ta lấy gì chống lại? Vậy đêm nay ta phải cẩn thận hơn mọi đêm mới được.
Liêu nói chưa dứt lời thì mé sau trại đã bốc cháy, tiếng kêu
phản ầm ĩ, người đến báo tin như mắc cửi. Trương Liêu ra trướng lên ngựa, gọi
hơn chục tướng tá tâm phúc đứng chặn ngang đường.
Tả hữu bẩm:
- Tiếng reo gấp lắm, hãy đến đó xem sao.
Liêu nói:
- Không có lẽ toàn thành làm phản, đó là quân phiến loạn cố ý
làm kinh động quân sĩ đấy thôi. Nếu ai xôn xao thì chém!
Được một lát, Lý Điển bắt được Qua Định và tên giám mã dẫn lại.
Liêu tra khảo biết rõ được mưu mô, lập tức chém hai tên ấy ở trước ngựa. Lại
nghe thấy ngoài thành đánh trống khua chiêng, hò reo inh ỏi cả lên. Liêu nói:
- Đây hẳn là quân Ngô đến làm ngoại ứng, ta nên nhân kế của địch
mà phá.
Liền sai người đốt một đám lửa ở trong thành, reo hò làm phản,
rồi mở toang cửa thành ra, buông cầu treo xuống. Thái Sử Từ thấy cửa thành mở
toang, chắc có nội biến, vội vác giáo tế ngựa xông vào trước. Bỗng trong thành
nổ một tiếng pháo, tên bắn xuống như mưa, Từ vội vã rút lui thì mình đã bị
trúng mấy mũi tên. Sau lưng lại có Lý Điển, Nhạc Tiến đuổi đánh; quân Ngô tổn hại
quá nửa. Hai tướng thừa thế đuổi đến tận cửa trại. Lục Tốn, Đổng Tập đổ ra cứu
Từ, lúc ấy quân Tào mới chịu rút về.
Tôn Quyền thấy Thái Sử Từ bị tên đau nặng, lại càng thương cảm.
Trương Chiêu khuyên Tôn Quyền bãi binh. Quyền nghe lời, thu quân xuống thuyền
kéo về Nam Từ, Nhuận Châu. Từ đau nặng quá, Quyền sai Trương Chiêu đến thăm. Từ
kêu to lên rằng:
- Đại trượng phu sinh trong thời loạn, nên đeo ba thước gươm
lập nên công trạng bất hủ, nay chưa thoả chí sao đã chết thế này?
Từ kêu xong thì mất, mới có bốn mốt tuổi.
Người sau có thơ rằng:
Thái Sử Từ Đông Lai,
Trung hiếu vẹn cả hai,
Danh tiếng vang thiên hạ,
Cung ngựa tỏ nghề tài,
Bắc Hải đền ơn khách,
Thần Đình mải đánh dai.
Lâm chung còn khảng khái,
Ai ai cũng cảm hoài!
Tôn Quyền nghe tin Từ mất, thương xót vô cùng, sai làm ma to,
táng ở núi Bắc Cố, quận Nam Từ, rồi đem con Từ là Thái Sử Hanh về nuôi trong phủ.
Nhắc đến Huyền Đức ở Kinh Châu, nghe tin Tôn Quyền thua ở Hợp
Phì rút về Nam Từ, liền mời Khổng Minh vào bàn bạc.
Khổng Minh nói:
- Ban đêm, tôi xem thiên văn, thấy mé tây bắc có một ngôi sao
sa xuống đất, tất thiệt mất người hoàng tộc.
Đang bàn chuyện, thì có tin công tử Lưu Kỳ tạ thế. Huyền Đức
được tin, thương khóc thê thảm. Khổng Minh khuyên giải rằng:
- Người ta sống chết có số, chúa công không nên sầu não có hại
đến sức khoẻ. Xin hãy giải quyết việc lớn là cho người sang đó coi giữ thành
trì và lo liệu việc tang.
Huyền Đức hỏi:
- Nên sai ai đi?
Khổng Minh thưa:
- Việc ấy không có Vân Trường không xong.
Liền sai Vân Trường cất quân đến trấn thủ Tương Dương.
Huyền Đức lại hỏi:
- Nay Lưu Kỳ đã mất, Đông Ngô tất lại đòi Kinh Châu, thì ăn
nói ra sao?
Khổng Minh nói:
- Có người lại, tôi sẽ có cách đối phó.
Được nửa tháng, có tin báo Lỗ Túc ở Đông Ngô đến viếng tang.
Đó là:
Dàn mưu nghĩ mẹo sẵn sàng,
Chỉ chờ Ngô sứ bước sang đối lời.
Chưa biết Khổng Minh đối đáp ra làm sao, xem đến hồi sau sẽ
rõ.
