Thứ Năm, 1 tháng 6, 2023

Truyện ngắn Ngô Thúy Nga: Lỡ ơi

Truyện ngắn
Ngô Thúy Nga: Lỡ ơi…

– Lêu lêu, thằng Lỡ không mặc quần.
– Thằng Lỡ không cha, đồ con hoang. Lêu lêu.
– Thằng câm bây ơi. Đồ thằng câm.
Mấy thằng con nít cười ồ, cười nắc nẻ, cười khoái chí. Thằng Lỡ đứng bên vệ đường, tay cầm vắt xôi nắm chặt hơn, miệng mếu máo khóc. Mấy thằng con nít vẫn tiếp tục chọc ghẹo và gỡ tay thằng Lỡ để lấy vắt xôi. Thằng Lỡ nắm chặt hết cỡ và khóc thét lên. O Luyên chạy từ trong nhà ra, bặm miệng và giơ tay dọa đánh mấy đứa trẻ để bảo vệ con mình. Thằng Lỡ thôi khóc, tay vẫn nắm chặt vắt xôi. O Luyên cúi xuống, cười nụ cười như mặt biển trước hoàng hôn không có sóng. Thằng Lỡ thấy mẹ cười thì cũng nhăn răng cười. Hai mẹ con dắt nhau đi khi bóng chiều chập choạng tắt.
Người ta kể lại rằng o Luyên bị câm khi mới sinh ra. Không nghe ai nhắc gì tới ba mẹ hay bà con thân thích gì, chỉ thấy cứ chiều về, có người đàn ông tới căn nhà xiêu vẹo ngoài cánh đồng hoang, dúi nắm gì đó vào tay o, rồi đi mãi vào bóng đêm hun hút cuối con đường. Ngày này qua tháng khác, người đàn ông vẫn đi lại, có khi câm lặng, có khi cúi mặt nghe giọt mặn chực trào khỏi khóe mắt cay xè. O Luyên lớn dần lên với mùi bùn đất và những ngọn đòng đòng mùa lúa trổ bông. Thấy o Luyên vặt cây lúa tút đòng đòng ăn mỗi sớm mai thức dậy, người bực, người thương, người ném cho vài câu chửi thề tục tĩu rồi đi, mặc o Luyên ngồi khóc. Như một quy luật bù trừ, mất cái này, được cái kia, o Luyên không nói được, nhưng nghe được, và nghe rất thính. Nên, ai nói gì o Luyên đều nghe thấy, vui thì cười, buồn thì khóc, cũng có khi cả khóc cả cười. Có lẽ thấy vậy nên người ta càng muốn chọc cho o Luyên cho vui làng vui xóm. Nhất là mấy đứa con nít, cứ mỗi lần thấy o Luyên đi qua, cả đám lại reo hò.
– O Luyên áo xấu. Lêu lêu.
– Lêu lêu lêu… O Luyên áo xấu! O Luyên áo xấu! O Luyên áo xấu…
O Luyên nhìn xuống áo quần tả tơi, cáu bẩn và bàn chân trần đen nhẻm, móng vàng khè, mếu máo. Rồi, o bật khóc tức tưởi, để lộ hàm răng thiếu nguyên hai cái răng cửa hàm trên, cũng vàng khè và cáu bẩn. O Luyên ngồi bệt xuống lòng đường, khóc bù lu bù loa. Đám con nít thấy vậy thì càng khoái chí, reo hò inh ỏi, sà vào cầm áo o Luyên kéo. Chiếc áo rách rưới đã bợt chỉ, kêu “roạt” rồi rách ra cả bửng lớn, để lộ bờ vai đen đúa. Bọn trẻ cười ngả nghiêng, reo hò. O Luyên gạt nước mắt, trừng trừng nhìn bọn trẻ, rồi, bặm môi giật đại cành cây bên đường quất túi bụi về phía đám con nít. Bọn trẻ thấy vậy thì hò hét nhau chạy toán loạn. Tiếng cười nắc nẻ của đám con nít hòa lẫn trong tiếng khóc tức tưởi của o Luyên nghe chát chúa.
