Chủ Nhật, 3 tháng 11, 2024

Về nhà 2

Về nhà 2

Chương 21
Đủ duyên thì tụ, hết duyên thì tán
Nhưng có một chuyện phải kết thúc đã.
Sơn đã ra tòa. Tôi đã bay từ San Jose xuống trước hai ngày vì không biết ngày nào tòa sẽ gọi tôi lên làm chứng. Thu lại đón tôi ở sân bay. Chúng tôi về nhà được một lúc thì Sơn đi làm về. Trông anh gầy hơn nhưng khỏe hơn năm ngoái và khỏe hơn lúc chúng tôi sống với nhau. Trên mặt anh có một vẻ bình thản mới.
“Anh Sơn thay đổi nhiều lắm” - Thu đã nói với tôi trên đường từ sân bay về - “Giờ ảnh trầm hơn nhiều. Hôm nào cũng đi làm khuya mới về, cuối tuần lại đi làm với bọn em.”
Hôm sau, chúng tôi đến tòa từ sớm nhưng luật sư dặn chúng tôi không vào để bồi thẩm đoàn khỏi quen mặt và có thành kiến trước về người làm chứng. Vậy là tôi ngồi ở ngoài quán cà phê viết cả ngày. Bên ngoài, xe cộ vắng vẻ, cây cối trụi lá. Qua cửa sổ nhìn ra, tôi bỗng nhớ khi còn nhỏ, tôi thường ngồi thò hai chân qua cửa sổ nhìn người qua lại trong lúc cửa nhà khóa trái, bố mẹ đi làm chưa về. Với đứa bé gái là tôi lúc đó - thế giới nhìn qua cửa sổ của em bé ấy thật rực rỡ và kỳ diệu. Lúc ấy, tôi đã nghĩ đến thế giới và vũ trụ bằng toàn những điều cao cả và hạnh phúc. Mùa thu năm 2000, một mình sang Mỹ, tôi đã xao xuyến thế nào khi nghe câu “Welcome to America!” lúc đứng trong hàng người ở sân bay Los Angeles chờ nhập cảnh.
Thế mà giờ đây, hỡi ôi, tôi đang ở bên ngoài một tòa án Mỹ chờ đối đầu với cỗ máy tư pháp có thể công bằng nhất mà cũng có thể xảo quyệt nhất của cái đất nước mạnh nhất thế giới - một đất nước luôn có thể lạm dụng trí tuệ của nó cho việc bẻ gãy, khuất phục con người. Hỡi ôi, tôi đang ra tòa làm chứng cho chồng cũ của tôi. Cuộc đời khó có thể nói trước điều gì nhưng dường như cũng không cho ai ăn gian cả. Tính bất định của nó buộc người ta phải buông tay khỏi những mong muốn xếp đặt, toan tính lấy bất cứ điều gì từ nó. Cái cây ngoài cửa sổ là một khối xanh không liên quan đến tôi ngồi đây, dù tôi thích hay ghét hay gọi nó là gì. Cái ghế trước mặt tôi im lìm không nói, không có bất cứ dính líu gì với tôi dù tôi thích hay ghét hay gọi nó là gì. Thu ngồi trước mặt tôi là một khối thân tâm liên tục biến đổi và bản chất không thể dính líu gì vào tôi. Mọi thứ trên đời đều thế. Kể cả cha mẹ chồng con, trong bản chất là các hiện hữu độc lập. Thế mà tôi đã luôn vơ vào, cứ luôn cố dính vào chúng bằng cách ảo tưởng ra các ý nghĩa rồi bám lấy các ảo tưởng đó, và rồi khổ sở.
“Chị Việt chẳng nói năng gì cả nhỉ?” - Thu nói.
Tôi có gì để thêm vào cái này ngoài cười?
Gần 3 giờ chiều, quán cà phê đóng cửa. Tôi vào nằm trên ghế sau ô tô trong bãi đậu xe. Rồi trời đổ mưa sầm sập; nước mưa đập rào rào vào kính xe. Tôi ngồi dậy nhìn ra ngoài thì thấy cô gái nguyên đơn cùng mấy người bạn chạy từ tòa vào bãi đậu xe. Tôi không muốn họ nhìn thấy nên vội hụp người xuống rồi cứ lom khom trên ghế sau như thế. Lom khom một lúc, tôi bật cười, ngồi thẳng dậy.
Ngày hôm sau, 8 giờ sáng, chúng tôi ra khỏi nhà. Suốt buổi sáng, họ chất vấn phía cảnh sát. Đến 2 giờ chiều, Thu ra quán cà phê gọi tôi, Trường, Nam, và Quảng nhưng chúng tôi chưa được vào phòng xử mà phải chờ trong phòng nhân chứng kín mít, khóa trái cửa. Ba người đàn ông quá căng thẳng nên liên tục nói chuyện.
“ Man! Em run quá, xong đi cho rồi. Đây là lần thứ hai trong đời em căng thẳng thế này, lần trước là lúc vợ em lên bàn đẻ và bác sĩ bảo không thấy tim thai, phải mổ, mà họ đâu có cho mình vào, trời ơi, em gần phát điên luôn đó... cứ đi tới đi lui như gà mắc đẻ.”
“Nếu mấy ổng ra bảo mình, đưa tôi mười ngàn rồi khỏi phải ra tòa tiếc gì cả, thì tôi đưa luôn.”
Chúng tôi tiếp tục chờ... Cuối cùng, một phụ nữ vào phòng gọi tên tôi. Tôi đứng dậy theo bà ta vào phòng xử án.
Thẩm phán là một phụ nữ đã già, tóc bạc trắng, khuôn mặt cứng rắn. Khi tôi bước vào phòng, Bernie mời tôi lên bục nhân chứng. Nhân viên tòa yêu cầu tôi giơ tay phải, thề chỉ nói sự thật. Thẩm phán mời tôi ngồi xuống. Sau đó Bernie bắt đầu hỏi tôi:
“Tên cô là gì, và xin đánh vần.”
“Tôi đánh vần tên tôi.”
“Cô sống ở đâu?”
“Tôi sống ở San Jose, California.”
“Cô làm nghề gì?”
“Tôi là research assistant professor tại Đại học San Jose.”
“Cô có biết Sơn Nguyễn không?”
“Có.”
“Cô biết anh ấy như thế nào?”
“Sơn Nguyễn là chồng cũ của tôi.”
“Hai người kết hôn bao giờ?”
“Chúng tôi đăng ký kết hôn năm...”
“Hai người ly hôn khi nào?”
“Năm 2010.”
Hai người sống ở đâu trong lúc kết hôn?”
“Nhiều nơi. Oregon, Chicago, New Jersey, New Hampshire...”
Bạn muốn biết thế nào là địa ngục ư? Bạn hãy vào một phòng xử án ở Mỹ - và có thể là phòng xử án nhiều nơi trên thế giới. Khi bạn ngồi trên bục nhân chứng - dù bạn là nhân chứng chứ không phải bị can - bạn sẽ có cảm giác bạn không còn là một con người mà là một con ruồi bị ghim cánh đặt dưới một cái búa máy khổng lồ. Ở đây không có chỗ cho bất cứ sai sót nào; mỗi lời bạn nói ra phải chính xác hoàn toàn, không thiếu, không thừa. Một từ thừa sẽ là đầu mối cho một cuộc hỏi cung mới. Một từ thiếu sẽ là đầu mối cho những nghi vấn mới. Một sự ngập ngừng là chìa khóa mở một loạt câu hỏi xoáy. Một ánh mắt không tự tin là tia lửa châm vào khối thuốc nổ. Không chỉ 11 thành viên bồi thẩm đoàn mà cả thẩm phán, luật sư của đối phương, luật sư của bạn, cảnh sát phiên tòa, thư ký phiên tòa, và những người trong phòng xử án đều dán mắt vào bạn. Thừa hay thiếu, ngập ngừng hay im lặng không đúng chỗ - bạn có thể khiến cho số phận một ai đó thay đổi từ một năm thành năm năm, từ chung thân thành tử hình hay trắng án. Cả phòng xử là một bàn cờ của đầu óc và chữ nghĩa. Ma trận chữ nghĩa. Ma trận lời. Lời, lời, và lời. Số phận con người treo trên lời. Không có chỗ cho cảm xúc và những khoảng xám. Trắng hay đen? Chỉ có lý lập trên lời. Cảm giác về sự bất lực có thể làm bạn bủn rủn chân tay, nôn thốc nôn tháo.
Tôi ngồi đó, vừa bình tĩnh lạ lùng vừa ghê rợn với cái chúng ta đang làm với nhau trong những phiên tòa, trong toàn bộ hệ thống pháp lý, tòa án, nhà tù, quân đội, cảnh sát; và rộng ra là toàn bộ những đối đãi chúng ta đang làm với nhau nhân danh nhiều tên gọi có tính trá hình mà ta không biết: “kinh doanh”, “giáo dục”, “y tế”, “công lý”, “an ninh”, “hợp tác phát triển”, “phồn vinh”, “thịnh vượng”, thậm chí cả “đạo đức”, “bổn phận”, “trách nhiệm”, và nhất là “tình yêu”. Loài người có trí tuệ siêu việt nhất trong các sinh vật hữu hình trên trái đất này nhưng chúng ta chủ yếu đang sử dụng khả năng trí tuệ ấy vào việc tranh đấu hơn thua với nhau.
Công tố viên - một người đàn ông da trắng ngoài 50 - rất dày dạn kinh nghiệm. Ông ta hỏi tôi những câu hỏi nghe rất thủ tục và rời rạc nhưng đều có khả năng tự liên kết trong óc suy luận của bồi thẩm đoàn nhằm kết luận rằng những “bằng chứng” mà tôi cung cấp đều chỉ là suy đoán hoặc sự nhớ lại không đáng tin của tôi. Tôi biết ông ấy không có ác ý với tôi, ông ấy chỉ đang làm phận sự của mình. Ông ấy xoáy vào chi tiết Sơn cởi trần, mặc loại quần lót dùng một lần. Ông ấy muốn chứng minh rằng Sơn mặc thế tức là anh đã chủ động lên kế hoạch phục kích cô gái với mục đích xấu. Tôi trình bày rằng Sơn đã có thói quen này trong nhiều năm, từ lúc còn sống với tôi, vì có khoảng thời gian dài, tuần nào Sơn cũng đi công tác bốn ngày, phải sống ở khách sạn nên anh chuyển sang dùng loại quần du lịch mặc một lần để khỏi phải giặt đồ; sau đó thì Sơn thành thói quen.
“Cô nói anh ta phải đi công tác, trong thời gian bao lâu?” “Hằng tuần, từ sáng thứ Hai đến tối thứ Năm.”
“Lúc đó hai người sống ở đâu?”
“Chicago.”
Không lâu sau, họ gọi Sơn lên thẩm vấn. Họ thẩm vấn rất lâu. Đây là lần đầu tiên trong những năm biết nhau tôi thấy Sơn có biểu hiện sợ. Không phải vì anh sai. Mà vì chỉ cần anh cuống, nói nhầm thì anh sẽ trở thành sai và ở tòa thì không ai châm chước việc tiếng Anh không phải ngôn ngữ mẹ đẻ của Sơn.
“Bình tĩnh, bình tĩnh” - tôi nói với Sơn trong đầu.
Lúc này, tôi không thể làm gì thêm, ngoài một việc. Tôi nhắm mắt lại, nguyện rằng nếu những gì Sơn đang phải trải qua có bất cứ nguyên nhân nào là do tôi - tức sự hiện hữu của tôi trên đời khiến Sơn phải có những hành động, lời nói, ý nghĩ đưa đến ngày hôm nay, nghĩa là nếu như đây là quả của một nhân nào đó mà tôi là một phần chủ nợ thì tôi xin xóa hết tất cả các nợ đó cho Sơn. Tôi nguyện rằng nếu tôi thực sự đã luôn có quý nhân phù trợ để lúc nào cũng may mắn thì tôi xin chia may mắn cho Sơn, nếu có thể giúp anh. Tôi nguyện rằng tất cả phước đức, phúc lành mà tôi từng có khi làm bất cứ việc thiện nào nhỏ nhất trong đời này, tôi cũng sẽ chia cho Sơn. Tôi cầu mong tất cả những tâm lành trên thế gian, tất cả những tâm từng tôn trọng công lý hãy trợ giúp để thẩm phán và 11 người trong bồi thẩm đoàn sẽ có sự minh mẫn và công tâm để làm sự thật sáng tỏ.
Phiên tòa tiếp tục đến hết buổi chiều nhưng tôi không được chứng kiến đến phút cuối vì phải ra sân bay cho kịp chuyến bay về San Jose để chuẩn bị đi Los Angeles phỏng vấn xin việc. Sơn gọi điện cho tôi trong lúc tôi ngồi chờ ở sân bay. Anh nói phải hai hôm nữa mới biết phán quyết vì chiều nay bồi thẩm đoàn chưa thống nhất được kết luận cuối cùng. Sơn cảm ơn tôi đã xuống làm chứng cho anh và chúc tôi may mắn khi phỏng vấn ở Los Angeles.
Chuyến bay về San Jose của tôi tối hôm đó không những bị chậm đến ba tiếng, mà còn phải đổi cổng và đổi máy bay ba lần. Tôi đã lên máy bay thì được yêu cầu rời máy bay, rồi được yêu cầu sang cổng khác. Lên máy bay mới rồi, tôi lại được yêu cầu ra khỏi máy bay lần nữa vì máy bay có trục trặc kỹ thuật. Tôi tiếp tục chờ. Cuối cùng Delta thông báo chuyến bay phải đổi sang cổng mới lần nữa. Có lẽ một phần may mắn của tôi thực sự đã chuyển sang cho Sơn.
Ba ngày sau, khi tôi đang ở Los Angeles, Sơn gọi điện.
“Tòa tuyên bố trắng án” - Sơn nói - “Tất cả các cáo buộc đều ‘vô tội’.”
“Chúc mừng anh.”
“Cảm ơn em. Đi phỏng vấn thế nào?”
“Cũng tốt cả.”
“Chúc em phỏng vấn tốt nhé. Hẹn gặp lại sau.”
Và đấy là lần cuối cùng tôi nói chuyện trực tiếp với Sơn.
Tất cả duyên nợ của chúng tôi ở đoạn trước đã xong. Khi viết cuốn sách này, tôi email cho Sơn hỏi anh về việc tôi đưa anh vào sách. Sơn nói rằng đây là sách của tôi, cho nên quyền quyết định thuộc về tôi. Tuy biết vậy, nhưng tôi vẫn thấy có gì đó không yên trong lòng. Nhìn thật kỹ, tôi nhận ra cái “không yên” này không phải chuyện cuốn sách mà từ những năm tháng hôn nhân và ly hôn. Chúng tôi đã không bao giờ có một sự khép lại đúng nghĩa. Tôi gửi email cho Sơn, xin lỗi anh về bất cứ việc lớn nhỏ nào mà tôi từng làm trong lúc sống với anh cũng như trong bất cứ thời điểm nào khác mà làm tổn thương đến anh.
“Dù vô tình hay cố ý, em cũng xin lỗi những việc đó. Em nói điều này không phải vì nhớ ra việc cụ thể nào mà vì thực ra lời này là lời cần phải nói lúc ly dị nhưng lúc đó em đã không nói trực tiếp được với anh.”
Sơn viết thư lại rằng “Em không có gì phải xin lỗi. Anh cũng có lỗi trong thời gian sống với em.”
“Chúc em một cuộc sống vui vẻ và mọi sự tốt đẹp.”
Vậy là, phải 6 năm sau khi chính thức li dị, chúng tôi - hoặc tôi - mới có kết thúc chính thức.
Về sau này, tôi hỏi một nhà sư có khả năng nhìn kiếp trước về nhân duyên của tôi với Sơn; tại sao tôi lấy anh, rồi cứ muốn ra đi dù tôi không nói được lý do gì to lớn khiến chúng tôi không sống được với nhau. Nhà sư nói rằng không chỉ kiếp này mà tôi cũng đã nhiều kiếp lập gia đình rồi rời bỏ đời sống gia đình.
“Vậy trong các kiếp mà con lập gia đình, con có hạnh phúc không?”
“Có chứ, hạnh phúc lắm chứ. Nhiều người chỉ ước có được một phần triệu hạnh phúc và phúc lành của con, nhưng đó vẫn là hạnh phúc thế gian và tâm thức con đã biết đến thứ hạnh phúc khác nên con vẫn bỏ đi.”
“Thầy nói con có nhiều phước, sao con thấy cuộc sống của con vất vả vậy?”
“Chỉ là các bài học mà con phải học thôi. Rồi một ngày nào đó, con sẽ hiểu tất cả khổ con từng có đều có hương vị giải thoát và con sẽ cảm ơn tất cả những gì con trải qua.”
“Trời ơi, tại sao con phải học nhiều như vậy?”
“Nhiều người phụ nữ sung sướng lắm. Họ có chồng con lo cho mọi thứ, họ sống hạnh phúc đơn giản.”
“Chỉ là họ không nói cho con biết thôi. Nếu con biết những người phụ nữ và đàn ông trông có vẻ rất hạnh phúc đã đến kể gì với ta thì con sẽ hiểu, nếu còn trong luân hồi, thì hạnh phúc thực sự không có.”
Còn tôi sau này ngờ ngợ rằng tôi và Sơn bản chất là bạn đạo. Tôi cũng ngờ rằng những chuyện không may đã xảy ra với cả hai chúng tôi đều chỉ là thử thách và duyên để gọi mỗi chúng tôi trở về. Có điều, mỗi người sẽ phải về theo con đường riêng.
Phần 4: Việt Nam - Mùa hè 2012 - Chương 22
Đời rút cục là để làm gì?
Bây giờ phải hỏi một số câu hỏi nghiêm túc đây. Vì sao cần học Phật? Đạo Phật rút cục là cái gì? Giải thoát là gì? Giải thoát khỏi cái gì? Giải thoát xong thì đi đâu? Vì sao cần giải thoát?
Tôi phải hỏi những câu hỏi này để chắc chắn việc mình sẽ trở lại chùa - bởi vì tôi sẽ phải giải thích với bố mẹ và với chính mình tại sao tôi về Việt Nam nhưng không ở nhà mà lại vào chùa sống. Tôi không muốn quyết định về chùa là một quyết định do sợ hãi đưa đẩy - nhất là do sợ một thứ vô hình như “sợ ma”. Tôi cũng không muốn quyết định đó do sự tò mò chuyện ông hoàng bà chúa, ngài nọ ngài kia nhập vào người này người nọ. Tôi lại càng không muốn sự tìm hiểu này là do học nhiều, “rửng mỡ”, “phức tạp”, loạn đầu, hoặc thất tình, ly hôn, bị bỏ bùa mê thuốc lú - như người ta có thể nói. Tức là nếu tôi không “gặp ma” thì tôi có muốn tìm hiểu đạo Phật không? Nếu cuộc đời tôi trôi chảy, suôn sẻ thì tôi có muốn tìm hiểu đạo Phật không? Còn nữa: nếu tôi không phải là “đàn bà” và ở Việt Nam thì tôi có muốn tìm hiểu đạo Phật không, bởi vì đa phần người đến chùa đều là phụ nữ.
Chưa hết. Giờ tôi đã biết đến đạo Phật thì rút cục là tìm cái gì? Tìm một lực lượng để bảo vệ tôi? Tìm một hệ thống luân lý, đạo đức mới mà rút cục cũng chỉ là một thứ hệ thống tham chiếu? Tìm một nghi lễ? Tìm đại câu trả lời cho một câu hỏi quá khó mà tôi không có khả năng trả lời? Hay tìm cái gì? Tôi biết chắc một số người bạn của tôi - đa phần là trí thức, doanh nhân, chính trị gia thành đạt - sẽ không bao giờ thấy có nhu cầu tìm hiểu đạo Phật hay bất cứ “đạo” nào theo cách trải nghiệm chúng, dù rằng họ có thể đọc sách về tôn giáo. Họ chắc sẽ tặc lưỡi ngậm ngùi hoặc cười mỉm khi biết tôi vào chùa sống. Thế thì những người bạn vô cùng tài giỏi, thông minh, thành công đó của tôi và tôi có gì khác nhau, khiến chúng tôi có quyết định khác nhau với sự tìm hiểu này?
Tôi có lúc nào hoài nghi những gì đã thấy ở chùa không? Có chứ. Ngay từ đầu, lúc nào tôi cũng nghi. Từng giây từng phút đều nghi. Tôi nghi tất cả những chuyện Phật, Bồ Tát, ông hoàng, Mẫu, ma quỷ, nhập xuất. Tôi nghi cả thầy Đạo, các sư ông và sư chú - không phải nghi họ lừa tôi mà nghi rằng chính họ có thể cũng đang đi theo những ảo tưởng mà không biết. Sự thật là thời gian đầu đến chùa, đã có lúc tôi nghĩ sẽ bỏ đi không bao giờ quay lại. Nhưng rút cục, tôi vẫn quay lại. Cái làm tôi tiếp tục tìm hiểu đạo Phật chính là ở chỗ tôi thấy bất chấp những chuyện tôi chưa thể lý giải về Phật, Bồ Tát, ông hoàng, Mẫu, ma, nhập xuất, thì việc đọc và tìm hiểu kinh điển khiến tôi thấy mình ngày càng an. Phiền não của tôi bớt đi một cách rõ ràng. Đau khổ bớt đi rõ ràng, không phải bằng sự ru ngủ bản thân và tặc lưỡi mà bằng chính sức công phá sáng sủa của kinh sách tôi đọc đến thời điểm này. Ngay kể cả khi tôi chưa hiểu hoàn toàn, thì tôi cũng nhận thấy có sự khác biệt lớn giữa đạo Phật - với tư cách là một hệ thống những biển chỉ đường để con người thấy sự thật về thế giới và chính mình - với đạo Phật như một hệ thống tôn giáo, tín điều, cùng một rừng nghi lễ mà rất nhiều chùa ở Việt Nam đang tuân thủ. Đạo Phật với nghĩa chân pháp, chứ không phải một tôn giáo.
Cái tôi tìm là cái đầu, chứ không phải cái thứ hai.
Nhưng quay lại với những câu hỏi trên. Để trả lời, tôi thử hỏi tại sao thái tử Tất Đạt Đa bỏ kinh thành ra đi cầu đạo, rồi đắc đạo thành Phật Thích Ca Mâu Ni. Tại sao một người có tất cả lại từ bỏ tất cả để ra đi tìm đạo giải thoát? Bản thân tăng đoàn đầu tiên của Phật cũng đa phần là những người thuộc tầng lớp cao nhất trong xã hội Ấn Độ bấy giờ là tầng lớp Bà-la-môn và quý tộc. Những người trong hoàng thân của thái tử Tất Đạt Đa như ngài A Nan, A-Na-Luật, La Hầu La đều xuất gia theo Phật. Ở Việt Nam sau này, nhiều vua Lý là những Phật tử thuần thành. Vua Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông đều là những thiền sư lỗi lạc. Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn ở chùa từ nhỏ. Một trong những văn hào Việt Nam tôi yêu mến nhất - Nguyễn Trãi - là người thấm nhuần đạo Phật. Tất cả những người tôi kính trọng trên thế giới đều có đạo - theo nghĩa sự sống của họ có hương vị của sự giải thoát, dù đạo mà họ thuận theo có thể có tên gọi khác nhau: đạo Phật, đạo Lão, đạo Thiên Chúa, hay cái gì khác.
Khi ở chùa lần trước, tôi từng nói với thầy rằng đã có tất cả như thái tử Tất Đạt Đa thì bỏ đi là quá dễ. Nếu tôi đã có X, Y, Z... tôi cũng có thể bỏ đi được bởi vì lúc đó chúng không còn quý với tôi nữa. Như khi tôi chưa có bằng tiến sĩ, tôi thấy việc có bằng tiến sĩ là một cái đích đáng mơ ước; nhưng khi có rồi tôi thấy nó bình thường, tôi không quan trọng việc người ta có biết tôi là tiến sĩ, thậm chí thấy rằng không có bằng tiến sĩ cũng chẳng sao. Năm 2010, tôi phỏng vấn anh Ngô Bảo Châu rằng sau khi được hai huy chương vàng Olympic toán quốc tế lúc mới 17, 18 tuổi, anh có cảm thấy áp lực phải giàu có, thành công vượt bậc khi lớn lên hay không, anh Châu cũng nói rằng anh không thấy có áp lực này bởi vì một khi được giải, anh thấy nó cũng bình thường, không thấy nó có gì đặc biệt, không thấy mình có gì đặc biệt nên không thấy mình phải làm gì đặc biệt với cuộc đời mình cả.
Thế thì thái tử Tất Đạt Đa có thể cũng đã thấy sự giàu có của mình là bình thường. Việc được ăn ngon, mặc đẹp, có cung nữ hầu hạ, muốn gì được nấy trở thành một thứ bình thường, thậm chí tầm thường. Cho nên thái tử muốn một thứ lớn hơn mà người ta có thể lãng mạn hóa, mà gọi là cầu đạo giải thoát chăng? Song nó vẫn chỉ là một cái muốn khác, như người nghèo thì muốn có xe Dream, người hơi giàu muốn có Toyota, người rất giàu thì muốn Merdeces, người cực giàu thì muốn có máy bay riêng, mà người đã giàu không đếm được thì quay lại đi bộ hoặc xe đạp. Dù thế nào cũng vẫn là muốn. Thế thì giải thoát đi đâu? Cũng chỉ là thỏa mãn ở tầng kinh nghiệm khác nhau, cái cao cái thấp. Không lúc nào thoát khỏi thân và tâm này. Có cái hữu thể này tồn tại thì phải chăng tất cả chỉ là các định dạng khác nhau của kinh nghiệm hữu thể?
Lúc đó, thầy đã nói với tôi rằng Bồ Tát Hộ Minh, tiền thân của Phật Thích Ca Mâu Ni từ cung trời Đâu Suất sinh xuống làm thái tử Tất Đạt Đa là do phước báo và nguyện lực; chứ không phải tình cờ làm thái tử rồi chán ngán mà bỏ đi. Tức là dù Đức Phật Thích Ca có sinh ra trong một gia đình nghèo khó, bần cùng thì rồi ngài cũng vẫn có thôi thúc tìm sự giải thoát và sẽ từ bỏ gia đình để ra đi. Có điều, với tất cả những công đức đã tích tụ từ các kiếp trước, ngài phải sinh làm thái tử.
Về chuyện phước báo của các kiếp trước thì tôi đã gặp đủ các hạng người trên đời để thấy một chuyện thế này. Có người sinh ra đã thấy làm việc lớn là chuyện đương nhiên - bất chấp xuất thân của họ cao sang hay nghèo hèn. Họ có thể chịu khó, chịu khổ lúc bé hay lúc trẻ mà không bận lòng vì họ luôn biết cái “lớn” của mình, họ thấy thế giới không đáng sợ, người giàu, người có bằng cấp, địa vị không có gì ghê gớm. Còn có người thì chỉ có thể thấy cái trước mắt, tính toán chuyện vụn vặt, vui với thành công nhỏ; kính ngưỡng sự giàu có, danh vọng, thành công, chức tước như những gì xa vời. Họ không thể nào tưởng tượng việc mình là chủ các cuộc chơi lớn mang tầm quốc gia, quốc tế; là người lãnh đạo, mở đường, tạo lập các truyền thống mới. Nghĩa là cái định dạng lúc khởi đầu, tầm cỡ của một người - mà thầy gọi là “nghiệp lực” ở các chúng sinh phàm và “nguyện lực” ở các bậc tái sinh - có thể là cái có thật.
Nhưng hãy quay lại chuyện giải thoát và học Phật của tôi. Tôi còn chưa thật rõ tôi có thể tìm gì ở chùa, tôi cũng còn chưa khẳng định được cốt tủy của đạo Phật là gì nhưng cái thôi thúc tôi đến chùa tìm hiểu không phải do sợ, do khổ, do thất bại. Nghĩ cho kỹ, cái thôi thúc này đã có từ nhỏ, dù tồn tại dưới dạng khác. Tôi đã đọc sách, đã luôn thích học, đã không ngừng tìm hiểu, đã một mình rời gia đình ở Bắc Giang ra Hà Nội học cấp ba, rồi lại một mình rời Hà Nội sang Mỹ học, và giờ quay lại Việt Nam cũng vì cái thôi thúc này. Gọi là cầu đạo giải thoát thì quá to tát; tôi thực tình thấy đời sống này dù khó khăn nhưng ngụp lặn trong những hỉ nộ ái ố của nó cũng đáng lắm. Có điều tôi không muốn ngụp lặn như một người mù quờ quạng. Tôi không muốn đi theo một cuộc chơi tôi không biết luật. Tôi muốn biết sự thật về thế giới và cuộc sống. Có sự thật thì có tự do. Có tự do thì dễ có hạnh phúc hơn. Tôi từng cho rằng khoa học sẽ mang lại sự thật và tự do đó; và tôi từng nhầm rằng học lên cao - mà bằng tiến sĩ là cao nhất về mặt học vị - thì tôi có thể tìm thấy sự thật và tự do đó.
Nhưng hình như không phải. Dù tôi có một hay mười bằng tiến sĩ thì với tình trạng hiện tại, tôi vẫn không có tự do với những trạng thái tình cảm đơn giản nhất của mình như yêu, ghét, giận, sợ. Đa phần những người có bằng tiến sĩ mà tôi từng gặp, dù ở Việt Nam hay Mỹ, cũng thế. Đại gia mà tôi biết cũng thế. Bộ trưởng, thứ trưởng, đại sứ, thống đốc bang tôi biết cũng thế. Mỹ nhân, kiều nữ, danh ca, danh họa, đại trí thức cũng thế. Tất cả vẫn loay hoay trong thân và tâm này. Người thì chối bỏ bên ngoài để tù đọng, đắm chìm bên trong. Người thì chối bỏ bên trong để điên đảo theo bên ngoài.
Vào lúc này, tôi lờ mờ cảm giác rằng về chùa tìm hiểu đạo Phật có thể đưa tôi ra khỏi sự loay hoay. Đằng sau rừng nghi lễ và tín điều đang được thực hành ở các chùa chiền Việt Nam có thể có vàng ròng. Có sự thật. Có tự do và cách để đi đến tự do.
Có Phật thực sự - như một người giải thoát, ngay tại đây, chứ không phải một đấng ban phát.
Tôi có thể sai nhưng tôi chấp nhận khả năng sai còn hơn ngồi im không đi tìm. Đời thì rút cục để làm gì nếu không kinh nghiệm nó theo cách có ý nghĩa nhất?
Chương 23
Trở lại chùa lần hai
Ngày đầu tiên trở lại chùa, tôi không gặp thầy. Chùa vắng. Ở bàn nước, một chú tiểu lạ đang ngồi với mấy đứa trẻ. Tôi xá chú rồi lên Tam Bảo. Sư chú Đạo Ngũ đang quét dọn trên đó.
“A Di Đà Phật, chào cô giáo” - chú Đạo Ngũ chắp tay chào tôi, miệng cười rất tươi - “Quý hóa quá, cô giáo ở Mỹ lại về thăm ngôi chùa nhỏ bé của chúng tôi.”
Tôi bật cười, chắp tay cúi thấp đầu để kính lễ chú Đạo Ngũ. Chỉ nhìn thấy chú Ngũ trong bộ quần áo nâu, tay cầm phất trần quét ban thờ Phật mà lòng tôi đã hân hoan lạ lùng. Sau chín tháng, chú Ngũ cao hẳn lên, giọng vỡ ồm ồm, cử chỉ đĩnh đạc. Chùa cũng nhiều thay đổi. Nhà sàn gỗ mà năm ngoái tôi ở thì được xây tường quanh tầng một thành “Dưỡng tâm đường” để làm chỗ cho chư tăng thụ trai và niệm Phật; tầng hai giờ thành phòng trưng bày cổ vật. Khu nhà mà chú Đạo Ngũ và trẻ con ở lúc trước thành tăng phòng cho sư ông Đạo Nhất với các chú tiểu. Nhà bếp đã được xây mới ở chỗ trước đây là cái sân trông ra ao. Ao đã được lấp. Đằng trước nhà tăng, thầy cũng cho lợp mái tôn thành khu tiếp Phật tử. Nhà vệ sinh mới đang được xây - tầng trên cho tăng, tầng dưới cho Phật tử - để thay khu vệ sinh tối tăm năm ngoái. Tất cả tranh tường và tượng còn dang dở lúc tôi rời chùa lần trước đều đã hoàn thành và được quây rèm vàng, chỉ khi nào có lễ quan trọng mới mở rèm ra.
Bọn trẻ năm ngoái đã được gia đình xin về nhà, chỉ còn Hùng vẫn ở chùa đi học. Sư ông Đạo Nhất và chú Đạo Nhị cũng đang đi hạ. Chú tiểu lạ mà tôi thấy ngồi ở bàn nước là Đạo Tam, mới xuất gia với thầy. Chùa còn có một chú tiểu mới nữa - Đạo Tứ - chính là Huy của mùa hè năm trước. Huy đã cạo đầu, quần áo nâu. Tôi chắp tay xá chú:
“A Di Đà Phật, chú Huy, à quên, sư chú Đạo Tứ xuống tóc bao giờ thế ạ?”
Chú Đạo Tứ chắp tay xá lại tôi, cười:
“Dạ, mô Phật, đến lúc đủ duyên thì đi tu thôi mà cô.”
Sư chú Đạo Tứ ăn nói đi đứng chững chạc lắm, không giống Huy nhút nhát năm ngoái chút nào. Năm ngoái, chú thường gọi tôi là “cô giáo” xưng “con” hoặc “cô giáo” xưng “em”; chú lại hay bẽn lẽn, lân la rửa bát cùng chú Đạo Ngũ hoặc bọn trẻ. Năm nay thì chú đã rất đàng hoàng gọi tôi là “cô”, xưng “tôi”, lại còn sai bảo cả chú Đạo Ngũ nữa. Tôi nghĩ đến đó cứ tủm tỉm cười.
Buổi trưa, tôi gặp lại Huân hầu đồng năm ngoái. Huân vào chùa cùng hai người bạn, đều là dân làm ăn; một người từng đi làm ở Hàn Quốc về. Huân bảo:
“Chị ơi, giờ có cách gì cho em đi Mỹ chị nhỉ? Giờ đi khỏi Việt Nam được thì tốt.”
Hóa ra Huân và bạn kinh doanh bất động sản thua lỗ, phải bán hết đất mà vẫn nợ đầm đìa.
“Giờ em sợ rồi, biết là mình lúc trước ăn xổi. Mấy năm trước nhà lầu xe hơi là chuyện quá bình thường, tiền nó nhiều, giờ mất hết, nhiều khi em vẫn cứ nghĩ đến lúc mình đang có... tối vẫn cứ ngủ mơ lúc mình nhiều tiền, xe cộ, nhà cửa như nước chị ạ.”
“Tiếc hả?”
“Tiếc chứ chị, mất sạch. Nhiều lúc cứ nhớ khi mình có chục tỷ, trăm tỷ như không... lại tiếc. Đấy là chị em mình ngồi trong chùa, em nói thật với chị vậy, chứ giờ mà ngồi ngoài quán bia với đối tác thì khác ngay, lại vẫn phải thế này thế kia, như là mình có nhiều lắm, mình còn đầy, sợ quái gì.”
“Mẹ, lúc mình không có gì thì không sao” - anh bạn nói - “cơm rau cũng được. Đến lúc có rồi, giờ nó khó chấp nhận mình không có gì, tay trắng.”
“Mình đúng là ăn xổi... Hôm qua em đi đền Đô, mua được quyển sách Tôi là ai, giờ em đang tự hỏi tôi là ai.”
“Hỏi được như vậy là tốt rồi” - tôi nói.
“Mình vấp mình phải đứng lên chứ chị, mình phải nghĩ chứ.”
“Nhưng anh em mình cũng chỉ là tép riu thôi” - bạn Huân nói - “nhiều thằng nó mất còn kinh hơn; mấy năm trước nhà lầu xe hơi công nhận quá đơn giản, giờ thằng nào mang tiền đi mua xe mới là thằng có tiền thật này, còn lại thì toàn là xe nợ đấy.”
“Ờ, giờ này chết gần hết rồi, một phần ba doanh nghiệp phá sản. Giờ đứa nào làm bên bất động sản với chứng khoán mà còn sống thì phải có chống lưng hết, nó cấu véo, đập chỗ nọ chỗ kia để qua thôi, chứ còn chết hết. Anh em mình chả có ai chống lưng thì chết là đúng rồi.”
“Đúng là bả tiền bạc. Không có thì muốn có, có ít thì muốn có nhiều, có nhiều thì sợ mất, mất thì sợ nhục.”
Buổi trưa trời oi, không gió. Đài báo chiều sẽ giông. Mọi người thiu thiu đi tìm chỗ ngủ. Chú Đạo Tứ mang giường gấp vào phòng máy tính ở tầng một nhà sàn, bảo tôi vào đó nghỉ trưa. Trong đó rất nhiều thư tịch cổ bằng chữ Nôm. Những cuốn sách giấy dó đã ngả vàng, gáy được đóng bằng dây đay, đầy mùi cũ kỹ. Chú Tứ lấy phất trần quét những đám mọt gỗ trên bàn máy tính, điệu bộ thong thả như một người tu hành lâu năm. Chú lại lấy quạt, lấy gối cho tôi; nửa như với “cô giáo” mà năm ngoái chú còn xưng “em”, nửa đã như một thầy tăng chăm sóc Phật tử chân ướt chân ráo đến chùa. Tôi vẫn chưa hết ngỡ ngàng với con người mới này.
“Như thế nào mà chú Tứ lại xuống tóc?” - tôi hỏi.
Thế là chú Đạo Tứ ngồi ngang cửa kể chuyện tôi nghe suốt buổi trưa.
Chương 24
Chuyện chú đạo tứ
Vâng, mô Phật, cái nhân duyên mà sư chú biết đến Phật pháp cũng là do cái nhân duyên đi học cao đẳng. Lúc ở nhà thì cũng có biết gì chùa chiền đâu. Lúc ra ngoài này đi học thì mẹ sư chú mới cho chú vào ở nhờ chùa ngoài Khâm Thiên vì sư cụ của chùa đó là họ hàng bên ngoại nhà chú. Mới đầu ở chùa thì cũng ngây ngô lắm! Hằng ngày thì sư chú cũng chỉ phát tâm là, thôi thì chấp tác công việc. Tức là sáng dậy 5 rưỡi, 6 giờ. Từ việc rửa bát, bê cơm, quét sân, quét sướng, bao sái, xách nước, rồi là khuân củi, vác củi, tất cả những cái việc đấy chú đều làm! À nhưng có một cái nguyện rất chi là chuyên cần, rất chi là thích, đó là bao sái tượng Phật. Cứ hôm nay thì Tam Bảo, mai nhà tổ, nhà Mẫu, sau đó lại đảo lại. Ngày nào cũng như thế và cảm thấy cuộc sống nó rất chi là có ý nghĩa! Nhưng đặc biệt là lại không bao giờ muốn lên chùa tụng kinh. Ấy, nó lại thế chứ lị. Không lên tụng kinh một thời khóa nào và cũng không đọc một cuốn kinh nào.
Thế rồi một hôm sư già mua cho chú một quyển là Làm chủ vận mệnh của Liễu Phàm tiên sinh. Tại sao sư già lại mua quyển đấy? Bởi vì hôm trước chú nói với sư già rằng chú tin ai cũng có số mệnh rồi, chẳng làm gì thay đổi được. Vì sao lại nói thế? Là bởi vì trong cái việc học hành thì sư chú cảm thấy là mình học suốt từ năm cấp một, đến cấp hai, cấp ba, tất cả nó đều ở cái mức trung bình. Tức là không thể giỏi được mà nó không phải là yếu. Thi đại học cũng vậy. Điểm của mình không phải vào trung cấp, mà đại học thì lại chưa được. Chỉ là cao đẳng! Đấy, có những cái nhân duyên như thế thì mình nghĩ rằng là, à trăm đường tránh không tránh khỏi số! Khi mà sư già nghe chú có cái ý niệm như vậy thì sư già mới nói rằng số mệnh là do mình chuyển được. Đâm ra sư già mới mua cho sư chú một quyển Làm chủ vận mệnh. Trong quyển đó, sau khi mà chú đọc thì mới thấy rằng là, cái vị Liễu Phàm này sau khi hành được cái pháp thiện, tức là làm nhiều việc thiện, thì ông ấy chuyển đổi được vận mệnh của ông í, cho nên ông ý mới viết lại sách để dạy cho con trai.
Đó, thế sau khi mà biết cái pháp thiện thì chú chấp vào đó. Tất cả các cái việc ác, tất cả việc làm hại người, hại vật, tất cả là sư chú không làm nữa. Và tất cả những cái sự gọi là lanh lợi, các cái thủ đoạn mánh khóe thì chú bỏ. Sư chú rất chi là năng nổ chấp tác công việc chùa chiền. Bởi vì mình chấp vào phúc mà. Mình biết rằng nhờ việc chấp tác mà mai này mình có phúc đức, mình có công việc tốt, đường công danh nó mở, nó sáng hơn.
Thế thì nhờ bám trụ được cái pháp thiện đó mà bắt đầu an lạc nó đến. Lúc đấy chú lại học thỉnh chuông hằng ngày. Sư già nói là khi tiếng chuông vang lên thì chúng sinh được ra khỏi địa ngục. Thế chú mới nghĩ rằng mình thỉnh chuông phải thỉnh đúng giờ và mình thỉnh dài thêm ra... để chúng sinh có thêm thời gian ra khỏi địa ngục. Đó, mình bắt đầu có cái lòng từ mẫn. Lòng từ bi của mình nó bắt đầu trở về.
Sau khi thực hành cái pháp thiện một thời gian thì sư chú mới quán chiếu là, ôi, tất cả các việc ở thế gian này đều có thể chuyển được nhờ phúc. Mà mình đang tạo phúc, vậy thì mình sợ cái gì? Mình chả sợ gì nữa cả. Tâm lúc đấy nó rất an, nó không còn sợ tương lai hay cái gì đến! Bởi vì tâm mình đã có Phật, luôn luôn nhớ Phật, nghĩ Phật, luôn luôn cầu Phật gia hộ. Đâm ra lúc nào nó cũng an.
Thế học hết năm một thì... thật ra ở đấy là chùa ni, mình là con trai, đâm ra cũng có cái không tiện. Thế chú mới bạch với sư già; sư già mới giới thiệu xuống chùa này. Cái hôm sư già đưa xuống thì cô cũng biết đấy.
Ở trên kia thật ra chú không phải dậy sớm đâu, khoảng 5 rưỡi, 6 giờ dậy rồi quét dọn thôi. Thế mà xuống đây thì hôm trước xuống, hôm sau thầy bảo lên chùa từ 4 giờ sáng. Lúc đó chú không vui một tí nào. Trong khoảng một tuần đầu, mình cảm thấy vô cùng phiền não! Rất phiền não, cô ạ! Bởi vì là 4 giờ dậy tụng kinh nó tỉnh táo thì không sao. Nhưng mà đến khi nó buồn ngủ lại thì rất mệt. Mà mình vì cái tự giác tự trọng nên mình không dám vào phòng nằm. Mình vẫn ở ngoài làm việc, thì cái thần kinh nó căng ra, nó mệt mỏi. Chú mới nghĩ đây mới có một ngày, vậy thì hằng năm, hằng tháng mình chịu làm sao được? Nghĩ như thế, nhiều lúc chú cảm thấy muốn bỏ cuộc! Nhưng nghĩ đi nghĩ lại, thôi thì cái môi trường chùa chiền nó là môi trường tốt, để mình còn có thể tu phúc, tích phúc. Bên ngoài nó còn nhiều cái bon chen, những cái gian ngoan. Nghĩ như vậy nên mình cố gắng trụ lại. Thế thì được một tuần, sau bắt đầu nó quen dần.
Thế chú đến ba, bốn hôm thôi thì tại nhà Mẫu có ông Hoàng Mười và các tổ hiển linh. Được gặp các ngài thì hoan hỉ lắm! Thích lắm! Rất chi là hoan hỉ! Bởi vì sao ạ? Bởi các thánh tượng mà hằng ngày mình chiêm bái bao sái kia, giờ các ngài ngồi đây bằng xương bằng thịt cho mình được dạy bảo, chiêm lễ. Thực sự là một cái điều phúc đức mà nhiều khi sư chú cảm nhận là, không biết có nhân gì mà một cái thằng sinh viên quèn như mình lại được có cái duyên như vậy.
Đấy, thế rồi lại bắt đầu được thầy giảng pháp nữa. Trước có bao giờ học Phật pháp gì đâu. Bắt đầu thầy giảng những cái bài pháp mà nó thực tế, thầy giảng rõ ràng là, à trên thì có bao nhiêu tầng trời, dưới thì có bao nhiêu tầng địa ngục, và mình đang sống ở tầng thứ bao nhiêu? À thế sư chú mới nghĩ rằng, pháp Phật mà phân tách một cách rõ ràng thì không có gì mông lung cả. Sư chú bắt đầu liễu ngộ được là sau khi mình chết đi thì không phải là hết. Chỉ bỏ cái báo thân, cái thân xác này đi, ở trong cái cảnh giới vô hình. Từ cái đấy bắt đầu mình có một niềm vui. Mình không còn sợ cái chết nữa. Ấy thế là bắt đầu mình mới được mở mang cái ánh sáng đạo pháp.
Thì mình mới hiểu rằng, người ta đi tu để làm gì? Thứ nhất là thấp thì cũng được lên cõi trời. Hơn nữa thì được trở thành những bậc tổ sư. Để làm gì ạ? Để du hóa. Bởi trong những câu chuyện tâm linh thì có rất nhiều bậc tổ sư du hóa để cứu nhân độ thế. Mình lại rất chi là thích cái việc đó. Bảo, à một đời sống của mình cũng chẳng đáng gì, nhưng sau khi mình tu hành, trở thành những bậc tổ sư, thì mình có thể cứu được người này, cứu được người kia; lại có được những cái thần lực vi diệu, à thế nên là thích lắm! Nhưng mà lúc đấy chỉ phát nguyện là thôi kiếp này, xét đi xét lại, thấy cái nhân duyên của mình nó khó quá. Một là mình là con lớn trong nhà, hai là nhà chỉ có mỗi mình học được, mà nhà chả ai biết đến Phật. Vậy thì mình đi tu nó quá khó! Thôi kiếp này mình chưa đủ duyên thì kiếp sau vậy. Đấy, phát nguyện kiếp sau tu hành cơ. Lại thế chứ lị!
Thế rồi một lần, có một cụ tổ lên thì cụ nói rằng cháu này có căn cơ tu hành đấy. Mình nghe như thế nhưng mình vẫn chưa vui được bởi vì là chướng ngại của mình quá nhiều. Nhưng mà lúc đấy sư chú cũng nghĩ, mình có nhân duyên gặp thầy, đây là chính pháp rồi, còn phải tìm ở đâu nữa? Đó, thế sư chú bắt đầu phát tâm là, nếu như xuất gia thì chỉ xuất gia ở chùa này, không ở chùa nào. Và sư chú phát một cái nguyện là, nếu như không phải thầy, thì sư chú không xuất gia. Bởi vì sao ạ? Bởi vì chính thầy là cái người làm gì ạ? Là người khai đạo cho mình, để mình biết đến cái ánh sáng của Phật pháp! Trước đấy sư chú cũng đã sống ở chùa rồi, nhưng mình không nhìn thấy cái ánh sáng của đạo!
Càng ngày, sư chú càng quán chiếu rằng là, ô, kiếp này mình đã gặp nhân duyên hi hữu như vậy, mình không tu, mình nguyện đến kiếp sau thì biết kiếp sau có được duyên lành này hay không? Nghĩ cho thấu đáo thì tất cả cuộc sống, nào là nhà lầu xe hơi tiền bạc, cuối cùng chết không mang được gì! Lúc đấy người ta chỉ có mang cái gì ạ? Công đức và cái tâm thức của mình. Vậy thì nếu như bây giờ mình không tu, không tạo công đức, thì lấy đâu ra lúc đấy mình có? Hai nữa là nhìn thấy cái con đường giải thoát, cái ánh sáng của đạo pháp. Đó. Sư chú nghĩ như thế nên sư chú phát nguyện, phải tu hành, nhất quyết phải tu.
Quyết định xuất gia một cái thì sư chú quyết định phải về quê ăn Tết bởi vì đó là cái Tết cuối cùng, cũng là để thông báo cho mọi người dần dần vì lúc đấy vẫn đang đi học. Mà cô phải biết là học kỳ I vẫn bình thường, mà học kỳ II đã cạo tóc. Thế chứ lị!