Chú thích:
1. Mạnh Bôn, người thời Chiến quốc, Hạ Dục,
người thời nhà Chu. Hai người đều là dũng sĩ.
Hồi 54:
Hồi 54:
Ngô quốc thái đến chùa xem rể hiền
Lưu hoàng thúc động phòng cưới vợ mới
Khổng Minh nghe tin Lỗ Túc đến liền cùng Huyền Đức ra tiếp
vào dinh. Chào hỏi xong, Lỗ Túc hỏi:
- Chúa công tôi nghe tin công tử mất, sai tôi đem chút lễ mọn
đến kính viếng. Chu đô đốc tôi cũng ân cần gởi lời thăm hoàng thúc và Gia Cát
tiên sinh.
Huyền Đức, Khổng Minh đứng dậy tạ ơn, nhận lấy lễ vật, rồi đặt
tiệc khoản đãi.
Túc nói:
- Trước kia hoàng thúc đã hứa khi nào công tử mất thì trả lại
Kinh Châu. Nay công tử qua đời rồi, chưa biết ngày nào hoàng thúc mới trao trả?
Huyền Đức nói:
- Mời ông hãy uống rượu, tôi xin thưa chuyện.
Túc uống gượng vài chén, lại hỏi. Huyền Đức chưa kịp trả lời,
Khổng Minh sầm mặt lại nói:
- Tử Kính thật không biết điều, cứ đợi người ta phải nói! Từ
khi Cao hoàng đế chém rắn khởi nghĩa, khai cơ lập nghiệp truyền đến bây giờ, chẳng
may gian hùng nổi dậy, mỗi người chiếm cứ một phương. Nhờ có lòng trời, thiên hạ
lại trở về chính thống. Chúa công tôi là dòng dõi Trung Sơn Tĩnh Vương, chú vua
Hiếu Cảnh, lại là chú của đương kim hoàng đế, có lẽ đâu không được mảnh đất
phong nào? Vả lại, Lưu Cảnh Thăng là anh chúa công tôi, thế thì em nối nghiệp
anh, có việc gì là không được? Chủ của ông, chẳng qua là con một người tiểu lại
ở Tiền Đường, xưa nay có công đức gì với triều đình đâu, nay cậy sức mạnh, chiếm
giữ sáu quận tám mươi mốt châu rồi, sao lòng tham không đáy, còn muốn nuốt cả đất
nhà Hán. Thiên hạ của họ Lưu, chủ tôi họ Lưu không được phần nào. Chủ ông họ
Tôn, lại muốn tranh cướp, thế còn ra nghĩa lý gì? Huống chi, trận Xích Bích chủ
tôi cũng tốn bao công sức, các tướng cũng đều khó nhọc cả, chớ có phải một mình
Đông Ngô của ông làm nổi đâu? Nếu ta không mượn giúp cho gió đông nam, thì Chu
Du sao có dùng được kế? Giang Nam bị phá, chẳng những hai nàng Kiều phải nhốt ở
đài Đồng Tước mà ngay vợ con các ông cũng khó toàn được. Mới rồi chúa công tôi
không nói ngay, cũng tưởng ông là người cao minh, chẳng cần nói nhiều, sao ông
không biết nghĩ thế?
Bị Khổng Minh nói một hồi, Lỗ Túc ngồi im thin thít không nói
được câu nói nào, một lúc lâu mới đáp:
- Tiên sinh nói cũng có lý, nhưng đối với tôi, có nhiều điều
không tiện.
Khổng Minh hỏi:
- Không tiện ở chỗ nào?
Túc đáp:
- Khi xưa hoàng thúc bị khốn ở Nam Dương, chính Túc này dẫn
tiên sinh đến ra mắt chúa công tôi. Về sau, Chu Công Cẩn định cất quân lấy Kinh
Châu, tôi lại ngăn được. Đến việc hoàng thúc hứa đợi khi nào công tử qua đời sẽ
trả Kinh Châu, tôi lại cũng gánh vác cho nốt. Nay hoàng thúc lại không giữ lời
hứa, bảo tôi về ăn nói làm sao bây giờ? Chủ tôi và Công Cẩn tất nhiên là bắt tội
tôi; tôi có chết cũng không oán hận, chỉ sợ Đông Ngô bực tức, dấy động can qua
thì hoàng thúc cũng chả ngồi yên được ở Kinh Châu, thành ra chỉ bày trò cười
cho thiên hạ đó thôi!
Khổng Minh nói:
- Tào Tháo cầm quân trăm vạn, hơi một tý cũng mượn tiếng
thiên tử, tôi cũng còn chẳng coi ra gì, huống nữa là Chu Công Cẩn! Để ông khỏi
mất thể diện, tôi xin khuyên chúa công tôi lập văn tự mượn Kinh Châu làm vốn, đợi
khi nào lấy được chỗ khác, sẽ đem Kinh Châu trả lại Đông Ngô, ý kiến ông thế
nào?