Trời chiều đổ mưa. Mưa giông ầm ào. Mùa này, những cơn giông thường hay đến lúc chiều về. Tiếng bước chân người chạy vội vã. Tiếng xúc lúa chạy mưa nghe ràn rạt, hấp tấp. O Luyên vẫn ngồi đó, bên vệ đường, với vẻ mặt chụ ụ và bộ áo quần vừa rách thêm một mảng to. Manh áo mỏng theo mưa dính bết vào người, ôm sát khuôn ngực trần phập phồng lạnh. Mảnh vải rách khá to để lộ bờ vai trần đen và săn chắc. Vài người đàn ông đi qua, ngấp nghé mắt nơi khuôn ngực lồ lộ, rồi vụt đi, chẳng dám nhìn lâu hơn nữa, cũng không biết vì sao. O Luyên đứng dậy, lùi lũi đi trong mưa. O thôi khóc, dòng nước mưa chảy qua miệng mặn đắng.
Trên đoạn đường dẫn ra nhà o Luyên, lão Thông lùa đàn vịt đi ăn lúa trôi theo những con nước nhỏ ven đường. Thấy o đi tới, mặt buồn thiu, lão Thông ra chiều thông cảm.
– Ai lại trêu chọc mày à?
O Luyên ngước nhìn lão Thông, rồi gật lia lịa, đưa một tay ra ngang ngực và một tay giơ ngón tay cái lên.
– Mấy đứa con nít lại chọc áo xấu chứ gì? Kệ mẹ tụi nó, hôm nào bắt được, tao đánh cho trận – lão Thông tỏ ra hào hiệp mà mắt thì cứ nhìn chằm chằm vào khuôn ngực lồ lộ dưới mảnh áo ướt nhẹp của o Luyên.
O Luyên nghe lão Thông nói vậy, lại gật đầu lia lịa và nhăn răng cười.
– Sao áo quần ướt hết thế kia? Lại đây tao xem.
Lão Thông kéo o Luyên lại trước mặt mình. Lão nhìn trước sau, con đường không một bóng người, chỉ có tiếng mưa ầm ào và tiếng đàn vịt “cạp cạp” quyện lẫn vào nhau. Lão nhìn ngực o Luyên, nuốt nước bọt như vô thức. Lão để hai tay lên ngực o, thở hổn hển.
– Đừng để bị cảm lạnh nghe không? Quý lắm đó – Lão Thông bóp mạnh ngực o Luyên khiến o cúi người, cười khùng khục.
Không biết o Luyên nhột, hay là thích thú, lão Thông thấy o cười thì càng làm tới, hai ngón tay cầm lấy đầu ti đen sẫm sau manh ảo mỏng ướt nhẹp của o Luyên, vàu vò. O Luyên lại cười khùng khục. Lão Thông càng vàu mạnh và o Luyên càng cười. Tiếng cười của o văng vẳng trong màn mưa ngày càng dày…
Thằng Lỡ lên ba, vẫn không biết nói, cũng chẳng biết cười, chỉ ngờ nghệch khóc rồi lăn ra ngủ. Căn nhà tồi tàn trên cánh đồng của o Luyên có thêm đôi người thường lui tới. Có người mang cho hai mẹ con o chén cơm nguội và vài miếng thịt mỡ thừa. O Luyên không chê của cho bao giờ. Ai cho gì, o cũng ăn, cũng nhăn răng cười với họ.
– Ăn đi, có tí sữa mà cho nó bú, chứ mi còi rồi, đừng để cho nó còi nữa, tội nó – người đàn bà trạc 60 tuổi vừa nói với o Luyên, vừa vuốt vuốt mấy sợi tóc lưa thưa của thằng Lỡ đang nằm ngủ trên nền đất.