Thế thì 29 Tết sư chú về ăn Tết. Bố mẹ mừng lắm! Hôm đấy về trời mưa. Lúc đấy sư chú đã phát nguyện xuất gia rồi đấy! Đã quyết định ăn Tết xong là cạo đầu. Về đến nhà thì sư chú vẫn bình thường, không để lộ cho ai biết ý định xuất gia cả! Trong ba ngày Tết mình không muốn làm mọi người buồn vì cái tin đó với mọi người là cái tin buồn chứ không phải tin vui. Thế nhưng một ông chú ông í lại đoán được, thì chú í nói với mẹ sư chú. Mẹ sư chú khóc lóc, nhưng mà sư chú vẫn bình thường. Tết nhất sư chú vẫn đi xem giao thừa, vẫn bạn bè đàn đúm, vẫn ngồi quán nước, vẫn xem bắn pháo hoa.
Thế sau khi ăn Tết xong, mùng một sư chú đi lễ Tết tất cả mọi người, mùng hai sư chú đi chơi hết bạn bè. Nói chung hôm đấy là xả ga, uống bia uống rượu vui vẻ hết hôm mùng hai. Định chiều mùng hai sư chú lên đường học đạo, thế nhưng bố sư chú lại say rượu. Sư chú mới nán lại một đêm. Sáng hôm sau, 3 giờ sáng thì sư chú tỉnh lại. Dậy thì cái việc xuất gia nó thôi thúc. Sư chú quyết định bỏ đi.
Thì bắt đầu len lén khóa cửa khóa cổng. Đi. Đi thì cô biết làm sao không? Chướng ngại là nó quên ví ở nhà! Mà khổ muốn đi xe thì lại phải có tiền. Ba giờ sáng, trong tay có mỗi cái điện thoại, về bây giờ thì lộ, cửa thì làm sao mà mở được? Thế là chú đi bộ ba cây số lên bến xe. Ngồi đấy mà lo vì từ nhà lên bến có ba cây thôi, nếu mà đuổi thì rất chi là nhanh. Đến lúc ngồi trên xe nó bắt đầu nổ máy rồi thì lại lo không có tiền. Thế chứ lị, khổ!
Thì may quá! Trên xe đấy có một cái đôi vợ chồng người ta về Thanh Hóa sớm. Thế sư chú mới bảo thôi chị ơi, bây giờ em là sinh viên xuống nhận trường sớm nhưng mà quên mất tiền, giờ chị cầm cố cho cái điện thoại năm chục. Lấy năm chục thôi nhớ! Thế người ta thương tình bảo là, thôi sao Tết rồi mà vẫn còn lại... khổ quá! Thôi cầm cố điện thoại thì cho một trăm. Lúc ấy cầm tiền mới yên lòng. Về đến chùa, chú lên cúng Phật cúng tổ và lễ thầy, cảm thấy vui vô cùng. Thầy cũng hoan hỉ.
Thế ra chùa một cái và quyết xuất gia rồi thì thầy bảo ngày mùng chín sẽ cạo tóc. Cạo tóc xong thì mùng mười đi học. Đi học thì chú mặc bộ quần áo nâu đến, đầu thì đầu trọc, rất chi là ngại! Ai cũng xì xèo bàn tán, cả lớp thì ôi sư sư! Hôm đầu tiên nó ngại, hôm thứ hai bắt đầu quen dần.
Thế học được hôm mùng mười, xong hôm mười một là bố mẹ sư chú ra trường. Bởi vì trường người ta thấy cái nhân duyên như thế thì họ mới đánh giấy về. Chả biết đánh giấy thật không nhưng bố mẹ sư chú bảo thế. Đánh giấy về thì bố mẹ mới biết. Biết thì mới đánh xe ra, bắt về. Lúc đấy đang học tiết kiến trúc, hai ông cậu lên lớp xách nách luôn, bảo đi xuống kia, vào ô tô nói chuyện. Vào ô tô một cái là giữ luôn. Bố mẹ sư chú vào làm thủ tục bảo lưu, xong đưa về nhà. Về thì giam lỏng. Điện thoại thì bị thu, đi đâu cũng bị giám sát.
Lúc đó thì... nó phiền não lắm cô! Ôi giời, bao nhiêu người đến, ngày nào cũng như ong bò vẽ, hết khuyên lại giải, mệt lắm cô ạ! Mình đi nằm thì họ cũng lại lên giường nằm, lại khuyên, lại giải, không ngủ được! Cứ như ong bò vẽ bên tai suốt ngày. Rồi là bố mẹ, cô dì chú bác, bà nội bà ngoại phân tích... Mình thì mình hiểu hết rồi, biết hết rồi! Chả có cái gì để nói, mà có nói họ thì họ vẫn chưa hiểu. Thế đâm ra chả có gì để nói cả. Họ đem cái gương vị này, vị kia phá giới. Rồi lại bảo thôi, mai lấy cho nó con vợ. Mai đi hỏi vợ cho nó, rồi là mai gì gì đấy, nó thiếu tiền thì mua cho nó hẳn cái xe đẹp, rồi mua cái này cái kia. Mình thì không phải vì những cái đó mà đi tu nên chả có gì để nói với họ cả! Đâm ra chỉ ngồi im. Mà ngồi im cũng không được. Khổ, nói suốt ngày!
Thế rồi ở nhà lại bắt ăn thịt uống rượu chứ. Mình không ăn thì cứ gắp vào bát! Thôi thì mình cũng phải phương tiện để còn tìm lối thoát. Thế là sư chú ăn thịt, uống bia uống rượu. Để đánh lừa họ mà, buồn cười lắm! Thế họ lại tưởng người xuất gia không được ăn thịt. Bố sư chú bảo, a, phá giới rồi, phá giới rồi! Mình thì cứ cười thầm trong bụng, mình biết là thời cơ sắp đến rồi.
Thế lúc ở nhà thì sư chú hay ngồi trên gác xép dạy em chú học. Hôm đấy thì mẹ sư chú đang nhắn tin với sư già ở ngoài Hà Nội. Sư chú mới để ý là, à bà đang nhắn tin, không để ý đến cái cầu thang nữa. Thế bắt đầu sư chú mới giả vờ quát thằng em, học đi, bài này bài kia, thế này thế nọ! Ý là để cho nghe thấy mình vẫn ở trên đấy, để cho yên tâm. Còn sư chú lẻn lên cầu thang. Lúc đấy bố sư chú đang tắm ở dưới nhà. Thế sư chú mới lẻn lên cầu thang, đi qua cái cửa tum, rồi trèo qua lan can. Lúc đấy sư chú dạy em học nhưng bằng cấp, hồ sơ, tất cả là đã cho vào một cái túi rồi. Thế chú bước qua cái mái tôn, xong nhảy huỵch xuống đất, ra bên ngoài.
Xuống đất cái là chạy. Hồ sơ thì đút ở trong bụng.
Vừa chạy vừa con nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, con nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát. Chạy hơn một cây thì lên đến quốc lộ 1A. Sư chú đã ngắm trước ở đoạn đấy hay có xe ôm rồi. Thế mà lúc lên thì chẳng có thằng nào! Không thấy một bóng xe ôm. Thế mới chết chứ lị!
Thế bắt đầu chạy ra giữa đường quốc lộ thì thấy một cái taxi nó trả khách về đấy. Thế gọi, taxi, taxi. Bảo đi đâu hả anh? Bảo anh xuống Bắc Ninh. Vội lắm, vội lắm, rất vội! Mình nhảy vào xe, giục nó. Nó cuống lên, nó phóng một phát chỉ độ mười lăm, hai mươi phút thôi là sang thành phố Bắc Ninh. Đến cái bến xe ở cầu 18, lúc đấy thì tối, nó lại hết xe khách ra Hà Nội rồi cô ạ!
Thế tiền Tết thì sư chú được hơn triệu mừng tuổi, sư chú còn giữ 500. Nhìn cái đồng hồ taxi thì nó đến 250 nghìn rồi. Mới bảo thôi, xuống xuống. Bảo thôi còn mỗi 200 thôi, cầm tạm. Thế nó cũng hoan hỉ nó cầm. Ở đấy thì chỉ có xe ôm, nó hỏi anh đi đâu? Chú bảo bây giờ định vào trong bến xe ngủ thôi, chứ giờ này còn xe đi đâu? Bảo có xe đi Cẩm Phả. Thế là chú nhờ xe ôm chở ra chỗ bắt xe. Có 15 nghìn thôi, nhưng mà lúc đấy vui quá, cho hẳn 20 nghìn. Bởi vì là tìm được lối thoát rồi.
Đứng độ năm phút thì xe đêm đi Cẩm Phả - Móng Cái nó đến. Lên giường nằm rồi lúc đấy mới bắt đầu yên tâm phần nào. Cứ nằm trên đấy niệm Phật. Cứ niệm, cứ niệm. Niệm niệm mà nó yên ả đến cái mức quên cả đưa tiền xe! Lơ xe hỏi đi đâu, chú bảo xuống Yên Tử. Thế là ở trên xe, chạy một phát xuống tận chùa Yên Tử.
Xuống Yên Tử, đưa tiền xe, mất một trăm. Thế còn hai trăm thôi. Lúc đấy sư chú lại tưởng chùa Yên Tử ở ngay cạnh, chứ không nghĩ là phải đi vào tận mười cây nữa.
Cạnh đấy nó là chùa Trình thôi. Thế khi sư chú vào chùa Trình thì 11 rưỡi đêm rồi. Chú mới nghĩ là, thôi, vào ngủ gác chuông gác trống vì lúc sư chú bỏ đi thì xác định là mình không thể đường đường chính chính nữa rồi. Mình đến đâu ở cũng sẽ chướng ngại cho các vị tu hành, bởi vì là mình không được sự đồng ý của bố mẹ, người ta không thể giữ được mình.
Lúc đấy chú nghĩ là, bây giờ sẽ đi lang thang, tức là đi bụi đấy ạ! Nhưng mà bởi vì mình xuất gia rồi nên là mình sẽ giữ giới đàng hoàng, khi nào đủ nhân duyên thì mình về nhập đạo tu hành. Còn bây giờ thì có thể rửa bát, bưng bê, tất cả mình đều có thể làm để sống qua ngày mà nuôi chí xuất gia. Đấy, lúc đấy cái chí nó mạnh lắm cô ạ. Bởi vì mình đã biết được cái sứ mệnh của mình, mình biết tất cả những cái vọng tưởng của mình về đời sống thế gian đều không đúng. Cái việc chính của mình là xuất gia.
Đó, cái tín tâm nó lớn nên đâm ra nó phá đi tất cả các cái chướng ngại, dù có phải ăn hang ở lỗ, rồi nằm mưa nằm lạnh thì vẫn không thể phai được. Chí nguyện nó lớn như thế, mạnh như thế! Thế vào chùa Trình thì may sao chùa lại sắp đến hội. Thì mười lăm là hội chùa Yên Tử nên bắt đầu mười ba, mười bốn là đón khách rồi. Thế chú vào thì may sao nhà chùa vẫn mở cửa, điện vẫn bật. Chú mới lần lần vào chỗ ánh điện đấy thì gặp một vị Phật tử, người ta sinh viên thôi nhưng mà đang chấp tác giúp chùa ngày hội. Thế sư chú bảo, chú ơi bây giờ nhờ chú vào bạch với thầy trụ trì giúp là... vì mình ở chùa nên mình biết là chùa phải có những cái phép tắc bạch đó... bảo bạch với thầy trụ trì là con đi hành hương về Yên Tử nhưng mà muộn quá rồi, cho con xin trú nhờ.
Thế thầy trụ trì ra. Sư chú nói, bạch thượng tọa, con đi hành hương đến đây tối rồi, xin thượng tọa cho con được nghỉ một đêm ở đây. Vị ấy mới bảo, thế đã ở chùa chưa mà bạch biếc rõ ràng thế con? Bảo, con cũng có nhân duyên chấp tác ở chùa thôi. Vì chú không muốn lộ mà. Mình là người xuất gia, đi đâu ở qua đêm nó phức tạp lắm! Mình là cái Phật tử thì nó đơn giản, qua đêm thì đi, nó không ảnh hưởng gì cả. Thế cái vị đấy hỏi, thế có đi tu không con? Hỏi sư chú thế thì sư chú cũng tủm tỉm cười thôi. Lúc đấy chú mặc quần áo bình thường, đầu lại đội mũ len nên cũng không lộ. Thế thì họ mới chỉ cho sư chú lên một cái nhà sàn, giống cái nhà này này, nhưng mà phân phòng ra. Có chăn ấm đệm êm, ôi giời, ngủ một giấc mê mệt. Thích quá!
Thế ngủ mê mệt sáng mới dậy, cũng chả biết là mấy giờ. Điện thoại không có, có mỗi 200 nghìn trong túi. Giờ không biết đi đâu? Về Hà Nội thì không được bởi vì bây giờ bố mẹ sẽ đi tìm, sẽ ra chùa rình mò. Thì y như rằng, phái anh em chị em rình ở cổng! Mười hai giờ đêm vẫn rình ở cổng chùa mình để xem có chui về không. May!
Thế sư chú bắt đầu hành hương Yên Tử, ăn đâu ngủ đấy, nằm đâu ngủ đấy. Cứ thế đi bộ vì nghĩ đi xe vào đấy hết tiền thì làm gì còn tiền ăn. Thế cứ đi bộ, xong may quá lại thấy một cái xe buýt. Đi xe buýt vào đấy 15 cây chỉ hết 15 nghìn, thế là đi vào. Mà cô biết không, sáng chỉ có mua một chai nước chanh Lemon thôi. Không ăn uống gì cả, hành hương một mạch, từ sáng đến 12 giờ trưa thì lên đến đỉnh Yên Tử. Không biết mệt mỏi! Lúc đấy cái chí nguyện xuất gia cũng như là sự cầu đạo nó thôi thúc. Việc mình lên lễ Phật nó thôi thúc, nên không biết mệt mỏi, nó cứ băng băng, cứ bước. Cứ bước, cứ bước thôi.
Đến 12 giờ trưa lên đến đỉnh chùa Đồng. Đầu thì là đầu một chú sư, có đội mũ, bụng thì ôm một bộ hồ sơ. Mình đi rất chi là lẳng lặng, lên đấy lễ Phật. Chẳng có đồng nào mà chỉ mang cái tâm thành kính lễ thôi. Thế sau khi lễ Phật xong thì xuống. Cô biết không, lúc đấy bắt đầu nó đói. Tìm cái gì rẻ mà vừa đỡ khát, vừa ăn được đây? Là củ đậu! Củ đậu nó có năm nghìn một túi thôi. Thế bắt đầu là mới mua củ đậu. Ăn củ đậu xong bắt đầu nó mới đỡ. Thế là từ đấy xuống chỉ ăn củ đậu thôi.
Hành hương từ trên đỉnh xuống là 5 giờ chiều rồi. May sao ra đấy vẫn còn xe buýt. Ngồi xe buýt ra ngoài quốc lộ, đường 18 đấy, đi xuống Cẩm Phả Móng Cái thì gặp ngay cái xe chợ. Lên xe, đến 9 rưỡi thì về được đến Gia Lâm, nhảy xe 22 về Hà Đông, về đến Hà Đông còn mỗi 12 nghìn. Thế mới bảo chú xe ôm là bây giờ tôi có đi, nhưng chú cho tôi mượn điện thoại, tôi điện đã. Thế mới điện về cho thầy, vì số của thầy thì chú đã nhớ rồi mà. Chú điện cho thầy. Thầy bảo về chùa đi con. Sư chú đi xe ôm về thì thầy ra mở cổng, giả tiền. Thầy giả tiền xe ôm xong rồi vào chùa. Về đến chùa là yên ổn rồi.
Về đây xong, thầy cho sư chú vào chùa trong luôn. Ở đó tụng kinh, lễ Phật, hành sám, hành trì, hương hỏa, để cho nghiệp chướng tiêu tan rồi hồi hướng công đức cho bố mẹ, để bố mẹ chuyển tâm. Ba tháng giời một mình trong đấy!
Trong lúc đấy thì bố mẹ sư chú vẫn ra ngoài này tìm. Tìm ngoài này không có thì bắt đầu tìm nơi khác. Mà không dám hỏi thầy! Bởi vì đâu có liên quan đến thầy! Sư chú đi là từ nhà đi, chứ không phải từ chùa đi nên thầy chả liên quan gì cả! Đấy sư chú không muốn về chùa là bởi vì không muốn liên quan đến thầy. Thế ba tháng ở trong kia, mình tụng kinh lễ Phật để cho nghiệp chướng nó tiêu trừ đi. Sau ba tháng là xong được bảy bộ Lương Hoàng. Hằng ngày sư chú lại lễ vạn Phật nữa. Sau khi lễ được trọn một vạn Đức Phật, bảy bộ Lương Hoàng, hai thời Thủy Sám nữa, thì sư chú mới điện về nhà.
Điện về thì quả nhiên là ứng nghiệm. Bố mẹ sư chú lại thông. Bởi vì sao? Bởi vì là có một vị ở trong miền Nam người ta rất chi là hiểu đạo, người ta ra chơi. Thế thì cái vị đó khuyên giải bố mẹ chú rằng tu hành là cái việc phúc đức. Thế rồi trong ba tháng sư chú ở chùa trong hành sám thì bố sư chú nhận năm, sáu công trình mới. Tức là làm việc bù đầu, không còn tâm trí đâu để nghĩ đến việc của chú nữa. Thế khi chú điện về thì bố chú bảo, thôi bây giờ bố mẹ hoan hỉ rồi, có bác nói chuyện bố mẹ rất hoan hỉ, con về đi. Sau khi bố mẹ sư chú nói thế thì sư chú bạch với thầy để quyết định ngày về. Thì 25 tháng Tư sư chú về. Hẹn ngày 27 bố mẹ sư chú sang nói chuyện. Khi mà bố mẹ sư chú đồng ý rồi thì mình vui lắm, bởi vì là mình được trở lại chốn cũ. Bao nhiêu những cái mà mình gắn bó, cái cảm giác chốn xưa của mình giờ mình được trở về.
Thế hôm đấy chú về, chú lên Tam Bảo lễ Phật mà cảm thấy cả ngôi Tam Bảo rực rỡ lên! Nó sáng rực lên í! Xong xuống sư chú còn bạch thầy là bạch cụ, nhà mình mới lắp điện thêm Tam Bảo hay sao mà sáng thế... Cụ bảo không, vẫn bình thường mà, có khi chú về các ngài hoan hỉ đấy!
Thế 27 thì bố mẹ sư chú sang. Lúc bố mẹ sang, chú đang thị giả thầy. Chú đứng sau thị giả thầy, rồi chú lễ bố mẹ ba lễ. Lễ thứ nhất là cảm tạ cái ân đức sinh thành. Lễ thứ hai là nguyện trọn đời giữ đạo. Và lễ thứ ba là nguyện nếu như đời này tu hành mà không đến nơi đến chốn, thì nguyện đời sau đầu thai tiếp tục tu hành, để trả cái ân nghĩa sinh thành. Đó. Chú lễ xong thì bố mẹ chú cũng rất hoan hỉ mặc dù vẫn khóc lóc. Khóc nhiều lắm! Và gầy đi rất nhiều! Thế xong về thì cũng thông.
Đấy, chuyện nó thế. Nghĩ lại cũng buồn cười lắm. Giờ thì chỉ có tu thôi. Hộ trì cho thầy để Phật pháp trường tồn ở cõi thế gian. Còn nguyện riêng của sư chú thì... thôi, sau này đủ nhân duyên chú sẽ nói... (cười)
Chương 25
Có cái đúng thì không phải sợ
Từ sáng sớm nay đã có một bác gái ngoài 50, rất gầy, mặt đen sạm, khắc khổ mang một cậu con trai tới. Cậu con trai ngoài 20, người cao ráo, gầy, khuôn mặt đen, trông buồn buồn. Cả hai lặng lẽ chấp tác quanh chùa rồi lại ngồi thẫn thờ ở bàn nước. Thầy bảo cậu thanh niên tên Khải, đang học đại học nhưng từ nhỏ đã hay lên các cơn co giật và làm các việc không giải thích được. Gia đình đã đưa đi nhiều bệnh viện nhưng không tìm ra bệnh nên hôm nay họ đưa vào chùa nhờ thầy xem có bị vong theo không. Để gọi vong cần một người có khả năng cho mượn xác để vong nhập vào. Hôm nay, người cho mượn xác là cô Minh, một sĩ quan quân đội nghỉ hưu.
Chiều tối, trong nhà Tứ Ân đã trải chiếu trước ban thờ Phật A Di Đà, Bồ Tát Địa Tạng và Tôn giả A Nan. Trên chiếu, cô Minh ngồi xếp bằng chính giữa, đối diện ban thờ, hai mắt nhắm lại; Khải quỳ bên phải cô Minh, mẹ Khải quỳ bên trái. Sư chú Đạo Tam ngồi đối mặt với cô Minh, làm chủ lễ.
Sư chú Đạo Tam thắp ba cây hương lên ban thờ, rồi hỏi vọng ra khoảng không, giọng từ tốn:
“Vong linh nào đi theo tín chủ Nguyễn Văn Khải thì xin mời vào. Hôm nay đủ nhân duyên, có người cho mượn xác, xin mời vong linh vào, có khúc mắc gì thì hôm nay nhà chùa sẽ giải quyết hộ cho nhé.”
Sư chú mời vài lần thì người cô Minh bắt đầu lắc nhè nhẹ.
“Vong linh vào thật sâu vào” - chú Đạo Tam nói - “vào sâu vào rồi nói chuyện.”
Sau khi vong linh đã “vào sâu”, chú Đạo Tam hỏi:
“Thế vong linh hôm nay lên đây có việc gì?”
Cô Minh không nói, chỉ lắc lư người. Chú Đạo Tam lại hỏi:
“Hay là muốn nói chuyện với thầy thì để ta mời thầy vào?”
Cô Minh gật. Sư chú Đạo Tam thỉnh thầy vào. Thầy vào thì chú đứng lên nhường thầy ngồi ghế chủ sám, chú thị giả bên cạnh.
“Hôm nay vong linh lên có điều gì cần ta giúp thì cứ nói ra. Vong linh tên là gì?”
Người đó nói tên, quê quán, năm sinh, năm mất. Người này là quan huyện ở Nghệ An từ thế kỷ 18.
“Thế hôm nay lên có chuyện gì cần ta giúp? Cậu ấy đã làm gì vong linh?”
“Nó là em con.”
“Là em sao lại đi theo hành hạ nó? Anh em phải thương nhau chứ.”
“Nó giết con và các bạn con.”
“Nó giết con à? Làm thế nào mà anh em lại giết nhau?”
“Nó nghe lời vợ nó, giết con.”
Cô Minh túm lấy ngực, mặt nhăn nhó.
“Bị nó đâm ở đấy à?”
“Không. Nó mời con đến ăn giỗ mẹ, rồi đầu độc, cả con và hai bạn con.”
“Mô Phật, thế hai bạn vong linh hôm nay có đến không?”
“Có, đang đứng cả ở đây.”
“Thôi, hôm nay đã về được đây rồi thì hãy xả hết; tha cho nó đi con ạ. Dù sao cũng từng có nghĩa anh em với nhau; giờ nó đã đầu thai chuyển kiếp, nó có nhớ kiếp trước nó làm gì đâu. Tha cho nó rồi về đây quy y, theo hầu Phật hầu tổ con nhá. Tha cho nó đi; hành hạ nó từ bé là đủ rồi.”
Thầy quay sang mẹ Khải:
“Cháu nó bị từ bé phải không cô?”
“Dạ từ lúc bé ạ” - người mẹ nói - “từ nhỏ đã tự nhiên ngất lăn ra. Đi bệnh viện không chữa được.”
“Nó chịu nghiệp báo từ bé là đủ rồi, tha cho nó đi con. Tha thứ là giải thoát. Hôm nay về đây rồi, đủ duyên rồi thì xả hết đi.”
“Nó giết cả nhà con, làm tan nát cả nhà con. Làm cho họ nhà con tuyệt diệt.”
“Ừ, nhưng thôi, nó cũng chịu nghiệp báo rồi. Nể mặt ta tha cho nó nhé. Tha cho nó cũng là giải thoát cho mình. Giờ mà tiếp tục trả thù thì mình tiếp tục gây nghiệp, bao giờ mới giải thoát được?”
Vong linh quay mặt đi, nói:
“Giận!”
“Thôi con ạ, đừng giận nó nữa. Xả hết cái tâm giận đó ra là hết.”
Thầy quay sang Khải:
“Quỳ xuống sám hối vong linh đi con.”
Khải dập đầu xuống lễ. Người mẹ cũng dập đầu quỳ - trông bà còn khốn khổ hơn Khải.
Vong linh vẫn nói:
“Giận.”
Rồi đưa tay chạm vào bên sườn, nói:
“Đau.”
“Nó đâm vào đấy à?”
“Không.”
“Thế làm sao, nói ra ta giúp cho.”
Vong linh uất ức, cố cất lời mà mãi không nói được.
“Cố gắng nói hết ra thì ta mới giúp được.”
“Có cái gai.” - sau cùng vong linh nói.
“Nó đâm gai sắt vào à?”
“Không... Thầy có biết nó làm gì con không? Nó yểm bùa vào đây.”
“Nó yểm bùa à? Rồi, để ta gỡ ra nhé.”
Thầy bảo chú Đạo Tam lấy ba que hương đang đốt viết những câu chú bên ngoài phía mạng sườn của cô Minh, rồi hai tay làm động tác giống như cởi và nhổ gai.
“Hết chưa?”
Vong linh gật. Vong kể đã theo Khải qua nhiều kiếp để trả cái thù chết oan. Trong kiếp này, họ đã theo hành hạ Khải từ nhỏ, lúc thì bóp cổ, lúc thì xô ngã, rồi tác ý để cho Khải điên loạn. Họ muốn Khải chết để đền mạng. Thầy nói:
“Thôi, ân oán xả hết, hôm nay đủ duyên theo ta về đây tu hành nhé. Còn muốn gì nữa không?”
“Cho con ở đây giữ sổ sách nhé?”
“Ừ, được rồi. Thế giờ hết rồi thì ra nhé. Còn cần gì nữa không?”
“Bảo nó dâng cho con ba chén trà.”
Khải lấy ba chén nước trà dâng lên cho vong linh và hai người bạn ở đó. Vong uống xong thì chắp tay xá thầy rồi đi. Khải và mẹ quỳ lễ Phật và lễ thầy. Tôi không biết Khải và mẹ có tin những gì đã xảy ra không. Nhưng nghĩ kỹ, mỗi ngày báo chí đều nhan nhản chuyện chặt đầu người yêu, cướp tiệm vàng giết người, cầm dao đâm mẹ vì bị mắng, ngáo đá giết cả nhà hàng xóm, tạt a xít vì ghen tuông, nạo thai, ngoại tình... chưa kể những chuyện chết oan vì tai nạn giao thông, lũ lụt, sập hầm lò, động đất... Những chuyện khổ đau diễn ra hằng ngày; nếu cứ theo nhân quả mà báo ân báo oán thì đúng là không dứt.
Buổi trưa, tôi hỏi thầy:
“Bạch thầy, các vong đã quy y xong có bao giờ quay lại quấy rầy người kia không? Con nghĩ như người dương, hôm nay hứa, mai lại nuốt lời.”
“Không, họ ở trong cảnh giới tăm tối đó lâu rồi, họ muốn thoát ra lắm nên khi đủ duyên, gặp Phật pháp, họ được khai thị để giải thoát thì họ quyết tâm lắm. Cảnh giới của họ là cảnh giới tâm thức, không bị chướng ngại cái xác phàm như mình nên chỉ cần chuyển tâm là giải thoát lập tức. Với lại, thầy giải quyết nhiều, thầy thấy chỉ cần để họ kể được ra cái oan ức trong lòng là họ nhẹ đi, là họ có thể xả. Xả là chuyển tâm ngay.”
“Các chùa khác có các việc tâm linh thế này không ạ?”
“Có chùa có, chùa không. Nếu cô đọc Đại Việt sử ký toàn thư cô sẽ thấy những việc đang xảy ra ở chùa mình hôm nay cũng đã từng xảy ra ở chùa mình nghìn năm trước. Sử có ghi lại. Có nhiều việc chỉ là nhân duyên lặp lại. Thực ra ngay trong giới tu hành, nói đến các việc tâm linh thế này, cũng có người tin người không cô ạ. Nó tùy duyên, tùy nguyện từng người. Có người có duyên có nguyện độ dương, có người có duyên có nguyện độ âm.”
“Vậy một người từng tu hành đắc đạo ở kiếp trước rồi tái sinh trở lại theo nguyện thì có phải chứng đắc lại không?”
“Cũng tùy họ ở quả vị nào. Thường nếu họ đã chứng đắc rồi thì khi tái sinh trở lại theo nguyện, họ dần dần sẽ nhớ ra chứ họ không cần chứng lại.”
“Có bao giờ người ta không nhớ ra nguyện của mình không ạ? Hoặc làm sai nguyện?”
“Khi thọ thân xác phàm này thì người ta bị chướng ngại nên ban đầu thường bị sao lãng. Nhưng nếu có nguyện mà không theo nguyện thì cuộc đời sẽ trắc trở; mình làm gì cũng như đụng đầu vào tường. Thuận theo nguyện thì an lạc. Dù khó khăn vẫn an lạc.”
“Bạch thầy, nếu cái gì cũng đã có duyên có nghiệp từ trước, nếu cái gì cũng đã có sắp xếp thì kiếp này mình tu cũng chỉ đến thế thôi ạ?”
“Sao lại cũng chỉ đến thế thôi. Tuy có duyên, có nghiệp nhưng mình tu thì cải nghiệp chứ.”
Thầy nói nếu hiểu sâu lý nhân quả thì sống rất dễ. Gieo nhân nào ắt gặt quả đó, không thể có sai biệt; như trồng đậu thì được đậu, trồng cà được cà, không thể nào trồng đậu lại được cà. Thấy sâu lý nhân quả thì thấy mọi việc trên đời đều nhẹ nhàng. Gặp nghịch duyên không nản, gặp thuận duyên không mừng. Cứ theo nguyện cứu người, độ sinh mà làm.
“Có cái đúng thì không phải sợ cô ạ. Mình đúng thì không phải sợ. Phật chỉ có lòng từ bi mà chiến thắng ma vương. Chứ ma vương cũng có thần thông, có phước, có tu tập mà cô. Ma vương cũng có đủ mọi thứ pháp lực, chỉ thua Phật ở sự từ bi mà thôi.”
Thật sự, tôi vẫn cứ bán tín bán nghi chuyện âm dương này. Nhưng điều thầy nói quả là chân lý: Có cái đúng thì không phải sợ. Tôi phải viết hoa điều này:
CÓ CÁI ĐÚNG THÌ KHÔNG PHẢI SỢ.
Lại nghĩ: Trong chúng ta, có bao nhiêu người biết nguyện của mình? Ngay cả giữa những bạn bè, đồng nghiệp đã thành công xuất sắc của tôi, có bao nhiêu người thực sự biết nguyện của mình là gì? Mình sống để làm gì? Cuộc đời mình là để làm gì? Chúng ta thường chỉ nói tới đam mê, hoài bão, hoặc năng khiếu chứ ít khi nói tới nguyện. Mà kể cả với đam mê, hoài bão, đa phần chúng ta không có đam mê, hoài bão nào mà không ít nhiều bị ảnh hưởng bởi những thứ giáo điều về lợi danh của Nho giáo. Chúng ta muốn có danh với đời. Chúng ta muốn làm vẻ vang cho bản thân, gia đình, dòng họ, thậm chí quê hương. Cái chúng ta muốn thường có công thức dạng “tôi muốn thành người Việt Nam đầu tiên đoạt giải Nobel”, “là Steve Jobs của Việt Nam”, “là người trẻ nhất Việt Nam đã làm X, Y, Z”,... Nghĩa là đam mê nào cũng được hình thành trong thế thu nhận thêm vào cho mình, so sánh mình với người khác, chạy theo sự đánh giá của xã hội chứ không phải một thứ khởi lên tự thân, không cạnh tranh, không cần hơn ai, không ngại kém ai. Một thứ ước mơ không có gốc là tham và tranh. Mà cũng chẳng phải ước mơ. Một thứ tự biết hiển nhiên.
Có lẽ vì thế mà trong thiên hạ, có những người dù thông minh tài giỏi đến thế nào cũng không bao giờ làm những việc rung chuyển đời sống bởi vì tấm lòng họ chỉ đủ che cho họ và một số người xung quanh. Còn có những người có thể làm những việc phi thường, rung chuyển lòng người dù họ tay không, bởi vì tâm họ khác, nguyện của họ khác.
“Nguyện lớn thì sóng lớn” - thầy nói với tôi - “Nguyện lớn thì tâm phải rất lớn.”
Thầy bảo người tu hành có trăm vạn nhân duyên đến với đạo, có những người phải trải qua rất nhiều đày đọa, thử thách trước khi và sau khi đến với đạo. Thời Phật Thích Ca, A-la-hán Vô Não đã giết 999 người trước khi gặp Phật; từ đó mà có chuyện “buông đao thành Phật”. Ngài Chu-lợi-bàn-đà-già (Culapanthaka) trước khi đắc A-la-hán quả cũng bị nghiệp học đâu quên đấy, nên Phật dạy tu bằng cách chỉ nhẩm một câu ngắn là “quét sạch bụi bẩn” trong lúc quét chùa (17) . Nhị tổ Huệ Khả phải chặt cánh tay mà cầu đạo với tổ Bồ Đề Đạt Ma. Tam tổ Tăng Xán mắc bệnh ghẻ lở quá đau đớn mà đến cầu đạo với Nhị tổ. Lục tổ Huệ Năng thì nhà nghèo, không biết chữ. Tổ Lâm Tế khi đến học pháp với tổ Hoàng Bá thì liên tục bị tổ đánh. Tất cả các kiếp nạn cũng là duyên để họ tăng trưởng lòng từ bi và năng lực cứu giúp chúng sinh vì mình phải đau khổ rồi mình mới thấu hiểu được đau khổ của người khác.
Trong những năm sau này, tôi sẽ gặp bằng xương bằng thịt những bậc tu hành mà cuộc đời họ, từ lúc sinh ra đến lúc gặp đạo và hành đạo phải trải qua muôn vàn thử thách mà tấm lòng của họ lúc nào cũng vằng vặc. Gặp họ, lòng ta rung chuyển theo cách mà không có bất kỳ học giả nổi tiếng, thiên tài, tổng thống hay ngôi sao nào có thể làm rung chuyển.
Hè năm sau tôi về, Khải trong câu chuyện trên đã xuất gia, thành sư chú Đạo Lục. Lúc ấy tôi mới được biết đầy đủ hơn chuyện của sư chú Đạo Lục.
Chương 26
Chuyện sư chú đạo lục
Năm ngoái, khi con gặp chú lần đầu ở chùa, chú đến chữa bệnh phải không?
Ừ.
Chú bắt đầu bị bệnh từ bao giờ?
Từ lúc đẻ ra đấy, mấy tháng đã bị co giật, như kiểu động kinh nhưng ra bệnh viện thì người ta bảo không phải động kinh mà cũng không tìm ra nguyên nhân. Mà cứ ở bệnh viện hàng tháng trời thì không có bệnh gì, bình thường. Mà cứ ra khỏi cổng bệnh viện thì lại giật.
Từ lúc mấy tuổi là bắt đầu đi bệnh viện ạ?
Mấy tháng đã bắt đầu đi...
Thế lúc mẹ chú có bầu, có bị suy dinh dưỡng hay bệnh gì không?
Không.
Chú có bị đẻ non không?
Không.
Đến lúc nào thì chú biết có điều gì đó khác lạ về bệnh của mình?
Từ bé đã biết, đến lớp 6, lớp 7 thì rõ hơn nhưng rõ nhất là năm lớp 10. Bắt đầu không kiểm soát được mình.
Mình có cảm giác là có ai kiểm soát mình hay là thế nào?
Mình cứ thấy... nói chung là khó hiểu. Thứ nhất tối không ngủ được, thứ hai là hay mơ linh tinh. Đầu tôi lúc nào cũng nóng như lửa! Có khi trời nắng chang chang mà cứ ra nằm ngoài trời í! Rồi cứ hâm hâm, suốt ngày một là đi lượn lờ, hai là đi bơi, tắm sông, tắm ao hồ. Cái hồi bị nặng, năm lớp 10, 11, 12, suốt ngày tôi bơi dưới nước. Tôi cũng không muốn nghĩ lại.
Thế ạ?

Tôi bị đày nhiều! Đày như địa ngục trần gian! Cái hồi đấy, tôi không hiểu tại sao mình lại bị như thế. Mình có làm việc ác đâu? Nhiều người nói là mỗi dòng họ phải có một người gánh nghiệp cho cả họ, phải đờ đẫn, ngu si, thần kinh. Tôi nghĩ chắc tôi thuộc loại đấy. (cười) Bà nội tôi năm ngoái năm kia còn bảo hay tôi lấy vợ đi, bà tôi bảo tìm ai cũng đơ đơ mà lấy, về hai vợ chồng đơ đơ với nhau. (cười) Đấy! Nhiều lúc nghĩ đau lắm nhưng mà cũng chẳng làm thế nào được!
Chú đã bao giờ có ý định tự tử chưa?
Nhiều chứ! Hồi xưa tôi cứ tưởng, một là tự sát, hai là chết trong nhà thương điên. Ngày xưa sợ lắm! Quẫn cô ạ! Cùng quẫn. Không còn một lối thoát.
Thế ạ?
Chán cực kỳ! Tôi cứ phải kìm chứ chán lắm! Cô bảo mười mấy năm cơ mà. Mười mấy năm như người mất trí thì chán thế nào? Mà mất trí hẳn còn đỡ vì họ không biết gì; không biết buồn! Tôi thì vẫn biết, sao lại đau thế? Có lúc tôi ước đây là một cái ác mộng, mở mắt ra nó lại bình thường! Nhưng có phải thế đâu? Bố mẹ tôi giờ không dám nghĩ lại cái chuyện quá khứ nữa. Sợ quá! Nghĩ đến cảnh ngày xưa kinh hoàng quá! Từ hồi vào đây là tôi bắt đầu quên đi rồi! Chứ trước chưa vào đây, tôi nhớ hết, biết hết, đau lắm! (cười) Trước chưa vào đây lúc nào tôi cũng nhớ, sao mình đau khổ thế? Tôi muốn đi tu để xả bớt nghiệp chướng đi mà cũng để kiếp sau đỡ khổ hơn.
Thế ạ?
Ngày xưa tôi có còn hy vọng gì đâu? Chạy chữa khắp nơi, xong có người chỉ đến đây. Hôm đến đây thì cô cũng biết đấy.
Vâng. Con nhớ khi lên thì nói chú đầu độc người ta...
Ừ, hồi đấy tôi là một thằng lêu lổng, chẳng học hành gì. Giống bọn thanh niên chơi bời bây giờ đấy.
Chú làm lễ xong chú có thấy đỡ hơn không? Các cái hiện tượng có mất đi không?
Nói chung tôi thấy khỏe lên dần dần. Kiểu mưa dầm thấm lâu.
Thế khi người ta lên nói những việc kiếp trước, chú có tin không?
Hôm đầu nghe tôi thấy lạ lẫm lắm, tôi nghĩ hay có khi là trò lừa? (cười) Tôi không tin lắm đâu! Trước đấy một thời gian tôi bị lừa nhiều quá rồi! Toàn thầy cúng lừa đảo! Dần dần đến đây, chứng kiến nhiều cảnh lên thì mới tin. Nhất là sau gặp các ngài vào bác Đạo Ngũ.
Đến giờ thì chú thấy việc tu hành của mình thế nào?
Giờ tôi cứ quét nhà, rửa bát, tụng kinh... Làm việc nhỏ thôi.
Hằng ngày chú dâng cơm các ban ạ?
Ừ cúng Phật cúng tổ. Quét chùa. Bao sái tượng Phật.
Lúc chú quyết định đi tu thì bố mẹ chú ủng hộ không?
Ủng hộ chứ!
Thế còn chú thì sao? Trước đấy chú có bao giờ nghĩ mình sẽ xuất gia không?
Lúc đấy tôi cũng băn khoăn nhiều vấn đề. Tôi chẳng thấy tôi có tài đức gì từ bé đến giờ, làm sao tu được. Đến thời điểm này thì tôi không tin được là tại sao mình lại may mắn đến được đây! Nói chung thầy cũng gần như sinh tôi lần thứ hai! Nhưng nhiều lúc tôi cũng phân vân, bảo không biết có tu được không. Sang năm thầy sẽ tổ chức đàn giới để thụ giới, nhưng mà tôi thấy mình chưa xứng đáng để làm tỷ khiêu. Tôi không dám thụ.
Chú muốn chờ thêm ạ?
Ừ. Các tổ ngày xưa, ở chùa mấy năm làm tịnh nhân, xong lại mấy năm làm tiểu, mấy năm làm sa di rồi mới thụ tỷ khiêu. Quá trình có khi phải chục năm í! Mình một năm đã thụ. Mà xuất phát điểm lại thấp.
Thế thì chú cứ từ từ. Chú đi con đường của chú. Con thấy đi tu mỗi người một hạnh. Ví dụ ông Nhị có cái dũng, ông Tam hiền lành, sư ông Nhất lại kiểu khắc khổ. Mỗi người có một cái hạnh thì mình...
Sao cô lại nhìn được cái đó?
Nhìn rõ mà chú.
Thế tôi hạnh gì?
Hạnh của chú ạ?
Hay tôi chưa có hạnh gì? (cười)
Có chứ ạ! Hạnh của chú là hạnh cần cù.
Thế à? Có lần có một vị lên bảo là tôi nghiệp chướng nặng nề, nhưng sau này lại là bậc chân tu. Nghe thế thì mình thấy, ờ thôi cũng được! (cười)
Cũng phấn khởi đúng không chú?
Ờ. Cũng có hy vọng là tu được. (cười)
Chương 27
Người hay ma khác gì nhau?
Năm nay, thầy vẫn sắp cho tôi ở trong nhà sàn nhưng thầy bảo có lẽ tôi sẽ ở cùng Tâm, một cô gái đang ở chùa chữa bệnh. Người nhà Tâm nói rằng Tâm có người “nhập.”
Bình thường thì Tâm là Tâm, nhưng những lúc bị “nhập”, Tâm sẽ thành Phúc, một đứa bé trai bảy tuổi, thông minh, nghịch ngợm và thích hóng chuyện.
Ở cùng phòng với Tâm những ngày đầu, tôi hơi ngài ngại. Trong phòng chỉ có một chiếc giường đơn. Buổi trưa đầu tiên, Tâm bảo tôi: “Chị ơi, chị lên giường nằm đi”; tôi vội vàng từ chối:
“Thôi, em nằm đi, chị nằm dưới đất cho mát.”
Nhưng sau đó, tôi ra hẳn phòng bên ngoài, để Tâm ngủ một mình ở phòng trong. Ban ngày, tôi có thể cùng tất cả người trong chùa chơi đùa với Tâm/Phúc nhưng cứ đến tối, tôi không thắng nổi cảm giác ngài ngại. Lẽ nào lại ngủ cùng phòng với một “con ma” ư?
Còn một lý do nữa: tôi không biết phải xử lý thế nào với tình trạng “hai mặt” của tôi và tình trạng “hai mặt” của Tâm/Phúc. Với tư cách là người đang làm nghiên cứu về bệnh tâm thần và cách các ngôi chùa ở Việt Nam trợ giúp người mắc bệnh tâm thần, tôi phải tuân thủ đúng quy trình nghiên cứu thực địa, nghĩa là tôi không được có bất cứ quan hệ nào có thể làm ảnh hưởng tới khả năng quan sát khách quan của tôi. Điều này đòi hỏi tôi không được có tư cách bạn bè, chị em, hay bất cứ tư cách tình cảm nào với Tâm/Phúc - lúc này đang là một người ở chùa chữa bệnh và nằm trong phạm vi quan sát thực địa của tôi. Nhưng mặt khác, với tư cách là chính tôi, đang ở cùng phòng với Tâm/Phúc thì theo văn hóa Việt Nam, tôi không thể nào “khách quan” kiểu Mỹ được. Quan trọng hơn, những khi nói chuyện với Tâm/Phúc, thật sự tôi cũng không biết mình đang nói chuyện với ai, mình có thể tin bao nhiêu phần trong những gì mà người ngồi trước mặt mình nói. Nếu là Tâm, thì tôi đang nói chuyện với một cô gái bị bệnh gì? Nếu là Phúc thì tôi đang nói chuyện với ai? Khi Tâm “chuyển thành” Phúc thì có thực là Phúc hay là ai khác? Tôi chưa bao giờ hỏi: Ai đang nói chuyện với tôi đấy?
“Ai” bản chất là gì, bên trong thân xác đang đối diện với tôi?
Những ngày đầu, khi chỉ có hai chị em trong căn phòng nhỏ mà Tâm/Phúc bắt chuyện với tôi thì tôi chỉ trả lời cầm chừng rồi tìm cách ra khỏi phòng. Một buổi chiều, thấy tôi chuẩn bị ra, Tâm/Phúc hỏi tôi:
“Chị ơi, chị sợ khi nói chuyện với em hả?”
“Không, chị không sợ.”
“Em thấy chị ngài ngại khi nói chuyện với em.”
“Thật ra thì” - tôi nói - “Có lúc chị không biết mình đang nói chuyện với ai. Với Phúc hay với Tâm. Chị không biết đâu là thật.”
“Lúc nào cũng là thật mà chị. Phúc hay Tâm cũng là thật mà chị.”
Ờ, đúng thế thật.
Từ hôm đó, tôi thôi dần việc để ý xem mình đang nói chuyện với ai. Tôi không còn bất giác rình mò để ghi nhận lúc nào Tâm “biến thành” Phúc và ngược lại. Trước mặt tôi chỉ là một người đang giao tiếp. Hỏi điều gì, tôi sẽ trả lời điều đó. Đùa tôi thì tôi đùa lại. Mượn tôi sạc điện thoại thì tôi đưa. Gọi tôi là chị, thì tôi gọi lại là em. Tâm sự chuyện công việc, bạn trai với tôi thì tôi nghe. Mệt, cần nằm trong bóng tối thì tôi đóng cửa, tắt điện hộ. Tò mò, háo hức hỏi tôi về nước Mỹ thì tôi kể.
Năm nay, đã chấm dứt hợp đồng với San Jose nên tôi không dẫn sinh viên trong thời gian họ ở Việt Nam mặc dù trong năm học, tôi vẫn chuẩn bị cho chuyến đi và vẫn đón họ ở sân bay. Tới Hà Nội được một tuần, các sinh viên cùng với giáo viên đến chùa thăm tôi và cũng là để học về ảnh hưởng của tôn giáo, tâm linh tới chăm sóc sức khỏe tâm thần ở Việt Nam.
Tám sinh viên ngồi quây quần ở bàn nước, hỏi thầy Đạo rất nhiều về tâm, về nhân quả, linh hồn, “kiếp trước” và “nghiệp”, rồi Chúa với Phật có quan hệ với nhau thế nào theo quan điểm đạo Phật. Đây là lần đầu họ nghe những chuyện này nên rất háo hức. Tôi ngồi dịch cho thầy và giải thích thêm cho sinh viên về văn hóa Việt Nam. Chúng tôi đang nói chuyện thì Tâm đi tới, vỗ tay, hai mắt long lanh:
“Ôi có nhiều người quá, ai cũng sáng sủa đẹp đẽ.”
Các sinh viên của tôi lập tức nhận ra có điều gì đó bất thường ở cô gái trẻ trước mặt họ nên hỏi tôi cô gái là ai. Tôi nói đó là một “ca” trong chùa; đây là một cô gái đang có một số triệu chứng nhất định về tâm thần kinh nên gia đình gửi tới chùa để các nhà sư điều trị giúp. Sinh viên của tôi lập tức gật gật đầu với nhau và thấy rất thú vị với việc chùa ở Việt Nam có thể điều trị rối loạn tâm thần.
“Có phải bị tâm thần phân liệt không cô?”
“Hay là bị rối loạn nhân cách?”
“Đại loại là như vậy” - tôi nói.
Tôi không muốn nói với họ rằng người Việt Nam và người ở chùa gọi đây là bị “nhập”. Thầy cũng nhận thấy điều đó nên bảo Tâm/Phúc ra chỗ khác cho thầy nói chuyện. Nhưng Tâm/Phúc nhất định không chịu đi:
“Ôi nhiều người đẹp đẽ quá, cho con đứng đây đi. Con sẽ không quấy đâu.”
Nói xong lập tức hớn hở đứng lùi lại sau thầy như thị giả, hai mắt long lanh.
Tôi ngồi ở phía đối diện với thầy và Tâm/Phúc, đang giải thích cho sinh viên về khái niệm “tâm thần” trong văn hóa người Việt Nam thì nghe Tâm/Phúc nói gì đó về “cô Việt” và mọi người cười. Thầy nói vọng từ đằng kia với tôi:
“Phúc nó bảo cô Việt nói chuyện có duyên lắm, hay lắm.”