Túc hỏi:
- Tiên sinh đợi lấy được chỗ nào rồi mới trả Kinh Châu cho
Đông Ngô tôi?
Khổng Minh đáp:
- Trung Nguyên chưa dễ đã lấy được; chỉ có Lưu Chương ở Tây
Xuyên hèn yếu lắm, chủ tôi sẽ tính. Nếu lấy được Tây Xuyên, thì sẽ trả Kinh
Châu cho Đông Ngô.
Túc không sao nói được, đành phải nghe vậy.
Huyền Đức viết một tờ văn tự, ký tên xong, Khổng Minh cũng ký
tên làm chứng. Rồi nói với Lỗ Túc rằng:
- Tôi là người nhà hoàng thúc, không lẽ trong nhà lại bảo
lĩnh cho nhau; vậy phiền Tử Kính cũng ký tên vào đây, đem về Ngô hầu xem cho chắc
chắn.
Túc nói:
- Tôi tin Lưu hoàng thúc là người nhân nghĩa, chắc không nỡ
phụ nhau.
Nói xong, bèn ký tên và nhận lấy văn tự. Tiệc tan Lỗ Túc từ
biệt ra về. Huyền Đức, Khổng Minh tiễn ra tận bến thuyền. Khổng Minh dặn rằng:
- Tử Kính về nói với Ngô hầu cho khéo, đừng có nghĩ càn. Nếu
không nhận văn tự đó, chúng tôi trở mặt, thì cả tám mươi mốt châu Giang Nam
cũng bị mất nốt đó! Nay chỉ cốt hai nhà hoà thuận với nhau, chớ nên để cho giặc
Tào chê cười.
Túc cáo biệt, xuống thuyền về thẳng Sài Tang, trước ra mắt
Chu Du. Du hỏi:
- Tử Kính đòi Kinh Châu ra sao?
Túc đáp:
- Có văn tự đây.
Nói rồi, đưa văn tự trình Chu Du. Du giẫm chân xuống đất nói
rằng:
- Tử Kính mắc lừa Gia Cát Lượng rồi! Tiếng là họ mượn đất, kỳ
thật họ chực nuốt không. Họ nói lấy được Tây Xuyên sẽ trả, giả thử mười năm
chưa lấy được thì mười năm cũng không trả hay sao? Văn tự thế thì có giá trị
gì, mà ông cũng ký tên bảo lĩnh? Nếu họ không trả chắc sẽ liên luỵ đến ông. Và
chúa công bắt tội, thì ông làm thế nào?
Túc ngồi ngẩn ra một lúc, rồi đáp:
- Huyền Đức chắc không phụ tôi đâu.
Du nói:
- Tử Kính thật thà quá, không biết Lưu Bị như con cú dữ, Gia
Cát Lượng là đồ gian giảo, bọn họ chả ngay thật như bụng dạ ông đâu.
Túc nói:
- Nếu thế, tôi biết nghĩ làm sao bây giờ?
Du nói:
- Tử Kính là người có ân với ta, nhớ khi tặng cho ta vựa
thóc, lẽ đâu ta chẳng cứu? Ông hãy khoan tâm, để thư thả vài hôm, đợi người đi
do thám Giang Bắc về đây xem thế nào, ta sẽ có kế.
Lỗ Túc tỏ vẻ sợ hãi, không được yên tâm.
Qua vài hôm, quân do thám về báo:
- Trong thành Kinh Châu cắm nhiều cờ trắng, ngoài thành mới
xây một nấm mồ mới, quân sĩ đều mặc đồ tang.
Du ngạc nhiên, hỏi:
- Ai chết thế?
Quân do thám đáp:
- Cam phu nhân mới mất, bên ấy đang sửa soạn ma chay.
Du bảo Lỗ Túc rằng:
- Kế ta nhất định thành công! Phen này quyết làm cho Lưu Bị
phải bó tay chịu trói, Kinh Châu lấy lại dễ như trở bàn tay.
Túc hỏi:
- Kế ra làm sao?
Du đáp:
- Lưu Bị chết vợ, tất nhiên phải lấy vợ khác. Chúa công có cô
em gái can trường lắm, luôn luôn có vài trăm thị tỳ cắp gươm hầu bên cạnh,
trong phòng lại bày la liệt đủ thứ vũ khí, ngay đàn ông cũng không giỏi bằng.
Ta dâng thư lên chúa công, xin cho người sang Kinh Châu làm mối, rồi lừa hắn đến
Nam Từ, không gả người cho mà bắt giam lại. Đoạn sai người đến đòi Kinh Châu,
đánh đổi Lưu Bị. Khi nào lấy được Kinh Châu, ta sẽ lại liệu. Như thế Tử Kính
cũng không phải lo gì nữa!