Miếng cơm trong miệng o Luyên chững lại. Rồi, o trệu trạo nhai, nuốt khó nhọc miếng cơm xuống cổ. O và thêm miếng nữa, to hơn, gắp miếng thịt mỡ bỏ vào miệng nhai thật nhanh, rồi nuốt cũng thật nhanh. Người đàn bà nhìn o Luyên, thở dài thườn thượt. “Ông trời thật khéo đùa giỡn” – người đàn bà ném lại câu nói rồi đứng dậy, phủi đít quần đi về. O Luyên vẫn tiếp tục và cơm và gắp từng miếng thịt mỡ ăn ngấu nghiến. Ăn được hơn nửa chén cơm thì thằng Lỡ cựa người rồi bật khóc. O Luyên vội vàng để chén xuống đất, đỡ thằng Lỡ ngồi dậy, ôm nó vào lòng. Muốn nựng con một tiếng, muốn ru con vài câu nhưng đành chịu, chỉ có thể ôm thằng Lỡ vào lòng, xoa xoa lưng.
Ngồi ở nhà mãi rồi không biết lấy gì mà ăn, lấy sữa đâu mà cho con bú, o Luyên đâm hoảng. Cũng không hiểu vì sao, người đàn ông thường hay ghé lại mỗi chiều, mang cơm cho o Luyên không còn lui tới nữa. Nghe đâu, chiều hôm trời âm u, người đàn ông lại tới, mua rất nhiều món ngon. O Luyên cười tít mắt, cầm tay bốc ăn một cách ngon lành. Đó là lần đầu tiên người đàn ông ấy cười. Nhưng rồi, ngay sau đó, o Luyên chạy ra vườn, nôn thốc nôn tháo ra những thứ vừa ăn xong. Người đàn ông chạy theo ra, lo lắng. Ông nhìn o Luyên hoài nghi, đi lại xem gì ở cổ o Luyên, rồi cầm lấy cổ tay bắt mạch. Mặt người đàn ông tái mét, rồi nhanh chóng chuyển sang giận dữ. Ông giáng xuống mặt o Luyên một cái tát mạnh, và đau. O Luyên ôm mặt, nhìn người đàn ông sững sờ. Giọt nước mắt o Luyên chưa kịp trào ra khỏi vành mi thì người đàn ông đã bỏ đi, không để lại một câu nói, hay một ánh nhìn nào nữa. O Luyên không khóc, giọt nước rỉ ra rồi cô lại đặc quánh xung quanh vành mắt. Như vô thức, o đưa tay xuống bụng, mắt lọt thỏm giữa khoảng không đang loang lổ tối trước mặt.
Từ đó, người đàn ông ấy không bao giờ lui tới nữa.
O Luyên bế thằng Lỡ đi lang thang đầu làng cuối xóm, cứ thấy nhà nào có đám cưới, hoặc đám ma, thì sà vào. Mọi người đang ăn cỗ, thấy mẹ con o Luyên, người thì khịt mũi khoát tay, người thì thương tình, vắt cho vắt xôi và miếng thịt gà, bảo hai mẹ con ra ngoài mà ăn cho thoải mái. O Luyên lại nhăn răng cười, gật đầu lia lịa rồi cầm vắt xôi và miếng thịt gà đi. Ra ngoài, o Luyên đặt thằng Lỡ ngồi xuống bên vệ đường, và dở vắt xôi ăn. Thằng Lỡ đói, khóc tréo lên, tay bíu lấy tay o Luyên đang cầm nắm xôi vừa cắn được một miếng. O Luyên đói lả, mặc thằng Lỡ khóc, o ăn lấy ăn để vài miếng, cho đỡ run tay run chân. Thằng Lỡ khóc to hơn. O Luyên khựng lại nhìn con, rồi nhai miếng xôi đút cho thằng Lỡ. Không thèm biết cái gì, cứ thấy có ăn là thằng Lỡ nuốt chửng. O Luyên lại nhai miếng khác đút cho con. Thằng Lỡ ăn lấy ăn để, rồi ho sặc sụa, mặt mày tái mét. O Luyên quăng cả vắt xôi và miếng thịt gà, vuốt vuốt ngực, đập đập lưng cho thằng Lỡ. Thằng Lỡ nôn ra hết sạch, mặt nhợt nhạt, thở phì phò. O Luyên ôm con, khóc. Vắt xôi còn hơn nửa và miếng thịt gà nằm chỏng chơ, dính đầy đất cát.