Tôi cười, nói với Tâm/Phúc:
“Cảm ơn em nhé.”
Chỉ đợi có thế, Tâm/Phúc lập tức rời khỏi chỗ thầy rồi bắt đầu đi đến từng sinh viên Mỹ, hai mắt long lanh, miệng cười tươi. Tâm/Phúc tiến đến chỗ Zhay:
“Em chào chị. Chị đẹp lắm, chị có nhiều phước, em bắt tay chị nhé” - rồi cầm tay Zhay.
Sau đó Tâm/Phúc đi sang Nikki:
“Chị này sexy quá, chị rất đẹp, em bắt tay chị nhé” - lại bắt tay Nikki.
Rồi thấy cái quạt của Nikki trên bàn:
“Quạt của ai đấy?”
“Của chị.”
“Cho em nhé.”
“Ừ, cho em đấy.”
“Thôi, em đùa chị thế thôi, em có nhiều lắm rồi. Chị đẹp quá.”
Đi sang Daisy:
“Chị cũng rất đẹp. Sao chị lại có chai nước trong túi?”
Daisy lấy chai nước ra.
“Tại sao chai nước không có nước mà chị lại để trong túi? Chị sợ vứt rác bẩn hả?”
Đi sang Sophia da đen.
“Em thấy chị như là chị cả của mọi người ở đây.”
“Đúng rồi” - Sophia cười - “tôi là chị cả trong nhóm này.
“Chị sẽ có nhiều phước.”
Sang đến Anna. Anna có rất nhiều trứng cá trên mặt và bị cận thị nặng. Tâm/Phúc bảo Anna bỏ kính ra:
“Để em chữa bệnh cho chị.”
Tâm/Phúc lấy khăn giấy trên bàn lau quanh mặt Anna rồi nhẹ nhàng ấp khăn lên hai mắt của Anna.
“Chị để nguyên nhé, em vừa đắp thuốc cho chị đấy. Mắt chị sẽ sáng ra.”
Tất cả các sinh viên đều cười rất vui và thích thú với Tâm/Phúc. Không ai sợ người bệnh “tâm thần” này. Tôi tự hỏi nếu tôi nói cho họ biết họ đang chơi với một “con ma” thì họ có sợ không? Họ có hết thấy con ma “dễ thương” không?
Thế giới có thể thay đổi từ trắng sang đen chỉ bằng một từ vậy đó. Bằng một cái biết vậy đó. Dù cái biết đó chẳng có liên hệ gì với đối tượng mà nó gán lên. Chỉ là các tên gọi tạm dán lên một hiện tượng vốn không tự định nghĩa nó. Ta thấy ma, thấy người tâm thần, người tàn tật, người đồng tính luyến ái, người da xanh, da tím, da cầu vồng, người ngoài hành tinh là kỳ lạ nhưng với họ, thì chính chúng ta mới kỳ lạ.
Người. Ma.
Tâm thần. Không tâm thần.
Bệnh. Không bệnh.
Gái. Trai.
Xấu. Đẹp.
Buồn. Vui.
Sáng. Tối.
Thật. Giả.
Chương 28
Hóa ra ai cũng sợ ma
Từ đó đến cuối mùa hè cũng như các mùa hè sau, tôi chứng kiến thêm rất nhiều chuyện tâm linh nữa. Gần như tất cả những gì tôi từng đọc trong Tây du ký, Liêu trai chí dị, Phong thần diễn nghĩa, Tấm Cám, các truyện cổ tích, thần tiên, báo Pháp luật và An ninh thế giới đều đã xảy ra ở chùa thầy Đạo và nhiều chùa khác mà tôi đến thăm. Các sư ông phải có những cuốn “Nhật ký vong linh” ghi lại tên tuổi ngày tháng năm sinh năm mất của vong linh lên xin giúp, để có thể làm lễ quy y và đặt pháp hiệu cho họ. Nhìn ghi chép trong Nhật ký vong linh thì thấy muôn hình vạn trạng các loại ân oán và nghiệp báo.
Nào là chàng trai thề non hẹn biển với bạn gái từ thế kỷ 18 bên Trung Quốc, rồi sau đó nghe lời bố mẹ, không lấy khiến cho người bạn gái tự tử chết và đi theo từ đó đến giờ.
Nào là cô gái kiếp trước là tu nữ nhưng đã mắc tội tà dâm, phá thai, nên kiếp này người luôn yếu ớt, thường bị đau tim và ngất.
Nào là bà và mẹ đưa một bé gái 10 tuổi bị điên loạn đến chùa. Khi cho các vong lên thì họ kể rằng bé gái này kiếp trước vốn là đầu đảng cướp còn mẹ và bà là đồng bọn trong đảng cướp. Vì đã giết cả một gia đình để cướp của nên giờ bé gái bị điên loạn.
Nào là con bỏ bố mẹ đói trong kiếp trước nên kiếp này sinh ra phải chịu cảnh bị bố mẹ hắt hủi, ngược đãi.
Nào là người say rượu chết bất đắc kỳ tử bây giờ oán kẻ chuốc rượu cho mình chết và dù chết vẫn luôn luôn thèm rượu nên đi theo để ám người kia.
Nào là cô gái thầm yêu một thầy tu đường đường tăng tướng nên vẫn cứ theo thầy tu đó, trong lòng thương tưởng thầm yêu trộm nhớ.
Nào là cung nữ và quan lại của một vị quân vương từ trong quá khứ, giờ vẫn theo vị quân vương đó để nhờ độ thoát dù vị vua đó đã thành người tu hành.
Nào là người từng được cứu mạng chết đuối trong quá khứ, giờ đi theo để báo ân.
Nào là người kiếp trước theo tà đạo chuyên dùng bùa chú, âm binh, và pháp thuật hại người nhằm thu lợi nên chịu quả báo điên loạn ở kiếp này.
Nào là đệ tử thông minh nhưng ngạo mạn nên học tà thuật phản thầy rồi bị đọa làm quỷ đói ở nơi sông hồ nhiều kiếp, giờ mới hết nghiệp mà có thể sám hối, chuyển sinh.
Rồi người chết tai nạn trên đường, trẻ con chết do cha mẹ phá thai, người chết ung thư, sinh lão bệnh tử trăm vạn cách khác nhau mà chưa thể chuyển sinh đều tìm đến nhờ giúp họ chuyển sinh.
Rất nhiều chuyện mà tôi từng đọc hoặc nghe lưu truyền trong dân gian như chuyện hoang đường thì rút cục đều đã xuất hiện...
Trùng trùng điệp điệp tội. Trùng trùng điệp điệp nghiệp. Trùng trùng điệp điệp nhân. Trùng trùng điệp điệp quả.
Nhân sát sinh đưa đến quả sát sinh, yểu mệnh, thân bệnh, tâm bệnh triền miên.
Nhân trộm cắp đưa đến quả báo trộm cắp.
Nhân tà dâm đưa đến quả báo tà dâm.
Nhân xuất phát từ khẩu (nói dối, nói xấu, vu khống, ác khẩu) đưa đến quả khẩu.
Nhân tham lam, ghen ghét, đố kỵ đưa đến quả của tham lam, ghen ghét, đố ky.
Nhân nóng giận, sân hận đưa đến quả của nóng giận, sân hận.
Nhân của si mê, ngu muội đưa đến quả của si mê, ngu muội.
Nhưng dù nhân muôn hình vạn trạng, quả muôn hình vạn trạng thì đều có thể hóa giải thông qua sự chân thành sám hối và tha thứ.
Tôi cũng đã chứng kiến chuyện về chư Phật, Bồ Tát, các vị La Hán, thánh tăng, các tổ, chư thiên, các vị hộ pháp, long thần, sơn thần, thổ địa...
Vô lượng phúc đức. Vô lượng an lạc. Vô lượng từ bi. Vô lượng dũng mãnh. Vô lượng tự tại. Vô lượng hạnh nguyện. Vô lượng lòng cứu độ chúng sinh. Sự vô ngã không thể nghĩ bàn. Thần lực không thể nghĩ bàn.
Tất cả những chuyện này, tôi không muốn kể lại cụ thể ở đây, e rằng bạn đọc sẽ thấy quá hoang đường mà bỏ qua câu chuyện chính.
Đứng về mô tả trên bề mặt cho người ngoài chùa, tất cả những người bị “theo”, “nhập”, “ám”, “hành”... đến chùa với các triệu chứng khác nhau nhưng đều có chung một câu chuyện. Họ đột nhiên bắt đầu nói năng cư xử như không phải là họ, và có thể nói vanh vách những bí mật của người khác, đọc ý nghĩ những người không hề quen biết, và nói về thế giới tâm linh với một sự thống nhất kỳ lạ. Họ thường đến với nhiều sân hận và trong tư thế đang hành hạ người bị hành để trả một mối thù nào đó hoặc có duyên luyến ái nào đó - ví dụ chết vì bị giết, tự tử vì thất tình, trẻ con chết vì bị mẹ phá thai, bạn bè rủ nhau đi chơi rồi chết đuối, vợ cũ, chồng cũ trong quá khứ. Mỗi khi lên, họ đều uất ức, có khi gào thét, có khi khóc lóc hàng giờ không nói nên lời vì đã chịu oan ức hàng trăm năm, có khi vật vã đau đớn vì bệnh trên thân. Thậm chí có cả phụ nữ chết lúc đang chuyển dạ sinh con thì khi lên cũng nguyên tình trạng đau đẻ đó và chư tăng phải... đỡ đẻ trước rồi mới có thể nói chuyện với vong linh.
Mỗi khi họ lên, thầy đều phải để cho họ kể hết nỗi oan khuất uất ức của mình, rồi chữa bệnh, giải oan cho hai bên; sau đó cho họ quy y Tam Bảo mà tu hành trong cảnh giới của mình. Sau khi làm vậy thì người “bị hành” sẽ hết các triệu chứng. Tùy thuộc sự thành tâm sám hối của người đó mà các triệu chứng sẽ hết ngay hay cần nhiều lần “hòa giải” giữa hai bên.
Điều làm tôi ngạc nhiên là đối với những người bị “nhập”, “ám”, “theo”, họ có thể hoàn toàn đang bình thường nhưng ngay giây phút sau, họ hoàn toàn biến thành người khác. Nếu bị “nhập” bởi một vong trẻ con, họ sẽ hành xử đúng như một đứa trẻ. Nếu bị “nhập” bởi một người già, họ sẽ có điệu bộ, lời nói giống một người già. Đang bị bệnh gì, sẽ đau ở đó. Tuy nhiên, khi vong thoát ra, họ lại lập tức trở lại bình thường.
Tôi đã đọc DSM-IV về những bệnh loạn thần, tâm thần phân liệt, loạn nhân cách với triệu chứng tương tự nhưng DSM-IV có thể mô tả triệu chứng của những người này mà không có giải thích. Trên quan điểm khoa học mà nói, những người bị tâm thần không thể có sự chuyển đổi nhanh như các ca bị “vong nhập” và “xuất” mà bao giờ cũng có các “cơn”, và mỗi khi hết cơn thì họ phải bình phục dần dần. Tôi cũng chưa thể giải thích về sự thống nhất kỳ lạ trong những mô tả của những người bị nhập về trật tự thế giới âm-dương cũng như việc họ có thể đọc được các ý nghĩ, bí mật của những người xa lạ.
Gọi là chuyện tâm linh hay bệnh tâm thần có quan trọng không? Cùng là những hiện tượng đó, nếu có thể dùng cách này mà chữa khỏi thì ta có thể dùng, quan trọng gì tên gọi?
Còn điều này nữa: càng chứng kiến những chuyện tâm linh và quan sát thế giới bên ngoài, tôi càng hiểu rõ nhân quả là cái chắc chắn có, dù ta có thể không gọi nó bằng từ “nhân quả” mà dùng danh từ khoa học nào đó như quy luật số lớn hay định luật hấp dẫn hay là quy luật của năng lượng. Đã gieo nhân, ắt phải có quả, chỉ là gặt sớm hay muộn. Nhân nào, quả nấy. Có điều, người ta rất dễ nhầm tưởng mình không gieo nhân, hoặc gieo nhân tốt mà vẫn gặp quả xấu bởi vì nhân không chỉ là lời nói, hành vi hiện ra ngoài, mà gốc đầu tiên là ý. Chỉ cần tôi bâng quơ đưa mắt nhìn một người đàn ông, rồi khởi ý thoáng qua trong đầu “Đẹp trai nhỉ”; vậy là tôi đã gieo nhân để muốn quay lại nhìn thêm một lần nữa; cái nhìn thứ hai gieo nhân cho cái nhìn thứ ba, dài hơn; trong cái nhìn thứ ba có khi đã có tình ý, cái tình ý cộng cái nhìn thứ ba gieo nhân cho cái chân đi tới gần nói một câu; từ một câu đưa đến hai câu, rồi tiếp tục mắt nhìn, miệng cười; tưởng là vẫn còn vô tư nhưng tôi đã gieo xong hạt, tưới đủ nước cho cái hạt; chẳng mấy chốc, hạt nảy nầm thành một cái cây; tôi đã bắt đầu một quan hệ cùng tất cả các hệ lụy của nó. Tất cả chỉ từ một cái nhìn và sự khởi một niệm bất thiện. Gọi là niệm bất thiện bởi vì nó xuất phát từ cái gốc là tham. Tham khuôn mặt đó - cái mắt đó, cái miệng đó, nụ cười đó. Tham cảm giác thích thú. Tham biết về đối tượng đó. Tham muốn chiếm hữu con người đó. Si mê cảm giác tò mò. Cảm giác theo đuổi. Cảm giác yêu đương, kích thích. Cảm giác mình còn hấp dẫn. Cảm giác có người “hiểu” mình, “yêu” mình. Nghĩa là mong muốn cái tôi của mình được khẳng định tầm quan trọng, cũng như mong các khoái cảm cho cả thân và tâm. Gieo các nhân đó, dĩ nhiên gặt hai trong tám cái khổ (18) mà Phật nói: sở cầu bất đắc khổ (muốn mà không được), và ái biệt ly khổ (thích mà phải xa lìa). Cùng cái nhìn đó, mà không có tình ý, chỉ có thành ý, thiện ý, lòng thành, ý tịnh, thì nhân khổ không gieo, quả khổ không gặt.
Nhìn ra xã hội, những chuyện ân oán, đánh ghen, kết hôn, ly hôn, trả thù, ngoại tình, phản bội, bệnh trên thân, bệnh trên tâm, vân vân... không chuyện nào không thể truy ra cái nhân tham, nhân sân, nhân si, nhân ác. Không chuyện nào không thể truy lại được giây phút người ta đã gieo hạt giống bất thiện (một lời nói, một ý nghĩ, một hành vi), rồi đến khi gặt quả bất thiện thì băn khoăn không hiểu tại sao. Đa phần chúng ta điên đảo tính toán để hơn thua với người với đời, rồi lại băn khoăn tại sao mình phiền não và thua thiệt.
Có những chiều tối ngồi ở gác chuông nhìn mặt trời lặn sau chùa, tôi nghĩ lại tất cả những điều tôi đã làm đã nói trong đời và nhận ra, tôi đã gieo quá nhiều nhân bất thiện; cho nên tôi chắc chắn phải gặt quả phiền não. Cho dù tôi không giết người, cướp của, không nói dối, không mấy khi nổi giận, nhưng từng sát na một, trong đầu tôi bao năm nay đã luôn tự động hết ý nghĩ này đến ý nghĩ kia, đa phần ý nghĩ bất thiện. Nhìn một người, lập tức trong đầu tự động nghĩ gầy thế, béo thế, sao lại mặc thế kia, xinh nhỉ, xấu nhỉ, rồi từ đó nghĩ đủ thứ chuyện bao đồng. Buổi sáng ngủ dậy, nhìn mình trong gương cũng lại gầy thế, béo thế, già thế, xấu thế, mắt thế nọ, mũi thế kia, vậy là lại phải hì hục chăm bẵm cho cái thân này. Nào là ăn gì cho đỡ béo, mua kem gì bôi cho đẹp da, gội dầu gì đỡ rụng tóc, mặc cái gì cho đẹp. Cứ như thế; 24 tiếng một ngày, cả triệu ý nghĩ lúc thức cũng như ngủ toàn những ý nghĩ vô bổ, đầy tham, sân, ngạo mạn, nghi ngờ, phán xét - tưởng là vô hại mà lâu ngày chúng tích lũy thành cái gọi là “tôi” hôm nay, với tất cả những hệ lụy và phiền não. Nếu tôi trung thực mà nhìn, tôi có thể rà lại và biết đích xác một số phiền não hiện có của tôi bắt nguồn từ khoảnh khắc nào - nhất là khoảnh khắc mà tôi biết không nên nhưng vẫn cố tình làm việc bất thiện, nói lời bất thiện.
Số phận ư? Chính là các hành nghiệp này mà thôi. Chính là các nhân mà tôi trồng bằng những thói quen lớn nhỏ, có ý thức hay vô thức. Nhưng dừng chúng thế nào thì tôi còn chưa biết cách. Từ sáng đến tối, các ý nghĩ của tôi vẫn cứ tự động vận hành; cứ xấu đẹp thích ghét lải nhải; tôi chỉ nhận ra chúng mỗi khi chúng kết thành quả phiền não, bắt tôi phải hỏi “Tại sao? Từ đâu?” Lúc ấy thường đã quá muộn.
Thế thì nỗi sợ hãi... ắt phải có nhân là tôi từng khiến người khác sợ hãi chăng? Có quả “ma” ắt phải có “nhân” ma. Nhưng nhân đó thế nào? Tôi vẫn quá sợ và quá xấu hổ để hỏi thầy. Dù người đến chùa gọi vong lên nhiều nhưng tôi chưa bao giờ xin thầy cho gọi vong của tôi; mà cũng không có vong nào của tôi tự động “lên” mỗi khi tôi ngồi xem vong của người khác.
Mỗi tối, ngồi xem vong lên, tôi phải nghĩ lại về sự nhỏ bé của mình trong thế giới. Lúc nhỏ, đọc tiểu thuyết Trung Quốc, Pháp, Mỹ, tôi đã nghĩ khi lớn lên, tôi chỉ cần đi hết năm châu bốn biển là biết hết thế giới. Hơn mười năm qua ở Mỹ và đi du lịch các nước, tôi bắt đầu nghĩ thế giới quá chật, thành phố nào rút cục cũng vẫn là người, với những vấn đề giống nhau. Tôi đã từ bỏ kế hoạch đi châu Phi, Trung Đông, hay Nam Cực Bắc Cực mà tôi vốn cho là chỗ đáng đi để trải nghiệm hết thế giới. Nhưng mỗi tối ngồi chứng kiến chuyện ở chùa, tôi bắt đầu thấy ngoài núi này còn núi. Ngoài sông còn biển. Bên ngoài trời còn có trời. Có thể có tam thiên đại thiên thế giới...
Nhưng quan trọng hơn, mỗi ngày ở chùa, tôi ngấm sâu sắc sự bé mọn của mình khi mình rất lóng ngóng, bất lực lúc đụng chuyện. Quả thực, ngồi trên núi nói chuyện đại bi, hay ngồi trên pháp đường nói chuyện đại trí - đại dũng quá dễ. Lâm sự có làm được việc không mới là vấn đề. Khi gặp một đứa trẻ khóc lóc, tôi phải làm gì? Khi gặp một người lớn tiếng dọa dẫm, tôi phải làm gì? Gặp một người mắng mình sa sả; hoặc kể lể, đòi hỏi đủ thứ (các cụ nói không sai, “chiều như chiều vong”) thì phải làm gì? Cái khó nữa là, vong thì có thể là trẻ con, thiếu nữ, bà già, trung niên, tướng quân, kẻ trộm, mèo, chó, người đang gãy tay, người đang chết đuối - mà chư tăng thì chỉ nhìn vào một thân xác người cho gá. Tá giả độ chân - dùng cái giả để độ cái thật - họ phải đi trên ranh giới mong manh của thật giả mà không được buông lơi, vẫn phải một tâm cứu người như cứu hỏa.
Chỉ vì tâm cứu độ đó mà họ vượt qua nỗi sợ lúc hành sự, chứ hóa ra các sư ông sư bác sư chú cũng sợ ma. Tôi đã hỏi rồi.
“Chú có sợ ma không chú?”
“Có chứ, hồi trước sợ lắm. Có hôm tôi đến nhà bạn ngủ mà sợ quá, hai đứa rúc vào chăn, trùm kín đầu, không cả thở được.”
“Thế giờ không sợ nữa ạ?”
“Cũng vẫn sợ chứ, chỉ không sợ bọn ma tép riu thôi. Đại ma vẫn sợ chứ. Vì mình mới tu tập, định lực mình còn ít. Mình không phải như thầy. Cụ có thể xả thân vì chúng sinh, cụ có thể bảo ta thà mất thân này chứ không để các ngươi nhiễu loạn. Mình thì vẫn sợ chết, vẫn tiếc thân này nên vẫn sợ ma. Vì ma cũng có phước báu, cũng có thần thông, có đạo lực chứ cô. Họ cũng tu mà, chỉ tu sai thôi. Ma chỉ thua Phật ở lòng từ bi.”
“Ngày trước sư ông có tin có ma không?”
“Có, ngày xưa sợ ma lắm! Tin là có ma. Và mình không hiểu biết về họ nên mình càng sợ! Lúc nhỏ sợ lắm!”
“Chú Ngũ ơi, hồi chú mới vào chùa chú có sợ ma không?”
“Ôi sợ lắm cô. Hồi mới đến chùa còn nhiều tháp tổ, rồi cái ao đằng sau thì nhiều tre và đom đóm. Sợ lắm.”
Buồn cười là ở chùa không ai biết tôi sợ ma. Trái lại, tất cả đều tin răng tôi không biết sợ là gì và còn lấy tôi ra làm mẫu.
“Làm thế nào để hết sợ hả sư ông? Con thấy con sợ nhiều thứ lắm.”
“Sư ông có thấy cô sợ ai bao giờ đâu?”
“Cô Việt thì có biết sợ là gì?”
“Em phải cứng rắn lên. Đấy, em xem chị Việt đây này. Chị ấy cứ bình thường. Chị ấy không quan trọng hóa cái gì cả, không phải thấy mây thì bảo điềm này, thấy hương cháy thì bảo điềm kia; thấy cái gì cũng bảo là ma. Cứ bình thường. Nói thật với Việt, anh quý em nhất ở chỗ đấy đấy. Cứ bình thường. Chẳng phải thần thánh hóa cái gì cả.”
Tôi nghe mà ngẩn ngơ. Hóa ra, chúng ta đều nhìn nhau sai cả. Không ai biết lòng ai thật sự thế nào. Khổ đau mỗi chúng ta ngấm ngầm chịu đựng và cố gắng tự xoay xở với những vực thẳm bên trong; rồi chưng một bộ mặt khác với thế gian.
Chứng kiến tất cả những chuyện tâm linh ân oán ở chùa, tôi lại cũng đã hiểu: giải thoát là giải thoát nơi tâm. Tất cả các chúng sinh trong cảnh giới vô hình không giải thoát, dù họ không có thân, chính vì tâm họ không thể giải thoát. Tức là phải mở cái tâm này ra để làm sao có thể đi vào tất cả cảnh giới, trần gian hay địa ngục, mà không bị ngăn ngại, phiền não, thì đó chính là giải thoát.
Nhưng phải mở tâm thế nào? Tôi quá thấm thía rồi: nói rất dễ, nhưng chỉ cần có việc động đến cảm giác an toàn của bản thân, là lập tức sợ hãi sẽ nổi lên và tôi cam đoan nó có thể khiến tôi làm những việc bình thường tôi không bao giờ làm. Vậy phải thực sự mở tâm thế nào đây?
Kết thúc mùa hè 2012, tôi trở lại Mỹ với ý nghĩ mùa hè sau tôi sẽ quay lại ở chùa cả mùa hè để tiếp tục học.
Phần 5 Columbia - Mùa thu 2012 - Chương 29
Thành phố mới, tâm trạng mới
Đầu tháng Tám, tôi chuyển xuống Columbia thuê nhà ngay trung tâm thành phố.
Columbia là thành phố nhỏ nhưng phong cách miền Nam rất rõ. Quanh nhà tôi, cứ đi hai khối nhà là một nhà thờ lớn, thuộc các dòng và nhánh khác nhau: Cơ Đốc La Mã, Presbytarian, Baptist, Episcopal, Evangelical, Lutheran. Vào sáng Chủ nhật, đường phố trong downtown không bóng xe, hầu hết cửa hàng cũng chỉ mở sau 12 giờ để người dân còn đi lễ sáng. Bảy rưỡi sáng, chuông nhà thờ đã gióng giả cho buổi lễ đầu tiên trong ngày; đến giữa buổi sáng lại có lễ trưa, đầu giờ chiều và đầu buổi tối lại tiếp tục có lễ. Có nhà thờ còn có lễ tiếng Tây Ban Nha dành riêng cho cộng đồng người gốc Mexico và Mỹ Latin. Một ngày có ba - bốn buổi lễ mà lúc nào cũng chật người dự. Những ông bà già tóc bạc, chống gậy, mặc trang phục lịch thiệp nhất dắt theo con trai, con gái, dâu, rể và những đứa cháu cũng trong trang phục lễ tới nhà thờ. Trẻ nhỏ dù chỉ hai ba tuổi cũng com lê, cà vạt, giày đen, hoặc váy lễ khi tới nhà thờ. Những đại gia đình đi những chiếc xe lớn, ríu rít ra khỏi xe, ôm hôn những gia đình khác và vị mục sư mặc áo choàng dài, luôn tươi cười đứng đón con chiên ở cửa vào nhà thờ. Họ chào hỏi, nói chuyện với nhau bằng giọng miền Nam chậm rãi và kéo dài.
“How are you today my dear?”
“I am good, thank you, how about you?”
“I am good, thank you. God bless you.”
Một tuần sau khi sang Columbia, công việc ở trường bắt đầu. Hằng ngày, tôi dậy lúc 7 giờ, chuẩn bị bữa trưa; hơn 8 giờ thì ra khỏi nhà. Tôi đi bộ dọc phố Main, xuyên qua bãi cỏ lớn trước tòa thị chính, sang tới đường Sumter, rẽ trái ở đường Pendleton, xuyên qua khu khuôn viên chính của campus để tới văn phòng ở góc đường College. Đi nhanh sẽ mất 23 phút, mà đi chậm thì 30.
Quãng đường ngắn xuyên qua bãi cỏ lớn trước tòa thị chính là quãng đẹp nhất của đoạn đường. Vỉa hè ở đây rộng và sạch. Những bãi cỏ bằng phẳng, xanh mướt vào cuối hè và sẽ chuyển vàng nhạt vào mùa thu. Hoa rất nhiều. Vào sáng sớm, nắng chiếu chếch từng vệt dài qua những tán thông. Lũ sóc thoăn thoắt chuyền qua các tàng cây, đuổi bắt trên bãi cỏ hoặc ngồi im như những búi lông xám trên các gốc cổ thụ, khoan khoái nhằn hạt dẻ. Lũ sóc rất dạn người. Đôi khi tôi dừng lại ngay bên cạnh mà chúng cũng chẳng đoái hoài; tiếp tục ngồi thẳng, hai chân trước ôm hạt dẻ nhằn không ngừng. Có đêm nhiệt độ xuống thấp nhưng mặt trời lên sớm, biến khí lạnh buổi đêm thành một màn sương mù giăng kín thành phố. Mặt trời trên cao rọi vào những bụi nước li ti trong màn sương mù tỏa thành muôn vạn hào quang trong lúc sương đọng trên cỏ cũng lấp lánh như kim cương.
Đầu tháng Chín, năm học bắt đầu. Vì là học kỳ đầu tiên nên tôi chỉ phải dạy một lớp Hành vi con người trong môi trường xã hội cho sinh viên năm thứ nhất chương trình thạc sĩ. Lớp học này dạy sinh viên xem xét thế nào được gọi là “xã hội”, cái gì hình thành nên một xã hội, cái gì được gọi là “môi trường sống” của một người, những nhân tố nào trong môi trường sống tác động nên hành vi của con người. Đây là lớp nền tảng, nhằm giúp sinh viên công tác xã hội có thể bắt đầu tư duy sâu sắc hơn về các vấn đề mà họ phải giải quyết, ví dụ:
Tại sao 5% dân số Mỹ sở hữu hơn 50% của cải của nước Mỹ, trong khi 60% tầng lớp ở đáy tháp thu nhập sở hữu chưa tới 5% của cải? Tại sao 70% các hộ gia đình nghèo ở Mỹ là các hộ gia đình có phụ nữ là chủ hộ? Tại sao có những cộng đồng nghèo dai dẳng hơn những cộng đồng khác? Nghèo là một vấn đề thuộc về trách nhiệm cá nhân, do những hành vi cá nhân hay do cả những yếu tố hệ thống? Đâu là những đầu mối có thể can thiệp để giảm nghèo cho một cá nhân, một gia đình, một cộng đồng? Nếu giáo dục là nhân tố có ảnh hưởng tích cực nhất tới thoát nghèo thì tác động qua con đường giáo dục vào các nhóm nghèo nên theo con đường nào?
Tại sao chính sách phúc lợi của Mỹ lại có cấu trúc như hiện tại? Tại sao khi nghĩ đến cụm từ “phúc lợi” thì người Mỹ cũng lập tức nghĩ tới hình ảnh một bà mẹ đơn thân, da đen, thường có con từ lúc vị thành niên? Tại sao từ “phúc lợi” cũng thường đi kèm với từ “phụ thuộc” và “phụ thuộc phúc lợi” được hiểu như một tình trạng lâm sàng giống người nghiện ma túy “phụ thuộc ma túy”? Những điều này ảnh hưởng thế nào đến việc xã hội Mỹ - qua nguyên tắc dân chủ - đã chấp nhận chi hơn 20% ngân sách cho quốc phòng, tức là bằng tổng số ngân sách quốc phòng của tất cả các nước trên thế giới cộng lại, trong khi chỉ chi 4% ngân sách cho phúc lợi, thấp nhất trong số các nước phát triển?
Tại sao trong ba thập kỷ qua, số lượng tù nhân ở Mỹ tăng hơn 600%, khiến nước Mỹ trở thành nước có tỷ lệ tội phạm cao nhất thế giới? Tại sao tỷ lệ tội phạm trong đàn ông da đen là 10% trong khi tỷ lệ này ở đàn ông da trắng chỉ là 1%? Tại sao 2/3 số tù nhân ra tù sẽ tái phạm và trở lại nhà tù, trong đó 40% sẽ trở lại nhà tù trong vòng ba năm sau khi ra tù?
Tại sao số lính Mỹ chết vì tự tử nhiều hơn số lính Mỹ chết trên chiến trường?
Tại sao lương phụ nữ chỉ bằng 80% lương nam giới? Có thể giải thích điều này bằng trình độ, loại công việc, ngành nghề, hay bằng lý do nào khác?
Vì sao người nghiện biết rằng nghiện đưa đến mất việc, gia đình tan vỡ, sức khỏe giảm sút mà họ vẫn không thể cai nghiện? Nghiện là một vấn đề đạo đức hay là vấn đề bệnh lý? Tại sao vào thập kỷ 70, người nghiện ma túy rất nhiều là người da đen nghèo nghiện heroin, còn bây giờ, ngày càng nhiều người trẻ da trắng nghiện cocain?
Tại sao người ta trầm cảm, muốn tự tử, có hành vi bạo lực, vân vân.
Vân vân và vân vân.
Đa phần sinh viên trong lớp tôi sùng đạo, đến mức thường trích dẫn Chúa khắp nơi trong bài tập và thảo luận trên lớp về các vấn đề như nghèo, nạo phá thai, đồng tính luyến ái, nghiện, tâm thần. Có sinh viên viết: “Khi đọc về các giai đoạn phát triển trong lý thuyết này, tôi nhớ đến các khía cạnh khác nhau trong Kinh Thánh và Sáng Thế Ký. Adam và Eva đã chọn không tin Chúa nên đã ăn trái cấm và rồi họ thấy xấu hổ vì mình trần truồng. Sau đó Adam được cai quản các loài vật trên mặt đất. Trong khi đó Erikson giải thích về đặc điểm phát triển của con người qua các thời kỳ bằng các yếu tố tâm sinh lý xã hội; nhưng có thể ông ấy sai; có thể là chúng ta như vậy bởi vì chúng ta được tạo ra như vậy. Chúa đã rất khéo léo tạo ra chúng ta và cho chúng ta khả năng có các kinh nghiệm như một con người.”
Nhưng có sinh viên phản ứng hoàn toàn ngược lại: “Tôi cho rằng việc đưa Thiên Chúa giáo vào các chương trình cai nghiện như chương trình cai nghiện rượu 12 bước là một sai lầm. Chính tôi từng suýt chết vì nghiện rượu, tôi từng thử chương trình 12 bước và nhận thấy việc áp Thiên Chúa giáo vào chương trình này rất phản tác dụng. Từ nhỏ, khi tôi đến trường, tôi được dạy Kinh Thánh và các bạn tôi thường dùng các từ ‘đồng tính’, ‘pê-đê’ để lăng mạ người khác. Họ nói: ‘Chúa không tạo ra bọn đồng tính. Bọn đồng tính là bọn bệnh hoạn’. Tôi biết điều này sai bởi vì bố tôi đồng tính. Lúc nhỏ, khi đến trường, tôi không làm sao có thể chịu được ý nghĩ rằng bố tôi, một người mà tôi kính trọng và luôn dạy tôi đúng sai lại phải xuống địa ngục sau khi chết vì là người đồng tính. Tôi đã nghĩ hoặc là Chúa đã nhầm lẫn khi tạo ra bố tôi, hoặc là các bạn tôi đã nhầm về Chúa. Tôi nghiêng về điều thứ hai.”
Nhưng cũng chính những niềm tin tôn giáo ăn sâu này - nhất là những niềm tin có định dạng các điều răn: “Không được ăn cắp, không được nói dối, không được tà dâm, A thì đúng, B thì sai” - giúp cho sinh viên của tôi có nguyên tắc rất rõ ràng. Lòng tốt và đạo đức của họ rất đơn sơ, có khi rất vẹn nguyên và minh bạch. Có hôm, sau khi tôi trả bài kiểm tra, Grace đến gặp tôi:
“Thưa cô, cô đã cộng thừa cho em 0,15 điểm.”
Tôi nói không phải tôi cộng thừa mà tôi chỉ làm tròn điểm.
“Ô, cảm ơn cô. Em vẫn phải hỏi vì em không muốn lương tâm em bị cắn rứt bởi điều này.”
Với sinh viên của tôi, nói dối là nói dối. Gian lận là gian lận. Công bằng là công bằng. Dân chủ thì nghĩa là tất cả mọi người đều phải có quyền bày tỏ ý kiến. Có lần, tôi bực mình vì sinh viên của tôi thường không in bài tập ra nộp bản giấy mà gửi qua email cho tôi, nên tôi nói tôi sẽ trừ điểm những ai nộp bài qua email. Sinh viên của tôi bảo, vâng, thế cũng được, nhưng cô không được trừ bài chúng em vừa nộp bởi vì như vậy không công bằng. Đây là lần đầu cô ra quy định này nên cô chỉ có thể trừ điểm từ lần sau. Tôi cứng họng, phải gật đầu đồng ý.
Giảng cho sinh viên là một thách thức và cũng là một quá trình học. Trong nội dung môn học, tôi phải giảng cho sinh viên các lý thuyết kinh điển về xã hội, bao gồm lý thuyết của Karl Marx, lý thuyết trao đổi xã hội, lý thuyết hệ thống, lý thuyết thỏa dụng, lý thuyết hệ sinh thái, cho tới các lý thuyết hiện đại hơn về quyền lực, cấu trúc cộng đồng, vốn xã hội, các lý thuyết về sự hình thành chính sách xã hội, vận động xã hội, hoặc lý thuyết về diễn ngôn xã hội. Sau những ngày sống ở chùa, tôi không còn có thể nhìn tất cả các lý thuyết này cũng như tất cả các hiện tượng xã hội như những hiện tượng biệt lập của thế giới vật chất.
Dù không nói với sinh viên về chuyện nhân quả, nghiệp báo, tâm linh, nhưng giảng gì, tôi luôn phải hỏi sinh viên: Những “vấn đề” mà xã hội yêu cầu các em giải quyết trong tương lai là “vấn đề” một cách tự thân, hay là do chúng ta quy ước với nhau như vậy?
Ví dụ “nghèo”. Nghèo gần như được coi là gốc của mọi vấn đề khác trong xã hội - nghèo nên thất học, thất nghiệp; nghèo nên nghiện ngập; nghèo nên bạo lực; nghèo nên phạm tội; vân vân. Khái niệm “nghèo” từ đâu sinh ra? Vì sao “nghèo” lại được gắn chủ yếu với tiêu chí kinh tế, vật chất? Vì sao nghèo lại luôn bị gắn liền với khổ? Khi ta gắn nghèo với khổ, với hèn, với nhục, với bất tài thì hệ quả là gì? Nó trói buộc con người ta như thế nào? Rõ ràng nghèo gần nhất trên đời là các bậc chân tu vì họ chỉ có một bình bát để khất thực, ba tấm y suốt bốn mùa, không của cải gì, nhưng họ chắc chắn không phải người khổ nhất, hay hèn nhất, nhục nhất. Còn khi ta tin nghèo là hèn, khổ, nhục, thì ta sẽ bắt đầu làm mọi thứ để thoát nghèo; và trong nỗ lực thoát nghèo đó, rất nhiều hệ lụy sẽ sinh ra. Vấn đề là, ngay cả người có tiền tỷ trong tay có khi cũng vẫn thấy mình nghèo.
Rộng ra, các quan niệm về đúng-sai, phải-trái, thiện-ác, đẹp-xấu, giàu-nghèo, phát triển-không phát triển, bình thường-không bình thường, người tốt thì phải thế này, người xấu là thế kia, quân nhân thì phải thế này, nghiện là thế nọ, thành công là thế kia, thất bại là thế nọ... bao nhiêu trong chúng chỉ là các thỏa thuận tạm của xã hội?
Và như thế, nếu một nhân viên công tác xã hội muốn tạo ra thay đổi ở một cá nhân hay ở một xã hội, thì điểm can thiệp tối ưu là ở đâu?
“Các em muốn thay đổi một người nghiện, các em phải biết cái nghiện nằm ở đâu. Các em muốn thay đổi một con người, các em phải biết cái ‘người’ đó nằm ở chỗ nào. Cái mà họ gọi là ‘Tôi’ ấy. Cả cái mà các em gọi là ‘Tôi’ nữa.”
Cứ thế, cuộc sống tuần tự trôi từ thứ Hai tới thứ Sáu. Ngày thứ Bảy tôi dành cả ngày để viết. Vào sáng Chủ nhật, tôi đi tập Yoga với một đồng nghiệp trong khoa, rồi hai đứa đi ăn trưa; buổi chiều tôi đi siêu thị mua thức ăn cho tuần sau; dọn nhà, giặt quần áo, và giải quyết các hóa đơn tài chính. Lần đầu tiên trong cuộc đời người lớn, tôi bắt đầu lo đến tài chính của mình.

Tháng Mười đến, rồi tháng Mười một. Từ giữa tháng Mười một, trời trở lạnh. Những cây phong trong trường ngả màu đỏ và vàng, đứng xen giữa những cây thông sẽ xanh lá suốt mùa đông. Dẻ rụng đầy quả khô; người ta phải trải lưới dưới gốc để gom quả mang đi đổ. Lũ sóc hối hả tha quả về tổ, chuẩn bị cho mùa đông. Tôi cũng hối hả, miệt mài với việc dạy học, viết, và đọc. Bây giờ, các buổi tối, tôi đã hình thành thói quen đọc sách Phật giáo trước khi đi ngủ. Tôi đọc không theo thứ tự nào, gần như để mặc cho mình mỗi ngày cảm thấy muốn đọc gì, hoặc tình cờ mở ra một trang bất kỳ. Có những ngày, tôi gặp những đoạn sách làm tôi choáng ngợp. Ví dụ một đêm, tôi đọc trong cuốn Lời vàng của Thầy tôi rằng tất cả những gì người ta gặp trên đường đi tới giải thoát - dù là Phật, Bồ Tát, hay ma, quỷ - chính là các huân tập của tâm ở vào thời điểm đó, là sự biểu hiện của tâm ở thời điểm đó. Sách cũng nói rằng những gì ta gặp chỉ xảy ra nếu ta tin rằng chúng - ma, quỷ hay Phật, Bồ Tát - là những thực thể tồn tại độc lập bên ngoài tâm ta.
Lại có đêm tôi đọc cuốn Phật học phổ thông rồi ngủ thiếp đi. Một lúc nào đó, tôi tỉnh dậy nhưng mắt vẫn nhắm. Và trong trạng thái nhắm mắt đó, tôi nhìn thấy một hình Phật vàng óng, rất lớn, ngồi giữa không trung. Tôi rõ ràng đang nhìn thấy dù tôi nhắm mắt. Ý nghĩ đầu tiên của tôi là: “Ôi, tôi nhìn thấy Phật này” - với một niềm vui lớn không sao tả nổi. Nhưng ngay lập tức sợ hãi và nghi ngờ chen vào: “Ơ, nhỡ không phải Phật mà là ma hiện ra giả Phật thì sao?” Đến đây cũng là lúc hình Phật biến mất.
Sang Columbia, lần đầu tiên trong hai năm kể từ đêm gặp ma, tôi có thể tắt điện đi ngủ. Tôi không rõ vì những ngày ở chùa làm tôi thấy người và ma có khác gì nhau hay vì Columbia là một thành phố mới. Thầy vẫn bảo: Cảnh sinh tâm, tâm sinh cảnh. Cảnh chuyển thì tâm chuyển, tâm chuyển thì cảnh chuyển.
Có những chiều, sau một ngày làm việc, tôi đi bộ thong thả về nhà, đầu óc rỗng rang. Đang bước chầm chậm dọc đường Sumter, một câu hỏi tự khởi trong đầu: “Ai đang bước đây?” Dường như không hề có tôi đang đi mà chỉ có sự đi đang tự động diễn ra. Tôi - tức các ý nghĩ, tình cảm - đã lặn đi đâu mất. Cái đang đi này là một sự trống rỗng, không suy nghĩ, không tình cảm, không ý thức về ai. Sự đi cứ thế tiếp diễn. Từng bước, từng bước. Xung quanh tôi, rất nhiều sự đi đang diễn ra - của các sinh viên, các giáo sư, nhân viên tòa thị chính, những chiếc ô tô - nhưng chẳng có ai thực sự đang đi cả. Mỗi người đều chỉ là một thể rỗng, chuyển động như những người mộng du, theo đống suy nghĩ và cảm thọ trong đầu mà họ mặc định là họ. Nhưng nếu hớt đống đó đi như hớt váng bọt trên một cốc nước và vứt toẹt đống đó ra, thì ai là họ? Và cái đống liên tục chuyển động, thay đổi theo những ý nghĩ và cảm thọ thay đổi đó - nếu nó cứ liên tục thay đổi như thế - thì lấy gì để neo vào mà nói là họ và phản ứng với họ đây.
Cứ thế, sự đi là tôi tiếp tục dịch chuyển trong một thế giới trống không, không có người, mà chỉ có các hiện tượng - mỗi người là một hiện tượng, mỗi xe là một hiện tượng, mỗi cây là một hiện tượng, và trời, mây, nhà, cột đèn, mặt đất, chim, sóc, hạt dẻ, hoa... đều chỉ là các hiện tượng đang liên tục biến đổi và biểu hiện một cách ngang nhau.
Ở đèn đỏ băng ngang từ quảng trường trước tòa thị chính sang phố Main, sự đi dừng lại chờ. Hoàng hôn đang xuống trên thành phố, cả bầu trời rực rỡ mây đỏ mây vàng. Cửa kính các tòa nhà in bóng mây và cây cối rực rỡ; trông như thể có một bầu trời và những rặng cây thật trên mặt kính. Dọc xa lộ 1, dòng xe vào giờ tan tầm vun vút chạy qua, đèn loang loáng. Sự đi là tôi lúc đó đứng hẳn lại với những câu hỏi nhưng không phải khởi lên từ bên trong:
Tất cả cảnh bên ngoài đang phản chiếu vào cái gì?
Nếu không có tất cả cảnh bên ngoài, thì làm sao tôi biết đâu là tâm tôi? Đâu là tôi?
Nếu không có âm thanh, sao biết có tai và khả năng nghe? Nếu không có màu sắc và hình, sao biết có mắt và khả năng nhìn?
Ngay lúc nhìn cảnh, nghe thanh là lúc tâm sinh ra. Cảnh này đến thì tâm này đến. Cảnh này đi thì tâm này đi. Cảnh cảnh, tâm tâm. Cảnh tâm, tâm cảnh. Cùng sinh, cùng diệt. Liên tục biến đổi như thế, thì lấy cái gì để trụ vào mà gọi là tôi đây?
Thực sự trụ vào cái gì mà gọi là tôi đây?
Và không trụ vào gì nữa, như lúc này, cái sự hiện hữu là tôi này đang chỉ mở toang trước sự trôi trôi của dòng xe và tiếng bánh xe, thì sinh diệt dường như mất hẳn ý nghĩa. Sợ hãi cùng tất cả các cảm giác đột nhiên ngừng bặt.
Chương 30
Lấy chồng hay không lấy chồng?
AJ và tôi vẫn tiếp tục hẹn hò từ lúc tôi xuống Columbia. AJ giúp tôi dọn nhà sang Columbia, rồi sau đó, ngày nào, chúng tôi cũng nói chuyện, nhắn tin nhiều lần. Kỳ Giáng sinh đó, chúng tôi đi Costa Rica nghỉ từ Giáng sinh tới năm mới. Sang xuân, chúng tôi đi Paris và bàn kế hoạch đến hè sẽ cùng về thăm gia đình AJ ở Ấn Độ. Từ Paris về, AJ quyết định sẽ chuyển xuống Columbia với tôi. Anh sẽ làm việc bán thời gian cho trường đại học. Mức lương dĩ nhiên chỉ bằng một phần tư mức lương hiện tại của AJ vì các trường đại học không thể cạnh tranh nổi với các công ty ở thung lũng Silicon. Nhưng AJ bảo anh không cần tiền; anh đã kiếm đủ tiền để có thể nghỉ hưu từ bây giờ; anh cần một nơi làm việc chủ yếu để có thể tương tác với người khác và giữ đầu óc linh động.
Chuyện AJ đồng ý chuyển đi Columbia làm ngạc nhiên tất cả bạn bè của anh và thú thực làm ngạc nhiên cả tôi. Khi quyết định chuyển đi Columbia, tôi đã chuẩn bị tinh thần rằng tôi và AJ dần dần sẽ trở lại làm bạn bè.
Nhưng AJ cứ từ từ và rất bình thường giữ việc nói chuyện hằng ngày với tôi mà không tạo bất cứ áp lực nào. Anh cứ bình thường đặt kế hoạch xuống thăm tôi, rồi lại bình thường bàn kế hoạch đi Costa Rica và kế hoạch bỏ Silicon Valley để chuyển xuống Columbia.
“Thật sự, em ngạc nhiên là AJ sẽ chuyển xuống Columbia - tôi nói với Tanveer, bạn thân từ mấy chục năm nay của AJ - Anh ấy là người rất lý tính. Anh ấy không thích phức tạp và không thích rủi ro. Mà việc chuyển đi Columbia này thì quá nhiều rủi ro cho anh ấy.”
“Tất cả bọn chị đều sốc - Tanveer nói - Bất kỳ ai biết anh ấy đều sốc. AJ mà lại chuyển từ đầu này nước Mỹ sang đầu kia nước Mỹ vì một phụ nữ ư? Không ai có thể đoán được điều này. Nhưng mà điều đó có nghĩa là anh ấy rất yêu em. Việt, em đã làm được. Chỉ có em mới khiến AJ làm điều đó. Anh ấy thực sự yêu em đấy.”
Tanveer nắm lấy tay tôi, hai mắt sáng lên:
“Ôi Việt ơi, hãy làm đám cưới vào mùa hè này ở nhà chị” - Tanveer nói - “Chị sẽ nấu hết cho các em. Sẽ nấu toàn đồ Ấn Độ. Chúng ta sẽ mặc sari thật đẹp và nhảy múa. Sẽ thật là vui. Ôi, sẽ rất vui. Nhé nhé, làm đám cưới nhé. Làm đám cưới luôn đi.”
Nhưng tôi chỉ cười.
“Không không, em chưa nghĩ đến chuyện đó. Nghĩ đến việc lấy chồng trở lại vẫn làm em sợ. Cứ để AJ chuyển xuống chỗ em trước đã rồi tính tiếp. Thực ra thì có khác gì lấy nhau đâu.”