Lỗ Túc bái tạ.
Chu Du bèn viết thư, chọn thuyền tốc hành đưa Lỗ Túc sang Nam
Từ ra mắt Tôn Quyền. Đến nơi trước hết Túc trình bày việc Kinh Châu, và đưa tờ
văn tự lên.
Quyền nói:
- Sao ngươi hồ đồ thế? Cái thứ văn tự này dùng được việc gì?
Túc nói:
- Đô đốc có thư đệ trình, bảo dùng kế đó thì sẽ lấy lại được
Kinh Châu.
Quyền xem xong gật đầu mừng thầm, nghĩ bụng:
“Ai có thể đi được nhỉ?”
Rồi sực nhớ ra, Quyền nói:
- Chỉ có Lã Phạm mới làm nổi việc này.
Liền cho gọi Lã Phạm vào và bảo rằng:
- Ta nghe Lưu Huyền Đức mới goá vợ, ta có người em gái, muốn
kén y làm rể, kết thân với nhau, đồng tâm phá Tào, để giúp nhà Hán. Ngoài Tử
Hành ra, không ai có thể làm mối được, mong người sang ngay Kinh Châu cho ta.
Lã Phạm vâng mệnh, thu xếp thuyền bè mang theo mấy tên tuỳ
tùng thẳng tới Kinh Châu.
Lại nói, Huyền Đức từ khi mất Cam phu nhân, ngày đêm buồn rầu.
Một hôm, đang ngồi nói chuyện với Khổng Minh, sực có tin báo Đông Ngô sai Lã Phạm
đến. Khổng Minh cười, nói:
- Đây lại là mưu đồ của Chu Du về chuyện Kinh Châu thôi! Tôi
ngồi nghe ở sau bình phong. Sứ giả có nói việc gì, chúa công cứ việc nhận lời;
và giữ họ nghỉ ngơi ở nhà khách, rồi sau sẽ hay.
Huyền Đức cho mời Lã Phạm vào. Chào hỏi xong, trà nước đâu đấy.
Huyền Đức hỏi:
- Tử Hành lại đây chắc có việc gì dạy bảo?
Phạm nói:
- Tôi nghe hoàng thúc thất ngẫu[1], nay có một nơi xứng đáng
lắm, nên mạnh dạn sang đây làm mối, chưa biết ý hoàng thúc thế nào?
Huyền Đức nói:
- Nửa đời goá vợ là sự rất không may, nay nấm mồ còn chưa
xanh cỏ, sao dám vội bàn chuyện lấy vợ khác?
Phạm nói:
- Người ta có vợ như nhà có kèo, không nên nửa chừng bỏ đạo
nhân luân. Chúa công tôi có một cô em gái có nhan sắc, lại hiền hậu, có thể
nâng khăn sửa túi ngài được. Nếu hai kết thân Tần Tấn với nhau, thì giặc Tào chắc
không dám nhìn ngó đến phía đông nam này nữa. Việc này công tư đều nên cả, xin
hoàng thúc chớ ngại! Song, Ngô quốc thái tôi yêu thương cô gái út lắm, không muốn
gả chồng xa, chỉ muốn mời hoàng thúc sang Đông Ngô làm lễ thành thân.
Huyền Đức hỏi:
- Việc này Ngô hầu có biết không?
Phạm đáp:
- Chưa bẩm với Ngô hầu, có đâu tôi dám đến đây.
Huyền Đức nói:
- Ta đã nửa đời người, đầu tóc hoa râm, em gái Ngô hầu đang độ
son trẻ, e không xứng đôi phải lứa.
- Em Ngô hầu tuy là con gái, nhưng chí khí hơn cả nam nhi. Cô
ấy thường nói: “Không phải người anh hùng nhất thiên hạ, ta không thèm lấy”.
Hoàng thúc tiếng tăm lừng lẫy cả bốn bể, chính là thục nữ sánh với người quân tử,
có ngại gì tuổi nhiều hay ít?
Huyền Đức nói:
- Vậy ông hãy ở chơi đây, đến mai sẽ xin nói lại.
Hôm ấy, Huyền Đức mở tiệc khoản đãi Lã Phạm, rồi lưu lại nhà
khách. Đến tối Huyền Đức bàn với Khổng Minh. Khổng Minh nói:
- Ý tứ của họ thế nào, tôi đã biết cả rồi. Tôi vừa bói dịch
được quẻ đại cát. Chúa công cứ việc nhận lời đi. Mai tôi sai Tôn Càn đi theo Lã
Phạm sang thưa chuyện với Ngô hầu; hứa hẹn xong rồi ta sẽ chọn ngày sang cưới.