Khi cơn giông ngưng lặng cũng là khi người đàn ông rời căn nhà tồi tàn trong bóng đêm để đi về phía có ánh sáng. O Luyên lặng lẽ khoác lại bộ đồ hôi hám và cũ nhàu thường ngày. Có vệt máu đỏ ửng khi tia chớp lóe lên ngoài trời, xuyên thủng mái che đã bợt màu thời gian. Mặt o Luyên tái mét, mếu máo, rồi òa khóc như một đứa trẻ. Đêm đó, o không ngủ. Đêm đó, o nằm trằn trọc mong trời sáng. Nỗi sợ hãi quá lớn khiến o muốn chia sẻ với một ai đó. Cơn giông đã ngưng hẳn. O Luyên nằm lắng nghe tiếng gió thì thào xô những vạt lúa bên ngoài. Nằm như thế, cho đến khi bình minh bắt đầu bóc dần mảng bóng đêm lờ mờ, o Luyên vội vàng dậy, nhìn về phía có lác đác vài tiếng nói cười và tiếng cắt lúa nghe ràn rạt. O Luyên mừng rỡ, đi nhanh về phía ấy.
Người phụ nữ cúi lom khom gặt lúa, vội đứng dậy, cởi chiếc nón lá đội trên đầu xuống, quạt quạt cho mát, rồi mới thong thả hỏi.
– Làm sao?
O Luyên chỉ chỉ tay xuống đũng quần vá chằng chịt mấy lớp, rồi dùng một ngón tay chặt chặt ngón tay khác, rồi rùng mình, khóc lên. Người phụ nữ chau mày, không hiểu o Luyên đang muốn nói gì. Thấy cách diễn đạt không tác dụng, o Luyên vội đưa ngón tay lên miệng cắn mạnh cho chảy máu. Người phụ nữ hoảng hốt cầm tay o Luyên.
– Mày điên à. Sao tự cắn mình cho chảy máu?
O Luyên “ư ư” lên mấy tiếng, rồi lại chỉ tay xuống đũng quần. “Thôi chết!” – Đáy mắt người phụ nữ lặng đi nơi chiếc quần rách rưới của O Luyên.
– Khổ mày rồi con ạ! Sao mà dại thế hả? Thế đứa nào? Đứa nào làm mày?
O Luyên ngẩn người đi giây lát, rồi chỉ tay về phía đường làng, nơi có ngôi nhà to lớn đằng kia. Người phụ nữ lặng đi, không nói thêm gì. O Luyên cũng cảm thấy đã thỏa mãn khi chia sẻ nỗi sợ hãi của mình, lặng lẽ đi về phía con đường làng.
Mặt trời bắt đầu nhô lên cao. Sau cơn giông, mọi thứ dường như xơ xác. Những hạt mưa còn đọng lại trên đóa trinh nữ bên vệ đường, chẳng còn nguyên vẹn nữa màu hồng. Lão Thông lại lùa vịt ra đồng, vừa thấy o Luyên, lão vội vàng lùa đàn vịt đi hướng khác. O Luyên chạy theo lên phía trước, phô hàm răng thiếu hai chiếc răng cửa phía trên ra cười với lão Thông. Sao mà lúc này, lão ghét o Luyên đến thế. Lão chỉ muốn cầm que lùa vịt, quất cho o vài cái. Nhưng lão không dám. Lão sợ những lời đàm tiếu, sợ vợ con lão nổi điên, mà khi đàn bà nổi điên, sợ lắm. Nghĩ tới nghĩ lui, lão chẳng nói gì, vội vàng lùa đàn vịt đi cho khuất mắt. O Luyên chưng hửng nhìn theo.