“Nếu không khác gì thì sao không lấy đi. Ôi, Việt, hãy lấy chồng đi. Chị bảo với AJ là đừng có để cô ấy chạy mất đấy.”
“Nhưng chị biết không, anh ấy thậm chí chưa bao giờ nói với em là anh ấy yêu em.”
“Đàn ông Ấn Độ là thế. Anh Maq nhà chị cũng thế. Họ chẳng bao giờ nói ra miệng nhưng họ sẽ bày tỏ thông qua hành động. Nếu họ yêu em, họ sẽ xem điều gì làm em hạnh phúc và họ sẽ làm tất cả để em hạnh phúc.”
Tôi biết chứ. Cách quan tâm của AJ là thông qua hành động. Anh chỉ cho tôi cách quản lý và đầu tư tài chính. Anh đọc và sửa tất cả những bài viết tôi gửi cho anh đọc góp ý - dù là bài báo khoa học, hồ sơ xin tài trợ nghiên cứu, thư giới thiệu, báo cáo công việc cuối năm, hoặc những email quan trọng. Anh mua vé để chúng tôi đi nghe hòa nhạc mặc dù anh thực ra không thích nghe nhạc. Ngày sinh nhật của tôi, anh gửi email nhắc mọi người bởi vì anh biết tôi không tổ chức sinh nhật và cũng không cho ai biết ngày sinh nhật của mình. Anh đưa tôi đi gặp những người bạn mà anh nghĩ có thể giúp tôi phát triển sự nghiệp. Anh đọc thấy bài báo nào nói về việc xuất bản sách ở Mỹ, hoặc sách hay có thể dịch sang tiếng Việt thì đều gửi cho tôi đọc. Anh chú ý cả những việc nhỏ mà tôi không để ý. Có lần, AJ bảo tôi:
“Anh thấy em cứ dùng thìa dĩa nhựa rồi vứt đi chứ không dùng thìa dĩa kim loại. Đồ nhựa này khó phân hủy lắm. Sẽ có hại cho trái đất.”
“Tại sao anh lại mặc định là em muốn làm hại trái đất nhỉ?”
“Thế lý do của em là gì?”
“Bởi vì em có mấy vết hàn răng bằng thiếc. Ăn thìa dĩa kim loại rất ghê răng. Mỗi lần ăn là em rùng mình.”
“Ồ, hiểu rồi.”
Mấy hôm sau, khi đi làm về, AJ đưa cho tôi một nắm thìa dĩa nhựa.
“Anh thấy cái này ở tiệc công ty hôm nay. Thìa dĩa nhựa này có vẻ chắc chắn hơn loại em hay dùng.”
Tôi có thể nói với AJ về bất cứ chuyện gì mà không bao giờ phải tự kiểm duyệt. Bất cứ chuyện gì không thể nghĩ ra, tôi có thể hỏi ý kiến AJ và anh sẽ cho tôi một lời khuyên sáng suốt.
“AJ, bài viết này của em hổ lốn quá. Không biết phải viết thế nào.”
“Hãy dùng nguyên tắc số 3. Hãy chọn 3 thông điệp mà em muốn truyền tải cho người đọc. Chỉ viết những gì phục vụ 3 thông điệp đó, ngoài ra thì cắt hết.”
“AJ, em không biết phải viết phần kết của cuốn sách này thế nào.”
“Thì viết ‘Hết’.”
“Nhưng nó vẫn chưa có cảm giác kết.”
“Em định nói gì với cuốn sách thì em nói; nói cho hết; nói xong thì là hết, đừng tạo cái kết.”
“Em không biết nên kể bao nhiêu về cá nhân mình trong cuốn sách này. Có những cái nói ra có thể có lợi cho người khác nhưng mà có thể có hại cho em.”
“Rút cục thì mọi người đều sẽ chết cả.”
“Thật ra nếu em biết chắc nó sẽ có lợi cho mọi người thì em cũng chẳng ngại nó hại em. Nhưng em không biết chắc nó có lợi hay hại.”
“Em không thể điều khiển kết quả đâu. Hãy viết thôi. Đừng nghĩ đến kết quả.”
“Người ta có thể nghĩ xấu hay nói xấu về em.”
“Em có biết điều gì xảy ra với người nghĩ xấu hay nói xấu về em không?”
“Không. Điều gì?”
“Cũng giống điều sẽ xảy ra với người nghĩ tốt và nói tốt về em thôi, về lâu về dài, tất cả đều sẽ chết. Kết cục dài hạn đều là thế. Không khác. Cho nên đừng để những kết cục ngắn hạn làm ảnh hưởng đến em.”
“Em nghĩ có lẽ em chẳng nên viết sách nữa. Đằng nào cũng thế. Thế giới này vô vọng. Không thể thay đổi được.”
“Thế thì lại càng phải viết. Phương tiện sẽ chính là giải pháp.”
“Chẳng được ích lợi gì.”
“Dĩ nhiên là chẳng ích lợi gì cho em. Nhưng mà có thể có ích cho người khác.”
“Dạo này em hơi béo.”
“Thế thì ăn ít tinh bột đi hoặc đi bộ nhiều hơn.”
“Việc của em nhiều quá.”
“Nguyên tắc số 7: Make a list! Make a list! Make a list!”
“Này, anh có nghĩ là nếu như không có ai nghĩ đến mình, nhớ đến mình thì sự tồn tại của mình chẳng có nghĩa gì không?”
“Không, ý nghĩ của mọi người thay đổi liên tục. Làm sao dựa vào đó được.”
“Thế ngay lúc này, ngoại trừ em đang nói chuyện với anh thì anh nghĩ là ai đang nghĩ đến anh?”
“Mẹ anh.”
Có buổi sáng, tôi nói với AJ:
“Em chính thức nguyền rủa thằng cha đó. Cầu cho chuyện xấu xảy ra với nó vì nó chuyên đi hại người. Cầu cho lão ấy phát phì và bị trĩ nặng.”
“Sao vừa sáng sớm em đã rủa người thế?”
“Em đâu có rủa người, em chỉ rủa cụ thể thằng cha đấy.”
“Đừng tự tạo nghiệp xấu cho em.”
“Nhưng cái này không tạo nghiệp xấu bởi vì em đâu có rủa lão ấy vì lợi ích của em. Em đang làm điều đó vì quyền lợi mọi người, nhân danh công lý và sự tử tế trên đời. Em đang chống lại cái xấu đấy chứ.”
“Cẩn thận với những thứ nhân danh. Em đâu có chống lại cái xấu, em đang trả thù thôi. Cứ để nghiệp của lão ấy tự vận hành là được rồi, em không cần phải tự rước nghiệp xấu cho em làm gì.”
“Em không hề trả thù mà em cũng không hề rước nghiệp xấu cho em. Em đang chiến đấu. Nếu ai cũng đứng bên lề không làm gì, để mặc cho cái ác hoành hành thì thế giới sẽ...”
“Ờ, anh thì chỉ nghe thấy rất nhiều giận dữ trong giọng nói của em.”
“Không phải giận dữ. Đấy là lửa. Một loại lửa rất sạch. Đây là lửa của đam mê, của dũng cảm, của quyết tâm chiến đấu với cái ác trên đời.”
“Em chỉ cần gửi những ý nghĩ tốt lành đến cho lão ấy và người khác là được rồi.”
Có khi tôi chỉ nói bâng quơ: “Không biết muốn ăn ít thịt đi thì có thể ăn rau gì có nhiều protein nhỉ?” mấy tiếng sau, cũng có khi vài hôm sau, khi tôi đã quên hẳn chuyện này, AJ gửi cho tôi những bài báo khoa học về các loại rau quả nhiều protein.
AJ lại còn rất chăm tự học tiếng Việt qua phần mềm Rosetta Stone. AJ chỉ biết một số từ và tự tìm cách ghép từ hoặc dịch theo kiểu tiếng Anh nên anh nhắn tin cho tôi bằng tiếng Việt bồi, có lúc chen vài từ tiếng Pháp thế này:
“Bạn thế nào?”
“Tôi mệt. Bạn thế nào?”
“Tôi cũng (Me too). Chúng tôi hãy nói chuyện.”
“Chúng ta.”
“Ừ, chúng ta hãy nói chuyện.”
“Ê, đang làm gì?”
“Tôi viết.”
“ Zee sách hai?”
“Ừ, de sách hai. Bạn làm gì?”
“Ngủ nhỏ ( tức là ngủ trưa ).”
“OK! Ngủ nhỏ ngon.”
“Columbia thế nào?”
“OK. San Jose thế nào?”
“Có nước của trời.”
“Hả?”
“Nước của trời.”
“À mưa.”
“Hey, hey!”
“Vì sao gọi tôi?”
“Linh tinh. Bạn đang làm gì?”
“Tôi xem Như thế nào tôi gặp mẹ của bạn ?”
“Cái gì?”
“How I met your mother (19) .”
“Bạn muốn FaceTime không?”
“OK. Tôi vệ sinh đã.”
“Chợ hôm nay đi lên, đi lên.”
“Không hiểu.”
“Market up, up.”
“Ồ.”
“Tôi đã mua áo cho bạn. Tôi sẽ gởi hình chụp cho bạn.”
“Hmm, tiếng Việt của bạn tốt đấy. Nhưng bạn nói tiếng miền Nam. Tôi nói tiếng Bắc.”
“Vì Google nói tiếng miền Nam.”
“OK, sau (Later!).”
“Sau.”
“Bạn ở đâu?”
“Tôi ở nhà cà phê (quán cà phê). Uống và đọc linh tinh. E tu?”
“Tôi viết.”
“Hôm nay sừng của bạn thế nào? Nhọn không?”
“Hả?”
“Quy tắc số 5: Mọc sừng. Are you horny? Are you sharp?”
“Không nhọn lắm.”
“Hãy mọc sừng! Grow horns!”
“Bạn làm gì bây giờ?”
“Đi ngủ. Sup (20) ?”
“Không. Tôi xem Bà khiêu vũ”.
“Bà nào khiêu vũ?”
“Bollywood dancing. Ok, bạn ngủ ngon.”
Nhưng tôi vẫn chưa sẵn sàng để ký giấy kết hôn lần hai. Có cái gì đó cứ dừng tôi lại.
“Em sợ à?” - một đồng nghiệp thân thiết ở khoa hỏi tôi.
“Không phải. Em cũng không biết nữa. Nhưng em chỉ thấy em chưa sẵn sàng bước trở lại vòng tròn hôn nhân.”
Thật sự, nếu muốn kết hôn trở lại, không có ai hợp với tôi hơn AJ. Nhưng tôi chưa sẵn sàng bước trở lại vòng tròn đó.
Chương 31
Đâu cũng là nhà
Cứ thế, cuộc sống trôi đi đều đặn và dễ chịu hơn nhiều so với tưởng tượng của tôi lúc mới chuyển xuống đây. Suốt mùa đông, Columbia không hề có tuyết. Kể cả khi trời lạnh nhất, tôi chỉ cần khoác áo choàng dài là có thể thoải mái đi bộ từ nhà tới trường lúc sáng sớm. Hôm nào đài báo có khả năng có tuyết là trường học và công sở nhà nước nghỉ làm. Ở đây, có vẻ không ai cần phải chạy đua làm việc cho thật nhiều, thật bận rộn. Khi mùa xuân sang, hoa nở khắp khuôn viên trường và thành phố. Từ tháng Tư là đã có thể ra biển.
Sang kỳ học mùa xuân, tôi dạy hai lớp Hành Vi Con Người Trong Môi Trường Xã Hội. Học kỳ đầu, tôi chỉ có 12 sinh viên thì bây giờ, lớp học đầy ắp. Quen dần với việc dạy và với sinh viên, tôi bắt đầu nói nhiều hơn với sinh viên về đạo Phật và những gì tôi chứng kiến ở chùa mấy năm qua.
“Cô lại tổ chức đưa sinh viên đi Việt Nam đi cô” - sinh viên nói - “Chúng em muốn theo cô sang Việt Nam học.”
Tháng Năm, năm học kết thúc. Ngày cuối của năm học, nhóm giảng viên trẻ chúng tôi tụ tập ở ngoài nhà thuyền của Diane để ăn mừng. Chúng tôi uống cocktail, bia, rồi gọi chung một chai Pinot. Sau đó, Joe - bạn của Diane - nhập bọn và chúng tôi quyết định sẽ lên ca nô của Joe chạy ra giữa hồ.
Mặt trời đang lặn ở đằng Tây. Ánh đỏ và cam tráng đầy mặt nước. Những bóng cây cổ thụ quanh hồ đứng im lìm. Mặt nước gần như bất động, chỉ có những vòng sóng quanh ca nô của chúng tôi. Joe cầm lái, Diane và Drew ngồi co ro ở giữa ca nô còn tôi với Amber ngồi đầu mũi. Chúng tôi đi như tan vào hoàng hôn. Ra đến giữa hồ, Joe tắt máy; ca nô cứ thế bập bềnh trên nước, trôi tự do. Chúng tôi uống và tán gẫu. Drew đã say hẳn nên cứ hỏi đi hỏi lại tôi, lưỡi líu ríu:
“Thế iem là gì, vìa mặt tôn giáo í?”
“Em theo đạo Phật” - tôi nói. Đây là lần đầu tiên tôi tuyên bố điều này.
“Đạo Phựt là thế lào? Ló... ló... có nghĩa là gì? Vì sao tôiiiii ở đây? Vì sao tôi sinh dza ? Em có thể lói... lói... cho tôi biết vì sao tôi lại ở đây khô... không?”
“Ồ không, chị không ở đây đâu, chị chỉ nghĩ là chị ở đây thôi” - tôi cười.
“Hử, cái gì? Tại sao tôi lại ở đây? Tại sao tôi lại khô... không ở chỗ khác?”
“Không có chỗ khác đâu Drew. Chỉ có ở đây thôi.”
“Nhưng mà tại sao tôi lại ở đây? Why? Why? Why?”
“Chị đi mà hỏi nghiệp (karma) ý.”
“Nghiệp là thằng nào? Vì sao? Vì sao?” - Drew ngất ngưởng, hai tay vung lên trời, hất tung cả bia lên.
Chúng tôi cười nghiêng ngả. Tiếng cười lan trên mặt nước vào phía bờ xa khiến một con chó sủa lên vu vơ. Mặt trời như quả cầu lửa lớn chìm dần sau rặng cây, buông dần bóng tối xuống như bàn tay vô hình khẽ buông một tấm rèm xám khổng lồ. Mấy căn nhà bên hồ bắt đầu lên đèn, những ô cửa sổ và trụ đèn ở cầu tàu như những con mắt hấp háy. Ca nô tiếp tục bập bềnh trên mặt nước sạch và tĩnh một màu xanh thẫm. Chúng tôi cứ trôi trôi như thế, uống và nói chuyện tầm phào.
Trời bắt đầu lạnh dần. Gió có chớm giá buốt. Joe mở máy ca nô, hướng vào đất liền. Chúng tôi lên nhà thuyền lớn của Joe. Bên trong, Joe có bàn, cả xô pha và một cái guitar. Tôi yêu cầu Joe chơi; vậy là Joe và Drew bắt đầu thay nhau chơi guitar và chúng tôi hát theo. Lúc này, cả lũ đã chính thức say sưa; không một ai nhớ được lời bài nào mà chỉ còn nhớ giai điệu nên chúng tôi chỉ có thể ư ử hát theo, rồi bịa lời. Diane đem thêm ra một chai vang trắng lớn và một túi kẹo M&M; chúng tôi uống rượu với M&M. Diane ngồi ghế thuyền trưởng với một cốc vại rượu; tôi thì ngồi một bên bàn, Joe ngồi bên kia, Drew và Amber ngả ngốn trên xô pha. Drew cứ giả giọng lè nhè của Bob Dylan mà gào lên những lời tự bịa.
“Chị thích Bob Dylan hả?” - tôi hỏi.
“Cái gì? Em nghe Bob Dylan à? Ông ta thật khinh khủng. Khinh khủng, khinh khủng .”
Drew nói thế rồi tiếp tục lè nhè bài “Blowing in the wind” của Bob. Rồi Joe chơi bài “Blackbird” (Chim sáo đen) của Beatles; tất cả chúng tôi hát họa theo.
“Chim sáo đen hót trong đêm vắng, dang đôi cánh gãy để học bay...”
“Học bay, học bay...”
“Chim sáo đen bayyyyy... bayyyy... bayyyy...”
“Bayyyy... bayyyy... bayyyy...”
Rồi Joe chơi bài “Lean On Me” (Dựa vào tôi), và chúng tôi đệm nhại theo... Ôi chao, cười chảy nước mắt.
“Hãy dựa vào tôi” - Joe hát.
“Vào tôi, vào tôi” - tôi hát.
“Khi bạn buồn” - Joe hát.
“Buồn buồn buồn” - tôi hát.
“Dựa vào tôi” - Joe hát.
“Vào tôi, vào tôi” - tôi, Amber và Drew đồng thanh hát.
“Dựa vào tôi” - Joe hát.
“Tôi, tôi, tôi” - tôi hát vì Amber và Drew còn đang rũ rượi cười.
Hơn 10 giờ tối thì tôi và Amber ra về. Trở về nhà, tôi đọc sách, rồi ngủ. Nhưng đã nhắm mắt rồi mà vẫn còn nhìn thấy. Không phải tôi mơ. Cũng không phải tôi say - tôi có uống đâu. Nhưng rõ ràng, tôi đã nhắm mắt rồi mà vẫn nhìn thấy các hình ảnh hiện ra loang loáng trước mắt. Hết hình này đến hình khác.
Tôi lại nhớ trưa hôm trước, tôi nói chuyện với Tony, giám đốc chương trình Tôn giáo và Khoa học của trường về việc các kinh nghiệm tâm linh kiểu vong nhập là thật hay giả. Tony nói:
“Chúng ta phải phân biệt khái niệm “kinh nghiệm” (experience) với “bằng chứng” (proof) và “thực tại” (reality). Hầu hết cuộc đời chúng ta, chúng ta không có bằng chứng nào về sự tồn tại của mình vào giờ này, ngày này, phút này. Nói cho cùng, ta hầu như không có bằng chứng về sự tồn tại của đời mình. Nhưng nếu chúng ta không có bằng chứng về sự tồn tại của ta, của đời ta, thì điều đó có nghĩa là ta không tồn tại chăng, đời ta không tồn tại chăng? Những kinh nghiệm tâm linh ấy, nếu chúng ta không thể cung cấp bằng chứng, thì có nghĩa là chúng không tồn tại chăng? Vấn đề của khoa học hiện tại là người ta đánh đồng bằng chứng với thực tại.”
Tôi mong sao đến mùa hè để trở lại Việt Nam. Tức là trở lại chùa để tiếp tục nghiên cứu. Tháng trước, tôi đã làm giấy phép xin thực hiện một nghiên cứu thực địa tại chùa, đồng thời cũng sẽ tiến hành một khảo sát song song với các bệnh nhân tâm thần và các bác sĩ tại các bệnh viện tâm thần ở Hà Nội.
Phần 6: Hà Nội - Mùa hè 2013 - Chương 32
Hà Nội là một cảnh giới
Lần nào trở lại, tôi cũng có cảm giác mình là khách của Hà Nội trong những ngày đầu. Thành phố thay đổi quá nhanh. Sau mấy tháng, những đường phố mới, những cửa hiệu mới, một loại xe mới, kiểu áo chống nắng mới, màu tóc màu son mới của các cô gái, và những câu chuyện mới đã hình thành. Hà Nội đã sắm một tâm trạng mới, trình diễn một vở kịch mới trong đó tôi không hề có vai. Nhưng rồi luôn luôn, Hà Nội sẽ mượn tay những công dân cố hữu của nó mà lôi tôi nhập vào tâm trạng Hà Nội. Mẹ tôi luôn là một công dân đắc lực của âm mưu này.
Gần 5 giờ sáng nay, mẹ vào phòng tôi.
“Dậy! Dậy đi con, dậy đi tập thể dục.”
Nước Mỹ chính thức kết thúc. Tôi đã trở lại Hà Nội.
Trời đang tang tảng sáng; không khí sạch và mát, phảng phất mùi đất ẩm mốc. Dưới gốc đa ngoài cửa đình, bàn ghế của mấy hàng nước chè vẫn còn úp ngược, được chằng xuống đất bằng những sợi xích lớn. Cả ngõ không một bóng xe, chỉ có những bà già mất ngủ bắc ghế ngồi lặng lẽ hóng gió sớm trước cửa nhà. Một số quét sạch lá ở sân đình để chuẩn bị tập Thái cực quyền trong khi một số chầm chậm đưa những bàn tay gầy guộc trong không khí như cố vớt buổi sớm.
Ở đầu phố, một sinh viên mắt trước mắt sau dán quảng cáo gia sư vào cột điện, ngay cạnh hàng chữ “Cấm dán quảng cáo”. Những người đàn ông cởi trần, tay và lưng xăm trổ hùm beo, đang cần mẫn giúp vợ dọn hàng sớm - họ quạt lò than, tháo xích khỏi những cái ghế, bê các thùng nước lèo từ xe máy xuống. Một phụ nữ bịt kín mặt, rón rén gạt lá tre khỏi các chum ươm giá rồi lại khẽ khàng bốc từng vốc giá đỗ khỏi chum, tãi xuống mẹt để sảy vỏ đỗ xanh khỏi các thân giá mập mạp. Những người xe ôm chỉnh tề sơ mi quần âu ngồi ngay ngắn trên yên xe với khuôn mặt đầy vẻ hy vọng mà chỉ đến giữa ngày là bị cái nóng làm nhàu nhĩ. Những người giao sữa đậu nành kĩu kịt túi lớn túi nhỏ ở ghi đông, hai thùng gỗ kẹp giữa hai đùi, hai thùng ở yên sau xe. Ai cũng bịt mặt kín bưng, mặc áo chống nắng.
Mùi than tổ ong khắp nơi.
Những bà già đi chợ sớm đã về, tay lủng lẳng túi ni lông xanh đỏ, nào rau nào thịt nào hoa. Các bà vừa đi vừa bịt mũi và khéo léo tránh những bãi nôn của đám say đêm còn vương vãi trong ngõ, chưa kịp khô.
Những hàng thịt ở góc phố thoăn thoắt banh những thân lợn trên phản - tiếng chặt xương chan chát; những đường dao xẻ thịt loang loáng lượn sóng. Thịt rơi từng miếng phồm phộp xuống bàn.
Chim hót ríu ran trên cây và trong lồng treo ngoài chuồng cọp đan sắt của khu tập thể, lẫn giữa những sào quần áo phấp phới trong gió sớm.
Mùi dâu da xoan thơm ngát.
Bằng lăng bị mưa làm bạc màu, tơi tả trên mặt đất.
Trên vỉa hè rộng của phố Vạn Phúc, các lớp Aerobic ngoài trời đã đứng thành hàng kín cả hai bên, bên này xập xình “Con bướm xinh, con bướm xinh, con bướm đa tình...” bên kia đối lại “I am a Barbie girl, in a Barbie world...”. Những người không đóng tiền mà chỉ tập lỏm thì thụt thò ở góc đường, nửa theo nhạc, nửa không. Vài phụ nữ trung niên chầm chậm lắc những cái vòng như một cái tràng hạt khổng lồ. Bốn sân cầu lông vun vút cầu bay trong những tiếng “chết này, chết này...”. Các ông bà già đi bộ theo đôi - cẩn trọng, bình thản. Một số bà già đi bộ ngược - giật lùi, giật lùi. Trẻ con béo, mắt cận, bị mẹ lôi đi thể dục - thất thểu, thất thểu.
Anh cảnh vệ trẻ trước đại sứ quán Nhật chỉnh tề trong quân phục xanh lá mạ, súng trễ cạp quần, hờ hững hết ngáp lại ngoáy mũi trước đám người qua lại.
Dưới lòng đường, những thanh niên áo ba lỗ quần soóc tông lì dắt chó cưng đi dạo bằng xe máy - chầm chậm, chầm chậm. Một số thanh niên ôm gà chọi đi chọi sớm hoặc đã chọi suốt đêm giờ mới về - mắt đỏ ngầu, gà chọi ấp sát ngực. Những người quét rác bịt kín mặt lặng lẽ khua những đường chổi rộng trên đường - xoèn xoẹt, xoèn xoẹt.
Rồi trời bắt đầu mưa lâm thâm. Những người đi xe đạp điện trôi trôi trong màn mưa lâm thâm.
Tôi theo mẹ tập dọc phố, vượt qua lớp học Aerobic, những sân cầu lông, anh cảnh vệ, và những cụ già. Khi trời bắt đầu lác đác hạt mưa lớn thì tôi trở về. Đã ngoài 6 giờ - thành phố đã chính thức tỉnh dậy - tiếng cưa sắt, khoan đục chát chúa bắt đầu vang lên. Những nhóm thợ xây còn ngủ kềnh càng trong mấy cái lán lúc tôi đi qua giờ đã dậy đứng dàn hàng đánh răng rửa mặt, nhìn chòng chọc người qua lại và trêu các cô gái. Các hàng quán chưa mở lúc tôi đi giờ đã bàn ghế chỉnh tề, bát đũa ngay ngắn, lác đác người ngồi ăn.
Trong nhà, Sóc - cháu gái mới mấy tháng tuổi của tôi - đã dậy. Chị gái tôi nhỏ thuốc mắt, thuốc mũi, đánh tưa lưỡi, cọ sạch lợi và miệng cho Sóc. Trong lúc đó, tôi phải đứng giơ tay thè lưỡi, bĩu môi nhăn mặt làm trò để đánh lạc hướng Sóc. Con bé cứ trố mắt ngạc nhiên và cười như nắc nẻ với mỗi trò dớ dẩn của tôi là ú òa. Thế mà suốt đêm qua, Sóc trở dậy nhiều lần vì nóng, mỗi lần dậy lại khóc ngằn ngặt.
Hà Nội lúc nào cũng vậy. Hà Nội là một cảnh giới mà tôi phải dùng cụm từ thường có trong kinh Phật: “bất khả tư nghị”.
Hà Nội thực không thể nghĩ bàn.
Chương 33
Một lễ thế phát
Thầy Đạo nhắn 8 giờ sáng nay có lễ thế phát (21) cho một thanh niên tên Hiển. Bảy giờ sáng tôi rời nhà để vào chùa.
Ngoài cổng chùa mới có thêm hàng hoa vải vàng với chữ “Kính mừng Phật đản”. Bên trong, các tượng Tỳ Lô Giá Na xi măng đang được phun sơn vàng óng. Ruộng sau chùa đã lấp hết. Rặng nhãn sum suê trong sân được tỉa bớt, để lộ một khoảng sân rộng lát gạch đỏ. Một khu nhà mái tôn đã được dựng lên gần bếp và khu vệ sinh mới cho Phật tử ở. Tam Bảo giờ được trải thảm đỏ, không phải nền gạch như trước nữa. Khải - cậu sinh viên năm ngoái đã xuống tóc, giờ là sư chú Đạo Lục. Chú Đạo Nhị đã lên sư ông Đạo Nhị; chú Đạo Tam lên sư ông Đạo Tam; chú Đạo Tứ lên sư ông Đạo Tứ và chú Đạo Ngũ thành sư bác Đạo Ngũ. Sư ông Đạo Nhất thì đẹp lên nhiều so với năm trước; khuôn mặt sáng lên, không còn hốc hác, gồ ghề. Các sư ông, sư chú bây giờ đều mặc áo nâu nhưng chân đi tất vải, bó ống màu vàng, giày vải màu vàng. Sự an lạc tỏa rạng trên khuôn mặt họ. Thầy bảo bây giờ chùa đã lập chúng rồi. Tôi hỏi lập chúng là gì, thầy bảo tức là lập ra tăng đoàn, mọi quyết định đều do chúng tăng, chứ thầy giờ cũng không có quyền quyết định và bắt mọi người theo. Thầy vẫn là trụ trì về mặt hành chính nhưng về mặt giới thì thầy cũng chỉ là tỷ khiêu như các sư ông; nếu thầy đề xuất điều gì mà chúng tăng không đồng ý thì sẽ phải theo chúng tăng; đấy gọi là pháp “lục hòa kính” tức “sáu phép hòa hợp khi cùng sống với nhau.”
Phải có thân hòa cộng trụ (22) , khẩu hòa vô tranh (23) , ý hòa đồng sự (24) , giới hòa đồng tu (25) , kiến hòa đồng giải (26) , và lợi hòa đồng quân (27) .
“Được như thế thì quá tuyệt” - tôi nghĩ - “Nếu xã hội lấy tôn chỉ này hoạt động thì có lẽ thế giới sẽ luôn hòa bình.”
À nhưng tôi tưởng chùa đã luôn như vậy chứ, sao năm nay thầy mới nói lập chúng. Thầy nói không phải. Đa số chùa Việt Nam, nhất là chùa miền Bắc đều tu hành theo lối nhất tăng nhất tự, tức mỗi chùa có một vị tăng trụ trì, vị tăng đó có một vài đệ tử; cả thầy và trò đều thuộc quản lý của Giáo hội. Tất cả các việc như thụ giới sa di, giới tỷ khiêu, tấn phong thượng tọa, đại đức, hòa thượng đều phải chờ Giáo hội có đàn giới thì làm đơn, gửi đệ tử mình đi; có khi phải chờ nhiều đàn giới mới được thụ giới. Đến mùa an cư thì các chùa sẽ gửi tăng ni về trường hạ an cư tập trung. Khi đệ tử trưởng thành lên thì thường sẽ lại nhận chùa, tách khỏi thầy ra ở riêng, lại tiếp tục nhất tăng nhất tự.
Còn giờ thầy lập chúng thì thầy trò sẽ luôn ở cùng nhau chứ trò không đi nhận chùa riêng; dù chúng có đông đến trăm hay nghìn tăng ni. Nếu có nơi cúng chùa mới thì thầy có thể cử đệ tử luân phiên tới đó tu hành một vài năm, nhưng rồi lại về hoặc luân chuyển nơi khác. Chúng có thể chia đi khắp nơi hoằng pháp, như nhiều nhánh sông từ một nguồn, nhưng sẽ luôn tụ về đây, lấy đây làm tổ đình; thầy trò cùng nhau tu tập đến hết đời chứ không chia tách cát cứ. Dần dần, khi nào việc xây dựng tăng phòng và các công trình vệ sinh, giảng đường hoàn thành thì thầy sẽ chỉ đi sâu vào việc tu hành, không còn làm các việc phan duyên như cúng bái nữa.
Thầy nói lập chúng rồi thì thầy trò cũng sẽ tự tổ chức an cư kết hạ tại chùa chứ không phải gửi các sư ông ra trường hạ an cư như những năm trước. Mấy hôm nữa chư tăng sẽ tác pháp an cư để bắt đầu mùa an cư kết hạ.
“Đây sẽ là mùa an cư đầu tiên ở chùa. Chúng tăng cũng sẽ phải tác pháp để cho cô được tòng tăng an cư. Tức là nương tựa vào chư tăng mà tu học.”
“A Di Đà Phật” - tôi chắp tay xá thầy, lòng vui lạ thường - “Thật may cho con được theo thầy và các sư ông an cư từ mùa đầu tiên.”
Gần 9 giờ, bạn bè Hiển từ Hà Nội vào chụp ảnh với Hiển để kỷ niệm ngày cuối cùng mà Hiển là người thế tục. Hơn 9 giờ, Phật tử vào ngồi hai bên cánh Tam Bảo, khoảng giữa chừa cho chư tăng làm lễ. Sau đó thầy và các sư ông vào, tất cả đều đắp cà sa vàng. Tôi lần đầu nhìn thấy sư ông Đạo Nhất, Đạo Nhị, Đạo Tam, Đạo Tứ cùng đắp cà sa vàng, lòng bỗng trào lên một nỗi xúc động và tự hào lạ lùng.
Lễ thế phát rất giản dị. Thầy giảng vắn tắt về ý nghĩa của việc xuất gia. Xuất gia là ra khỏi ba ngôi nhà lớn.
Một là xuất thế tục gia, tức ra khỏi ngôi nhà có cha mẹ anh chị em, để vào sống trong tăng đoàn. Hai là xuất phiền não gia, tức là ra khỏi ngôi nhà phiền não. Ba là xuất tam giới, ra khỏi luân hồi sinh tử, đi trên con đường giải thoát.
Thầy nói trong ba ngôi nhà này thì xuất thế tục gia là cửa ải khó nhất bởi vì cái ái dục với cha mẹ vợ chồng anh em con cái rất lớn; chúng ta sinh ra làm người đã có các sợi dây thân quyến này trói buộc rồi. Đa số các gia đình thấy con cái đi tu là việc buồn, nên thường cấm cản, khiến cho nhiều người muốn đi tu nhưng nghĩ đến chữ hiếu với gia đình mà chần chừ không dám quyết. Chúng ta thường chỉ nhìn thấy chúng sinh có hình tướng, nên cả đời loanh quanh làm vừa lòng vài người trong gia đình, cha mẹ vợ chồng anh chị em bạn bè của đời này mà không biết đến vô lượng chúng sinh trong các cảnh giới vô hình. Họ đều là cha mẹ vợ chồng, thân bằng quyến thuộc của ta trong vô lượng kiếp. Phật nói hiếu có bốn loại: cận hiếu, viễn hiếu, đại hiếu, tiểu hiếu. Ở lại nhà để đi làm, nuôi dưỡng cha mẹ đời này chỉ là tiểu hiếu. Xuất gia là đại hiếu, vì không những có thể tu tập giúp cha mẹ đời này giải thoát mà còn có thể báo hiếu với tất cả chúng sinh, với cha mẹ tổ tiên nhiều đời.
Thầy giảng xong, chú Hiển thỉnh cha mẹ ngồi phía trước. Chú dập đầu lễ cha mẹ để tạ ơn sinh thành. Cha mẹ Hiển khóc; Hiển cũng khóc. Đây là lần cuối cùng chú lễ cha mẹ như vậy; một khi đã xuống tóc, người tu hành không lễ cha mẹ, cũng không hành lễ với vua quan hay thần thánh mà chỉ lễ Phật, lễ thầy tổ, lễ tăng. Cũng từ ngày mai; mà không, chỉ mấy phút nữa, ngay sau khi Hiển xuống tóc là cha mẹ Hiển sẽ phải gọi Hiển bằng “sư chú” và xưng “con” với Hiển.
Hiển lễ cha mẹ xong thì quỳ giữa Tam Bảo, hai tay chắp, nước mắt vẫn chảy ròng ròng. Sư ông Đạo Nhị bê khay dao kéo tới. Thầy cầm kéo, cắt ba lọn tóc nhỏ, tượng trưng cho ba nguyện của người xuất gia.
Nguyện đoạn nhất thiết ác (28) .
Nguyện tu nhất thiết thiện (29) .
Nguyện độ nhất thiết chúng sinh (30) .
Sau đó, thầy cầm dao, cạo một đường dài từ đỉnh đầu xuống trán; rồi bắt đầu cạo vòng quanh đầu. Thầy vừa cạo vừa chú nguyện khẽ. Tóc Hiển theo những đường dao rụng dần, rụng dần. Sư ông Đạo Nhị cầm khay đỡ những lọn tóc rơi xuống. Trong lúc này sư ông Đạo Nhất, Đạo Tam và Đạo Tứ dẫn đại chúng trì thập chú và tụng Tâm Kinh Bát Nhã. Tiếng trì tụng vang dội trong Tam Bảo. Bố mẹ và họ hàng Hiển vừa khóc vì xúc động, lại vừa cười vì hoan hỉ. Nắng sớm từ ngoài rọi từng vệt sáng vào Tam Bảo.
Tóc đã rụng hết. Thầy cầm cái khăn mặt vàng trên khay lau sạch tóc trên đầu, mặt, và cổ cho Hiển.
“Pháp danh của con là Thích Đạo Thất.”
Vậy là thêm một bông hoa sen đã nở.
Kiểng nổi lên. Thầy dẫn đại chúng nhiễu quanh ban thờ Phật, rồi ra khỏi Tam Bảo, xuống Tổ Đường lễ tạ các tổ. Buổi lễ thế phát kết thúc. Mẹ chú Đạo Thất quỳ sụp xuống chân thầy, khóc:
“Nhờ thầy dạy cháu.”
Thầy cười xoa đầu mẹ chú Đạo Thất:
“Cô phải vui chứ.”
Buổi trưa, chúng tôi ăn bún với đậu phụ. Mẹ chú Đạo Thất và chú Đạo Thất phụ trách nấu. Từ nay, chú Thất chuyên nấu ăn thị giả thầy và cũng chịu trách nhiệm việc bếp núc của chùa.
“Đi tu là một quyết định lớn phải không chú?” - tôi hỏi chú Đạo Thất.
“Khó nói lắm” - chú Đạo Thất cười, nhìn ông Đạo Nhị ngồi gần đó - “chỉ người nào quyết định rồi mới biết thôi. Khó giải thích cho người ngoài, sư ông nhỉ.”
“Ừ” - ông Đạo Nhị nói - “Ai phát tâm thì người đó mới biết.”
“Đại để thấy cuộc sống ở ngoài nó chán, nó ảo, nó giả, không còn thiết nữa” - chú Đạo Thất nói - “Nhàm chán thế gian.”
“Thế có phải là đầu hàng, chạy trốn không ạ?” - tôi nói.
“Không, mà là thấy nó ảo quá” - chú Đạo Thất nói.
Tôi ăn xong, thầy gọi tôi vào nhà sàn, chỉ cho tôi phòng ngủ trưa cũng là phòng mà tôi sẽ ở trong mùa hè này. Vẫn là phòng Internet kiêm thư viện chứa thư tịch cổ mà năm ngoái tôi đã ở. Trong phòng, ngoài một cái giường đơn còn có một cái bàn để máy tính và tủ. Cửa sổ phòng mở ra khu nhà có ông Đạo Tứ, ông Đạo Tam, bác Đạo Ngũ, và một số Phật tử. Nhìn xa nữa là lầu trống và cánh đồng.
Tôi ngủ một giấc mê mệt đến 2 giờ chiều thì lên chùa tụng kinh Dược Sư với mọi người. Sư ông Đạo Tứ làm chủ sám, dẫn đại chúng tụng kinh. Giờ sư ông đã đạo mạo ra dáng lắm rồi. Tôi không thể nào còn nghĩ đến Huy của mùa hè cách đây hai năm nữa. Chú Huy đó đã hoàn toàn biến mất, không để lại dù chỉ một chút dấu vết. Không biết bao lâu thì sư chú Đạo Thất cũng sẽ lột xác hoàn toàn.
Đường đi lên khỏi bùn của một bông hoa sen không hề đơn giản.
Chương 34
Chuyện sư chú đạo thất
Chú Thất lớn lên ở Hà Nội đúng không?
Hà Nội.
Bố mẹ chú làm gì ạ?
Bố thì làm tự do. Dân giang hồ mà.
Giang hồ theo nghĩa nào ạ?
Nghĩa nào cũng được! Theo nghĩa đâm thuê chém mướn, đòi nợ thuê, tất cả. Ngày xưa gọi là thành viên xã hội đen. Kiểu thế. Đầu gấu đầu mèo, kiểu thế. Hiện nay thì đang làm nghề tự do thôi. Đâm chém thì thực ra từ ngày xưa. Có tuổi rồi mà, những cái việc đấy đa phần chỉ có bọn trẻ con, các cháu các em, đệ tử các thứ đấy. Chip hôi!
Khi chú lớn lên, lúc nào thì chú biết bố chú là dân giang hồ?
Lúc nào cũng biết. Từ bé đã biết.
Thế chú có sợ bố chú không?
Sợ thì cũng không sợ. Lại còn có tí tự hào.
Nhà chú ở khu nào?
Đấy, chỗ Hồng Mai. Nói chung quanh khu vực chợ Mơ, chợ Trời, từ ngày xưa đến giờ toàn giang hồ, dân anh chị. Thật sự để mà nói thì tôi không phải tự hào nhưng mà thế hệ 8x í, từ 80 cho đến tuổi của tôi thì... chúng nó đa phần không nghiện thì cũng vào tù, vài ba năm vài ba lần.
Bố mẹ chú có sợ là chú sẽ đi theo con đường đấy không? Hay là muốn chú đi theo con đường đấy?
Không, không bao giờ muốn! Bởi vì các cụ nói, hy sinh đời bố củng cố đòi con chứ. Ai lại để cho con theo đường... (Cười) Đấy cũng là cái điểm mà tôi tự hào. Nói chung là luôn dạy dỗ con cái điều hay lẽ phải, cách đối nhân xử thế.
Từ bé đến lớn chú có đánh nhau không?
Có đánh nhau.
Có chém nhau không?
Có chém nhau. Tính mình thì vừa nông nổi vừa chọi con mà. Cục tính nữa, thành ra hơi tí lại cà nhau. Thời gian trước khi tôi vào đạo í, đầu giường tôi lúc nào cũng có dao kiếm.
Để làm gì ạ?
Phòng thân. Thứ hai là... anh em chơi với nhau... Thực ra đâm chém thì ít. Vì Hà Nội nó nhỏ lắm, chơi với nhau biết nhau hết, biết nhau thì lại thôi.
Thế thường đánh nhau vì lý do gì ạ?
(Cười) Nó cũng nhiều lý do lắm! Thích thì đánh nhau! Thanh niên đêm hôm đi chơi bời rồi ngồi tụ tập trà đá rượu chè thì nó phát sinh. Hoặc là đi đường thôi! Nó có rất là nhiều trường hợp. Con trai mà gay hoặc là đồng cô, bóng cậu các thứ thì tôi dị ứng lắm! Bởi vì, đây nói vui thôi nhớ, cái đợt đấy tôi không ở nhà mấy, đi lang chạ suốt. Thế thì ở cùng với một ông anh, ông í chơi đề, lô đề số má các thứ đấy, thì mình cũng hay đi thu tiền hộ cho ông í. Thế một hôm qua bên ký túc trường Kinh tế quốc dân í, thì lại gặp cái nhà này, gọi là dì, con trai nhưng mà lại gọi là dì.
Hôm đấy thanh toán cho dì í xong rồi, lúc xuống nhà đang đi giày vào thì gặp bạn của dì vào. Ui giời ơi, nhìn không ai nghĩ là đồng cô đâu. Trông cao to, đầu trọc lốc, trông manly lắm. Thật! Trông manly lắm! Ôi thế mà mình đang đi giày vào, mới ngồi phịch phát xuống cạnh mình, vỗ tét phát vào đùi mình, xong xoa xoa: “Ôi giày đẹp thế”! Mình nổi hết cả gai ốc. Thề chứ nghĩ bụng, đây mà không phải chỗ làm ăn của ông anh mình thì kiểu gì thằng này cũng ăn một trận đòn...
Ngày xưa chú có chơi ma túy không ạ?
Chơi ma túy thì... nói thật có hôm uống rượu say thôi. Hồi đấy còn đang đi lái taxi! Hôm đấy đang ca làm thì ông anh gọi điện, đi về đây chơi với anh. Thế là về cất xe ở bãi, đóng nguyên bộ quần trắng áo xanh taxi, giày đen công sở đấy, đi chơi. Đi New Century, à không New hồi đấy đóng cửa rồi, đi karaoke. Thế hai anh em đều say. Thế đi về thì ông í đèo, ông í phê quá, ông í cứ phi! Phi ra đúng cái đoạn chỗ đường Bà Triệu nhớ, tôi vẫn nhớ cái cảnh đấy, có cái vũng nước. À chỗ Đội Cung, nó rải nước chỗ đường đấy. Thế bảo, ôi anh, nước, nước, nước! Mình nhìn thấy đồng hồ chạy 90 km/h mà từ chỗ Đội Cung đấy ra Đại Cồ Việt nó gần đoạn rẽ rồi, bảo anh ơi nước, nước! Xe đấy mà cứ dính vào nước là úp cua, dân tổ lái gọi là úp vỉa đấy. Thế là xòe! Hai anh em bay một phát lên cỏ, ông í ngã trước, mình lăn lên người ông í. Đứng dậy hỏi, anh ơi anh có làm sao không? Ông ý bò dậy, không anh không sao, thế mày có làm sao không? Bảo không em không sao, thế giày em đâu? (cười) Hóa ra bay mất một chiếc! Một chiếc vẫn đang đi. Mình vẫn nhớ như in cái hôm đấy, nghĩ lại cũng vui! Vừa sợ vừa vui! (cười)
Thế xong làm thế nào chú biết đến chùa này? Nhà chú là Phật tử đúng không? Con thấy bảo mẹ chú hay đi chấp tác các chùa.
Đâu, mới. Tức là bố tôi quy ở trong Hương, hay đi cúng với cả các chú, nói chung cũng toàn dân giang hồ, quy trong Hương. Bố tôi quy xong thì thi thoảng cũng đi chùa nọ phủ kia, lúc đấy tôi cũng đi Lào Cai Yên Bái với các chú các bác bạn bố. Thế thì đi đấy thì có chú bảo, mày có thích Vĩnh Xuân không, tao giới thiệu cho sang bên bác này, bác có tiếng đấy. Tôi thì thích thể thao. Võ thuật thì tôi cũng thích. Thế thì đi học. Học Vĩnh Xuân thì sư phụ dạy võ mới hỏi là thế có đi chùa không? Thì bảo con có đi. Thế sư phụ lại hay vào đây, thế là vào đây.
Lần đầu tiên chú vào chùa là năm bao nhiêu?
2011. Cứ thu xếp, tuần độ hai buổi. Một thời gian thì tôi xin vào ở chùa.
Lúc đấy chú đã xác định là chú đi tu chưa?
Chưa. Nói vậy thôi chứ có phải ai cũng đủ phúc đức để mà đi tu được đâu? Nhà phải có phúc đức lớn lắm thì mới đi tu được chứ đâu phải là muốn đi tu là dễ đâu!
Tức là lúc đầu chú chỉ muốn vào chùa sống thôi?
Sống thử. Thứ nhất là để gần với đạo. Quan trọng lúc đấy mình muốn tách với xã hội bên ngoài để tự rèn cái bản thân mình, không chơi bời lêu lổng nữa.
Thế cái gì làm cho chú quyết định ở luôn?
Thực ra mà nói thì... nó cũng là cái chuyện gia đình. Gia đình tôi thì... bố mẹ tôi suốt ngày lục đục. Từ bé tới lớn, chưa có một cái ba mươi Tết nào nhà tôi được yên thân. Chưa có một đêm ba mươi nào, giao thừa nào là gia đình được yên ổn. Thì cô biết là nó thế nào đấy... (cười) Trong năm thì không quá ba ngày. Cứ hòa thuận được vài ba hôm, xong lại cãi nhau chửi nhau, thậm chí đánh nhau vỡ đầu mẻ trán. Nhiều lúc tôi nản lắm. Nhiều lúc mà mình phát khóc! Cứ nằm ở trên nhà, khóc thút tha thút thít. Ở dưới nhà thì bố mẹ cãi nhau, chửi nhau. Không làm gì được, cứ nằm trên nhà khóc. Khóc như một đứa trẻ con, khóc chán tôi ngủ lúc nào không biết. Song sáng hôm sau dậy lại hết. Hết khóc... bởi vì không thể khóc được nữa. Nhiều lúc tôi muốn bỏ đi.
Kiểu như tuyệt vọng, đúng không ạ?
Tuyệt vọng lắm! Không ra được mà! Nhiều lúc muốn bỏ đi, muốn trốn tránh, nhưng mà mình nghĩ lại. Nhà có mỗi ba người, mình là con trai, vừa là trưởng vừa là út đi, cũng lớn rồi mà bỏ đi như thế là mình trốn tránh, mình không dám đối diện với sự thật. Tôi nghĩ thế cho nên là tôi mới không đi. Tôi muốn ở lại để tiếp tục mà chiến đấu, để mà chứng kiến.
Thế thì có thể coi chuyện gia đình là một trong những lý do chính khiến cho chú quyết định xuất gia, đúng không ạ?
Chính xác!
Cái việc xuất gia của chú nó giống như là một...
Bởi vì tôi cũng đã thử rất là nhiều cách nhớ. Cái thời gian mà tôi xin vào ở trong này í, đấy là cái cách để mà tôi thử. Vì nói thì chắc chắn là không nói được rồi, người ngoài can thiệp càng không được. Tôi cũng từng bỏ nhà đi vài lần, không ăn thua. Thế tôi mới nghĩ là mình thử vào chùa xem! Thế tôi vào trong này ở mà không nói rõ lý do. Tôi cứ ở. Mãi đến lúc tôi phát tâm xuất gia rồi, tôi bạch với thầy xong thì tôi mới về nhà nói chuyện. Mới bảo, giờ con không còn cách nào, chỉ có đi tu thì nhà mới đủ phước mà tiêu đi cái nghiệp chướng này. Và đấy cũng là cái cách để mình tự độ bản thân, sau đó để mình giúp cho người thân, rộng ra là muôn vàn chúng sinh. Thì khi tôi phát tâm xong cái thì nhà đỡ hẳn. Khi tôi về nói chuyện thì bố tôi bảo thôi, bây giờ tất cả mọi cái bố bỏ qua hết. Lúc đấy bắt đầu chùn nhớ! Nhưng mà muộn rồi.