Huyền Đức nói:
- Chu Du lập mưu muốn hại ta, sao ta lại đem mình vào nơi
nguy hiểm?
Khổng Minh cười, nói:
- Chu Du tuy giỏi dùng mưu, nhưng che sao được mắt tôi. Tôi
chỉ dùng một mẹo nhỏ, khiến Chu Du không thò được ngón gì, mà em gái Ngô hầu lại
về tay chúa công, Kinh Châu cũng vững như bàn thạch.
Huyền Đức vẫn còn hoài nghi; Khổng Minh sai ngay Tôn Càn cứ
việc sang Giang Nam nói việc hôn nhân. Tôn Càn vâng mệnh cùng với Lã Phạm sang
ra mắt Tôn Quyền.
Quyền nói:
- Ta muốn gả em gái cho Huyền Đức, chớ không có bụng dạ nào
khác.
Tôn Càn lạy tạ, về thưa chuyện lại với Huyền Đức nói Ngô hầu
chỉ mong chúa công sang làm lễ thành hôn. Huyền Đức ngại ngùng không muốn đi.
Khổng Minh nói:
- Tôi đã định sẵn ba kế, việc này phi Tử Long đi không xong!
Bèn gọi Tử Long đến cạnh, ghé tai dặn rằng:
- Ngươi bảo vệ chúa công sang Đông Ngô, nên nhận lấy ba cẩm
nang này, trong có ba kế rất hay, cứ theo thứ tự mà làm.
Nói đoạn, đưa ba cẩm nang cho Vân giấu kỹ trong người. Đoạn
Khổng Minh sai người sang Đông Ngô dâng lễ cưới trước, lễ vật đầy đủ không thiếu
thứ gì.
Tháng mười mùa đông, năm Kiến An thứ 14, Huyền Đức cùng với
Triệu Vân, Tôn Càn thu xếp chục chiếc thuyền tốc hành, mang theo năm trăm quân
sĩ, dời Kinh Châu sang Nam Từ. Mọi việc ở Kinh Châu đều giao cho Khổng Minh
trông coi.
Huyền Đức trong lòng áy náy không yên. Khi thuyền đã đến Nam
Từ, Vân tự nhủ:
- Quân sư trao cho ba kế hay, dặn cứ thứ tự làm theo, nay đã
đến đây, phải mở túi thứ nhất ra xem mới được!
Vân bèn mở túi thứ nhất ra xem. Xem xong, Vân gọi năm trăm
quân sĩ, dặn bảo các việc. Lại nói với Huyền Đức vào ra mắt Kiều quốc lão trước.
Cụ này là cha hai nàng Kiều, nhà ở Nam Từ.
Huyền Đức mang dê và rượu vào bái kiến quốc lão, thuật lại việc
Lã Phạm sang làm mối Tôn phu nhân. Năm trăm quân sĩ, người áo thắm, kẻ quần điều,
tấp nập ra phố mua bán đồ vật, nói toang lên rằng Huyền Đức vào làm rể Đông
Ngô. Mọi người trong thành đều biết chuyện cả.
Tôn Quyền thấy Huyền Đức đến, sai Lã Phạm ra đón tiếp, mời đến
nhà khách nghỉ ngơi.
Đây nói Kiều quốc lão gặp Huyền Đức xong, vào ngay trong cung
chúc mừng bà Ngô quốc thái.
Quốc thái hỏi:
- Có việc gì mà mừng?
Kiều quốc lão đáp:
- Cô em đã gả cho Huyền Đức làm phu nhân, nay chàng rể đã
sang đây rồi, sao còn giấu tôi?
Quốc thái ngạc nhiên nói:
- Quả thật tôi không biết gì hết!
Lập tức một mặt quốc thái cho gọi Ngô hầu vào hỏi xem hư thực
ra sao, một mặt cho người ra phố xá nghe ngóng tình hình.
Mọi người về đều nói rằng:
- Quả có việc ấy thực! Chàng rể mới đã nghỉ ở nhà khách, năm
trăm quân sĩ đi theo đang tíu tít mua sắm dê lợn, hoa quả để sửa lễ kết hôn.
Bên nhà gái thì Lã Phạm, bên nhà trai thì Tôn Càn, hai người làm mối, hiện đã ở
cả nơi nhà khách tiếp đãi nhau.
Quốc thái giật mình. Một lát, Tôn Quyền vào, quốc thái cứ đấm
bụng khóc ầm lên. Quyền hỏi:
- Sao mẫu thân phiền não thế?
Quốc thái nói:
- Mày thật không coi tao ra gì nữa rồi! Khi chị ta lâm chung,
dặn lại mày những câu gì?
Quyền thất kinh, hỏi:
- Mẫu thân có điều gì cứ cho con biết, sao lại khổ sở như vậy?