Trở về ngôi nhà tồi tàn, o nằm dài ra chiếc chiếu cói đã bợt bạt giữa nhà. Vệt máu từ đêm qua đã khô và sẫm màu, khiến chiếc chiếu trông càng bẩn thỉu và hôi hám.
Từ dạo đó, lão Thông không chịu giáp mặt với o Luyên nữa. Cứ thấy o Luyên ở đâu là lão tránh ở đó. Nhất là từ hôm lão lùa đàn vịt đi ăn và nghe người ta kháo nhau rằng o Luyên không chồng mà chửa. Người ta không trách o, vì o ngờ nghệch, không học không hành. Họ chửi thằng làm cho o Luyên có bầu, thiệt loại súc sinh, làm hại cả con câm rách rưới. Lão Thông chột dạ, thấy mặt nóng ran. Lão không nói gì, lẳng lặng lùa đàn vịt đi chỗ khác.
Bầu được một, hai tháng thì o Luyên bắt đầu ốm nghén, ăn ngủ không được, nên vốn xấu nay lại càng xấu hơn, vốn tiều tụy nay lại thêm tiều tụy. Ngày ngày, o Luyên vẫn ra đứng trước đường làng, lắng nghe tiếng “cạc… cạc” của đàn vịt lão Thông đi qua. O chỉ muốn nhìn lão Thông một cái, rồi đi, mặc lão Thông có đáp lại hay không. Có những hôm, bụng đau quằn quại, o vẫn mặc, cứ đứng đầu làng từ sáng cho đến khi trời nhập nhoạng tối và trăng bắt đầu lên. Không thấy bóng dáng lão Thông đâu cả, o buồn lắm, lủi thủi trở về nằm co ro một góc trong căn nhà nhỏ tồi tàn. Ở mi mắt o, rỉ ra hai giọt mặn đặc quánh, lăn dần xuống thái dương và mất hút trong mớ tóc rối bù.
Cái thai trong bụng o Luyên cứ lớn dần theo ngày tháng. Hình hài đứa bé cũng rõ dần lên từng ngày. O Luyên vẫn thường để tay lên bụng để cảm nhận sự sống đang hiện hình bên trong mình. O hay cười hơn. Ra ngoài gặp ai, o cũng cười, chỉ xuống cái bụng giờ đã tròn vo sau lớp áo mỏng bợt bạt để khoe. Thế mới biết thiên chức làm mẹ thiêng liêng và hạnh phúc đến nhường nào. Không còn ai đi lại mang cơm và thức ăn cho o Luyên nữa, o đành phải tự mình đi kiếm ăn. Và lần này, vì đứa con trong bụng, o lại càng phải đi nhiều hơn, phải kiếm cái ăn nhiều hơn, để nuôi mầm sống ấy lớn lên dần. Không ai nỡ từ chối o Luyên khi nhìn xuống cái bụng đang ngày càng lớn. Có người cho thêm quần áo, vì cái bụng của o đã quá cỡ với chiếc áo ngắn cũn cỡn và bạc màu. Đằng sau nụ cười của o, là những tiếng thở dài và những cái lắc đầu chua chát. Họ tội nghiệp cho cô gái mới hai mươi tuổi đầu đã phải chịu quá nhiều bất hạnh, đã phải làm “o”. Cũng có người mừng cho o, ừ thôi kệ, có đứa con sau này nhờ cậy, trong cái rủi có cái may. Không biết vô tình hay hữu ý, nhiều người hỏi o Luyên cha của đứa bé là ai. O thoáng buồn, rồi lại cười hề hề chỉ chỉ tay vào ngôi nhà đồ sộ của lão Thông ngay đầu làng. Thế là, tiếng lành đồn gần tin dữ đồn xa tới tai vợ con lão Thông. Không ai biết đêm đó xảy ra chuyện gì, chỉ nghe tiếng đồ đạc vỡ, tiếng chửi bới mà không hề nghe thấy tiếng cự cãi nào. Từ dạo đó, không còn thấy lão Thông lùa vịt đi ăn nữa. Nghe đâu, vợ lão, hay chính lão, đã thuê con Dần thọt chân đi chăn vịt thay, lo cho nó ngày hai bữa cơm và một chỗ ngủ tương đối ấm cúng dưới chuồng vịt.