Thế lúc đấy có khuyên chú đừng đi tu nữa không ạ?
Có chứ! Hôm đấy họp gia đình, các chú, các cô, các bác vào khuyên răn, nói nhiều lắm... Nhưng nói chuyện xong xuôi các thứ tôi vẫn lại vào chùa. Tôi đã quyết xuất gia. Thế là đến 28 Tết, bố tôi gọi điện cho tôi, bảo về. Tôi mới nói, đấy, tất cả mọi cái con đã nói hết rồi, bây giờ không còn cách nào. Ngày mai bố vào bạch với thầy cho con về ăn Tết cuối, ra Tết cho cháu xuất gia. Thế thì con về. Không thôi. Thế bảo ừ. Thế sáng gọi thì chiều vào đón luôn. Thế thì về ăn Tết. Ăn Tết xong thì..
Tết đấy có còn khuyên giải không ạ?
Không khuyên giải. Mà chỉ nói bóng gió thôi. Chỉ kiểu là, đấy... gia đình cô dì chú bác, mọi người trong nhà sống hòa thuận với nhau, anh em với nhau tình cảm, đông vui như thế... Đánh vào chỗ yếu của mình mà... (cười) Biết mình là người tình cảm. Rồi lại bảo xuất gia ở trong đấy thì thế này thế khác, khổ sở nọ kia. Nhưng mà tôi bắt bài rồi! (cười)
Thế là sau Tết là chú quay lại ở chùa tiếp?
Thì 28 Tết bố đến đón, ăn Tết xong thì mùng bốn vào chùa là bắt đầu ở luôn.
Như vậy, chú đi thì đầu tiên là do nguyện độ cha mẹ và bản thân, nhưng bây giờ chú đã vào đạo rồi, cái nguyện của chú nó thay đổi không?
Có chứ!
Chú có nói được ra không, hay là cái đấy là chú giữ bí mật?
Có những cái nói được, có những cái không thể nói được! Những thiện nguyện như là mình muốn giúp đỡ cho mọi người thì nói được. Nhưng mà có những cái mà nó sâu xa hơn thì... thôi, sau nói.
Từ lúc chú xuống tóc chú thấy có gì khác không?
Có!
Ví dụ?
Cũng khác nhiều, mà cũng có cái chưa khác. Tôi vẫn còn những cái tâm ý ngoài đời. Vẫn đang trong giai đoạn phải bỏ các cái tập khí ấy đi. Vì thay đổi bản chất trong một con người là khó. Khó! Tôi nghĩ là khó.
Trong đầu chú, chú có một con đường để thành đạo không ạ?
Khi mà một người xuất gia thì ai cũng ước nguyện là sẽ thành đạo. Xuất gia để cầu giải thoát. Không ai xuất gia cho vui cả.
Bây giờ kể cả chú mới vào, chú có tin là sẽ thành đạo không?
Phải có niềm tin sâu sắc thì mới dám đi chứ.
Bây giờ trong lòng chú còn câu hỏi gì cứ trở đi trở lại không?
Hiện tại thì chả có câu hỏi gì. Hiện tại bây giờ, trong đầu chỉ có hai chữ: “cố lên”. Đấy, cái lúc 4 giờ kém 15 sáng mà đồng hồ đổ chuông í, là tôi đang cố lên, cố lên đấy! Mấy lần cô lục đục dậy, cô gọi, tôi biết hết. Bốn giờ kém đấy, cô gọi là tôi biết. Lúc đấy là đang cố lên, cố lên đấy! (cười)
Chương 35
Em cũng bị à?
Mùa an cư kết hạ đã chính thức bắt đầu. Một tấm bảng đăng rõ lịch hành trì cho suốt mùa an cư đã được treo ở khu tiếp khách:
4h00: Khai tĩnh.....
4h15: Công phu khuya.....
5h15: Niệm Phật.....
5h45: Cúng Tổ.....
6h00: Tiểu thực.....
6h45: Chấp tác việc chúng.....
7h30: Thính Pháp.....
9h00: Khóa lễ sáng.....
10h45: Cúng tổ.....
11h00: Thụ trai.....
12h00: Trì tĩnh.....
14h00: Khai tĩnh.....
14h30: Tiểu trường.....
16h00: Niệm Phật.....
16h30: Khóa lễ chiều (cúng chúng sinh).....
18h00: Phi thời thực.....
19h00: Khóa lễ tối.....
21h30: Lâm thụy.....
Pháp an cư này bắt đầu từ thời Đức Phật Thích Ca. Đức Phật nhận thấy mùa hè ở Ấn Độ là mùa mưa, côn trùng sinh sôi nảy nở rất nhiều nên khi chúng tăng ra ngoài khất thực thì dễ giẫm chết các loài côn trùng. Mùa mưa cũng là mùa đi lại khó khăn, việc giữ uy nghi của người xuất gia trở nên khó. Vậy nên Phật đề ra pháp an cư để trong suốt ba tháng hè (có thể thêm ba tháng đông), chư tăng chỉ ở trong chùa tu tập mà không ra ngoài.

Đêm đầu tiên ở chùa, cũng như lần trước, tôi phải làm quen lại với bóng tối rất đặc và sâu ở đây. Tôi cắm iPod, vừa nghe nhạc vừa ngủ chập chờn, đến gần sáng mới thiếp đi. Rồi trời bắt đầu sấm ì ùng và mưa ào xuống, táp vào cửa sổ. Mất điện. Căn phòng nhỏ tối om, nóng nực. Tôi ngồi dậy, định ra ngoài nhưng cửa không sao mở được. Phòng tối đen, sấm ì ùng, thỉnh thoảng chớp lại rạch sáng xanh khiến tôi có cảm giác đang bị bao vây. Tôi lại cố đẩy cửa nhưng vẫn không mở được. Không thể gọi ai, tôi mò mẫm quay lại giường, tự trấn an bản thân và cố ngủ tiếp.
Bốn giờ có tiếng đại hồng chung chậm rãi, ngân nga trong buổi sớm, lẫn vào tiếng mưa lác đác. Tôi lập tức bật dậy và ra sức đẩy cửa. Lần này cửa mở hé. Hóa ra bên ngoài có người nằm chắn ngang - hình như là thợ xây chùa. Tôi tiếp tục đẩy rồi lách qua cửa để ra ngoài.
Sân chùa tối, không bóng người. Tôi đi ra phía sau rửa mặt, súc miệng vội vàng rồi băng ngang sân lên Tam Bảo. Chỉ có chú Đạo Lục ở đó, đang thắp nến, mở các giá kinh gỗ và xếp các cuốn kinh Thủ Lăng Nghiêm lên giá. Tôi phụ giúp chú xếp kinh trong lúc tiếng chuông vẫn ngân nga vọng tới. Không rõ ai thỉnh mà tiếng chuông rất hay. Chậm rãi, trong và yên.
Đến 4 giờ 15 thì có tiếng kiểng đi lại gần, rồi thầy và các sư ông đắp y vàng đi vào. Thấy tôi, thầy cười. Chắc thầy không nghĩ tôi sẽ dậy theo khóa sớm. Sư ông Đạo Nhị thấy tôi cũng tủm tỉm cười. Tất cả im lặng ngồi xuống - thầy ngồi chính giữa làm chủ sám; ông Đạo Nhất, Đạo Nhị bên trái thầy; ông Đạo Tam, Đạo Tứ bên phải. Tôi và chú Đạo Lục ngồi hàng dưới. Không thấy chú Thất - có lẽ chú thỉnh chuông hoặc ở dưới bếp lo việc nấu ăn sáng.
Trì Lăng Nghiêm và niệm Phật đến hơn 5 giờ thì xong. Trời đã sáng. Không khí sau mưa trong mát. Tôi xuống nhà lấy khăn và quần áo đi tắm vì đã đổ mồ hôi nhớp nháp suốt đêm. Khi tôi ở nhà tắm đi ra thì nghe có tiếng người phía sau:
“Có cay mắt không?”
“Ngoảnh lại thấy sư ông Đạo Nhị đang cười.”
“Dạ sao ạ?”
“Dậy sớm tụng kinh có cay mắt không?”
“Dạ không, con chỉ nóng thôi, lúc đêm mất điện nóng quá.”
“Sư ông cũng nóng nhưng mà kệ. Vẫn ngủ.”
Rồi ông toét miệng cười. Lạ thật. Sư ông Đạo Nhị còn trẻ lắm, lại tập võ và là người trực tính ngang tàng nhất chùa nhưng ông có kiểu cười toét hỉ lạc không thể tả nổi. Có khi đang trừng mắt mắng bọn trẻ, ông lại toét miệng cười. Một nụ cười mà toàn thân tan biến, như bông hoa sen bung nở khiến ta chỉ có thể lặng ngắm và vui hưởng cái đẹp của nó. Đơn giản vậy mà sau này tôi mới hiểu nó chính là pháp hỉ - một thứ pháp rất kỳ diệu không phải ai cũng có được.
Mỗi lần về chùa, tôi phải học lại phép tắc, soạn lại thân và tâm mình. Có cái gì đó tự động rũ bỏ ngoài cổng chùa. Tất cả quần áo, giày thấp giày cao phải bỏ lại, chỉ còn mấy bộ quần áo nâu và hai cái áo tràng. Tất cả phấn son, vòng cổ vòng tay, hoa tai cũng cất đi, chỉ một khuôn mặt mộc. Kem dưỡng da, nước hoa, dầu gội dầu tắm cũng không cần thiết - tôi bỏ vào ba lô một khăn mặt, bàn chải răng, kem đánh răng, và một lọ dầu gội đầu nhỏ kiêm luôn sữa tắm. Tất cả sự nhanh nhẹn để ứng phó, đối đãi cũng tự động lặn đi. Với thầy, các sư ông sư bác sư chú và người ở chùa, tôi không cần bất cứ sự cố gắng nào. Một khuôn mặt mộc và ngơ ngơ, có lẽ trông tôi quê mùa nhất chùa. Cho nên những người có việc đến chùa tìm thầy mà thấy tôi thì gần như luôn thì thào hỏi tôi cùng một câu này:
Em cũng bị à?
Ý họ là tôi cũng bị “nhập”, “ám”, “hành” như những người đang đến chùa nhờ thầy chữa bệnh. Họ đoán tôi cũng đang “ở chùa chữa bệnh.”
“Không ạ” - tôi cười.
“Thế ở chùa tập đi tu hả?”
“Không ạ. Em đang ở đây làm nghiên cứu.”
“Cái gì?” - họ hỏi lại, mặt nhăn nhăn.
“Em làm nghiên cứu.”
“À à” - họ gật gù, nhưng vẫn không tin mà cũng không hiểu - “Em làm nghề gì?”
“Em dạy học” - tôi nói.
“Dạy gì? Dạy cấp một à?”
“Không, em dạy đại học.”
“Đại học á? Trông trẻ thế mà dạy đại học á? Em dạy trường nào?”
“Ừm... em dạy bên Mỹ.”
“Hả? Cái gì? Bên Mỹ á? Dạy tiếng Việt à?”
“Không, em dạy công tác xã hội.”
“Hả? Cái gì?”
Cái kịch bản trên lặp lại rất nhiều lần, đến mức tôi cảm giác như mình đang nói về cái vai giáo viên ở Mỹ mà tôi từng sắm vào lúc nào đó trong quá khứ chứ không phải nói về tôi của hiện tại. Cuộc sống của tôi ở Mỹ - cái cô Việt làm giảng viên đại học - trở nên không có thực, chỉ còn cô gái đang sống ở chùa này. Mà thực sự, tôi cũng không còn thấy mình là một cô gái như thế... như thế... nữa. Tôi thường có cảm giác mình là một đứa trẻ - chính xác là một chú bé - đang theo chân thầy, các sư ông, sư bác, sư chú học đạo ở chùa.
“Con thấy con giống Thiện Tài Đồng Tử trong kinh Hoa Nghiêm, đang đi học đạo vậy” - tôi nói với ông Đạo Nhị - “có khác là con là Bất Thiện Bất Tài Đồng Tử.”
Nhiều lần, trong lúc đi quanh sân chùa, tôi thấy thầy chỉ tôi để giới thiệu cho người này người kia rằng tôi là “giáo sư đại học ở Mỹ đang ở đây làm nghiên cứu”; nhưng tôi thấy họ cứ gật gật rồi ngẩn ra, vẻ nghi hoặc.
Cái kịch bản lặp đi lặp lại trên cũng làm tôi nhận ra không một ai có thể tin được là cái cô gái ngơ ngơ, quê quê đây đang dạy đại học ở Mỹ. Chuyện này làm tôi hiểu ra cụm từ “chấp trước” và “vọng niệm” mà thầy và các sư ông hay nói đến. Những người nhìn thấy tôi đều đã có sẵn các ý niệm về việc một “giáo sư đại học” và Mỹ trông phải thế nào; trong ý niệm đó, tôi lẽ ra phải ăn mặc sành điệu, hiện đại, nhanh nhẹn, tự tin, tiếng Anh như gió, tiền nhiều, chứ không thể là một cô gái nho nhỏ, rất ít nói, mặt không son phấn, với một vẻ quê mùa. Cả con người tôi thật sự không có gì ấn tượng. Cho nên khi họ gặp tôi, dù tôi có nói với họ tôi đang dạy học ở Mỹ, thì tai họ đâu có nghe được; ý của họ đã đi trước tai và chặn hết lối nghe của họ rồi. Ngay cả khi tôi khẳng định lại, thì họ vẫn cần thời gian để mà nhập âm thanh với ý niệm và điều chỉnh thực tại của mình.
Đã bắt đầu vào mùa an cư nên buổi sáng thầy giảng kinh Hiền Ngu. Hôm nay, kinh nói về hạnh bố thí của Đức Phật Thích Ca trong những kiếp trước. Hôm nay lại là thứ Bảy nên buổi chiều thầy giảng tiếp kinh Dược Sư. Hết giảng kinh là thời niệm Phật chiều. Trời nóng, chùa không chỗ nào có điều hòa, thậm chí quạt cũng thiếu nên người tôi từ sáng đến giờ lúc nào cũng đầm đìa mồ hôi, có lúc mồ hôi chảy xuống mắt cay xè, cổ thì lâm râm ngứa và mẩn đỏ. Hết khóa niệm Phật chiều, thầy hỏi tôi có theo được khóa cúng chúng sinh lúc 5 giờ không, tôi xá thầy xin đầu hàng. Chịu rồi. Ngày hôm nay tôi chỉ có thể cố được đến thế.
“Tu khó thật sư ông nhỉ” - tôi nói với ông Đạo Tứ khi thấy ông uống trà ở bàn nước - “Ngày sáu thời hành đạo. Con mới theo được ba thời mà đã đứt cả hơi.”
“À, cô còn mới nên chưa quen thôi” - ông nói - “vả lại làm thân nữ, tu cũng có khó hơn.”
Ái chà, cái này thì tôi chưa nghe bao giờ. Sao lại có hơi hướng trọng nam khinh nữ thế nhỉ.
“Đâu phải vô cớ mà cô sinh làm thân nữ hoặc có hình tướng như thế này đâu (ý nói mặt mũi, dáng người). Thân tướng mình đều là do phước do nghiệp, trừ các bậc thánh nguyện sinh làm thân nữ để độ người nữ chẳng hạn. Mình sinh thân nữ là do ái nhiễm còn nhiều nên sinh ra hình tướng nữ. Cái tình nó còn nặng. Ngày xưa lúc đầu Đức Phật không cho người nữ đi tu đâu ạ; ngài A Nan cứ thỉnh mãi nên cuối cùng Phật đồng ý.”
Hmm, luận điệu này tạm thời tôi chưa thể nuốt trôi. Nhưng thôi thì tôi sẽ phải chăn cái thân nữ nhiều lậu hoặc sân hận này của tôi từ từ vậy. Giờ mà ép nó lên chùa tụng kinh là nó sẽ cáu, nó sẽ rủa sả mắng nhiếc tôi và... một số người khác.
Kể ra thì tôi cũng “bị” thật. Bị quý cái thân này quá mức, bị khăng khăng với một số niềm tin của bản thân. Bị ngầm thấy mình là thế nọ thế kia, so với người khác. Cho nên chẳng thể mở rộng tâm với tất cả.
Nghĩ cho kỹ, chúng ta ai mà chẳng bị bệnh, bị “ám”, bị “hành” theo cách nào đấy. Bởi tiền, bởi danh, bởi kiến thức, bởi chồng, bởi mẹ chồng, bởi bạn gái, bởi con, bởi sếp - cũng đều là các loại ma khác nhau mà thôi.
Chương 36
Tứ thánh, lục phàm
Danh chính ngôn thuận thì năm nay có năm người “bị” các triệu chứng “tâm thần” khác nhau đang sống ở chùa lâu dài để chữa bệnh; còn người đến ngắn hạn hằng ngày thì không kể. Buổi trưa đầu tiên vào chùa, tôi gặp một cô gái trẻ tên Thảo vừa ngồi rán đậu vừa lẩm bẩm: “Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát, Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát.”
“Em ở đây bao lâu rồi?” - tôi hỏi.
“Hôm nay thứ mấy hả chị?”
“Thứ Bảy.”
“Thế em vào được ba tuần.”
Thảo bảo, em đang đi làm bình thường thì cách đây sáu bảy tháng, cứ đến tối là cảm giác có người đẩy em ngã, bóp miệng không cho em ăn, không cho em làm được việc gì, người cứ đờ đẫn ra, có hôm còn làm cho em liệt cứng hai chân, không đi nổi, phải lết lết chị ạ. Nhà em đưa em đi bệnh viện tâm thần khám đủ thứ, bác sĩ bảo không có bệnh gì; nhà em lại thử đi cúng thầy nọ thầy kia, cũng không ăn thua; rồi có người giới thiệu em vào đây.
“Từ hôm em vào, em có đỡ không?”
“Đỡ chị ạ. Hôm nào em chăm tụng kinh niệm Phật thì em lại như bình thường. Hôm nào em không lên chùa là lại bị.”
Đến giờ cơm, tôi gặp một cô gái khác - tên Quyên, 17 tuổi - có khuôn mặt đờ đẫn hơn, thỉnh thoảng lại cười sằng sặc một mình. Nhà Quyên ở Lạng Sơn; gia đình đã đưa vào chùa từ cách đây mấy tháng. Mẹ Quyên cũng phải nghỉ làm để ở chùa chăm con. Mẹ Quyên bảo từ năm 12 tuổi, Quyên cứ nghe tiếng người xui khiến làm việc nọ việc kia, bố mẹ đưa đi viện không đỡ; gần đây xuống bệnh viện tâm thần ở Hà Nội, người ta cho thuốc uống thì còn nặng hơn. Khi mới tới chùa, Quyên điên loạn gào thét suốt ngày; có lúc thì cười sằng sặc; một ngày đi tiểu ra quần nhiều lần. Có lúc Quyên lên cơn còn đánh chửi, đạp mẹ bay từ trên giường xuống đất. Sau mấy tháng ở chùa, Quyên không còn đánh mẹ và điên loạn gào thét nữa; thường chỉ ngồi im một chỗ, tự cười một mình nhưng hiểu được lời mọi người nói. Thầy bảo khi nào tâm an hơn, có một chút định lực để tự niệm Phật đọc kinh thì chữa sẽ dễ hơn.
Một ca nữa là bà Xuyến, đã ngoài 60, người làng bên. Bà có ba con, hai trai một gái. Con trai bà mới 35 tuổi, rất khỏe mạnh, đang sống bình thường thì bị phát hiện viêm gan virus; từ lúc phát hiện đến lúc chết là tám ngày.
“Cô thương con cô đứt từng khúc ruột” - bà nói, nước mắt chảy dài - “Thà cô bị mất chân mất tay, hay chết thay con cô cũng được. Cô cứ khóc lóc đi khắp các bãi tha ma tìm con, thế là bị cái vong ông hàng xóm này nhập vào.”
Con gái bà nói với tôi một hôm bà lang thang ra nghĩa địa thăm mộ con trai; khi về nhà, bà bắt đầu nói lảm nhảm, tự xưng là ông Nhượng, vốn là một ông đánh giậm ở làng, chết đã lâu; vì con ông không hương khói gì cho ông nên ông cứ lang thang vất vưởng. Mỗi khi ông Nhượng nhập vào bà Xuyến thì bà lại nói ngọng vì khi còn sống, ông Nhượng cũng là người nói ngọng do bị thụt lưỡi. Khi ông nhập vào, bà có thể nhảy xuống hồ bơi lặn thành thạo trong khi bà Xuyến vốn không biết bơi.
Ca tiếp theo là Hoàng, đang sinh viên đại học năm thứ nhất. Vì ức chế với bố nên chơi game suốt ngày và bị suy nhược thần kinh. Gia đình đưa vào bệnh viện tâm thần, các bác sĩ cho uống thuốc thì bệnh càng tăng lên, ngày càng điên loạn hò hét. Gia đình Hoàng sợ quá, xin ra khỏi bệnh viện và đưa vào chùa. Hôm mới vào, Hoàng hò hét, chạy quanh chùa, chửi thầy và các sư ông, giơ tay đấm cả ông Đạo Nhị, rồi chạy lên Tam Bảo, rút cây kiếm của Đức Chúa Ông xuống vừa khua múa vừa hò hét: “Ta là Chúa đây. Chúa là ta đây”. Giờ thì Hoàng đã bình thường trở lại, tất cả các cơn điên loạn đã hết, nhưng thường ở lì trong phòng ngủ hoặc chơi điện tử. Chú Đạo Thất bảo tôi:
“Nó không ngủ đâu. Nó đang nghĩ đấy. Nó rồi sẽ xuất gia thôi. Nó có duyên với tôi và ông Tứ.”
“Sao chú biết?”
“Cảm giác được. Chắc tôi với nó kiếp trước là anh em thân nhau. Tôi có biết nó là thằng nào đâu. Bụp phát ông ấy đến, đội mũ, đeo kính, hò hét loạn xạ... Hôm đấy tôi đi đâu về, tôi không biết gì cả, song lúc chiều lên chùa thì thấy có mảnh giấy cầu an có đề tên; mình bảo, à chắc là tên thằng này. Thế mình tụng kinh xong thì cầu an cho nó. Cầu an xong cái thì tầm tối ông ấy bắt đầu làm loạn, bảo chúng mày có biết tao là ai không! Tôi bảo, này, đừng có đùa đây nhớ, ông mà tôi lại không biết, tôi vừa mới cầu an cho ông xong mà tôi lại không biết ông là ai à? Đấy nọ kia các thứ. (cười) Thế từ đấy mới sợ mình. Có tí nể mình nhá! Nó thấy tôi đi đâu nó lại ơ anh, anh đi đâu, xuống đây anh em mình chém gió đã! Bọn Đức đen đủi nọ kia. (cười) Tôi thì chẳng biết gì bóng đá, mình thấy rất buồn cười, nhưng mình cũng ngồi xuống, nó bảo, cái gì nhỉ... thần bóng đá à? Bảo, em giới thiệu anh, có thằng thần bóng đá này. (cười) Tôi thì có một cái điểm chung với thằng này là nội tâm. Thích sôi nổi bề ngoài nhưng mà lại là nội tâm. Sôi nổi là để làm gì? Mình sôi nổi là mình cố tình thế thôi, để mọi người được vui. Mình có thể bất chấp tất cả để mua tiếng cười cho mọi người. Để mình che đi cái nội tâm thật của mình. Đấy, thằng cu này cũng thế thôi. Cái tâm lý của nó thực ra... nó là đứa rất tình cảm, yếu đuối.”
Và còn một ca mà ở chùa mọi người gọi là Tiểu Thánh. Người nhà Tiểu Thánh khi đưa vào chùa nói rằng Tiểu Thánh bị tâm thần vì nói năng lắp bắp, kỳ quặc, vô nghĩa, lại không chịu ăn uống. Ở chùa một thời gian, các triệu chứng của Tiểu Thánh hết dần; thầy dạy rồi giao Tiểu Thánh thỉnh chuông. Bây giờ, Tiểu Thánh chỉ ăn cơm trắng hạ từ các ban cúng Phật, cúng tổ; hầu như không nói chuyện với ai, chỉ sáng chiều thỉnh chuông rồi mất mặt. Từ hôm tôi vào chùa, Tiểu Thánh hay rủ tôi đi dạo quanh chùa và nói chuyện với tôi. Nghe Tiểu Thánh nói thì bảo điên cũng được, mà bảo thiên tài cũng được.
“Tên của Tiểu Thánh là sư phụ đặt à?”
“Không, em tự đặt. Em tự biết mình, biết danh xưng của mình chứ. Nếu mọi người chưa về hòa làm một với vạn vật vũ trụ thì mọi người không biết đâu. Mọi người thấy nắng thì mọi người kêu nắng. Thấy trời mưa thì chửi trời. Vì mọi người còn có đối lập trong tâm.”
“Tiểu Thánh có sợ chết không?”
“Tiểu Thánh không sợ chết vì thật sự thì... Tiểu Thánh biết chết mình đi đâu rồi. Tiểu Thánh một phát đi luôn!” (cười)
“Một phát đi luôn là sao?”
“Là từ nhỏ đến to, từ to đến nhỏ”. (cười) “Nói thật nhá... Nếu một con người mà thuận với trời đất, thuận với người thì mọi việc sẽ là vô biên. Nếu những giờ vắng lặng, mình lạy trời, mình yêu thương mặt đất, hòa vào vũ trụ thì mình sẽ có một tri thức đặc biệt. Nhưng các bậc thánh khổ lắm, vì họ không giống người bình thường. Họ chỉ xuất hiện khi có việc, làm xong việc là phải đi luôn.”
Trưa nay, tôi ngủ ngoài phòng lớn của nhà sàn. Ngày nóng như hôm nay thì nhà sàn là nơi mát nhất chùa. Lúc tôi ngủ, nhà sàn chỉ có mình tôi nhưng khi tôi tỉnh dậy thì thấy nằm gần tôi là Quyên, ở góc đối diện là bà Xuyến, một góc khác là vợ chồng Thảo nằm cạnh nhau. Gần cửa ra vào còn có mấy người thợ xây lem luốc vôi vữa, đang ngủ những giấc ngủ nặng nhọc. Nếu Quyên, bà Xuyến, và Thảo bị nhập thật thì những con ma theo họ đang ở ngay đây này, trong người họ hoặc cạnh họ; tức là ngay cạnh tôi, có khi đang nằm cạnh tôi; vậy mà sao tôi không thấy sợ hãi, chỉ thấy thương. Rất thương. Thương cả người lẫn ma.
Tuấn - chồng Thảo - còn trẻ lắm; rất hiền và thương vợ như tôi chưa từng thấy người nào thương vợ như thế. Vợ ốm nên Tuấn tạm nghỉ việc để vào chùa chăm sóc vợ; từ sáng đến tối luôn tay luôn chân làm việc chùa, rồi nấu nướng, tắm gội, vệ sinh cho vợ, không hề quản ngại, lúc nào cũng vẫn một khuôn mặt điềm đạm, hiền lành với một nụ cười bẽn lẽn. Mà nào có phải vợ ốm bệnh thông thường. Vợ bị “ma nhập” - như người ta nói. Biết bao điều tiếng thị phi cho cả hai vợ chồng và gia đình. Nhưng người đàn ông trẻ này vì thương vợ mà không quản ngại bất cứ điều gì - không sợ khó, không sợ khổ, không ngại cả ma quỷ lẫn người đời. Người đàn ông trẻ hiền lành này thực sự đang hành hạnh Bồ Tát, hạnh của bậc thánh.
Trong mấy chục mét vuông nhà sàn, rộng ra là trong chùa và trong thế giới tứ thánh lục phàm, ngũ thú đồng cư này, không thể biết ai điên, ai tỉnh, ai thánh ai phàm nếu chỉ căn cứ vào hình tướng bên ngoài. Càng ở chùa, tôi càng thấy:
Phải vứt hết các suy nghĩ, cảm giác của bản thân.
Vứt hết các ý nghĩa mà bản thân đã đặt ra.
Vứt hết khái niệm, ngôn ngữ.
Càng ở chùa lâu, tôi càng phải vứt bỏ những quan niệm về giới tính, tuổi tác, quan hệ, đối đãi ta - người mà tôi đã quen ở Việt Nam hay ở Mỹ. Thực sự, không thể áp các quan điểm giới tính thông thường lên tình huynh đệ giữa các sư ông, sư bác, sư chú hay quan hệ giữa chư tăng với Phật tử. Như sư ông Đạo Tam không bao giờ nhìn Phật tử nữ khi ông đi lại trong chùa và những lúc ngồi nói chuyện đạo pháp với một Phật tử nữ, dù là cô gái 20 xinh đẹp hay bà già 70, ông nhìn họ như không hề có khái niệm giới tính nam-nữ. Có lần tôi hỏi ông Tam:
“Tại sao ông không nhìn con mà ông cũng chẳng gật chẳng cười khi ông thấy con?”
“Hả? Bao giờ?”
“Lúc nào cũng thế.”
“Thế à? Chắc sư ông không để ý.”
“Khi sư ông nhìn thấy một phụ nữ thì sư ông thấy thế nào?”
“Hả?”
“Phụ nữ í. Sư ông đi ngược chiều mà thấy một phụ nữ thì sư ông nghĩ gì?”
“Chả nghĩ gì cả. Có khi còn chả thấy í.”
“Con thấy sư ông cũng ít ra bàn nước ngồi nói chuyện với Phật tử nữ.”
“Có gì đâu mà nói? Giờ mình mới tu mà cứ tiếp xúc chuyện phiếm nhiều thì loạn tâm mình và loạn tâm người ta, chẳng giúp được gì cho người ta và ảnh hưởng đến việc tu của mình.”
Ông Nhị thì khác hẳn ông Tam. Phòng ông lúc nào cũng chật cứng nam nữ vào ngồi - có khi ông không có trong phòng, họ ngồi nói chuyện với nhau cả buổi rồi tự về. Có cả một đội thanh niên trẻ ở làng này gọi ông là “sư phụ” và ông chỉ gọi một câu là kéo tới để phụ ông dựng rạp, cắm hoa, quét dọn ngày chùa có lễ. Thầy có lần bảo tất cả những biển cấm trong chùa này đều từ ông Nhị mà ra. Khi tôi hỏi ông Nhị thì ông cười toe toét:
“Ờ thì Phật bảo không có người phá giới thì không có người chế giới mà. Ngày xưa phụ nữ con gái hay vào phòng sư ông, thầy mới làm ra cái bảng ‘Cấm người khác giới vào phòng’. Xong về sau thầy đổi thành ‘Cấm tụ tập’. Thế là đủ hiểu.”
Nhưng không tiếp xúc Phật tử nữ như ông Tam hay tiếp xúc thoải mái như ông Nhị - tôi có cảm giác hai người không khác nhau. Cái đối xử của họ không do chuyện giới tính và đối-đãi mà lưu lộ tự nhiên. Ông Nhị có thể đánh các sư ông, sư bác, sư chú bên dưới và quát cả ông Nhất, dù rằng về tuổi đời, ông trẻ hơn rất nhiều bởi vì ông Nhị, từ lúc mới vào chùa đã đóng vai trấn áp, hàng phục. Đấy là chuyện hạnh nguyện từng người, không phải chuyện tính cách cá nhân.
“Hồi mới vào chùa, sư ông có đánh bác Đạo Ngũ không?” - tôi hỏi ông Nhị.
“Sư ông đánh nhiều chứ!”
“Đánh bằng gậy ạ?”
“Lúc thì gậy, lúc thì đá, có lúc ăn đấm í. (cười) Có hôm, sư ông thương bác í, ông muốn để cho bác ý học nên ông đi cho chó ăn hộ bác í. Hôm đấy lại mất điện, sư ông mới soi đèn pin, thì bác í bảo, mù hay sao mà soi đèn pin? Ôi giời ôi, lúc đấy mình không thể chịu được, cho hai cái tát, lại mấy cái dọi”. (cười)
“Con thấy đánh mắng được người khác cũng cần dũng cảm, cũng là nghệ thuật.”
“Thực ra bác Đạo Ngũ còn là đứa trẻ con thì còn đánh mắng được, còn như chú Thất thì không thể. Có những lúc chú Thất nó cãi sư ông, sư ông có nói gì đâu. Nhưng mà lúc khác nó vào phòng sư ông nó xin sám hối. Mình không nói gì vì cái sân hận của người ta lúc đó quá lớn! Lúc đó là lúc người ta không cần tu. Mình cũng đã từng bị như vậy nên mình biết. Sư ông đã từng làm tiểu ba năm, sư ông biết. Tâm đạo của người ta lúc nào giải đãi và lúc nào người ta kiên cố. Lúc người ta kiên cố thì mình chửi, mình đánh người ta cũng chẳng vấn đề. Ngày xưa thầy có lúc nói sư ông, không tu thì về! Nhưng mà lúc đấy thầy có đuổi mình cũng chẳng về. Mình phải xét bản thân mình để dạy người khác. Đôi khi mọi người bảo sư ông nóng tính nhất chùa nhưng chắc gì đã phải nóng tính? Có khi là người hiền nhất chùa, (cười) Mà cũng có khi đanh đá nhất chùa!” (cười)
Đánh đấm như vậy nhưng ông Nhị lại là người chuyên cắm hoa vào những ngày lễ.
“Hôm qua cụ cho năm triệu cả tiền hoa với quả - ông cười - ông mua hết bảy triệu sáu. Nhưng ông bảo cụ hết 5 triệu thôi; thiếu tự đi mà trả. Tính sư ông thì làm cái gì cũng làm cho nó tử tế. Không ai thức cả đêm đến sáng để cắm hoa nhưng ông ngồi cắm. Mình nghĩ thứ nhất là cúng dàng chư Phật, cúng dàng chúng tăng, thứ hai là đem lại sự hoan hỉ cho người đến chùa. Người ta đến mà nhìn thấy bàn thờ Phật trang nghiêm thì người ta sinh cái tín tâm khác với một cái bàn thờ hời hợt. Cũng chỉ là cái đẹp thôi nhưng mà có hoa thì người ta sinh cái thiện tâm.”
Thực tôi không thể tưởng tượng rằng ông Nhị, ông Tam, ông Tứ chỉ mới 22, 23 tuổi. Sự chín chắn của họ vượt xa tuổi đời. Ngay cả thầy, về tuổi đời, thầy thực ra còn rất trẻ nhưng không chỉ tôi mà tất cả người đến chùa đều dường như nghiễm nhiên mặc định thầy là “cụ.”
Chương 37
Chuyện sư ông đạo tam
Sư ông xuất gia từ...?
Năm 2011. Là bắt đầu bỏ nhà đi. (cười)
Sao lại nói là bỏ nhà đi ạ?
Bởi vì gia đình không đồng ý.
À, tại vì sư ông là con một đúng không?
Con một trong gia đình. Lại là trưởng nam và trưởng ngành nữa. Họ nhà sư ông lớn lắm. Từ tộc chia ra sáu chi, và chi lại chia ra rất là nhiều ngành. Thì sư ông là trưởng ngành.
Trước lúc đi tu sư ông đang làm gì ạ?
Lúc í là... thật ra năm học hết cấp hai í là sư ông bắt đầu đi tìm chùa tìm thầy là bởi vì trước đấy cũng tìm hiểu việc đi tu quan trọng nhất là phải tìm được một bậc thầy chân tu hoặc một minh sư, và phải tìm chùa là đất thánh địa. Nhưng không tìm được chỗ ưng ý nên cứ học lên cấp ba. Cấp ba xong thì học lên cao đẳng. Thực ra lúc cấp 3 đi qua đây thì nhìn thấy chùa đây có tượng Mật tông, xong cũng vào, vào cũng nói chuyện với thầy. Thế là cũng nghe thầy giảng pháp mấy lần.
Tức là hồi chưa xuất gia sư ông đã gặp thầy rồi?
Chưa xuất gia mình đến chùa rồi. Khi học gần hết cao đắng rồi, kỳ cuối í, gia đình bảo xin đi làm, thì cũng đi làm hợp đồng. Đến ngày mùng một tháng Chín làm hết hợp đồng và cũng lấy xong bằng thì sư ông mới viết mấy tờ giấy để trong cốp xe rồi gửi xe nhà bác. Xong rồi bỏ đi.
Để con quay lại một chút, từ lúc nào sư ông biết sư ông muốn đi tu ạ?
Nó cũng ảnh hưởng từ nhỏ một phần. Ở nhà sư ông thì những ông trưởng tộc chỉ đẻ một con trai thôi mà lại rất là nhiều con gái. Các bà bác rồi các chị của sư ông thì cứ gần đến ngày giỗ là đến nhà tụng kinh từ hôm trước, thế là mình cũng ngồi tụng theo. Các bà quý lắm, cứ mang kinh sách đến để đọc. Song các bà í mắt kém nên mình cứ đọc rồi các bà đọc theo. Rồi mình cũng thấy hay, rồi mình tìm hiểu. Song rồi năm cấp hai sư ông bị đau dạ dày, đau lắm! Lúc đấy chỉ niệm “Nam mô A Di Đà Phật, Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát” thôi, và cứ nằm như này này. Cứ nằm một góc trên giường, co quắp niệm “Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát”; niệm mà cái tâm nhiệt thành nó cao lắm. Bây giờ có khi còn không bằng.
Thế hồi đấy niệm có thấy cái gì không ạ?
Có! Đấy chính là cái động lực đấy.
Thấy cái gì ạ?
Thấy Đức Quán Âm.
Thấy như nào ạ?
Thấy ngài đứng trên tòa sen và cả tòa sen, cả thân tướng ngài đều màu vàng.
Tức là mình nhắm mắt vào mình...
Mình nhắm mắt vào mình niệm như thế, nhưng mà không biết trong mơ màng hay trong tưởng tượng của mình thì mình thấy. Cái đấy mình cũng không phân định được. Hay là mình ảo tưởng ra thì mình cũng không rõ. Đấy, nhưng mà mình thấy thế và tự nhiên từ đấy mình học thuộc chú Đại Bi mau lắm. Và kinh sách nó kéo đến, và gặp các bậc thiện tri thức.
Hồi đấy sư ông đang học lớp mấy ạ?
Lớp... đợt í là... lớp 7 thôi.
Thế sư ông có nói với bố mẹ, anh chị em không?
Có, gia đình đợt í bố mẹ cũng biết, thế là đi xem bói. (cười) Rồi lập cho một ban thờ Phật ở nhà. Lập ban thờ Phật ở trên sân thượng, không có mái che gì hết mà hồi đấy nhiệt thành lắm. Ngày nào cũng lên tụng kinh.
Tụng cái gì ạ?
Ngày đấy chỉ biết về chư kinh nhật tụng thôi. Di Đà, rồi Dược Sư, Địa Tạng hay là Kim Cương hoặc là Sám Nguyện Tịnh Độ. Mặc dù trời nắng hay trời mưa, mình vẫn cứ tụng. Thấy thích mà. Cuốn hút. (cười)
Cứ một mình sư ông tụng?
Một mình thôi. Nhà chẳng ai tụng đâu. (cười)
Xong rồi thì sư ông trốn đi?
Ừ, hôm đấy sư ông qua một nhà bạn học, nhà bạn í cả bố mẹ đều theo bên đồng bóng. Thế thì lên đấy là mùng một, nhà người ta thì thường mùng một cúng Phật, cúng thánh, tụng kinh, thì mình lên đấy mình tụng Phổ Môn. Người ta cúng xong thì mới thuê cái xe ô tô đưa sư ông về một cái chùa bên Hoài Đức. Ở đấy có hai thầy ni. Thì sư ông coi thời gian đấy như thời gian tập sự. Thế đến thì thầy í cũng dạy cho bài bản, xong lên gõ mõ tụng kinh, chuông mõ thì thầy í ngồi ở dưới nghe thì thầy góp ý, nhanh quá hay chậm quá.
Trước khi mà đi xuất gia thì sư ông đã có bạn gái chưa? Đã bao giờ có bạn gái chưa?
À... chưa... Bởi vì đi học bao giờ cũng mang theo quyển kinh đi. Rồi giờ ra chơi là ngồi đọc. Thế là ngày xưa toàn bị trêu thôi.
Không chơi với các bạn bè?
Không phải không chơi, mà mình hiểu rõ mình không ham chơi các cái trò chơi.
Bây giờ sư ông nghĩ lại thì sư ông nghĩ tại sao mình lại như thế ạ? Tại sao mình lại thích xuất gia?
Sư ông nghĩ là không có cái gì là không có nguyên nhân của nó cả. Mình đi xuất gia thế này cũng phải do cái hạnh nguyện của mình. Kiếp trước nó là như thế nào đấy thì mới có thiện duyên gặp được thầy, gặp được nơi thánh địa này để tu. Nhưng mà cái nhân duyên đấy như thế nào thì sư ông cũng không rõ. Chưa rõ được vì mình đã chứng được cái gì đâu mà biết được tiền kiếp của mình nó là như thế nào.
Khi các ngài lên các ngài có nói cho sư ông không?
Không, sư ông cũng không hỏi, các ngài cũng không nói. Ngày trước sư ông nghĩ là sư ông không nên hỏi. Bởi vì sao? Bởi vì Đức Phật dạy là, không nên sống trong quá khứ mà phải sống trong hiện tượng, cũng không nên với đến tương lai. Phải sống trong thực tại.
Thế xong rồi như thế nào mà lại về đây ạ?
Quan điểm của sư ông lúc trước khi đi tu là, một là thầy phải hướng dẫn mình tu tập, hai là đất phải đất thánh địa nhưng mà lên trên đấy thì thầy trên đó đi suốt, chẳng gặp lần nào cả. (cười)
Thầy ấy đi đâu ạ?
Không biết, chỉ biết là không bao giờ ở chùa, không gặp được lần nào.
Xong rồi sao nữa ạ?
Thế thì nhân duyên lúc í thì... sư ông đi rồi thì không dùng điện thoại trong hơn một tháng. Sau hơn 1 tháng, sư ông mới bật điện thoại lên thì gia đình mới gọi điện. Gọi điện thì mẹ mới bảo là thôi cũng đồng ý cho con xuất gia, không ngăn cản gì nữa. Bảo về chùa gần cho bố mẹ vui lòng. Thì chùa gần thì chỉ có mỗi chùa mình đây thôi.
Sư ông thấy mình càng tu mình càng an lạc hay là nó cứ lúc lên lúc xuống?
À... càng tu thì càng thấy... tu hành cực kỳ khó, cũng cực kỳ dễ.
Tại sao nói thế ạ?
Khó bởi vì khi cái tôi thế gian này nó cao quá, nhiều tâm ô uế nó khởi sinh lên. Nhưng mà khi mình dẹp được cái đấy rồi thì tu nó cảm thấy rất là an lạc. Đương nhiên là rất dễ rồi. (cười)
Thế sư ông từ lúc đến tu đến bây giờ có bao giờ là cảm thấy lung lay bực bội?
Lung lay tâm tu, tâm xuất gia thì chưa. Bực bội, bực mình thì cũng có.
Bực nhất với việc gì ạ?
Bực nhất về việc... anh em, huynh đệ. Đấy là thực tế. Lúc í là cái tôi nó nảy sinh đấy. Cái tôi nó đang phát triển đấy. (cười) Mình biết chứ không phải không biết và mình cố kìm nén nó lại thôi.
Bây giờ thời khóa hằng ngày sư ông cảm thấy thế nào ạ? Con thấy sư ông thời khóa đều nhất chùa.
Vẫn cứ lên thôi có gì đâu.
Không thấy ngại chứ gì ạ?
Không.
Thế lúc mình đọc kinh thì tâm mình có nhiếp được vào đấy không ạ?
Cái đấy cũng tùy từng hôm thôi. Không phải hôm nào cũng nhiếp được. Nhiều khi mình tán loạn chứ.
Con thấy sư ông hiền thật.
Ghê lắm, không hiền đâu. (cười)
Sao con chưa nhìn thấy cái ghê nào cả! Con chỉ thấy hiền thôi.
Ghê lắm.
Thế ạ? Ví dụ thế nào là ghê?
Ví dụ như là (cười)... như hôm trước nhớ, hai sư chú nói với nhau trong lúc niệm Phật, không biết cô có ở đấy không nhỉ? Hai người nói với nhau là các sư thường chẳng ai giữ được giới hạnh. Mình thấy bực nhưng không nói.
Sư ông thấy bực ạ?
Bực chứ! Các ông nói thế là khinh chê thầy tổ, khinh chê huynh đệ.
Nhưng mà như thế thì có gì là ghê đâu ạ?
Ơ, thế là ghê đấy chứ. Đấy là ghê trong tâm.
Ghê trong tâm...
Ha ha, ôi giời!
Con chưa bao giờ thấy sư ông mắng ai cả. Các sư ông khác thì con thấy mắng người khác nhiều rồi, hình như chỉ có mỗi sư ông là con chưa nhìn thấy mắng ai!
Quan điểm của sư ông là không đốp chát. Gọi lên phòng nhắc nhở nhẹ thôi, chứ không góp ý trực tiếp giữa nơi đông người. Chú H đấy, ông gọi lên phòng hai lần rồi.
Tu đối với sư ông là gì ạ?
Tu á? Đơn giản thôi là quay lại với chính mình. Dùng phương pháp của Phật Đà. Đấy là thâu nhiếp sáu căn lại và lúc nào cũng chính niệm.
Con thấy các tổ ngày xưa có tâm lượng lớn, họ có thể nguyện đời đời kiếp kiếp, lúc nào sinh ra cũng sẽ tu hành. Kiếp này sư ông đã đi tu, sư ông biết việc tu hành nó như thế, như thế..., sư ông có cảm thấy mình có thể phát nguyện đời đời kiếp kiếp sẽ đi tu?
Có.
Đời đời kiếp kiếp sẽ đi tu?
Ừ. Sư ông có nguyện là như ngài Mục Kiền Liên, đời đời sinh ra hiếu thảo với cha mẹ, học Phật pháp, đời đời kiếp kiếp tu hành và hướng đạo được cho gia đình. Và cũng nguyện như ngài Địa Tạng luôn. “Địa ngục vị không, thệ bất thành Phật. Chúng sinh độ tận, phương chứng Bồ Đề (31) ”. Mình chẳng ngại gì cả!
Thế mới bảo cái tâm con nó nhỏ mọn. Con chẳng nguyện được như thế đâu.
Mình không nguyện thế thì nguyện cái gì?
Chương 38
Cụ về với Phật rồi
Cụ Đào đã yếu lắm, không ăn gì mấy ngày rồi. Từ hôm qua mọi người trong chùa thay phiên niệm Phật bên giường cụ để chuẩn bị cho cụ ra đi.
Cụ Đào năm nay đã 93 tuổi. Cụ sống ở chùa từ trước lúc thầy về trụ trì. Nhiều năm nay, cụ ở trong căn phòng tuềnh toàng thuộc dãy nhà nhìn ra tổ đường, gần phòng sư ông Đạo Tứ và bác Ngũ. Buổi sáng nào cụ cũng dậy sớm, chầm chậm bám cột đi lại, tóc bạc trắng. Hồi còn khỏe, cụ đều đặn lên các khóa lễ và luôn ngồi dựa vào cái cột ngăn chính tòa với ban Đức Thánh Hiền. Giờ cụ không lên nữa, chỗ đó tôi thường ngồi. Thi thoảng các sư ông sư chú và các bà già trong làng lại nhắc tôi: “Chỗ này là chỗ cụ Đào đấy.”
Chiều qua, tụng kinh khóa chiều xong, tôi vào trợ niệm cùng mọi người. Chúng tôi - bà Ngọc, chú Đạo Thất, bác Đạo Ngũ, và một người họ hàng của cụ - ngồi quanh giường, đồng thanh niệm “A Di Đà Phật, A Di Đà Phật”. Cụ nằm trên giường, chỉ còn da bọc xương, miệng mấp máy, tay vẫn cầm tràng hạt bằng gỗ, cố lần lần. Bác Đạo Ngũ cầm cái chuông tay nhỏ, gõ nhè nhẹ để giữ nhịp cho mọi người niệm. Thỉnh thoảng, bác lại cầm tay cụ lên rồi ghé vào tai cụ nói to: “Cụ ơi, cụ lắng lòng lắng tai nghe tiếng niệm Phật. Nếu Phật A Di Đà đến đón cụ thì cụ phải đi theo ngài ngay nhé, ra đi thanh thản nhẹ nhàng.”
Chúng tôi cứ niệm miên man như thế; bên ngoài cửa sổ, hoàng hôn xuống vàng rực rỡ một góc trời Tây, hắt ánh sáng vào phòng. Rồi ông Đạo Nhị vào. Ông vào thì bác Đạo Ngũ nhường ông làm chủ sám. Ông niệm nhanh hơn bác Đạo Ngũ, trầm bổng như hát và miên mật như một dòng sông; bác Đạo Ngũ niệm thì chậm rãi, từng tiếng rõ ràng. Ông Đạo Nhị vừa niệm vừa cầm bàn tay gầy guộc của cụ.
Chao ôi, tưởng tượng mà xem. Một người gần đất xa trời, thần thức bắt đầu vào chỗ mênh mênh mang mang, như người nằm mộng trôi dạt từ cảnh này sang cảnh khác. Thân nằm bất lực trên giường, không còn sức để cử động dù chỉ một ngón tay, một bắp thịt. Tâm có dấy khởi ôn lại cuộc đời mình thì dù có ăn năn, tiếc nuối, muốn được làm lại, nói lại một lời, muốn thấy lại một khuôn mặt nào đó cũng đã muộn.
Chúng tôi niệm miên man cho đến lúc nghe mộc bản thọ trai chiều thì ra nghỉ cho nhóm khác vào trợ niệm. Cứ thay phiên như thế suốt buổi tối. Bà Trinh rất già và mệt, ngồi còng còng cuối giường, cứ niệm một lúc lại gục xuống ngủ, nhưng nhất định không chịu về nghỉ. Trong các sư ông sư bác sư chú thì sư ông Đạo Nhất ngồi nhiều nhất và lâu nhất, ngoài thời khóa trên chính điện là sư ông ngồi hộ niệm cho bà.
Hôm nay thì cụ Đào không cả mấp máy niệm Phật được nữa, chỉ nằm bất động trên giường, như một túi da bọc xương sạch sẽ. Tôi đã ngồi viết cả buổi chiều trên Tam Bảo; đến giờ niệm Phật chiều thì tôi từ Tam Bảo xuống, cất máy tính rồi vào phòng bà. Thầy đang đứng đầu giường, ghé xuống bên bà, nói to:
“Thôi yên tâm đi nhé, thầy sẽ lo mọi thứ cho. Yên tâm an lạc, giờ số trần đã hết, chuẩn bị về với Phật tổ nhé.”
Bà cứ mấp máy môi muốn nói nhưng không ra được tiếng. Thầy bảo ừ ừ, thầy biết rồi.
Mọi người tiếp tục lên chùa tụng khóa lễ chiều. Tôi về phòng trả lời nốt bài phỏng vấn cho một tờ báo bên Pháp. Xong xuôi, tôi nhìn qua cửa sổ thấy thầy đang nói chuyện với ông Đạo Tứ và hai bà già trong làng. Linh cảm cho tôi biết cụ Đào đã đi. Tôi chạy ra:
“Thầy ơi, cụ Đào đi rồi ạ?”
“Ừ cụ đi rồi. Thầy khai thị cho cụ xong là cụ đi.”
Lúc này mặt trời xuống ở phía xa rất đẹp. Hoàng hôn rực rỡ không sao tả xiết - những đụn mây vàng thắp sáng cả một góc trời. Rồi phía xa bắt đầu có mưa nhưng quanh chùa thì không mưa và một dải cầu vồng xuất hiện ngay phía trên chùa. Mọi người thi nhau ra chụp ảnh. Ai cũng hoan hỉ. Mọi người bảo:
“Cụ về với Phật rồi.”
Chương 39
Một bình tro, một cái ảnh
Từ 2 giờ đêm, sư ông Đạo Nhị đã trở dậy, cùng với chú Thất đi chợ mua một xe hoa, chất đầy gốc đa gần điện Mẫu. Niệm Phật khóa sáng xong, cả chùa bắt đầu dọn dẹp sắp xếp để chuẩn bị đám ma. Quan tài đã được chở vào bằng xe công nông. Các sư ông sư chú và thợ xây xúm lại, mỗi người một tay bê quan tài để xuống mặt sân ngay phía sau phòng tôi. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy quan tài mà không thấy sợ hãi, chỉ thấy nó là một cái thùng đựng đồ. Thực sự chỉ là một cái thùng đựng đồ.
Trước nhà Tứ Ân bây giờ đã căng banner: “Tây phương cực lạc thế giới đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật”. Hai bên là hai cặp câu đối treo dọc: “Nguyện Sinh Tây Phương Tịnh Độ Trung. Cửu Phẩm Liên Hoa Vi Phụ Mẫu. Hoa Khai Kiến Phật Ngộ Vô Sinh. Bất Thối Bồ Tát Vi Bạn Lữ (32) ”. Bảy giờ sáng, phường bát âm cùng đội loa đài và phông bạt đến thử trống thử nhị réo rắt, rồi những người đàn ông hò dô dựng rạp. Sư huynh của thầy từ chùa Hương và chùa khác cũng ra. Tôi phụ sư ông Đạo Tam bày các mâm hoa quả. Ngày hôm nay thì không được quan sát mà phải làm; kể cả lũ trẻ con cũng phải lau sàn, nhặt rau, trông xe, pha trà. Nhộn nhịp lắm, không hề có khóc lóc tang thương.
“Xả báo thân thì là phải vui chứ.” - thầy nói - “Đám cưới tại gia bằng đám ma nhà chùa.”
Gần 8 giờ, chư tăng làm lễ nhập quan cho cụ Đào. Thầy vào trong phòng làm lễ, các sư ông sư bác sư chú ở ngoài đồng thanh tụng chú Đại Bi và Tâm Kinh Bát Nhã. Nhập quan xong, quan tài được những người đàn ông khiêng ra ban thờ trước nhà Tứ Ân. Chư tăng đứng quanh quan tài tụng kinh A Di Đà rồi bắt đầu phát tang cho người nhà. Ban bát âm bắt đầu kèn trống. Mọi người lần lượt vào viếng. Đoàn ra đoàn vào qua trưa đến chiều.
Buổi tối, cả chùa bắc ghế ngoài sân, trước quan tài, tụng kinh Địa Tạng cho cụ Đào. Tôi cũng ngồi tụng cùng. Đến đêm, phường bát âm vẫn sáo nhị nỉ non cả đêm; người ra người vào nhà sàn rậm rịch chuẩn bị cỗ bàn. Tôi vẫn ngủ ngon.
Ngày hôm sau là ngày an táng. Gần 8 giờ sáng, chư tăng tụng kinh và chú để di quan. Quan tài được sáu người đàn ông bê ra xe. Rồi cả chùa lên xe ra đài hóa thân hoàn vũ ở Văn Điển. Đến đó, quan tài được khiêng vào nhà hỏa táng. Chư tăng và Phật tử đứng quanh quan tài, lại tụng Đại Bi, thập chú rồi niệm A Di Đà. Rồi cửa lò mở. Quan tài được đẩy vào trong lò và mọi người ra về.
Buổi chiều, thầy cử sư ông Đạo Tam đi lấy tro. Tro đã được bỏ trong bình. Bình được mang vào nhà Tứ Ân để thờ. Vậy là xong. Mới hôm kia còn là cụ Đào; giờ chỉ còn một bình tro, một cái ảnh. Chấm hết.
Chương 40
Vô tâm, hữu tâm
Qua đám ma cụ Đào, chùa trở lại như cũ, tiếp tục như một dòng sông lững lờ trôi và tôi cũng trôi theo dòng sông đó. Càng ngày tôi càng thấy cốt tủy của đạo Phật không phải một tôn giáo, tức là những nghi lễ, truyền thống, tổ chức. Càng ngày tôi càng thấy tu hành chẳng phải một thứ đạo lộ riêng biệt mà tôi phải chờ đến lúc nghỉ hưu, bỏ hết mọi lo toan đời sống mới có thể bước vào. Tu chính là ở từng việc nhỏ hằng ngày, chính là việc sống đời sống này. Giải thoát cũng thế. Chẳng phải ở thời tương lai, chẳng phải một cái đích xa xôi mà phải ở từng phút từng giây, ngay đây, ngay lúc này. Phút nào có an lạc, không phiền não là phút đó giải thoát. Chẳng thể đợi đến lúc chết mới về Cực Lạc hay Niết Bàn. Nếu trong hiện tại không an lạc thì mong gì lúc chết sẽ về đến nơi?
Bây giờ, một ngày ít nhất tôi có được ba thời tràn ngập an lạc. Một là thời Lăng Nghiêm sáng. Bốn giờ sáng, trời còn tối đen, chỉ có nhà tổ sáng đèn cho chư tăng vân tập. Tôi đi vòng qua lầu Quán Âm để lễ Đức Quán Âm trước rồi mới vào Tam Bảo. Trong Tam Bảo chỉ có chú Thất đang đèn hương. Chú Thất thắp nến, đốt hương, xông trầm; tôi đi mở cửa gỗ trông ra sân. Cứ mở lần lượt từng cánh gỗ một, từ bên ban Đức Chúa Ông ra ban giữa, rồi sang ban Đức Thánh Hiền. Ánh sáng theo từng cánh cửa ùa dần từ trong Tam Bảo ra ngoài sân chùa. Mở hết 14 tấm gỗ là sân chùa sáng.
Rồi có tiếng đại hồng chung chậm rãi, âm vang và một hồi kiểng tập tăng ở nhà tổ. Từ cửa sau Tam Bảo nhìn sang nhà tổ, sẽ thấy các bóng áo vàng bắt đầu lần lượt đi từ khu nhà tăng và bếp về phía tổ đường, mỗi người một dáng. Ông Nhất chậm rãi. Ông Nhị bao giờ cũng có mấy con chó chạy trước dẫn đường, rồi đến tiếng guốc lọc cọc đủng đỉnh như một cụ già. Ông Tam nhanh nhanh, ống tay áo phơ phất. Ông Tứ thong dong. Bác Đạo Ngũ người thẳng tưng. Chú Đạo Lục trầm ngâm, như luôn suy tư chuyện gì đó. Chú Thất vội vã, gót chân như không chạm hẳn xuống đất. Mọi người thường dừng trên hiên nhà tổ, mở y ra đắp rồi mới vào. Kiểng dồn ba hồi, có chuông trên Tam Bảo đáp lại, và tăng đoàn bắt đầu đi. Kiểng đi trước, rồi đến thầy, sau đó lần lượt theo thứ tự: ông Đạo Nhất, Đạo Nhị, Đạo Tam, Đạo Tứ, bác Đạo Ngũ, chú Đạo Lục, Đạo Thất.
Bao giờ cũng có một khoảng thời gian vài phút từ lúc chư tăng vào Tam Bảo cho đến lúc bắt đầu thời khóa. Đấy là lúc chờ chư tăng sắp ban, lấy bồ đoàn rồi ngồi xuống, nghiêm trang thân để vào khóa lễ. Thời công phu khuya thường chỉ có chư tăng và vài người ở chùa dài hạn nên bên ban Đức Thánh Hiền thường chỉ có mình tôi ngồi. Nhiều khi tôi cảm động chỉ với cảnh các sư ông im lặng dọn y áo chỉnh tề chờ khai tiếng chuông đầu tiên - cái im lặng có một phần của sự nghiêm trang, một phần của sự mệt mỏi và kham nhẫn vì ngày qua ngày đều phải dậy sớm, không được buông lung.
Tụng xong Lăng Nghiêm chừng 5 giờ, trời có khi vẫn còn tối nhưng niệm Phật trong trai đường xong là ban mai hửng lên. Hôm nào nắng sớm thì nắng rất trong chiếu xuyên từ đằng Đông qua cổng chùa vào những bàn đá tiếp khách. Những thân Phật Tỳ Lô Giá Na vàng ánh lên trong nắng sớm. Cây gạo cổ thụ in bóng lớn lên nền trời xanh sạch. Không khí trong mát, đầy tiếng chim sẻ ríu rít và bồ câu gù nhau. Lúc ấy là lúc tôi cầm cái chổi lá cọ quét khoảng sân rộng trước nhà sàn. Có hôm ông Đạo Nhị hứng chí quét cùng tôi. Ông đi chân đất, quét cái chổi tre có cán là một ống nước bằng gang rất nặng - vừa quét vừa tập võ bằng cách di chân, lia chổi.
“Sư ông ơi, tổ nào ngày xưa chăm quét chùa?”
“Tổ Kính Sơn. Trong cảnh sách đấy. “ Tổ Tào Khê siêng năng giã gạo. Tổ Tuyết Phong tần tảo làm cơm. Quy Sơn bếp núc chăm nom. Kính Sơn quét tước, thường làm vệ sinh ”. Sao?”
“Giờ con mới hiểu tại sao các tổ thích quét sân.”
“Ờ, quét sân là quét tâm mình đấy.”
Ông Đạo Nhị hay trợn mắt với tôi rồi lại cười toe toét. Tôi luôn có cảm giác ông như anh trai lớn thân thiết của tôi dù thực tế ông kém tôi nhiều tuổi. Có hôm, tôi đi với thầy đến hơn 9 giờ tối mới về chùa; khi vào phòng, tôi thấy có tấm ri đô xanh treo ngang cửa sổ. Ông Đạo Nhị đã treo lên lúc tôi đi vắng vì sợ tôi bị nắng ở ngoài chiếu vào. Những hôm thầy cho tu bát quan trai mà Phật tử vào nằm đầy nhà sàn thì ông luôn vào kiểm tra xem tôi có bị lấy mất chăn gối không. Những tối tôi ra phố có việc về khuya, cổng chùa đã khóa, tôi đứng ngoài gọi điện cho ông:
“Ông ơi con đây, mở cửa cho con với.”
“Đi chơi đâu giờ mới về hả?”
Ông lộc cộc đi guốc ra mở cho tôi. Rồi lại kêu tôi chờ để ông đi mở cửa nhà tổ lấy quạt cho tôi vì chắc mọi người lấy hết quạt rồi. Nếu nhà tổ hết quạt, ông lấy quạt phòng ông cho tôi. Có lần, tôi đã hỏi ông:
“Ông ơi, ông quán xem con với ông là nhân duyên thế nào?”
“Là duyên lành.” - ông lừ mắt - “Không đòi nợ mi đâu mà lo.”
“Có phải từng là hảo sư muội của ông không?”
“Ờ, thế thì giờ mới nhận chứ không giờ nhận làm chi.”
Tôi vừa quét vừa nhờ ông đọc cảnh sách cho tôi nhẩm. Tôi rất thích nghe cảnh sách, nhất là cảnh sách ngày trai, các sư ông sư bác sư chú phải tuyên bằng tiếng Hán và phải luyến láy theo lối bình văn như thế này:
“Dương cốc minh tương khảiiiiiiii
Man man hắc địa khaiiiii
Xúc tâm trần cảnh khởi
Huyễn mục sắc tranh bàiiiiiii
Xú xác hưu tham bão
Mai đầu tảo nguyện đàiiiiiii
Ân cần chuyên lục niệm
Thứ đắc khế phương laiiiiiiii
Nam mô Thường Tinh Tiến Bồ Tát Ma Ha Tát!
Nam mô Thường Tinh Tiến Bồ Tát Ma Ha Tát!
Nam mô Thường Tinh Tiến Bồ Tát Ma Ha Tát! (33)
Hoặc bài cảnh sách lão đường có những từ tiếng Việt hay vô cùng mà tôi chưa từng biết: “Lời Đức Thế Tôn dạy rằng: Mệnh con người ta chẳng thường, ví như bóng đèn mây nổi, lửa chớp chiêm bao, chợt về cõi âm ty tới khi tắt hơi thoi thóp. Ví đương thuở sức dài vai rộng, má phấn môi son, tơ mành mành mà bỏ cách cõi trần, cũng chan chan thấy vậy. Phương chi lúc tuổi già mệnh yếu, làm sao cho trốn khỏi vậy ôi! Thầy thượng tọa khắn đáu trong lòng, vậy đem để làm lời khuyên nhủ. Kính xin trong đại chúng chớ thấy rằng người hèn mà khinh rẻ thuở nhời. Xin ai ai xem lấy thân này, tới khi già thời mắt lòa tai điếc, tóc bạc, da nhăn, lưng gù, sườn vạy, gân chuyển, xương đau, bước bước gập ghềnh, tinh thần mờ mịt. Ví như non Đoài bóng xế, còn sáng là bao, ngọn cỏ tới mùa thu, rầu rầu héo hắt. Vì vậy biết thân này là hư dối, cửa tử môn đã hé cánh đợi chờ, bước chân ra mờ mịt chốn hôn cù, đường trước ấy biết qua đâu chẳng nhẽ. Xin bạch trong đại chúng! Thực như mệnh con người ta đã tỏ, chẳng phải rằng ai dám ngỏ hay. Những ai ai chưa biết nguồn cơn, nỗi lão bệnh tử sinh là thế thế. Há chẳng nên xét mình tinh tiến, gắng sức tu hành cơn nhất đán nữa lấy gì mà trông cậy. Nọ quỷ vô thường nhâng nháo, kìa ma dịch lệ hăm hăm, người trần thế ai mà chẳng tham sinh úy tử. Sao bằng tu Tịnh Độ pháp môn, xin cùng nhau niệm Phật tu hành, khi lâm chung thác chất liên đài, về Tịnh Độ theo đòi Đức Phật.”
Thời an lạc thứ hai trong ngày là lúc chiều tối, khi mặt trời đang lặn và trước giờ lên chùa khóa tối. Lúc ấy, dù ban ngày có nắng nóng đến mấy thì trời cũng dịu xuống. Gió mát, thổi xào xạc những cây nhãn trong sân chùa. Lũ gà tre của thầy mới nở, như những cục bông nhỏ xinh xắn, có con mới nở đứng còn loạng choạng, cứ đến chiều là mẹ con gọi nhau lục tục, láo nháo quanh khu bếp. Chùa lại có năm con mèo con, bác Đạo Ngũ đặt tên là Tiểu Bạch, Tiểu Tam, Tiểu Kim... Chiều chiều, bác Đạo Ngũ đi qua lại gọi:
“Tiểu Bạch, Tiểu Bạch, ra đây xem nào... Ô thế kiêu à, không ra à?”
Rồi bác ngồi thủ thỉ với bọn mèo, nói chuyện cưng nựng chúng nó rất buồn cười. Bác Đạo Ngũ hay cắm đài ở khu nhà bếp để mở nhạc thiền và chú cho mọi người nghe. Vậy là vừa nghe nhạc, nghe gà kêu lục tục, mèo đùa nhau, hoàng hôn xuống vàng rực hồ nước và cánh đồng sau chùa. Dạo này, tầm chiều tối, sư ông Đạo Tứ và bọn trẻ con còn hay nhảy ùm ùm xuống hồ tắm rồi cười khanh khách vang cả chùa. Có lúc bọn trẻ tắm lâu, quên cả đi ăn cơm để kịp giờ lên chùa, thầy đi qua, bảo: “Ta đếm đến ba, không lên ta vụt”; thế là tất cả lại líu ríu lướt thướt lên khỏi hồ, vẫn còn đùa nhau khanh khách.
Có những chiều tối, tôi theo thầy ra khu đất trống sau chùa. Thầy khoát tay chỉ chỗ này sẽ xây 48 tháp đá thờ các tổ, chỗ kia là giảng đường, chỗ kia trai đường, rồi thư viện, Phật đài, đàn xã tắc. Tam Bảo và tổ đường cũng sẽ được mở rộng. Tôi nhìn ra khoảng đồng trống nơi bóng tối đang xuống, tự hình dung một ngày nào đó ở đây sẽ nườm nượp người đến tu đạo, bóng áo vàng và áo lam phấp phới, an lạc bao trùm. Muốn ghi lại khoảnh khắc đang đứng với thầy thế này và thầy khoát tay trên vùng đồng trống mờ tối. Tôi hỏi thầy phải mất bao lâu mới hoàn thành mọi công trình, thầy bảo cứ đà này thì 20 năm, mỗi năm chỉ có thể làm một công trình thôi.
“Số thầy vất vả.” - thầy nói - “Người ta xây cái chùa mấy trăm tỷ nhẹ như không, thầy thì phải tự hết. Nhưng thôi, khó khăn thế cũng chính là cái phước Phật tổ cho mình.”
Thời điểm đặc biệt thứ ba ở chùa là lúc lâm thụy ở nhà sàn xong nhưng chưa ai muốn về ngủ cả. Phòng tất cả các sư ông, sư bác, sư chú đều ở gần nhà sàn - ông Đạo Nhất ở kế nhà Tứ Ân, ông Đạo Nhị ở đối diện cửa nhà sàn; ông Đạo Tam, Đạo Tứ, bác Đạo Ngũ, chú Lục, chú Thất ở khu vuông góc; lâm thụy xong, chúng tôi thường nán lại trong nhà sàn hoặc ngoài bàn nước nói chuyện. Có hôm mang bánh sinh nhật còn thừa và hoa quả ra ăn. Ngày nóng thì thầy trò ăn kem. Ngày mưa mát thì bứt một nắm lá vối trên cây vối trong sân pha với nước sôi, rồi ăn với oản và các loại bánh kẹo quá hạn vì quên hạ từ các ban thờ xuống. Có hôm thì bọn trẻ thách nhau đu xà. Rồi tập võ. Rồi ôn lại chuyện người này người kia lúc mới đến chùa như thế nào rồi cười không dứt. Thường phải đến gần 10 rưỡi mới ai nấy về phòng ngủ, tắt điện ngoài bàn nước. Có hôm, tôi đã ngủ rồi thì nghe tiếng âm âm trong phòng. Giật mình mở mắt, thấy chú Thất đang ngồi trì chú. Hóa ra phòng chú nóng quá, chú ôm chăn gối vào một góc nhà sàn nhưng chưa ngủ ngay mà còn hành trì. Trong ánh trăng nhạt soi qua cửa sổ vào nhà sàn, dáng gầy guộc của chú in mờ mờ lên vách tường cùng tiếng “Ômmmm...”. vang vang.
Cứ như thế, càng ngày, tôi càng lắng sâu vào một chỗ bình an trong tâm. Đã lâu rồi tôi chưa về nhà. Em gái tôi thỉnh thoảng nhắn tin, về đi resort nghỉ với cả nhà đi. Nhưng resort nào bằng chùa? Tuy ăn cơm chay, ngủ sàn gỗ, tắm rửa không thuận tiện, nóng nực chẳng có điều hòa, sáng dậy sớm, tối thức khuya làm việc, nhưng tôi an lạc hơn bất cứ kỳ nghỉ nào tôi từng đi, kể cả những lúc nằm phơi nắng ở Hawaii. Chỉ thi thoảng, tôi như khách ghé vào đời sống, lúc thì đi họp, lúc thì đón đồng nghiệp từ Mỹ sang, lúc ra Đại học Quốc gia chấm bảo vệ luận án cho sinh viên, rồi lại về chùa. Có hôm tôi đi đến tọa đàm tủ sách Cánh Cửa Mở Rộng với anh Ngô Bảo Châu và nhà xuất bản Trẻ. Truyền hình, báo chí phỏng vấn nhiều, nhưng tôi ngồi đó, trả lời các câu hỏi, mà bên trong thì thấy mình như một người ngồi kiết già không lay chuyển. Càng ngày, tôi càng trở nên nhạt nhòa trong suốt.
Không là một nhân vật.
Không mua vui, đối đãi.
Không mở miệng, nhếch mép, nhướng mày, nói cười như hề chèo. Đôi lúc, tôi tự hỏi có nên lo lắng về sự vô tâm này của mình không? Em gái tôi bảo, chị theo Phật phiếc gì mà gia đình mình thì chẳng quan tâm, cứ đi mất hút? Mẹ thì bảo sao con càng ngày càng trở nên ít nói như vậy? Con không giống hồi xưa nữa. Khi xưa con tự chủ, quyết đoán, mạnh mẽ mà bây giờ... con giống một người khờ khạo, đù đờ.
Có phải là tôi đang trở nên vô tâm, vô cảm không? Đang đi vào huyễn hoặc, hư vô? Đang trở nên một cái thây chết? Có hôm tôi hỏi: “Bạch thầy, nếu thế giới ai cũng đi tu, thì sẽ không còn có ai lấy chồng lấy vợ đẻ con, thế giới sẽ tuyệt diệt mất”. Thầy nói:
“Không bao giờ phải lo thế giới này tuyệt diệt đâu. Nếu nó diệt thì chỉ là diệt cái tướng của cõi Ta Bà như ta đang thấy, nhưng lại sẽ sinh ra một cõi khác, và cũng vẫn sẽ có các chúng sinh của cõi đó tương ứng với tâm thức Ta Bà... Cứ theo tâm thức mà biến hiện thôi.”
“Vậy nếu như thế giới ai cũng như chúng ta, ai cũng nhẫn nhịn, tịch lặng, thì sẽ lấy ai xuống đường, ai đấu tranh cho các áp bức bất công, ai nói lời nghịch nhĩ, trung thực, ai sẽ cúng dường, thỉnh pháp?”
“Nếu tất cả cùng tu, thì sẽ còn rất ít áp bức bất công để mà phải đấu tranh theo đường lối của thế gian cô ạ. Sẽ không có tính toán, được mất, tranh giành. Người ta không cần khởi ý can thiệp bởi vì không thấy có vấn đề thì đâu cần giải quyết vấn đề. Chúng ta thường toàn tự tạo vấn đề rồi lại loay hoay giải quyết.”
Khuya hôm nay chuẩn bị đi ngủ, tôi ra bếp thì thấy ông Đạo Nhị ngồi xổm, tay ấp một con chim. Hóa ra con chim sẻ bị mưa sã cánh, rớt xuống đất, bị mèo vồ. Ông Đạo Nhị trong phòng đi ra thấy thế đạp bay con mèo rồi cố sưởi cho con chim ấm lên. Người con chim tuy còn nguyên không thấy chảy máu nhưng chắc đã quá lạnh và giập nát bên trong nên cứng dần. Tuy thế, hai mắt nó vẫn còn mở và chớp nhẹ. Tôi ngồi xuống cạnh ông Nhị rồi bất giác bắt đầu niệm:
“A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật...”
Ông Đạo Nhị ấp hai tay quanh con chim. Tôi vẫn niệm A Di Đà Phật, A Di Đà Phật thành tiếng. Ông Nhị không niệm ra tiếng nhưng hình như đang thầm làm lễ quy y cho nó. Con chim bỗng nhiên duỗi một chân ra, giãy lên mấy cái rồi thu chân lại, ngồi thẳng người lên ngay ngắn trong lòng bàn tay ông, nhắm mắt lại, ra đi. Chúng tôi tiếp tục niệm Phật thêm một lúc rồi ông Nhị lấy giấy ăn lót vào cái bát nhỏ, để xác con chim trong đó, mang vào nhà Tứ Ân. Ở đó có cái đài niệm Phật Di Đà mở suốt đêm ngày.
Chương 41
Chuyện sư ông đạo nhị
8 giờ 30 phút tối dưới chân nhà sàn:
Phỏng vấn á? Phỏng vấn cái gì nhỉ? Ông có biết gì đâu mà phỏng vấn?
Thì ông nói chuyện bình thường với con thôi mà.
Ba mươi phút thôi nhá. Chắc ba mươi phút là hết chuyện.
Thì ông cứ lên đây nói chuyện với con đã.
Sư ông không biết nói pháp đâu.
Con có hỏi pháp đâu, con hỏi chuyện nhân duyên sư ông đi tu.
Đi tu thì... đi tu thì... chuyện sư ông đi tu thì... thì đấy cũng như kiểu các sư ông kia thôi, (cười)
(Cười) Nói thế chứ! Mỗi người đi tu có một câu chuyện mà.
Trên nhà sàn:
Chuyện của sư ông thì... bắt đầu từ chỗ nào nhỉ... nó dài lắm... Thân phụ của thầy mất được bao nhiêu năm thì sư ông đi tu được bấy nhiêu năm. Thật ra ông nội của sư ông với bố thầy là hai anh em ruột cho nên ngày xưa sư ông gọi thầy bằng bác. Nhưng ngày xưa thì sư ông ít ra ngoài chùa này lắm. Ngày xưa sư ông không tin vào tâm linh mấy đâu. Nghĩ là không làm lấy gì mà ăn í. Nhưng mà được cái là, người ta gặp sư ngoài đường, người ta trêu nhưng mà sư ông không bao giờ trêu. Tại vì nhà sư ông tính ra cũng ba, bốn người đi tu. Ngoài thầy thì còn có sư già Mai với sư già Liên đấy.
Thế rồi có ông anh, nó đi xuất khẩu lao động ở Tiểu vương quốc Ả rập. Nó đi mấy năm chẳng tin tức gì, mất tích luôn. Nhà cứ lo, đi xem bói nọ kia. Thì sư ông ngày xưa, nhỏ bằng này này, ở quê thì nhà nuôi gần chục con bò. Hằng ngày, sư ông cứ cưỡi bò đi qua một cái chùa, mình nhìn thấy tượng Quán Thế Âm Bồ Tát ở ngoài, thế là mình đứng ngoài xin số. (cười) Số đề í. Ngày đấy sư ông hay đánh đề. Thì hay cầu số nhưng không bao giờ được. (cười) Xong cái chuyện của ông anh xảy ra, sư ông mới cầu nguyện là có tin tức của ông í, thì một tháng sau là có tin tức. Thế mình bắt đầu có lòng tin. Thế cứ rải rác những chuyện như vậy; song đến năm mà sư ông học hết cấp ba thì đi làm điều khiển máy cho bên Nhật, làm dự án nước sạch trong Tây Nguyên. Lương thời kỳ đấy so với bạn bè, chúng nó chỉ có triệu mấy mà sư ông là sáu, bảy triệu. Nhưng mà mình sống hoang lắm! Làm là đi hết cả. Đấy, tự nhiên mình cảm thấy nó vô ích. Xong bắt đầu về miền Bắc làm cho Việt Nam thì nó trả rất là thấp mà nó lại bắt ở công trình. Thế là... vừa nói cái gì quên mất rồi... (cười)
Đến đoạn sư ông di về miền Bắc làm lương thấp.
À đấy, thì như vậy nó chán. Tự nhiên mình cảm thấy nó vô ích. Mình bắt đầu rượu chè. Sư ông thì... nói chung sư ông ngày xưa là con người hư hỏng. Có nghĩa là cờ bạc, lô đề, đánh đấm, hút xách, cái gì cũng có. Thầy bảo là, mày mà không đi tu thì chỉ có đi tù! (cười) Nhưng mà sư ông cái phước nó hẵng còn lớn là mình không dính vào xì ke. Ngày xưa lúc còn học thì... sư ông ít ở trong lớp lắm! Một là đi đá bóng, hai là đi đánh bi-a. Xong đi karaoke. (cười) Có khi nhớ, có những cô giáo vào lớp nhìn thấy sư ông mà không biết sư ông là ai. Trong lớp thì ngồi bàn cuối. Lúc nào sư ông cũng thuốc, ngồi hút như kiểu đốt nhang ý! (cười) Nói chung cuộc đời sư ông... nói chung trước đây là con người hư hỏng.
Thế xong đang ăn chơi như thế, sao lại đi tu ạ?
Bắt đầu đi tu là do gia đình bị khủng hoảng kinh tế. Sư ông mới lao đi kiếm tiền. Lúc đấy chỉ khao khát làm sao mình phải kiếm được nhiều tiền. Thì lúc đầu sư ông cũng tính mở một cái tiệm ăn. Nhưng mà thế lại liên quan đến sát sinh. Sư ông mới không làm nữa. Rồi bắt đầu chạy đồ điện tử. Cái này cũng không thể giàu được. Bắt đầu sư ông quay sang rửa tiền. Rửa tiền giả í. Một thời gian thì nó chán. Chán tất. Lúc đấy tiền cũng chẳng thiết. Đêm là ngày, ngày là đêm. Có khi ngủ gọi chẳng buồn dậy. Hôm nào mà buồn thì ngồi uống cà phê xong đá bóng. Hoặc là xem phim kinh dị. Hoặc là đứa nào rủ thì lại đi chơi. Nói chung mấy tháng giời như thế ở nhà. Nó cứ liên miên. Xong rồi bọn Nhật nó gọi đi làm lại. Sư ông đã chuẩn bị đi Tây Nguyên rồi đấy chứ. Lúc sư ông khoác ba lô đi thì bố thầy mất, thế là vứt ba lô ở nhà để ra chùa chấp tác ma chay, xong rồi ở lại luôn. (cười)
Lúc đấy sư ông có ý định đi tu chưa?
Thật ra lúc đấy ra đây, sư ông không có ý định đi tu đâu. Sư ông nghĩ cái cốt cách mình, cái tính cách mình, không bao giờ có thể tu được. Thế nhưng ra đây, một hôm sư già Mai mới đưa cho quyển sách nói về hòa thượng Tinh Vân. Cuộc đời của ngài rất là khổ. Nhưng ngài suốt đời hành đạo, cầu đạo. Mình đọc thì mình mới bắt đầu khát ngưỡng cái hạnh của ngài. Chính nhờ quyển sách này mà sư ông khởi được cái lòng tin, muốn tìm được cái an lạc. Còn lúc đầu ra chùa thì chỉ định ra lo công việc ma chay của thân phụ thầy thôi. Lon ton cơm nước. Mà lần đầu tiên sư ông ra chấp tác, biết là làm gì không? Là lau ngài Quán Âm. Thế mới biết là có duyên nhá. Lúc đấy, dưới thì mặc quần bò, trên thì mặc áo ngủ, không biết mượn cái áo ngủ của ai, áo của bác Ngũ hay sao ý. (cười) Lau ngài Quán Âm. Xong một hôm lên dọn nhà tổ, lau xá lợi, thì thầy mới bảo đi tu đi con. (cười)
Thầy nói thế thì ông nói gì?
Thì chả nói gì, chỉ cười thôi. Chẳng biết nói gì nữa. Nhưng mà lúc đấy cái tâm trạng mình rất là vui nhớ. (cười) Như kiểu có gì thôi thúc mình. Mình khởi tâm... Tức là trước lúc đấy, sư ông nhìn thấy tượng các tổ thì thấy sướng thật, chết đời đời được thờ phụng, chẳng phải làm ma đói ma khát.
Ha ha, ôi giời.
Đấy, quan điểm lúc đấy rất là ngây thơ. Mình thấy làm ông sư, chết có người cúng. Thế là cứ ngồi nghĩ thôi, xong rồi cứ ngồi nhìn tượng các tổ. Xong rồi hôm thầy bảo, thôi đi tu đi con, thì cái tâm nó vui vui. Rồi bắt đầu thầy giao việc. Lần đầu tiên thầy giao việc gì? Là đi mua đèn dầu để về cúng Phật cúng tổ hằng ngày. Bắt đầu công việc của sư ông là thế. Sáng dậy thì quét chùa, dọn dẹp. Công việc trong chùa thì toàn việc không tên, mệt nhưng rất là vui. Khi nào mệt quá thì chạy ra chỗ vắng vắng ngồi, ngồi nghĩ lại tất cả những cái thật và không thật. Bắt đầu tâm tu của mình khởi lên. Cứ loanh quanh làm, xong rồi hay xuống phòng lấy sách đọc. Đọc truyện của những bậc Cổ Đức í. Cuộc đời của các ngài xả thân vì đạo nhiều. Thế mình càng nỗ lực, làm không biết mệt là gì. Có những lúc không thèm đi dép nữa, lúc nào cũng chân đất. Tại vì mình mà đi dép, ra cửa nọ cửa kia, mắc cái đôi dép thì cũng chết! Mà rét như vậy, chân sư ông cả ngày đi đất nó sưng lên.
Thế, mấy tháng chấp tác, thầy thấy mình là người cũng có thể tu được nên thầy bảo, tôi cạo tóc cho chú. Sư ông nhớ cạo tóc là mùng chín hay mùng mười. Mà sư ông đi tu lễ được mỗi bố thôi. Mẹ thì không lễ được. Bà già không chịu được. Bà í ốm một tháng, không ăn không ngủ. Lúc đấy người ta bảo là, cái tâm cầu đạo của mình không cái gì có thể phá được. Đúng thật! Mình cầu đạo nên chẳng ai phá được, đến cha mẹ mình còn không thể ngăn cản được.
Thầy đánh sư ông bao giờ chưa?
Rồi. Lần cô Đa hiển linh ấy. Tại vì sư ông quan điểm rõ ràng, tôi đi tu rồi, tôi chỉ quỳ trước thầy với Phật thôi, không quỳ trước ai cả! Và lễ tổ, lễ đồng tu trong đạo để thể hiện sự tôn kính. Lần ấy cô Đa cô ý cho lộc, thì cô ý nói thế này này, cho chú tiểu ngày xưa, cho chú gói bánh uống trà. Sư ông bảo, thôi cô cho mọi người đi. Ra điều là mình không cần đấy. Mình khởi ý, thế là cô í dỗi. Thế thầy mới lấy cái que thầy vụt. Mà sư ông lì lắm, chịu đòn giỏi! (cười) Thì thầy có cái que. Que tre đực ý, cụ hay chống ban đêm. Cụ vụt mấy cái mà gãy. Xong cụ nói về quả vị thánh. Cụ bảo người ta có cái phúc đức làm thánh ở nhân gian, như bên Tứ Phủ chẳng hạn, người ta có công nên người ta được thờ. Thầy bảo, tôi không bắt anh quỳ, nhưng người ta được làm thánh thì mình gặp mình chào. Từ ngày đấy sư ông gặp sư ông mới chào. Chứ ngày xưa không thế đâu!
Con biết có một hội gọi là hội phát cuồng vì sư ông Đạo Nhị (cười).
Đấy, khổ! Nhiều khi mang tiếng là tụ tập. Chúng nó vào chúng nó cứ ngồi chật kín cả phòng. Mà những đứa đến chùa với sư ông, chúng nó hầu như là những đứa ngày xưa dính vào tệ nạn. Hút cỏ chẳng hạn. Khi chúng nó vào đây với mình, chúng nó hoang dã, mình độ chúng nó không cẩn thận thì chúng nó độ lại mình. (cười) Bây giờ nhá. Chúng nó đến chùa chưa gặp thầy mà đã chạy tót vào phòng của sư ông thì sư ông phải hiểu chúng nó đang tìm cái gì và mình có thể cho nó cái gì chứ. Chúng nó đang là con người chơi bời, mình khuyên chúng nó bỏ chơi đi là khó đấy nhớ! Phải từ từ! Vì mình đã trải qua rồi.
Cô Minh nói với con trong chùa chỉ có sư ông là có khả năng tâm linh...
Sư ông thì có cái khả năng khác với mọi người, là nhìn thấy ma. Hoặc là nhìn thấy tổ, thấy Đức Chúa; khi các ngài chuẩn bị làm gì, nói gì thì mình biết. Nên là vong nó nhìn thấy sư ông nó sợ! Sau này sư ông bất cẩn nên nó mất đi.
Thế lúc sư ông nhìn thấy ma, sư ông có sợ không?
Không. Vì cái tâm của sư ông lúc đó quá vững rồi.
Cái khả năng đấy là sau khi xuất gia thì nó mới...?
Do mình tu tập thì có. Cái gì nó cũng vốn dĩ của mình, mình có sẵn, mình tu nó sẽ trở lại với mình. Thời gian đó sư ông nỗ lực lắm. Hồi đấy sư ông ở cái phòng sư ông Đạo Nhất đang ở bây giờ, buổi tối cữ trì chú bắt đầu từ 11 giờ đến gần 1 giờ sáng.
Trì cái gì ạ?
Sư ông chỉ trì ba câu. Thần chú ngài Chuẩn Đề, ngài Quán Âm, ngài Liên Hoa Sinh nữa.
Thế xong làm sao mà nó lại mất đi?
Do sư ông bất cẩn. Mình bị cái tâm mới tu, hiếu thắng, mình chưa nhận biết được nó đang lừa mình; nên mình bị mất.
Thế mất rồi có lấy lại được không ạ?
Mình tu thì lại lấy lại được. Vì nó vẫn là của mình mà.
Con hy vọng là sư ông lấy lại được các khả năng. (cười) Để hộ trì cho thầy.
Sư ông đi tu chẳng thấy giúp thầy được cái gì. Càng tu càng chẳng thấy làm được cái gì, chẳng học được cái gì. Thật đấy! Toàn làm thầy phiền lòng. Ở chùa này, cụ phiền lòng nhất về sư ông vì toàn đi ngược cụ và mọi người. Thật ra thì sư ông trong tâm lúc nào cũng... thật ra là nhiều khi sư ông đi ngược để cho mọi người sửa. Như ông Tam có cái tính hay dỗi này, thì sư ông chọc cho càng dỗi, rồi sau tự bỏ! Ví dụ lên chùa ông í bạch: “A Di Đà Phật, bạch hòa thượng chư tăng bố thí cho con xin minh khánh thỉnh hòa thượng chư tăng lên chùa ạ”, mình bảo “Ờ”. Ôi giời, tức không thể làm gì! (cười) Có khi giận hàng tháng giời đấy nhớ! Hoặc là kết trai cũng thế. “A Di Đà Phật, bạch hòa thượng chư tăng...”. mình lại bảo “Ờ”. Ôi giồi ôi... Tức lắm í! Tức không thể làm gì được. (cười)
Thế lúc các ngài vào sư ông thì sư ông cảm thấy thế nào ạ? Ví dụ lúc Đức Chúa Ông vào?
Lần đầu tiên... sư ông vừa lễ xong thì nó như kiểu có một cái gì đó không thể tả được nó vào trong người mình. Một cái luồng khí cực mạnh trong người sư ông nó phát ra! Lúc đấy Đức Chúa vào, nóng kinh khủng. Thật ra sư ông không biết; thầy bảo thị uy của ngài tỏa ra. Cảm giác nó khó tả lắm! Không khác gì cô ăn nóng thì sẽ biết nóng, lạnh sẽ biết lạnh, tự cô cảm nhận được thôi... Sư ông không biết người khác thế nào nhưng khi các ngài vào, sư ông biết hoàn toàn! Các ngài ra, mình có thể diễn tả được hôm đấy mình nói những gì, chẳng hạn như vậy. Các ngài để lại cho mình những cái gì? Để lại cho mình cái trí tuệ của bậc thánh.
Ở trong đầu mình ạ?
Trong đầu mình. Chính vì vậy có người tưởng nhầm mình có cái trí tuệ đó, tưởng mình là tổ, là thánh. Nhưng không phải, do các ngài đi các ngài để lại cho. Nếu mà biết giữ thì sẽ là của mình. Thật sự biết giữ thì là của mình. Không biết giữ thì sẽ không là của mình.
Con định hỏi gì con lại quên xừ nó mất rồi. (cười) À, có bao giờ sư ông hối tiếc đã đi tu không?
Không, chả tiếc cái gì cả! Không có hối, không có tiếc!
Có lúc nào sư ông nản chí không?
Có.
Có lúc nào muốn bỏ không?
Có.
Vì chuyện gì ạ?
Tại vì thứ nhất là cái việc cầu đạo của mình nó cũng chưa thành tựu. Lúc í nó chán nản, tự nhiên nó chán nản. Không phải là sư ông chán nản muốn bỏ về nhà. Mà sư ông muốn tìm đến nơi không có ai để mà sống! Đến chỗ ở một mình. Tu một mình. Muốn ra cái gì thì ra.
Ông ơi, làm thế nào để dũng cảm ạ? Con thấy con nhát lắm! Con rất muốn học sự dũng cảm.

Sư ông bảo dũng cảm thì cũng chẳng phải. Mình cũng sợ, cũng dát chứ! Có nhiều đứa, chúng nó hay đi xe nhanh, chúng nó đến xin sư ông cái bùa đeo để đề phòng tai nạn. Hoặc có đứa nó sợ ma, nó đến xin sư ông trì chú vào cái vòng cho nó đeo. Thực ra người ta đang có tâm ma, đang sợ ma thì mình bảo chúng nó, có sư ông đây rồi, không phải sợ gì cả! Hoặc là mình bảo chúng nó, đệ tử của ông Đạo Nhị thì không ma nào dám làm! Tự nhiên nó dựa vào câu nói đấy thì nó vững lên, cũng chỉ là an tâm tạm thời, chứ còn tu thì mới chuyển hóa được. Mà mình không thể tu hộ nó được! Bây giờ nhớ, bùa chú là gì? Thứ nhất là không được đi xe nhanh này, ăn nói phải giữ mồm giữ miệng, hoặc là ít gây gổ, đấy là những cái bùa chú hộ thân, còn không có cái gì hơn! Mình suy xét, làm đúng thì sẽ không phải sợ.
Con thấy tu khó nhỉ. Ai tu người đó biết. Khó nói giỏi với dốt ở đây.
Ừ, người ta không biết chữ cũng không biết là người ta như thế nào! Người ta giỏi cũng không biết như nào? Sư ông tu mà sư ông đang bị như thế nào thì tự sư ông biết. Đôi khi thầy không mắng sư ông đâu, thầy mắng người khác để mắng sư ông. Hoặc là nhiều khi thầy muốn nói cái gì, thầy đi vào phòng sư ông xong thầy lại đi ra, chẳng nói gì cả. Hoặc thầy có gì phiền lòng về sư ông thì thầy nói chuyện với sư già Mai, song sư già lên, nhưng sư ông bảo, sư già không biết gì đâu, đừng nói gì cả! Thế là sư già chẳng nói được gì, lại lủi thủi đi về. (cười)
Làm thế nào để định lực tăng lên ạ?
Do tu hành mới trải nghiệm được! Ngày xưa sư ông ngồi kiết già, chỉ vắt chân lên là nó buốt, không chịu được, mình cảm thấy khó vô cùng nhưng mà mình cố gắng. Ăn cơm mình cũng ngồi, niệm Phật mình cũng ngồi, lên chùa mình cũng ngồi. Mỗi ngày mình làm, dần dần nó được lúc nào không biết! Bây giờ ngồi cả ngày cũng được. Ngày xưa sư ông hay trốn cụ lên ngồi thiền. Vì ngày xưa mình mới tu, ai nói pháp gì chứng đắc cao siêu mình cũng tin ngay, mình làm theo. Lúc đấy sư ông ngồi thiền... hôm đấy sư ông đã lên ngồi khuya, sư ông chỉ dùng một cái đèn thôi, thì thầy bắt gặp, thầy bảo nghỉ đi. Hai lần như thế rồi thầy bảo không được ngồi thiền nữa. Tại vì ngồi thiền nó có cái tác hại là nó có thể chiêu cảnh. Lúc đó, có lúc sư ông ngồi kiết già, để tâm vào một vật màu trắng, một viên sỏi chẳng hạn; lúc sư ông trụ tâm vào thì viên sỏi nó sáng rực! Tất cả chung quanh nó không còn một tiếng gì nữa. Tự nhiên sư ông cảm thấy, à, hay thật đó! Muốn ngồi mãi thôi... Một thời gian thì thầy bảo nghỉ đi, chưa đến lúc, chưa định được.
Sư ông có bao giờ nghĩ là có ngày sư ông sẽ hết duyên tu hành không?
Sư ông thì không nghĩ như vậy! Sư ông chỉ nghĩ là một lúc nào đó mà mình đủ đức hạnh thì mình ở ẩn thôi. Lúc nào mà mình cảm thấy bắt đầu phải tu để về với Phật. Bây giờ mình còn đang kết quyến thuộc Bồ Đề để tạo cái thiện duyên cho đời sau.
Ông ơi, 12 giờ rồi đấy ạ!
Chương 42
Người ngu, kẻ trí
Từ đầu tuần này, sau khi nghe giảng pháp buổi sáng, tôi đến các bệnh viện tâm thần để quan sát và phỏng vấn bệnh nhân và bác sĩ. Hệ thống chăm sóc sức khỏe tâm thần ở Việt Nam còn rất lạc hậu, nhất là so với Mỹ. Từ những năm 60, Mỹ và các nước châu Âu đã có phong trào xóa bỏ chăm sóc tập trung trong các trại và bệnh viện tâm thần để đưa về chăm sóc trong cộng đồng nhưng ở Việt Nam, mặc dù chủ trương chăm sóc trong cộng đồng bắt đầu có từ cuối thập kỷ 90 nhưng thực tế cho đến nay, mô hình này không tồn tại. Việt Nam vẫn dựa vào mô hình khám và phát thuốc; nặng thì điều trị nội trú, nhẹ thì ngoại trú.
Các bác sĩ nói với tôi rằng cả nước hiện chỉ có một đến hai cơ sở điều trị tâm thần có các dịch vụ trị liệu vật lý, trị liệu lao động, trị liệu nghệ thuật và trị liệu thiền nhưng ở dạng hết sức thô sơ. Vẫn có các khu điều dưỡng mà bản chất là các trại tâm thần; bệnh nhân ở đây cho đến lúc chết, việc chăm sóc không mang ý nghĩa chữa trị và giúp họ phục hồi để trở về sống tự lực tại nhà mà chỉ đơn thuần là giữ họ biệt lập với xã hội cho đến lúc chết. Có nơi tôi đến, gần trăm bệnh nhân nữ được nhốt chung trong một khu sân hẹp; nhà vệ sinh hôi thối; đến giờ ăn, hộ lý đẩy vào một xe cải tiến cơm lõng bõng nước, bốc mùi tanh nồng nặc. Ở khu nặng hơn, bệnh nhân bị xích vào chân giường bằng xích sắt. Ngoài thuốc, hầu như không hề có trị liệu tâm lý xã hội hoặc các can thiệp vào môi trường sống tại gia đình, cộng đồng, nơi làm việc cho bệnh nhân. Theo tiêu chuẩn nhà nước, bệnh nhân được phát 80 ngàn tiền thuốc mỗi tháng nhưng thường chưa hết tháng đã hết thuốc; khi đó, bệnh nhân bị bỏ mặc gào thét khi lên cơn; nếu có biểu hiện bạo lực quá mức thì sẽ bị xích lại.
Lần đầu nhìn thấy các bệnh nhân tâm thần, tim tôi sa xuống. Cả trẻ và già đều xanh xao, da tái nhợt, mặt thiếu thần khí, cử động lờ đờ, người bốc ra mùi thuốc hoặc mùi hôi vì không tắm gội thường xuyên. Nếu ở chùa, có lẽ họ sẽ bị gọi là “mất vía” - vì không đầy đủ vía nên thần sắc như vậy.
Sáng nay, tôi tiếp tục đến một bệnh viện theo mô hình điều trị ban ngày và có cả trị liệu thiền. Trong phòng trị liệu có khoảng 25 người, 6 nữ, còn lại là nam, tuổi từ 17 đến ngoài 60, đa phần trong khoảng tuổi 20 đến 30. Khi tôi đến, một số đang đạp xe đạp tại chỗ, một số tập chuyền bóng, một số quét phòng hoặc tưới cây. Nhưng họ chỉ cử động chân tay theo quán tính mà không hề có sự tập trung. Nhiều bệnh nhân không tự sinh hoạt được nên hằng ngày mẹ hoặc bố đưa đến từ sáng rồi ngồi chờ để trưa đưa về và chiều lại đưa đến. Mấy sáng liền, tôi thấy một người phụ nữ ngoài 60, người nhỏ bé, đưa cậu con trai ngoài 20 tới và kiên nhẫn ngồi nhặt rau trong lúc cậu tập. Thực tế là ở đây có một hội phụ huynh biết nhau rõ vì sáng nào cũng đưa con tới, chờ, rồi đưa con về. Trong lúc con tập hoặc chờ phát thuốc thì họ ngồi đan len, nhặt rau, gọt mướp, làm thủ công. Có người bệnh dạng nhẹ mà có con nhỏ thì mang cả con đến bệnh viện và để con cho phụ huynh khác hoặc y tá trông hộ trong lúc họ tập. Có người tiện đường đi chợ mua cả hoa quả tới cho các bác sĩ và bệnh nhân. Ở bệnh viện này, bệnh nhân ngày nào cũng tới lấy thuốc và trị liệu nên bác sĩ, y tá, bệnh nhân và người nhà bệnh nhân thân quen như một gia đình vậy. Có hôm, có người khệ nệ bê tới phòng tập một chậu hoa.
“Mẹ cháu tặng phòng cây hoa hoàng yến.”
Đầu buổi sáng, bác sĩ vào phòng tập, hỏi bệnh nhân có ngủ được không. Có người nói không ngủ được vì cứ nhắm mắt ngủ là mơ thấy người mẹ đã mất 15 năm rồi. Một số nói tôi ngủ nhiều quá, không làm sao mà thức được, cứ ngủ li bì suốt ngày. Bác sĩ lại hỏi họ có nhớ mình đang dùng thuốc gì không. Hầu hết nhớ được tên thuốc nhưng nhớ một cách máy móc do được bác sĩ và người nhà nhắc đi nhắc lại hằng ngày chứ không phải do hiểu. Cũng có vài người hoàn toàn không nhớ; họ dường như không cả hiểu câu hỏi của bác sĩ; họ chỉ ngơ ngác vậy thôi, bác sĩ phải gọi tên nhiều lần họ mới nhận ra là gọi họ, thậm chí người bên cạnh phải chạm vào; nhưng họ nghe bác sĩ hỏi mà trên mặt không có bất cứ biểu hiện nào của việc hiểu lời.
Trong số 25 người sáng nay, một nửa được chẩn đoán trầm cảm, còn lại là tâm thần phân liệt, rối loạn lo âu, thần kinh lưỡng cực và các trạng thái khác. Một bác trai đã ngoài 60 kể rằng hồi trẻ, bác sang Lào làm việc; rồi bị lũ cuốn suýt chết đuối; từ đó bác bị sang chấn, không làm việc được nữa, phải về Việt Nam chữa trị.
“Cô ạ, có thời gian tôi điên khùng chạy khắp Hà Nội. Tôi tự tử nhiều lắm rồi mà không chết. Tôi đóng đinh vào đầu. Tôi lao vào tàu hỏa. Thế mà không chết. Cứ lúc nào mưa là tôi sợ. Cứ gặp con gái là tôi sợ. Bây giờ đỡ rồi đấy.”
Một thanh niên ngoài 20, rất dễ thương, thì luôn có một cô người yêu tưởng tượng trong đầu mà cậu gọi là Hằng. Ngày nào cậu cũng nghĩ chuyện hôm nay sẽ làm gì cho Hằng - sẽ mua hoa, hay hát tặng, hay rủ người yêu đi xem phim. Lúc nào cậu cũng phơi phới trong tình yêu tưởng tượng mặc dù không hề gặp người yêu bao giờ. Một cậu bé khác thì lúc nào cũng sầu muộn vì nhìn thấy ma đi theo mình.
“Ma như thế nào? - tôi hỏi - Là nam hay nữ hả em?”
“Là nam.”
“Người ta cứ ở cạnh mình?”
“Vâng.”
“Người ta nói chuyện gì?”
“Cái đấy em không để ý.”
“Già hay trẻ?”
“Trẻ.”
“Người ta lúc nào cũng đi theo mình?”
“Vâng.”
“Lúc mình ngủ thì sao?”
“Ngủ em cũng sợ.”
“Thế à, thế là mình không ngủ được à?”
“Vâng.”
“Tại vì mình cứ thấy người ta ở đấy?”
“Vâng.”
“Thế người ta có nói gì không hay người ta chỉ có ở đấy?”
“Chỉ có ở đấy.”
“Thế làm sao em biết là ma?”
“Em biết là ma thôi.”
“Thế trông họ có ghê sợ không?”
“Không.”
“Trông cũng như người bình thường thôi?”
“Vâng”
Sau giờ thể dục, các bác sĩ cho bệnh nhân học hát và học kỹ năng tự lập - tức là tập làm những việc mà với đa số chúng ta là đơn giản nhưng với người bệnh tâm thần là kỳ công. Giặt quần áo, vệ sinh cá nhân, nói chuyện với người trong nhà, đi xe buýt, đi chợ. Họ học cái đơn giản nhất cũng khó, nhưng đã học được rồi thì họ tuân thủ rất kỹ lưỡng, chính xác, không làm tắt làm ẩu.
“Muốn giặt quần áo thì ta phải làm gì đầu tiên nhỉ?” - bác sĩ hỏi.
“Sau khi cho quần áo vào chậu thì ta làm gì?”
“Khi lấy xà phòng thì phải để ý điều gì nhỉ”?
“Chúng ta vò quần áo ra sao?”
“Trước khi đem phơi thì phải làm gì?”
“Chúng ta phải chú ý điều gì khi phơi quần áo?”
Kiểm tra kỹ năng giặt quần áo xong, bác sĩ lại hỏi họ về kỹ năng đi xe buýt.
“Lên xe buýt, chúng ta phải nhường ghế cho những ai?” - bác sĩ hỏi.
“Cho người già ạ.”
“Cho phụ nữ có thai ạ.”
“Cho người tàn tật ạ.”
“Khi đứng trong xe buýt ta phải đứng như thế nào?”
“Phải bám ạ.”
“Phải làm gì nữa?”
“Đề phòng mất cắp ạ.”
“Khi trên xe buýt chúng ta không được làm gì?”
“Nói chuyện ạ.”
“Khạc nhổ ạ.”
“Xả rác ạ.”
“Phải đeo khẩu trang phòng bệnh ạ.”
“Không được ăn uống ạ.”
“Nhai kẹo cao su thì được ạ. Vì kẹo cao su nhai cho sạch.”
“Thế đi xe buýt có được trốn vé không?”
“Không ạ.”
“Trốn được thì trốn ạ.”
Cả bệnh nhân và bác sĩ đều cười ồ.
Học kỹ năng tự lực xong là giờ sinh hoạt. Bệnh nhân thi nhau giơ tay xin hát. Người này chưa hát xong, người kia đã đứng lên hát. Hát từ “Một con vịt” sang “Happy birthday”, sang “Tình ca”.
Những người tâm thần ở bệnh viện này - họ hồn nhiên quá. Mà tôi nghĩ, ngay cả những người “tâm thần” đang được gia đình gửi vào chùa cũng vậy. Có hôm, cả chùa đang niệm Phật rất miên mật thì Quyên phá lên cười khanh khách làm mọi người cũng bật cười theo. Ngày nào ông Nhượng nhập vào cô Xuyến cũng đuổi bắt với Thảo, rồi cãi nhau chí chóe như hai đứa trẻ. Những lúc ấy, nhìn hình tướng bên ngoài thì Thảo, một cô gái ngoài 20, đang cãi nhau với bà Xuyến, một bà già đã hơn 60; nhưng hai người lại đang cãi nhau trong tư thế một ông đánh giậm ngọng líu ngọng lô mà láu cá với một con rồng dễ bị khích bác. Hai bên chành chọe đủ thứ chuyện - chủ yếu xung quanh một “viên ngọc” vô hình nào đó không ai nhìn thấy; chành chọe nhau không bên nào chịu bên nào thì đi tìm thầy hoặc các sư ông để phân xử. Có lúc thầy cười, nói đùa mà cũng có phần thật:
“Cô Việt thấy chùa của thầy có giống một bệnh viện tâm thần không?”
Rồi có hôm thầy lại cười:
“Lâu lâu không có con ma nào gây sự cũng thấy vắng vắng nhỉ?”
Nhiều khi tôi nhìn tất cả chúng tôi ngồi trong Tam Bảo tụng kinh hoặc trong nhà trai niệm Phật - thầy, các sư ông sư bác sư chú, các bà vãi, rồi cô Xuyến, Quyên, Thảo, Tuấn, những người ở chùa chữa bệnh, những người ở chùa làm công quả, những người thợ xây, rồi lại còn nảy nòi ra tôi vào đây ở để làm nghiên cứu - mà như thấy cả mười pháp giới, tất cả tam thiên đại thiên thế giới ở cả đây. Tuy hình tướng tên gọi bên ngoài thì khác nhau, định danh khác nhau, có nam có nữ, có cao có thấp, có béo có gầy, có giàu có nghèo, có người ít học người học nhiều, người khỏe mạnh người dường như bệnh hoạn, nhưng thực sự thì có khác gì nhau đâu. Chúng tôi quây quần rất an lạc. Ai là Phật, là Bồ Tát, là thánh, là người, là ma quỷ, chỉ là tên gọi cho các hiện tượng, đâu có quan trọng và có ý nghĩa thật nào. Cả ông Nhượng, những con ma và những vong đang ám người này người kia đã trở thành một phần trong đại gia đình lớn. Tất cả có chỗ của mình, có việc của mình, đều trợ giúp tương hỗ nhau. Hoán chuyển chỉ trong tích tắc. Khi đang niệm Phật, chỉ trong tích tắc có thể phân tách thành những người khác nhau đang niệm Phật bằng các giọng và ý khác nhau, và cũng trong tích tắc lại tụ về, tất cả là một thể không chia cắt.
Có những khi ở chùa mà phiền não, tôi không đi tìm thầy hay các sư ông mà ngồi đối diện, chẳng nói chẳng rằng với Quyên, nghe Quyên cười khanh khách. Hoặc có lúc tôi phiền não mà cảm giác không thể nói với ai thì Tiểu Thánh sẽ từ đâu tìm tôi rồi rủ tôi đi thỉnh chuông hoặc đi dạo quanh chùa. Dường như Tiểu Thánh luôn đọc được chính xác ý nghĩ và cảm giác của tôi. Có hôm tôi kinh ngạc quá, hỏi thẳng Tiểu Thánh sao biết tôi đang nghĩ điều đó thì Tiểu Thánh bảo có các hộ pháp thiện thần mách cho; vả lại, “thân tâm ở trong vũ trụ rồi thì đều có thể cảm hiểu được mọi thứ trong vũ trụ”. Có hôm, Tiểu Thánh bảo tôi thỉnh chuông thử rồi nói tâm cô Việt đang không an, suy nghĩ nhiều quá nên đánh tiếng không đều, thôi để Tiểu Thánh thỉnh chuông không thầy nghe tiếng chuông không đều lại quở. Tiểu Thánh thỉnh từng tiếng một, cứ đánh mỗi tiếng đại hồng chung lại đọc lớn:
“Thế giới hòa bình!”
“Phật nhật tăng huy!”
“Pháp luân thường chuyển!”
“Nam mô Phổ Đà sơn đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát!”
Rồi Tiểu Thánh nói:
“Nam mô đại bi cô Việt.”
Tôi nói:
“Cô Việt đến tiểu bi còn chưa có làm sao có đại bi được.”
Tiểu Thánh nói:
“Vì xã hội có phân biệt nên mới có danh từ riêng chỉ Phật. Giờ thì thành ra chỉ trong Phật giáo mới có Phật. Giữa con người với con người lại quy định nhau là Phật hay không là Phật. Tiểu Thánh thấy mọi người đều là Phật.”
Tôi chắp tay:
“Mô Phật. Đúng quá!”
Đi đi lại lại giữa chùa và bên ngoài, tôi hay bắt quả tang mình nhớ chùa những lúc đang ngồi ăn cơm chiêu đãi hay họp hành bận rộn bên ngoài. Chính xác là nhớ cái không khí trong sạch ở đó, nhớ cảm giác không cần đề phòng ai, thấy ai cũng đáng yêu, đáng quý, dù ma hay người, dù chó mèo hay cây đại cây nhài. Tôi cứ nhớ đến sự hớn hở âm thầm mỗi sáng tắm gội sạch sẽ rồi mặc áo tràng, lên Tam Bảo trước giờ giảng pháp để phụ các sư chú sư bác chuẩn bị bàn cho thầy giảng pháp. Có khi tôi và bác Ngũ hút bụi, kê bàn, kê ghế, lót đệm ngồi, bày lọ hoa, đặt hai cây nến vàng lớn ở hai đầu bàn, rồi mở án kê kinh, khêu đèn, xông trầm. Những việc nhỏ nhưng việc nào cũng là một nghi lễ thiêng liêng. Chỉ có chỉnh đệm ngồi cho thầy mà cũng phải thử mấy lần, sao cho không xộc xệch, vừa khoảng cách với bàn. Tôi và bác Ngũ thay nhau ngồi ướm vào nhưng không ngồi hẳn xuống vì trong thâm tâm, ngôi vị chủ tọa đó chỉ có duy nhất thầy ngồi kể cả khi thầy không có đó.
Các sư bác sư chú làm việc hương đăng rất thuần thục, tự nhiên, như đã làm việc này cả trăm nghìn năm rồi. Nhiều khi tôi ngẩn ngơ nhìn bác Ngũ, chú Lục, chú Thất khêu đèn, rồi tưởng tượng 50 năm nữa, khi từng người đã già. Các tổ ngày xưa chắc trông cũng như vậy - dáng cao thẳng uy nghi, những ngón tay dài gầy, tâm tính thuần hậu tốt lành, chỉ cần ở gần là thân tâm bừng nở an lạc. Có hôm tôi thấy bác Đạo Ngũ chăm chú bóc từng cánh sen đã thâm khỏi những bông sen trắng trên bàn giảng pháp của thầy, rồi cẩn thận bỏ các cánh sen cũ vào túi áo nâu chứ không vứt đi. Thật là quá đẹp.
Chương 43
Niết bàn ngay đây
Giữa sáng nay, bão từ Hải Phòng vào Hà Nội. Mưa lớn. Gió ào ạt qua những tán nhãn. Sân chùa ngập nước. Thầy bảo Phật tử vào nhà trai ăn cơm cùng chư tăng nhưng chỉ có mình tôi vào. Ăn xong, mọi người buông bát, im lặng. Thầy nhìn ra ngoài sân mưa, trầm ngâm:
“Thời gian nhanh thật, mới thế mà đã già rồi.”
Ông Đạo Tứ hắng giọng ngâm nga câu văn cúng vong:
“Mới hôm nào còn ngồi bên cửa sổ. Mà hôm nay đã nấm cỏ xanh rì.”
Thầy bảo:
“Tôi còn sống nhăn ra đây mà bác bảo nấm cỏ xanh rì là bác rủa tôi chết à?”
Ôi giời ơi, thầy trò cười nghiêng ngả, nước mắt giàn giụa. Ông Tứ cố phân bua:
“Bạch cụ, con có nói cụ đâu ạ.”
Đến chiều, một anh chàng Tây ba lô tên Mark xin vào chùa sống mấy hôm. Mark nói bập bõm mấy từ tiếng Việt. Gặp thầy, Mark chắp tay, cúi đầu:
“Anh chào iem.”
Thầy cười:
“Ừ, thế anh bao nhiêu tuổi rồi?”
“Anh 30.”
“Thế thì anh kém tuổi iem” - thầy nói.
Các bà già ngồi đó cười nghiêng ngả. Các bà hỏi Mark:
“Mày ở Việt Nam bao lâu rồi?”
“Anh ở Việt Nam hai tuần rồi” - Mark nói.
Các bà già gục đầu vào vai nhau mà cười, giấu những hàm răng nhuộm đen nhưng nhức và môi đỏ vết trầu. Khóe mắt các bà khi cười chằng chịt vết chân chim.
Quyên ngồi ở bàn, đột nhiên cười khanh khách từng chặp không dừng. Thầy hỏi Quyên:
“Quyên à?”
“Không.”
“Không phải Quyên à?”
“Không.”
“Đàn ông hay đàn bà?”
“Đàn ông.”
Vừa lúc chị Thanh mẹ Quyên ở phía bếp đi tới, nói: “Quyên ơi, đi niệm Phật đi con”. Quyên bất thần gào lên, giọng ồm ồm:
“Đ.m. mày, bố đánh chết cha mày.”
Rồi lao vào túm tóc mẹ, tát và đá như một người đàn ông bặm trợn có võ. Mọi người đang ngồi đó bật dậy, xúm vào giữ tay Quyên, gỡ chị Thanh ra.
Xong, ai lại đi làm việc nấy hoặc ngồi xuống, như chưa có chuyện gì xảy ra.
Kinh Kim Cương nói: “bất ưng trụ sắc sinh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sinh tâm”. Ở giữa mọi chuyện mà chẳng sinh tâm. Thì đó là Niết Bàn.
Chương 44
Như vậy, như vậy
Đã gần hai tháng ở chùa rồi. Mỗi ngày tôi đều chỉ ngủ mấy tiếng, ăn uống đạm bạc, nhiều bữa chỉ một bát cơm với mấy miếng rau, và trời thì vẫn nóng đến mức tôi nổi ban từng đám ở chân và bụng. Thế mà tâm tôi an không thể tả. Mỗi ngày, lại học được nhiều quá, học ở chùa, học ở bệnh viện tâm thần, học khắp nơi, mà không biết phải tổng hợp thế nào; tôi cứ ghi chép tràn lan. Ghi xong lại tra cứu, đối chiếu thêm, chỗ nào không biết thì hỏi.
Trí có trí tích, trí hiển, tức có loại trí tuệ phát lộ, có loại ẩn tàng. Biên trí là trí tuệ còn bị ngăn che.
Chư Phật là lưỡng túc tôn, tức bậc tôn quý vì có bi và trí song toàn. Tam mật tương ứng: tâm hành giả là tâm Phật, ý hành giả là ý Phật, lời hành giả là lời Phật.
Vô tác: không làm, không có niệm khởi lên thì không có sinh diệt.
Thí vô úy: bố thí sự không sợ hãi cho người khác. Ấn thí vô úy là ấn của Đức Quán Âm.
Hàng yêu phục ma chính là hàng phục ma tâm, ma trong đầu. Độ các chúng sinh là độ các niệm trong đầu, mỗi niệm như một chúng sinh; các niệm phiền não cũng độ mà niệm vui cũng độ, độ hết qua bờ giải thoát.
Bát thức chuyển thành ngũ trí: bát thức là tám thức (nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức, tiềm thức, và tàng thức); ngũ trí là năm trí của Như Lai (Đại viên cảnh trí, Bình đẳng tính trí; Diệu quan sát trí; Thành sở tác trí; Pháp giới thể tính trí). Thức còn thuộc về sinh diệt, phân biệt, sự thấy biết sai lầm. Trí là cái thấy chân thật.
Đã thành Phật thì giống nhau. Nguyện tuy khác nhau nhưng là phát khi hành Bồ Tát đạo, khi đã thành Phật thì như nhau, không nói người này nguyện rộng hơn người kia.
Đắc pháp là đắc pháp giới tính Như Lai, hòa vào pháp giới Như Lai. Bốn tướng nhân, ngã, chúng sinh, thọ giả: Không còn thấy bốn tướng thì tự do không ngăn ngại.
Sáu ba-la-mật: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định, trí tuệ.
Cúng chư Phật bằng giới đức. Có năm thứ hương cúng Phật: hương giới, hương định, hương tuệ, hương giải thoát, và hương giải thoát tri kiến.
Tâm ban đầu từ chính giác sinh ra, tâm sau là do tương tục sinh ra và nối tiếp hòa hợp tăng trưởng.
Bồ đề lìa tất cả phân biệt, thành tựu thập địa Bồ tát, biết tất cả vốn đồng, biết các nẻo luân hồi.
Thấy tự tính thì xa lìa ngôn thuyết, trí tuệ tự mình chứng biết nên gọi là Như Lai. Căn xúc cảnh sinh thức. Tu thì cần tới vô tướng, phi tưởng. Dùng câu hỏi: tưởng này sinh ra từ đâu? Từ trong hay ngoài, từ thân hay từ tâm ý? Nếu từ thân thì thân như cỏ cây gỗ đá, không có tự ngã, không thể từ thân. Nhưng có từ bên ngoài không?
Đề phòng việc cung dưỡng sự tưởng, khiến nó phình to, điên đảo.
Nếu niệm khởi lên thì lập tức quán không, cho đến khi thuần thục.
Cụ túc là đầy đủ lưỡng túc: phúc và trí. Thân kim cương. Tâm kim cương. Thân kim cương là thân kiên cố; tâm kim cương phải rất sâu dày và bí mật.
Phật nói không nên sinh tâm cho mình là hèn kém không thể theo pháp này vì pháp này quá cao, mà cũng không nên sinh tâm cao ngạo rằng mình căn cơ cao, chỉ học pháp cao. Nên tác ý rằng mình sẽ làm được điều này, sẽ thành tựu điều này vì muốn làm lợi ích cho chúng sinh.
Vào nhà vệ sinh cũng giữ tâm thanh tịnh thì đó cũng là tịnh địa.
Hỉ lạc cũng là một hạnh. Người có hạnh hỉ lạc khác với người tươi vui hơn hớn - cùng là cười đấy nhưng là hai cái cười khác nhau. Bồ tát có khi phải dùng sự hoan lạc, vui đùa như phương tiện đưa chúng sinh đến đạo; miễn là không sàm sỡ, tâm vẫn trụ vững, không phóng dật. Điều này thì người nào tu người đó biết mà thôi; tâm có bị phóng hay không chỉ có mình biết.
“Kinh, luật, luận là một, không sai khác vì đều từ một nơi biến trí mà sinh ra. Có khác là kinh y nơi tâm mà luận, luật y nơi giới mà luận, còn luận y nơi tuệ mà luận.”
Tịch căn: các căn lặng lẽ thì sinh trí tuệ.
Phải khéo khởi niệm. Khi còn chưa tu chứng, đang tu nhân duyên thì phải khéo léo khởi niệm để làm được Phật sự của nhân duyên. Phúc tuệ phải song hành. Bi trí song hành. Tự tổn và tổn tha đều phải dứt lìa. Không làm hại mình, không làm hại người.
“Thiên đường hữu lộ vô nhân đáo, địa ngục vô môn hữu khách tầm”, tức là thiên đường có lối rõ ràng thì không ai đi, mà địa ngục không có cửa thì người ta cứ tìm.
Tài pháp nhị thí thủy thành công: bố thí tài vật và bố thí pháp, cả hai thứ thí đó mới là trọn vẹn.
Phúc tuệ lưỡng toàn phương tác Phật: có đủ phúc và tuệ thì có thể đi muôn phương hành Phật sự, ra vào chỗ khó, chỗ nạn cũng không sao
Tứ ân đồng báo: phải báo cả bốn ân lớn trong đời.
Lục đạo vạn hạnh: sáu đường trời, người, a-tu-la, ngạ quỷ, súc sinh có vạn hạnh để tu.
Nhất niệm sân hận khởi, bát vạn chướng môn khai: một niệm sân hận khởi lên là tám vạn cửa chướng ngại mở ra.
Phải siêng thủ hộ lục căn: siêng năng bảo hộ sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, khẩu, ý, không để buông lung, phóng dật. Mắt thấy tướng đẹp giọng hay mà sinh tâm thì chỉ một niệm bắt đầu là gió nghiệp thổi ùn ùn, sóng lớn dần lên theo gió, trở nên không thể kiểm soát được.
Nếu có hiện tướng phẫn nộ thì phải trong từ bi, không phải là sân hận.
Chọn đức bản tôn: phải chọn một đức bản tôn để nương tựa chính khi mới tu tập.
Sở tác tội chướng: Hoặc bất phú tàng hoặc hữu phú tàng ưng đọa địa ngục: còn giữ kín những tội lỗi trong tâm thì còn đọa do các tội lỗi này có khả năng biến hiện thành địa ngục, nên phải mở toang ra để sám hối và xả.
Quốc độ ai cũng có vì ai cũng có Phật tính. Tự tính Di Đà. Về cõi Tịnh Độ tức là thanh tịnh tâm mình. Ai cũng là quốc độ và giáo chủ quốc độ của mình. Tâm thanh tịnh thì quốc độ thanh tịnh.
Phi lý tác ý: sự sinh ý do suy xét không hợp lý. Thế nào là không hợp lý? Thường là do có ý thấy cái vô thường là thường, khổ là lạc, vô ngã là ngã, bất tịnh là tịnh. Phi lý tác ý đưa đến tạo các nhân bất thiện mà tất yếu đưa đến quả khổ trên thân và tâm.
Như lý tác ý: sự sinh ý do suy xét hợp lý.
Chuyển ba thứ lậu hoặc, nghiệp, và khổ trở thành ba đức Bát nhã, Giải thoát, Pháp thân - gọi là ba lần chuyển pháp.
“Diệt hết tâm phàm, chẳng có chư thánh giải thoát.”
Nhất thiết hữu vi pháp. Như mộng huyễn bào ảnh. Như lộ diệc như điện. Ưng tác như thị quán: tất cả các pháp hữu vi đều như mộng, như bóng, như ánh sao, như điện chớp. Hãy quán sát như vậy.
Học Phật mà không thấy tâm thì học vô ích.
Dạo này trong đầu tôi thỉnh thoảng nảy lên những câu nói bất thần, chẳng biết từ đâu ra, ví dụ:
Kiến giải chỉ là hóa thành.
Phải đi tới trí tuệ Bát nhã.
Và nhất là câu này:
Báu gì mấy ý nghĩ quẩn quanh mà cứ nghiền ngẫm chúng mãi vậy?
Rất nhiều buổi, đang nghe thầy giảng pháp, tự nhiên trong đầu bật lên câu hỏi: Ai là người nghe pháp? Ai đang hiểu những lời thầy nói? Lấy gì để hiểu?
Có khi đang nghe và nghĩ miên man, tâm đột nhiên dừng phắt lại, lặn mất, tất cả mọi thứ trong Tam Bảo đột nhiên trở nên trong suốt, thanh tịnh. Không thể nói đâu là Phật, mà cũng không thể nói đâu không phải là Phật. Tất cả mọi người đang ngồi trong Tam Bảo - thầy, các sư ông, sư bác, sư chú, Phật tử - cũng như kèo cột, tượng gỗ, sắt thép, mối mọt, ruồi muỗi đều là Phật, và đều không phải là Phật. Thân trong suốt, tâm trong suốt, cả thế giới trong suốt.
Chỉ như thế.
Chương 45
Thứ nhất thì tu tại gia?

Đã gần cuối mùa an cư, ngày của tôi cứ tự nhiên thuận theo sáu thời hành đạo. Hằng sáng, 3 giờ 45 phút, đồng hồ đổ chuông là tôi vùng dậy để công phu khuya. Sáu giờ ăn sáng, rồi tắm gội sạch sẽ, lên nghe thầy giảng pháp từ 7 rưỡi đến 9 giờ. Từ 9 giờ sáng đến trưa, nếu không ra bệnh viện làm việc thì tôi ở chùa theo thời khóa sáng hoặc đi khắp chùa, có chuyện gì tôi quan sát chuyện đó. Buổi chiều, khi thầy dạy giới luật cho các sư ông trong nhà sàn thì tôi mang máy tính lên Tam Bảo viết và giải quyết các công việc bên Mỹ. Đến 4 giờ chiều, tôi đi niệm Phật với chư tăng; sau đó theo tiếp thời khóa chiều hoặc tiếp tục quan sát. Buổi tối, cũng tùy hôm mà tôi theo thời khóa tối hoặc đọc sách, viết, hỏi chuyện thầy, các sư ông hay Phật tử sống trong chùa hoặc ngồi xem thầy và các sư ông giải quyết các chuyện tâm linh cho những người cần giúp. Thường sau lâm thụy, mọi người đi ngủ rồi tôi lại tranh thủ viết hoặc đọc sách đến 10 rưỡi hoặc 11 giờ đêm, có hôm đến 12 giờ mới tắt điện ngủ. Tất cả những người sống trong chùa - kể cả các bà vãi, mấy đứa trẻ, các Phật tử ở nhờ trong chùa, đội thợ xây chùa, thợ vẽ và những người làng thường xuyên sang chùa chấp tác - đã quá quen sự có mặt của tôi. Cứ có việc gì xảy ra trong bếp, trên Tam Bảo, nhà tổ, nhà Tứ Ân, là không cần thầy nhắc, mọi người lại chạy đi gọi tôi để cho tôi được chứng kiến. Ai cũng gọi tôi là “cô giáo”. Bọn trẻ con trong chùa thì cứ thấy tôi là giơ tay:
“Chào giáo sư.”
“Giáo sư đi đâu thế ạ?”
“Giáo sư lên chùa không ạ?”
Gọi thế, nhưng dường như tôi đang không làm việc của một cô giáo hay một nhà nghiên cứu mà chỉ đang sống. Sống bình thường ở chùa. Từ hôm bắt đầu an cư, tôi chưa từng bỏ một thời Lăng Nghiêm nào. Về mặt nghiên cứu, tôi muốn thực chứng kinh nghiệm chinh phục thân tâm - bắt đầu từ chỗ thô thiển nhất là tập cho thân không còn thấy ngại khi phải ra khỏi giấc ngủ, xuống giường mà lên Tam Bảo bất kể mưa nắng, nóng lạnh, mệt hay khỏe. Nhưng hình như không phải. Mỗi sáng, lặng lẽ trở dậy lúc gần 4 giờ sáng, có cái gì trong tôi mạnh hơn và nghiễm nhiên hơn chuyện đạo đức nghiên cứu. Thực sự, có hôm, mở mắt ra mà toàn thân rã rượi, từng khớp xương đều bải hoải không muốn dậy, nhưng rồi tôi lại nghĩ: “Hôm nay không lên sẽ là lần đầu ta không lên chùa. Nếu có lần đầu, sẽ có lần thứ hai, thứ ba”. Nghĩ thế tôi lại vùng dậy. Dần dần, chẳng phải nghĩ nữa, đồng hồ đổ chuông là tôi dậy dù có hôm lên Tam Bảo rồi mà tưởng như không có sức để mở miệng phát ra dù chỉ một âm.
Các sư ông, sư bác, sư chú cũng mệt, nhất là những hôm chùa có việc khuya hôm trước thì sáng hôm sau, không ai nói một lời, chỉ lặng lẽ ngồi xuống, dọn y, cầm dùi chuông dùi mõ lên. Thực sự không có gì để nói cả - tôi nhìn đó là biết. Có hôm mưa to, chùa mất điện, chúng tôi thắp nến và đèn pin tay ngồi tụng trong tiếng mưa sầm sập trên mái ngói. Chấp tất. Mệt mỏi, lồng lộn, kệ. Rũ rượi, buồn phiền, kệ. Đau khổ, tuyệt vọng, kệ. Nước mắt giàn giụa, cũng kệ. Kệ tất. Kệ luôn cả sự kệ. Các sư ông, sư bác sư chú cứ lặng lẽ quây cà sa tròn quanh mình. Cái im lặng tuyệt đối sau khi y áo đã chỉnh tề, chờ tiếng khánh và chuông bắt đầu buổi lễ thường làm tôi nghĩ đến cụm từ “tiếng gầm của sư tử.”
Chỗ này không còn là chỗ của sự cố gắng nữa. Nó đã vượt qua ngưỡng cố gắng. Nó không còn là sự tu hành theo kiểu uốn nắn, sửa sang thân tâm nữa. Nó không phải một pháp hành. Không phải một con đường. Nó chỉ là sống. Sống bình thường.
Sáng nào cũng thế, tôi lên sớm, giữ một chỗ cố định ở hàng dưới, phía bên ban Đức Thánh Hiền. Nếu thầy lên thì thầy làm chủ sám ngồi hàng trên chính giữa Tam Bảo, bên trái thầy là sư ông Đạo Nhất và sư ông Đạo Nhị, bên phải thầy là sư ông Đạo Tam và ông Đạo Tứ; cũng có hôm ông Nhị nổi hứng giữ kiểng thì sẽ chuyển sang ngồi phía bên kia và ông Tam hoặc ông Tứ sẽ ngồi bên này. Chủ sám bao giờ cũng giữ chuông và mõ. Nếu thầy không lên thì ông Đạo Nhất thường làm chủ sám; hàng dưới là bác Ngũ, chú Lục, chú Thất. Một buổi sáng, sư chú Thất cầm mõ làm chủ sám để tập sự - mà chú Thất cầm mõ thì nhanh lắm. Hết thời khóa, chú bảo tôi:
“Cô giáo có khi lúc trước đã ở chùa này rồi cũng nên. Mõ nhanh thế mà theo được không vấp, đọc trôi chảy. Cô có biết lúc tụng tôi nghĩ gì không?”
“Không ạ.”
“Thôi, không nói không cô lại sợ, cứ để chư tăng chứng. Thế bao giờ cô lại sang bên kia?”
“Giữa tháng Tám.”
“Xong sang năm lại về?”
“Vâng ạ.”
“Sang năm chắc về lâu hơn, sang năm nữa lại về lâu hơn nữa, nhỉ?” - chú Thất cười cười.
Tôi biết chứ. Ý chú Thất nói là trong các kiếp trước, tôi từng tu hành ở đây rồi. Tôi chỉ cười. Thật sự, các sư ông, sư bác, sư chú đối với tôi như với một sư muội của mình chứ không phải một Phật tử đang vào chùa nghiên cứu. Mà chính tôi cũng cứ bất giác đáp lại điều đó và cảm thấy rất tự nhiên. Có những thời Lăng Nghiêm sớm mà các sư chú đi đâu mất, chỉ có mình tôi trên Tam Bảo thì nghe hồi kiểng tập tăng cuối cùng từ phía nhà tổ, tôi sẽ gõ chuông đón trên này. Mỗi lần thấy thế, thầy lại tủm tỉm cười; các sư ông cũng tủm tỉm cười. Thầy và các sư ông đi công việc bên ngoài cũng hay rủ tôi đi, rồi lại dạy tôi đánh trống, não bạt, chuông mõ. Ông Đạo Tứ dạy tôi đánh não bạt thế này:
“Lúc đầu chưa quen thì cô cứ nhẩm: thịt gà xé, thịt gà xé, thịt gà xé miếng bé miếng to; thịt gà kho, thịt gà kho, thịt gà kho miếng to miếng bé. Cùng xé, cùng xé, cùng xé.”
Tức là nhịp “tom tom chát, tom tom chát, tom tom chát tom chát tom chát”. Còn đánh cái tiu cảnh thì thế này:
Tôm trứng tôm trứng, tôm tôm trứng.
Tức là tom chát, tom chát, tom tom chát.
Buổi chiều, một người đàn ông được vợ và bố mẹ vợ đưa tới trong tình trạng nói năng lảm nhảm. Anh ta cứ tự nhận mình là quan Trần triều bên Tứ Phủ, rồi lại nói mình là thánh nọ thánh kia được phái xuống, quát tháo vợ anh ta. Vợ anh ta nói anh ta bị như thế này đã mấy hôm nay. Trong lúc vợ và mẹ vợ anh ta ngồi nói chuyện với thầy ở bàn nước thì anh ta đi tới ban thờ Phật bên ngoài nhà Tứ Ân, quỳ xuống lạy, rồi bắt đầu chắp tay đi chậm rãi trước ban thờ; sau đó thì kính cẩn lấy một bông hoa cúc từ lọ hoa trên ban thờ xuống cho vào miệng ăn. Anh ta nói đó là lộc các ngài cho. Ăn hết bông hoa thì anh ta lại cầm quả Phật thủ đã héo lên cắn, sau đó đi lần lần ra ngoài phía cây hoa đại, đánh thùng rác, nhổ vào thùng rác, rồi lại định đập đầu vào thùng rác. Các sư ông, sư chú ngăn lại thì anh ta mắng chửi rằng họ chỉ là phàm phu ngu dốt, biết cái gì, ta là quan Trần triều. Thầy bảo các sư ông dắt ra ghế đá ngồi nói chuyện; rồi một lúc sau thì sư ông Nhị đưa vào trước nhà Tứ Ân. Anh ta ngồi xuống, tiếp tục nói lảm nhảm. Sư ông Nhị đập ghế:
“Ngươi là người hay là ma?”
Anh ta nói:
“Con là người.”
Một Phật tử nói:
“Là người gì mà ăn nói lung tung thế? Sao xưng mình là quan Trần triều? Không biết nói thế phải tội à?”
Anh kia chỉ mặt Phật tử này:
“Cỡ như ngươi không đáng để ta nói chuyện nhá.”
Anh ta đôi co một lúc với các Phật tử thì thầy gọi ra bàn nước. Thầy bảo ngồi xuống ghế bên cạnh. Anh ta chắp tay rất kính cẩn với thầy nhưng mắt đảo lia lịa, không dám nhìn thẳng vào thầy. Thầy cười, hỏi:
“Thế ai đang nói chuyện với tôi đấy?”
“Con là Quang ạ.”
“Quang hả? Thế sao Quang lại xưng là quan Trần triều?”
Anh ta lại bắt đầu nói lảm nhảm nhưng xưng con với thầy. Nói con là quan Trần triều được phái xuống, rồi nói chuyện Mẫu nọ ông Hoàng kia. Thầy chỉ cười, thầy nghe một lúc rồi bảo:
“Chú là Quang. Chú không làm sao đâu. Cứ yên tâm nhá.”
Thầy bảo gia đình đưa về. Thầy nói với vợ anh ta rằng anh ta không bị làm sao đâu; chỉ là có ức chế tâm lý nên bắt đầu lẫn lộn nghe thấy có người nói bên tai. Cứ cho về, đừng có nói năng, thúc giục, chèn ép gì anh ta; đến rằm vào thì nói chuyện tiếp. Người vợ gật đầu vâng dạ, xin phép ra về. Thầy nói với Quang:
“Chú Quang về nhá, đến rằm vào chùa chơi.”
Anh ta đứng lên, chắp tay như kiểu quan võ lễ thầy, rồi lễ lần lượt các sư ông sư bác đang đứng đó. Anh ta khoát tay với tất cả những người còn lại:
“Còn các người nhá, ta không cần lễ.”
Rồi chợt nhìn thấy tôi ngồi ở bàn gần đó, anh ta nói:
“À, cũng được đấy.”
Thế là chắp tay lễ tôi. Tôi giật mình chắp tay lễ lại. Anh Nguyễn họa sĩ bảo:
“Cô Việt ở chùa tụng kinh lễ Phật nhiều, tâm lượng tăng lên nên được người ta lễ.”
Tức là rút cục thì tu chủ yếu là ở tâm, chứ hình tướng cư sĩ của tôi không quan trọng? Tôi có thể trở lại Mỹ, tiếp tục dạy học, viết sách, lập gia đình, đi chu du thế giới mà vẫn là tu? Thật sự, nói lý thuyết thì tôi biết thế. Các tổ vẫn bảo cuốc đất, trồng rau, bổ củi gánh nước đều là tu, không phải chỉ lúc tụng kinh niệm Phật mới là tu. Thầy bảo:
“Trực tâm là đạo tràng. Cô xây một ngôi chùa trong tâm thì cô đi đâu cũng được.”
Nhưng lòng tôi còn phân vân. Chỗ này là chỗ không thể dối trá. Đừng nói câu “tu chủ yếu ở tâm” rồi “thứ nhất thì tu tại gia, thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa” một cách đãi bôi. Vào thời điểm này, ở chùa rõ ràng tôi vẫn an hơn.
Chiều gió mát, tôi không vào Tam Bảo mà ngồi ngoài thềm nghe đại chúng tụng kinh. Từ chỗ ngồi, tôi thấy anh thợ sơn đứng phun nhũ vàng lên các tượng Tỳ Lô Giá Na, phía sau là cây đại trổ đầy hoa đỏ và vượt qua bên ngoài tường chùa là những cành khẳng khiu của cây gạo đã rụng hết lá đang in bóng trên nền trời tráng ánh hoàng hôn. Có con chim sẻ nhỏ đậu trên đường dây điện căng ngang từ nhà tổ sang khu nhà tăng cứ líu lo một mình rất lâu rồi sà xuống sân xi măng tiếp tục líu lo, chân nhảy nhảy vui vẻ.
Tiếng kinh cứ vang vang. Không gian đầy tràn một thứ tôi không thể tả. Hết khóa lễ rồi nhưng tôi vẫn ngồi ngoài hiên. Gió mát không thể đứng dậy. Sư ông Đạo Tứ đi ngang qua:
“Ơ sao cô lại ngồi đây?”
“Con ngồi đây hưởng...” - rồi chẳng biết dùng từ gì - “Con cũng không biết ạ.”
“Hưởng sự an lạc hả?”
Thực ra “an lạc” cũng không chính xác nhưng tôi cũng chẳng tìm ra chữ gì khác cả. Nhiều khi tôi cũng không hiểu. Tôi dậy từ 4 giờ sáng, đêm chỉ ngủ tối đa bốn năm tiếng, ăn thì cơm chay - có hôm chỉ có bát cơm chan canh mùng tơi suông với mấy quả sung và dưa muối - vậy mà thấy thật khỏe mạnh. Lúc nào lòng cũng hớn hở, thấy ai cũng có thể cười toe toét, việc gì cũng hay, ai cũng đáng yêu đáng quý. Dường như, chỗ hợp lý nhất và tự nhiên nhất của tôi chính là trong chùa, không còn phải tìm đâu khác.
Sắp hết an cư, sắp phải rời chùa trở lại Mỹ, tôi không thể không nghĩ. Lòng tôi dường như lúc nào cũng chia đôi - mà chia đôi như giả vờ. Một nửa thì như cừu non, thấy ai cũng sợ, cũng muốn tránh; một nửa thì như sư tử nằm ngủ, thật ra là chẳng sợ ai. Một nửa như cô gái liễu yếu đào tơ, chỉ muốn trướng rủ màn che mặc thế sự; một nửa thì như tráng sĩ một ngựa một kiếm dọc ngang thiên hạ, càn khôn nắm trong tay. Một nửa thì luôn có cảm giác mình là chú tiểu nhỏ, chỉ thích sáng chiều quét chùa trồng rau, đun nước pha trà hầu Phật hầu tổ, không còn muốn gì hơn; một nửa lại muốn đạp núi băng sông, đội đá vá trời, xông pha vào đời giúp người, làm những việc đại sự, muốn những trống to phách lớn, chùa cao sân rộng, khắp thế giới là đại đàn tràng... Lúc thì thấy mình không thể làm được gì; mà có lúc lại thấy không có gì trong trời đất mà mình không làm được. Thế là sao đây?
Chương 46
Ma đấy, Phật đấy
Hôm nay, chuyện đặc biệt nhất của mùa hè này đã xảy ra.
Tối hôm nay là buổi tụng giới Bồ Tát (34) cho những người đã thụ Bồ Tát giới nên Phật tử về rất đông. Tôi chưa thụ giới nên không được vào Tam Bảo lúc tụng giới mà ngồi chơi ở bàn nước cùng những người chưa thụ giới khác.
Đến 9 giờ, tụng giới đã xong, thầy xuống bàn nước tiếp chuyện Phật tử ngoài phố nhưng không hề thấy bóng dáng các sư ông, sư bác, sư chú, trong lòng tôi đã linh cảm hình như chuyện gì xảy ra. Một lúc sau, sư ông Đạo Tứ từ nhà tổ đi xuống bàn nước, ghé tai thầy thì thầm nhưng thầy chỉ gật đầu rồi tiếp tục ngồi nói chuyện với Phật tử. Đến 9 rưỡi, Phật tử hầu hết đã về, cũng đến giờ lâm thụy mà tôi không nghe thấy chuông báo, lại thấy thầy vẫn ngồi ở bàn nước, không đi đắp y, tôi càng nghi. Đang nhấp nhổm trong nhà sàn thì bác Phú gọi tôi:
“Cô Việt ra tôi nhờ tí.”
Tôi đi ra. Bác Phú thì thầm:
“Đức Chúa Ông lên, cô lên nhà tổ đi.”
Tôi vội vàng đi lên nhà tổ. Đức Chúa Ông đang vào anh Sang, ngồi trên ghế ở cung ngoài. Thầy đã lên tự lúc nào, ngồi một bên ghế đối diện Đức Chúa Ông; các sư ông, sư bác, sư chú thị giả xung quanh. Lúc này, Đức Chúa Ông đang khuyên nhủ vợ chồng Tuấn - Thảo rằng hai vợ chồng thương yêu nhau, đồng tâm trong cuộc sống thì mọi chướng duyên sẽ hết.
Ngồi ở cung ngoài một lúc thì chuyển vào cung trong, bên ban Đức Chúa Ông. Lúc này trong nhà tổ chỉ có thầy, các sư ông, sư bác, sư chú, những người đang ở chùa, cùng một vài Phật tử thân tín. Bác Phú ngồi cửa giữ không cho người khác vào. Tôi ngồi ở góc cột xa xa để có thể quan sát tất cả.
Lúc mới vào nhà tổ, không hiểu sao trong đầu tôi cứ nổi lên niệm hay vào ra mắt Đức Chúa Ông. Tôi đã chứng kiến những sự kiện thế này nhiều lần nhưng không lần nào tôi có ý định vào ra mắt, tôi chỉ muốn quan sát như người ngoài. Lần này, niệm nổi lên rất rõ mà tôi không thấy sợ, chỉ thấy hiển nhiên. Có điều, vào thì hỏi gì? Những người khác vào lễ Đức Chúa Ông thường hỏi về chuyện phúc nạn, rồi cầu xin; Đức Chúa Ông cũng thường nói cho họ biết về nghiệp chướng, quá khứ, tương lai, nhân duyên, để khuyến tiến họ tu tập. Nhưng giả sử Đức Chúa Ông nói với tôi những điều đó thì với tôi có ích gì không? Quá khứ của các đời trước thì tôi không thể xác quyết, hiện tại thì làm gì có ai biết rõ hơn tôi về những gì xảy ra với tôi, còn tương lai thì tôi sẽ tự định đoạt. Vậy thì vào để giải quyết vấn đề gì? Tôi cứ đắn đo như vậy, không biết có nên vào hay không.
Chú Thất hình như đọc được ý nghĩ của tôi. Chú đang thị giả cạnh Đức Chúa Ông và xa tôi nhưng chú quay ra, miệng mấp máy với tôi:
“Vào lễ Đức Chúa Ông đi.”
Tôi gật đầu, có thêm chút dũng khí, nhưng cũng vẫn ngần ngại. Đang nghĩ thì đột nhiên thầy đứng lên khỏi ghế cạnh Đức Chúa Ông, đi ra chỗ tôi, rồi đi quanh ban thờ Phật và các tổ. Khi thầy quay lại, tôi tự nhiên có dũng khí đứng lên hỏi thầy:
“Thầy ơi con muốn vào ra mắt Đức Chúa có được không?”
Thầy gật đầu.
Khi cô gái tiếp theo hỏi chuyện Đức Chúa Ông xong, thầy và chú Đạo Thất cùng quay ra nhìn tôi, gật đầu. Tôi đứng lên đi vào quỳ trước mặt Đức Chúa lễ ba lễ. Lễ xong, mọi người bảo tôi nói tên, năm sinh, nơi làm việc hiện tại, về chùa làm gì, cầu xin điều gì. Tôi nói tên tuổi nơi làm việc. Tôi thực sự cũng không cầu điều gì, tôi chỉ định vào kính lễ ngài mà thôi. Nhưng tôi vừa nói xong tên tuổi nơi ở thì ngài nói:
“Không có cái duyên đó, Phật pháp với ngươi cũng chỉ như ánh trăng. Ta khá khen ngươi, đường danh lợi thênh thang rộng mở nhưng ngươi không đoái mong, tự cầu tự chí học. Ngươi không tìm đạo cũng chẳng mong cầu. Ngươi tự đến, vô tình nhưng hữu ý. Ta ban khen cho ngươi: Diệu Hương. Ngươi còn điều gì thỉnh cầu, tấu ta nghe?”
Cái duyên đó?
Nghĩa là cái con ma đã đến thở cạnh tôi buổi tối hôm đó chỉ là cái duyên để tôi đến chỗ hiện tại, dù chỗ hiện tại gọi là gì cũng được. Duyên đó chính xác là thế nào? Một vị hộ pháp thiện thần đến nhắc nhở? Một người thân trong quá khứ muốn nhờ tôi giúp chuyển sinh? Một oan gia trái chủ của tôi đến đòi nợ? Một vong linh tình cờ đồng thanh tương ứng mà muốn đánh động tôi? Một vị thầy của tôi trong quá khứ? Một vị Bồ Tát, thánh tăng tác tướng ra? Hay là chính tâm tôi vọng ra? Hay nghiệp thức của tôi biến hiện?
Nếu tôi muốn biết, chắc chắn tôi có thể biết. Nhưng điều đó đã không còn quan trọng. Điều quan trọng là nhờ có nó mà tôi đã đến chỗ hiện tại. Nếu chỗ hiện tại này là chỗ tôi mạnh mẽ hơn, bớt phiền não, bớt ảo tưởng, tôi mở rộng lòng với thế giới một cách thực sự, thì tức là tất cả những gì xảy ra lúc trước đều là duyên lành. Là điều đúng.
Mà thật sự thì tôi cũng không còn nghĩ chuyện duyên lành hay không lành, đúng và không đúng; giả và thật. Tôi đã hiểu rằng tất cả mọi việc xảy ra với tôi cũng như tất cả mọi thứ trên đời đều là pháp, đều là các pháp đang biểu hiện, như nhau. Tất cả đều là đạo. Tất cả đều là thầy, đều đang dạy tôi; tôi có thể học từ tất cả, dù ma, quỷ, Phật, Bồ Tát, người tốt, người xấu. Đấy là phần lý, còn cần phần sự. Tâm tôi mở đến đâu, sẵn sàng cho đoạn lý nào, sự nào, thì người thầy sẽ xuất hiện ở đó. Có tâm. Tâm thiện, tâm ác, tâm không thiện không ác. Tâm thông thường. Tâm biết đủ. Tâm cân bằng. Tâm trống rỗng. Vô Ngã. Không. Không. Không...
Phải có tất cả những duyên đó thì đến mùa hè sau nữa, tại một ngôi chùa, tôi mới gặp một nhà sư chỉ cho tôi đoạn kinh Lăng Nghiêm mà tôi đã vật lộn bằng cách dạy tôi đi kinh hành một mình trong khu nhà mộ sau chùa lúc nửa đêm, cùng với lời dặn:
Người ta thường nghĩ “Niết Bàn diệu tâm” mà Phật đã chỉ cho ngài Ca Diếp trên đỉnh Linh Thứu rất khó đến. Nhưng Niết Bàn ở ngay đây. Khi con nói, Niết Ban cũng đang hiện hữu. Khi con nhìn, Niết Bàn cũng đang hiện hữu. Vì sao con không tiếp xúc được với Niết Bàn? Vì con còn mải tiếp xúc với suy nghĩ và cảm thọ của con. Con không phải làm gì đặc biệt để Niết Bàn có thể xuất hiện. Con chỉ cần dừng lại.
Nếu con dùng đêm nay như một cơ hội để tiếp xúc với Niết Bàn thì sau đó con sẽ có thể Niết Bàn vào mọi thời. Đêm nay, khi con đi, đứng, hay ngồi, con không được dùng niệm Phật, không dùng thần chú, không dùng các lời pháp, không dùng bất cứ công cụ nào con từng biết để chế ngự nỗi sợ và các cảm thọ phát khởi khi con nhìn, nghe, ngửi thấy bất cứ thứ gì từ xung quanh. Chỉ có thân và tâm thuần khiết của con trực diện với vạn hữu xung quanh. Như thế, con sẽ có thể tiếp xúc với cái cần thấy.
Hãy đi vào đó như thể con đang bước trên không khí, nhìn xuống thành phố như xem một bộ phim. Con không cần phải làm bất cứ điều gì. Chỉ tiếp xúc trọn vẹn với sự tịch diệt. Rồi tất cả bên trong và bên ngoài sẽ dừng lại và chuyển hóa. Chuyển hóa thành cái gì? Thành Niết Bàn. Cảm xúc sẽ chuyển hóa thành Niết Bàn. Suy nghĩ sẽ chuyển hóa thành Niết Bàn. Các cảnh và sự kiện xung quanh chuyển thành Niết Bàn. Khi tất cả là Niết Bàn, tất cả bên trong bên ngoài con đều bặt nghĩa. Lúc đó, đừng chạm vào trạng thái “mọi thứ xung quanh không có ý nghĩa” và nó sẽ mở rộng vô tận vô biên. Lúc đó, con sẽ thấy.
Lúc này, Đức Chúa Ông nói:
“Diệu Hương, những chuyện đã qua, chớ nghĩ lại. Hãy trở về sự an lạc, hướng tới sự an lạc. Tâm có an, tuệ mới phát. Tâm không an sẽ chẳng thấy được gì.”
Đức Chúa Ông mỉm cười.
“Ngươi còn điều gì thỉnh cầu?”
“Dạ hôm nay con chỉ ra mắt, Đức Chúa Ông ban pháp cho con, con xin tạ ơn, con không có điều gì thỉnh cầu nữa ạ.”
“Ta mong ngươi như hương như sắc, tỏa khắp muôn nơi” - Đức Chúa Ông xoa đầu tôi.
Tôi lễ Đức Chúa Ông ba lễ rồi lùi ra.
Phải đến 2 rưỡi, tôi mới nằm xuống ngủ nhưng đầu óc tỉnh táo sáng láng lạ thường.
Gần đây, khi tôi nghĩ đến việc một lúc nào đó - có thể vài năm nữa - sẽ quy y Phật pháp và chọn một pháp danh thì tôi chỉ muốn lấy pháp danh là Diệu Hương; chữ “hương” trong “Thập phương chư Phật, thường tại thế gian, pháp âm bất tuyệt, diệu hương sung tắc, pháp vị doanh không (35) ” mà khóa lễ chiều nào cũng tụng. Điều này, tôi không hề nói với ai vì chuyện quy y cũng là chuyện tôi chỉ bắt đầu ngầm nghĩ trong đầu và định ít nhất vài năm nữa tôi mới làm.
Tôi cứ nghĩ lan man rồi chảy nước mắt. Bên trong, một thứ vô hình cứ rung lên, tự chuyển động, vỡ vỏ, vươn lên. Từ bé tới lúc đó tôi mới cảm thấy có ai chạm vào tận đáy tâm can mình, xuyên thấu, soi rõ mà không hề phán xét, chỉ có thấu hiểu và thương yêu, rồi chỉ cho tôi con đường. Con đường rất đơn giản nhưng là một châm ngôn tôi sẽ còn thấy đúng cho nhiều năm sau:
Hãy tu tập để trở về với sự an lạc. Tâm có an thì trí mới sáng. Tâm không an sẽ chẳng thấy được gì.
Tôi cứ nằm chập chờn trong sự rúng động đó đến sáng. Trong chùa mọi người đã ngủ hết rồi mà tâm tôi cứ sáng trưng không sao có thể tắt. Cả người như một khối sáng rỡ rùng rùng chuyển động bằng một nội lực có thể dời non lấp bể, đội đá vá trời.
Trưa hôm sau, trong lúc ngồi chỉnh cuốn Lục Thời Hành Đạo với thầy, tôi hỏi:
“Thầy ơi, Đức Chúa Ông nói với con: ‘Tâm có an thì tuệ mới phát; tâm không an sẽ chẳng thấy được gì’. Con tưởng là phải ngược lại chứ. Phải phát tuệ, có hiểu biết đúng, thì tâm mới an chứ, sao lại nói tâm an thì tuệ mới phát ạ?”
Thầy nói:
“Không, tuệ khác tri kiến. Tuệ sinh ra từ tĩnh, đã nói tuệ tức ‘trí tuệ bát nhã’ thì không còn phân biệt an lạc và không. Nhưng để an lạc thì phải có tri kiến, tức cái thấy biết đúng đắn. Từ tri kiến đi đến tuệ.”
“A con hiểu rồi” - tôi cười.
“Ừ, hiểu rồi thì đi ngủ đi” - thầy cười.
Tôi chắp tay:
“Bạch thầy, cho con xin quy y.”
Thầy cười, xoa đầu tôi. Tôi xá thầy, đi ngủ. Nhưng nằm nhắm mắt rồi mà cứ thấy thấp thoáng những tượng Phật vàng sáng chói trong không trung.
Chương 47
Tín - Nguyện - Hạnh
Chỉ còn mấy ngày nữa là rời chùa. Tối nay tôi ngồi ngoài sân nói chuyện với ông Đạo Nhị trong lúc chờ phỏng vấn thầy. Trời không trăng nhưng nhiều sao sáng. Từ Tam Bảo vọng ra tiếng đại chúng tụng Lương Hoàng Sám. Kinh tả các cảnh địa ngục. Tôi lại nhớ hồi đầu an cư, buổi tối tôi lên chùa tụng Lương Hoàng Sám cùng đại chúng lần đầu. Đến phần tả cảnh địa ngục, tôi vừa đọc vừa sợ. Sang phần phát nguyện vào địa ngục ác đạo để độ thoát cho ma quỷ và các chúng sinh trong đó, đang tụng trôi chảy, tôi dừng phắt lại. Chịu. Không thể mở miệng nói. Tôi có thể nguyện làm việc tốt, nguyện bố thí tiền, bố thí nội tạng, nguyện này nguyện khác; nhưng còn nguyện vào địa ngục, nguyện làm ác quỷ, làm súc sinh để cứu các loài đó thì tôi chưa thể làm được. Không có cách nào vào lúc đó mà tôi có thể động viên cái tâm của tôi đừng sợ, hãy phát nguyện đi.
“Nhưng mà em có vào địa ngục nhờ sức của em đâu.” - một chị Phật tử giải thích cho tôi - “Em phát nguyện thì Tam Bảo sẽ gia hộ cho em làm, mình chỉ nguyện vậy để tăng trưởng sự từ bi của mình.”
“Cô Việt sợ nhỡ nguyện xuống địa ngục độ các chúng sinh trong đó rồi không ra được thì chết.” - thầy cười - “Cô Việt muốn là nói được thì phải làm được.”
Vâng, chính là như vậy. Tôi xưa nay không làm được thì không nói. Nói được thì phải làm được. Mà đã nói thì nhất định làm.
Tôi hỏi ông Nhị:
“Ông ơi, nếu mình muốn làm nhiều việc giúp đời giúp người mà mình chưa đủ sức thì sao hả ông?”
“Thì còn có pháp tùy hỉ mà.”
Ông bảo tôi, con hãy cố lên, những điều mình đã muốn làm thì hãy cố gắng làm, nhưng nếu khó quá thì còn có pháp tùy hỉ. Tùy hỉ là vui cùng người khác. Tức là mình để người khác làm, mình tán thán việc làm của họ, vui với việc làm, thành công của họ là được rồi. Không làm được thì người khác làm, có sao đâu. Tùy hỉ công đức cũng ngang như tự mình làm vậy.
“Cứ như ông đây này, lên chùa mà buồn ngủ là về phòng ngủ luôn, cố gắng vô ích!”
Một lúc sau khóa tụng cũng hết, chỉ còn tiếng côn trùng rả rích trong bóng tối. Tôi nói với ông Đạo Nhị:
“Ông ạ, mai mốt trở lại Mỹ con sẽ nhớ chùa lắm.”
“Mi thì nhớ gì mà nhớ!”
“Ơ, ông nghĩ con là hạng người nào mà lại không nhớ? Giờ chẳng nói trước được nhưng già con sẽ về đây sống.”
“Ừ về đây sống, khi nào chết thì ông lo cho.”
Tôi buồn cười quá, bật cười nhưng thấy thật là vui.
“A Di Đà Phật, ông nhớ đấy nhé. Ông hứa rồi nhé”.
“Ừ, chết trước ông thì ông lo cho.”
“Giá mà được về đây sống rồi chết trước thầy để thầy lo cho.”
“Thầy còn sống lâu lắm.”
Ba tối rồi, tôi phỏng vấn thầy; tối nào cũng bắt đầu từ khoảng 8 giờ. Tôi hỏi thầy về cuộc đời thầy từ lúc bé cho đến nhân duyên xuất gia và các chuyện của chùa từ khi thầy về trụ trì. Ông Đạo Tứ thị giả khi tôi phỏng vấn thầy.
Chúng tôi ngồi ở tầng hai của nhà sàn. Sư ông Đạo Tứ pha một ấm trà; có hôm thầy bảo mang cả bánh tẻ nhà ai cúng dường lên nữa. Mấy thầy trò vừa uống trà vừa nói chuyện. Tôi hỏi thầy:
“Bạch thầy, càng học con càng thấy động chân động tay, mở miệng đã là sai, là gây nghiệp rồi. Thế thì phải sống thế nào ạ?”
Thầy nói đã sinh làm thân người thì là có chướng ngại. Chỉ có ngồi không, không làm gì thì không sinh nghiệp - mà thật ra ngồi không mà vẫn nghĩ thì vẫn sinh nghiệp - nhưng đã theo Phật thì phải làm, phải gieo duyên với chúng sinh, phải vào đời mà hành Bồ Tát đạo. Lấy việc độ chúng sinh làm phương tiện, đồng thời là cứu cánh. Không nên sợ khó, sợ nghiệp mà không làm. Có câu: “Vô ma khảo đảo bất thành Phật đạo”; học đạo cũng như trong đời, không có ma chướng đến gây chướng ngại cho mình liểng xiểng, thì sao thành đạo được. Chỗ chướng ngại chính là chỗ để hạ thủ công phu. Mà cũng đừng tự ti, cam chịu tâm hạ liệt; chân tâm của ta thực ra sáng suốt và dũng mãnh vô cùng. Cho nên đừng bị chướng ngại ở ý nghĩ làm hay không làm.
“Làm mà không có mong cầu nhận lại, không thấy mình làm, không chấp trụ ở kết quả, thì cứ làm mà không phải sợ nghiệp. Kinh Kim Cương đấy cô. Không trụ bốn tướng ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả.”
Thầy kể chuyện Bồ Tát Quán Âm, chuyện các tổ, chuyện Đức Chúa Ông, bên Tứ Phủ, rồi chuyện Bồ Tát Văn Thù, Đức Thánh Hiền tức ngài A Nan, vua Lý Thái Tổ, Đức Thánh Trần, Phật Thích Ca, Phật Di Đà... Như thể họ đều ở quanh, là bầu bạn, là cha mẹ anh em thầy trò. Thầy nhắc đến tổ Thanh Nguyên có nguyện độ cho các sư bị đọa lạc. Thầy nói đến đây thì ông Đạo Tứ nói:
“Có khi tổ cũng đang ngồi đây nghe chuyện đấy.”
“A Di Đà Phật” - tôi chắp tay lại, cảm giác không chỉ có tổ ngồi nghe mà còn nhiều nữa, đều đang hoan hỉ nghe thầy trò nói chuyện.
Tôi nói:
“Bạch thầy, con cứ nghĩ người ngoài mà nghe những chuyện này sẽ thấy như chuyện hoang đường thần thoại phải không thầy? Ranh giới giữa tín tâm và mê tín dị đoan thật mỏng nếu người ta không có chính tri chính kiến. Không có chính kiến thì nghe những chuyện này, nhiều người có thể sinh tâm sợ hãi hoặc tâm phỉ báng.”
“Thực ra các ngài có làm gì đâu, sự sợ hãi là ở chính họ.”
Hôm nào phỏng vấn thầy xong cũng gần 12 giờ. Chư tăng đã đi ngủ từ lâu. Chùa tối. Rất lạ là có hai con mèo luôn chờ tôi những hôm tôi làm muộn và phải đi một mình ra khu vệ sinh tối ở góc chùa. Chúng chạy theo bên chân tôi; rồi ngồi chờ bên ngoài nhà vệ sinh cho đến khi tôi trở ra thì lại lon ton chạy theo về tận chân nhà sàn. Lại có chiều tối, tôi và sư ông Đạo Tứ đứng nói chuyện ngoài cánh đồng, ếch nhái kêu râm ran; tôi mới khởi niệm trong đầu: “Thôi, đừng kêu nữa, để tôi còn nghe được sư ông nói”; vừa dứt ý nghĩ thì tiếng ếch nhái đồng loạt dừng bặt. Dường như khi tâm thật an thì sẽ cảm ứng với tất cả vạn vật trong trời đất và có thể nói chuyện với vạn vật. Và vạn vật đều trở thành thầy ta, đều đang dạy pháp cho ta, từ con sâu cái kiến.
Sắp xa chùa, nghĩ đến thầy và các sư ông, càng thấy mỗi người tu hành đều có chính hạnh và gia hạnh. Mỗi người có một chữ làm chính hạnh của mình. Lại có người có mật hạnh, có người thì hiển lộ. Ông Đạo Nhất là chữ Bình. Ông Đạo Nhị là chữ Dũng. Ông Đạo Tam là chữ Từ. Ông Đạo Tứ là chữ Hòa. Bác Đạo Ngũ là Nhẫn. Chú Đạo Lục là chữ Cần. Chú Thất là chữ Hỉ. Mỗi người hộ trì thầy một cách. Ông Đạo Nhị duy trì trật tự, trấn áp hàng phục. Ông Đạo Tứ thị giả thầy, giao tiếp với bên ngoài. Ông Đạo Tam hay lo việc dỗ vong, cúng bái. Ông Đạo Nhất khắc khổ niệm Phật không quản ngại. Chú Lục cứ đúng giờ đánh chuông, dâng cơm cúng Phật cúng tổ. Chú Thất cơm nước nhà bếp. Bác Đạo Ngũ lo đèn hương và Phật tử. Mỗi người một hạnh.
Rồi tôi lại nghĩ đến các bạn bè đồng nghiệp trong cuộc sống bên ngoài và nhận ra xã hội bên ngoài ít có gắn kết vì mỗi chúng ta có thể có tính cách, có đặc điểm, có tài, thậm chí “có chất” nhưng ít khi có hạnh. Không có hạnh nên không thể thu phục lòng người, không thể chuyển tâm người. Nếu người trên thế giới chỉ cần xoay tâm một chút, thì họ sẽ vẫn làm tất cả những gì họ làm, nhưng công việc sẽ không còn là bổn phận mà là hạnh nguyện. Động chân động tay đều là hành pháp. Đời sống trở thành một sự thị hiện của Niết Bàn, Cực Lạc. Mỗi người là một bông sen thơm ngay khi đứng trong bùn lầy.
Vậy hạnh tôi muốn nuôi dưỡng là gì? Chữ mà tôi muốn nuôi dưỡng ở mình là gì? Nguyện của tôi ở đời này là gì? Dường như tất cả những câu hỏi tôi từng có từ trước đến nay, tất cả nhân duyên tôi trải qua từ bé đều chỉ để quy về một mối này.
Chương 48
Đã xong rồi đấy
Hôm nay sẽ rời chùa về nhà. Như thường lệ, 3 giờ 45 phút tôi dậy để tụng Thủ Lăng Nghiêm. Trời còn rất tối. Đi ra khỏi nhà sàn để lên chùa, tôi thấy ông Đạo Nhị từ trong phòng ông từ từ đi ra, đứng giữa khung cửa, sau bức mành. Hai tay ông chống vào hai bên khung cửa. Ánh đèn sáng hắt từ phía sau ông, làm cho bóng ông sừng sững trong khung cửa - như không phải ông Đạo Nhị mà là ai đó khác, rất cao lớn dũng mãnh, mắt nhìn thẳng vào tôi. Chắc tôi sẽ không bao giờ quên được hình ảnh này. Tôi đi đến trước ông, chắp tay xá ông qua bức mành tre. Ông chậm rãi chắp tay xá lại từ sau bức mành.
Như mọi sáng, Tam Bảo chỉ có chú Thất đang đèn hương. Tôi trải nốt án kinh rồi mở cửa nhưng sáng nay tôi cố hết sức mà cửa cũng không mở. Đành chờ bác Đạo Ngũ lên mở hộ. Tôi chỉ lấy kinh từ trong tủ ra, bày lên các án rồi ngồi xuống.
Hôm nay thầy không lên chùa, chỉ có các sư ông. Ngồi tụng Lăng Nghiêm mà không khỏi nghĩ hôm nay là hôm cuối cùng mình tụng Lăng Nghiêm với các sư ông, sư bác, sư chú. Những mùa hè tới, tôi chắc chắn còn quay lại an cư với chư tăng nhưng cảm giác sẽ không bao giờ như năm nay. Đây là mùa an cư đầu tiên, mọi thứ đều mới mẻ, trong sạch, trong sáng. Như lưu ly pha lê. Như mối tình đầu vậy. Mối tình đầu với Phật pháp. Đây là tri âm tri kỷ của tôi. Thầy vẫn bảo “xuất gia chi sơ thành Phật hữu dư” tức là mới sơ phát tâm trong Phật pháp thì thành Phật rất dễ vì sơ tâm đó là tâm Phật. Có lần tôi nói với ông Đạo Nhị: “Ông ơi, tại sao con cứ có cảm giác là con có một mối tình đơn phương với Phật. Con lúc nào cũng nghĩ đến Phật mà Phật chẳng nghĩ đến con”. Ông cười: “Đúng là nhà văn có khác!” Nhưng không phải nói văn vẻ đâu, tôi cảm thấy thế thật. Tôi có một mối tình với Phật. Với các Bồ Tát. Với chư thánh hiền tăng. Với khắp cả pháp giới. Một mối tình lớn, dù nhiều khi chẳng biết nói ra.
Sáng nay mọi người tụng Lăng Nghiêm rất trôi chảy, không vấp như những hôm khác. Tụng xong tôi xuống tổ đường đỉnh lễ các tổ. Lễ xong, ra đến ngoài, trời còn tối lắm. Tôi nhờ anh Chiến đang ở chùa chụp cho tôi với ông Đạo Nhị một cái ảnh trước nhà tổ. Tôi ngồi ở bậc thềm, ông đứng. Anh Chiến bảo người cao người thấp khập khiễng quá, ông Đạo Nhị bảo:
“Con ngồi xuống bậc dưới đi, để ông ngồi bậc trên.”
Tôi ngồi xuống bậc dưới, ông Nhị ngồi bậc trên. Anh Chiến bảo:
“Tươi lên, trông mặt cô giáo buồn lắm.”
Nhưng không tươi lên được mặc dù không buồn. Trời còn tối nên khuôn mặt ông Đạo Nhị và tôi đều mờ mờ giữa vài chấm đèn sáng của nhà tổ. Nhưng đây là một trong những bức ảnh đẹp nhất tôi từng chụp và là một bức ảnh tôi sẽ trân quý cả đời. Trông ông Đạo Nhị thật hiền và trong sáng trong bức ảnh đó. Mùa hè năm sau và những năm sau nữa, sẽ có những lúc ông đòi đi khỏi chùa, trải qua sóng gió, tôi đều nghĩ tới khuôn mặt ông trong bức ảnh đó để thấy những điều khác không quan trọng. Con người ta đều có một cái gốc để quy thú, một thứ bản lai diện mục mà khi lành nhất, an nhất, người ta sẽ để cho bạn thấy. Đấy mới là cái thật nhất. Muốn làm gì, với ai trong đời, đều phải từ cái bản lai diện mục đó mà làm.
Buổi sáng trời trong mát. Một ngày như mọi ngày. Niệm Phật xong tôi ăn sáng, tắm gội sạch sẽ để lên Tam Bảo nghe pháp. Hôm nay thầy giảng phẩm cuối cùng của kinh Hiền Ngu. May quá. Vậy là tôi ở chùa được đến hết kinh Hiền Ngu.
Chiều, ông Đạo Nhị vào nhà sàn gọi tôi. Ông đưa cho tôi một cái chày kim cương bằng bạc nhỏ.
“Đeo cái này vào cổ để hộ thân này.”
Rồi ông lại đưa cho tôi một cái tháp ngọc xanh mà ông đã giữ từ lúc ông bắt đầu xuất gia.
“Người tu tuệ cần có tháp này” - ông nói.
Tôi xá ông, không dám nhận.
“Ông ơi, ông đã cho con cái chày kim cương rồi, cái bảo tháp này ông giữ lâu rồi, quý như thế ông cho con làm gì.”
“Quý thì mới cho” - ông trợn mắt - “không quý thì cho làm gì, hả?”
Tôi cứng họng. Quá đúng. Quý với mình thì mới cho người khác, không quý thì cho làm gì.
“Ông ơi, chắc kiếp trước con với ông là huynh đệ nhỉ, ông là sư huynh, con là sư đệ.”
“Ừ, chắc thế.”
“Hay ngược lại nhỉ, con là sư huynh chết trước nên đầu thai trước.”
“Còn lâu” - ông cười - “mi phúc mỏng hơn nên chết trước.”
“Hay con với ông là bố con nhỉ; có khi ông là bố con.”
“Lại bắt đầu xuyên tạc linh tinh rồi đấy.”
Chú Thất tặng tôi mấy viên đá mà chú đã trì chú nhiều ngày. Chú bỏ trong một cái túi nhỏ. Chú bảo:
“Chẳng có gì cả, tặng cô mấy viên đá.”
Đối với tôi mà nói, mấy viên đá này còn quý hơn vàng.
Đến 4 giờ chiều ngồi niệm Phật trong nhà trai với thầy và các sư ông, tự nhiên trong lòng cứ trào lên, đang niệm lại phải dừng lại. Niệm đến đoạn cuối, tôi cứ nghĩ đây là lần cuối mình còn niệm Phật với mọi người trong mùa hè này. Thế là nước mắt cứ chảy ra. Mọi người vẫn tiếp tục niệm Phật. Niệm xong, tôi nói:
“A Di Đà Phật.”
Xong không nói được gì nữa, nước mắt cứ chảy ra. Thầy cười bảo:
“Cô giáo muốn chào mọi người hôm nay cô ấy về nhà vì hôm nay có đông đủ mọi người. Nhưng mà đã chia tay đâu; hôm tới còn vào quy y mà.”
Tôi không nói được gì cả mà cũng không dám nhìn ai, nước mắt cứ chảy, muốn nói nhưng mà lại nghẹn. Mọi người cười. Bác Phú đỡ lời:
“Cô Việt ở đây cũng được hai tháng nhỉ.”
“Vâng.”
“Có gì mà phải khóc, hôm tới còn vào quy y mà.”
“Ừ, còn bữa bún nữa mà” - thầy cười.
Thầy và mọi người nói chuyện nấu bún. Quyên tự nhiên cười phá lên ha ha ha; thế là tôi cũng cười. Chả ra thể thống gì, vừa khóc vừa cười. Xong rồi tôi nói:
“Mấy tháng ở đây con học được rất nhiều.” - đến đây lại không nói được.
Bà Ngọc ngồi cạnh phải nhắc hộ:
“Con cảm ơn thầy.”
Mãi sau tôi mới nói tiếp được:
“Con cảm ơn thầy.”
Xong thầy bảo mọi người lên chùa chuẩn bị tụng khóa lễ chiều. Quyên, bà Xuyến, Thảo, tất cả những người ở chùa đều vào chào tôi. Chị Thanh đưa Quyên vào chào tôi.
“Con cầm tay cô đi.”
Bà Ngọc cũng cầm tay tôi, rơm rớm nước mắt:
“Thôi con đi, chúc con mọi sự tốt lành nhé.”
Mọi người ra hết thì Tiểu Thánh vào:
“Chị Việt sắp đi hả?”
“Ừ.”
“Chị Việt đưa tay đây... cả hai tay.”
Tôi đưa tay ra, Tiểu Thánh nắm cả hai tay tôi:
“Chúng ta mãi mãi là bạn tốt nhé, lúc nào cũng sẽ là bạn tốt nhé.”
Ngoài trời bắt đầu mưa lớn. Tôi băng qua sân dưới mưa đi lên Tam Bảo. Mọi người đang tụng bên trong. Tôi đứng ngoài hiên, lễ. Rồi tôi đi xuống nhà tổ. Nhà tổ đã khóa. Tôi quỳ ở ngoài hiên, lễ ba lễ.
Mưa rất lớn lúc tôi đi. Mưa sầm sập, gió ào ạt qua cây đa và những lùm nhãn. Ông Đạo Nhị gọi ô tô cho tôi, rồi lại lấy túi bóng lớn bọc ba lô cho tôi cẩn thận khỏi ướt.
Tôi chắp tay chào thầy, chào sư ông Đạo Nhị. Thầy ngồi ở ghế, mỉm cười “Ừ, cô về nhé”. Sư ông Đạo Nhị chắp tay chào tôi.
Nửa đêm giữa tháng Tám, tôi rời Hà Nội. Ông Đạo Tứ nhắn tin: “Chúc cô lên đường chư Phật đồng hoan hỉ gia hộ luôn được bình an”. Ông Nhị nhắn: “Muội muội lên đường thượng lộ bình an nhé”. Ông bảo có một buổi sớm, ông mơ một giấc mơ dài liên quan đến tôi nhưng đang mơ thì ông Tứ đập cửa gọi đi ăn cơm nên ông tỉnh dậy, quên hết giấc mơ, chỉ nhớ trong mơ có ai đó nói rất rõ với ông:
“Việc của cô Việt đã xong rồi đấy.”
Phần 7: VỀ NHÀ - Chương 49
Về nhà
Việc của tôi dĩ nhiên là chưa xong. Thực tế là nó chỉ mới bắt đầu.
Giáng sinh đó, tôi và AJ đi Nhật chơi. Suốt cả tuần ở Kyoto, chúng tôi không làm gì khác ngoài đi tới các chùa. Đi đến đâu, tôi cũng thấy vô cùng quen thuộc. Ở Kyoto về, tôi và AJ nói chuyện. Tôi xin lỗi AJ nhưng khuyên anh đừng chuyển xuống Columbia nữa, hoặc nếu có chuyển thì đừng chuyển vì tôi. Trong đời này, tôi và AJ có thể là bạn đạo nhưng không thể là vợ chồng bởi vì trong đời này tôi sẽ không kết hôn nữa. Đấy là điều tôi biết chắc chắn. Đơn giản vậy thôi. Trong đời này, đâu là việc chính, đâu là phụ, sống để làm gì - những câu hỏi mà vài năm trước dằn vặt tôi trong mờ mịt của tính toán thì giờ trở nên rõ ràng một cách tự nhiên và chắc chắn phải thế. Một sự chắc chắn theo nghĩa tôi có thể nói:
Đây là điều đúng
Và biết là nó đúng.
Càng ngày, tất cả các ham muốn ghi nhận, ghi nhớ, ghi chép, suy luận, tư duy, kết nối, so sánh đều dừng bặt.
Bản thể tự xuôi dòng buông hết xuống. Dang hai tay, thả hết những gì đang nắm trong đó.
Dừng bặt sắp xếp. Bỏ hết mọi tổ chức, mong cầu. Cứ thế, cứ thế...
Từ đó đến nay, tôi còn trải qua rất nhiều kinh nghiệm tu học khác - hai mùa an cư ở chùa vào năm 2014 và 2015; những khóa an cư và tu học ngắn tại các tu viện của thiền sư Thích Nhất Hạnh, tại Vạn Phật Thánh Thành của cố hòa thượng Tuyên Hóa, những ngày ở các thiền viện thuộc dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử pháp hội ở Ấn Độ với Đại Bảo Pháp Vương 17, lần thứ hai trở lại Nhật Bản với AJ như một người bạn thân, ba lần đi Ấn Độ, và ba lần đi Thái Lan sống trong chùa Rombodhidharma của Luang Por Phosrisuriya Khemarato. Trên hành trình đó, nhân duyên cho tôi được gặp rất nhiều vị thầy, dưới nhiều hình dạng khác nhau, để tiếp tục học pháp và học hạnh nguyện của họ, cũng để không còn thấy mình đơn phương trong mối tình với chư Phật, chư Bồ Tát, với toàn pháp giới. Ở Thái, tôi đã lần đầu xuất gia gieo duyên. Tôi tiếp tục mở rộng các nghiên cứu, xây dựng các lớp học và các dự án để đưa những gì tôi học được vào ngành công tác xã hội nói riêng và trong cuộc sống nói chung. Nhưng đó là câu chuyện của cuốn sách khác. Với cuốn sách này, tôi chỉ muốn kể lại những nhân duyên đầu tiên - dù kỳ quặc, lạ lùng, đáng sợ hay vui vẻ - nhưng rút cục đều là phương tiện đưa tôi trở lại căn nhà đích thực của mình.
Thôi, việc này, tôi không có gì để nói thêm nữa. Cuốn sách đến đây cũng kết thúc được rồi.
Cùng bạn đọc
Bộ sách Bất hạnh là một tài sản này gồm ba cuốn: Một mình ở châu Âu (2013), Xuyên Mỹ (2014) và Về nhà (2017). Khi in cuốn Một mình ở châu Âu vào đầu năm 2013, thực ra tôi đã sống vượt khỏi tâm trạng của năm 2008; cuốn Xuyên Mỹ cũng vậy. Tuy thế, tôi đã chọn xử lý cả hai cuốn sách trong không gian tâm trạng thực của thời điểm mà sự việc xảy ra; chính vì thế, cả hai cuốn sách đều ít nhiều bị hiểu nhầm là sách du ký. Với việc ra cuốn Về nhà này, tôi hy vọng bạn đọc thấy được một cái nhìn tổng thể về bộ sách.
Bộ sách này, với tôi, là bộ sách về hành trình đi tìm lại mình. Thay vì kể lại theo lối hồi ký của người đứng trong hiện tại nhìn lại và nhìn lướt quá khứ, tôi muốn bạn đọc song hành chi tiết qua từng giai đoạn - bất kể chúng có điên loạn, buồn thảm, ngu ngốc đến đâu. Với cá nhân tôi, đó là sự cống hiến lớn nhất của một người viết tự truyện cho độc giả. Tuy nhiên, cũng vì đây là tự truyện có liên quan đến nhiều người khác, nên tôi có nghĩa vụ phải bảo vệ sự riêng tư của họ ở mức tối đa. Vì vậy, bạn đọc cũng sẽ phải tự làm công việc nhìn thấy núi băng dưới mặt nước. Trong mười phần những gì đã chứng kiến, tôi chỉ có thể kể một phần nhỏ.
Bạn sẽ bảo: Rút cục thì sao? Bất hạnh nào? Tài sản nào? Về nhà nào? Rút cục thì vẫn quay lại sống bình thường chứ gì? Hoặc bạn bảo: Thôi thôi, Phan Việt đã tâm thần rồi. Điên thật rồi. Hoang tưởng. Sa vào chủ nghĩa hư vô, mê tín dị đoan. Tự huyễn hoặc bản thân.
Hoặc bạn cũng có có thể hỏi: Được rồi, được rồi, nhưng rút cục thì sao? Rút cục thì cái con ma mà tôi gặp trong đêm đó là thế nào? Có ma thật không? Có các thánh thần, các ngài thật không? Rồi sao? Sự thật là thế nào? Rút cục là ly hôn buồn quá rồi sinh ảo tưởng? Hay có ma thật?
Bất kể tôi đưa ra câu trả lời nào, nó cũng sẽ chỉ là một câu chuyện với bạn. Một ý nghĩ. Một ghi nhớ. Bạn muốn biết, bạn phải tự mình thử. Với bộ sách này, tôi không có tham vọng mang lại cho các bạn một câu trả lời. Tôi càng không tin câu chuyện của tôi sẽ có ích cho tất cả người đọc. Tôi chỉ hy vọng rằng nó có thể giúp một số bạn đọc có thêm thông tin và dũng cảm trên hành trình của mình. Tất cả chúng ta, dù gần hay xa, đều đang ở chỗ nào đó trên đường về nhà.
Về nhà nói riêng và bộ sách Bất hạnh là một tài sản nói chung không thể hoàn thành nếu tôi không nhận được rất nhiều sự hỗ trợ. Liệt kê tất cả những người mà tôi tri ân là một việc không thể. Trước hết, tôi xin được kính lễ thầy, các sư ông, sư bác, sư chú và những ai xuất hiện trong cuốn sách này và, tự đáy lòng mình, xin cảm ơn họ đã để tôi được viết về họ. Tôi xin được kính lễ tất cả các bậc tu hành và người tại gia mà tôi gặp trong sáu năm qua cũng như trong cuộc đời này vì đã dạy tôi vô cùng nhiều điều. Tôi đặc biệt cảm ơn những nhân duyên tôi gặp, theo thứ tự thời gian, tại thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên và Trúc Lâm Đại Đăng thuộc dòng thiền của hòa thượng Thích Thanh Từ; thiền viện Mộc Lan và Lộc Uyển thuộc dòng thiền của thiền sư Thích Nhất Hạnh; Vạn Phật Thánh Thành của cố hòa thượng Tuyên Hóa; và chùa Rombodhidharma của Hòa thượng Luang Por Phosrisuriya Khemarato. Tôi xin cảm ơn gia đình tôi cùng tất cả đồng nghiệp, bạn bè, đã độ lượng để tôi được tự do theo đuổi những câu hỏi của mình, dù tôi hiếm khi giải thích đầy đủ, khiến cho họ nhiều khi lo lắng.
Cuối cùng, tôi xin được khẳng định rằng mọi sai sót trong cuốn sách này là sai sót của tôi, không liên quan đến những người xuất hiện trong sách hoặc bất cứ ai khác. Tôi xin được lượng thứ cho bất cứ lỗi nào trong cuốn sách này. Bất cứ thiện quả nào có được từ việc viết cuốn sách này xin được chia cho tất cả. Nguyện cho tất cả đều được an lành.
Columbia, tháng Mười hai năm 2016
Ghi chú:
(1) Tỳ Lô Giá Na là phiên âm của Vairocana, được coi là Pháp thân trong tam thân của Phật Thích Ca (Pháp thân, Báo thân, Ứng/hóa thân).
(2) Phó giáo sư ngạch nghiên cứu.
(3) Đi hạ là nói tắt của đi “an cư, kết hạ”. Theo quy định từ thời Đức Phật Thích Ca, mỗi năm, chư tăng phải tập trung ở một nơi trong ba tháng mùa hạ và/hoặc đông để tu tập miên mật, không ra ngoài. Tại Việt Nam, vào mùa hạ, một số chùa sẽ trở thành trường hạ để cho tăng ni từ các chùa khác tụ về cùng an cư.
(4) Sau này, có lần chúng tôi ở trong điện Mẫu thì thầy giải thích cho tôi các hàng tượng từ trên xuống dưới. Trên cùng là Ngọc Hoàng Thượng Đế. Rồi đến Tam Tòa Thánh Mẫu là Mẫu Đệ Nhất, Đệ Nhị, Đệ Tam - tương ứng với ba lần hóa thân xuống trần khác nhau của công chúa Liễu Hạnh, con gái Ngọc Hoàng. Rồi đến Ngũ Vị Vương Quan (năm ông quan) từ quan Đệ Nhất đến Đệ Ngũ đều là các vị tướng, có công đánh giặc giữ nước. Hàng dưới là Tứ Vị Chầu Bà, từ chầu Đệ Nhất đến Đệ Tứ, là các vị đi cạnh thị giả cho các Mẫu. Bên dưới là Ngũ Vị Hoàng Tử, là năm ông hoàng; dưới nữa là Thập Nhị Vương Cô tức 12 cô; hàng dưới cùng là Thập Nhị Vương Cậu là 12 cậu. Dưới gầm còn có ban thờ quan Ngũ Hổ.
(5) Mộc bản là một tấm gỗ, chư tăng gõ vào khi tới giờ cơm hoặc giờ niệm Phật. Buổi sáng, khi kích mộc bản cho thời khóa niệm Phật, chú tiểu thường phải xướng lớn một bài cảnh sách như sau:
“Mặt trời vừa hé rạng đông.
Lờ mờ mặt đất ánh hồng rạng soi.
Tự tâm xúc cảnh đổi dời.
Muôn màu ngàn sắc mắt người choáng đi.
Sắc phàm đắm chấp làm chi.
Quay đầu tỉnh dậy tu trì hôm mai.
Chuyên cần sáu niệm không sai.
Sao cho công quả tương lai tròn đầy.
Kính lễ Đức Thường Tinh Tiến Bồ Tát Ma Ha Tát.
Kính lễ Đức Thường Tinh Tiến Bồ Tát Ma Ha Tát. Kính lễ Đức Thường Tinh Tiến Bồ Tát Ma Ha Tát.”
(6) Dùng cơm.
(7) Cảnh sách là những bài thơ do các bậc cổ đức soạn ra để cảnh tỉnh, sách tấn, khuyến khích người tu hành. Vào đầu mỗi thời khóa niệm Phật ở các chùa miền Bắc, thường một vị tăng hoặc chú tiểu phải tuyên đọc một bài cảnh sách để nhắc nhở đại chúng. Ví dụ như trước thời khóa niệm Phật lúc chín rưỡi tối, trước khi đi ngủ, bài cảnh sách sẽ như sau:
“Sắc ngày vừa lặn tới sắc đêm.
Đường tối lờ mờ lại tối thêm.
Chỉ biết đuốc ai nhà đó rạng.
Đèn mình sao chẳng thắp thêu xem.
Vẳng lặng mặt trời qua khỏi núi.
Dần dần cửa biển mọc trăng lên.
Tử sinh thay đổi thường như thế.
Tam Bảo sao mà chẳng niệm lên.”
(8) Đây là câu thỉnh phải có trước mỗi bữa ăn của chư tăng. Một chú tiểu hoặc là một Phật tử sẽ là người thỉnh.
(9) Kinh A Di Đà. “Chính tôi được nghe, một thời bấy giờ, Đức Phật ở tại thành Xá Vệ, vườn của ngài Cấp Cô Độc, cây của thái tử Kỳ Đà, cùng với chúng tăng gồm một ngàn hai trăm năm mươi người...”.
(10) Tứ y cứ: Y pháp bất y nhân, y nghĩa bất y ngữ, y trí bất y thức, y liễu nghĩa kinh bất y bất liêu nghĩa kinh. Tức dựa vào pháp, không dựa vào người nói pháp; dựa vào nghĩa, không dựa vào ngôn từ bề mặt; dựa vào trí, không dựa vào thức; dựa vào kinh thuyết về giải thoát rốt ráo, không dựa vào các kinh phương tiện. Đây là bốn nguyên tắc mà người tu Phật phải dựa vào để không sai đường.
(11) Đại ý: Nguyện cầu cho hương này cùng mây bay đi khắp mười phương, tới khắp các quốc độ Phật, làm trang nghiêm các cõi Phật và Bồ Tát.
(12) Tự quy y Phật (về nương tựa vào Phật), nguyện cầu cho tất cả chúng sinh đều thấu hiểu đạo lớn, phát tâm rộng lớn, vô thượng. Tự quy y Pháp, nguyện cầu cho tất cả chúng sinh đều thâm nhập vào ba tạng kinh điển, trí tuệ như biển lớn. Tự quy y Tăng, nguyện cầu cho tất cả chúng sinh, hòa hợp lẫn nhau, không quản ngại khó nhọc.
(13) Thực tại bị bóp méo.
(14) Anh là người vị hiến (người tuân thủ theo Hiến pháp, tức các điều về quyền tự do).
(15) Khi muốn nói "Hãy tập trung", người Mỹ thường đặt một bàn tay vào giữa trán, ngón tay hướng ra phía ngoài, giống như có tia laser mọc ra từ não, để ngụ ý các ý nghĩ cần phải đi cùng một hướng và sắc bén như tia laser. AJ xuyên tạc thành "mọc sừng" vì trông giống như mọc một cái sừng từ trán; và gọi là “Be horny! (cùng có nghĩa là hãy hứng tình lên”. Các cách chơi chữ này rất khó giải thích trong tiếng Việt.
(16) "Thoughtist" là người suy nghĩ, "writist" là người viết, "penist" là người cầm bút nhưng nếu đánh vần không rõ sẽ giống như "penis"tức là "dương vật".
(17) Có nhiều phiên bản của chuyện này. Có chuyện nói Phật bảo ông nhẩm vậy trong lúc lau mình, có chuyện nói Phật bảo ông nhẩm trong lúc lau chùi dép của các tỳ-kheo khác, có chuyện nói ông nhẩm lúc quét chùa.
(18) Phật nói có tám thứ khổ: sinh khổ; lão khổ; bệnh khổ; tử khổ; sở cầu bất đắc khổ (mong muốn mà không được); ái biệt ly khổ (yêu thích mà phải xa cách); oán tăng hội khổ (oán ghét mà phải ở cùng); ngũ ấm xí thạnh khổ (khổ do có thân ngũ ấm cảm thọ nóng lạnh).
(19) Một show hài trên truyền hình Mỹ.
(20) "Sup" là viết tắt của "What's up?" (Có việc gì thế?)
(21) Lễ xuống tóc.
(22) Thân cùng ở một nơi trụ xứ.
(23) Miệng nói lời nhu hòa, không tranh cãi hơn thua.
(24) Ý cùng nhau vì Phật sự.
(25) Giới luật cùng giữ.
(26) Các thấy biết thì cùng nhau luận giải.
(27) Các việc lợi dưỡng thì chia đều nhau hết, không ai được hơn ai, không ai được tích của riêng, được có riêng Phật tử cúng dường đồ riêng mà đều là của thường trụ hết.
(28) Nguyện đoạn trừ tất cả ác.
(29) Nguyện tu tất cả thiện.
(30) Nguyện cứu độ tất cả chúng sinh.
(31) Địa ngục chưa trống không, nguyện không thành Phật. Chúng sinh chưa độ hết, nguyện chưa chứng quả Bồ Đề.
(32) Nguyện sinh về cõi nước Tịnh Độ ở Tây phương cực lạc. Chín phẩm hoa sen là cha mẹ (hóa sinh trong hoa sen chứ không từ tinh cha huyết mẹ như loài người). Hoa nở thấy Phật, chứng nhập Vô sinh pháp nhẫn (pháp chân thật). Làm bạn với các bậc Bồ Tát đã đạt quả vị bất thoái (tức không còn trở lui trên đường tu xuống hạng phàm phu hay Thanh văn, Duyên giác).
(33) Vầng ô sắp hé phương Đông. Lờ mờ mặt đất ánh hồng rạng soi. Tự tâm xúc cảnh đổi dời. Muôn màu ngàn sắc mắt người choáng đi. Sắc phàm đắm chấp làm chi. Cất đầu tỉnh dậy tu trì hôm mai. Chuyên cần sáu niệm không sai. Sao cho công quả tương lai tròn đầy. Kính lễ Đức Thường Tinh Tiến Bồ Tát Ma Ha Tát.
(34) Giới Bồ Tát gồm 10 giới trọng, 48 giới khinh - như đường lộ giành cho những người phát tâm Bồ Tát, muốn hành đạo Bồ Tát mà làm lợi lạc cho chúng sinh. Mỗi tháng hai lần vào ngày 14 và ngày cuối tháng, người thọ giới sẽ phải về chùa tụng giới hoặc nếu không về được thì tự tụng giới một mình.
(35) Ý là "Chư Phật mười phương, luôn ở thế gian, nói pháp không ngừng, mùi hương kỳ diệu (của giải thoát) luôn tràn đầy, vị pháp trùm khắp không gian".
Phan Việt
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mười bảy và những cơn mưa đầu hạ

Mười bảy và những cơn mưa đầu hạ Tiếng thầy giảng chồng lên tiếng mưa, cứ êm êm và nhạt nhòa. Buổi đầu ở một lớp học thêm mới nên Việt Anh...