Quốc thái nói:
- Trai khôn dựng vợ, gái lớn gả chồng, vẫn là lẽ thường xưa
nay. Tao là mẹ mày, có việc gì cũng phải nói với tao trước mới phải chớ! Nay
mày đem em gả cho Lưu Huyền Đức, sao mày lại giấu tao? Con gái phải quyền ở tao
chớ!
Quyền giật mình, hỏi:
- Mẫu thân nghe chuyện ấy ở đâu vậy?
Quốc thái nói:
- Trừ phi không làm thì không biết thôi! Nay trăm họ trong
thành, ai ai cũng biết cả, mày lại còn giấu giếm gì?
Kiều quốc lão nói:
- Lão biết việc này đã mấy hôm nay rồi, nay vào mừng đấy!
Quyền nói:
- Không phải đâu! Đó là kế của Chu Du, vì muốn lấy Kinh Châu,
cho nên mượn tiếng như thế, cốt lừa Lưu Bị đến đây, bắt giam lại, đổi lấy Kinh
Châu; nếu không nghe thì giết đi. Đó là mưu kế chớ không phải sự thật!
Quốc thái nổi giận, mắng Chu Du rằng:
- Ngươi làm đại đô đốc sáu quận, tám mươi mốt châu, không
nghĩ được một mưu gì để lấy Kinh Châu mà phải mượn tiếng con gái bà, dùng kế mỹ
nhân? Lưu Bị bị giết, con bà chưa chồng, mà té ra mang tiếng goá bụa, còn ai lấy
nữa, có phải lỡ cả một đời con gái bà không? Thế cũng đòi lập mưu với lập mẹo!
Kiều quốc lão nói:
- Nếu dùng kế ấy, dù có lấy lại được Kinh Châu, cũng bị thiên
hạ chê cười!
Tôn Quyền ngồi im thin thít. Quốc thái thì cứ chửi mắng Chu
Du không ngớt miệng, Kiều quốc lão can rằng:
- Việc đã lỡ ra thế này rồi, nhưng xét Lưu Huyền Đức cũng là
tôn thân nhà Hán, chi bằng gả đi, kẻo mang tiếng xấu.
Quyền nói:
- E không vừa đôi phải lứa.
Kiều quốc lão nói:
- Lưu hoàng thúc là hào kiệt thời nay; nếu kén được người rể ấy
cũng xứng đáng, không nhục gì cô em đâu!
Quốc thái nói:
- Ta chưa biết mặt Lưu hoàng thúc ra sao, ngày mai mời đến
chùa Cam Lộ cho ta xem mặt. Nếu vừa ý ta thì gả quách con ta cho hoàng thúc cũng
được.
Tôn Quyền vốn là người chí hiếu, thấy mẹ nói thế, liền vâng lời,
trở ra gọi Lã Phạm bảo:
- Ngày mai mở một tiệc yến ở nhà phương trượng chùa Cam Lộ, để
quốc thái xem mặt Lưu Bị.
Lã Phạm nói:
- Sao không sai Giả Hoa phục sẵn ba trăm quân đao phủ ở hai
bên hành lang. Hễ thấy quốc thái có ý không bằng lòng, thì nổi một tiếng hiệu
cho quân phục đổ ra mà trói Lưu Bị lại.
Quyền y lời, bảo Giả Hoa sắp sẵn mọi việc đâu đấy, chỉ chờ
xem ý quốc thái ra sao thôi.
Lại nói, Kiều quốc lão từ biệt quốc thái trở về, sai người
báo tin cho Huyền Đức:
- Ngày mai, Ngô hầu và quốc thái thân đến gặp mặt, vậy phải để
ý cẩn thận!
Huyền Đức bàn với Tôn Càn và Triệu Vân. Vân nói:
- Buổi hội ngày mai, dữ nhiều lành ít. Tôi xin dẫn năm trăm
quân đi bảo vệ.
Hôm sau, Ngô quốc thái và Kiều quốc lão đến trước chùa Cam Lộ,
vào nhà phương trượng ngồi chơi. Tôn Quyền dẫn một ban mưu sĩ cùng đến, sai Lã
Phạm ra nhà khách mời Huyền Đức.
Huyền Đức mặc áo giáp nhỏ ở trong, ngoài khoác cẩm bào. Các
tuỳ tùng đeo kiếm đi theo, lên ngựa thẳng tới chùa Cam Lộ. Triệu Vân mặc giáp,
nai nịt gọn ghẽ, dẫn năm trăm quân bảo vệ. Huyền Đức đến cửa chùa xuống ngựa,
vào ra mắt Tôn Quyền trước. Quyền thấy Huyền Đức diện mạo phi thường, đã có ý
hoảng sợ. Hai bên chào hỏi nhau rồi, vào nhà phương trượng ra mắt quốc thái. Quốc
thái thấy Huyền Đức mừng lắm, nói với Kiều quốc lão:
- Người này thật đáng rể ta lắm!