Những cơn giông chuyển mình về đêm. Nhà dột khắp nơi, o Luyên không có lấy một vùng khô ráo để trải chiếc chiếu cói ngủ. Cái thai tháng thứ bảy làm o thêm ì ạch mệt. Bàn chân mầm sống trong bụng o Luyên khẽ đạp nhẹ. O cười như ngày mùa được nắng, vuốt ve lên vùng bụng căng tròn, chỉ mong tới ngày nghe tiếng o oa của mầm sống chào đời. Nhưng… niềm vui ấy chưa vẹn tròn thì đã vọng bên tai o Luyên những bước chân chát chúa. Trong ánh đèn dầu tù mù, hai bóng người ập tới, lao về phía o Luyên và đánh tới tấp. O chưa kịp ư a kêu lên vài tiếng đã ngã quỵ xuống nền đất sũng nước. Máu từ giữa hai đùi non của o Luyên loang lổ ra quần, và loang xuống cả nền đất trong ánh sáng tù mù.
Thằng Lỡ ngồi bên vạt lúa tút mấy ngọn đòng đòng mọc lên từ cuống rạ sau mùa gặt, ăn ngon lành. Xa xa trên ruộng lúa ngả vàng, o Luyên đang đuổi theo bắt những con châu chấu sữa béo mùm. Mấy đứa nhỏ, thay nhau chọc o Luyên bằng những câu đùa ác ý thường ngày, với hi vọng o Luyên sẽ khóc mà bỏ về, để tụi nhỏ bắt được nhiều châu chấu hơn. Nhưng… o mặc, không thèm khóc, cũng chẳng thèm cười. Bây giờ, o chỉ muốn bắt thật nhiều châu chấu, để trưa nay hai mẹ con có bữa no. Châu chấu về vặt hết cánh và chân, rang mỡ thì ngon phải biết. Thằng Lỡ thấy châu chấu vàng ươm trên đĩa, vội ăn ngấu nghiến. O Luyên thấy vậy, chẳng cần ăn cũng no tới tận mang tai.
Khi mùa châu chấu qua đi, o lại men theo những bờ kênh nhỏ bắt cua đồng. Thằng Lỡ thích ăn gạch cua và chỉ ăn mỗi gạch cua. Không ít lần o Luyên bị rắn nước cắn vì móc nhầm hang rắn ở, cũng chẳng hề hấn.
Thằng Lỡ lên năm, cũng chẳng thấy nói cười gì. Cứ ngờ ngệch ăn rồi ngủ. Nó cũng chẳng còn bú mẹ nữa, có lẽ vì, núm vú không nhai đi nhai lại cũng chán. Tai thằng Lỡ càng ngày càng to. Cái bớt giữa lòng bàn tay trái thằng Lỡ ngày nào màu xanh, nay bỗng dưng chuyển màu đỏ lự, không hiểu vì sao. Người ta cũng không thèm quan tâm đến cái bớt to như củ lạc ấy của thằng Lỡ. Cái họ e ngại là đến giờ thằng Lỡ vẫn không biết nói năng gì. Người ta lo cho nó rồi sẽ giống mẹ, khổ cả hai mẹ con. Họ còn nhớ như in cái đêm hôm mưa gió của năm năm về trước, mấy người đi soi nhái ban đêm, thấy o Luyên nằm bất tỉnh ngay liếp cửa hờ không khép, máu loang lổ chảy. Người ta lật đật đưa o vô trạm xá. Đêm đó, o Luyên sinh non thằng Lỡ. Mấy cô y tá dùng dằng, vì chỉ cứu sống được một trong hai. Chẳng có ai là người nhà của o Luyên nên không ai lên tiếng cứu sống o, hay giữ lấy đứa trẻ. Cuối cùng, mấy cô y tá tự quyết, cố gắng cứu lấy cả mẹ và con, còn lại, đành nhờ cậy vào số trời. Rồi, như một phép màu, các y tá vỡ òa, người đưa o Luyên vô trạm xá vỡ òa, khi thấy mẹ tròn con vuông. Thằng Lỡ khóc thét lên ngay khi chào đời, tiếng khóc văng vẳng đòi ăn. O Luyên dù đã mệt lả, mồ hôi rịn ra ướt nhẹp cả mớ tóc bù xù trên trán, vẫn cười sung sướng, hở hàm răng thiếu mất hai cái, đón thằng Lỡ từ tay y tá, bắt vạt áo cho thằng Lỡ bú ngon lành. Dù lúc đó sữa chưa có, nhưng kệ, o cứ làm những gì mà sự thiêng liêng của thiên chức làm mẹ mách bảo.
Cũng không hiểu vì sao, thằng Lỡ lại có tên là Lỡ. Người ta theo nhau gọi, chẳng biết cái tên đó bắt nguồn từ đâu. Ai gặp o Luyên cõng thằng Lỡ đi xin ăn, kéo tay o lại hỏi sao đặt tên con là Lỡ, o chỉ cười hềnh hệch. Nhưng khi người ta hỏi cha thằng Lỡ là ai, thì o Luyên lại bật khóc, khóc tu tu, tay chỉ chỉ vào nhà lão Thông đầu làng. Người ta hỏi cho có hỏi thế thôi, chứ ai cũng biết tỏng câu trả lời từ lâu. Mà cũng lạ. Từ cái đêm hôm mưa gió năm năm về trước ấy, nhà lão Thông sa sút trầm trọng. Đàn vịt bỗng dưng lăn đùng ra chết. Chó mèo cũng lăn đùng ra chết dần chết mòn. Người ta kháo nhau rằng, lão Thông “ăn vặt” quen miệng, cứ đêm đến lại lẻn xuống chuồng vịt ngủ với con Dần. Có lần, mụ vợ lão Thông đi cầu, con Dần trong lúc sung sướng, kêu to quá nên bị mụ bắt quả tang. Con Dần bị đánh què luôn chân kia, giờ thành thọt hai chân, đi cà nhắc cà nhích đến tội. Mụ vợ lão Thông ghen có tiếng trong làng. Chỉ trách lão Thông không biết đường “liệu cơm gắp mắm”, cái tính trăng hoa vẫn không tài nào bỏ được. Mà con Dần cũng không vừa, con gái mà tuổi Dần thì phải biết. Nghe đâu sau lần bị đánh què chân, nó thù mụ vợ lão Thông, thù luôn cả lão Thông đàn ông mà hèn. Thế là, trước khi đi khỏi nhà, con Dần thuốc cho vịt gà và chó mèo chết hết. Vợ con lão Thông khóc lóc. Con Dần hả hê. Xóm làng hả hê trả báo: “Ai bảo sống cho ác lắm vào, giờ thì sáng mắt ra đó. Ác giả thì ác báo, ông trời có mắt lắm”. O Luyên chẳng vui, cũng chẳng buồn. Ngày mai sinh nhật thằng Lỡ rồi. Hôm nay o chỉ muốn xin cho được vài chục, hoặc bó rau, hoặc miếng thịt, để làm cho thằng Lỡ một mâm cơm thật ngon. Chẳng ai nhớ tới ngày sinh của thằng Lỡ, nhưng thấy o Luyên chìa tay xin mà nước mắt ngắn dài, thì không cho không đặng, thôi thì bấm bụng, rút ruột mà cho lấy o vài ngàn, coi như, cũng là một cách làm phước.