Quốc lão nói:
- Huyền Đức có dáng như rồng như phượng, uy nghi đường bệ. Vả
lại, nhân nghĩa dội khắp thiên hạ. Quốc thái được rể hiền như thế, thật đáng
chúc mừng!
Huyền Đức lạy tạ, cùng ăn yến ở trong nhà phương trượng. Một
lát, Tử Long đeo gươm đi vào, đứng bên cạnh Huyền Đức, Quốc thái hỏi người nào?
Huyền Đức bẩm:
- Đó là Triệu Vân ở Thường Sơn.
Quốc thái nói:
- Có phải tướng cứu được A Đẩu ở trận Đương Dương Trường Bản
đó không?
Huyền Đức nói:
- Bẩm chính phải!
Quốc thái khen:
- Thế mới thực là tướng quân!
Nói rồi ban cho Triệu Vân một cốc rượu. Vân bảo Huyền Đức rằng:
- Tôi vừa đi xem xét ngoài hành lang, tất nhiên có chuyện chẳng
lành; chúa công nên kêu với quốc thái.
Huyền Đức liền đến quỳ trước mặt quốc thái, khóc mà nói rằng:
- Quốc thái nhược bằng muốn giết Lưu Bị, thì Bị xin ra đây để
chịu chết!
Quốc thái hỏi:
- Sao lại nói thế?
Huyền Đức thưa:
- Quân đao phủ mai phục hai bên hành lang, không có ý giết Bị
thì để làm gì?
Quốc thái nổi giận mắng Tôn Quyền rằng:
- Nay Huyền Đức đã là rể ta, thì cũng như con ta, sao dám phục
quân để mưu hại?
Quyền chối không biết, gọi Lã Phạm ra hỏi. Phạm lại đổ cho Giả
Hoa. Hoa nín lặng. Quốc thái sai tả hữu lôi ra chém. Huyền Đức can rằng:
- Trong việc vui mừng không nên chém đại tướng. Nếu chém đại
tướng thì việc kết thân sẽ bất lợi, Bị này khó lòng ở đây lâu để hầu hạ quốc
thái.
Kiều lão công cũng khuyên can. Quốc thái mới mắng đuổi Giả
Hoa ra. Quân đao phủ, tên nào tên nấy ôm đầu lủi thủi chạy cả.
Huyền Đức trở ra ngoài thay áo. Đến trước sân chùa, Huyền Đức
thấy có một hòn đá to, liền rút thanh gươm của tên lính hầu, ngẩng mặt lên trời
khấn rằng:
- Tôi là Lưu Bị, nếu trở về được Kinh Châu, lập nổi nghiệp
vương bá, thì xin chém hòn đá này một nhát vỡ ra làm đôi. Nhược bằng số tôi chết
ở đây, thì đá không vỡ.
Huyền Đức khấn đoạn, cầm thanh gươm chém xuống, nảy toé lửa,
hòn đá vỡ ra làm hai mảnh.
Tôn Quyền ở mé sau trông thấy bèn hỏi rằng:
- Huyền Đức giận gì hòn đá thế?
Huyền Đức nói:
- Tôi đã ngót năm chục tuổi đầu, không trừ được giặc giã cho
nước, trong lòng buồn bực lắm. Nay nhờ quốc thái thương yêu cho làm rể, thật là
một việc kỳ ngộ. Tôi lấy làm thoả chí bình sinh. Vừa rồi tôi khấn trời bói một
quẻ, nếu phá được Tào, hưng được Hán, thì chém vỡ hòn đá. May sao, quả nhiên
như nguyện!
Quyền nghĩ thầm:
- Phải chăng Huyền Đức bịa ra để nói dối ta chăng?
Bèn cũng cầm một thanh gươm bảo Huyền Đức rằng:
- Tôi cũng xin trời một quẻ, nếu phá được giặc Tào cũng chặt
hòn đá này vỡ làm đôi.
Rồi Quyền khấn lầm rầm:
- Nếu lấy lại được Kinh Châu, hưng vượng Đông Ngô, thì xin
chém hòn đá này làm hai mảnh!
Quyền liền vung kiếm, chém một nhát, hòn đá lại toác làm hai
mảnh nữa.
Đến bây giờ vẫn còn di tích hai hòn đá có vết chữ thập, gọi
là “Hòn đá căm hờn”.