Ngày thằng Lỡ tròn 5 tuổi, trời mưa như trút nước, mưa như cái ngày nó chào đời. O Luyên nhìn trời, ngán ngẩm đội mưa đi mua gạo và thức ăn về làm đồ ăn cho con. Thằng Lỡ lon ton chạy theo ra tới cửa khi o Luyên đã khuất hẳn trong cơn mưa mù mịt. Thằng Lỡ vừa khóc vừa mon men đi theo mẹ ra tới con đường đầu làng. Mưa trắng trời. Mưa ném xuống người thằng Lỡ từng giọt đau điếng. Thằng Lỡ vừa quệt mắt cho bớt mưa cay xè. Nước dâng lên lút mắt cá thằng Lỡ, rồi dâng đến cổ chân. Mưa như ai mang nước trút hết ra ngoài. Thằng Lỡ lội bì bõm theo bản năng. Dáng lão Thông to béo lù lù xuất hiện ngay đầu ngõ. Thấy lão Thông, thằng Lỡ không dưng mừng rỡ, cười toe toét rồi cất miệng bập bẹ mấy tiếng “Ba…. Ba”. Mọi người ngước lên nhìn thằng Lỡ, ngạc nhiên. Cuối cùng thì nó cũng nói được. Lão Thông vừa vui, lại vừa sợ. Nửa muốn chạy lại ôm chầm lấy con mình, nửa lại sợ hàng xóm dị nghị, và sợ mụ vợ đang đứng trong nhà nhìn ra. Thằng Lỡ lại bập bẹ thêm mấy tiếng ba, rồi lội nhanh lại phía lão Thông. Nó đạp nước mà đi, như thể sợ lão Thông sẽ biến mất ngay tức thì. Lão Thông đứng như trời trồng, không biết phải làm gì. Thằng Lỡ chạy gần tới lão Thông, đưa cánh tay với thì bỗng có người bế thốc nó lên, và đưa đi. Lão Thông chưng hửng, mấy người đi đường chưng hửng, đứng nhìn theo hai con người rẽ mưa đi khuất. Bóng dáng người đàn ông bế thằng Lỡ đi, trông quen lắm.
O Luyên đi về, không thấy thằng Lỡ đâu. Tìm khắp nhà cũng không thấy. O Luyên khóc lóc chạy ra màn mưa vẫn còn dày kịt, đảo mắt tìm kiếm. Gặp ai, o Luyên cũng đưa tay ngang bụng, khua tay loạn xạ lên hỏi thằng Lỡ. O Luyên bắt gặp lão Thông đầu làng, đang đứng trầm ngâm nhìn về hướng người đàn ông bế thằng Lỡ đi. O Luyên lật đà lật đật chạy lại, cầm tay lão Thông lay mạnh. Mưa trên mắt o cay xè. Mưa chảy tràn vào miệng o mặn đắng. O Luyên ư a lên vài tiếng như muốn nói điều gì, đủ để lão Thông hiểu được. Bất giác, lão Thông ôm chầm lấy o Luyên, ôm thật chặt, rồi buột miệng:
– Lỡ rồi… Lỡ ơi!…
4/3/2021
Ngô Thúy Nga
Theo https://vanhocsaigon.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Bùi Việt Phương và những vần thơ lạ từ miền núi Bùi Việt Phương thuộc thế hệ 8X. Phương sinh ra và lớn lên ở miền núi, học xong khoa Ngữ...