Người sau thăm nơi thắng cảnh đó vịnh thơ rằng:
Tảng đá trơ trơ trước Phật đài,
Gươm đưa một nhát, toác làm đôi,
Quả nhiên hai nước cùng hưng vượng,
Hai người cùng bỏ gươm xuống, dắt nhau vào tiệc, lại uống
thêm vài tuần rượu nữa. Tôn Càn đưa mắt cho Huyền Đức, Huyền Đức mới từ tạ rằng:
- Tôi không uống được nhiều rượu, xin cáo thoái.
Tôn Quyền tiễn ra trước cửa chùa, hai người đứng ngắm phong cảnh
sông núi. Huyền Đức khen rằng:
- Đây mới thực là giang sơn bậc nhất trong thiên hạ!
Đến nay trong chùa Cam Lộ có bức hoành để mấy chữ: “Thiên hạ
đệ nhất giang sơn”.
Người sau có đề một bài thơ rằng:
Núi non chen chúc, ốc xanh trồng,
Phong cảnh nhìn xem cũng lạ lùng.
Nào chỗ anh hùng chơi thuở trước
Hẳn nơi sườn núi tựa dòng sông?
Trong khi hai người đang đứng ngắm nghía, bỗng nhiên trời nổi
gió to, dưới sông sóng dâng cuồn cuộn. Chợt thấy một chiếc thuyền nhỏ, đi trên
mặt nước, vững vàng như đi trên cạn. Huyền Đức than rằng:
- Đất bắc cưỡi ngựa, miền nam bơi thuyền, quả nhiên có thế thật!
Tôn Quyền nghe nói, nghĩ rằng:
- Huyền Đức có ý khinh ta không biết cưỡi ngựa chăng?
Lập tức sai người dắt ngựa đến, nhảy phắt lên tế xuống chân
núi, rồi lại phi lên tận đỉnh núi, cười bảo Huyền Đức rằng:
- Người miền nam không biết cưỡi ngựa sao?
Huyền Đức nghe nói làm vậy, cũng vén áo nhảy lên ngựa, phi xuống
núi rồi lại phi lên. Hai người kìm ngựa đứng trên đỉnh núi, giơ roi cười khúc
khích với nhau. Vì thế chỗ ấy gọi là gò Trụ mã.
Người sau có thơ rằng:
Rặng đá quanh co ngựa ruổi rong,
Dừng cương đỉnh núi ngắm non sông,
Đông Ngô, Tây Thục nên vương bá,
Trụ mã nghìn thu vững tựa đồng!
Khi ấy hai người lại sóng đôi ngựa trở về. Nhân dân Nam Từ,
ai nấy đều nức nở khen ngợi. Huyền Đức về nhà khách, bàn với Tôn Càn. Càn nói:
- Chúa công nên nói với Kiều quốc lão, xin thành hôn cho mau,
kẻo lại sinh chuyện gì chăng?
Huyền Đức nghe lời, hôm sau lại đến nhà Kiều quốc lão. Quốc
lão mời vào, thi lễ và nước nôi xong, Huyền Đức bẩm rằng:
- Nhiều người bên Giang tả đều muốn hại tôi, tôi e không ở lại
đây lâu được!
Quốc lão nói:
- Ông hãy yên tâm, để tôi nói với quốc thái chu toàn cho.
Huyền Đức lạy tạ ra về.
Kiều quốc lão vào gặp quốc thái nói Huyền Đức sợ người mưu hại,
cứ nằng nặc đòi về.
Quốc thái nổi giận, nói:
- Con rể ta đó, ai dám giết nó nào?
Lập tức sai người ra mời Huyền Đức dọn dẹp vào ở tạm phòng
sách, chọn ngày làm lễ cưới.
Huyền Đức vào bẩm với quốc thái rằng:
- Còn Triệu Vân ở ngoài không tiện, quân sĩ không có ai đôn đốc.
Quốc thái cho vào ở cả trong phủ, kẻo ở ngoài nhà khách lại
sinh chuyện. Huyền Đức mừng thầm.
Vài hôm sau, quốc thái kén được ngày lành tháng tốt, mở tiệc
rất to, rồi cho Tôn phu nhân cùng với Huyền Đức làm lễ thành hôn. Đến chiều tối
khách khứa tan đâu vào đấy, hai hàng đuốc hoa đỏ ối soi dẫn cho Huyền Đức nhập
phòng. Dưới ánh đèn thấp thoáng, Huyền Đức chỉ thấy gươm giáo tua tủa, hai bên
thị nữ, kẻ thì cắp gươm, người thì vác kích. Huyền Đức sợ mất hồn.
Thế là:
Hoảng trông thị nữ đeo gươm đứng,
Cứ tưởng Đông Ngô đặt phục binh.
Chưa biết duyên cớ ra sao, xem hồi sau sẽ hiểu.
Chú thích:
1. Chết vợ.
La Quán Trung
Người dịch: Hồng Việt
Theo https://www.sachhayonline.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét