Chủ Nhật, 3 tháng 11, 2024

Về nhà 1

Về nhà 1

Phần 1: California - Mùa đông 2010
Chương 1
“Tìm ý trong lời cũng như khều trăng đáy nước, có liên quan gì đến sự thật đâu.”
Bắt đầu lại từ đâu? Đây là câu hỏi thường trực của mùa hè 2010 sau khi tôi từ Chicago chuyển tới California. Ly hôn là một cánh cửa mà ngay sau ly hôn, như người loanh quanh trên ngưỡng cửa, bạn không chắc bạn vừa bước ra hay vừa bước vào. Bạn thậm chí không chắc bạn bước ra khỏi cái gì và bước vào cái gì.
Nhưng ngã ở đâu, bạn phải đứng lên ở đó. Một tuần sau khi tới San Jose, trong tình trạng tỉnh táo mà mê muội đặc thù của thời hậu ly hôn, tôi thuê nhà, nhận phòng làm việc, gặp đồng nghiệp mới, đăng ký ô tô, đổi bằng lái, mở tài khoản ngân hàng, làm tất cả giấy tờ để ổn định cuộc sống, rồi tất bật về Hà Nội giảng một khóa học ngắn về công tác xã hội với trẻ em và gia đình. Lớp học có gần trăm học viên, phần lớn là giảng viên các trường đại học hoặc cán bộ các bộ, sở, tổ chức phi chính phủ - đa phần hiểu biết hơn tôi về chính sách đối với trẻ em tại Việt Nam. Buổi đầu tiên lên lớp, tôi nhận thấy trong 98 học viên của lớp có một thành viên đặc biệt: một nhà sư mà các học viên gọi là “thầy Đạo.”
Học viên trong lớp nói rằng thầy trụ trì một ngôi chùa ở ngoại thành Hà Nội.
“Chùa ở trong làng cổ, đẹp lắm cô ạ. Hôm nào cô vào chơi.”
Một buổi chiều, sau khi tan lớp, học viên rủ tôi đến thăm chùa. Từ trường, chúng tôi đi xe máy ra ngoại thành rồi men theo bờ sông qua một cây cầu xuống con đường đất nhỏ. Xe chạy trên đường đất hẹp dọc sông rất lâu, băng qua các làng cổ để tới một cổng sắt nhỏ dẫn vào ngôi chùa sát bờ sông. Bước qua cổng là khoảng sân rộng lát gạch đỏ có rất nhiều cây nhãn rợp bóng. Đập vào mắt tôi là hàng chục bức tượng Phật lớn bằng xi măng, mỗi tượng cao hơn hai mét, sắp hai hàng song song, chạy từ cổng về phía sau chùa. Khuôn mặt, trang phục, cách ngồi, và dáng tay của các tượng Phật này không hề giống các tượng tôi từng nhìn thấy. Phật ngồi trên tòa sen, đội mũ năm cánh, tóc dài dưới vành mũ, mắt dài nhìn hướng xuống dưới, bàn tay phải thì nắm lấy ngón trỏ của bàn tay trái ở phía trước ngực. Hàng tượng chạy ra sau chùa, ở đó là cánh đồng lớn xanh mướt và những bụi tre. Mặt trời lúc này bắt đầu xuống, hắt ánh nắng rạng rỡ lên hàng tượng Phật.
Từ bé, tôi đã luôn cảm mến cảnh chùa nhưng gia đình tôi không theo tôn giáo nào nên một năm tôi chủ yếu đi chùa vào dịp Tết chứ chưa từng tham gia lễ bái, không biết các phong tục, nghi lễ, cũng chưa từng đọc kinh. Với tôi, đạo Phật chỉ lờ mờ trong các khái niệm phổ thông như Phật Bà Quán Âm, A Di Đà Phật, Tây phương cực lạc, Phật tổ Như Lai, nhân quả, hòa thượng, Niết Bàn mà tôi chủ yếu học từ... Tây du ký. Tôi đinh ninh rằng Phật (mà ở Việt Nam còn gọi là Bụt) cũng giống Chúa hay Allah - tức một đấng quyền năng mà người ta kêu cứu khi cùng đường. Tôi thậm chí đinh ninh “A Di Đà Phật” không phải tên một vị Phật mà là câu chào thông thường của người tu hành vì trong phim Tây du ký, rõ ràng Đường Tăng gặp ai cũng chắp tay cúi đầu “A mi thò phò!.”
Lần đến chùa này là lần đầu tôi đến một ngôi chùa làng và cũng là lần đầu tôi nói chuyện trực tiếp với một nhà sư. Học viên lớp tôi đều gọi thầy Đạo là “thầy”, “sư phụ”, “cụ” hoặc “cụ chùa”, xưng con; thầy Đạo thì gọi mọi người là cô, chú, và xưng “thầy” hoặc “tôi”. Tôi không biết phải xưng thế nào nên cứ theo phép lịch sự và... dân chủ.
“Thầy Đạo cho tôi hỏi, các tượng Phật kia là thế nào ạ?”
“À, là Phật Tỳ Lô Giá Na (1) cô giáo ạ.”
Lần đầu tiên tôi nghe thấy tên Phật này. Tôi thấy nó vừa thú vị vừa quê quê với lối phiên âm tiếng Việt.
“Thế sao tay của Phật lại thế kia ạ?”
“À, đó là ấn trí quyền. ” - thầy cười.
Lại một từ nữa tôi không hiểu.
Học viên trong lớp đã lấy ghế tập trung quanh tầng trệt của một nhà sàn gỗ hai tầng nằm giữa sân chùa. Nhiều học viên từng làm cán bộ đoàn lâu năm, thường xuyên phải hoạt động phong trào nên truyện cười, thơ văn, hát hò rất giỏi. Họ kể truyện cười, đọc thơ, vè, ứng khẩu tiếu lâm khiến tôi cười nghiêng ngả. Rồi chúng tôi nói chuyện gia đình, cuộc sống. Từ đầu khóa học đến giờ, tôi chỉ nói chuyện công việc với các học viên nhưng hôm nay, tôi cảm thấy có thể nói chuyện cuộc sống riêng của tôi với họ theo kiểu “người lớn với nhau.”
“Chắc các bạn ở đây không biết chứ tôi...” - tôi mở đầu, định nói với họ rằng tôi đã từng kết hôn và bây giờ đã ly hôn.
“Ôi cô ơi, mọi người biết hết rồi” - các học viên cười, cắt lời tôi - “Lý lịch của cô thế nào, chúng nó lên mạng điều tra hết rồi cô ạ.”
“Thật à? Thế mà tôi cứ tưởng...” - tôi cố vớt vát chữa ngượng.
“Cô cứ thoải mái đi, chúng em biết hết rồi.”
Chúng tôi bắt đầu nói về tình yêu và hôn nhân. Các học viên hỏi tôi cảm thấy thế nào sau ly hôn. Tôi nói cũng tùy hôm; có hôm thì tôi thấy mình tự do, cuộc đời rộng mở trước mặt; có hôm thì tôi thấy cuộc đời tôi chỉ còn là một chuỗi ngày cầm cự với sự tuyệt vọng không đáy để chờ chết trong cô đơn.
“Nhưng mà thực sự tôi không hề trách móc hay oán hận chồng cũ” - tôi nói.
“Nếu thế thì có thể là cô chưa bao giờ yêu chồng cô” - một học viên nói - “Yêu thì nhất định phải đi kèm một ít ghen tuông, oán hận chứ ạ.”
Tôi nói tôi không thấy thế. Thực sự không cảm thấy thế. Ly hôn chẳng liên quan gì đến tình yêu hay hận thù cả.
Câu nói này của tôi lập tức làm nổ ra một cuộc tranh luận giữa các học viên về yêu - ghen - và hận. Nếu yêu mà không ghen thì có phải là yêu không? Yêu mà khi chia tay không hận đối phương một tí nào thì có phải là yêu không? Vô lý. Ớt nào mà ớt chẳng cay, gái nào mà gái chẳng hay ghen chồng. Thế rồi, được, cứ cho là yêu có thể không ghen, thế chồng hay vợ nó đi ngoại tình thì sao? Có ghen không? Nếu nó say nắng, có tình cảm thật với đứa nào thì sao? Rồi nó ngu, nó không biết giữ gìn, nó có con với đứa khác, thì lúc đấy chia tay có hận không? Không bên nào chịu bên nào. Bên nào cũng có lý và có bằng chứng từ bản thân, từ “con bạn em”, từ “chị cùng cơ quan em”, từ “dì tớ”...
Một học viên quay sang thầy Đạo:
“Nhức đầu cụ nhỉ, như cụ sướng nhất, khỏi lắm chuyện phức tạp.”
Thầy Đạo cười.
“Có gì phức tạp đâu. Ở đời, người ta gặp nhau không ngoài chuyện ân oán; có ân thì báo ân, có oán thì báo oán. Vợ chồng cha mẹ anh em là duyên nợ, có duyên thì tụ, hết duyên thì tán. Cô giáo đã trả hết nợ hết duyên thì chia tay không thấy vướng mắc là bình thường mà.”
Ha! Tôi chưa bao giờ nghĩ tôi với Sơn lấy nhau vì duyên số. Ừ thì người ta vẫn nói “Vợ chồng là duyên số” nhưng tôi luôn nghĩ đó là một câu dĩ hòa vi quý khi người ta không dùng điều gì khoa học hơn để giải thích được. Và thường chỉ áp dụng cho những người lười nghĩ, mê tín dị đoan, chứ không phải cho người như tôi. Duyên số thì, xin lỗi chứ, bố ai mà chứng minh được. Tôi như thế, Sơn như thế, gặp nhau như thế, tính cách như thế, vậy là chúng tôi lấy nhau. Đơn giản vậy thôi.
Vậy mà sống với nhau thì không đơn giản chút nào.
À nhưng không đơn giản cũng là vì tôi như thế... Sơn như thế... và chúng tôi là như thế, như thế... về mặt tính cách, xuất thân, hoàn cảnh, hành vi. Nghĩa là dĩ nhiên có thể giải thích được bằng các mô hình tâm-sinh-lý xã hội chứ không phải một thứ duyên số định sẵn nào tồn tại trước cả khi chúng tôi biết nhau.
Nhưng mà biết đâu có duyên số thật nhỉ? Lẽ nào những đau khổ tôi phải trải qua là do tôi đã nợ gì Sơn và bây giờ phải trả? Tôi đã làm gì sai? Trong đời này, tôi có thể không hổ thẹn mà nói rằng tuy tôi không hoàn hảo gì nhưng quả thực là tôi ít làm điều ác, cũng ít nghĩ điều ác hay nói điều ác - điều ấy thì tôi tự biết. Với Sơn cũng như với những người quanh mình, tôi có thể đếm chưa hết một bàn tay những lần mà tôi nổi giận.
Thế thì có kiếp trước chăng? Tôi đã nợ gì Sơn từ kiếp trước chăng? Từ bé đến giờ, không ít lần những người gặp tôi lần đầu (như ở sân bay) cứ tự động “phán” rằng tôi có “quý nhân phù trợ”, có “năng lực tâm linh đặc biệt”, có “nhiều phước báu”, có “tiên cốt” với “đạo cốt”, còn tôi thì luôn nghĩ các “thánh phán” này muốn phỉnh tôi lấy tiền hoặc bị tẩu hỏa nhập ma do đọc quá nhiều sách huyền thuật.
Nếu quả có kiếp trước tức là sống và chết và tất cả những gì chúng ta làm giữa hai mốc đó đều phải được xem xét lại. Cũng tức là có cái lớn hơn thế giới vật chất mà ta thấy bằng mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, này chăng? Cũng tức là chùa chiền, Phật, Chúa thánh thần không phải chuyện mê tín dị đoan, thậm chí không phải một liệu pháp an tâm, một thứ tín ngưỡng hay tập tục văn hóa mà ẩn chứa một sự thật tôi chưa từng biết đến? Có thể nào những hủ tục, tín điều, lễ nhạc ma mị mà người ta phủ lên đạo Phật đã làm người ta hiểu nhầm một hệ thống giải thích thế giới rốt ráo và triệt để? Ít nhất thì, ngay cả khi không hiểu gì về đạo Phật, tôi vẫn thấy khái niệm nhân quả có lý hơn việc cho rằng có một đấng Chúa Trời nặn ta ra từ đất sét và định đoạt cuộc đời ta. Rút cục là thế nào đây?
“Trông cô giáo cứ ngơ ngơ ngác ngác buồn cười quá” - thầy Đạo cười - “Thôi ăn cơm đi các cô các chú.”
Chúng tôi ăn cơm chay. Đây cũng là lần đầu tiên tôi ăn cơm chay chùa. Tôi không ăn hết được cả đĩa lớn mà học viên lấy nên bỏ lại gần nửa.
“Cô chưa ăn cơm chay bao giờ phải không cô?” - một học viên thì thầm với tôi sau khi bữa cơm được dọn đi.
“Chưa.”
“Ăn cơm chay ở chùa không được bỏ thừa đâu cô ạ” - học viên cười - “một hạt cơm chùa là 72 công đức đấy.”
“Thế à? Chết, tôi không biết.”
Quá nhiều thứ ở Việt Nam, thuộc về văn hóa bình dân của người Việt Nam mà tôi không hề biết. Lần đầu tiên tôi cảm nhận rõ mình là người Việt, sinh ra và lớn lên ở Việt Nam mà chẳng hiểu gì về lịch sử, văn hóa, tâm lý đích thực của dân tộc mình, về hành vi của những người gọi là “đồng bào mình”. Tức là hiểu họ như họ đang-là chứ không phải như tôi nghĩ hoặc muốn họ là. Tôi thực sự đã lớn lên, đã tuần tự đi học đến hết đại học, rồi ở Mỹ suốt mười năm qua; chủ yếu chỉ có hiểu biết giáo khoa, bó hẹp trong thế giới gồm toàn trí thức đô thị, trong khi đến hơn bảy mươi phần trăm người Việt Nam vẫn ở nông thôn và vận hành một cách có ý thức hoặc vô thức trên các nền tảng văn hóa nông thôn này.
Sau bữa ăn, chúng tôi uống trà rồi đi dạo tản mát quanh chùa. Mặt trời đã xuống, gió thổi nhẹ, không gian vẳng tiếng chim và tiếng gà lên chuồng. Rồi trời bắt đầu tối. Thầy Đạo bảo một chú tiểu mở cửa “Tổ Đường” cho chúng tôi vào ngắm “xá lợi” . Lại một từ nữa lần đầu tiên tôi được nghe.
“Xá lợi là gì ạ?”
“À, khi Đức Phật Thích Ca nhập Niết Bàn thì kim thân của Ngài được các đệ tử hỏa thiêu; sau khi thiêu thì còn lại các hạt xá lợi này. Mỗi bộ phận trên nhục thân của Phật sẽ để lại các loại xá lợi khác nhau; có xá lợi răng, xá lợi tóc, xá lợi xương... mỗi thứ một màu. Rồi còn có xá lợi của các Bồ Tát, thánh tăng, các tổ. Nếu mình tu tập tinh tiến, giữ gìn giới luật nghiêm cẩn, thì xá lợi sẽ tự sinh sôi...”
“Cái gì ạ?”
“Cô giáo không tin phải không?” - thầy Đạo cười - “người nào thờ xá lợi, kể cả tu sĩ hay cư sĩ tại gia, mà nghiêm trì giới luật, tinh tiến tu hành thì xá lợi từ một viên sẽ nhân hai, nhân bốn, nở đầy ra. Còn nếu không tu hành thì xá lợi sẽ tiêu dần, tiêu dần, rồi biến mất... vi diệu không?”
Vâng, “vi diệu” ạ - tôi nghĩ. Nhưng nhất định phải có một cách giải thích khoa học nào đó. Có thể các nhà sư quen ăn một số thực phẩm nhiều canxi hay chất gì đó nên hóa chất đọng lại trong cơ thể thành “xá lợi” giống như sỏi thận. Hoặc Đức Phật là người ở Ấn Độ, xứ đó nóng, thực phẩm dễ hỏng, mà ngày xưa không có tủ lạnh nên người ta quen bảo quản thực phẩm bằng cách tẩm ướp trong các loại gia vị nóng, cay thì có thể lâu dần các vi chất đọng lại và nóng chảy trong quá trình hỏa thiêu. Khi các viên “xá lợi” này gặp xúc tác trong môi trường bình thường thì giãn nở hoặc co lại. Chứ một thứ vô tri vô giác làm sao có thể tự sinh sôi nảy nở?
“Chà, không có khoa học thì người ta dễ mê tín thật” - tôi thầm nghĩ - “Thế kỷ 21 rồi mà vẫn còn tin rằng sấm chớp mây mưa là do thần sấm thần sét tạo ra; giàu nghèo, sướng khổ do ai đó ban ơn cho mình. Vậy nên Việt Nam cứ nghèo mãi.”
Chúng tôi ở lại uống trà, nói chuyện với thầy Đạo đến khuya mới về. Buổi tối, chùa lộng gió, ếch nhái, côn trùng râm ran. Khung cảnh làng quê thanh bình này đã hàng chục năm rồi tôi không thấy.
Từ chùa về, tôi ghi trong nhật ký của mình: “Đây có thể là một trong những ngày quan trọng nhất của đời tôi”. Một cách lờ mờ, tôi nghĩ rằng tôi hoàn toàn mất gốc, tôi không hiểu gì về văn hóa Việt Nam, nhất là cái gốc văn hóa nông thôn, văn hóa tâm linh ăn sâu vào người Việt. Tôi lại cũng nghĩ giờ tôi đã hoàn thành việc học hành của đời mình, nếu tôi muốn trở lại Việt Nam làm công tác xã hội, thì không có cách nào khác là tôi phải hiểu rõ cái làm nên tâm lý, hành vi các cá thể cũng như tâm lý tập thể của người Việt Nam.
Nhưng hóa ra tâm thức của chúng ta thường biết những điều mà lý trí có thể phải mất một thời gian dài mới theo kịp. Không lâu sau buổi đến chùa này, tôi trở lại San Jose và mọi việc trôi dần trong những lo toan hằng ngày, cho đến khi một việc xảy ra với tôi: tôi gặp ma.
Chương 2
Một thử nghiệm mới
Trở lại San Jose, lần đầu tiên tôi thấm thía tình cảnh một mình sau ly hôn. Sang tháng Mười, San Jose vào thu, ngày nào cũng bảng lảng mây xám và lây rây mưa chuyển mùa. Những cơn mưa nhỏ và không đều. Đôi khi bên này thung lũng có mưa mà bên kia thung lũng sáng nắng; đôi khi tất cả các quả đồi quanh thung lũng ầm ào sấm chớp nhưng lòng chảo lại chói chang. Sau vài trận mưa, các quả đồi phủ cỏ vàng suốt mùa hè bắt đầu lún phún xanh dưới chân, rồi màu xanh lan dần lên đỉnh trong khi lá cây dưới thung lũng lại chuyển ngược từ xanh sang vàng. Vào sáng sớm, mặt trời lên dìu dịu một bên sườn đồi trong khi sườn bên kia mờ ảo trong sương. Rồi cả ngày, mặt trời băng ngang từ Đông sang Tây, liên tục phủ những mảng bóng râm khác nhau lên thung lũng. Đến cuối ngày, mặt trời xuống dần, những bóng đèn điện lác đác xuất hiện rồi dày dần lên cho đến lúc cả Silicon Valley biến thành một biển ánh sáng. Ngày và đêm, thung lũng luôn rầm rì một dòng năng lượng của cả triệu người, xe, nhà máy, công ty đang vận hành.
Cái tiếng rầm rì ấy, những cơn mưa chuyển mùa, và những nhóm công chức trẻ đẹp đẽ là lượt túm tụm đi ăn trưa trên phố King nhắc tôi nhớ rằng cuộc sống vẫn tiếp tục trôi, chỉ có mình tôi hình như đang bị bỏ lại. Chúng cũng nhắc tôi nhớ rằng ở thành phố này, tôi không người thân, không bạn bè, không có gì ngoài một công việc. Mình đang làm gì ở đây? Sáng đi làm, tối về nhà, thui thủi một mình. Cuộc sống thế này có nghĩa gì? Những câu hỏi ngày càng dai dẳng, cho đến lúc chúng trở thành một cáo trạng. “Này Việt! Nghiêm túc đây! Đã ngoài 30 rồi đấy, mặt thì xấu, ăn mặc trang điểm thì chẳng biết, tiền không, quảng giao không, đã thế lại còn học cao và bỏ chồng...”
Thì sao?
“Ừ cũng chẳng sao, nhưng mà nhìn mọi người xem. Từng này tuổi, người ta chồng con vui vẻ. Còn mình thì...”
Thì sao? Mỗi người một cuộc sống, một lựa chọn.
“Ừ thì mỗi người một lựa chọn. Nhưng nếu không cố gắng tìm đi, thì rồi sẽ hết cơ hội mà lựa chọn đấy. Tháng sẽ qua, năm sẽ qua, chẳng mấy sẽ 40 mà vẫn một mình, lúc đấy có muốn cũng chẳng thể chọn lựa gì ngoài chờ già rồi chết. Anh chị em có phận của họ; các cháu trai cháu gái cũng có đời chúng nó. Rồi thì sẽ 60. Sẽ nằm trong bệnh viện hoặc trại dưỡng lão một mình, sống không được mà chết cũng chả xong. Lúc đó, thì những thứ học hành, tiến sĩ giáo sư có ích gì? Có viết cả trăm cuốn sách, có cả triệu độc giả, phát minh ra một nghìn thứ, thì cũng đã sao? Không có gia đình riêng, cuộc đời thế là vứt. Vô nghĩa!”
Hic, thì tôi sẽ lấy chồng và có con mà. Tôi cũng muốn có một ai đó để yêu chứ.
“Thế thì phải cố lên. Cứ ru rú trong nhà rồi đi làm thế này thì bao giờ mới có chồng được? Phải hoạt bát lên, chủ động lên. Đần quá!”
Alas, cô đơn và áp lực kiếm chồng không phải là những bạn đồng hành dễ chịu. Một thời gian sau khi trở lại San Jose, nghe lời một người bạn Mỹ ở trường, tôi thử dịch vụ online dating (tìm bạn trên mạng). Người bạn của tôi, Kristy, đã gặp chồng chưa cưới qua một website nên cô ấy tin chắc tôi cũng sẽ gặp chồng chưa cưới của tôi ở đó. Nghe lời Kristy, tôi lập tài khoản, tải một vài bức ảnh và tỉ mẩn trả lời tất cả những câu hỏi của website về bản thân - tên, tuổi, chủng tộc, giới tính, tôn giáo, trình độ học vấn, công việc, thu nhập, thành phố đang sống, sở thích, tính cách, tìm kiếm người trong độ tuổi bao nhiêu, ở vùng nào, thuộc tôn giáo gì... Bỗng nhiên những điều tôi đã lâu không nghĩ đến trở lại quan trọng và phơi ra những vết sẹo của ly hôn mà tôi tưởng đã liền da. Ví dụ, thực sự thì liệu tôi có còn muốn hẹn hò với một người đàn ông Việt Nam hay tôi muốn lấy “Tây”? Nếu là người Việt thì Việt kiều hay Việt... cộng?
Liệu tôi có thể thực sự hẹn hò một người theo đạo Thiên Chúa ở đất nước đa phần theo Thiên Chúa này? Một người theo đạo Do Thái hay đạo Hồi thì sao?
Liệu tôi có thể hẹn hò với một người dưới 20 tuổi? Một người ngoài 50? Hoặc 60?
Một người da đen? Một người gốc Âu? Một người Nam Phi?
Trung Quốc thì sao?
Một người béo? Hoặc rất béo (200 cân)?
Một người có thu nhập dưới 35 ngàn đô mỗi năm? Hoặc thất nghiệp?
Một người có thu nhập tính bằng triệu đô? (Khi nào thì giàu cũng trở thành một hiểm họa đe dọa hạnh phúc?)
Một người từng ly dị vợ? Ly dị hai lần thì sao? Còn ba lần?
Một người muốn lấy vợ nhưng không muốn có con?
Một tuần sau khi mở tài khoản, tôi có cuộc hẹn đầu tiên. Georges là kỹ sư phần mềm gốc Ý, đang làm việc cho Google. Chúng tôi gặp nhau ở một nhà hàng Nhật sang và ấm cúng, nói chuyện vui vẻ. Ăn xong Georges trả tiền cho cả hai rồi lái xe đưa tôi lên đỉnh một ngọn đồi, từ đó, chúng tôi đứng nhìn xuống thung lũng lấp lánh ánh đèn, nói chuyện tiếp về cuộc sống và du lịch. Georges đã từng đến Việt Nam còn tôi đã từng đi Ý nên chúng tôi nói chuyện không khó khăn, thậm chí có cảm giác nói mãi chẳng hết chuyện. Buổi tối lãng mạn như sách nhưng tôi đã biết từ lúc chúng tôi ăn cơm với nhau rằng mối quan hệ này sẽ chỉ có thể là một tình bạn tốt. Tôi hoàn toàn không có cảm giác gì với Georges - cái cảm giác mà một phụ nữ luôn biết với một người đàn ông mình mới gặp. Cảm giác “thích.”
Người thứ hai tôi gặp là Adam. Adam đã 45 tuổi, đang sở hữu một chuỗi cửa hàng sửa xe phát đạt. Adam hỏi tôi muốn ăn ở đâu, để khỏi nghĩ, tôi nói đồ Nhật và Adam đưa tôi tới một nhà hàng Nhật nhỏ, bình dân, kiểu tự phục vụ, mỗi chúng tôi tự trả tiền. Vào bữa tối được 15 phút, Adam nói ngay với tôi rằng anh là triệu phú, đã lớn tuổi rồi và đang tìm kiếm một người mà anh có thể cưới chứ anh không còn muốn tìm bạn để hẹn hò vui vẻ nữa. Adam cũng nói anh theo đạo Thiên Chúa và muốn một người cùng tôn giáo với anh. Adam hỏi tôi theo đạo gì, tôi nói tôi không theo đạo gì cả. Adam nói cũng không sao, miễn là tôi không phản đối việc nuôi dạy con theo đạo Thiên Chúa. Anh nói anh rất ấn tượng với cách ăn mặc kín đáo và cách nói chuyện thẳng thắn của tôi; anh nghĩ rằng hai chúng tôi sẽ rất hợp nhau. Sau đó, Adam đưa tôi đi thăm khu biệt thự của các tỷ phú Silicon Valley và hỏi tôi có muốn đến thăm một xưởng sửa chữa của anh không. Trên đường về, tôi đã biết là sẽ không gặp lại Adam nhưng vẫn đưa số điện thoại cho anh. Sau này, Adam còn gọi cho tôi nhiều lần và email hỏi tôi tại sao không trả lời điện thoại hay email của anh. Đó là lần đầu tiên tôi im lặng trước một người thích mình vì tôi biết chúng tôi không có bất cứ cơ hội nào và tôi chỉ muốn tiết kiệm thời gian cho anh.
Vì sao tôi không nhìn thấy tương lai nào với Adam?
Không phải sự thẳng tưng về tiền bạc của anh. Thậm chí cũng không phải chuyện đạo Thiên Chúa. Vấn đề là Adam đang tìm một người vợ khác tôi. Adam đang tin rằng chỉ cần một người phụ nữ có những phẩm chất nhất định thì anh có thể lấy làm vợ. Anh tưởng tượng anh vẫn sẽ giữ nguyên cuộc sống hiện tại, đi làm cả ngày, chỉ khác là có thêm một người vợ để lo chuyện con cái. Tôi đủ biết rằng mình không có các phẩm chất mà Adam tìm.
Người thứ ba mà tôi gặp mà Isaac, người gốc Israel. Chúng tôi vừa vào đến cửa, nhìn thấy nhau là biết sẽ không có cơ hội. Isaac đang làm nghiên cứu triết học ở Berkeley. Isaac có lẽ là một trong số ít người mà tôi thực sự tin không nên lập gia đình vì sẽ rất khó có thể hạnh phúc - và Isaac có lẽ đã biết điều đó nhưng còn chưa muốn thật sự chấp nhận nó hoặc anh đang bị gia đình ép buộc. Isaac thực sự khổ sở khi phải tiếp xúc với người khác. Anh là dạng người không thể thuộc về đời sống gia đình, không thể thuộc về một ai cả. Anh sống bằng phần tinh thần nhiều hơn phần thể xác rất nhiều và bất cứ cái gì phải có sự đối đãi giữa người với người, bao gồm cả tình dục, sẽ là tra tấn với anh. Mà chúng ta thì đa phần đối đãi. Đối đãi cả với chính mình.
Người tiếp theo mà tôi gặp là Jack. Jack là người Mỹ trắng, tóc nâu, mắt xanh, cao to, cơ bắp vừa đủ, đẹp trai, quần áo bảnh bao, lịch sự, nhiều tiền, rất ga-lăng, vui tính - đây là kiểu người mà khi bạn đi bên cạnh ngoài đường thì các cô gái khác đều muốn được là bạn. Anh làm việc cho ngân hàng đầu tư. Khi ngồi xuống, Jack nói chuyện thị trường lên xuống, đầu tư, tiền, tiền, và tiền. Jack hóa ra đã đăng ký online dating từ lâu nhưng vì quá bận nên cứ off and on một thời gian dài mà vẫn chưa tìm được ai. Tôi có cảm giác Jack gặp tôi chỉ để tự trấn an bản thân rằng anh cũng có đầu tư thời gian vào lĩnh vực gia đình, chứ thực sự hiện tại, đầu óc của Jack chỉ tràn ngập chuyện đầu tư. Tôi nói với Jack rằng tôi vừa ly hôn nên lâu lắm rồi, tôi không biết chuyện hẹn hò với đàn ông thì thế nào. Jack bảo phải đề phòng những loại thế này..., thế này... và đàn ông sẽ thích phụ nữ thế này... thế này... Chúng tôi cười, chúc nhau may mắn, rồi chia tay.
Người thứ năm mà tôi gặp là Chris. Chris là giáo sư đại học. Chris là người đầu tiên tôi thấy “thích” và chúng tôi thậm chí đã hẹn hò được đến gần hai tháng với rất nhiều triển vọng. Nhưng rồi tôi chủ động dừng lại vì Chris đã có con với một người vợ cũ và mối quan hệ của họ vô cùng phức tạp. Rất nhanh chóng, sự phức tạp trong quan hệ của họ lan sang tôi. Tôi tự biết mình không đủ sức đương đầu với những đám rối đó khi mà tôi chỉ vừa mới ra khỏi đống bùng nhùng của mình.
Có ra ngoài hẹn hò, tôi mới thấy mình đã sống quá lâu và quá nghiễm nhiên trong tư cách một người có gia đình nên không còn biết các ám hiệu và quy tắc của người độc thân đang tìm bạn. Thế nên có lúc tôi tự đẩy mình vào tình trạng hết sức nực cười. Ví dụ như chuyện với Ben.
Ben là một giáo sư đại học mà tôi đã quen từ lâu nhưng chỉ luôn coi là một đồng nghiệp vì Ben làm việc ở Utah. Chúng tôi đã gặp nhau vài lần ở các hội thảo nhưng chưa bao giờ nói bất cứ chuyện gì ngoài công việc. Sau khi tôi chuyển tới California, chúng tôi viết thư trao đổi công việc nhiều hơn. Khi Ben viết thư cho tôi rằng anh đang định đi California chơi và hỏi liệu anh có thể ghé thăm tôi hay không thì tôi nói dĩ nhiên là được. Tôi nghĩ đơn giản anh chỉ đến thăm như một người bạn chứ không hề biết, trong văn hóa Mỹ, với những dấu hiệu như thế... như thế... thì Ben đến thăm tôi với ý định hẹn hò.
Chúng tôi đã hẹn đi ăn tối với nhau vào buổi tối Ben đến California. Bữa ăn diễn ra vui vẻ; sau bữa ăn, chúng tôi đi uống cà phê và tôi để ý thấy Ben hầu như không nói gì. Khi tôi hỏi Ben có chuyện gì thì anh thú nhận:
“Nói thật nhé, hôm nay tôi cứ chờ cô sẽ từ chối gặp tôi. Tôi cứ nghĩ là thể nào cũng nhận được một email của cô trước khi tôi rời Utah, hoặc khi tôi xuống tới San Jose rằng cô rất bận và không thể gặp tôi được. Thậm chí cả tối nay, tôi cũng chờ cô sẽ bỏ đi.”
“Tại sao?” - tôi hết sức bất ngờ - “Chúng ta là bạn mà.”
“Có lẽ là vì tôi đã quá quen với việc phụ nữ từ chối tôi và bỏ chạy khỏi tôi.”
“Anh đã từng kết hôn hay có bạn gái chưa?”
“Tôi chưa kết hôn nhưng đã từng có quan hệ lâu dài với một vài phụ nữ. Tôi đã định cầu hôn một người nhưng cô ấy bỏ đi ngay trước khi tôi cầu hôn.”
“Ồ, tôi xin lỗi.”
“Không, có phải lỗi của cô đâu. Hoàn toàn là tôi thôi. Tôi quen bị phụ nữ đối xử như thế nên tôi nghĩ là cô cũng sẽ như thế.”
“Vì thế mà anh im lặng suốt buổi tối?”
“À không, im lặng là chuyện khác. Bố mẹ tôi ly hôn lúc tôi còn nhỏ; hồi bé, tôi cứ phải chạy qua chạy lại, làm cầu nối và thùng rác cho họ xả các loại rác cảm xúc. Cho nên tôi mặc định chẳng ai muốn nghe tôi nói, tôi chỉ nên nghe thôi, vậy là tôi thành thói quen nếu người ta không hỏi thì tôi chẳng nói gì. Tôi cũng cố gắng vượt qua điều này nhưng mà khó.”
“Thế tôi hỏi thật nhé, Ben. Hôm nay anh xuống thăm tôi là thế nào? Xin lỗi tôi phải hỏi bởi vì tôi không biết.”
“Thật sự là tôi xuống để xem chúng ta có khả năng hò hẹn hay không. Thực ra, với đàn ông khác, họ mà đi xa thế này thì họ đều có mong muốn cụ thể; tôi thì muốn tìm hiểu cô xem chúng ta có thể hẹn hò hay không.”
“Ý anh là anh quan tâm đến tôi theo chiều hướng yêu đương hả?” - tôi phải hỏi lại cho chắc chắn.
“Đúng thế.”
Tôi không biết phải nói gì vì quá bất ngờ. Cuối cùng, tôi nói với Ben rằng tôi không có cảm giác giống như anh và rất xin lỗi đã để anh phải đi xa như thế đến thăm tôi.
Trở về nhà sau khi gặp Ben, tôi cảm thấy kiệt sức. Những chuyện hẹn hò tìm hiểu, các trò chơi tâm lý yêu đương trai gái này dường như quá sức của tôi. Tuy thế, đâm lao phải theo lao. Tôi tiếp tục ép mình vào trò chơi quá sức này và làm những việc ngu ngốc mà tôi cũng không muốn kể lại. Vừa mệt mỏi, có lúc cảm thấy tuyệt vọng và chán ngán chuyện hẹn hò, tôi đồng thời ngấm ngầm hy vọng rằng trò chơi “cầm tay trong hầm tối” này rồi sẽ có lúc kết thúc và ở cuối đường hầm, tôi sẽ nắm tay ai đó bước ra trong ánh sáng chói lòa của hạnh phúc lần hai.
Chương 3
Phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí
Nhưng ánh sáng không thấy mà bóng tối thì ngày càng dày đặc. Giữa những chuyện hẹn hò miễn cưỡng trên, một việc khác đã ám ảnh tâm trí tôi từ tháng Bảy.
Sau khoảng nửa năm không nghe tin tức của Sơn, một buổi sáng, tôi nhận được điện thoại của Thu, một người em họ Sơn. Thu kể, một sáng sớm, Sơn đang ngủ thì nghe tiếng loạch xoạch vặn tay nắm cửa như có ai đó đang cố gắng đột nhập vào nhà. Khi anh mắt nhắm mắt mở ra mở cửa thì thấy một bóng người chạy vụt đi. Hồi mới chuyển vào đây, Sơn từng bị trộm vào nhà lấy gần hết đồ đạc nên Sơn nghĩ kẻ chạy đi đó là trộm (chuyện này tôi biết). Sơn đuổi theo, túm lấy người này. Người này ngã xuống đất, kêu cứu. Khi Sơn nhận ra đó là một cô gái, anh thả cô ta ra nhưng các bạn của cô này nghe tiếng kêu cứu đã chạy ra từ căn hộ gần đó, mang theo súng, gí vào đầu Sơn rồi gọi cảnh sát. Cảnh sát tới, còng tay Sơn và nhốt anh vào trại với tội danh “đánh người với mục đích cưỡng hiếp”. Họ cũng lục soát nhà, thu máy tính, điện thoại, ví tiền của Sơn. Sơn không liên lạc được với ai trong suốt hai tuần ở trại tạm giam vì không hề có tiền trong người để có thể gọi điện thoại mà cũng không nhớ số của ai.
Sau cùng, một bạn tù của Sơn nhờ người nhà tìm số điện thoại cơ quan Sơn để gọi tới. Đồng nghiệp của Sơn sau đó đến nhà Thu báo tin. Vụ việc của Sơn có thể nghiêm trọng vì cô bé kia hóa ra mới 17 tuổi; nghĩa là còn đang ở tuổi “vị thành niên”. Cô này đến nhà bạn chơi trong khu Sơn ở; cả đám thanh niên trẻ ra bể bơi và uống rượu suốt đêm; sau đó cô này từ bể đi về căn hộ của bạn lúc sáng sớm và có lẽ đã nhầm căn hộ của Sơn với căn hộ của bạn, vậy là cô ta loạch xoạch mở cửa và xảy ra chuyện, sắp tới, Sơn sẽ phải ra hầu phiên tòa bảo lãnh để xem Sơn có thể được bảo lãnh tại ngoại không hay phải ngồi tù trong thời gian chờ phiên xử chính thức, tức là có thể vài tháng hoặc cả năm.
“Nếu chị xuống làm chứng bảo lãnh được cho anh Sơn thì rất tốt” - Thu nói.
“Chị sẽ xuống” - tôi nói.
Chừng một tuần sau đó, một buổi chiều, tôi đang ở nhà thì chuông điện thoại đổ. Linh tính báo cho tôi: Sơn gọi. Tôi cầm máy lên thì một giọng nói điện tử nghèn nghẹt bảo tôi rằng tôi đang nhận một cuộc gọi từ trại giam hạt C; nếu tôi đồng ý trả tiền cuộc gọi thì ấn vào số “3.”
“Alo, anh đây” - Sơn cười - “Anh đang ở trong tù.”
Tiếng cười của Sơn vẫn thế. Tôi hỏi Sơn cuộc sống của anh thế nào. Sơn nói anh sống trong một căn phòng lớn với khoảng 50 bạn tù; hằng ngày phải dậy lúc 5 giờ sáng để điểm danh, rồi ăn sáng, xong thì chơi cả ngày, tối thì đi ngủ.
“Thế anh làm gì cả ngày?”
“Anh đánh cờ vua với đọc sách thôi, ở đây toàn đầu trâu mặt ngựa nhưng chúng nó cũng tốt; chúng nó thấy mình là trí thức thì chúng nó cũng tôn trọng; mà đến một nửa ở đây là bị bắt oan.”
“Thế có gì nguy hiểm cho anh không?”
“Chả có gì nguy hiểm cả. Anh đánh cờ vua suốt ngày.”
“Anh ăn uống thế nào?”
“Dĩ nhiên không bằng ở ngoài nhưng cũng ngày ba bữa tử tế.”
“Còn quần áo, tắm giặt vệ sinh thì sao?”
“Một tuần nó phát cho hai bộ quần áo; hằng ngày anh chỉ giặt cái quần đùi thôi; tắm giặt vệ sinh bình thường; nói chung sống cũng bình thường.”
Một ngày trước khi Sơn ra tòa, tôi bay từ San Jose xuống. Thu đón tôi ở sân bay rồi đưa tôi về nhà. Trong nhà, tôi gặp Trường, chồng của Thu, và một cặp vợ chồng nữa - Nam và Quyên. Cả bốn đều người miền Nam, rất tốt bụng, khảng khái, lớn tuổi hơn tôi nhưng cứ khăng khăng gọi tôi bằng “chị” vì họ gọi Sơn bằng anh. Trừ Thu, ba người kia đều sang Mỹ bằng đường biển trong những đợt di tản đầu thập kỷ 90 và từng sống trong các trại tị nạn ở Philippines trước khi tới Mỹ.
“Mình ở trong tù rồi nên mình biết” - Trường nói - “ở tù khổ lắm, cả ngày ngồi nhìn ra ngoài trời qua cái cửa sổ nhỏ xíu thế này này...”
Trường lấy ngón trỏ vẽ một ô vuông nhỏ trong không khí. Chúng tôi đang nói chuyện thì chuông điện thoại nhà đổ. Trường cầm máy.
“Chị Việt đang ở đây nè, nói chuyện với chỉ đi.”
Trường đưa máy cho tôi và cả bốn người lập tức đi sang phòng khác.
“Em vừa về đến đây” - tôi nói.
“Có mệt không?” - Sơn hỏi.
“Cũng bình thường. Anh thế nào?”
“Cũng bình thường, chỉ chờ mai ra tòa.”
“Anh cứ yên tâm, thế nào cũng được bảo lãnh ra thôi; bọn em có kế hoạch 1, 2, 3 cho các tình huống khác nhau rồi.”
“Ừ.”
Tôi không biết nói gì thêm nữa nên gọi bốn người trở lại phòng rồi đưa máy cho Nam. Nam cầm máy, cười lớn:
“Hello sư phụ. Sao rồi, sư phụ sống trong tù vui không? Vui thì hay ở luôn trong đó thêm thời gian nữa đi.”
“Sư phụ yên tâm đi, bọn này chuẩn bị ba cái nhà để đặt cọc bảo lãnh nếu cần đó. Kiểu gì mai cũng sẽ bail ra thôi.”
Sáng hôm sau, 7 giờ sáng chúng tôi ra khỏi nhà. Có thêm Quảng, một người bạn nữa của Sơn tới để làm chứng. Khoảng 8 giờ chúng tôi tới tòa án ở phía Bắc thành phố. Ở đây, chúng tôi gặp Bernie, luật sư của Sơn - một người đàn ông da trắng ngoài 50, cao, dáng đi dứt khoát. Phụ tá cho Bernie là Ron, một luật sư da trắng đã ngoài 40. Ron bắt tay chúng tôi.
Tôi sẽ ghi tên tất cả các bạn, đề phòng họ gọi tới. Hôm nay chắc không có gì nhiều, họ sẽ không bắt Sơn lên bục nhưng họ có thể sẽ gọi các bạn lên làm chứng.
Ron ghi tên của mấy người đàn ông trước, rồi tiến đến tôi:
“Tên chị là gì?”
Tôi đánh vần tên tôi.
“Chị là gì với Sơn?”
“Vợ cũ.”
“Ồ...” - Ron dừng lại, ngẩn người.
“Chị sống ở đâu?”
“San Jose, California.”
“Ồ” - Ron ngừng lại lần nữa - “Vậy là chị bay xuống đây à?”
“Vâng, tôi xuống chiều hôm qua.”
“Ồ” - Ron dừng lại lần thứ ba - “Thật là tốt khi chị xuống ủng hộ cho anh ấy.”
Tôi không ngạc nhiên trước phản ứng này của Ron. Brian, anh trai Kat, cũng phản ứng như vậy khi tôi gọi điện hỏi anh về vụ việc của Sơn hồi tháng Bảy. Brian là luật sư lâu năm. Anh kiên nhẫn nghe tôi kể chuyện và câu đầu tiên mà anh hỏi tôi sau khi nghe chuyện là:
“Em dính vào việc này làm gì? Sao em lại muốn tự gây khó khăn cho cuộc đời em vậy?”
Tôi nói rằng vì Sơn là chồng cũ của tôi.
“ Chồng cũ!” - Brian nói - “Em hãy nhớ đến chữ “cũ”. Anh ta không còn là trung tâm trong cuộc đời em nữa, tại sao em lại muốn mất thời gian và tiền bạc cho anh ta?”
“Anh ấy vẫn là bạn em. Em biết anh ấy không bao giờ làm chuyện đó.”
“Tùy em thôi, nhưng hãy cân nhắc cho kỹ.”
Sau 9 giờ, tòa bắt đầu. Người đàn ông mặc đồng phục ở góc phòng hô to:
“Tất cả đứng lên. Thẩm phán đã tới.”
Thẩm phán là một ông già da trắng, đầu trọc. Tôi đứng lên cùng cả phòng rồi ngồi xuống. Khi tôi ngẩng lên, Sơn đang được hai cảnh sát dẫn ra từ một cửa ngách nhỏ nằm khuất kín. Đây là lần đầu tôi nhìn thấy Sơn kể từ lúc anh rời Chicago cuối mùa xuân trước.
Sơn mặc bộ đồ tù màu da cam, hai tay bị còng, mỗi bên có một cảnh sát Mỹ cao lớn nắm vào khuỷu tay để áp giải. Trông anh gầy hơn so với lần cuối tôi gặp, da tái, tóc dài ra, râu lởm chởm. Tôi không nghĩ là tôi sẽ khóc khi nhìn thấy Sơn, nhưng tôi quả thật đã không chuẩn bị tinh thần để gặp lại Sơn như thế này sau ngày chia tay ở Chicago hơn một năm trước. Nước mắt tôi dâng lên không ngăn được.
Họ để Sơn ngồi cạnh Bernie và Ron. Tòa chính thức bắt đầu.
Thẩm phán gọi luật sư đại diện cho cô gái lên trước. Luật sư gọi viên cảnh sát đã tới hiện trường để còng tay Sơn vào sáng xảy ra sự việc. Đó là một người đàn ông da đen cao to, còn trẻ. Sau khi đặt tay lên quyển Kinh Thánh để thề sẽ chỉ nói sự thật, anh cảnh sát bắt đầu đọc lời khai mà anh ta đã chuẩn bị sẵn. Theo lời khai, cô gái 17 tuổi này đã đến chơi nhà bạn trong khu của Sơn. Họ đã bơi ngoài bể từ tối đến sáng; sau đó cô này đi về nhà bạn ngang qua cửa nhà Sơn thì Sơn từ trong nhà nhảy bổ ra, đè cô ta xuống, đấm cô ta bất tỉnh rồi cố gắng cởi áo cô ta. Cô gái kêu cứu, nên bạn cô ta từ trong nhà chạy ra, gí súng vào đầu Sơn bắt đứng yên và gọi cảnh sát đến bắt Sơn đi. Khi anh cảnh sát tới hiện trường, Sơn trong tình trạng cởi trần, chỉ mặc một cái quần cộc, loại mặc một lần rồi vứt đi. Anh ta nhấn mạnh điều này và đưa cho thẩm phán những bức ảnh mà cảnh sát chụp lúc đến bắt Sơn.
Cả phòng xử án rất ngạc nhiên về chi tiết Sơn cởi trần, mặc loại quần dùng một lần này. Tôi thì biết rõ, Sơn có thói quen dùng loại quần du lịch này vì có gần một năm ở Chicago, tuần nào Sơn cũng bay đi New Jersey làm việc vào sáng thứ Hai rồi bay về vào tối thứ Năm. Ở New Jersey, anh sống trong khách sạn do công ty đặt phòng. Sơn không muốn giặt đồ nên anh chuyển sang mặc loại quần này để bỏ đi hằng ngày. Lâu dần, nếu không muốn giặt đồ, Sơn thường mặc loại quần này cho sạch.
Viên cảnh sát nói xong, Ron và Bernie hỏi vài câu ngắn.
Cô gái này có mùi rượu vào lúc cảnh sát đến bắt Sơn hay không?
Cô ấy có “bất tỉnh” vào lúc cảnh sát đến hay không (vì cảnh sát nói Sơn đấm cô ta bất tỉnh để giở trò)?
Nếu cô ta “bất tỉnh” thì làm sao cô ta biết Sơn “cởi áo” cô ta?
Nếu bất tỉnh thì làm sao cô ta lại có thể đứng lên đi về nhà bạn?
Sau khi về nhà bạn thì cô gái làm gì? Có vẻ cô ấy tiếp tục vui vẻ đến sáng với bạn như không hề có chuyện gì nghiêm trọng xảy ra, có đúng không?
Những gì viên cảnh sát viết trong tờ khai (như cô gái đến nhà bạn uống rượu, đi về qua nhà Sơn, Sơn lao ra đấm cô ta, vân vân) là nghe lại từ người khác (cô gái, các bạn cô ta, hàng xóm) chứ bản thân anh ta không nhìn thấy, có đúng không?
Viên cảnh sát xác nhận đúng là các thông tin là do anh ta nghe lại từ người khác.
Sau khi viên cảnh sát xuống khỏi bục nhân chứng, Ron nói:
“Tôi muốn mời cô Việt lên bục nhân chứng.”
Tôi đi lên. Thư ký tòa yêu cầu tôi đặt tay lên Kinh Thánh để thề rằng tôi sẽ chỉ nói sự thật.
“Tên cô là gì?”
Tôi nói tên tôi.
“Quan hệ của cô với anh Sơn Nguyễn là gì?”
“Vợ cũ của Sơn Nguyễn.”
“Hai người kết hôn bao lâu?”
“Bảy năm.”
“Cô đang sống ở đâu?”
“San Jose, California.”
“Vì sao hôm nay cô tới đây?”
“Vì tôi muốn ủng hộ cho anh Sơn.”
“Vậy là cô bay từ tận California xuống đây để bày tỏ sự ủng hộ với Sơn Nguyễn?”
“Vâng.”
“Cô làm nghề gì?”
“Tôi là research assistant professor (2) ở trường đại học.”
“Cô làm việc ở đâu?”
“Đại học San Jose.”
“Cô có bằng tiến sĩ?”
“Vâng.”
“Trong lúc cô và Sơn chung sống, cô có được biết về bất kỳ vấn đề sức khỏe tâm thần nào của Sơn không?”
“Không.”
“Anh ta có bao giờ đánh đập hay có hành vi bạo lực làm tổn hại đến cô?”
“Không.”
“Cô có biết về việc anh Sơn có dùng bất kỳ loại thuốc nào không?”
“Không.”
“Nếu như anh Sơn được tại ngoại hôm nay, cô có nghĩ anh ta là một mối nguy hiểm cho xã hội không?”
“Không.”
“Anh Sơn làm nghề gì?”
“Kỹ sư tin học.”
“Cô có biết anh ta có bằng gì không?”
“Anh ấy có bằng cử nhân.”
“Hai người kết hôn ở đâu?”
“Chicago.”
“Hai người sống ở đâu?”
“Nhiều nơi, Chicago, Oregon, New Jersey, New Hampshire.”
“Vì sao Sơn chuyển tới thành phố này?”
“Vì công việc.”
“Sơn có người thân, gia đình ở đây không?”
“Anh ấy có em họ ở đây.”
“Cảm ơn cô, tôi không có câu hỏi nào khác nữa.”
Luật sư đại diện cho cô gái tiến tới tôi. Ông ta chắc nghe nhầm rằng chúng tôi ly hôn đã bảy năm rồi nên hỏi:
“Trong bảy năm qua kể từ lúc hai người ly hôn, Sơn có liên hệ với cô không?”
“Chúng tôi kết hôn bảy năm và chỉ ly thân từ năm ngoái, chính thức ly hôn vào năm nay.”
“À, ra thế. Như vậy là cô và Sơn vẫn còn kết hôn khi Sơn chuyển đến thành phố này?”
“Vâng.”
“Anh ta ở Mỹ theo diện visa nào?”
“Visa làm việc.”
“Gia đình anh ấy ở Việt Nam? Bố mẹ ở Việt Nam?”
“Vâng.”
“Anh ta có hộ chiếu không?”
“Có hộ chiếu Việt Nam.”
“Tôi không có câu hỏi nào nữa.”
Họ mời tôi về chỗ ngồi rồi gọi Trường lên. Ron lại hỏi một loạt các câu hỏi tương tự.
“Tên anh là gì?”
“Quan hệ của anh với Sơn Nguyễn là gì?”
“Anh làm nghề gì?”
“Nếu thẩm phán cho phép bảo lãnh Sơn Nguyễn ngày hôm nay, anh có sẵn sàng bỏ tiền hoặc thế chấp tài sản để bảo lãnh cho Sơn Nguyễn hay không?”
“Có, tôi sẽ thế chấp nhà tôi.”
“Anh có gia đình không?”
“Tôi có vợ và con gái 3 tuổi.”
“Anh và gia đình sống trong ngôi nhà này à?”
“Không, chúng tôi sống ở nhà khác. Tôi sở hữu ngôi nhà này cùng một người bạn.”
“Người bạn nào?”
“Anh ta ngồi kia.” - Trường chỉ Quảng.
Ron tiếp tục gọi Quảng lên và lại hỏi tên, công việc của Quảng.
“Anh làm nghề gì?”
“Tôi làm việc cho chính quyền liên bang.”
“Anh có đồng ý thế chấp căn nhà này để bảo lãnh cho Sơn Nguyễn nếu như thẩm phán đồng ý cho Sơn tại ngoại?”
“Tôi đồng ý.”
“Tôi không có câu hỏi nào khác, thưa thẩm phán. Tôi đề nghị khoản bảo lãnh đối với Sơn Nguyễn là 20 ngàn đô la.”
“Hai mươi ngàn thấp quá” - thẩm phán nói.
Ông ta nghĩ mấy giây rồi nói:
“Ba mươi lăm ngàn và anh ta phải để lại hộ chiếu.”
“Anh ta cũng không được phép đi đâu ra khỏi tiểu bang mà không đến xin phép cảnh sát.”
Thẩm phán đập búa xuống, kết thúc phiên xử. Chúng tôi lập tức đứng dậy ra ngoài vì họ đã gọi tên của vụ tiếp theo và cảnh sát cũng giải Sơn qua cửa ngách trở lại nhà tù. Bên ngoài, Bernie đi lấy giấy tờ còn Ron tiến về phía chúng tôi.
“Cảm ơn cô đã xuống làm chứng” - Ron bắt tay tôi - “Sự có mặt của cô giúp rất nhiều.”
Rồi anh ta nói với cả nhóm:
“Tôi còn một vụ nữa nên tôi không ở lâu được. Bernie sẽ giải thích cho các bạn về công việc tiếp theo. Chúng ta sẽ xuống dưới nhà nộp giấy tờ, đóng tiền bảo lãnh rồi đến nhà tù đón Sơn về. Giờ anh ấy ra rồi thì mọi việc sẽ dễ hơn nhiều.”
Bernie tiến tới chỗ chúng tôi với một xấp giấy tờ. Ông giải thích rằng mặc dù khoản bảo lãnh là 35 ngàn đô nhưng chúng tôi sẽ cần giấy xác nhận rằng ngôi nhà có giá trị gấp đôi. Vì ngôi nhà lại nằm ở hạt D chứ không phải ở hạt C này nên chúng tôi phải sang tòa án của hạt D để lấy giấy định giá căn nhà; họ sẽ để giấy định giá này trong một phong bì niêm kín, chúng tôi nhất định không được mở niêm phong mà phải mang phong bì đó đến nhà tù hạt C để bảo lãnh Sơn ra.
“Nếu các bạn nhanh chân thì các bạn vẫn có thể bảo lãnh anh ấy ra hôm nay.”
Bernie nói rồi quay sang cầm cả hai tay tôi.
“Cảm ơn cô đã xuống. Sự có mặt của cô giúp rất nhiều. Cô thật tốt bụng quá.”
“Phải cảm ơn ông mới đúng” - tôi nói - “Nếu tôi có thể giúp gì trong thời gian sau này thì cho tôi biết.”
Bernie đi khỏi, chúng tôi lập tức chia ra hai nhóm - hai người về nhà lấy hộ chiếu của Sơn; số còn lại thì đi đến tòa án hạt D để lấy giấy định giá nhà; và hẹn sẽ gặp lại ở nhà tù hạt C.
Phải đến 3 giờ chiều, mọi giấy tờ mới xong xuôi. Tất cả đều đói, mệt. Chưa ai ăn trưa. Nam và Trường chạy ra ngoài mua một ít đồ ăn nhanh và quần áo cho Sơn vì nghe nói họ sẽ lấy lại hết quần áo tù và cho Sơn mặc một bộ quần áo ni lông. Chúng tôi chờ từ 3 giờ, đến 4 giờ, 5 giờ, rồi 6 giờ mà vẫn không thấy Sơn. Khoảng 7 giờ tối, chúng tôi đang kẻ đứng người ngồi trong phòng chờ, cố gắng giục cô nhân viên ở đó gọi điện trở lại trại giam xem mọi việc đến đâu thì ai đó kêu lên:
“Ơ, anh Sơn kìa.”
Tất cả nhào ra cửa kính. Sơn đang đi lững thững ở con đường dốc bên ngoài tòa nhà, mặc một bộ quần áo ni lông màu xanh da trời. Trường, Nam, và Quảng nhào ra cửa, ôm chầm lấy Sơn. Tôi đứng ở xa, chỉ mỉm cười chào Sơn. Anh cũng mỉm cười, gật đầu chào tôi. Rồi mọi người đưa quần áo cho Sơn vào nhà vệ sinh thay. Khi anh mặc quần áo mới đi ra, chúng tôi quyết định đi ăn tối để chào mừng Sơn về nhà và bởi vì tất cả đều đói.
Trên xe và trong quán, Trường, Nam, Quảng, và Thu thi nhau hỏi chuyện Sơn và đùa. Tôi không nói gì, chỉ nghe mọi người nói chuyện.
“Anh Sơn à, bọn em bảo là từ giờ anh nói gì bọn em cũng phải nghe hết, hổng dám cãi lại đâu, nhỡ anh mà bỏ đi là cái nhà em nó xiết luôn đó.”
“Từ giờ sư phụ đi đóng sàn, rửa bát thêm để trả nợ đi nha.”
“Trời ơi, cái hôm thứ Bảy rồi Chủ nhật không thấy ảnh tới chơi tennis, bọn này nghĩ chắc ảnh chán bọn này rồi nên không tới nữa, hoặc không chừng ông này có bồ rồi... cái, tuần sau cũng không thấy, gọi điện thì không thấy thưa máy, nghĩ lạ ghê, cái, tối hôm đó một ông Ấn Độ ở cùng công ty đến bấm chuông cửa báo tin, cả hội rụng rời chân tay luôn... Giờ cứ nghe ai bấm chuông cửa là sợ.”
Sơn nói:
“Đúng là có vào tù rồi mới thấy sống tự do bên ngoài là sướng. Hôm nay lúc chúng nó vào gọi mình sắp xếp quần áo để ra, cả phòng giam chúng nó vỗ tay ầm ầm, lại còn dặn là ra bên ngoài thì sống đàng hoàng tử tế để khỏi quay lại.”
“Công nhận bọn tù ở ngoài không biết thế nào chứ vào trong đấy đứa nào cũng rất tử tế, răm rắp tuân thủ kỷ luật, quét dọn sạch sẽ, giúp nhau đâu ra đấy... Mình suốt ngày chỉ có đánh cờ với tập thể dục với chúng nó.”
“Thế có người châu Á nào khác trong đấy ngoài anh không?”
“Có mỗi một thằng người Lào, vài đứa Mỹ trắng, còn toàn da đen. Có thằng trẻ ơi là trẻ mà đã năm con rồi, mình hỏi nó, mày năm con thì nuôi thế nào, nó bảo tao bán ma túy. Mà bọn nó rất là đàng hoàng... ví dụ ăn ngày ba bữa, thường bữa nào cũng có sữa, bánh, thức ăn, bọn trong phòng chúng nó cứ đổi nhau, có thằng muốn ăn bánh mà không thích uống sữa thì chúng nó hô: “Đổi sữa lấy bánh đây”; nhiều thằng nó vay mình cái này cái khác mình cũng chẳng nhớ nó là thằng nào, tự nhiên mấy hôm sau thấy nó mang đến trả, bảo là nó nợ mình hôm trước. Rất đàng hoàng.”
“Thế ngoài đánh cờ thì anh làm gì nữa?”
“Tập chống đẩy. Bọn đấy chúng nó khỏe lắm... vừa bò lên cầu thang vừa chống đẩy mà có thằng nó làm được hai ngàn cái.”
Sau bữa ăn, chúng tôi về nhà. Thu đã mua một ít vàng mã ở siêu thị. Trước khi Sơn vào nhà, Thu và Trường đốt chỗ vàng mã thành một đống lửa nhỏ trên lối đi, rồi lấy một đụn lửa hơ quanh người Sơn và bắt Sơn nhảy qua đống lửa ba lần mới được vào nhà.
“Phải đốt phong long xả xui cho ổng” - Thu nói.
Trong nhà, chúng tôi luộc trứng vịt lộn ăn rồi tán gẫu. Sơn cảm ơn mọi người đã giúp bảo lãnh anh ra. Trong lúc đùa, ai đó nói với Sơn và tôi:
“Trời ơi, sau vụ này về thì làm đám cưới lại đi nha.”
Tôi chỉ cười, không nói gì. Sơn cũng cười. Từ lúc gặp lại, chúng tôi chưa nói với nhau câu nào.

Cả ngày dài quá mệt nên tôi xin phép đi ngủ sớm. Tôi chỉ đặt mình xuống giường là thiếp đi. Nhưng trước khi thiếp đi, tôi vẫn kịp nghe tiếng Sơn cười lớn dưới nhà. Tiếng cười rất quen. Quá quen. Tôi nghĩ đến những năm tháng chúng tôi đã sống với nhau, những lúc chúng tôi đã cười như thế và đã hạnh phúc rất nhiều, hạnh phúc vô cùng - như thể trên thế giới không ai có thể chia sẻ cái bí mật về một thứ hạnh phúc không thuộc về thế gian này của chúng tôi.
Thật sự, sẽ dễ dàng biết bao nếu chúng tôi quay lại.
Chương 4
Tan nát
Nhưng rút cục chỉ có mình tôi quay lại San Jose ngày hôm sau.
Chuyến bay của tôi vào buổi chiều nên buổi sáng Sơn và Thu đưa tôi vào downtown chơi rồi đi ăn phở ở một quán Việt Nam. Tôi và Sơn hầu như không nói chuyện trực tiếp với nhau. Trong lúc ăn trưa, Sơn nói:
“Ở trong tù, nhiều thằng thèm thức ăn, có thằng bảo lúc nào ra tù tao sẽ ăn liền một lúc hai mươi cái cánh gà nướng, có thằng bảo tao sẽ đi ăn thịt bò bít tết. Có thằng đêm nào cũng mơ đi ăn món gì, món gì, sáng dậy ngồi kể cho thằng khác thèm.”
“Thế anh có muốn ăn gì không?” - tôi hỏi.
“Không, người như anh thì cần gì” - Sơn cười - “có thì ăn, không có không ăn.”
“Hay là lại mơ thấy thịt bò với tôm hùm bơi qua, rồi tưởng nó là kẻ trộm nên đuổi theo vật xuống đất?” - tôi nói.
Sơn phá lên cười. Anh luôn hiểu sự hài hước của tôi, cũng như tôi luôn hiểu sự hài hước báng bổ của anh.
Buổi chiều, Thu thả Sơn và tôi ở sân bay, nói rằng sẽ quay lại đón Sơn sau. Khi lái xe đi, Thu nói với tôi: “Thôi, giờ gửi anh Sơn lại cho chị nha”. Tôi biết các bạn của Sơn đều hy vọng chúng tôi sẽ quay lại.
Sơn và tôi đi bộ vào trong sân bay và ngồi xuống ở khu chờ. Câu chuyện bắt đầu chậm rãi. Sơn hỏi công việc của tôi thế nào, cuộc sống ở San Jose có tốt không, các đồng nghiệp có tốt với tôi không. Tôi nói mọi việc bình thường, San Jose cũng vui, đồng nghiệp đều tốt với tôi cả. Tôi lại hỏi Sơn công việc của anh thế nào, đồng nghiệp ra sao, anh có thường xuyên đến chơi nhà Thu không. Sơn nói mọi việc cũng tốt cả.
Thế rồi, chẳng có gì để nói nữa, hai chúng tôi im lặng. Sự thật là có quá nhiều thứ để nói nhưng chẳng biết bắt đầu từ đâu và có nên nói hay không, có cần phải nói nữa không. Tôi không biết Sơn cảm thấy thế nào; tôi thì chưa bao giờ ý thức rõ ràng đến thế về từng khoảnh khắc trôi qua. Trôi qua một cách phí phạm chỉ vì chúng tôi không ai có thể mở lời nói điều gì.
Sơn đi vào nhà vệ sinh. Rồi đến lượt tôi đi vào nhà vệ sinh. Tôi ngồi trên bồn vệ sinh, đầu cúi xuống. Thế giới đè nặng trên vai. Khi đi ra, tôi không muốn để phí thời gian nữa.
“Anh có thắc mắc gì về chuyện ly dị không?” - tôi nói.
Sơn cười khẽ.
“Thực ra thì cũng chẳng có thắc mắc gì cả” - Sơn nói - “Sống với nhau mà không thấy thoải mái nữa thì ly dị thôi chứ làm thế nào.”
Sơn chỉ nói thế và cũng không giải thích gì thêm; nhưng sau đó, anh bỏ kính ra và bắt đầu dụi mắt rất lâu. Tôi không biết Sơn khóc hay anh chỉ dụi mắt. Mắt tôi lúc đó ngân ngấn nước nhưng tôi không để nước mắt chảy ra mà cũng không để Sơn nhìn thấy.
Chúng tôi lại im lặng. Sơn lại hỏi tôi các đồng nghiệp của tôi ở San Jose thế nào, có tốt với tôi không. Tôi nói họ cũng thân thiện, vui vẻ, nói chung là tốt.
“Cố gắng ổn định rồi xem có ai phù hợp thì lấy đi” - Sơn nói.
Tôi không nói gì.
“Thế anh đã có ai chưa?”
“Làm gì có ai.” - Sơn cười - “Ngày thì đi làm suốt, chỉ có chơi với mấy đứa này thì chúng nó cũng toàn vợ con hết rồi.”
Chúng tôi lại im lặng. Một lúc sau, Sơn lại hỏi tôi:
“Thế em thế nào?”
“Cũng chưa có ai cả.”
“Ổn định một thời gian rồi xem có ai phù hợp thì lấy đi” - Sơn nói.
Lần thứ hai Sơn nói câu đó. Anh nói với tất cả sự tử tế và thân thiện. Tôi không nói gì. Thực sự không thể mở miệng nói gì. Than ôi, trời đất vô tình, coi vạn vật như chó rơm. Tôi chỉ có thể ngồi đó nghe với tất cả sự tử tế và thân thiện.
Sau đó, không ai nói gì.
Cũng đã đến giờ. Tôi nói tôi nên vào trong. Sơn đưa tôi tới cửa kiểm tra an ninh. Tôi không thể nhìn vào mặt Sơn; anh cũng không nhìn vào mặt tôi. Tôi phải cố gắng lắm mới không khóc. Sơn nói:
“Em giữ gìn sức khỏe nhé, có gì thì liên lạc.”
“OK, có gì em sẽ email. Bye anh.”
Mắt của chúng tôi chỉ gặp nhau trong giây lát khi tôi quay người đi. Tôi chỉ vừa quay lưng lại là nước mắt ào ạt tuôn ra. Tôi đã khóc khi đi qua cửa kiểm tra an ninh, nước mắt ròng ròng trên má khiến anh nhân viên an ninh hết sức bối rối. Tôi khóc trong lúc chờ máy bay. Khóc suốt chuyến bay. Tôi kéo mũ len xuống kín mặt giả vờ ngủ, để cô tiếp viên không quấy rầy. Khi tôi xuống đến San Jose, cái mũ len ướt sũng nước mắt.
Sự thật là Sơn vẫn rất quen thuộc với tôi, vẫn là một cái gì đó tôi hiểu rất rõ. Một phần trong tôi nghĩ, sẽ dễ dàng biết bao nếu chúng tôi quay lại với nhau. Và tôi biết cánh cửa đó hoàn toàn để ngỏ - chỉ cần tôi đưa tay ra. Nhưng còn một phần khác trong tôi thì như một đứa trẻ từng bị bỏng nặng nên không còn có thể nghĩ đến chuyện lại gần đống lửa.
Máy bay xuống San Jose lúc nửa đêm. Tôi kéo mũ sụp xuống mắt rồi lên taxi về nhà. Thành phố về khuya im ắng, nhòe nhoẹt vài đốm đèn đường. Cả trời đất là một khối tan nát, không thể an ủi. Tất cả những gì tôi muốn bây giờ là đi tới một bãi biển thật xa, thật xanh, mênh mông cát trắng, và sẽ có một ai đó mà tôi có thể hoàn toàn tin cậy cho tôi tựa đầu vào ngực mà nghỉ ngơi một chút khỏi cuộc đời đã muốn thử thách tôi quá nhiều này.
Chương 5
Gặp ma
Nhưng không có bờ biển xanh mênh mông cát trắng nào, cũng không có người đàn ông đáng tin nào. Trái lại, một buổi tối, một vị khách bất ngờ ghé thăm tôi.
Khoảng sau nửa đêm, đang ngủ, tôi đột nhiên tỉnh lại. Không mở mắt, tôi chỉ dần dần định thần xem tại sao mình tỉnh lại thì một âm thanh lọt vào tai tôi. Đó là tiếng hít vào thở ra đều đều như tiếng thở của một người bị hen suyễn ở bên trái tôi, cách chừng ba mét. Hít vào, thở ra, hít vào, thở ra...
“Chắc tiếng máy điều hòa hoặc tủ lạnh” - tôi nghĩ. Nhưng không phải. Đây là tiếng thở. “Hay là tiếng thở của chính mình mà mình không biết?” - tôi nghĩ. Nhưng rõ ràng không phải. Hay là tôi mơ? Không, tôi không mơ. Tiếng thở vẫn đều đều và rõ ràng. Hít vào, thở ra, hít vào, thở ra. “Ma à?” - tôi nghĩ.
Alas, không thể hình dung được nỗi sợ hãi của tôi khi chữ ”ma” trồi lên trong đầu.
Tôi tiếp tục nằm im bất động, mắt không mở, vờ như vẫn ngủ. Tiếng thở vẫn tiếp tục đều đều, lớn, hơi khò khè.
Không phải tiếng thở của một người. Nhưng cũng không hẳn là một con thú - hoặc nếu là một con thú thì phải là một con thú rất lớn. Linh tính hay cái gì đó ngầm mách tôi rằng thứ đang thở đó là một sinh vật lớn, lông lá hoặc có bờm, nửa người nửa thú, màu đen.
Mặc dù hết sức kinh sợ nhưng lý trí và sự tôi luyện trong khoa học lập tức ra sức trấn an tôi: “Không thể nào có chuyện ma quỷ được. Nhất định phải có lời giải thích cho việc này”. Tôi bắt đầu điểm trong đầu tất cả các cách giải thích có thể có: một là tôi mơ; hai là tôi bị ảo thanh; ba là chính tôi thở nhưng do cách cấu tạo của căn phòng này mà tiếng thở của tôi lại dội ra chỗ đó; bốn là có con mèo hay... chuột khổng lồ nào đi lạc vào; năm là... Từng giải thích nổi lên và lần lượt, lý trí của tôi bác bỏ từng giải thích.
Trong lúc đó, tiếng thở vẫn tiếp tục, hướng về phía tôi.
Không có cách nào khác là phải mở mắt ra nhìn xem cái đang thở đó là gì. Vậy là tôi he hé mắt nhìn ra trong lúc vẫn nằm im. Tuyệt nhiên không có gì ngoài một khoảng trống đen kịt ở phía đó, nơi tiếng thở tiếp tục vọng ra. Trong đầu tôi lúc này không hiểu sao có một hình dung rõ ràng rằng thứ đang thở ở đó - cái sinh vật nửa người nửa thú lông lá màu đen và to lớn đó - đang nhìn tôi nhưng nó không muốn hại tôi và cũng sẽ không thể hại được tôi chừng nào tôi còn giữ được đầu mình tỉnh táo. Nhưng nó đang nhìn tôi, trông chừng. Vậy là tôi nhắm mắt lại, càng thêm tê cứng vì sợ.
Mình đang gặp ma. Hoặc là gặp quỷ Satan.
Nếu cứ tiếp tục thế này, tôi sẽ đứt dây thần kinh hoặc vỡ tim mà chết. Mặt khác, cùng với sợ hãi, sự bướng bỉnh cố hữu và bản năng sống của tôi bắt đầu nổi lên. Khi tôi còn nhỏ và sống ở thị xã Bắc Giang với bố mẹ và chị gái, nhà tôi ở trong khu tập thể của thư viện tỉnh. Những ngày đó, mỗi tuần chỉ ba buổi tối có điện và cũng chỉ được mấy tiếng. Từ nhà tôi ra nhà vệ sinh chung của khu tập thể phải đi qua một dãy chuồng lợn ngập phân và một con đường nhỏ ven một cái ao um tùm cúc tần cùng với rất nhiều tre. Mùa nào, trời cũng tối đen như mực; riêng vào mùa hè thì đom đóm lập lòe, cành tre kẽo kẹt, cú mèo, chão chuộc rền rĩ; mỗi lần đi ra nhà vệ sinh vào buổi tối trước khi đi ngủ là một cuộc tra tấn thần kinh. Chị gái tôi không bao giờ dám đi một mình. Tôi thì hay tự bảo mình theo kiểu sĩ diện trẻ con, “chả nhẽ mình lại nhát thế?” nên tôi thường cầm đèn mà tự đi một mình. Mỗi lúc như thế, mặc dù bên ngoài tôi có vẻ can đảm đường hoàng lắm, nhưng bên trong, cả người tôi đã đông cứng lại thành một khối cảnh giác cao độ, chỉ chực co chân bỏ chạy nếu có gì xảy ra. Về sau này, cái sĩ diện trẻ con đó luôn là động lực khiến tôi làm những việc mà người khác không làm hoặc những việc mà tôi tự nghi ngờ không biết mình có làm được không. Càng nghĩ mình không thể làm được, tôi lại càng làm cho bằng được.
Buổi tối đó, cũng lại chính cái sĩ diện và/hoặc dũng cảm này đã cứu tôi. Vừa cùng cực sợ hãi, vừa cương quyết không để mình chết vì sợ, tôi quyết định phải hành động và phải thử xem có thật là có cái gì ở đó không. Vậy là tôi trở mình, mở mắt he hé và cầm một cái gối ném về phía có tiếng thở.
Tiếng thở dừng lại.
Tôi nhắm mắt lại, vờ ngủ tiếp trong khi thực tế là toàn thân đã co cả vào tai để lắng nghe.
Xung quanh chỉ có im lặng.
Khi tôi bắt đầu yên trí rằng có lẽ tôi chỉ vừa có một giấc mơ hay hoang tưởng nào đó thì tiếng thở lại nổi lên... lần này ở phía bên kia. Tiếng thở lần này ở xa hơn một chút. Như thể cái vật ở đó muốn đứng xa tôi hơn để đề phòng tôi sẽ ném gối hoặc cái gì đó mạnh hơn.
Thế này thì không phải mơ rồi.
Ma.
Sự sợ hãi của tôi đã lên đến đỉnh điểm. Cả thế giới chỉ còn là một khoảng không đen đặc mà trong đó tôi một mình đối đầu với một con quái thú gớm ghiếc mà tôi không biết mặt và không biết nó sẽ tấn công tôi từ phía nào. Tôi không theo đạo Phật, không theo đạo Thiên Chúa, không theo bất cứ đạo nào, nên không có thánh thần nào mà tôi có thể cầu cứu vào lúc này, thậm chí không thể gọi ông bà tổ tiên phù hộ. Làm thế nào đây khi mà lần đầu tiên tôi ý thức rằng mình quá nhỏ bé trước đối thủ?
Vào giờ phút đó, khi tất cả kiến thức khoa học đều đã ra ngoài cửa sổ, đột nhiên trong đầu tôi nảy ra ý nghĩ: tôi sẽ phải cầu đến Quán Âm Bồ Tát bởi vì khi tôi còn bé, mẹ tôi có lần lấy tử vi cho tôi và tử vi nói rằng người độ mạng cho tôi là Quán Âm Bồ Tát. Tôi lại nhớ ra từ phim Tây du ký rằng thần chú của Bồ Tát Quán Âm là “Ôm ma ni bát mê hồng” và nó có khả năng hàng phục tất cả yêu quái đã cản trở Đường Tăng trên đường đi.
Vậy là tôi bắt đầu niệm trong đầu “Ôm ma ni bát mê hồng”; vừa niệm vừa băn khoăn không biết mình niệm có đúng không; phải niệm tiếng Việt hay tiếng Tây thì mới hiệu nghiệm. Nhưng tôi rất thành tâm niệm, với ý nghĩ sắt đá rằng bất kể cái thứ đang thở kia là gì thì nhất định tôi không thể chết về tay nó. Tôi tưởng tượng những câu thần chú dựng thành một bức tường bảo vệ tôi, không cho con quái thú đến gần. Tôi còn niệm thì nó sẽ không thể đến gần.
Một lúc nào đó, tôi thiếp đi vì sợ hãi và căng thẳng.
Chương 6
Một thế giới khác
Khi tôi mở mắt vào sáng hôm sau, thế giới đã hoàn toàn thay đổi. Tất cả chỉ vì hai từ mà tôi không sao gạt được khỏi đầu: có ma.
Qua một đêm, căn phòng tôi ở và mọi căn phòng trên đời không còn như cũ. “Mình không một mình” - cảm giác rờn rợn khiến sống lưng tôi lạnh toát. Các góc phòng đã biến thành những miệng vực vô đáy, mọi khoảng tối đều trở thành những hang ổ, những bóng mờ của đèn tường biến thành những hình thù quái dị. Tôi bật hết điện, mở tất cả rèm cửa mà căn phòng vẫn không đủ sáng. Đầu tôi căng ra trong lúc đi mấy bước chân về phía nhà tắm lúc này còn tối. Có thể có ai đó đang nấp bên trong. Tôi đẩy cửa, thò tay gạt tất cả công tắc điện trên tường rồi mới dám bước vào. Bên trong, tôi ngồi xuống bồn cầu nhưng không thể đóng cửa lại. Tôi chờ một cái gì đó nhảy xổ ra, hiện nguyên hình cho tôi nhìn thấy, và tôi sẽ vỡ tim mà chết ngay tại chỗ.
Vội vội vàng vàng đi tiểu, tôi đứng dậy rửa tay trong bồn. Người nhìn tôi trong gương là một người khác. Đôi mắt hoang mang, vô hồn này? Hai điểm sáng trong trong đang nhìn thẳng vào tôi này... Ai đấy? Ai đang nhìn đây? Và còn những ai đang nhìn nữa? Những đôi mắt nào nữa? Ai cũng đang soi gương? Nếu tôi tiếp tục nhìn vào gương như bây giờ, rất có thể một khuôn mặt sẽ hiện ra sau lưng tôi, và tôi cũng sẽ vỡ tim chết ngay tại chỗ. Alas!
Tôi với tay ra sau bật quạt thông gió để tiếng quạt có thể che lấp bất cứ tiếng động khả nghi nào. Tôi cúi đầu vốc nước trong bồn lên rửa mặt. Sống lưng tôi lạnh toát. Từ gáy đến xương cụt là một cột khí lạnh mà tôi có mặc thêm tất cả áo khoác trên đời cũng không thể ấm lên. Vẫn cúi xuống rửa mặt, khóe mắt tôi bắt gặp rèm che bồn tắm. Hình như có ai nấp sau rèm... Có thể có ai đó đang nín thở đứng sau rèm... Nếu tôi kéo rèm ra tắm...
“Thôi không tắm nữa” - tôi nghĩ. “Mình vừa tắm tối hôm qua”. Tôi vừa biện minh che lấp nỗi sợ vừa lập tức biết rằng nếu tôi không tắm sáng nay thì tối nay tôi càng không thể tắm; sáng ngày mai tôi cũng sẽ không tắm; và chiều mai tôi cũng sẽ không tắm. Nếu tôi thua lúc này, tôi sẽ không còn cơ hội nào.
Phải tắm - tôi quyết định - Phải làm tất cả mọi việc vẫn làm hằng ngày như bình thường.
Tôi kéo tung rèm ra, bỏ quần áo, bước vào bồn tắm và vặn mạnh vòi hoa sen. Tôi dứt khoát đưa đầu xuống dưới vòi hoa sen, hai tay bận rộn xoa dầu gội. Nước tuôn xuống đỉnh đầu, hòa lẫn với xà phòng, vòng ra hai bên mặt, tràn vào khóe mắt. Tôi nhắm mắt lại. Alas, bây giờ, cuộc chiến mới bắt đầu.
Than ôi, bạn phải từng ngồi trong nhà xác bệnh viện suốt đêm, hoặc từng một mình trong phòng quản quan tài, hoặc ở ngoài bãi tha ma, hoặc từng có ác mộng đi lạc trong hang tối, hoặc từng bị bóng đè, hoặc từng lạc trong núi ban đêm, hoặc đang bơi mà bị chuột rút, hoặc bị ai đó trùm chăn đè xuống, hoặc đang bơi ngoài biển mà cảm giác một cái vòi dài vừa vờn qua chân... thì bạn mới hình dung được sự sợ hãi của tôi.
Nước vẫn xối xuống, tay vẫn đang xoa xà phòng, tôi đang đứng trong nhà tắm mà tôi thấy tất cả thế giới đã biến mất. Tôi đang một mình giữa một nghĩa địa trải tới vô tận, xung quanh không bóng người, không một tia sáng. Cả vũ trụ là một nghĩa địa khổng lồ chỉ có bóng tối dày đặc và ẩn trong bóng tối đó là hàng ngàn hàng vạn những quái vật nửa người nửa thú, những con quỷ lông lá, những con ma chuẩn bị bất thần hiện ra cho tôi thấy rõ những răng nanh trắng, mắt thao láo, miệng đỏ máu, móng chân móng tay gớm ghiếc. Chúng đã sẵn sàng giết chết tôi và có thể nhào vào tôi bất cứ lúc nào. Chúng chỉ đang quan sát tôi như mèo vờn chuột... Từ bên trái... Từ bên phải... Từ phía trước... Từ phía sau... Từ phía trên... Từ phía dưới... Tôi có thể nghe thấy tiếng cười ghê rợn của tất cả chúng... Tiếng cười rền trong không trung vô tận như tiếng sấm rền, đầy khí lạnh chết chóc...
Ha ha ha ha... Há há há há...
“Chỉ là tưởng tượng, chỉ là tưởng tượng” - tôi cổ nói với mình, tay vẫn xoa xà phòng. Vô ích. Bóng tối tiếp tục dày thêm, lan rộng ra, đồng thời khép chặt lại quanh tôi... Đầu óc tôi lại tự động nhớ lại tiếng thở đêm qua. Hít vào, thở ra, hít vào, thở ra... Những bàn tay và con mắt thao láo đang vươn về tôi... Gần thêm, gần thêm, gần thêm...
“Chỉ là tưởng tượng. Chỉ có trong đầu...” - tôi lại tự trấn an - “Hãy nghĩ đến cái gì khác. Hãy nghĩ đến cái gì vui. Đến một cảnh vui, một chuyện vui...”. Tôi bắt đầu nghĩ đến các dự án đang làm, nghĩ đến sách đang viết, sách đang đọc, nghĩ đến bố mẹ, rồi bạn bè, rồi nghĩ đến những người mạnh mẽ nhất hay người tốt nhất mà tôi biết.
Vô ích. Không ai có thể cứu tôi lúc này. Tôi chỉ một mình. Bóng tối vẫn dày đặc. Những con mắt tiếp tục nhìn. Tiếng thở vẫn lẩn quất. Vòng vây đang siết dần, gần hơn, gần hơn, sắp chạm tới tôi...
Hai tay vuốt vội xà phòng và nước khỏi mặt, tôi mở bừng mắt, thở dốc. Oh my God, oh my God! Tim tôi đập thình thịch trong ngực. Tay tôi túm vào rèm, kéo ra một nửa. Một tay tiếp tục vuốt nước khỏi mắt, một tay kia tôi quờ quạng với cái khăn tắm lớn lau mặt. Mặc kệ đầu chưa gội xong. Mặc kệ còn xà phòng. Tôi đã sẵn sàng nhảy ra khỏi nhà tắm, mở tung cửa, chạy ra phòng ngoài...
Nhưng tôi không nhảy ra.
Nếu tôi ra khỏi nhà tắm vào lúc này, “nó” sẽ thấy. “Nó” sẽ biết tôi sợ hãi thế nào và tôi sẽ không bao giờ quay lại được đây cũng như không thể đi bất cứ đâu khác. Nghĩa là cuộc đời tôi chấm dứt. Vĩnh viễn để “nó” khống chế. Phải tiếp tục gội đầu và tắm. Phải tiếp tục như không có chuyện gì xảy ra.
Lấy hết can đảm trong lúc tim vẫn đập như nổ tung trong lồng ngực và sống lưng lạnh toát, tôi lấy khăn lau sạch nước khỏi mặt rồi lại tiến tới vòi hoa sen. Có điều, tôi không thể tiếp tục cúi đầu nhắm mắt nữa. Lòng dũng cảm chỉ đủ để giữ được hai chân tôi trong bồn tắm chứ không thể giúp tôi nhắm mắt lại. Vậy là tôi xoay người, ngửa đầu ra sau để cho nước xối xuôi. Những tia nước li ti từ vòi hoa sen bắn vào mắt cay rát nhưng tôi tiếp tục chịu đựng để không phải nhắm mắt. Tôi gãi thật mạnh và nhanh cho hết xà phòng, xả nước sạch đầu rồi chỉ tắm qua loa là ra khỏi bồn tắm. Lại vội vàng sấy khô tóc, mặc quần áo, tôi lấy ba lô ra khỏi nhà với hy vọng rằng ánh sáng và đường phố bên ngoài sẽ kéo tôi tỉnh khỏi cơn ác mộng hãi hùng này.
Bên ngoài hóa ra cũng chẳng khá hơn. Còn sớm nên đường phố vắng. Ngoài mấy quán cà phê mở sớm, các hàng ăn vẫn còn tối đèn, bàn ghế úp ngược; các tòa nhà chưa sáng đèn; garage ô tô trống trải, toang hoác. Góc nào tôi nhìn cũng đầy những bóng dáng lẩn quất. Ở góc đường số 4, tôi đứng lại chờ đèn đỏ mà có cảm giác lũ lượt sinh linh vô hình cũng đang đứng chờ và họ cũng băng qua đường khi tôi băng qua.
Mở cửa tòa nhà đi vào, tôi gặp ngay hành lang dài và tối lúc này không có ai. Tôi vội vã lên cầu thang, mở cửa đi vào văn phòng khoa.
“Chào buổi sáng, Việt” - bà thư ký khoa chào tôi - “Cô khỏe không?”
“Tôi khỏe. Bà khỏe không?”
“Ồ, tôi cảm thấy tuyệt vời, tuyệt vời” - bà thư ký cười toe toét.
“Mình sẵn sàng đánh đổi bất cứ cái gì để có được cảm giác vô tư của bà ấy”. Tôi đứng lại tán gẫu với bà ấy một lúc, cố gắng vớt lấy sự vui vẻ từ bà. Nhưng rồi cũng đến lúc phải về phòng làm việc ở cuối hành lang. Vào đến phòng, ngồi xuống, tất cả những gì xảy ra hôm qua lập tức ập trở lại mồn một. Thế giới lại biến mất. Tôi lại một mình trong bóng tối cùng với tiếng thở... Hít vào, thở ra, hít vào, thở ra...
Mình không hề mơ. Chắc chắn mình không mơ. Đầu óc mình lúc đó hoàn toàn tỉnh táo, sáng suốt.
Tức là mình đã gặp ma.
Ma.
Ma.
Vì sao?
Sao đi theo tôi? Đi theo bao lâu rồi? Có bao nhiêu “con”?
Chúng định làm gì tôi?
Định “bắt” tôi và cũng sẽ làm cho tôi điên loạn như trong những câu chuyện mà tôi được nghe về những người bị ma bắt, vong ám, vong hành, vân vân? Định hại tôi chết?
Hay đấy là vong linh ông bà tổ tiên nào đó “hợp” với tôi nên đi theo che chở hoặc nhắn nhủ tôi điều gì? Mẹ tôi nhiều lần kể với chị em tôi rằng khi mẹ tôi còn bé, mẹ mấy lần nhìn thấy ông nội quá cố đứng đầu giường bảo mẹ rằng có một hũ tiền ở dưới chân giường; đến khi bà tôi đào lên thì quả nhiên có một lọ tiền cổ. Mẹ lại còn kể rằng, mẹ chửa tôi lúc đang sống ở khu tập thể thư viện Bắc Giang và, rất nhiều lần, trong lúc ngủ, mẹ đột nhiên mở mắt thì thấy một nhà sư mặc áo nâu rất hiền đứng ở đầu giường. Nhiều lần như vậy, mẹ hỏi thì những bà cụ xung quanh nói rằng thư viện vốn xây trên nền một ngôi chùa cổ đã bị phá hồi chống Pháp.
Hay là “tiền duyên” của tôi hoặc của những người tôi từng quen biết, do ghen tuông mà đi theo tôi, như thỉnh thoảng tôi vẫn nghe câu chuyện người này người kia không lấy được chồng được vợ phải đi “cắt tiền duyên”? Hay có ai đó là tiền duyên của tôi hoặc Sơn đi theo tôi nhỉ? Hay chính “nó” phá tôi và Sơn khiến chúng tôi phải ly hôn và gặp đủ thứ rắc rối?
Hay đây là linh hồn của một ai đó vốn sống ở căn nhà hoặc tòa nhà tôi ở rồi bị chết trẻ hoặc chết oan nên giờ ám những người sống ở đây, giống câu chuyện những ngôi nhà ma?
Hay là...?
Hay là...?
Alas, từ bé đến giờ, tôi chưa từng rơi vào tình trạng sợ hãi kinh khủng như vậy. Những đau khổ lúc ly hôn bỗng trở thành trò trẻ con. Than ôi, giá mà thế giới có thể trở lại như cũ, khi chỉ bao gồm những thứ tôi có thể nhìn thấy, sờ thấy, ngửi thấy, nghe thấy bằng xương bằng thịt chứ không mở ra mênh mông, vô tận, vô đáy, tối đen ma mị hắc ám thế này...
Cái duy nhất giúp tôi lúc này cũng lại là sự kiên định/ bướng bỉnh cố hữu.
“Nhất định phải có cách giải thích logic cho việc này, phải có câu trả lời” - tôi nghĩ.
“Nhất định là dù thế nào thì mình cũng sẽ không để ‘nó’ thắng và hại mình được” - tôi nghĩ.
Nhất định phải có cách ra khỏi cái này.
Nhất định không thể chết về tay “nó.”
Chương 7
Có bệnh thì vái tứ phương
Mùa đông đó là mùa đông kinh khủng nhất từ khi tôi bắt đầu có trí nhớ. Thời gian như một bánh xe hoen gỉ nặng nề lún sâu trên đường đất lầy lội. Chầm chậm, tôi đếm từng ngày giá lạnh. Tháng Mười một. Lễ Tạ ơn. Tháng Mười hai. Rồi năm mới. Tuy thế, lần này, thời gian không hề có cái diệu dụng mọi khi là xóa mờ ký ức về những việc không vui. Tôi vẫn đi làm bình thường, vẫn cười nói và làm mọi việc nhưng lòng tôi là một địa ngục toang hoác. Không gì có thể khiến tôi quên được tiếng thở của đêm đó. Bóng tối xuống lúc chiều là một bản án. Việc tắm rửa hằng ngày chính thức trở thành cực hình. Tôi chuyển hẳn sang tắm buổi sáng và lúc nào cũng phải mở mắt khi tắm.
Khi mùa đông vào sâu dần, ngày càng ngắn lại và đêm dài ra, cảm giác bị bủa vây càng trở nên nặng nề. Lúc nào tôi cũng trong tình trạng chờ đợi tiếng thở quay lại trong bóng tối; hoặc “nó” sẽ từ đâu đó xồ ra, hiện nguyên hình, túm lấy tôi. Suốt mùa đông, đêm nào tôi cũng phải để đèn sáng trong nhà tắm khi ngủ; có đêm tôi còn để nguyên đèn đọc sách ở đầu giường và có đêm thì phải mở nhạc nho nhỏ, chờ cho mình thiếp đi. Nhưng ngay cả như thế, cứ nhắm mắt lại là tôi rơi vào bóng tối vô tận, nơi bất cứ lúc nào cũng có thể có một con quỷ gớm ghiếc chực túm lấy tôi. Đôi khi, vừa nhắm mắt lại, tôi đã phải choàng mở mắt, đầu căng như sắp đứt. Không biết bao nhiêu lần tôi giật mình vì cái lưng ghế, bóng cây ngoài cửa sổ, cái đèn cây và vô số vật trong nhà; mỗi lần giật mình là một nhát dao đâm vào tim tôi, khiến nó vỡ tung. Mỗi tiếng động trong đêm - tiếng kẹt cửa, tiếng tủ lạnh, tiếng trần nhà, tiếng động trong nhà tắm - là một tiếng búa đóng quan tài, làm toàn thân tôi lạnh. Đã bao lần, khi nằm xuống, nhắm mắt lại, đầu óc tôi ngấp nghé điên loạn. Lần nào, cũng lại chỉ có quyết tâm không thể chết, không thể phát điên cứu sống tôi. Mỗi chiều xuống, tôi lại chuẩn bị tinh thần như một chiến binh sắp vào trận tử chiến và mỗi đêm, tôi một mình xông pha tìm lối ra khỏi bãi chiến trường trùng trùng thây người chết. Khi mặt trời lên, tôi kiệt sức lết ra khỏi chiến trường, chỉ để lại tiếp tục bước vào những trận chiến không có điểm dừng mới...
Than ôi, đêm nào cũng quá dài. Từng đêm là từng lần vào địa ngục. Bóng tối xuống là cửa địa ngục mở ra và tôi được áp tải đi từ địa ngục này tới địa ngục khác - có giá lạnh dọc sống lưng, có nóng rực trong tim, có sợ hãi co rút, có bùng nổ vỡ vụn, có sự bất lực choáng váng thân tâm. Tôi cũng thử niệm lại thần chú “Om Ma Ni Pad Me Hum” nhưng cứ một lúc là tôi lại bị cuốn đi trong sợ hãi và phải cố gắng dùng mọi phương pháp, mọi lý giải để tự trấn an mình. Vật vã như thế cho đến lúc thiếp đi vì căng thẳng. Tôi chưa từng bao giờ biết mặt trời lên có thể mang lại hạnh phúc đến thế.
Giờ thì tôi hiểu tường tận nỗi khổ của những người từng bị một sang chấn tâm lý nặng nề như chết hụt, bị hiếp dâm, bị bắt cóc, giết người, bị vùi trong động đất hay chứng kiến người chết trong chiến tranh; thậm chí kể cả những sang chấn nhỏ hơn như phẫu thuật, tai nạn giao thông, ăn cắp, nói dối, bị bạn bắt nạt, bị cha mẹ thầy cô mắng chửi, chứng kiến người yêu ngoại tình, hoặc có khi chỉ đơn giản là bị người yêu chia tay. Họ thường bị ám ảnh với sự kiện đó (gọi là hội chứng stress hậu sang chấn, hay PTSD). Đầu óc họ tự động nhớ lại sang chấn đó, khiến họ liên tục sống lại cảm giác khủng khiếp lúc xảy ra sang chấn thêm nhiều lần. Mà trớ trêu là, dù cố gắng hết sức, họ không sao có thể tự bảo mình đừng nhớ lại, quên nó đi. Khi sang chấn quá nặng, bất cứ một kích thích nhỏ nào (ví dụ tiếng động, ánh sáng, mùi quen thuộc, khung cảnh quen thuộc) cũng lập tức đẩy đầu óc họ trở lại cảnh cũ, việc cũ. Chính vì bất lực trong việc kiểm soát mình mà nhiều người đã chọn con đường tự tử để thoát khỏi địa ngục tâm tưởng. Bản thân những người bị trầm cảm, rối loạn lo âu (anxiety disorder), tâm thần phân liệt, hoang tưởng cũng vậy: họ liên tục sống trong cái ngục tối tạo nên bởi những ý nghĩ sầu thảm mà họ không sao tự thoát ra được.
Đây là một sai lầm của tôi và cũng là của hầu hết những người sống trong sợ hãi, sầu thảm - dù là sợ hãi bất cứ điều gì: chúng ta thường âm thầm chịu đựng mà không nói với ai. Một lý do là chúng ta quá sợ (hoặc quá xấu hổ) nên không dám nói với ai cả. Những người vợ bị chồng bạo hành, những nhân viên bị chủ lạm dụng, trẻ em bị bạn bắt nạt, những người bị người yêu ghen tuông, kiểm soát gắt gao - họ thường quá sợ đối thủ của mình mà không dám báo cảnh sát; cũng không dám kiện hay kể với người thân. Họ cứ một mình chịu đựng và càng thấy mình bị cô lập, như một con thú nhỏ bị dồn vào góc hẹp, chỉ còn trông vào lòng tốt của kẻ săn mồi - mà thường không bao giờ có. Nhưng còn một lý do nữa. Chúng ta thường tin rằng mình có lỗi và đáng phải bị như vậy.
Trong trường hợp của tôi, tôi không biết phải nói với ai và nói thế nào. Lẽ nào lại nói rằng tôi gặp ma ?. Khi tôi bóng gió ướm thử với một vài người bạn thân về chuyện ma quỷ, các bạn tôi đều cười, thấy chuyện ma quỷ hoặc hoang đường vớ vẩn không cần quan tâm, hoặc là một chuyện đầy phấn khích. Tôi nhớ lờ mờ đạo diễn George Lucas của bộ phim Chiến tranh các vì sao nói rằng có một lần ông đã nhìn thấy một người phụ nữ tóc trắng ngồi ở đầu giường ông rồi người đó đứng lên và từ từ tan biến vào khoảng không. Cũng có nhiều người nổi tiếng khác đã gặp “ma” hoặc một hiện tượng gì đó kỳ lạ tương tự nhưng thay vì sợ hãi, họ lại thích thú và đi kể khắp nơi với niềm tự hào rằng họ hẳn phải là người đặc biệt thì mới gặp những chuyện kỳ lạ như vậy. Còn tôi, sau này tôi mới hiểu rằng, tôi không kể tường tận việc này với bạn bè và cũng không thể coi nhẹ nó bởi vì tôi vô thức tin rằng tôi đáng bị ma quỷ hãm hại. Tôi tin tôi là người xấu bởi vì tôi đã ích kỷ và cả gan làm tổn thương một người khác. Lòng tôi lúc đó quá nhiều bóng tối và tôi lại mặc định rằng ma quỷ chính là hiện thân của bóng tối, là xấu xa. Đây chính là một tàn dư ngủ ngầm ở tầng sâu của thời kỳ ngay sau ly hôn và của những thói quen đầu óc khác nữa mà tôi đã tự tạo ra trong những năm trước; nhưng chúng chỉ trỗi dậy khi đủ điều kiện.
Vào mùa đông đó, trong tình trạng thường trực bị vây bủa bởi bóng tối và sợ hãi cùng cực, tôi cố gắng bấu víu vào các giải thích một cách khoa học về sự việc của buổi tối kỳ lạ đó. Nhưng dù tôi có giải thích cách nào thì trong tôi, một tiếng nói nhỏ vẫn cứ lặng lẽ thì thầm:
Không phải, đừng ngụy biện, hãy thừa nhận đi, mình tỉnh táo vào lúc đó, và mình đã gặp một sinh vật của thế giới vô hình.
Nhưng mà là ai? Cái gì? Và vì sao lại đi theo tôi? Muốn gì ở tôi? Cần gì ở tôi? Còn nếu không có sinh vật nào và thế giới vô hình nào mà đó chỉ là một sản phẩm tưởng tượng thì tôi sắp bị thần kinh chăng? Bị hoang tưởng chăng? Ảo thanh chăng? Tôi đã bắt đầu óc làm việc quá sức trong những năm qua và vừa trải qua ly hôn nên sắp điên chăng?
Nhưng từ giờ cho đến lúc có câu trả lời rõ ràng, tôi cần phải tìm cách giữ cho mình không phát điên thật sự vì sợ hãi. Vậy là tôi đến một ngôi chùa Việt Nam ở San Jose, thực sự cũng không biết để làm gì. Khi vào chùa, nhìn thấy một bức tượng Quán Âm nhỏ màu xanh ngọc đã sứt sẹo đứng chơ vơ trong một tủ kính, lẫn giữa đống kinh sách, tôi nảy ý định mang bức tượng về. Trong nhà không có bàn thờ, tôi để bức tượng lên nóc máy điều hòa gắn trong tường. Bây giờ, tôi có ba bức tượng nhỏ nằm dàn hàng ngang trên nóc máy điều hòa: tượng Quán Âm, một bức tượng Phật đen nhỏ một đồng nghiệp tặng (đến tận lúc tới Kamakura ở Nhật sau này, tôi mới biết đó là tượng Phật A Di Đà và hiểu mình đã được dẫn đi đúng một vòng), và bức tượng Phật Di Lặc nhỏ màu đỏ mà Kat tặng tôi vào Giáng sinh năm trước. Tôi chỉ để ba bức tượng ở đó thôi chứ không cúng, thắp hương, lễ lạy. Tôi thậm chí cũng không cầu khẩn điều gì.
Một việc khác mà tôi làm - như bất cứ khi nào tôi gặp bế tắc - là đọc sách để tìm hiểu. Hồi mùa hè, khi tôi rời Việt Nam, thầy Đạo có tặng cho tôi bộ Phật học phổ thông gồm ba cuốn, tác giả là hòa thượng Thích Thiện Hoa. Ba cuốn sách dày, bìa cứng, mỗi cuốn gần 800 trang, in từ năm 1993, giấy đã vàng, hồ đã bong nên các trang sách đều đã rời ra lả tả. Trong mục lục của cuốn đầu, tôi thấy có lược sử Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, rồi chuyện quy y tam bảo, ngũ giới, thờ Phật, tụng kinh, ăn chay, vân vân - đều là những việc tôi không quan tâm. Tôi giở sang cuốn thứ hai. Có một thứ đập vào mắt tôi và lập tức cuốn hút tôi:
Kinh Thủ Lăng Nghiêm.
Tôi chưa nghe tên kinh này bao giờ - thực tế là chưa từng nghe hay đọc bất cứ kinh Phật nào - nhưng thấy tên kinh nghe hay hay. “Thủ Lăng Nghiêm! Thủ Lăng Nghiêm!” - tôi thầm nghĩ - “nghe có cảm giác rất vững vàng”. Phần giới thiệu về kinh nói rằng Phật thuyết kinh này vào dịp ngài A Nan bị trúng bùa của ma nữ nên hỏi Phật về cách có thể hàng phục các loại ma.
“Phật đưa bàn tay, co lại năm ngón và hỏi A Nan: Ông có thấy không?
A Nan đáp: Bạch Thế Tôn, thấy.
Phật hỏi: Ông thấy cái gì?
A Nan đáp: Con thấy Phật đưa bàn tay co năm ngón lại.
Phật hỏi: Ông lấy cái gì để thấy và lấy cái gì làm tâm?
A Nan thưa: Con lấy ‘mắt’ để thấy và cái ‘biết suy nghĩ phân biệt’ làm tâm.
Phật quở: Không phải, A Nan! Cái đó không phải là tâm của ông.
A Nan hoảng hốt, đứng dậy thưa Phật: Bạch Thế Tôn, cái ‘suy nghĩ, phân biệt’ này, nếu không phải là tâm của con thì gọi nó là cái gì?
Phật dạy rằng: Này A Nan, nếu ông chấp cái ‘suy nghĩ, phân biệt’ là tâm của ông, thì khi rời cảnh vật hiện tiền, cái tâm ‘hiểu biết, phân biệt’ ấy, cũng vẫn còn, thế mới phải là tâm của ông. Nếu rời cảnh vật hiện tiền (tức không nhìn thấy cảnh vật trước mặt), mà tâm hiểu biết phân biệt ấy mất đi, thì không phải là chân tâm của ông rồi. Dầu cho ông diệt hết năm tri giác bên ngoài là thấy, nghe, hay, biết (năm giác quan), chỉ còn lưu lại cái ‘ngấm ngầm phân biệt’ bên trong (thức thứ sáu) thì đó cũng là cái vọng tưởng phân biệt bóng dáng pháp trần, không phải là chân tâm của ông. Ông phải biết rằng: trong thế gian tất cả người tu hành, không được thành đạo, đều do chấp lầm cái ‘vọng tưởng sanh diệt’ (vọng tâm) này làm chân thật (chân tâm). Chính ông ngày nay cũng thế, nên tuy học nhiều mà không được quả thánh.”
Alas, tôi đọc mà không hiểu gì cả, cứ như đọc một ngoại ngữ lạ. Kể cả có theo được về mặt logic, thì tôi không làm sao mà “thấy” được. Giống như có một người tả cho tôi rằng ở một hành tinh cách đây một triệu năm ánh sáng, có một con vật gọi là con Chân-tâm, nó không giống con mèo, cũng không giống con chó, nó không biết bay, mà cũng không biết bơi, nó không cao mà cũng không thấp, không đen mà cũng không trắng, không to không bé, không ở ngoài không ở trong... thì tôi chịu chết, không làm sao mà hình dung được, dù tôi biết có con Chân-tâm.
Lần đầu tiên, tôi thấy mình bước vào một thế giới mà tôi không hiểu nhưng linh cảm nó có thể mang lại câu trả lời cho tôi - không chỉ về chuyện của đêm đó mà có lẽ là nhiều vấn đề khác nữa. Tất cả những gì có liên quan đến “tâm” và “loạn tâm”, đến “giả” và “thật”, đến rốt ráo những việc xảy ra trong cuộc đời tôi, đến sự thật tối hậu về thế giới này, về con người. Nhiều ngày liền, tôi chỉ đọc đi đọc lại mấy trang sách này với hy vọng sẽ hiểu ra điều Phật cố gắng chỉ cho A Nan. Nhưng lần nào cũng tắc. Cứ được một đoạn là tôi cảm thấy quá tải như đứa bé đang tập đếm phải cố gắng giải bài toán đạo hàm.
Một buổi tối, chật vật đọc lại đoạn đối thoại giữa Phật và A Nan về tâm mà vẫn không thể hiểu, tôi thở dài, bỏ sách xuống, rồi nói thầm trong đầu thế này:
Dear Phật, con chẳng hiểu gì cả. Phật có thể làm ơn chỉ cho con trong giấc mơ thế nào là chân tâm được không?
Sau đó, tôi ngủ. Trong mơ, một người hay cái gì đó vô hình mà tôi không nhìn thấy nhưng cảm nhận rõ sự hiện hữu đưa tôi đi qua các không gian và cho tôi thấy chân tâm là như thế nào. Tôi không thể diễn tả lại vì tất cả những điều đó chỉ lưu lại vài khắc ngắn ngủi rồi hoàn toàn biến mất sau khi tôi tỉnh dậy và chỉ để lại một ghi nhớ rằng trong giấc mơ, tôi đã có một kinh nghiệm mà tôi chưa từng có về bản chất sự hiện hữu của mình cũng như về cái có thể là “chân tâm” hoặc một cái gì đó hoàn toàn khác với sự hiểu biết bằng “tư duy lý tính”. Nhưng tôi vừa mở mắt, thì nó biến mất và tất cả đống bòng bong suy nghĩ cùng với sợ hãi lại ập trở lại một cách không cưỡng nổi - làm thành “tôi”. Cứ như thể cả một chai mực đen đã được đổ vào bình nước trong và không có cách gì phân tách nước với mực ra nữa.
Tuy thế, trong khoảnh khắc ngắn ngủi trước khi nó biến mất, tôi đã kịp biết về một sự chia cắt giữa những gì tôi trải nghiệm và xử lý hằng ngày với một trạng thái khác nữa - rất khác - của tâm thức. Một trạng thái mạnh hơn nhiều, rộng lớn hơn nhiều, chính xác hơn nhiều - nếu không muốn nói là vô hạn. Một trạng thái có câu trả lời cho nhiều thứ - nếu không phải mọi thứ. Một chỗ mà dường như không thể đến đó được bằng tư duy logic hay tư biện. Không thể đến bằng suy nghĩ, suy nghĩ, suy nghĩ... như bây giờ.
Tâm thần hay không tâm thần, cái thứ tri giác đầu óc mà tôi đã dùng cho tới nay để học hành và hành xử dường như chỉ là một phần rất nhỏ và có lẽ không đáng tin trong việc giúp ta tiếp xúc thực sự với thế giới. Tức là tiếp xúc trực tiếp, trọn vẹn, chân xác. Trái lại, hình như nó chỉ khiến ta sống trong thế giới ý niệm và hành xử với nhau cũng bằng chính những mặc định và quy tắc của thế giới ý niệm. Như khi hai người ngồi đối diện nhau cùng nói về lọ “hoa hồng” ở giữa bàn thì kinh nghiệm về màu “hồng” trong đầu người A có thể hoàn toàn khác với màu “hồng” trong đầu người B; ý niệm về hoa hồng của người A hoàn toàn khác ý niệm về hoa hồng của người B. Chỉ có điều, họ đã tuân theo một thỏa thuận ngầm của xã hội rằng một phổ màu như thế sẽ được gọi là “hồng” và cái vật tròn tròn nhiều cánh úp vào nhau như thế... như thế... là “hoa hồng” trong khi người A không bao giờ thực sự biết người B kinh nghiệm “màu hồng” như thế nào. Chính vì thế mà mọi tranh luận, khi bắt đầu đào bới sâu hơn thì thường đi đến bế tắc và bất đồng vì kinh nghiệm riêng của chúng ta về thế giới quá khác nhau.
Cũng phải đến ba năm sau, tôi mới bắt đầu có những kinh nghiệm đầu tiên về đoạn kinh Lăng Nghiêm trên thay vì suy đoán hay diễn giải về nó. Lần đầu tiên điều đó xảy ra là một buổi tối ở Hà Nội. Tôi đã rất mệt mỏi sau cả tuần nghĩ nát óc về việc nên tiếp tục theo đuổi hay từ bỏ một dự án trị giá vài triệu đô la. Tối hôm đó, tôi đã có một cuộc điện thoại với ba đồng nghiệp ở Columbia và một đồng nghiệp ở Đại học Harvard để quyết định. Sau gần một tiếng bàn luận, tôi xin lỗi mọi người, nói rằng tôi sẽ buông tay khỏi dự án này.
Gác điện thoại xong, tôi trở lại bàn viết trong cảm giác kiệt sức và thõng tay. Được một lúc, tôi bất giác ngẩng đầu lên lơ đãng nhìn cái tủ ở gần đó, rồi lại quay đầu nhìn sang cửa sổ. Trong khoảnh khắc quay đầu lơ đãng đó, tôi nhận biết rõ ràng nhưng không phải bằng ý nghĩ rằng đầu tôi quay và mắt tôi chuyển từ hình ảnh cái tủ sang hình ảnh cửa sổ như thể mắt tôi chỉ là ống kính máy ảnh chuyển dịch từ chỗ hướng vào cái tủ sang cửa sổ, nhưng cái nhận biết tủ hay cửa sổ thì là một thứ hoàn toàn bất động và trong suốt. Tủ hay cửa sổ chỉ là các hình ảnh phản chiếu lên cái thể bất động và trong suốt đó. Toàn thể thế giới đều chỉ là các bóng phản chiếu vào nó. Thậm chí cũng không phải là phản chiếu mà hoàn toàn không liên quan, dính líu gì tới nhau. Khi tôi tắt điện đi, phòng tối om, nhưng cái nhận biết bất động trong suốt đó vẫn có; tôi lại bật điện lên, nó vẫn ở đó; tôi tắt điện đi, nó vẫn đó, sáng tỏ, trong suốt, bất động. Sáng hay tối không tác động gì đến nó và sáng với tối hoàn toàn giống nhau. Sự an lạc đến từ cái bất động trong suốt đó thật lớn lao không tả xiết. Nó cũng lập tức chiếu soi cho tôi những điều khác nữa - như sự giả của cái gọi là “ngã”, cái gọi là “Phan Việt” và những tình cảm, tính cách, suy nghĩ của cô ta. “Không có Phan Việt và cũng không có ai trên đời.”
Buổi tối đó, tôi sống cùng cái “trong suốt” này rất ngắn. Khi tâm bắt đầu nổi lên ý nghĩ: “Ôi, cái gì thế nhỉ? Cái gì mà hay thế nhỉ?” thì sự nhận biết trong suốt này lặn đi, dù nó để lại một dư vị hỉ lạc kéo dài nhiều ngày. Phải một thời gian sau, nó mới lại trở lại - luôn luôn vào những lúc tôi không ngờ nhất.
Nhưng đó là chuyện về sau. Còn mùa đông đó, khi húc đầu một cách bất lực vào kinh Lăng Nghiêm, tôi đã quyết định sẽ trở lại Hà Nội vào mùa hè và sẽ vào chùa để học về đạo Phật, về đời sống làng xã ở Việt Nam, về tâm, về giải thoát, về con ma của tôi.
Phần 2 Hà Nội - Mùa hè 2011 - Chương 8
Thật sự, dựa vào đâu để biết đúng sai?
Năm nay, đoàn sinh viên Mỹ theo tôi sang Hà Nội học về công tác xã hội Việt Nam có chín em, đa phần chưa từng ra khỏi Mỹ. Chúng tôi ở một khách sạn trên phố Hàng Điếu. Mỗi ngày, tất cả đều dậy lúc 6 giờ 30 phút, ăn sáng vào 7 giờ 30 phút, đến 8 giờ 30 phút ra khỏi khách sạn và tối mới trở về. Mỗi ngày đều có chương trình riêng; hôm thì đến trường đại học, hôm tới trung tâm trẻ tự kỷ, hôm tới nhà tạm lánh cho phụ nữ bị bạo hành gia đình, hôm tới làng trẻ mồ côi. Chúng tôi cũng đi Văn Miếu, lăng Bác, Bát Tràng, một số bảo tàng ở Hà Nội, làng cổ Đường Lâm, và Hạ Long.
“Việt Nam đẹp quá” - các sinh viên của tôi kêu lên.
“Việt Nam khác quá.”
“Thật không thể tin...”
Được thấy Hà Nội qua mắt sinh viên Mỹ là một kinh nghiệm thú vị. Trong mùa hè này và những mùa hè sau, tôi thường xuyên thấy mình rơi vào thế kẹt: tôi đang làm công ăn lương ở Mỹ nên tôi có trách nhiệm cho các sinh viên của tôi biết một bức tranh thật ở Việt Nam, nhưng đồng thời tôi cũng thấy mình có trách nhiệm phải bảo vệ hình ảnh Việt Nam như đất nước “của mình”. Nên nói cho sinh viên bao nhiêu sự thật? Phiên bản nào của sự thật? Phiên bản nào thì đủ để họ tư duy về những khác biệt hệ thống giữa hai đất nước? Phiên bản nào và bao nhiêu thì đủ để họ hiểu về cái khổ của sự đói nghèo trên bề mặt, kết nối được nó với cái khổ do ý thức hệ, nhận dạng được những mặc định do sống quá lâu ở một đất nước giàu có và tự do, nhận ra những xiềng xích tư tưởng ngay cả trong xã hội mà họ cho là tự do đó? Bao nhiêu thì không dập tắt những hào hứng của họ với Việt Nam, để khơi gợi được tình yêu với con người và cuộc sống vượt trên những phân biệt “Việt Nam” và “Mỹ”? Bao nhiêu thì giúp họ vượt được lên khỏi những nắng nóng của Việt Nam và tâm lý “cả thèm chóng chán” của một khách du lịch Mỹ để khêu một ngọn lửa bền bỉ hơn về vai trò của họ trong thế giới rộng lớn này?
Khi sinh viên của tôi thích thú ghé vai gánh thử gánh dứa rong để chụp ảnh cho nhau, tôi không biết nên để các em được vui trọn vẹn với điều đó hay nên nói thêm cho các em biết rằng chị bán dứa rong này sống bên kia cầu Long Biên, trong một căn phòng thuê cùng với mười người phụ nữ khác với giá 15 ngàn đồng mỗi đêm, mua 5000 đồng tiền nước để tắm rửa mỗi ngày, dùng chung phòng vệ sinh và nhà tắm bẩn thỉu, ăn những bữa ăn tạm bợ, chỉ để tích cóp tiền gửi về quê nuôi con.
Khi chúng tôi đến thăm một trại điều dưỡng thương binh ở Bắc Ninh, sinh viên của tôi bất lực đứng nhìn một cựu chiến binh cụt cả hai chân hai tay nằm trên giường, phải có ống đại tiểu tiện thông từ trong người ra ngoài, đứng cạnh giường là người vợ đã phải từ quê chuyển tới đây sống luôn trong trại để chăm anh. Lúc ấy, tôi không biết có nên nói với các em về số tiền mà mỗi thương binh của Việt Nam được trợ cấp hằng tháng, và việc người phụ nữ kia phải làm thêm cả trong trại lẫn ngoài trại để có tiền nuôi chồng, cộng với con cái và bố mẹ ở quê. Nếu các em biết và so sánh với chính sách cho cựu chiến binh ở Mỹ, và chỉ nhìn thấy đời sống người Hà Nội nội đô, tôi sẽ không có cách gì khiến các em tin rằng Việt Nam quá nghèo nên không có đủ tiền để đãi ngộ những người đã từng chiến đấu bảo vệ đất nước.
Khi chúng tôi đi thăm bảo tàng chiến tranh hay được một bệnh viện dẫn đi thăm phòng trưng bày các bình ngâm thai nhi dị tật vì chất độc da cam, tôi không biết phải nói gì với sinh viên của tôi khi các em ấy hoàn toàn hoang mang trước ranh giới của đúng/sai.
“Cô ơi, em cảm thấy rất khó xử. Một mặt, em thấy mình có lỗi vì là người Mỹ. Em không hiểu làm sao mà người Việt Nam có thể thân thiện đến thế với chúng em sau những gì nước Mỹ đã làm. Nhưng mặt khác, em cảm thấy chúng em là một thế hệ khác, chúng em không có lỗi. Nhưng em nghe thấy sự lên án trong giọng nói của người giới thiệu bảo tàng hôm nay. Lúc đó, em nghĩ: ‘Nhưng tôi có làm gì sai đâu’?”
“Tiến sĩ Phan, nếu em thực sự trung thực thì em phải nói là em không hiểu tại sao họ có thể để những thai nhi đó trong bình cho người khác tới xem. Đành rằng chúng ta cần bằng chứng về hậu quả của chiến tranh. Nhưng việc biến nó thành bảo tàng cho người khác xem, em cảm thấy có điều gì đó không phải.”
Thế nào là “phải”? Thế nào là “đúng”? Thế nào là đạo đức? Là nhân đạo? Nhân văn? “Phải” theo kiểu Mỹ hay kiểu Việt Nam? Hay không phải kiểu Mỹ cũng không phải kiểu Việt Nam? “Phải” một cách phi quốc gia, phi sắc tộc, phi tôn giáo, phi đạo đức, phi tiền bạc, phi chính trị, phi khế ước xã hội? Càng đi, càng làm một người phiên dịch giữa hai thế giới Việt - Mỹ, tôi càng thấy phải dừng đưa câu trả lời chắc chắn cho sinh viên. Tôi chỉ có thể gợi ý cho họ nghĩ và chính tôi cũng nghĩ.
Có buổi chiều, chúng tôi đến làm việc ở một cơ sở công tác xã hội. Tiếp chúng tôi là giám đốc, phó giám đốc, bí thư Đảng ủy và các cán bộ của cơ sở. Sau khi nghe giới thiệu về mô hình công tác xã hội ở Việt Nam, sinh viên của tôi hỏi liệu nhân viên công tác xã hội ở một đất nước như Việt Nam có được phép làm các việc như vận động chính sách, phản đối chế độ, vận động quyền cho các đối tượng yếu thế hay không. Khi họ đặt câu hỏi này, giám đốc cơ sở quay sang hỏi bí thư Đảng ủy:
“Phần này chắc mình phải nói nhẹ đi anh nhỉ?”
Sau khi bí thư gật đầu, giám đốc trả lời đoàn chúng tôi bằng tiếng Anh; và trả lời xong thì lại quay sang bí thư:
“Anh thấy em nói thế có được không?”
Chẳng cần phải tinh ý lắm sinh viên của tôi cũng nhận thấy những đoạn ghé tai trao đổi giữa ban lãnh đạo cơ sở. Họ cũng lịch sự không hỏi thêm nhưng vừa vào lại ô tô, đóng cửa lại là sinh viên của tôi nhổm hết lên khỏi ghế:
“Tiến sĩ Phan, chúng ta cần phải nói chuyện.”
“Tiến sĩ Phan, chuyện gì vừa xảy ra trong căn phòng đó?”
“Cô phải nói sự thật cho chúng em biết. Chúng em muốn biết chính xác chuyện gì xảy ra.”
“Cô không được bao che cho họ đâu.”
Họ muốn biết ban lãnh đạo đã nói gì với nhau bằng tiếng Việt; cái người ngồi im lặng, hầu như không nói gì, chỉ gật gật, nhưng ai cũng phải hỏi ý kiến là ai; quan hệ giữa bí thư Đảng ủy với những người còn lại là thế nào. Sinh viên của tôi mặc định rằng dân chủ là mô hình tất yếu để phát triển nên họ không thể hiểu nổi những hoạt động mà họ cho là xâm phạm dân chủ trong phát ngôn và hành động. Họ cũng không hiểu tại sao khi đến làm việc ở các cơ quan, luôn có một số phụ nữ đon đả chạy trước mở cửa, rót nước cho các lãnh đạo là nam giới. Hay khi ăn buffet thì cấp dưới phải đi lấy thức ăn vào đĩa cho lãnh đạo.
“Khác quá”; “không thể tin được”; “ở Mỹ thì...”. là những câu cửa miệng của sinh viên, dù chúng giảm dần từng ngày. Đôi khi chính tôi cũng không cưỡng lại được sự so sánh “Ở Mỹ thì...”. Gần như một trăm phần trăm những người Việt tôi gặp đều mặc định tôi là hướng dẫn du lịch, phiên dịch, hoặc trợ lý của đoàn. Những người bán hàng trên phố cổ và các khu du lịch thường xuyên nhờ tôi lừa sinh viên của tôi để bán đắt hơn và sẽ cho tôi tiền hoa hồng. Có lần ở một bảo tàng, chị bán hàng đã gọi tôi đi theo vào toilet rồi dúi vào tay tôi ba triệu:
“Đây là 10% tiền hoa hồng cho em, chị không muốn đưa bên ngoài sợ bọn Tây nó thấy. Lần sau lại dẫn khách vào đây cho chị nhé.”
Tôi định từ chối và giải thích với chị rằng tôi là giáo viên chứ không phải hướng dẫn viên du lịch. Nhưng tôi vừa mở miệng định nói thì thấy điều đó rất không cần thiết; vậy là tôi cầm tiền, cảm ơn chị, rồi đưa lại cả chỗ tiền cho người hướng dẫn du lịch và lái xe đi cùng đoàn.
Khi tôi đi bộ trên phố với một sinh viên nam trong đoàn thì hầu hết người bán hàng mặc định tôi là “bồ nhí” hoặc “gái bao” của cậu sinh viên, cùng lắm thì là vợ.
“Chồng em à? Người nước nào đấy?”
“Bạn trai à? Nó có biết tiếng Việt không?”
“Khiếp, sao thằng này cao thế? Mày đứng đến nách nó nhỉ.”
Tôi không phiền lòng, nhưng tôi cũng không cưỡng lại được sự so sánh bất giác. “Ở Mỹ thì...”
Mỗi ngày, từ ngoài đường trở về, đoàn chúng tôi đều có 15 phút họp ngắn để tổng kết những gì đã học trong ngày. Hầu như ngày nào, tôi cũng phải nhấn mạnh lại:
“Một trong những điều mà tôi hy vọng các em học được khi sang Việt Nam là bỏ được các định kiến thế nào mới là văn minh, thế nào là tốt, xấu, cái này chấp nhận được, cái này không thể chấp nhận được theo kiểu Mỹ. Các em học cách phá vỡ khái niệm để nhìn sâu vào bản chất của mọi việc thì các em mới có thể tạo ra các thay đổi thực sự.”
À nhưng đấy là nói lý thuyết. Là người Việt Nam, tôi biết cái mà các sinh viên của tôi nhìn thấy trong ba tuần dĩ nhiên không hẳn chính xác, nhưng tôi cũng phải tự nhắc nhở mình rằng cái mà tôi nhìn thấy trong ba lăm năm làm người Việt Nam chưa chắc đã chính xác hoặc chính xác hơn.
Từ Hà Nội, chúng tôi đi Huế, rồi vào Sài Gòn. Ở Sài Gòn, chúng tôi thuê khách sạn trên phố Phạm Ngũ Lão. Đây là phố Tây ba lô. Hầu như tối nào sinh viên của tôi cũng đi đến khuya mới về. Có hôm tôi theo sinh viên đi từ quán này sang quán khác, bắt đầu từ phố Phạm Ngũ Lão sang đến Đề Thám. Lúc nửa đêm, cả đoạn phố Đề Thám ngắn ầm ĩ tiếng nhạc và đông nghẹt Tây ba lô. Chúng tôi uống bia trên vỉa hè cùng với những nhóm Tây ba lô khác, vừa uống vừa phải gào lên mới nói chuyện được với nhau qua tiếng nhạc. Liên tục có những đứa bé ghé vào bàn để bán hoa, xổ số, đồ lưu niệm; và cả những đứa bé 8 tuổi kiếm tiền bằng cách nhảy mua vui cho khách trong lúc người mẹ ngồi canh gần đó. Sinh viên của tôi uống, nhảy. Đến nửa đêm, chúng tôi ra về trên phố, lẫn trong những nhóm khách Tây khác - đều trẻ, hơi say say, vừa đi giữa lòng đường vắng vừa nhún nhảy theo tiếng nhạc. Ở góc đường, những người xe ôm và taxi vẫn nhẫn nại chờ khách. Mấy người quét đường mặc áo màu da cam ngồi bệt trên vỉa hè cạnh một miệng cống và chiếc xe rác, nhìn chúng tôi đi qua như nhìn những người thuộc về một thế giới khác đáng thèm muốn, đáng ngưỡng mộ. Một thế giới bí ẩn và triền miên sung sướng.
Giữa lòng đường vắng sau nửa đêm, tôi đi với những sinh viên Mỹ của tôi mà lòng cứ muốn sà xuống với những người quét rác bên đường. Tôi muốn nói với họ rằng không phải thế đâu. Không có sự bí ẩn và triền miên sung sướng nào ở Tây, ở người Tây cả. Họ cũng hoang mang, sợ hãi, và rạn vỡ như ta. Bên trong vẻ tự do, ăn mặc phá cách, nhảy múa thoải mái, tiêu tiền không cần nghĩ, da trắng, mũi cao, tóc vàng, các sinh viên của tôi đầy những sợ hãi và hoang mang. Nắng nóng làm họ sợ. Mưa làm họ sợ. Vòi nước chưa khử trùng làm họ sợ. Đói làm họ sợ. Những người ăn xin quanh Bờ Hồ làm họ sợ. Giao thông Việt Nam làm họ sợ. Khuỷu tay chạm vào họ trong đám đông trên phố cổ làm họ sợ. Nhà vệ sinh bẩn làm họ sợ. Đường xóc làm họ sợ. Chó thả rông làm họ sợ. Cứt trâu trên đường làng làm họ sợ. Muỗi, gián, kiến, ruồi, ve, nhện, chuồn chuồn, rệp làm họ sợ. Tiếng ồn làm họ sợ. Mồ hôi làm họ sợ. Ánh nhìn chòng chọc của những người đàn ông Việt Nam làm họ sợ. Tăm xỉa răng làm họ sợ. Bất cứ cái gì không quy chiếu được về “tính Mỹ”, “người Mỹ”, “trật tự sống Mỹ”, “kiểu Mỹ” trên một Việt Nam xa lạ đều làm họ sợ.
Nhưng còn những người Việt Nam đang sống trên chính Việt Nam thì sao?
Quan chức, ca sĩ, nhạc sĩ, họa sĩ, diễn viên, đạo diễn nổi tiếng mà tôi gặp cũng đầy hoang mang, mệt mỏi.
Giáo sư, tiến sĩ, giảng viên đại học tôi gặp cũng vậy.
Những sinh viên Việt Nam mà chúng tôi gặp thì ngơ ngác, không biết mình muốn gì, đang học gì, học xong sẽ làm gì.
Những cơ sở mà chúng tôi đến thì chỉ thoáng nhìn cũng biết những đứa trẻ, người già, thương binh, và cá nhân viên ở đây rất nhiều tâm sự.
Ở những nhà hàng chúng tôi vào ăn, chủ nhà hàng và nhân viên lúc nào cũng tất bật, nhớn nhác.
Trên những con đường chúng tôi đi, người ngồi trên xe, người dưới lòng đường, người lái xe, người chờ xe đều đầy lo lắng.
Ba tuần cọ xát liên tục với hai thế giới Việt Nam - Mỹ, tuy bên ngoài liên tục cười nói, tiếng Việt tiếng Anh, trong lòng tôi có một người ngồi bất động nhìn tất cả những gì đang diễn ra bên ngoài mà không phản ứng. Không phản ứng, dù bên ngoài vẫn ra quyết định và hành động, bởi vì không thể dựa vào bất cứ điều gì mà phản ứng với bất cứ điều gì. Dựa vào đâu cũng không đúng. Phản ứng với bất kỳ điều gì - dù bên ngoài dường như có sự phản ứng - đều sai. Chín sinh viên đi cùng tôi là chín thế giới nội tâm, liên tục biến đổi và sẵn sàng bùng nổ khi phải va chạm với Việt Nam. Cười đấy mà lập tức khóc đấy. Những người Việt Nam tôi gặp là những thế giới nội tâm khác nhau - cũng liên tục dịch chuyển và sẵn sàng bật khi bị nén quá đà. Bên dưới tất cả những vui vẻ, chảy trôi dường như bất tận và bất chấp tất cả của cả người Việt và người Mỹ là sự mong manh khổng lồ. Dường như mỗi chúng ta đều đang cố dùng son phấn, quần áo, xe cộ, nhà cửa, địa vị, danh thiếp, vợ chồng, con cái, bạn bè, cơ quan và các vật tùy thân khác để dệt một tấm vải che những miệng vực toang hoác. Chỉ cần một mũi kim, tấm vải sẽ thủng và cả suối nước mắt, giận dữ, cô đơn, si mê, sợ hãi sẽ tuôn trào. Khi khóc, thì Mỹ hay Việt đều giống nhau.
Đêm nào cũng thế, sinh viên đã về phòng an toàn, tôi một mình ra phố, đi bộ quanh một Hà Nội đang vào khuya, vừa thân thuộc vừa xa lạ. Nhà tôi thực ra chỉ cách đó mười phút, nhưng những ngày này, tôi vẫn là khách của Hà Nội. Tôi ngồi trên vỉa hè, ăn một bát phở gà 35 ngàn đồng. Trên đường về, nghe tiếng rao bánh bao nóng đây; không hề đói nhưng nhìn anh bán bánh bao gò lưng đạp xe, tôi gọi “bánh bao!” Anh phanh kít lại, nhảy xuống khỏi xe và dắt xe chạy tới chỗ tôi với một sự mừng vui làm tan nát lòng người.
Chương 9
Trở lại chùa lần đầu
Khi tôi tiễn sinh viên về Mỹ rồi trở lại Hà Nội đã là cuối tháng Bảy. Hà Nội vào mùa mưa ngâu. Mưa triền miên cả tuần từ lúc tôi về nên hôm nay tôi mới có thể vào chùa. Nhìn công-tơ-mét, từ nhà đến chùa hơn 16 cây. Tôi đi gần một tiếng rưỡi mới tới.
Sân chùa ngập nước. Thầy Đạo đang ăn sáng ở bàn nước dưới chân nhà sàn gỗ. Thầy mời tôi vào ăn sáng nhưng tôi nói ăn rồi nên chỉ ngồi ở bàn nước. Trong lúc tôi ngồi đó, một bà già đi lại dọn dẹp. Thầy nói bà già là người làng, sống một mình nên ngày nào cũng vào chùa “chấp tác”.
“Tức là dọn dẹp, công quả cho nhà chùa” - thầy cười, thấy tôi không hiểu chữ “chấp tác” - “Nhưng hồi xưa bà ấy khỏe thì còn làm nhiều chứ giờ bà ấy sang chơi là chính.”
Ngày mưa nên chùa vắng. Gió thổi rất mát; mỗi lần có cơn gió lớn, cả loạt lá và nước mưa trên những cây nhãn lại trút ào ào. Chỉ có thầy Đạo, tôi, bà cụ chấp tác ngồi ở bàn nước nói chuyện. Thầy bảo đang mùa hè nên hai đệ tử lớn của thầy là sư ông Đạo Nhất và sư chú Đạo Nhị đều đi hạ (3) hết rồi; chỉ còn chú tiểu Đạo Ngũ ở chùa và ba đứa trẻ cứng đầu được gia đình gửi vào chùa nhờ thầy rèn một thời gian.
Chúng tôi đang nói chuyện thì một người đàn ông gần 40 dắt xe máy vào chùa. Anh này chắp tay chào thầy xong thì đi thay quần áo nâu rồi ngồi “hầu chuyện” thầy. Anh Sang là nhà báo, theo đạo Phật đã nhiều năm. Hôm nay anh vào “cúng chùa” đôi thanh xà bạch xà - một con rắn xanh, một con rắn trắng bằng vải - mỗi con dài gần mười mét, để treo lên xà nhà trong điện Mẫu.
“Thanh xà bạch xà là thế nào hả thầy?” - tôi hỏi vì lần đầu nghe chuyện này.
“Là hai ông chúa rắn, Thanh Xà đại tướng và Bạch Xà phó tướng, được các bà chúa quy phục nên làm người hộ pháp cho đạo Mẫu.”
Thú thực là tôi không biết gì về đạo Mẫu; chỉ lờ mờ rằng đó là đạo lâu đời ở Việt Nam, có rất nhiều người thờ và liên quan đến chuyện hầu đồng. Nhưng hầu đồng là thế nào, tôi cũng chưa bao giờ biết.
“Ở Việt Nam giờ hầu đồng nhiều lắm” - anh Sang nói - “Dân văn nghệ sĩ hầu nhiều. Thằng M là trùm sò, nó căn cô Chín.”
“Cô Chín là ai ạ? Căn là cái gì ạ?”
“À, là cô Chín. Căn cô Chín tức là mình hợp với cô Chín, gọi là sát căn đấy.”
“Như thế nào thì là có căn ạ? Làm thế nào biết mình có căn?”
“Thì cũng như có duyên nợ với cô Chín đấy em. Cũng có thể là kiếp trước mình hay xin lộc của cô, được cô ban lộc, thì kiếp này phải ra trình đồng mở phủ trả nợ. Em không trả thì em làm ăn không được; em thấy bứt rứt cũng như người thiếu nợ thì ăn không ngon ngủ không yên. Khi nào em ra trình đồng mở phủ rồi thì em thấy nó yên.”
“Thế Mẫu là ai ạ? Đạo Mẫu thờ ai ạ?”
“Thờ nhiều người, em cứ vào điện Mẫu nhìn tứ phủ công đồng ấy, có ban bệ từ trên xuống. Trên thì có vua cha Ngọc Hoàng; rồi xuống Mẫu Đệ Nhất, Đệ Nhị, Đệ Tam, rồi có các chầu bà, các quan, các ông hoàng, rồi còn có các cậu nữa (4) .”
Anh Sang nói nhiều tên và nhiều chuyện khác nữa nhưng tôi chịu không nhớ được. Thầy Đạo nói:
“Đã theo Phật thì thực ra cấm tiệt chuyện đồng bóng. Nhưng đạo Mẫu ở mình từ hàng ngàn năm rồi; khi đạo Phật vào nước mình thì cũng phải bản địa hóa để sống được cho nên chùa nông thôn thì chùa nào cũng có điện Mẫu.”
“Thế Phật với các vị thánh thần thì có quan hệ với nhau thế nào ạ?” ( Tôi nhớ khi Tôn Ngộ Không đại náo thiên cung, Ngọc Hoàng không đối phó được phải mời Phật tổ Như Lai đến giải quyết ).
“Là các cõi khác nhau cô ạ, quả vị khác nhau, cảnh giới khác nhau. Thánh thần vẫn trong Tam giới, chưa giải thoát; Phật thì xuất Tam giới.”
“Tam giới là gì ạ?”
“Là Dục giới, Sắc giới, và Vô sắc giới. Cô đọc kinh Lăng Nghiêm sẽ có giải thích rất rõ Tam giới.”
“Lấy gì để phân chia các cõi ạ?”
“Lấy tâm. Tùy tâm tịnh đến đâu mà tương ứng với cõi giới đó.”
Chúng tôi đang nói chuyện thì một phụ nữ đi xe đạp tới, mang theo rất nhiều nhãn. Chị ấy bày nhãn lên đĩa rồi chắp tay nói với thầy Đạo:
“Bạch thầy, sư cụ trên chùa con mang lễ để cúng Phật ạ.”
“Cô mang lên cúng Phật, cúng tổ đi.”
“Vâng, bạch thầy. Con lên lễ rồi con xin về luôn ạ.”
“Lại về ngay à?”
“Vâng.”
“Vu Lan có sang không?”
“Có chứ ạ.”
Tôi hỏi thầy Vu Lan là gì, tôi đã nghe nhiều lần nhưng không hiểu. Thầy nói Vu Lan là dịp báo hiếu cho mẹ. Việc này xuất phát từ ông Mục Kiền Liên, một trong các đại đệ tử của Đức Phật Thích Ca. Sau khi chứng quả, ông Mục Kiền Liên dùng thần thông nhìn khắp các cõi xem mẹ mình đã chuyển sinh vào cõi nào thì thấy mẹ đang ở dưới địa ngục, phải chịu tra tấn, đói khát. Ông Mục Kiền Liên đau lòng trở về bạch Phật tại sao mẹ ông lại bị như vậy và làm cách nào để cứu. Phật nói rằng mẹ ông chịu quả báo của việc phá chùa hủy báng tăng trong quá khứ. Để cứu mẹ thì vào ngày mãn hạn an cư, gọi là ngày tự tứ, chư tăng tập trung đầy đủ, ông Mục Kiền Liên có thể sắm lễ, thỉnh chư tăng thụ trai rồi xin chư tăng chú nguyện cho bà; nhờ lực chú nguyện của tăng chúng mà bà có thể được cứu. Do đó mới có ngày Vu Lan - là ngày mà những người muốn tưởng nhớ cha mẹ tổ tiên, muốn cho họ thoát khỏi các cảnh giới thấp hoặc tăng trưởng phước đức thì sẽ thỉnh chư tăng thụ trai và tụng kinh chú nguyện.
Chuyện cũng kể rằng, ngài Mục Kiền Liên về cuối đời bị người ta dùng gậy đánh chết. Các đệ tử hỏi Phật tại sao ngài Mục Kiền Liên hiếu hạnh và thần thông đệ nhất như vậy mà vẫn bị đánh chết. Đức Phật nói rằng ông Mục Kiền Liên phải trả nghiệp đánh mẹ trong một kiếp quá khứ. Nguyên có một kiếp, ông Mục Kiền Liên là một thanh niên có người mẹ bị mù. Khi đến tuổi trưởng thành, ông lấy một người vợ xinh đẹp nhưng độc ác. Người vợ này xui ông đem mẹ già mù bỏ vào rừng để khỏi phải nuôi nấng chăm sóc. Ông nghe vợ đưa mẹ vào rừng, bảo mẹ ngồi xuống chờ mình, rồi lấy gậy đánh mẹ. Người mẹ vừa bị đánh một gậy thì tưởng có cướp đến đánh mình bèn kêu lên:
Con ơi, có cướp, con hãy chạy đi, đừng lo cho mẹ.
Ông Mục Kiền Liên nghe mẹ nói thế thì choàng tỉnh, vứt gậy đi, sụp xuống xin lỗi rồi đưa mẹ về. Ông nguyện đời đời sinh ra đều làm người con hiếu thảo. Nhưng vì đã đánh mẹ một gậy nên sau vẫn phải chịu quả báo bị lấy gậy đánh chết vì bất hiếu là một trọng tội.

Thầy Đạo nằm trên võng mắc giữa hai chân cột nhà sàn, vừa đong đưa vừa kể chuyện ngài Mục Kiền Liên. Tôi ngồi nghe, rồi nghĩ trời ơi, nếu quả có kiếp trước thì trong vô lượng kiếp tính tới nay, vì ngu si, mù quáng, không biết tôi đã làm những việc tày trời gì đây. Giết người, đánh người, hại người, trộm cắp, dâm loạn, bất hiếu, dối trá - trong triệu kiếp, ngàn kiếp, tôi chắc chắn đều đã làm cả. Nghĩ mà xem, từ lúc nhỏ tới giờ, chỉ 30 năm thôi, nếu thật trung thực, tôi cũng đã làm đủ thứ không ra gì. Dù tôi không cướp của giết người đánh cha chửi mẹ, nhưng mỗi ngày, từ lúc mở mắt thức dậy đến lúc nhắm mắt đi ngủ, tôi nghĩ đủ thứ điên rồ về người này người kia, việc này việc kia, điên điên đảo đảo lảm nhảm trong đầu đủ thứ chuyện, việc này đúng, việc kia sai, mình thế này, họ thế khác...
Thế thì từ bao nhiêu đời - nếu quả có kiếp trước - tôi đã làm khổ bao nhiêu người? Và nếu quả có đời trước thì vào những đời mà tôi tăm tối, nghèo khổ, hoặc gặp bệnh tật, tai ương, hoạn nạn, thì tôi đã làm những việc tày trời gì?
Đang nói chuyện thì chú tiểu Đạo Ngũ bê rổ rau đi ngang qua. Tôi theo chú vào bếp nấu cơm trưa. Bếp chùa chỉ là một căn phòng nhỏ và tối ở đầu hồi. Bếp chủ yếu nấu củi; có thêm một bếp ga nhỏ để thỉnh thoảng nấu đồ cúng Phật, cúng tổ, hoặc nấu cho thầy. Chú Đạo Ngũ vừa nấu cơm vừa hát mà hai tay vẫn thoăn thoắt. Tôi thấy chú Ngũ thật là hay.
“Chú Ngũ cứ tu rồi lên sư bác, sư ông à?”
“Không ạ, phải thọ giới chứ, thọ giới sa di thì thành sư bác này, thọ giới tỷ khiêu thành sư ông này. Cháu vẫn là tịnh nhân.”
“Anh là tiểu nhân thì có” - thằng bé Hùng đứng đó cười khanh khách - “anh là chú tiểu thì phải gọi là tiểu nhân chứ.”
“Vô duyên!” - chú Đạo Ngũ lườm.
Tôi bật cười. Cái gì ở chùa cũng là lạ, cũng quê quê mà lại vui vui.
“Cô giáo xào rau hộ nhà chùa để nhà chùa đi cúng Phật, cúng tổ nhé” - chú Đạo Ngũ nói rồi đưa tôi đôi đũa cả lớn bằng tre vừa sứt sẹo vừa đen đúa.
Chà! Phải cúng Phật, cúng tổ xong mới được ăn cơm - sự hiếu thuận rất cổ điển và trong sáng này, lâu lắm rồi tôi không còn thấy ở bất kỳ đâu nữa. Ở Việt Nam không có mà ở Mỹ cũng không có.
Tôi xào rau rồi bê lên bày ra bàn ăn dưới chân nhà sàn. Thầy, chú Đạo Ngũ, lũ trẻ, anh Sang, và tôi ngồi quanh bàn ăn cơm. Cơm chỉ có rau xào với đậu mà rất ngon. Ăn xong, thầy bảo tôi lên tầng hai nhà sàn ngủ trưa, ở đây là chùa quê, giờ trưa mọi người đều đi ngủ cả. Khi tôi ngủ dậy, thầy đang ngồi ở bàn nước giảng cho hai người khách về lịch sử chùa. Thầy bảo theo Đại Việt sử ký toàn thư thì chùa được vua Lý Công Uẩn xuống chiếu dựng lên cùng với bảy ngôi chùa khác thành bát thánh tự trấn thành Thăng Long ngay sau khi dời đô từ Hoa Lư. Nhưng theo huyền sử thì chùa được xây từ đầu thế kỷ 1, khi các nhà truyền giáo từ Ấn Độ theo đường biển sang Việt Nam truyền bá đạo Phật. Vào thời đó, đô thị Luy Lâu, tức khu vực châu thổ đồng bằng Bắc Bộ bây giờ, là một trong ba trung tâm Phật giáo lớn nhất châu Á, cùng với Bành Thành và Lạc Dương của Trung Quốc. Vua Lý Công Uẩn chỉ dựng lại chùa trên nền đất cũ mà thôi.
Đến ba rưỡi, anh Sang rủ tôi lên chùa học chuông mõ với chú Đạo Ngũ. Đánh chuông nhìn tưởng chỉ boong boong mà thực ra rất khó; có đủ phép tắc vào chuông, ra chuông, rải chuông; tiếng chuông khi thì cần đều đặn, thanh trong; khi cần dứt khoát, nhiếp phục người nghe. Anh Sang thử rất lâu không được vì anh chăm chú quá. Chú Đạo Ngũ tiếp tục dạy anh Sang chuông mõ. Tôi đi ra ngoài, thấy thằng bé Thắng đang vơ vẩn trong vườn, mặt mũi lơ ngơ. Ở nhà, chắc nó là một đứa bé được nuông chiều và bướng lắm. Ở chùa thì không có ai chiều.
“Cháu sống ở đây thấy thế nào?”
“Bình thường ạ.”
“Năm nay cháu lớp 7 à?”
“Năm nay cháu mới lên lớp 7...” - nó tần ngần - “Cô ơi, cô có nhớ ăn thịt không?”
“Cô vẫn ở nhà mà, cô vẫn ăn thịt. Cháu có nhớ ăn thịt không?”
“Không ạ” - nó nói thế nhưng mặt rầu rầu.
Loanh quanh đã lại hết buổi chiều. Ở chùa làng, thời gian trôi đi thật thong thả, tưởng như không có việc gì quan trọng cả.
Năm giờ chiều, bọn trẻ đã lại bê bát ra bàn ở nhà sàn để chuẩn bị cơm chiều. Bữa tối ở chùa luôn luôn vào 6 giờ, không đổi. Tôi đang ngồi với thầy thì chú Đạo Ngũ hớt hải chạy xuống:
Thầy ơi, tổ về, vào chú Sang, nói là phải chỉnh lại cái khăn quàng của tổ nhưng nói là không cần thỉnh thầy nên con không thỉnh.
“Chắc cái khăn bị lệch, chỉnh lại đi, tổ nói không cần thỉnh thầy hả?”
“Vâng ạ.”
“Thế thì thôi.”
Chú Đạo Ngũ thoăn thoắt bước đi. Tôi hỏi thầy:
“Tổ về là thế nào ạ?”
“Là một cụ tổ của chùa này về, gá vào thân chú Sang, có chuyện gì cần nói thì tổ nói. Bao nhiêu năm chùa bỏ không, giờ sửa lại khang trang các ngài phấn khởi nên hay về.”
“ Gá là thế nào ạ?”
“Là mượn thân người của Sang còn thần thức là của các tổ. Như mình cho mượn áo hay mượn xe đấy cô. Khi các tổ mất thì họ chỉ còn là thần thức thôi. Họ muốn hiện tướng thì phải mượn thân xác phàm.”
“Tức là nhập vào anh Sang ạ?” ( Tôi nghĩ đến phim Hồn ma).
“Ừ.”
“Thế lúc gá như thế anh Sang có biết gì không ạ?”
“Cũng tùy các tổ vào sâu hay không. Đạo lực của các tổ càng lớn thì Sang càng không có khả năng điều khiển; còn nếu không thì Sang vẫn có thể tác ý .”
“Tác ý là thế nào ạ?”
“Tức là Sang vẫn có thể khởi lên ý của Sang và nói ra như ý của các tổ.”
“Thế làm sao để biết là tổ ạ?”
“Phải biết chứ. Có nhiều cách để đối chiếu mà cô.”
“Thế nếu chỉ là thần thức, mình không thấy được thì có bao giờ có chuyện giả vờ không ạ?” ( Tôi nghĩ đến chuyện Bạch Cốt Tinh trong Tây du ký).
“Có chứ. Nhưng giả vờ thì cũng biết mà. Mình phải có chính kiến, có kiểm chứng chứ cô.”
“Thế ai cũng cho gá được hay chỉ có anh Sang thôi ạ?”
“Cái này do nhân duyên, không phải ai cũng cho gá được. Vong thì nhiều người có thể cho gá. Còn các tổ, các bậc thánh, thì phải là người có tu hành ít nhiều mới đủ phước cho các tổ gá vào cô ạ.”
Một lúc sau chú Đạo Ngũ lại chạy xuống:
“Bạch thầy, tổ nói thỉnh thầy lên có việc.”
Thầy Đạo đứng lên đi về nhà tổ. Mấy đứa nhỏ cũng rồng rắn chạy theo thầy. Tôi nửa muốn lên quan sát, nửa lại cảm thấy như thế là quá tọc mạch. Có thể các tổ có chuyện riêng tư của chùa muốn nói với thầy; tôi thì chỉ là khách. Vậy là tôi một mình ngồi lại.
Nhiều điều lạ quá. Sao có những điều hình như người Việt Nam nào cũng biết và thấy bình thường - như chuyện hầu đồng, chuyện Mẫu, các ông hoàng, Vu Lan, chuyện thờ cúng mồ mả tổ tiên, chuyện kiếp trước kiếp sau, chuyện gọi hồn gọi vong, mượn xác, nhập xác, ma quỷ, cảnh giới - mà tôi hoàn toàn không biết?
Kinh Lăng Nghiêm thì nói Tam giới có Dục giới, Sắc giới, và Vô Sắc giới; mỗi cõi giới chia nhiều tầng khác nhau, tùy vào mức độ nặng nhẹ của tình và tưởng. Tình càng nhiều thì càng chìm ở cõi thấp vì tình có tính nặng và u ám, tối tăm; tưởng nhiều thì lên các cõi trên vì tưởng nhẹ và sáng hơn. Cũng giống như cùng bản chất là H₂O nhưng có thể đóng thành băng hay đá rắn hoặc thành thể lỏng, thành tuyết, thành mây, mù, hơi nước, không khí, v.v... Cái nặng chìm xuống, cái nhẹ bay lên. Trong lục đạo luân hồi, chỉ có loài người và súc sinh là có hiện tướng xác thịt; giữa hai loài, động vật tình nhiều, tưởng ít nên chúng chủ yếu vận động bằng các cảm xúc bản năng như đói thì cắn giết nhau để ăn, khi dục tâm nổi thì giao cấu. Còn trong loài người, có người tình nhiều tưởng ít thì sẽ hành xử chủ yếu theo sân hận, si mê, hay tham lam; người nào tưởng nhiều hơn thì sẽ thông minh, lý trí hơn.
Chuyện tình và tưởng này, tôi thấy có lý nhưng còn các chuyện khác, tôi vẫn chưa thể nhập được vào đầu.
Ngày mai tôi sẽ tiếp tục vào chùa để tìm hiểu.
Chương 10
Lục đạo luân hồi
Dạo này, trời thường mưa suốt đêm nhưng sáng thì hửng nắng. Tôi ăn sáng rồi ra khỏi nhà lúc 7 giờ 15 phút. Con đường đất chạy vào chùa rất dài, ngang qua đến bốn làng. Đi hết ba làng, tôi đếm được hơn 10 chùa, đình, đền trong khoảng bốn cây số; có làng lại phân thành các xóm nhỏ (thượng, cầu, mỹ, hạ). Tôi đi gần đến chùa thì một thanh niên chừng 20 đứng giữa đường vẫy tôi:
“Cô ơi cho cháu đi nhờ về cuối làng.”
Tôi đứng lại cho cậu ta đi nhờ. Tôi bịt mặt kín mít nên cậu ấy tưởng tôi là bà già; lại thấy tôi đi xe không được thuần nên cứ ngoái cổ lên nhắc:
“Cô vào số 3 chỗ này đi.”
“Cô vào số 4 đi cho nó đều máy.”
“Cô người làng này à?”
“Không, tôi ở Hà Nội, vào chùa có tí việc thôi.”
“Cháu ở cách đấy hai cây.”
Buồn cười, những cái giao tiếp đơn giản của người Việt đôi khi cũng làm tôi lạ lẫm.
Hôm nay chùa vắng, bàn nước và sân không bóng người. Tôi đi lên chính điện thì thấy một đống phân chó ở trước bàn thờ. Gặp chú Đạo Ngũ ngoài vườn rau, tôi nói chú Ngũ ơi, có con chó nào ị ngay trong chính điện. Chú Đạo Ngũ bỏ rơi rổ rau chạy vội vào, lại thấy chó ăn cả mấy trang Chư kinh nhật tụng tơi tả trên nền gạch. Chú Đạo Ngũ giậm chân:
“Giời ơi, con nghiệt súc này, không biết kiếp trước nó làm gì mà kiếp này phá kinh sách của Phật thế này hả giời? Thế này thì kiếp sau nó sinh làm con gì đây?”
“Giời ơi, con nghiệt súc, nó phá hoại kinh sách của tôi thế này này...”
“Sao nhà nào có chó không xích lại, lại thả rông chó vào chùa cắn kinh sách thế này, bất lịch sự quá đi mất.”
Hai chúng tôi cầm gậy lùa con khó ra khỏi chùa nhưng nó không chịu đi, cứ chạy vòng quanh rất lâu mới ra khỏi chùa. Rồi chú Đạo Ngũ nhờ tôi mang cuốn kinh bị chó cắn rách đi “hóa”.
“Là đi đốt” - chú Đạo Ngũ nói khi thấy tôi ngần ngừ không chắc mình phải làm gì - “Cô mang ra chỗ kia hóa cho nhà chùa với. Từ hôm qua đến giờ hóa hai cuốn rồi đấy cô ạ.”
Hóa xong cuốn kinh, tôi theo một bà già đi quét chùa. Một lúc sau, chú Đạo Ngũ đã mang ra một cái khay có năm loại đậu - xanh, đỏ, đen, trắng, vàng - cùng với một chậu cát và một bó hương. Chú Đạo Ngũ lấy hai nén hương chập thành một nhánh, xếp năm nhánh ngang, đan với năm nhánh dọc, gọi là tứ tung ngũ hoành. Chú giải thích tứ tung ngũ hoành tượng trưng cho không gian thời gian vô tận, vô biên, còn năm loại đậu là “ngũ chủng tính.”
“Đây là phép tán sa cho người chết trùng tang cô giáo ạ. Người chết trùng thì sau khi chôn, đến 12 giờ đêm, có thần trùng biến thành con chim từ trên lao xuống mộ mổ xác người mới chết. Thần thức người mới chết vẫn còn quyến luyến cái thân xác mình nên cảm thọ sự đau đớn, do đó họ về bắt người nhà chết thế. Cho nên phải làm phép tán xa. Thầy cháu nói phải có một người ngoài họ đi ngược chiều gió rắc cát quanh mộ, giống như là quây hàng rào để bảo vệ ấy. Rồi rắc đậu lên để đậu mọc thành cây thì con thần trùng nó nghĩ đây không phải mộ mới nên nó không tới. Nhưng đầu tiên phải để đậu, cát, và hương lên bàn thờ luyện trong 21 ngày rồi mới mang đi làm được, trường hợp nào gấp thì bảy ngày.”
“Hay nhỉ” - tôi nghĩ - “Người dân mình công nhận trí tưởng tượng phong phú. Không biết bao nhiêu phần trăm trong những niềm tin này thuộc về đạo Phật, và bao nhiêu phần trăm là do thêm thắt từ sự mê tín, lại còn các loại giáo điều của các triều đại cầm quyền nữa. Đa phần người Việt Nam không hiểu rằng ngay cả tôn giáo cũng có lịch sử và một quy trình xã hội hóa, bản địa hóa, nên nó biến đổi theo địa phương và theo chế độ chính trị; cho nên cái mà họ thấy là hiển nhiên ở thời này chưa chắc đã là sự thật mà chỉ là sản phẩm nhất thời hoặc sản phẩm của một quá trình lịch sử.”
Chú Đạo Ngũ vừa cẩn thận đan hương vừa hỏi tôi:
“Cô giáo có biết vì sao mọi người khi khấn lại nói ‘con lạy chín phương trời, con lạy mười phương Phật’ không?”
“Không ạ.”
“Ôi, dễ thế mà không biết à?” - chú Đạo Ngũ cười - “Vì Phật thì có ở Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Bắc, Tây Nam, Tây Bắc, Đông Nam, thượng và hạ, thế là mười phương; còn trời thì không có hạ nên chỉ có chín phương thôi, trời phải ở trên chứ.”
“Sao Phật lại cũng có ở phương dưới ạ?”
“Vì chư Phật có lòng từ bi nên cũng hóa thân vào các cõi dưới để cứu độ chúng sinh ở các cõi đấy cô ạ. Như là Bồ Tát Địa Tạng ở trong địa ngục để hóa độ những người bị đọa vào địa ngục đấy, cô hiểu chưa?”
Tôi cười:
“Vâng, hiểu rồi ạ.”
“Thế cô có biết lục đạo luân hồi là gì không?”
“Không ạ.”
“Ôi lại cũng không biết à?” - chú Đạo Ngũ cười - “Là trời, người, a-tu-la, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu chưa giải thoát thì cứ theo nghiệp đầu thai vào mấy đường đó. Thấp thì xuống địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh; còn cao hơn thì làm người hoặc atula; cao hơn nữa thì lên các cảnh trời. Nhưng trên trời, hết phước thì lại đọa xuống.”
“Thế nếu giải thoát thì ở đâu ạ?”
“Ôi cái này thì cháu cũng không hiểu rõ đâu, cô giáo hỏi thầy ấy, nói nhiều mà nói sai thì lại khẩu nghiệp chết.”
“Chú Ngũ ơi, tại sao mọi người vào chùa gọi thầy là thượng tọa? Thượng tọa là gì ạ?”
“À, thì là cấp bậc thôi. Khi nào thụ giới tỷ khiêu rồi thì từ mấy hạ trở lên ấy thì sẽ là đại đức; rồi mấy chục hạ thì lên thượng tọa, rồi lên hòa thượng, rồi đại lão hòa thượng. Ở Việt Nam thì cháu chỉ thấy có mấy đại lão hòa thượng thôi.”
“Thế như chú bây giờ thì là đại đức hay gì ạ?”
“Ôi không, cháu mới là chú tiểu thôi” - chú Đạo Ngũ che miệng cười - “Khi nào thầy thụ giới cho thì cháu mới được là sa di, tức là sư bác đấy, xong rồi lúc đấy lại chờ vào Giáo hội, khi nào có các giới đàn mà mình tu tập đầy đủ thì mới được thụ giới tỷ khiêu, lúc đấy mới được đắp cà sa, dự vào hàng Tăng Bảo đấy ạ.”
“Thế bao giờ thì chú được thụ giới?”
“Cái đấy tùy thầy cháu. Giới luật thì nói phải 20 tuổi nhưng mà còn tùy vào thầy. Đủ tuổi rồi mà thầy mình thấy tu tập không đến nơi đến chốn thì cũng chẳng được. Thầy hay mắng cháu là uy nghi không có. (cười) Phải đường đường tăng tướng, chúng đức uy nghi cô ạ.”
Chú Ngũ làm tôi rất tò mò và quý mến bởi vì chú rất hồn nhiên. Thực sự chú vẫn còn là một đứa trẻ; mỗi lần thầy có khách đến chơi là chú lại từ bếp chạy ra háo hức hóng huyện, thầy đuổi năm lần bảy lượt chú mới chịu đi. Hầu như ngày nào chú đi học về cũng bị thầy mắng vì tội la cà dọc đường. Mỗi lần thầy mắng, chú đều khép nép đứng, cúi đầu vâng dạ, khuôn mặt rất nghiêm trang hối lỗi, nhưng thầy vừa đi là chú lại toét miệng cười. Nhưng phút này, chú là đứa trẻ; phút sau chú nói những lời buông xả và thâm sâu của một bậc đắc đạo. Tôi bắt đầu nghĩ có lẽ đúng là có cái mà người là gọi là “căn tu”. Thầy Đạo bảo, vào thời chính pháp, Phật còn tại thế thì được gặp Phật rồi nghe Phật thuyết pháp, người ta phát tâm rất dễ và có thể giác ngộ chỉ bằng một bài pháp ngắn. Còn giờ là thời mạt pháp rồi, Phật đã nhập diệt mà các bậc thánh cũng ít nên người phát tâm được đều phải có căn từ trước hoặc là các bậc tái sinh trở lại theo nguyện. Thật sự, chú Ngũ vẫn là một đứa trẻ; thế thì làm sao đã đủ ý thức chuyện sinh tử, giải thoát, mà quyết định từ bỏ cuộc sống trần thế để xuất gia cầu đạo?
Chuyện này tôi cũng đã hỏi chú Đạo Ngũ và chú kể.
Chương 11
Chuyện sư chú đạo ngũ
Chú Ngũ có phải người làng này không?
Không, cháu người gần bên chùa Hương ý.
Nhà chú làm nông nghiệp ạ?
Bố mẹ cháu thì làm nông nghiệp. Thuần luôn. Từ cụ cho đến ông, cho đến bố mẹ đều làm.
Thế như thế nào mà chú lại đi tu?
À thì từ nhỏ đến lớn nói chung nhiều cái tính cách của cháu nó cũng không giống với các bạn cùng trang lứa. Ví dụ lúc nhỏ nhỏ ăn cơm thì không thích ăn canh cua, canh cá, có thì cũng ăn nhưng không ăn được nhiều, không phàm ăn. Cứ thích ăn cơm đường thôi. Lớn lên một tí thì lúc nào trong con người mình nó cũng thích các đồ Phật giáo; thấy viên đá, viên đất thì cứ thích tưởng tượng là Phật hay là Bồ Tát, cho lên bàn thờ.
Thế nhà chú có theo Phật không?
Nhà cháu thì không theo Phật. Chỉ gọi là thờ ông bà gia tiên thôi. Thế nhưng ông bà cũng hay ra chùa. Dân cháu thì có cái tục là mỗi năm vào Hương quy y một lần. Thì khoảng độ hết lớp Năm, cháu sang bà cháu chơi thì gặp một bà. Bà này gọi là bà sãi ở chùa nhà cháu. Bà ấy bảo là, bây giờ Béo có thích tụng kinh không? Hồi ở nhà, cháu rất là béo, nên bị gọi là Béo. Thế có thích ra chùa tụng kinh không, bảo cháu thích, nhưng mà làm thế nào hả bà? Bảo bây giờ về ăn uống tắm táp đi rồi sang đây bà dẫn ra chùa. Thế là cháu ra chùa, ngồi tụng kinh Pháp Hoa. Thấy rất hay! Thế là từ đấy cứ ra chùa tụng kinh rồi dần dần, cứ ngày mùng một thì sáng cháu đi học, chiều ra chùa cùng các cụ. Cứ dần dần như thế....
Xong lúc nào thì chú xuống tóc và năm nào chú ra chùa này?
À, thì bố mẹ cháu hai lần vào Hương để cúng cháu nhưng mà không có duyên.
Tức là chú muốn xuất gia ở chùa Hương?
Vâng, cuối năm 2005, có cái bà này hay đi chấp tác ở chùa Hương, bà ấy cho cháu với con của bà í vào chùa Hương nhổ cỏ. Vào đấy rất là thích! Có một sư ông ở chùa nhìn cháu thì biết có căn duyên tu hành nhưng đưa vào thì không gặp được thầy trụ trì, chỉ gặp được các sư thôi. Thế các sư bảo là bên chùa Hương không nhận trẻ con vì ở trên núi, điều kiện học tập cũng khó. Thế là cháu về. Hai lần vào đấy đều không được, thế là thôi. Cháu vẫn ra chùa vào mùng một. Bẵng đi hai năm, đến năm 2007 thì có hai ông bà này là người thân của thầy mình, ông ấy ra chơi, nói chuyện với bố mẹ cháu, thế là bố mẹ cháu mới định đưa cháu ra chùa này cúng cho thầy. Bố cháu bảo, bây giờ con có tu được không thì bố mẹ không biết, nhưng con muốn thì con đi, không thì ở nhà. Cháu bảo là, con sẽ tu. Đến lúc đi nó... nói chung nghĩ lại lúc đấy rất là cảm động! Rất cảm động í! Lúc đấy có một chú là anh của bố cháu, thế lúc cháu vào buồng lấy cặp để đi thì bố cháu mới ôm cháu khóc. Thì chú í lúc đấy cũng ôm cháu khóc....
Lúc đấy chú học lớp mấy?
Cháu học lớp 7.
Lúc đấy chú có biết tu là thế nào không?
Không, không biết tu là thế nào! Chỉ biết là rất thích ở chùa! Rất thích các đồ Phật giáo. Nhìn kinh sách, rồi trống, rồi nhìn tượng pháp là rất thích! Chỉ biết là như thế thôi! Bố mẹ cháu biết cháu thích thì chỉ hỏi là, bây giờ con có tu được không thì bố mẹ mới dám gửi thầy. Mình đều là người trần mắt thịt, mình không phải là thánh, tu thì mới có thể thành thánh được, thì con có làm được không, không thì thôi ở nhà. Cháu bảo, con quyết tâm ra chùa để tu và mang lại ánh sáng cho gia đình. Đấy, lúc đấy cháu lại nói được cái câu đấy chứ. Sau này chị cháu cứ nhắc lại mãi.
Hôm chú ra chùa thì ai đưa chú đi?
Hôm đấy đi là có mẹ cháu này, chú bên bố cháu này, cậu cháu và một bà nữa đưa cháu ra đây.
Hồi đấy chùa bé lắm đúng không?
Chùa bé. Rỗng tuềnh. Lúc đi thì cứ bảo ôi mãi sao chưa đến chùa? Vào đến chùa đây thì thấy cái cổng, rồi vào trong thì chung quanh vẫn còn tháp các tổ cơ, vẫn còn ngổn ngang lắm! Ruộng đồng, vườn tược. Cháu về thì được sắp cho cái phòng ở một mình. Cháu ở đấy quét sân, quét hè. Cháu ấn tượng nhất là chùa rất mát và đẹp! Vào trong nhà tổ thì, đấy, cứ mê mẩn thôi, ngày xưa trong đấy hay mở cái câu niệm nam mô A Di Đà Phật, rất là ấn tượng! Tối đấy thì thầy lại vào chùa trong, sư ông thì đi hạ nên ở chùa còn mỗi cháu ở với bà vãi. Thì tối đến, cháu ở một mình trong phòng, nhớ đến gia đình thì cũng có khóc. Thế tự nhiên đang khóc dở, cháu mới nghĩ ô thế này không được, mình vào chùa rồi thì phải quyết tâm, không được khóc nữa. Thế là thôi.
Lúc đấy chú mới chỉ là ở chùa thôi chứ chưa xuống tóc, đúng không?
Mới ở chùa thôi, vẫn để tóc. Mãi gần hai năm sau, thầy cắt tóc cho chú Đạo Nhị thì cháu mới xin cạo tóc luôn. Chú Đạo Nhị cạo buổi sáng làm anh, cháu cạo buổi chiều làm em. Lúc đó thành hình đồng .
Hồi đấy chú có thị giả thầy không?
Cháu thì quả thực còn rất nhỏ, không biết thị giả là cái gì cả! Chỉ biết là thầy bảo cái gì mình làm đấy. Nấu cơm nấu nước, thỉnh thoảng giặt y cho thầy.
Hồi đấy chú có hay bị thầy quở không? (cười)
Cũng thỉnh thoảng thôi. Cháu có cái tính những khi đi học về thấy chỗ nào hay là mình lại sà vào một tí. Đấy, có cái tính thế mới khổ! Cứ đi học về thấy chỗ nào trang hoàng hay chùa nào người ta tổ chức cái gì đấy là vào một tí. Rồi về thầy hỏi thì mình nói dối. Lại lười nữa. Cho nên thầy đánh. Ngày xưa cháu tụng kinh buổi tối cháu ngủ gật thầy còn cầm cái dùi gõ vào đầu cháu, sưng vù lên!
Làm sao đang tụng mà lại ngủ gật được ạ?
Không biết làm sao tự nhiên mình đang ngồi rất là nghiêm trang nhưng mà mình chỉ cần chùn lưng một cái là mình ngủ gật. Nghiệp của cháu đấy. Nhiều lúc nghĩ buồn phát khóc lên í.
Chú đã bao giờ đang tụng kinh mà ngủ gật ngã ra chưa? (Cười)
Cháu thì không bị ngã ra sau nhưng mà bổ mặt bổ mũi xuống đất thì như là giã gạo! Cứ đang tụng kinh thế này nhớ, đập thế này (bộp, bộp), đập rất mạnh! Các bà các cô bảo là, chú Ngũ lên chùa tụng kinh như giã gạo í! (cười)
Đi tu chú thấy cái gì là khó nhất?
Cái đi tu, khó nhất của mình là vượt qua được tài, sắc, danh, thực, thụy. Năm cái ngũ dục đấy là khó vượt qua nhất! Đấy, ngủ gật là cái việc khó vượt qua.
Từ hồi đi tu đã bao giờ chú nản chí chưa?
Nếu mà nản chí thì... Thực ra trên con đường tu hành mình có sự nản chí chứ không phải là không. Nản chí trong... gọi là trong một vài phút. Ví dụ cái tuổi dậy thì của mình thì chẳng ai tránh được cái gọi là rung cảm đầu đời cả! Thế đôi khi tự nhiên mình nghĩ đến mấy cái vớ vẩn!
Ví dụ là cái gì?
Ừ thì ví dụ bây giờ là thích bạn nọ này, thích bạn kia này. (cười)
Thích bạn gái chứ gì ạ? (cười)
Tức là cứ như vậy thôi. Cứ như vậy chứ bây giờ... thôi thôi cô đừng hỏi... (cười)
(Cười)
Tức là mình có sự suy nghĩ, có sự rung cảm. Mình rung cảm thì sẽ mất đi cái tâm đạo. Đấy gọi là ma lực. Ma lực khiến mình chướng đạo... Vì mình sinh ra bằng xương bằng thịt, từ cha mẹ sinh ra chứ không phải từ đất mà chui lên, từ trên trời rơi xuống, từ bông hoa sen nở ra, cho nên mình vẫn còn nhiều cái nghiệp chướng. Khi mình thích một đối tượng nào đấy thì mình cứ ngồi nghĩ, cứ phân tâm rất là nhiều!
Chú đi học thì mặc quần áo nâu hay là...
Không. Ban đầu lớp 10 cháu vẫn còn mặc quần áo đồng phục.
Mặc đồng phục nhưng mà đầu trọc thì các bạn ở lớp có biết là...
Có biết!
Biết thì có trêu không?
Lớp 10 thì các bạn có trêu nhưng mà về sau cháu mặc quần áo nâu đi học thì các bạn ít trêu.
Có bạn gái nào trêu ghẹo không? Chú có sợ là sau này trên cái đường tu hành, mình gặp một cô nào đấy...?
Sợ lắm! Rợn tóc gáy luôn! Sợ lắm, sợ lắm!
Cái đấy có phải là cái sợ nhất không ạ?
Cái đấy cháu rất là sợ! Cái ngủ gật đôi khi còn không ấy... Vì mỗi người một nghiệp mà, người nghiệp ốm đau, người nghiệp ăn uống, nghiệp bệnh tật, có người nghiệp tình cảm,... rất nhiều loại nghiệp. Nhưng quả thực trên con đường tu hành của mình mà bị nữ giới lôi kéo ra khỏi đạo thì cứ gọi là ê chề! Phải gọi là ê chề!
(Cười)
Cháu rất là sợ! Rất sợ! Như cái ngủ gật thì mình có thể chăm chỉ tụng niệm là hết. Chỉ sợ là mình vào chùa, mình chỉ biết một khía cạnh cuộc đời, sau này ra ngoài mình không va chạm nhiều thì... Lúc còn nhỏ thì cái rung cảm giữa hai người không có sâu đậm, nhưng khi lớn lên rồi mà rung động thì rất là khó bỏ! Do vậy mình mà không kiên trì tụng niệm, cái đức lớn lên thì khó vượt qua nghiệp chướng. Cháu rất là sợ!
Thế chú theo Tịnh Độ ạ?
Cháu thì... ngày nhỏ cháu rất thích Mật tông. Vì Mật tông rất nhiều đồ đẹp, rất thích. Từ nhỏ rất là thích! Thế nhưng sau này cháu được xem các bài giảng Tịnh Độ, cháu tự suy nghĩ là mình là dạng độn căn, trí tuệ thiển cận, do vậy khó tu pháp môn Mật tông. Mật tông chỉ cho người thượng căn lợi căn thôi. Cháu thấy mình học pháp môn Tịnh Độ thì rất nhanh, thấy người ta làm một lần là mình nhớ luôn, về có thể làm cho Phật tử được ngay!
Nếu phải lấy một chữ làm tôn chỉ cho sự tu hành của mình thì chú lấy chữ gì?
Chữ “thiện.”
Chú có tin là một ngày chú sẽ đạt được cái gì đấy trong đường tu của mình không?
Cháu tin là sẽ có! Cứ chăm chỉ giới luật, nhớ lời Phật dạy, rồi niệm Phật. Trong cuộc đời cháu lúc nào cũng ước mơ là cháu chuyên được ba thứ. Chú Lăng Nghiêm này, thập chú này, với cả kinh Pháp Hoa.
Vì mình thấy có duyên với những cái ấy ạ?
Tức là trong từng đấy năm thì cháu chỉ ước mơ là mình chuyên tu ba cái í, còn ngoài ra mình sẽ tụng kinh Địa Tạng. Có ước mơ cao sang gì đâu! Đấy, nói thực có gì trong đầu cháu nói hết với cô rồi đấy! (cười)
Chương 12
Không làm chén trà đầy
Khoảng 10 rưỡi sáng nay, có hai sư cô trẻ đưa một thanh niên tầm 18 tuổi đến xin ở chùa trong lúc đi học cao đẳng. Hai sư cô ở chùa trên phố; đều trẻ, ăn nói nhỏ nhẹ, dáng đi thanh thoát, khuôn mặt xinh xắn, mắt sáng và hiền. Cậu thanh niên mặc áo phông màu nõn chuối, đi một cái xe máy màu vàng, tóc cắt gọn gàng, có khuôn mặt đẹp trai - tên là Huy. Huy sẽ vào ở nhờ trong chùa ba năm cho đến lúc học hết cao đẳng.
Trưa nay cơm chay có đậu phụ, rau muống luộc, củ măng xào, và sung muối. Ăn cơm rất ngon. Huy ngồi gần chỗ tôi, ăn nhỏ nhẻ. Hai bà già ngồi cạnh tôi nhìn Huy, chép miệng:
“Chịp, gớm cái chú này cứ như con gái mới về nhà chồng nhỉ.”
“Ỏn ẻn thế không làm được việc thì thầy lại vụt cho hoặc bắt quỳ hương.”
“Giống như hôm trước bà này bị thầy bắt quỳ hương này.”
“Tôi bị bắt quỳ bao giờ, thầy bảo quỳ cho vui nhưng tôi bảo chả vui, con có tội đâu mà quỳ. Cô ạ, dạo trước có một cháu với một bà ở đây này, nó nấu thế nào mà để dầu bắn ra khắp bếp, bà ấy phải lau, bà ấy tức, mắng, thế là hai bà cháu cãi nhau to, khóc váng lên, thầy không đánh đâu nhưng thầy bắt cả hai đội hương quỳ. Thầy bảo tôi, bà quỳ cùng cho vui, tôi bảo con có tội đâu mà quỳ.”
Tôi tưởng tượng ra cảnh đó, buồn cười quá, phì cười.
Ăn xong, lũ trẻ con tự phân chia công việc mà làm. Tú cho chó ăn, Hùng cho mèo ăn, Thắng lau dọn trong bếp và ngoài nhà sàn, còn chú Đạo Ngũ và Huy rửa bát. Thắng chỉ cho tôi mấy cây dại ngoài vườn:
“Đố cô biết cây này là cây gì?”
“Cỏ chứ gì.”
“Không phải cỏ đâu, đây là cây mía, lúc nó lên non non thế này, ăn cái thân nó ngọt lắm í ạ.”
“Nói xong tuốt ra ăn.”
“Thế cây này là cây gì?” - tôi chỉ một cây khác.
“Cây lộc vừng, ở nhà cháu cũng có một cây.”
“Quê cháu ở đâu?”
“Ở Mỹ Đức ạ. Bà ngoại cô ở đâu?”
“Hải Dương.”
“Ông ngoại cô ở đâu?”
“Ông ngoại thì phải ở với bà ngoại ở Hải Dương chứ.”
“Ừ nhỉ, thế mà cháu không biết.”
Xong các công việc rửa bát, dọn bếp đã hơn 1 giờ, đến giờ ngủ trưa. Tôi không lên phòng trên nhà sàn mà muốn vào xem phòng bọn trẻ con. Khi tôi vào, cả ba đứa đã nằm trong giường. Phòng có tám giường tầng, kê bốn góc phòng, hai giường chồng lên nhau như ở ký túc xá. Phòng rất tối, bừa bộn và hôi vì bọn trẻ không dọn. Cả chiếu và gối đều bết những vệt đen bẩn, cáu lại. Thấy tôi vào, Hùng kêu:
“Cô ơi, cô vào đây ngủ với bọn cháu đi; cô ngủ giường kia kìa.”
“Giường đấy của anh Ngũ chứ” - Thắng nói - “cô ngủ giường trên này này.”
“Thì của anh Ngũ nhưng mà anh Ngũ sang ngủ giường khác cũng được chứ sao; mọi khi vẫn thế mà.”
“Thầy mà biết thầy đánh chết. Thầy bảo không được ngủ lang, giường ai nấy ngủ.”
Tôi vào một giường còn trống, nằm xuống. Bọn trẻ con không đi ngủ ngay mà còn trêu nhau. Tú bật điện lên đọc sách. Hùng kêu:
“Giời ơi, lúc đọc thì không đọc, giờ ngủ thì lại đọc.”
“Lúc đọc thì không đọc” - Thắng nhại.
“Đọc” - Hùng kêu.
“Đọc” - Thắng nhại.”
“Đọc.”
“Đọc.”
Chúng nhại nhau như thế đến mười phút và cười khúc khích. Mấy phút sau tất cả đã thở đều.
Chúng tôi ngủ đến chiều. Ngủ rất say. Khi tôi dậy, thầy đang nằm võng ngoài nhà sàn. Một bà già và một thằng bé chừng gần hai tuổi ngồi dựa cột ở đầu võng. Bà già đang nhìn ra sân kể lể chồng của con thế này, con dâu con thế kia, rồi lợn gà rau lúa, rồi nhà ông nọ bà kia đầu xóm cuối xóm... Bà cứ kể, cũng không cần thầy nghe. Thằng bé mon men đến võng của thầy; thầy bế nó lên; thằng bé nằm úp trên ngực thầy; năm phút sau đã thấy nó ngủ. Một lúc lại một bà già hơn 80 tuổi, đã lú lẫn, vào chùa. Bà lang thang quanh chùa nhặt nhạnh cái nọ cái kia rồi ngồi xuống bàn nước. Hai bà cụ thi nhau kể lể oang oang. Thầy chỉ gật gật “vâng, vâng, thế hả cụ?”
“Cứ để bà ấy nói” - thầy cười, bảo tôi - “Buồn cười lắm. Có hôm, sáng sớm bà ấy lên chùa bảo thầy, con có làm gì nên tình nên tội đâu mà thầy chửi con suốt đêm. Thầy lôi cả bố mẹ con ra chửi.”
Tôi ngồi ở nhà sàn, gần chỗ thầy, bỏ iPhone ra xem tọa độ chùa. Tôi hỏi thầy:
“Thầy ơi, thế hôm qua các tổ ‘lên’ là ai thế ạ?”
“Là hai cụ tổ của chùa, đã mất lâu rồi.”
Tôi hỏi thầy các tổ từ đâu “lên”, hiện nay các tổ đang ở đâu, tôi tưởng sau khi chết thì là hết hoặc là nếu không hết thì người ta đi đầu thai làm người chứ...
“Cũng tùy cô ạ.”
Thầy nói, trong đạo Phật, chết không phải là còn, cũng không phải là hết và ta phải xem xét ta nói chết cũng như tái sinh, đầu thai trong hệ quy chiếu nào. Nếu ta vẫn còn đang mê, tức còn đang trong luân hồi, thì chết sẽ là một sự kiện có thật, toàn bộ thế giới sẽ có thật như các hiện tượng riêng rẽ, con người riêng rẽ. Còn nếu đã ngộ thì ta sẽ thấy những khái niệm này hoàn toàn khác. Sống chết đều không có thật, và cũng không có ai chết, như ta vẫn nghĩ.
Đối với đa phần chúng sinh còn trong luân hồi, khi chết thì thân xác sẽ tan rã nhưng thức thứ tám hay a-nại-da thức, còn có thể tạm gọi là thần thức, sẽ không mất. Vào khoảnh khắc một người hấp hối, tất cả các cõi giới (trời, người, a-tu-la, ngạ quỷ, súc sinh, địa ngục...) đều mở và họ sẽ bị nghiệp lực chiêu cảm mà đi vào cõi giới tương ứng. Người làm nhiều việc thiện, có phước, thì nghiệp thức sẽ chiêu cảm cảnh trời có chư thiên đến nổi nhạc đón đi, nên họ sẽ đi theo và sẽ sinh thiên. Còn người nghiệp nặng, đã phạm các tội trọng như giết người, nhất là giết cha mẹ, giết thầy, thì họ lập tức đọa địa ngục. Đối với những chúng sinh mà nghiệp không rõ ràng, nghĩa là họ vừa có thiện nghiệp vừa có ác nghiệp thì sẽ có một khoảng thời gian định nghiệp để quyết định họ sẽ tái sinh vào cảnh giới nào hoặc tiếp tục ở cảnh giới quỷ thần để thọ nghiệp. Khoảng thời gian định nghiệp này với nam là năm tuần, với nữ là bảy tuần (vậy mới có cúng 35 ngày và 49 ngày trong phong tục của người Việt và Trung Quốc). Trong khoảng thời gian định nghiệp, họ thường trông chờ người nhà làm phúc và hồi hướng công đức cho họ được chuyển sinh lên cảnh giới lành.
“Vậy các tổ thì đang ở đâu ạ?”
“Cũng tùy việc tu tập của họ lúc trước mà có người ở cõi Phật, cõi trời, có người trong cảnh giới quỷ thần, gọi là quỷ thần tăng. Tùy nhân quả, nghiệp báo.”
Thầy nói người tu hành mà chấp mắc vào chùa của tôi, đệ tử của tôi, thì sau khi chết, họ tiếp tục dính mắc vào chùa với đệ tử nên không thể siêu thoát. Thần thức họ cứ quanh quẩn ở chùa đó và có thể tiếp tục tái sinh để trở lại chùa. Cho nên nhiều người trụ trì chùa bây giờ vốn từng trụ trì ở chùa đó trong các kiếp trước; vì dính mắc với chùa của mình mà không giải thoát được.
“Thế địa ngục là thế nào ạ? Ở đâu ạ? Ở dưới lòng đất hay ở đâu ạ?”
“Không. Địa ngục có địa ngục siêu trần gian và địa ngục trần gian. Địa ngục trần gian là việc mưu mô toan tính, làm điều xấu hại người hại vật, v.v... đã phải chiêu cảm quả khổ thành các cảm thọ đau đớn, dằn vặt, sợ hãi trong tâm ngay lúc sống, hoặc sẽ bị bệnh tật. Còn địa ngục siêu trần gian là lúc chết đi phải sa vào cảnh giới tăm tối do nghiệp thức biến hiện ra. Đây là thức nhìn thấy như vậy. Cô đọc kinh Lương Hoàng Sám sẽ thấy có mô tả rõ các cảnh địa ngục khác nhau. Do vọng tâm mà sinh ra mọi thứ; còn trở lại bản thể tự tính thì không còn thấy thế giới thật như đang cảm nhận bằng mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, nữa. Như cái cốc này...”.
Thầy thả cái cốc đang cầm trong tay rơi xuống sàn vỡ tan. Thầy bảo ban đầu vốn không có cái cốc. Do có người sinh tâm muốn có một vật để đựng nước uống, có đất, có lửa, có nước, có gió, thế là đủ duyên, người ta nặn, nung, và quy ước gọi là cái cốc. Chưa đủ duyên thì đất đấy, lửa đấy, mà không làm ra được cái cốc. Ta có ý có cái cốc, và ta gọi là cái cốc để giao tiếp với nhau cho dễ, rồi ta bèn chấp rằng có một “cái cốc” thật nhưng thực ra thì chỉ có ý niệm và tên gọi về cái cốc, còn bản thân vật tròn tròn này không tự gọi nó là cái gì. Nó chỉ là nó. Nó không đẹp, không xấu, không tự gọi nó là gì, không tự định nghĩa, không có ý nghĩa, không dây dưa với bất cứ cái gì khác. Với mọi hiện hữu, ta đều có một thế giới khái niệm như thế, thấy chúng có thật như thế... Chứ bản chất mọi thứ đều luôn biến đổi, không tự định nghĩa, không tự có ý nghĩa. Thân, tâm này cũng thế. Thân tâm này không có ai đằng sau cả. Nó Vô Thường. Không. Vô Ngã.
Không? Vô Ngã. Cái này thì tôi cũng từng nghe, nhưng luôn cảm thấy thật hoang đường. Làm sao mà mọi thứ lại có thể là không được? Núi rừng đồng ruộng, cây cỏ chim muông, nhà cửa xe cộ, TÔI bằng xương bằng thịt đây, làm sao có thể không và vô ngã được.
Năm giờ chiều, trời bắt đầu tối. Tôi định về cho kịp giờ cơm ở nhà nhưng lại thấy chú Đạo Ngũ dạy Thắng thỉnh chuông ở đầu hồi nhà tổ nên nán lại xem. Thắng mặc áo thụng nâu đứng tấp tểnh cạnh chú Đạo Ngũ. Thắng chỉ muốn thỉnh cho xong, nên đọc nhát gừng mấy câu rồi lại dừng cắn móng tay, ngắm móng tay, nghịch vạt áo. Chú Đạo Ngũ thì nghiêm trang đứng cạnh, người thẳng tưng, hai tay chắp sau lưng, theo dõi Thắng như một bậc tổ theo dõi chú tiểu nhỏ của mình, thỉnh thoảng lại nhắc:
“To lên.”
“Chậm thôi.”
“Đọc lại đi.”
“Cái gì? Nhắc lại xem nào.”
“Sai rồi, đọc lại. Phật nhật tăng huy, pháp luân thường chuyển. ‘Pháp luân’ chứ không phải ‘Pháp luôn’. Luân là cái bánh xe. Bánh xe pháp í.”
Chao ôi, một đứa trẻ 16 tuổi đang cố gắng dạy ĐẠO cho một đứa trẻ 12 tuổi. Tôi lấy điện thoại ra chụp nhưng đứng góc nào cũng không sao bắt được đầy đủ cái tôi đang thấy. Đây là một cái đẹp tinh khiết, không cần cắt nghĩa bởi bất cứ lý luận mỹ học nào, cũng không thể bị nắm bắt, đóng khung. Tôi chỉ có thể đầu hàng và để nó nhấn chìm mình, tràn từ trong ra ngoài, trở thành một trạng thái không thuộc về cái đẹp mà thuộc về tình yêu - dù nói tình yêu cũng không chính xác. Dù kẻ dạy có đạo mà dạy hay không, dù người học có biết mình đang tiếp nhận đạo hay không, và dù kẻ dạy lẫn người học có đang có đạo hay không không hề quan trọng. Thậm chí những điều này chẳng có liên quan gì.
Trong ba mùa hè sau này, tôi sẽ còn chứng kiến muôn hình vạn trạng của cái đẹp và đường lối giáo dục đặc biệt này. Có những buổi tối vào mùa hè năm 2013, lũ chúng tôi - những người ở chùa vì các lý do khác nhau - quây quần với các sư ông và sư chú trong trai đường dạy nhau chuông mõ, kích mộc bản (5) , thỉnh trai (6) tuyên cảnh sách (7) . Có khi 5 rưỡi sáng, tôi vừa quét sân vừa nghe chú tiểu Đạo Cửu dạy đi dạy lại chú Đạo Thập chỉ một câu “A Di Đà Phật, thỉnh chư tăng thụ trai (8) ” sao cho chữ “thỉnh” thật chuẩn. Nhiều buổi khuya, tôi đã tắt đèn trong nhà sàn để ngủ nhưng vẫn nghe từ khu tăng phòng gần đó giọng chú Đạo Ngũ (khi đó đã là sư ông Đạo Ngũ) dạy các chú tiểu tuyên cảnh sách. Hoặc có những buổi tối mùa hè 2014, chúng tôi kẻ ngồi nhặt rau người đứng dựa cột trong khoảng sân tối nghe thầy dạy đọc bình văn.
Có biết lối đọc bình văn này từ đâu ra không? Từ Lục tổ Huệ Năng đấy. Cụ con nhà nghèo, không biết chữ, cho nên ai muốn cụ giảng cho kinh gì thì phải mang kinh đấy đến đọc cho cụ nghe, rồi cụ giảng nghĩa cho. Mà đọc cho cụ nghe thì phải đọc chầm chậm như hát thế này này... Như thị ngã văn, nhất thời Phật tại Xả Vệ quốc, kỳ thụ Cấp Cô Độc viên, dữ đại tỷ khiêu tăng, thiên nhị bách ngũ thập nhân câu (9) ... . Đấy, thế gọi là đọc bình văn.
Khi tôi về đến nhà đã gần 7 giờ. Cả nhà đang ngồi chờ tôi đi ăn lẩu cá kèo. Tôi đã quên bẵng việc hẹn ăn tối. Chúng tôi ăn lẩu trên phố Liễu Giai. Một em bé phục vụ đặt nồi lẩu lên bàn, rồi mang những con cá kèo còn sống nguyên, đang cong mình giãy giụa trong lưới vứt vào nồi nước lục bục sôi. Những con cá chằn lên dưới cái vung thủy tinh của nồi lẩu cố gắng thoát khỏi cái nóng nhưng chỉ mấy giây thì nằm im, hai mắt và toàn thân chuyển sang màu trắng đục của cái chết. Tôi ngoảnh đi không dám nhìn. Chị gái và em gái tôi cười, huơ đũa:
“Ăn đi, ăn đi, ngon lắm. Phải hưởng thụ chứ.”
Tôi không muốn làm mọi người mất vui nên lấy một con để ăn nhưng chỉ được vài miếng là bỏ. Cứ thấy mình róc những rẻ thịt khỏi cái xương sống bé nhỏ của con cá bất động, rồi bỏ vào miệng, nhai, nuốt, trong khi mấy phút trước nó còn sống yên vui, thật là kinh khủng.
Nhưng có điều này tôi cũng phải thừa nhận: những ngày này, tôi trân trọng hơn các tiện nghi vật chất và sự sung sướng ăn ngon ở mát. Sau cả ngày nhễ nhại nhớp nháp ở chùa, tôi không thể phủ nhận thân xác lịm đi khi bước vào căn phòng có điều hòa ở nhà; nhưng đồng thời, tôi cũng thấy rõ tôi có thể hoàn toàn xa rời các tiện nghi vật chất của cái này. Cái thiếu thốn, nóng nực, thậm chí cả cái nhà vệ sinh rất tối và hôi ở chùa (so với những gì tôi quen thuộc ở Mỹ) - không làm tôi ngại.
Những ngày này, đi ra đi vào giữa hai thế giới trong chùa và ngoài chùa, đầu tôi luôn có một câu hỏi ngấm ngầm: Thế nào là thật ? Thế nào là giả ? Giữa cuộc đời bên ngoài có vẻ rất vật chất, rất trực tiếp này và thế giới trong chùa dường như huyền hoặc với đầy những thần thánh Phật ma kia, đâu là thật, đâu là giả?
Nếu là vài năm trước, tôi sẽ không ngần ngại mà nói rằng những gì tôi đang thấy trong chùa là mê tín, một thứ sản phẩm của đầu óc dị đoan và lạc hậu. Rằng nó lại cũng chỉ là một giai đoạn khác của đầu óc tôi, một thứ mê cung tư tưởng, một thứ ảo tưởng khác. Nhưng những ngày này, một thứ linh tính sạch và bất động mách bảo tôi rằng tôi nhất định không nên trả lời những câu hỏi thật giả vào lúc này, càng không nên trả lời dựa trên những kiến thức và tư duy mà tôi đã có đến nay. Điều duy nhất tôi nên làm lúc này chỉ là quan sát. Quan sát mà không phán xét, kết luận gì. Kết luận duy nhất, nếu có, chỉ là còn quá nhiều thứ tôi phải học và tôi chỉ có thể học nếu tôi mở rộng đầu mình, tạo đủ khoảng trống cho những thứ mới tràn vào. Hôm trước, thầy Đạo có kể một câu chuyện cho mấy người ngồi ở bàn nước: Có một học giả đến gặp một thiền sư, xin được thỉnh giáo về pháp giải thoát. Thiền sư mời ông ta ngồi, rồi lấy ấm rót trà vào chén. Thiền sư cứ rót mãi, nước tràn ra ngoài mà vẫn không dừng tay. Học giả nói: “Thưa thiền sư, xin dừng tay, chén đã đầy rồi”. Thiền sư nói: “Cũng vậy đó. Đầu ông cũng đã đầy, tôi làm sao có thể rót thêm?”
“Những người trí thức hay mắc vào thế trí biện thông cô ạ - thầy nói - Trí tuệ thế gian dùng để đối đãi thế gian, nhưng không giúp mình liễu sinh thoát tử được. Khi đối diện cái chết, tất cả học thức tiền tài thế gian có giúp mình được không?”
À, bình thường khi nghe điều này tôi nhất định sẽ phản đối. Thứ nhất là điều thầy nói chỉ đúng nếu ta mặc định có đời sau, tức là chết không phải là hết. Còn nếu chết là hết, thì việc gì phải lo. Quan trọng hơn, nếu đằng nào mình cũng không nhớ được kiếp trước là gì thì việc có kiếp trước đâu có ý nghĩa thực tế nào?
À, nhưng tôi không thể là chén trà đầy. Tôi thậm chí không cả nên thâu nhận câu chuyện chén trà đầy này vào đầu nữa.
Chương 13
Chúng ta sát căn nhau quá
Buổi sáng nào đi trên đường Hà Nội tôi cũng có cảm giác đang hòa vào một dòng năng lượng bất tận mà chỉ một nửa đến từ những người những xe, những nhà cửa và cây cối. Một nửa còn lại đến từ khoảng không nằm giữa những người xe nhà cây đó. Chỉ cần tôi nhích lại hơi gần một chiếc xe, một ánh mắt sắc sẽ quay lại chặn đứng tôi, dựng lên một bức tường, hoặc có khi chém tôi tan xác. Nhưng chỉ cần tôi đi chậm lại, tách xa dòng người lúc tan tầm, tôi được thấy thêm một khoảng trời rộng với một vạt mây hồng rực.
Sáng nay bố buộc theo một cái giường gấp để tôi có chỗ ngủ trưa trong chùa. Tôi đang nói dối bố mẹ là tôi đến ở trại trẻ mồ côi để nghiên cứu. Tôi không thể nói tôi vào chùa được.
Đang mùa gặt nên từ sáng sớm, người làng đã sang gặt lúa giúp chùa. Lúa gặt rồi được chất thành đống gần bờ ao. Bây giờ, người làng lại đang giúp chùa tuốt lúa. Những người phụ nữ mặc áo dài tay, đội nón, bịt kín mặt để tránh thóc văng vào mắt, nhịp nhàng đưa từng bó lúa dài vào miệng máy tuốt. Thóc rơi rào rào; rạ bay theo đường cầu vồng, rót ràn rạt xuống góc sân, chất cao dần cao dần. Tú, Hùng, và chú Đạo Ngũ hối hả bê những rổ thóc đổ ụp xuống chân nhà sàn, chờ ngày nắng sẽ tãi thóc ra sân phơi khô. Tôi dựng xe dưới gốc nhãn, lập tức nhập hội bê thóc.
Các bà già vừa tuốt lúa vừa bàn chuyện đồng áng và người làng - lúa tốt hay xấu, bán được hay không, ai đang lòng thòng với ai, nhà ai đang giàu lên, nhà ai nghèo đi, nhà ai vỡ nợ, ai ốm, ai tai nạn, ai mới tậu xe, mua nhà, đám ma đám cưới. Rồi họ bắt đầu kể chuyện ma chuyện cõi âm - cứ người này một câu, người kia một câu, người sau đã lại phóng đại lên so với người trước. Đây có lẽ là cách mà các câu chuyện mê tín lan truyền ra trong đời sống làng quê. Một bà già ở đầu làng đi tiểu ban đêm nhìn thấy con mèo, đến sáng kể lại cho bà hàng xóm, thì khi câu chuyện đi đến cuối làng, con mèo đã biến thành con hồ ly mắt phát sáng.
Hàng ngàn năm nay, đời sống làng xã và văn hóa Việt Nam có lẽ đã hình thành thế này. Người ta ra đồng cày bừa, rồi gieo mạ, nhổ mạ, rồi cấy lúa, nhổ cỏ, tưới nước, làm phân, rồi gặt... và mỗi lúc như thế, họ lại ngồi trên bờ ruộng kể chuyện. Lâu dần, những câu chuyện trở thành huyền thoại; huyền thoại trở thành tín điều, tục lệ, nghi lễ, thành nhân sinh quan, thế giới quan. Thành sự thật. Người ta gắn bó với nhau cũng nhờ cùng chia sẻ những điều này, mà bị trói buộc, chia rẽ cũng vì những điều này. Những câu chuyện tạo một hành lang cho người ta biết cách hành xử, nhưng cũng trở thành song sắt nhà tù khi muốn. Ngay cả ở thành thị bây giờ cũng thế. Chỉ có điều, bờ ruộng đã thay bằng công sở, quán ăn, Highlands, Facebook, hay... Webtretho. Cho nên tôi mới vào chùa mấy hôm mà những người đến chùa đã thuộc lòng lý lịch của tôi. Có hôm tôi nghe loáng thoáng hai bà già chỉ tôi, nói với nhau rằng tôi “ở tận bên Mỹ”, là “giáo sư cơ đấy”, và “có một đời chồng rồi”. Hai bà nhìn tôi ái ngại lắm.
Ăn trưa xong tôi tháo giường gấp mang vào phòng bọn trẻ con để ngủ. Tôi đã thiu thiu ngủ rồi thì chú Đạo Ngũ đi vào, nói to:
“Sư đệ nào vứt giấy vệ sinh vào giường sư huynh đây? Làm người phải biết cư xử lịch sự chứ.”
Không thể nhịn cười với cách nói văn hoa của chú Đạo Ngũ. Thật là thú vị cái văn hóa bình dân này, nhất là vì dường như ai cũng thạo và cứ hiển nhiên trình diễn nó như những nghệ sĩ bậc thầy. Người nào vào chùa cũng biết chắp tay cúi đầu nói “bạch thầy”, “A Di Đà Phật” và họ nói “con đem cúng thầy một cái ô”. Lần đầu nghe một bà già nói “con đem cúng thầy”, tôi đã sững người. Lâu nay tôi cứ đinh ninh từ “cúng” chỉ được dùng cho người chết.
“Bạch thầy, con đem cúng thầy một cái ô.”
“Nhà con có mấy cân khoai đem cúng thầy.”
“Bạch thượng tọa, chúng con có giọt dầu gọi là, để thượng tọa đốt đèn cúng Phật.”
“Dạ, bố con có ít lạc mới dỡ, thầy chứng cho chúng con.”
“Bạch cụ bố thí cho con hỏi...”
“Thầy bố thí cho con ăn cơm.”
Hay quá đi mất. “Cúng” ở đây là nói tắt của “cúng dường” hay “cúng dàng”, tức là sự dâng tặng thành kính. “Chứng” là “chứng minh”, tức là ghi nhận công đức cúng dàng của tín chủ. “Cụ” tức là nói tắt của từ “cụ túc” tức là một bậc đầy đủ phúc và trí, chứ không phải cụ nghĩa là già cả như trong “cụ kỵ ông bà”. Xưng “con” với một vị tăng, kể cả với chú tiểu nhỏ, tức là xưng con với Phật, chứ không phải là con cái với vị tăng hay chú tiểu. Thầy bố thí cho con ăn cơm vì cơm chùa có được là nhờ vào phước đức của chư Phật và người thầy mà Phật tử cúng tiền tài vào chùa nên chư tăng phải xin được thầy bố thí cơm ăn.
Ở chùa từ sáng đến tối, người ra người vào lúc đông lúc vắng, cứ khoan nhặt như một dòng sông chảy lững lờ theo nhịp riêng của nó. Người mang ít dầu đèn, người mang gạo, miến, dây khoai lang, bó dọc mùng, đậu, có khi một ít lạc luộc. Lịch của chùa hằng ngày hiện là thế này:
4 giờ sáng: Dậy (gọi là khai tĩnh), lên chùa tụng chú Thủ Lăng Nghiêm, chú Đại Bi, và mười bài chú khác (gọi là thập chú). Thời khóa này gọi là công phu khuya.
5 giờ 15: Niệm Phật sáng.
6 giờ: Ăn sáng.
11 giờ: Thụ trai (ăn cơm trưa).
12 giờ: Ngủ trưa (gọi là trì tĩnh ).
14 giờ: Tỉnh dậy (gọi là thức chúng ).
17 giờ: Thỉnh chuông, cúng cháo thí thực cho các chúng sinh.
18 giờ: Thụ trai (ăn cơm tối).
19 giờ: Thời khóa tối (tụng kinh).
21 giờ 30: Niệm Phật cuối ngày (gọi là lâm thụy ).
22 giờ: Tắt điện đi ngủ.
Tôi ngủ đến 2 giờ chiều thì chú Đạo Ngũ vào phòng, giọng thất thanh:
“Cô ơi, dậy đi, các ngài lên.”
Tôi lật đật theo chú Đạo Ngũ xuống nhà tổ. Rất đông người đang ở đó - ngồi quây quanh anh Sang và một thanh niên có tên Huân. Mọi người bảo ông Hoàng Mười đang vào anh Sang, mắng Huân chậm trễ việc chuẩn bị hầu đồng, ông hoàng đòi lấy hèo để đánh, rồi đứng lên như rút kiếm ra. Trông ông đứng rất uy nghi, Huân thì khóc. Chú Đạo Ngũ và mấy người ngồi cạnh phải xin hộ Huân, ông mới thôi. Ông Hoàng Mười ra thì ông Hoàng Bảy về. Thầy nói với một họa sĩ trẻ:
“Chú Hoan xuống nhà Mẫu lấy cái gối cho ông hoàng kê tay đi.”
Ông hoàng quay sang thầy gật gù hoan hỉ. Mọi người cười:
“Khiếp thầy tâm lý thế.”
Thầy cười:
“Hầu ông hoàng như hầu người già ấy mà. Ngày xưa thầy thị giả sư phụ thầy mãi nên quen.”
Ông Hoàng cười, gật gật đầu với thầy. Hoan mang gối lên, đặt xuống dưới tay ông hoàng; ông đập gối thị uy rất oai nghiêm:
“Ban lộc!”
Ông lấy cả nắm tiền vung ra cho mọi người lấy lộc. Ông ngồi uống trà, ban lộc nhiều lần, đến hết bài cung văn thì đi.
Tôi theo anh Sang và Huân xuống điện Mẫu. Tôi hỏi Huân ông hoàng lên mắng thế anh có sợ không.
“Sợ chứ chị.”
“Anh thấy ông chọn anh mở phủ hầu ông thì thấy vui hay sợ?”
“Em có biết gì đâu chị nhưng thôi ông chọn, người ta bảo thế là phúc thì thôi giờ nhất tâm theo ông, chứ hôm trước em cũng còn bán tín bán nghi vì mình biết gì đâu; mình cứ bán tín bán nghi nên ông lên mắng; giờ mình nhất tâm theo ông cho an tâm.”
Chúng tôi nói điều này khi đang đứng trong điện Mẫu - tôi đang xem Huân sắp đồ lễ vào trong điện. Huân nói:
“Chị em mình nói gì ở đây các ngài biết hết đấy.”
Huân vừa nói vừa chắp tay vái ban thờ. Huân sợ thực sự. Tôi tưởng tượng dù Huân có thực sự nghĩ gì thì cái sợ cũng sẽ làm Huân phải át nó đi mà nói những điều thuận tai vừa ý các ngài. Có khác gì với nỗi sợ người sống đâu - sợ ông bà, cha mẹ, thủ trưởng, hay chồng, đến nỗi phải tự kiểm duyệt mình từ trong ý nghĩ đến lời nói. Lại cũng giống tôi sợ cái con ma vô hình của tôi nữa - bây giờ cũng vẫn đang sợ nó. Tôi vẫn chưa đủ gan mà kể cặn kẽ và hỏi thầy về nó. Tôi đang làm tất cả công việc hằng ngày như thể không hề có con ma nào trong đầu tôi nhưng sự thật là nó lúc nào cũng hiện hữu. Lúc nào tôi cũng thấy nó đang quan sát tôi. Nhìn bên ngoài, không ai biết lòng tôi là vực trống.
Trên đường về, tôi cứ nghĩ đến lúc Huân khóc khi bị ông hoàng mắng, trông khổ sở như một đứa bé bị bắt nạt mà không có cách gì chống lại. Rồi tôi nghĩ đến tôi - cũng đang đầy sợ hãi trước một thế lực vô hình mà không thấy ai có thể cứu nổi. Ngay lúc ngồi cạnh thầy, ông hoàng, Mẫu, các cô các cậu hay trước Phật, tôi vẫn thấy không ai có thể cứu tôi. Than ôi là đau khổ. Tôi vừa thương Huân vừa thấy hơi giận ông hoàng. Giận tất cả thánh thần. Tại sao các thánh thần - nếu có - lại bắt nạt chúng sinh? Tôi tưởng các ngài đã là bậc trên thì đều phải có lòng từ bi quảng đại, chỉ có thương chúng sinh, chứ sao lại bắt tội bắt nợ chúng sinh? Khi tôi đem điều này hỏi thầy Đạo, thầy nói:
“Có phải ai họ cũng chấm lính, bắt đồng đâu cô. Nếu quán chiếu cho kỹ, thì không ngoài lý nhân quả. Chúng sinh có xin lộc của bên Tứ Phủ thì Tứ Phủ mới có cái cớ để bắt trả nợ. Mình không vay, không nợ, thì đâu có gì phải lo. Trong lục đạo luân hồi, thánh thần thuộc về Dục giới; họ ban ơn để có phước hưởng tiếp quả vị thánh, nhưng hết phước thì họ vẫn phải luân hồi nên họ rất sợ hết phước. Đấy, vào các đường ác như ngạ quỷ, địa ngục, súc sinh thì lúc nào cũng đói, nên lúc nào cũng thấy khổ; mà sinh thiên, làm thánh thần, được người ta cúng bái sung sướng thì lúc nào cũng sợ hết phúc, nên cũng khổ. Chỉ có tu Phật mới giải thoát hoàn toàn thôi.”
Nhưng có giải thoát hoàn toàn thật không? Có an lạc và thấu suốt thật tướng của vạn vật thực sự không? Tu hành - dù ở chùa hay ở nhà - có đưa người ta đến được chỗ đó không? Và tỷ lệ thành công là bao nhiêu trong thời bây giờ? Như tôi thấy, người đến chùa xin phước lộc thì nhiều mà người cầu đạo giải thoát dường như quá ít. Tôi lại cũng chỉ nghe chuyện tu hành đắc đạo của các tổ từ hàng trăm hàng ngàn năm trước chứ ở thời đại vật chất này thì sao? Trong số hàng trăm hàng ngàn người đang tu hành bây giờ, bao nhiêu người thực sự giải thoát ? Thật sự, tôi vẫn chưa hình dung được giải thoát là trạng thái như thế nào? Lẽ nào chúng ta chỉ đều giống các thầy bói mù sờ voi? Nói về giải thoát mà có biết hình thù giải thoát là thế nào và làm sao để đi đến đó?
Như lúc này, tôi đang đi trên đường Khuất Duy Tiến, phía trước mặt tôi là mặt trời như một quả cầu lửa khổng lồ giữa một biển mây vàng rực rỡ ở phía Tây. Đẹp vậy mà xung quanh tôi không ai ngẩng lên nhìn. Ai cũng vội vã về nhà. Dường như không ai thực sự biết mình đang đi đâu trong cuộc đời này và muốn đi về đâu.
Than ôi, cũng không thể trách người ta không ngẩng lên nhìn trời khi mà dưới lòng đường quá nhiều hiểm họa. Chỉ sau một tuần đi đi lại lại ngày hai lần từ nhà tới chùa, tôi thấy mình cũng bắt đầu căng như dây đàn lúc trên đường. Không phải tôi cứ đi đúng luật là được an toàn. Người ta vẫn cứ cắt, phóng, tạt, đâm, bấm còi vào mặt tôi. Về đến nhà lần nào tóc tôi cũng cứng bụi, người mệt dừ, căng thẳng.
Ở Việt Nam, mất quá nhiều năng lượng vào những việc không tên. Rủi ro ập đến theo những lối quá bất ngờ và vô lý. Các ông hoàng bà chúa “chấm lính”, “bắt đồng” đã đành; nhưng chính chúng ta “chấm” và “bắt” nhau vô tội vạ mỗi ngày. Cảnh sát giao thông “chấm lính”, “bắt đồng” với người đi đường. Thầy cô giáo “chấm lính”, “bắt đồng” ở lớp. Sếp thì “chấm lính”, “bắt đồng” trong cơ quan. Bố mẹ “chấm lính”, “bắt đồng” với con cái ở nhà. Những người bán hàng “chấm lính”, “bắt đồng” với người đi chợ. Đến người dưng ngoài đường cũng “chấm lính”, “bắt đồng” mà chửi, mà tạt, mà đâm xe vào ta... Muốn yên thân, dĩ nhiên là phải sắm lễ, trình đồng, mở phủ rồi. Tầng tầng lớp lớp. Lính nhỏ hầu lính nhỡ; lính nhỡ hầu lính to hơn; lính to hơn hầu các ông nhỏ; ông nhỏ hầu ông nhỡ, ông nhỡ hầu ông lớn... Mẹ hầu con, con hầu mẹ, học sinh hầu giáo viên, giáo viên hầu học sinh, nhân viên hầu sếp, sếp hầu sếp lớn, vợ hầu chồng, chồng hầu vợ... cứ như vậy mà theo nhau, biết bao nhiêu nợ nần, ân oán trùng điệp, bao giờ thì hết đây? Dường như ai cũng đằng đằng sát khí, cạnh tranh khí, mê muội khí, si tình khí, uẩn khúc khí, tiền khí, danh khí; không mấy người thong thả, bình an, tỏa ra một năng lượng hiền từ.
Chúng ta “sát căn” nhau quá. Mới về Hà Nội ít ngày mà tôi thấy mình cứ ngấm ngầm ứ dần lên sự bẳn gắt khó chịu bên trong, chỉ chờ cơ hội là bùng nổ. Là tại tôi, hay tại Việt Nam, hay vì bản chất cuộc sống là khổ - như Phật Thích Ca Mâu Ni đã thuyết trong bài pháp đầu tiên sau khi thành đạo dưới gốc bồ đề? Xưa nay, tôi đã luôn dị ứng với câu “đời là bể khổ”, nhưng có lẽ đã đến lúc tôi nên tìm hiểu kỹ về nó thay vì chấp nhận lối hiểu phổ thông?
Chương 14
Cha mẹ tại nhà như phật tại gia
Mưa, mưa, mưa. Cả tháng Bảy mưa ngâu tầm tã. Ngày này qua ngày khác. Đất chưa kịp khô, mưa lại đổ xuống. Đường làng ngày một lầy lội; nhiều đoạn dài lõng bõng bùn vàng, có đoạn nước ngập ngang máy xe. Nghĩ đến việc đi lại 16 km dưới mưa để đến chùa mỗi ngày tôi cũng ngại nhưng không vào chùa tôi lại nhớ.
Hôm nay là ngày đầu tiên làm lễ phả độ gia tiên trong đợt lễ Vu Lan và rằm tháng Bảy. Lúc 8 rưỡi sáng, chùa đã rất đông người. Hàng chục mâm cỗ đã được bày trên chính điện, nhà tổ, nhà Mẫu, nhà thánh, phủ cô Đa. Cỗ có xôi, giò, tôm nõn, chả nem, dưa góp - tất cả đều là đồ chay, làm từ đậu hoặc bột mì, bột gạo. Có người mang đến mấy thùng lớn hoa quả rồi bày thành những mâm ngũ quả chất ngất. Vàng mã hàng bao tải, cộng với các bộ quần áo giấy. Người nấu nướng trong bếp tấp nập. Rất nhiều người làng và người ở các tỉnh khác về làm lễ; xe máy đầy trong sân và ngoài cổng chùa. Trong nhà Mẫu, nhạc cung văn mở tưng bừng. Không khí thật khác những ngày tĩnh mịch trước đây.
Trên Tam Bảo, ba bà già và một chị đang xếp quần áo chúng sinh, tức các bộ quần áo giấy sẽ được cúng và đốt cho các chúng sinh cõi âm. Cứ một quần đi với một áo, quần lồng vào bên trong. Một bà già không biết, sắp quần riêng, áo riêng; bà kia bảo:
“Ơ, bà sắp lại đi chứ. Sắp thành bộ để ai lấy bộ nào được bộ nấy luôn, khỏi phải đi tranh quần cướp áo của nhau.”
Tôi vẫn chưa thể quen cái cách người đến chùa nói với nhau về thế giới âm một cách hiển nhiên, bằng một niềm tin tuyệt đối rằng “dương sao âm vậy”. Nhưng khi tôi lỡ tay kéo rách một cái áo giấy; tự nhiên tôi cũng nghĩ vong nào mà lấy phải cái áo này chắc sẽ tủi thân lắm. Vậy là tôi bỏ cái áo rách qua một bên để không lẫn với áo mới.

Gần 9 giờ sáng, các bà già và lũ trẻ trải chiếu trong Tam Bảo rồi bày các giá gỗ để đặt kinh. Họ sắp thêm vàng mã lên các mâm quần áo chúng sinh để khi đốt thì chúng sinh vừa được quần áo vừa có tiền tiêu. Tôi lấy một quyển kinh Vu Lan, mang ra góc nhà ngồi xem. Đây là lần đầu tôi đọc một cuốn kinh. Tôi vừa mới để kinh xuống đất để ngồi cho ngay ngắn thì một bà già kêu lên:
“Giời ơi, chết rồi, sao lại để kinh xuống đất?”
Tôi vội đặt lên đùi, bà bảo:
“Để lên đùi cũng không được, đội lên đầu thì may ra còn được, ra lấy kệ đặt kinh đi.”
“Dạ, xin lỗi bà, con không biết ạ” - tôi nói.
“Lần sau đừng có mà để kinh xuống đất” - chị gầy gầy ngồi gần bảo.
“Dạ em không biết ạ.”
“Ngu dại thế đấy” - bà già nói.
Tôi vâng lời ra lấy một cái giá gỗ để đặt kinh, lòng hơi hậm hực. “Chết, nhiều quy tắc hình thức thế này thì chỉ thêm sợ chứ giải thoát cái gì?” Cái giá gỗ phải lấy hai tay bẻ thì mới xếp được nhưng tôi không dám bỏ kinh xuống đất để bẻ giá gỗ, cứ loay hoay, chị gầy gầy lúc nãy phải giúp tôi.
Hơn 9 giờ bắt đầu lễ. Phật tử đã lên ngồi chật điện. Nhiều người lúc nãy nấu cơm còn mặc áo thường, giờ đã mặc áo tràng dài màu nâu hoặc xám. Họ chắp tay chờ thầy vào. Rồi chuông trống nổi lên. Hôm nay chú Đạo Ngũ đánh trống, sư già Mai đánh não bạt; nhưng sư già đánh không đều, một lúc sau chú Đạo Ngũ một tay trống, một tay não bạt. Chú Đạo Ngũ đánh trống rất điêu luyện, hai tay như múa, trống chuông giòn giã.
Phải cúng Phật trước. Thầy đọc nhiều đoạn chú, rồi tên các vị Phật - mỗi lần như vậy, mọi người lại quỳ rạp xuống lễ. Tôi ngồi cạnh chị gầy gầy kia - chị ấy chắc nghĩ tôi là học sinh cấp ba đến chùa cúng Vu Lan lần đầu nên cứ xẵng giọng ra lệnh cho tôi:
“Quỳ đi.”
“Lễ đi.”
“Chắp tay vào.”
“Chạm hẳn đầu xuống đất ấy.”
“Nghe chuông mới được ngẩng đầu lên.”
Thầy cúng Phật xong thì dẫn chúng tụng kinh Vu Lan. Có người thuộc lòng kinh, có người nhìn sách đọc. Tiếng đọc đồng thanh vang vang nhịp nhàng rất hay mặc dù lời kinh có những chỗ tiếng Việt cổ, không thuần. Kinh Vu Lan nói chuyện công ơn mẹ mang thai chín tháng mười ngày, chịu bao nhiêu khổ đau khó nhọc nhưng lúc nào cũng chỉ nghĩ đến con mà chịu đựng tất cả. Trong Tam Bảo ai cũng rưng rưng; có người khóc.
Hết kinh Vu Lan thì niệm A Di Đà Phật 108 lần. Các bà già đồng loạt lấy những cỗ tràng hạt dài từ trên cổ xuống, miệng niệm, những bàn tay xương xẩu nhăn nheo chậm rãi lằn lần tràng hạt. Thật đẹp.
Nam mô A Di Đà Phật, nam mô A Di Đà Phật... - cứ thế miên man.
Xong kinh thì thầy tuyên sớ cho các nhà. Sớ rất dài, gia đình nào cũng hàng chục tên, từ cụ kỵ, ông bà, những người chết trẻ, các thai nhi đã bị bỏ. Những người đã chết gọi là “chân linh”; thai nhi thì được gọi là “cô bé đỏ, cậu bé đỏ, thai linh, huyết linh”. Thầy đọc tên chân linh, năm mất, mất tại đâu, có khi đọc cả số mộ phần trong nghĩa trang.
Chân linh Nguyễn Văn Tịnh, sinh năm 1920, mất năm 1967, mộ phần an táng tại ô số 4, lô 1, nghĩa trang xã..., huyện..., tỉnh...
Chân linh từ cả nước - miền Nam, miền Trung, miền Bắc đều có tên. Trong điện, mọi người nhấp nhổm chờ, đọc xong sớ nhà mình là họ vái lạy rồi ra ngay. Sớ nhiều lắm. Hết nhà này đến nhà kia. Tên người đã khuất tuôn chảy như một dòng sông. Tuyên Quang, Yên Bái, Lạng Sơn, Hải Dương, Hải Phòng, Hà Nội. Có sớ từ trong miền Nam ra. Vũng Tàu, Long An, Cà Mau. Tôi ngồi trong điện nghe, cảm thấy sự sống vận chuyển cuồn cuộn khắp nơi; sống chết liên tục xoay vần muôn hình vạn trạng.
Sớ còn cả xấp dày nên tôi ra ngoài, xuống nhà sàn nghe các bà già nói chuyện đồng áng, nhà cửa. Các bà dùng từ rất lạ.
“Cỏ năm nay hỗn lắm. Mọc hết cả đất.”
“Thì trong họa có phúc trong phúc có họa mà.”
“Vâng, linh tại ngã, bất linh tại ngã.”
“Mời các bà xơi nước. Mời sư ông chứng nước ạ.”
“Để pha ấm mới, cái này cô Tám cô Chín rồi ( ý nói nước trà thứ tám, nước chín ).”
“Đâu, cô Đệ Nhất đấy ( ý nói nước thứ nhất ).”
“Gớm lại gọi hết các cô của Mẫu lên đấy à?”
“A Di Đà Phật, con lạy Mẫu ạ ( vái vọng về phía, điện Mẫu ).”
Gần 1 giờ chiều mới tuyên sớ xong, mọi người mang sớ nhà mình đi hóa rồi sư già Mai dẫn mọi người tụng kinh Địa Tạng. Những người trẻ xuống hết, chỉ còn các bà già ngồi tụng cùng sư già. Tôi nói với chú Đạo Ngũ:
“Chắc thầy mệt rồi, chú đi mời thầy ăn cơm đi.”
Chú Đạo Ngũ cười:
“Vâng, đang đi triệu linh tiếp linh đây ạ” - rồi tự bịt miệng mình - “Ôi, thầy mà nghe thấy thì thầy đánh cháu chết.”
Phải hơn 1 giờ mới bắt đầu ăn trưa, sáu mâm dưới nhà Mẫu, bốn mâm ở gần nhà sàn. Các Phật tử ăn rào rào, nói ăn cơm chùa phải tự đi ăn, không ai mời mình đâu, một số đứng gốc cây ăn lộc từ mâm cúng vong gồm ngô khoai, bánh, cháo, oản, cơm nắm. Tôi ăn cùng với mấy bà già, rồi đi ngủ. Trong phòng, bọn trẻ con mệt vì thức dậy từ sớm, nằm ngả ngớn ở các giường. Huy đã trèo lên giường tầng hai rồi nên nói với Hùng:
“Chú Hùng, chú phát tâm lấy hộ tôi cuốn sách trên bàn với.”
Làm tôi bật cười. Hay quá. “Phát tâm lấy hộ tôi cuốn sách”, ừ, “phát tâm”. Kể ra thì làm gì cũng phải phát tâm thật. Cái tâm nó đang ngủ, đang mơ mơ màng màng, lười lười, bướng bướng, bây giờ muốn nó làm việc thì phải khều nó dậy, phải xốc nó lên, có khi phải ép nó, khích nó, cầm gậy đánh vào mông nó. Phát tâm. Hay quá.
Khi tôi dậy, sư già Mai gọi tôi vào nhà Tứ Ân chép hộ tên người khắc trên các bia để ngày mai thầy đọc tên lúc làm lễ xá tội vong nhân. Trong nhà Tứ Ân tối, có một cái đài nhỏ niệm đi niệm lại một câu “Nam mô A Di Đà Phật, nam mô A Di Đà Phật” để tiếp dấn vong linh về Tây phương. Tôi ngồi chép từng tên, có lúc phải ghé vào mặt bia để nhìn cho rõ, vừa yên tâm lại vừa thấy rờn rợn “âm khí.”
Từ chùa về, tôi nghĩ tối nay cần đi vào Bờ Hồ ăn uống, cà phê, gặp bạn bè tán gẫu một chút để hưởng không khí trần tục của cuộc sống này, cho cân bằng với âm khí trong chùa.
Ở nhà mẹ và chị gái tôi đã làm cơm cúng rằm tháng Bảy rất to. Nghĩ đến những lời kinh Vu Lan vừa đọc lúc sáng và công lao khó nhọc của mẹ nuôi tôi suốt 30 năm qua, thấy thật thương mẹ. Tôi khen mẹ làm cơm ngon. Mẹ rất vui.
Chương 15
Y pháp bất y nhân
Sau Vu Lan là lễ xá tội vong nhân và đàn chẩn tế cô hồn. Tôi đùa chú Đạo Ngũ rằng cứ hai ngày một tiểu lễ, ba ngày một đại lễ. Lễ dồn dập, nên sư ông Đạo Nhất và chú Đạo Nhị cũng từ trường hạ về giúp thầy. Cả bọn trẻ con cũng phụ giúp cúng lễ. Huy thì ghi sớ cho các gia đình. Hùng chuyên đánh não bạt, Tú đánh tiu cảnh, Thắng chạy loanh quanh hương nước trong lễ cúng. Khi mặc áo tràng nâu để lên điện, Hùng và Thắng trông khác hẳn, không còn hơn hớn, lanh chanh nữa. Tú thì vẫn thế, ngơ ngơ lì lì, cầm dùi lỏng lẻo, ngồi đánh cho qua chuyện; có khi đang gõ mà văng cả dùi ra, bị các bà già ngồi sau mắng.
Có sư ông Đạo Nhất với chú Đạo Nhị về, chùa đông và vững hẳn. Thầy Đạo cũng vui lên. Bọn trẻ con thì đỡ bầy hầy. Chúng sợ chú Nhị lắm. Có khi đang chí chóe trong phòng mà một đứa nói: “Này, tôi nghe tiếng anh Nhị đấy” là tất cả đều im thít hoặc lập tức bật dậy tản đi làm. Chú Nhị vốn là cháu, gọi thầy bằng bác. Thầy bảo chú Nhị ngày xưa là đầu bò đầu bướu ở làng; chú học hết cấp ba thì ra Hà Nội làm thợ đóng đồ gỗ rồi gặp cô bạn ở đấy và đòi cưới. Bố chú gọi điện cho thầy hỏi ngày, thầy bảo mới 19 tuổi, cưới xin gì, vớ vẩn. Thế là thôi. Đến lúc bố thầy mất thì chú Nhị ra lo việc ma chay. Ma chay xong cũng chẳng về mà cũng chẳng nói chẳng rằng, cứ ở lại chùa mấy tháng liền. Mẹ chú khóc lóc gọi điện ra; thầy đưa chú Nhị về, nói rằng thầy đâu có dụ chú đi tu; chú nằm trong nhà nghe, cũng chả nói chả rằng; đến lúc thầy đi thì chú lại cắp túi đi theo. Thầy mới bảo, bây giờ chú phải nói gì đi chứ, quyết định thế nào; thế là chú bảo “con đi tu”. Chỉ thế thôi. Bọn trẻ ở đây sợ chú một phép, vì chú nói một lần không được là đánh.
Sư ông Đạo Nhất thì rất hiền, người cao gầy gò, bàn tay xương xẩu, khuôn mặt xương xẩu, lúc nào cũng mỉm cười và lần tràng hạt ngày đêm. Cứ thấy sư ông là nghe tiếng “A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật”. Trong bếp, ngoài nhà sàn, phía tượng Phật Niết Bàn, gần Tam Bảo, cứ nghe tiếng “A Di Đà Phật, A Di Đà Phật” thì dù không nhìn thấy người cũng biết có sư ông.
Xem lễ nhiều, tôi bắt đầu nhận ra một số thủ tục trong các bài cúng lễ. Đầu tiên phải rước chủ tế từ nhà tổ xuống nhà Tứ Ân (gọi là nghinh sư ), rồi làm lễ tiếp linh để sứ giả đưa vong linh vào. Phải có các cảnh tuyên sớ, tắm vong, tiến mã. Sau đó thì đưa vong linh lên Tam Bảo để cúng Phật, cho vong quy y Tam Bảo. Quy y xong lại đưa vong xuống nhà Tứ Ân để cúng chúc thực, tức là cho vong được ăn uống; rồi đến chiều thì tụng kinh và phóng sinh để hồi hướng công đức cho vong (thường là kinh Di Đà, Địa Tạng, hoặc Dược Sư). Thầy Đạo giải thích khoa nghi cúng lễ vốn không có trong Phật pháp ở thời Đức Phật Thích Ca mà do các tổ soạn ra sau này để có cách cứu giúp chúng sinh. Đạo Phật vốn gốc chỉ độ người dương, về sau mới có thêm các nghi lễ độ người âm. Ở Trung Quốc thì việc độ người âm xuất phát từ thời Đường (khoảng thế kỷ thứ 7), do vua Đường Minh Hoàng khởi xướng để độ cho hàng triệu người chết trận trong loạn An Lộc Sơn. Ở Việt Nam, Tam tổ Huyền Quang của dòng Trúc Lâm Yên Tử (tương truyền là hóa thân ngài A Nan) là người soạn ra nhiều khoa cúng và sám hối. Các tổ đều là những người văn thơ uyên bác nên văn cúng hay lắm, ví dụ như khoa cúng triệu linh có đoạn:
“Thân con người ta sống ở trên đời
Khác nào con ong làm tổ, hớn hở bay xa
Chọn mọi thứ hoa, đem về gây mật
Đủ lo mọi vật, mùi ngọt mùi cay
Dành để tổ đầy, dưỡng nhàn sẵn có
Những mong vạn đại, tổ cả mật đầy
Ai ngờ ngày nay, gió mưa dà dã
Cái con vất vả, làm tổ luống công
Vì trận cuồng phong, cái con tan tác
Thân người không khác, như thể loài ong
Nay có mai không, sự đời là vậy.”
Sáng nay tôi có hẹn đi ăn sáng ở Điện Biên Phủ với một người bạn đang làm giáo sư ở Nhật. Tôi kể chuyện đang sống ở chùa, anh bảo “Hay nhỉ!” nhưng chắc là không tin. Tôi không biết làm thế nào có thể kể về những chuyện đang diễn ra trong chùa mà không khiến anh cảm thấy ngậm ngùi cho tôi đang “sa” vào những chuyên vô bổ. Đã nhiều lần, tôi rủ những người bạn của tôi vào chùa nhưng không ai vào cùng, hoặc vào thì lập tức ra ngay; có người mang cả ba lô quần áo định ngủ lại chùa nhưng vào được một tiếng thì xin ra.
Vào đến chùa đã 12 giờ trưa. Chùa đông người đến lễ, xe để chật sân. Thầy đang tiếp khách ở nhà sàn nên tôi chỉ chào thầy từ xa. Anh Sang đang ngồi ăn mì tôm trong phòng tăng gần đấy, thấy tôi anh gọi:
“Ơi vào đây em, trời ơi, dạo này vào chùa được Phật độ xinh hẳn ra, mặt sáng bừng.”
Tôi định trêu anh không phải đâu, Christian Dior độ em bằng phấn nền Nudeskin đấy, nhưng lại thôi. Cứ bước qua cổng chùa, tâm tôi tự nhiên dằn lại. Nhưng anh Sang nói cũng đúng. Những người ở chùa, khuôn mặt đều có ánh sáng khác. Họ đẹp do giữ giới hạnh. Cuốn uy nghi phép tắc dành cho các chú tiểu mới vào chùa nói rằng người tu hành vì giữ giới thanh tịnh mà tướng mạo uy nghiêm, khiến cho người vật đều sợ, đi đứng dù động dù tĩnh đều cốt cách đoan chính, bên trong có đức của sư tử, bên ngoài có tướng của voi chúa, trời người tán thán, quỷ thần khâm phục. Lại nói: “Hữu uy khả úy, hữu nghi khả kính” tức có uy thì người sợ, có nghi thì người kính. Người xuất gia, nếu có công phu tu tập thì tướng sẽ ngày càng thanh tao, thoát tục. Phật tử tới chùa vì thế hay sinh lòng kính ngưỡng rồi đi đến yêu thầm các thầy tu hay ni cô.
Hôm nay trong chùa làm lễ cầu siêu và đưa bài vị một liệt sĩ trong làng lên chùa. Xong xuôi đã 2 giờ chiều. Tôi định ngủ trưa nhưng vào phòng của bọn trẻ con thấy năm sáu người đàn ông nằm la liệt, ai cùng nồng nặc mùi bia, thế là không ngủ nữa. Đang loanh quanh ngoài sân thì thấy anh Sang cầm túi đi về phía nhà tổ:
“Lên nhà tổ với anh không?”
Tôi cười, lắc đầu. Anh Sang lên đó là các ngài lại “về”. Tôi tuy tò mò nhưng vẫn không muốn chứng kiến lúc các ngài về vì tôi vẫn không biết phải cắt nghĩa thế nào về cái khoảnh khắc mà các ngài “vào” anh Sang, khiến “anh Sang” mà tôi biết đột nhiên trở thành một người khác. Hôm trước, tôi đã hỏi anh:
“Những lúc các ngài nhập vào anh, anh có biết không?”
“Không, anh không biết gì cả, cái khoảng đó đối với anh là không có.”
“Thế lúc đó anh đi đâu?”
“Anh không biết; đối với anh thì không có sự ngắt quãng nào từ lúc các ngài vào đến lúc anh tỉnh.”
“Thế các ngài có vào từ từ không? Anh có biết gì không?”
“Không.”
“Thế lúc các ngài vào thì anh đang làm gì? Anh ngồi xuống rồi mời các ngài lên ạ?”
“Không, anh không ngồi, anh không cần ngồi, có thể anh đang làm gì đó, các ngài vào là anh không biết nữa.”
“Thế anh có biết trước là các ngài muốn anh vào chùa để các ngài lên không?”
“Thường thì anh cảm thấy nóng ruột, cứ nghĩ đến và muốn vào chùa.”
“Nóng ruột như thế nào ạ?”
“Lạ lắm, mình cứ nghĩ đến việc vào chùa, thấy muốn vào chùa, sốt ruột, không vào thì chỉ nghĩ đến chùa thôi. Cái này thì anh chỉ là con tốt thôi, anh không phải cái gì quan trọng cả; anh như là người trung gian; người tu hành như thầy thì có nhiệm vụ giáo hóa chúng sinh, các ngài thì thông qua anh để trợ giúp thầy giáo hóa chúng sinh.”
“Thế còn anh?”
“Anh thì kiếp trước đã là đệ tử của thầy, như chú Đạo Ngũ bây giờ là đệ tử của thầy. Nó là cơ duyên cả. Như em cũng là có cơ duyên với thầy và Phật pháp; có thể là các kiếp trước em cũng đã tu, tâm em hướng về Phật, em đã có nhiều kiến thức mà em không biết, cho nên có cái thầy vừa nói là em hiểu ngay, đọc về Phật pháp thì thấy quen thuộc, hợp lý; kiếp này em chỉ quay lại làm tiếp, học tiếp, đều là do cơ duyên, không có gì tự nhiên sinh ra cả.”
Điều anh Sang nói, sau này tất cả những người có khả năng cho “mượn xác” mà tôi phỏng vấn đều nói giống như vậy: họ chỉ là công cụ trung gian và lúc đó họ giống như là trải qua một giấc mơ rất sâu. Khi tỉnh lại, họ thường không biết chuyện đã xảy ra; nếu có người khác nói rằng “các ngài vừa vào đấy” hoặc “các vong vừa vào đấy” thì họ có thể tĩnh tâm để nhớ lại và những gì xảy ra có thể tái hiện lõm bõm trong trí nhớ của họ. Có những người nhớ nhiều, có người không nhớ được các chi tiết nhưng nhớ được cảm giác - ví dụ một vong lên vì oán thù người khác thì người cho mượn xác sẽ nhớ cảm giác đau đớn và oán hận. Nếu là vong vào thì người sẽ nặng nề, có thể còn nhiễm cảm giác đau đớn, bệnh tật của họ; còn nếu là các bậc thánh vào thì người sẽ nóng ấm, nhẹ nhõm, minh mẫn.
Tôi vừa ngồi xuống dưới gốc một cây nhãn thì thấy mọi người chạy tắt qua nhà sàn về phía nhà tổ, vừa chạy vừa kêu “Đức Chúa Ông về, Đức Chúa Ông về”. Tôi bật dậy chạy theo.
Trong nhà tổ, anh Sang đang ngồi trước ban thờ Phật ở cung trong, người hơi lắc lư. Thầy Đạo, sư ông Đạo Nhất, chú Nhị và Huy ngồi cạnh thị giả Đức Chúa Ông. Thấy tôi vào, thầy mỉm cười. Lúc đó mới có mấy người, nhưng chỉ một lát sau người vào rất đông - các bà già ngồi vây lấy anh Sang, vòng ngoài là đội thợ đang vẽ tranh cho chùa. Một bà bẩm Đức Chúa Ông, con có đứa cháu, nó lận đận khổ quá, xin Đức Chúa Ông soi xét phán bảo, độ cho cháu. Rồi bà bảo con lên xin ông hỏi ông đi; nhưng anh kia sợ quá, không dám lên. Bà già quỳ, khóc:
“Xin Đức Chúa cứu giúp cháu với ạ, cháu nó khổ quá.”
Đức Chúa nói:
“Có thành tâm nên thoát rồi đấy.”
Một bà già tên Nga vào quỳ.
“Lạy Đức Chúa Ông, con đang gặp nhiều nạn quá, xin Đức Chúa chỉ dạy, ban lộc ban tài cho con.”
Đức Ông nói:
“Tranh chấp, khẩu thiệt, trường mệnh sai hướng.”
“Con ngu tối không hiểu, xin Đức Ông mở mắt cho con.”
“Nhà ngươi tu Phật mà như không tu, sao trí tuệ được, chướng ngại liên tiếp.”
“Lạy ông chỉ cho con.”
Lúc này người nhà liệt sĩ đã vào đầy trong điện, ngồi quanh anh Sang, họ xin Đức Chúa Ông cho vong liệt sĩ lên nhưng Đức Chúa bảo chưa cho lên được.
Bà già Nga lại chen vào trước gia đình liệt sĩ, hỏi về tương lai của con trai bà, rồi cầu xin tài lộc. Bà luôn miệng xin xỏ không ngớt. Đức Chúa Ông bảo bà:
“Hãy cố gắng tu tập lấy phúc cho con, u mê quá.”

Mọi người lại xúm vào tranh nhau hỏi Đức Chúa Ông về vận hạn, tài lộc, công danh, con cái. Một chị tên Liên ở Hòa Bình nói số con khổ quá, xin ông giúp.
“Ta không giúp được đâu.”
“Con xin Đức Ông.”
“Địa chỉ.”
Chị Liên nói địa chỉ. Đức Ông gọi:
“Thổ công.”
Chị Liên lẩm bẩm:
“Thổ công ạ?”
Thầy Đạo cười:
“Đức Ông gọi thổ công nhà chị. Cứ ngồi đấy, ngài đang hỏi chuyện thổ công nhà chị.”
Đức Ông im lặng một lúc rồi nói:
“Nhà ngươi ruộng vườn đầy đủ sao kêu khổ. Lui.”
Mọi người ngồi đó đều bật cười: “Gớm, giàu có rồi mà còn xin xỏ nữa. Tham thế”. Một chị khác lên hỏi xin con cái, Đức Ông bảo:
“Ra cửa Mẫu mà kêu, mê muội.”
Bà vợ liệt sĩ thấy mọi người xúm vào hỏi thì nổi cáu:
“Tại sao những người khác không có việc cũng chen vào hỏi, nhà người ta hôm nay có việc đưa vong lên chùa thì thầy mới thỉnh Đức Chúa Ông về.”
Một người con trai bà xin Đức Chúa Ông cho vong liệt sĩ vào, Đức Chúa Ông nói:
“Về rồi, đang đứng ngoài kia.”
Anh này khóc, đi ra ngoài. Một anh ngồi cạnh thầy Đạo mặt đỏ văng vì uống bia, bực tức nói:
“Gớm ngài cứ gật gù mãi thế con cũng mệt lắm. Ngồi mỏi hết cả chân mà ngài không cho lên.”
Đấy là con trai của liệt sĩ. Đức Ông chỉ mặt anh này:
“Ra!”
“Vâng, ông đuổi thì con đi ạ.”
Anh này ra. Đức Ông cũng đi luôn. Anh Sang lập tức tỉnh lại, nhìn quanh rồi lạy tạ Phật. Thầy và các sư ông, sư chú đứng dậy đi xuống nhà. Mọi người cũng theo ra. Khi không còn ai, tôi đi đến trước bàn thờ Phật và tổ, quỳ xuống lễ ba lễ. Y pháp bất y nhân (10) ”. Nương vào pháp, không nương vào người nói pháp. Không quan trọng có thật tôi vừa gặp Đức Chúa Ông hay gặp ai, cái gì; không quan trọng thật hay giả; nếu người/vị tôi vừa gặp nói điều gì làm cho tôi thấy bớt phiền não, tâm trí sáng ra, thì đó là thầy tôi và tôi xin đỉnh lễ.
Dưới nhà sàn, anh Sang và các anh chị em họa sĩ đang xôn xao nói chuyện. Anh Sang bảo lẽ ra ngày cầu siêu đưa vong lên chùa thế này thì người nhà phải ăn chay niệm Phật thanh tịnh để hồi hướng cho vong, đằng này lại nồng nặc rượu bia, ăn nói lỗ mãng; Đức Ông và các tổ lên xong mới đến vong chứ đời nào Đức Ông ngồi đấy mà vong dám vào; nhà tổ chứ có phải trung tâm áp vong đâu mà vong dám vào. Vong mới quy, chưa hiểu biết nhiều, nếu về ngay gặp vợ con khóc lóc, lại quyến luyến trần thế mà không chuyển sinh nên Đức Ông không cho về vội. Nhà các bà không hiểu cứ nóng vội cáu giận, chỉ gây thêm nghiệp cho vong.
Tôi ngồi đấy, miên man nghĩ lại những lời Đức Chúa Ông và các tổ nói, thì nghe tiếng thầy Đạo:
“Sao cô giáo lại ngồi cười một mình thế?”
“Dạ” - tôi cười - “Tại vì con nghĩ lại lời Đức Chúa Ông và sư tổ nói thấy hay quá ạ.”
Trời bắt đầu tối thì tôi về nhà. Trên đường làng, rất nhiều gia đình bày mâm cúng rằm tháng Bảy ở cửa. Các chùa râm ran tụng kinh niệm Phật. Đi trên đường lúc mặt trời lặn, nhìn dòng người ngược xuôi hối hả, ai cũng căng lên chúi mình trên xe máy, tự nhiên nước mắt tôi ứa ra.
Chương 16
Chuyện sư ông đạo nhất
Sư ông là đệ tử đầu tiên của thầy phải không ạ?
Đệ tử đầu. Có một sư huynh ở trên nhưng chỉ xuất gia với thầy rồi sau đó y chỉ người khác. Còn như sư ông là trọn vẹn về thế độ.
Sư ông đi tu bao lâu rồi ạ?
Sư ông đi tu được chín năm rồi đấy!
Sư ông cũng tương đối lớn tuổi mới xuất gia đúng không ạ?
Vâng, xuất gia lúc 29 tuổi.
Làm thế nào sư ông biết mình có duyên tu hành ạ?
À, trong giấc mộng thì sư ông hay bay và đến chùa.
Cứ mơ bay là có duyên với Tam Bảo ạ? Con rất hay mơ bay.
Ờ, vì nếu mà nói theo cái thần thức, những người mà nằm mộng hay bay tức là cái thần thức nó nhẹ. Tức là trong quá khứ đã tu rồi! Thứ hai nữa là khi đến chùa mình cảm thấy mến mộ. Đang thanh niên như thế nhưng vào chùa mình lại có thể gõ mõ tụng kinh các thứ. Những phần đó mình cảm nhận được chớ!
Nhưng con thấy nhiều người có thể gõ mõ tụng kinh mà người ta cũng không quyết định xuất gia.
Dĩ nhiên cũng phải có những cái đặc biệt khác! Nhất là điềm báo. Lúc gần đi xuất gia thì sư ông thấy trong giấc mộng, sư ông đeo chuỗi hạt ra đi và em trai sư ông đứng tiễn với một người con gái. Cho nên sau khi sư ông xuất gia thì sư ông mới viết một quyển lưu bút, nội dung chủ yếu là tri ân báo ân, để cha mẹ nhìn nhận cho thấu đáo, không phải là mình thất tình bỏ gia đình hay chán đời mà đi tu.
Lúc sư ông đi tu gia đình có đồng ý không?
Lúc đầu thì có cản đấy, đặc biệt là phụ thân. Phụ thân bảo, đi đâu tôi cũng lôi về, không có thầy nào bà nào mà giữ được! Nhưng tâm niệm sư ông lúc đó thì dù thân phụ nói thế nhưng trong tâm vẫn cứ âm thầm, kiểu gì cũng xuất gia. Nhưng mà xuất gia đường đường chính chính, chứ nhất định không trốn tránh.
Sư ông ơi, làm thế nào để biết được mình đang đi đúng đạo ạ?
Thì mình đi vào những điểm then chốt nhất của nhà Phật. Pháp môn của Phật thì tám vạn bốn nghìn pháp môn nhưng mà lấy cái gì làm chung nhất? Trong nhà Phật là Bồ Đề Tâm. Mình tu tập, rồi mình cảm nhận mình kiểm soát được tâm. Nếu mà mình đối với các cảnh mà mình không bị nó làm cho lay động là mình đã dần dần từng bước thâm nhập được vào đạo. Đấy! Thì cũng như là các cô làm việc; nếu các cô không biết đúng sai thì làm sao mà làm được?
Nhưng làm việc như bọn con cái gì cũng có phương pháp rõ ràng. Còn con thấy đối với tu hành, khó có thể chỉ ra thế nào là tu đúng. Con thấy mông lung quá.
Sao lại không?
Cũng có ạ, nhưng mà...
Nếu mà nói như thế thì là cô chưa hiểu rồi! Về phương pháp tu hành thì đầu tiên là tam quy ngũ giới. Đấy là cửa ngõ đầu tiên vào đạo nhưng mà cũng là chỗ viên mãn Phật quả. Không có sai. Và đấy cũng chính là cái gọi mình quay về với Phật, quay về với pháp, quay về với tăng.
Sư ông tu Tịnh Độ là chính đúng không ạ?
Ừ.
Tự sư ông cảm thấy là mình hợp?
Đúng rồi! Mình hợp với pháp môn Tịnh Độ.
Tịnh Độ chủ yếu mình niệm Phật phải không?
Tịnh Độ cũng bốn, năm phương pháp. Nhưng trì danh niệm Phật là phương pháp phổ cập nhất. Bởi vì nó phù hợp với thời đại bây giờ và đồng thời đi đứng nằm ngồi mình đều có thể niệm được. Nhưng tâm niệm của sư ông thì các pháp là bình đẳng, mình không được tơ hào chê pháp này pháp kia. Tùy duyên mỗi người.
Về mặt lý thuyết mình cứ niệm, cứ niệm, xong một ngày nào đấy mình chứng ạ?
( Cười )
Cứ “A Di Đà Phật, A Di Đà Phật...” phải không ạ?
( Cười )
Đúng không ạ?
Về lý thuyết thì cứ niệm từ một ngày đến bảy ngày, cứ làm sao đến nhất tâm bất loạn. Nếu mà nói đến chân tâm thì nó không có vọng tưởng, không có phân biệt, không có chấp trước. Nó cũng chẳng có động chạm dục ái gì hết! Đấy gọi là tự tính. Tự tính nó chẳng có lay động, chẳng có nhiễm ô, không có ấy gì. Phẳng lặng mà lại thường chiếu soi. Nhưng đây là trên phương diện về lý mình hiểu như thế, trên phương diện tu trì thì phải dần dần thì mới có sự chuyển hóa, bớt vọng niệm. Vọng niệm của con người ta rất nhiều.
Hồi đầu sư ông niệm Phật thì vẫn có vọng niệm ạ?
Có chứ!
Thế bây giờ sư ông niệm Phật sư ông có cảm thấy nhất tâm không?
(Cười) Chưa, chưa nhất tâm. Mình tu thì cũng phải dẹp trừ từ phần thô cho đến phần vi tế.
Thế lúc mà sư ông niệm Phật, sư ông có dùng một cái gì khác nữa không ạ?
Niệm Phật thì chỉ niệm Phật thôi chứ.
Sư ông bây giờ có thường xuyên cảm thấy an lạc không ạ? Có phiền não không ạ?
Cảm thấy an lạc là nhiều. Phiền não cũng ít. Nhưng còn phải phát tâm hành sám nhiều nữa.
Hành sám ạ?
Ừ, sám hối đấy. Pháp môn của Phật có tám vạn bốn nghìn pháp môn, nhưng công phu chân thật nhất, đích thực là hai chữ sám hối . Tinh thần sư ông học đạo thì... xu hướng là đi sâu vào đạo lý tri ân, báo ân.
Tri ân báo ân?
Ờ, đạo lý tri ân báo ân. Nó tóm thâu tất cả tinh hoa Phật pháp. Sư ông đã đọc các cái cơ duyên cầu đạo của chư Phật, Bồ Tát, cho đến các tổ sư, thì hầu hết đều lấy cái động cơ tri ân báo ân này để cầu đạo. Cái động cơ này là xuất phát đầu tiên. Nếu động cơ này không xuất phát được thì không thể vào được. Mà đã không vì chúng sinh thì có tu nữa, tu nữa, nhọc lòng không thể được. Tâm không khiêm hạ. Nên nhất định là phải có tâm tri ân báo ân thì tâm mới khiêm hạ được. Cho nên tu gì thì tu, cũng không vượt ngoài phạm vi của tri ân báo ân.
Tri ân báo ân? Tri ân báo ân ai ạ?
Cái đấy... Đối tượng hả?
Vâng.
Đối tượng tri ân báo ân thì nhà Phật đưa ra, tứ ân đồng báo đấy.
Tứ ân đồng báo?
Ơn cha mẹ, ơn thầy bạn..
Ơn quốc gia xã hội?
Đúng rồi.
Sau đó là ơn Phật? Ơn chư Bồ Tát? Chư hiền thánh tăng?
Đúng rồi, thẩm lược lại bốn ơn đấy. Ca dao thế gian thì vẫn nói đấy:
“Công cha như núi Thái Sơn.
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha.
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.”
Các câu ca dao đấy thì ai cũng thuộc lòng rồi. Nhưng thực sự hiểu được cái tinh hoa, cái cốt lõi của nó, mà thực hiện được nó không phải chuyện dễ. Y cứ theo điển tích thì phần lớn những người làm được trọn vẹn nó đều là những bậc đã tu thành tựu.
Con cũng đọc nhiều chuyện về các ngài báo ơn cha mẹ, toàn những việc phi thường.
Đấy như kinh Vu Lan này. Tôn giả Mục Kiền Liên này. Rồi đến tiền thân của Bồ Tát Địa Tạng này, muốn cứu được mẫu thân thì phải niệm Phật đến nhất tâm bất loạn. Cho đến kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân là chuyện của chính Đức Thích Ca Mâu Ni. Cho nên hệ thống kinh điển mà sư ông thường lưu tâm thì là ba kinh này.
Trong tu hành, sư ông thấy khó nhất là việc gì ạ?
Việc tu khó nhất là cái ái. Ái dục là khó nhất.
Cụ thể là như nào ạ?
Là về dục tâm đấy. Bản chất mỗi người ai nấy đều có. Cái đấy là cái khó trừ nhất!
Tức là (cười), con xin phép con cứ nói thẳng ra, tức là ví dụ mình thấy một cô gái mà mình khởi lòng thích chứ gì ạ?
Nói thế thì thô quá, (cười) nói chuyện vi tế cơ!
À, (cười) A Di Đà Phật. Nhưng con tưởng ở trong chùa thì làm gì có mấy cơ hội để nó khởi lên?
Không, cái ái dục mỗi người đều có sẵn chứ. Nên nếu mà mình tu, thực sự tu, có định lực thì mới có thể loại trừ được các cái vi tế đó.
Nhưng mà ý con đang nói, ví dụ mình muốn khởi lên thì thật ra mình phải có đối tượng thì mới khởi được. Mà ở trong chùa mình đâu có gặp ai mấy đâu ạ?
Thế ví dụ cô đi làm việc, cô đến chỗ đấy, xong về cô tưởng tượng lại. Thế đâu có gọi là có đối tượng gì đâu mà vẫn khởi?
À... (cười) , con hiểu rồi.
Đấy!
Từ lúc sư ông đi tu cho đến bây giờ là chín năm, sư ông thấy bài học lớn nhất là gì ạ?
Bài học lớn nhất á?
Vâng, trên con đường tu.
Bài học lớn nhất trên đường tu chứ gì?
Vâng. Mà có thể áp dụng cho người ngoài.
À áp dụng cho người ngoài à?
Vâng ạ. Mà nói chung, cứ bài học lớn nhất trong quá trình tu của sư ông?
Nếu mà nói thì như lúc nãy đấy, vẫn là tri ân báo ân. Trong đó bao hàm tất cả, bởi vì nó liên quan đến sự đối đãi. Bởi vì sống được, đều là do sự đối đãi, hỗ tương lẫn nhau. Chính trong kinh Thiện Sinh, Đức Phật nói về các sự đối đãi đấy, thầy đối với trò, trò đối với thầy ra làm sao. Vợ đối với chồng như thế nào, chồng đối với vợ như thế nào? Con cái đối với cha mẹ ra làm sao, cha mẹ đối với con cái như nào? Đấy chính là đạo lý về tri ân báo ân, mà cũng là đạo lý của đối đãi. Nó rõ ràng, minh bạch, nó là chân tướng. Thì đấy là cái sư ông nhìn nhận sâu nhất.
Sư ông có tò mò về các kiếp trước của mình không?
Không. Không nên tò mò mình kiếp trước là ai. (cười)
Có tò mò sau này mình sẽ đi đâu không ạ?
Sau này í hả? Dĩ nhiên với cái nguyện bây giờ thì nhất định là phải cầu vãng sinh.
Chứ không cầu quay lại?
Cầu vãng sinh là đồng nghĩa với quay lại rồi. Khi mà đã tu hành thì trên cầu Phật đạo, dưới hóa độ chúng sinh. Không còn mang ý nghĩ nào khác. Đã thành Phật thì chỉ vì chúng sinh. Thành Phật không phải để sung sướng. Đối với sư ông, tâm niệm duy nhất là tu tập thành tựu để có cái năng lực giúp đỡ mọi người.
Con hiểu rồi. Con cảm ơn sư ông.
Chương 17
Ngày đầu ở chùa
Mẹ hỏi tôi mang va li quần áo để ngủ lại làm gì, cứ sáng đi tối về là được rồi. Tôi vẫn chưa nói với mẹ là tôi vào chùa. Tôi vẫn nói dối tôi sang sống trong trại trẻ mồ côi để làm nghiên cứu.
Thầy xếp cho tôi ở căn phòng trên tầng hai của nhà sàn. Căn phòng nhỏ, có cái giường đơn kê một bên và cửa sổ mở ra phía sau chùa, lại có mấy cành nhãn chìa vào tận cửa. Xà nhà thấp ngay phía trên đầu, luôn có tiếng mọt nghiến gỗ cọt kẹt. Buổi chiều tối đầu tiên tôi vào, thầy sai chú Đạo Ngũ lên quét dọn rồi thầy chắp tay, đi mấy vòng quanh phòng. Lúc thầy đi lên, Thắng với Hùng đi theo; hai đứa kéo tay tôi thì thầm rằng trong phòng này tối ngủ sẽ thấy có bàn tay thò qua cửa sổ vào phòng. Hai đứa thì thầm xong thì thêm:
“Cô ơi cô đừng mách thầy là cháu dọa cô không thầy đánh cháu chết.”
Từ lúc chiều xuống, tôi bắt đầu thấp thỏm. Sau 6 giờ chiều, bóng tối buông dần như tấm rèm lớn hạ từ trời cao xuống bao lấy chùa. Những bóng cây bắt đầu lớn lên, tiếng ếch nhái khuếch đại, thi thoảng lại có tiếng cú mèo. Tâm tôi bắt đầu nhớn nhác. May có Truyền thắp điện ngoài sân để nặn tượng nên khu nhà sàn đỡ tối. Sau 9 giờ tối, tôi giúp Truyền bện những cái tổ chim bằng sợi đay để đổ khuôn tượng Phật, sau này sẽ ốp ở bên ngoài tường chùa. Một lúc thì anh Nguyễn họa sĩ đi qua chỗ chúng tôi:
“Lên ngắm trăng thưởng trà với sư phụ đi.”
Tôi bện nốt mấy cái tổ chim cho Truyền đổ khuôn tượng rồi đi về phía nhà tổ. Một cái chiếu đã được trải trên cỏ, giữa vườn Lâm Tỳ Ni. Một bàn trà nhỏ được sắp trên chiếu, có phích nước nóng ở bên, một bình nước nguội, gói trà sen, bánh gạo, bánh cốm, kẹo lạc. Thầy với anh Nguyễn và hai Phật tử nữa đã ngồi uống trà được một lúc.
Trăng 16 tròn vằng vặc giữa trời đêm xanh nhạt. Khí đêm rất trong nên vòm trời cao. Sao lấp lánh sáng. Có những dải mây trắng vụt lên trời từ phía đầu hồi như một cái tán lớn rất đẹp. Cảnh đêm thanh tĩnh, trong làng hầu như không có tiếng động và cũng không có ánh sáng; chỉ có tiếng chó sủa vu vơ từ xa và tiếng râm ran khe khẽ của côn trùng. Tôi vẫn không dám nhìn vào cây đa và mấy bụi tre ở góc chùa.
Anh Nguyễn và Truyền hỏi thầy chuyện Phật pháp và nhân duyên xuất gia của thầy. Thầy kể lúc nhỏ và thanh niên, thầy hay có những giấc mơ lặp lại. Trong một giấc mơ, thầy với chị gái thầy đi qua một cây cầu độc mộc, chị gái thầy đi sang dễ dàng, còn thầy đi đến giữa cầu lần nào cùng trượt chân, rơi xuống hun hút. Còn trong một giấc mơ khác vào khoảng 2 giờ sáng hằng đêm, có một vị râu tóc bạc phơ giống vị thổ địa trong phim Tây du ký, cứ nói với thầy: “Xin mời động chủ trở về”. Khi lớn lên, thầy cứ tự động không muốn ăn thịt cá, chuyển sang ăn chay, và thờ Đức Quán Âm, rồi bố thầy nói “ăn chay thế thì đi tu đi mà lấy phước cho cả nhà”. Thế là thầy xuất gia. Học đạo và thị giả sư phụ một thời gian thì thầy về chùa này. Trước sư ông Đạo Nhất, đã có 37 người đến xin xuất gia với thầy nhưng chỉ được một thời gian là thầy đuổi.
“Ngày xưa thầy khó tính lắm, người nào thầy cũng thấy không ưng. Bởi vì đời thầy trải qua quá nhiều thứ. Có điều, thầy luôn nghĩ đấy là thử thách của Phật của tổ, có khi của ma vương. Cho nên thầy đều vui vẻ. Thế mới được đến bây giờ. Làm trụ trì một cái chùa làng khó lắm.”
“Bạch thầy nhưng mà các vị cũng hộ trì mình phải không ạ?”
“Tất nhiên rồi. Khi một người xuất gia để hoằng pháp độ sinh thì phải chịu rất nhiều thử thách và cũng được rất nhiều người hộ trì. Chư Phật, Bồ Tát, các bậc thầy của mình trong quá khứ, rồi long thần hộ pháp, rồi các đệ tử và quyến thuộc bồ đề của mình dần cũng sẽ tụ về hộ trì cho mình. Đức Phật Thích Ca đấy, khi mà ngài xuống thì cha mẹ được sắp đặt hết, nó phải là nhân duyên. Đã có nguyện với nhau thì sẽ theo nhau đến khi thành Phật; kể cả theo nhau qua các cảnh giới, các cõi, các quốc độ Phật khác nhau. Mình tu hành rồi thì khi có một người mới đến gặp mình, mình nhìn là có thể biết, à người này trước là con mình, người này trước là vợ mình hay đệ tử mình.”
Tôi vừa nghe thầy nói, vừa nhìn trời đêm và trăng vằng vặc giữa trời. Có chư Phật ở trên kia không? Có Bồ Tát ở trên kia không? Có chư vị hiền thánh tăng đang du hóa trong các cõi không? Có hộ pháp long thần và chúng sinh không? Có các quốc độ Phật khác không? Tôi có duyên gì với thầy, với chùa, với bố mẹ tôi và tất cả những người tôi gặp trong đời?
Thầy nói:
“Ngay như mình đang ngồi đây nói chuyện không phải một mình đâu các cô các chú. Có lần thầy đang ngồi nói chuyện thế này, Đức Chúa Ông nhập vào chú Đạo Nhị, thế là thầy không nói gì nữa. Đức Chúa bảo sao tôi không vào thì thầy trò nói chuyện rôm rả thế, mà có tôi thì không ai nói gì, thôi tôi ra cho thầy trò nói chuyện.”
Tôi hỏi thầy tại sao các ngài vào người này người kia, mà không phải ai cũng vào. Thầy nói tùy duyên, tùy nguyện và căn cơ từng người. Tôi hỏi thầy khi các tổ lên thì tất cả những lời các tổ nói đều là lời của bậc thánh và có thể tin một trăm phần trăm không.
“Nó tùy vào việc người cho mượn xác có tác ý của mình hay không. Thật ra, khi bắt đầu lên là thầy đã biết. Ngồi nghe thầy biết được lời nào là thật, lời nào là giả. Nhưng thật giả đều nghe hết! Vui hết! Thật cũng như giả, giả cũng như thật, hoan hỉ hết. Không sao cả.”
Thầy nói Đức Chúa Ông đã từng gá vào chú Đạo Nhị, sư ông Đạo Nhất, anh Sang, và một vài người khác nhưng thầy tâm đắc nhất là lúc vào chú Đạo Nhị vì chú Nhị đơn giản, đầu óc vô tư nhưng có mật hạnh. Lúc vào chú Nhị, ngài ngồi tay chống kiếm, nói năng khúc chiết và từ bi vô cùng mặc dù chú Đạo Nhị chưa biết Phật pháp nhiều. Vào ông Đạo Nhất thì hiền quá, nói gì cũng ờ ờ, giống ông Đạo Nhất bên ngoài, vào Sang thì nóng tính bởi vì Sang nóng tính chứ Đức Chúa Ông có hiệu Cấp Cô Độc vì thương người, hay bố thí người nghèo khó.
“Việc tâm linh nó như sợi chỉ mành ấy mà cô” - thầy nói - “Phật với ma chỉ trong sát na.”
Rồi thầy kể rất nhiều chuyện cười. Thỉnh thoảng trên đầu, một ngôi sao băng lại vụt qua, mất dạng. Chúng tôi nói chuyện đến hơn 1 giờ đêm mới dọn bàn trà đi ngủ. Lúc đó, trăng treo vằng vặc trên đầu, soi tỏ từng bụi cây. Thầy nói với tôi:
“Cô giáo cứ ngủ ngon nhé, không có gì đâu mà sợ. Đất chùa lành mà.”
Tôi về phòng, vừa yên tâm lại vừa sợ nên cắm tai nghe để nghe nhạc và vẫn để một bóng điện sáng dù trong chùa đã tắt hết điện. Lúc tôi bắt đầu ngủ đã là 2 giờ sáng; bên ngoài đã có tiếng những con chim dậy sớm lích chích trong vòm nhãn giữa sân chùa.
Chương 18
Sơ nhập đạo tràng
Bốn giờ sáng, chuông báo thức đổ. Qua cửa sổ, trời trong và mát, sân chùa chưa có ai, chỉ có tiếng lá bồ đề rụng lộp độp. Tôi bật điện lên rồi xỏ dép, đi xuống. Thầy đã dậy, cầm một cái gậy nhỏ, vào phòng khua lũ trẻ:
“Vẫn còn chưa dậy à?”
Bọn trẻ con bắt đầu dậy, dò dẫm mắt nhắm mắt mở đi ra bể nước sau nhà vệ sinh để rửa mặt. Hùng dậy trước nhất, đem kem đánh răng và bàn chải ra đánh răng. Rồi đến Thắng và Tú. Rồi đến chú Đạo Ngũ và Huy. Chú Đạo Ngũ còn ngái ngủ, mắt vẫn nhắm mà chân vẫn đi.
Phải đến 4 giờ 15 mới lên đến Tam Bảo. Lũ trẻ đã mặc áo tràng dài chỉnh tề; trừ tôi vẫn mặc quần ngố với áo phông. Bọn trẻ con nhìn thấy tôi thì ngạc nhiên:
“Ơ cô ạ, cô dậy làm gì ạ?”
“Cô dậy xem các chú tụng kinh” - tôi cười.
Trong Tam Bảo, mấy bộ kinh Thủ Lăng Nghiêm đã được sắp trên các kệ gỗ - chắc chú Đạo Ngũ sắp sẵn từ tối hôm qua. Chú Đạo Ngũ ngồi trên làm chủ sám; hàng dưới là Hùng; rồi hàng hơi dưới nữa là Thắng, Tú, Huy và tôi - bốn người dàn hàng ngang.
Đầu tiên là đọc bài kinh lễ Phật. Phải quỳ hai đầu gối trên nền gạch cứng, dập đầu xuống đất lễ Phật. Bọn trẻ đã quen nên quỳ rất thành thục, tôi thì được vài lễ là đau đầu gối, đành đầu hàng.
Nhất tâm kính lễ thập phương pháp giới thường trụ Tam Bảo (ba lần).
Nguyện thử hương yên vân.
Biến mãn thập phương giới
Vô biên Phật độ trung
Vô lượng hương trang nghiêm
Cụ túc Bồ Tát đạo
Thành tựu Như Lai hương (11) .
Hết bài dâng hương (gọi là hương tán), chúng tôi tụng “tịnh khẩu nghiệp chân ngôn” (thần chú làm thanh tịnh lời nói), “tịnh thân nghiệp chân ngôn” (thần chú làm thanh tịnh thân mình), “tịnh tam nghiệp chân ngôn” (thần chú làm thanh tịnh ba nghiệp thuộc về ý là tham, sân, si), rồi tới bài kệ khai kinh, sau đó mới bắt đầu chính thức vào thần chú Thủ Lăng Nghiêm.
Nam mô tát đát tha tô dà đa ra, a ra ha đế, tam diểu tam bồ đà tả. Nam mô tát đát tha Phật đà câu chi sắt ni sam. Nam mô tát bà, bột đà bột địa tát đá bệ tệ. Nam mô tát đá nẫm tam diểu tam bồ đà câu chi nẫm.
Kinh Lăng Nghiêm thì tôi đã bắt đầu lõm bõm đọc nhưng chú Lăng Nghiêm thì đây là lần đầu. Chú Lăng Nghiêm là bài chú mà Đức Phật Thích Ca đã thuyết để Bồ Tát Văn Thù mang đi giải cứu ngài A Nan. Lần đầu tụng chú Lăng Nghiêm này cũng là lần đầu tiên trong đời có một thứ bằng tiếng Việt mà tôi không đọc được.
Than ôi. Mắt rõ ràng nhìn thấy chữ mà đầu và miệng tôi không thể nào theo được, cứ há ra như cá đớp không khí. Chú Đạo Ngũ buồn ngủ nên dẫn chúng mà giọng lúc to lúc nhỏ, mõ khi lên khi xuống vô tội vạ, có lúc mõ chìm nghỉm nên ở dưới càng khó theo. Bọn trẻ con theo đoạn đầu rồi gục xuống ngủ. May có Huy. Huy đọc kinh và chú rất hay; giọng to khỏe, ngân nga đều đặn, có giai điệu. Tôi ngồi cạnh Huy, hai chị em đọc phụ nhau; có đoạn Huy đọc chính, tôi lẩm nhẩm theo; có đoạn nào tôi theo được thì đọc chính, Huy theo; bọn trẻ con cứ ngủ một lúc lại tỉnh dậy, lõm bõm đọc theo, rồi lại ngủ tiếp, rồi lại tỉnh dậy lẩm bẩm.
Chúng tôi - một lũ trẻ con - cứ ê a đọc tụng như thế. Có lúc tôi cảm giác Phật và rất nhiều các cụ tổ cùng chúng sinh trong điện vừa nghe chúng tôi tụng vừa phì cười với lũ tiểu yêu ngốc nghếch này. Chính tôi có lúc đang đọc cũng suýt phì cười vì các tiếng chú được phiên âm ra tiếng Việt. Nào là “bà dà bà đế”, rồi lại “đá ra dạ ra”, “tô ma rô ba”, “hô lô hô lô ma la”, “hô lô hô lô hê lị”. Cứ bô lô ba la, vừa ê a lần mò vừa cười thì nghe tiếng lộc cộc bên ngoài. Là tiếng gậy của thầy. Lập tức, cả lũ liếc nhau rồi ngồi thẳng lên, cố đọc to rõ ràng.
Ê a rất lâu mới hết năm hội của chú Lăng Nghiêm. Hết Lăng Nghiêm là bắt vào chú Đại Bi, và 10 bài chú ngắn, gọi là tiểu chú. Sau đó tụng Tâm Kinh Bát Nhã, rồi đến sám hối, rồi niệm 108 lần danh hiệu Phật Thích Ca Mâu Ni, mười lần danh hiệu Bồ Tát Văn Thù, mười lần danh hiệu Bồ Tát Phổ Hiền, mười lần danh hiệu Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, mười lần danh hiệu Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. Niệm xong, tất cả đứng lên lễ các đức Phật, Bồ Tát, và chư vị hiền thánh tăng. Mỗi Đức Phật hay Bồ Tát là một lần đứng lên, quỳ dập đầu xuống lễ. Tổng cộng 29 lễ. Được 15 lễ là tôi chóng mặt, đầu gối đau, nên đầu hàng, chỉ ngồi chứ không đứng lên lễ được nữa.
Xong phần lễ là phát nguyện và tam tự quy.
Tự quy y Phật, đương nguyện chúng sinh, thệ giải đại đạo, phát vô thượng tâm.
Tự quy y Pháp, đương nguyện chúng sinh, thâm nhập kinh tạng, trí tuệ như hải.
Tự quy y Tăng, đương nguyện chúng sinh, thống lý đại chúng, nhất thiết vô ngại (12) .
Cuối cùng là hồi hướng tất cả các công đức do việc tụng kinh lễ Phật cho toàn thể pháp giới chúng sinh để đều được thành Phật.
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử và chúng sinh
Đều trọn thành Phật đạo.
Công Phu Khuya vậy là hoàn thành. Thời khóa Công Phu Khuya này nhiều chùa theo tông Tịnh Độ hay Mật tông tuân thủ từ hàng trăm năm nay. Các chùa thiền tông thì sẽ thay việc trì Lăng Nghiêm bằng thời tọa thiền. Xong công phu khuya là 5 giờ 15 phút. Chúng tôi theo nhau đi quanh lạy các ban: ban Phật ở giữa, ban Đức Thánh Hiền (tức ngài A Nan) bên trái, ban Đức Chúa Ông bên phải, cả hai ông hộ pháp. Rồi đóng cửa Tam Bảo để xuống nhà.
Trời sáng dần, không khí trong mát, thơm mùi hoa nhài và mùi đất ruộng ngấm sương đêm. Bọn trẻ xuống bếp, múc nước nấu cơm, nhóm bếp, thả chó, thả gà. Chúng vừa làm vừa hát ầm ĩ, đánh động buổi sáng:
Nam mô A Di Đà Phật.
Nam mô Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát...
Om Ma Ni Pad Me Hum... hùm mà là hùm...
Hôm nay đã hết rằm nên chùa ít người đến lễ. Sư ông Đạo Nhất và chú Đạo Nhị cũng đã về lại trường hạ. Cả ngày chùa vắng. Suốt buổi chiều, chỉ có một bà già sang chùa. Bà ngồi chân cột nhà sàn, kể chuyện gia đình để nhờ thầy giúp. Con trai bà cho vay tiền hơn một tỷ nhưng không có giấy tờ nợ đi kèm nên giờ không biết đòi nợ ra sao. Một con gái thì vay tiền mở công ty rồi phá sản, giờ hai vợ chồng gửi con cho bố mẹ rồi vào Sài Gòn trốn nợ hơn một năm nay. Bà vừa kể chuyện con cái vừa khóc, nước mắt cứ rịn ra; bà lấy ống tay áo gạt liên tục mà cứ gạt đi thì nước mắt lại rịn ra như vô tận.
Tôi nhìn bà khóc, nghĩ đến nước mắt của tất cả những người cha người mẹ từng đổ trên đời vì con cái, bắt đầu từ lúc khai thiên lập địa đến nay. Có lẽ phải hàng biển nước mắt. Rồi tôi lại nghĩ: thầy làm sao mà giúp bà đây? Giúp bà đòi nợ thì không thể. Giúp bà làm bùa chú để trị người nọ người kia càng không. Bắt ma, điều âm binh càng hoang đường. Chỉ có cách là hướng đạo cho họ thay tâm đổi tính, bớt tham đi thì bớt khổ.
Ngồi trọn một ngày ở chùa từ sáng sớm tới đêm khuya, có thể thấy có ba dạng người đến chùa. Một là những người đã quen đến thầy và tin thầy - là tín đồ Phật tử nhất tâm theo thầy - thì sẽ đến tâm sự và nhờ thầy tất cả mọi việc trong gia đình, cả chuyện tâm linh lẫn chuyện không liên quan tâm linh, dù là chuyện nợ nần, cưới hỏi, mở cửa hàng, thăng quan tiến chức, sinh con đẻ cái, vân vân. Thứ hai là những người mỗi năm chỉ đến chùa vài lần vào dịp Vu Lan tháng Bảy hay dâng sao giải hạn đầu năm, hoặc lúc nhà có đám ma. Thứ ba là những người đến chùa theo kiểu đảo qua, thi thoảng chợt nhớ ra thì tới. Nhưng dù là dạng nào, đa phần đến chùa cầu phước và sự an tâm tạm thời. Khi tâm tạm an, họ lại lập tức chào thầy ra đi để đuổi theo những ham mê bên ngoài; cho đến lúc tả tơi bầm giập mới lại trở về. Người thực sự cầu giải thoát ít lắm. Có lẽ vì giải thoát khó quá. Chúng ta thà ở trong lồng mà dễ còn hơn, miễn có chút thức ăn nước uống.
Cuối chiều trời bắt đầu mát rượi. Sân chùa lộng gió. Thầy ngồi trên võng mắc ở đầu nhà sàn, mở truyện cười ra đọc to cho chúng tôi nghe rồi cười ha hả. Tôi và lũ trẻ ngồi nghe chuyện, cũng cười ha ha. Rất là vui.
Chiều tối thì mưa giông. Lá bay khắp sân chùa. Mưa sầm sập, sầm sập. Chỉ có mấy thầy trò ăn cơm tối với nhau ở chân nhà sàn. Cơm chỉ có đậu sốt cà chua, rau, một bát canh. Tôi ăn cơm rất ngon; cứ ăn một miếng lại đặt bát xuống để nhặt những con thiêu thân và côn trùng tránh mưa bay từ ngoài vào bu quanh bóng điện mắc lơ lửng trên xà nhà rồi lóa mắt rụng xuống bát. Ăn cơm xong tôi nghe tiếng mõ vọng xuống từ phía Tam Bảo thì đi lên. Chú Đạo Ngũ đang tụng kinh một mình, tay chuông tay mõ. Chú Ngũ bảo 7 giờ tối hằng ngày là thời khóa tối; thường các bà trong làng sẽ lên chùa tụng kinh, nhưng hôm nay mưa các bà không vào thì tụng một mình. Tôi hỏi chú tụng kinh gì thế; chú bảo thời khóa tối đang tụng Lương Hoàng Sám, là kinh nói về nhân - quả, các cảnh giới của địa ngục và về công đức của việc sám hối, phát nguyện.
Chú Đạo Ngũ tụng xong, tôi thu dọn giá kinh cùng với chú, lại hỏi chú là có được mặc quần ngố vào Tam Bảo không. Chú Ngũ nói đúng ra là không được mặc quần ngắn, áo ngắn, đội mũ, đi dép vào Tam Bảo. Hôm qua thầy thoáng ngập ngừng khi tôi hỏi tôi có được mặc quần ngố vào Tam Bảo không, nhưng rồi thầy lại gật đầu bảo cũng được. Từ mai tôi sẽ mặc quần dài.
Chương 19
Văn - Tư - Tu
Thế giới vẫn vậy. Hết xuân sang hạ; hết hạ tới thu. Liên tục có việc quanh năm suốt tháng. Nhật Bản động đất và sóng thần, hơn 20 ngàn người chết. Hoàng tử William và công nương Kate Middleton đã cưới được mấy tháng rồi nhưng thế giới vẫn tiếp tục tốn rất nhiều giấy mực về chiếc váy cưới của họ và mỗi lần công nương Middleton mặc một chiếc váy mới thì dường như một cơn động đất nhẹ lại lan từ Anh sang các nước. Bin Laden đã bị tiêu diệt từ tháng Năm nhưng nỗi sợ mà con người này gây ra, cộng với nỗi sợ về một thế lực hắc ám giấu mặt, dường như không hề giảm đi mà tiếp tục tăng lên. Các nước Ả Rập tiếp tục biểu tình và lan truyền không khí của mùa xuân Ả rập trong khi ở Mỹ, phong trào chiếm phố Wall lan rộng. Liên tục biến chuyển. Sự kiện này chưa qua, sự kiện sau lại tới, nóng hơn, nhưng cũng chỉ nóng được một thời gian rồi biến mất vào hư không, bỏ lại sau từng con người một mình trong những tâm cảnh riêng của họ. Sau một tháng, không ai còn để ý những nạn nhân động đất Nhật Bản ra sao. Những thanh niên đã xuống đường trong mùa xuân Ả rập giờ ai tù tội, ai thành anh hùng?
Những ngày mới vào chùa, tôi còn giữ thói quen đọc tin tức hằng ngày và kiểm tra email. Dần dần, ngày tháng và thế giới bên ngoài trở nên xa vợi. Tôi cứ trôi từ ngày này sang ngày khác, mỗi ngày lại thấy sáng ra một chút, như thể những đám mây xám dày đặc trong đầu tôi cứ tự thưa dần, thưa dần. Tuy thế, buổi tối, tôi vẫn phải để một bóng đèn nhỏ khi ngủ.
Mỗi ngày, việc tụng chú của tôi lại khá hơn một chút. Có những câu hôm trước đọc hết sức trúc trắc thì hôm sau đã thông; cứ tự nhiên thông.
Sáng nay, cũng như mấy hôm trước, tôi bắt đầu ì ạch tụng Thủ Lăng Nghiêm. Hôm nay có ông Đạo Nhất từ trường về nên ông làm chủ sám; bọn trẻ con được cho nghỉ nên chỉ có tôi, chú Đạo Ngũ, Huy tụng. Tôi ì ạch tụng nho nhỏ, miệng liên tục vấp; rõ ràng mắt nhìn chữ “đát” mà miệng phát ra chữ “đá”, nhìn chữ “diểu” thì miệng đọc thành “biểu”. Tôi vẫn không hiểu: tại làm sao chỉ là tiếng Việt mà tôi không sao đọc được. Chịu chết. Mắt nhìn chữ mà miệng, lưỡi, đầu nhất định không theo.
Tôi ì ạch đọc hết Đệ nhất hội thì bắt đầu nhận ra chú Lăng Nghiêm không phải chỉ là các âm rời nhau ê a vô nghĩa mà có cấu trúc. Ví dụ hội thứ nhất là nhiều câu song song với mở đầu “Nam mô bà dà bà đế” và kết thúc bằng “Tam diểu tam bồ đà ra”. Nhưng sở dĩ tôi không đọc được là vì đầu tôi, theo quán tính cả mấy chục năm nay, cứ “ấm ức” rằng nó không hiểu được nghĩa của cái nó đọc. Cho nên khi đọc “Nam mô tát đát tha tô dà đa ra” thì mắt đã nhìn đến chữ “tô” mà đầu thì vẫn đang lưu luyến xem “tát đát tha” là cái gì. “Tát đát tha” chẳng có nghĩa gì cả; nhưng mà vì quán tính, nên trong đầu tôi vẫn cứ tự động khởi lên các ý hoặc hình ảnh gắn với từng chữ một. “Tát” là gì; “đát” là gì; “tha” là gì. Vậy là nó bị lỡ đoạn “tô dà đa ra” và miệng thì bị loạn. Hoặc có khi đang đọc cả đoạn âm, nó gặp một chữ bỗng nhiên có nghĩa một cách vô tình, ví dụ “Nam mô bà già bà đế, đế lị trà thâu ra tây na”... thế là trong đầu tôi tự khắc nổi lên hình ảnh “bà già” và một bà nào đó tên là “bà Đế”, rồi nó lại nghĩ đến “trà.”
Khi nhận ra thói quen này, tôi bắt đầu thả lỏng đầu óc và chỉ bao quát mặt chữ chứ không chăm chú nhìn nữa. Tôi tự nhủ rằng đây chỉ là các âm và tôi chỉ cần xướng các âm lên. Tôi đọc qua nửa cuối của Đệ nhất hội một cách trôi chảy, tự nhiên trong lòng hết sức hứng khởi. Càng đọc càng thấy hào hứng. Huy dường như cũng hào hứng thấy tôi đọc trôi chảy; tôi và Huy bắt đầu đọc rất đều nhau và to; ông Đạo Nhất cũng bắt đầu đọc liền mạch theo chúng tôi chứ không ngắt quãng đột ngột để ngân nga nữa. Vậy là tất cả tự nhiên đọc đồng thanh, to, trôi chảy, rõ ràng... Bỗng nhiên chú cứ thế ùn ùn tuôn ra, vang dội Tam Bảo. Cái uy lực và năng lượng của cả một khối người đọc đồng thanh cùng một nhịp thật khác với từng người đọc rời rạc theo ý mình. Chúng tôi cứ thế đọc băng băng hết Đệ tam hội sang Đệ tứ hội và Đệ ngũ hội. Tôi muốn chú cứ dài nữa ra để tôi đọc tiếp.
Xong công phu khuya mà trời còn tối vì hôm nay trăng đã mất. Trời lại nhiều mây như sắp mưa. Bọn trẻ vẫn chưa dậy; chỉ có mấy con mèo con đùa nhau rất vui. Lũ mèo con sáng nào cũng dậy sớm, đùa nhau chán chê, xong thì bú mẹ rồi ngủ.
Tôi lấy chổi quét nhà sàn. Thầy cũng từ phòng xuống, nằm võng. Tôi hỏi thầy:
“Thưa thầy, tại sao cùng một bài chú mà có hôm con đọc được trôi chảy, có hôm con không đọc được?”
“Là vì tâm cô thôi. Tâm thay đổi từng sát na. Hôm nay tâm cô trụ, mai có khi lại không.”
“Thế chú có nghĩa gì ạ?”
“À, chú thì không giải nghĩa. Trong đạo Phật có năm thứ không giải nghĩa, chỉ có thể phiên âm, gọi là ‘ngũ chủng bất phiên’.”
“Thế cứ đọc là sinh ra công năng ạ?”
“Với chú thì thật ra phải trì chứ không đọc. Trì tức là nắm giữ. Trì đúng thì phải tam mật tương ứng, tức là thân mật, khẩu mật, ý mật. Thân hành giả như thân Phật, lời hành giả là lời Phật, ý hành giả là ý Phật. Mình phải hết sức nhiếp vào câu chú, để cho cả thân, khẩu, ý của mình đều thể nhập vào Đức Bản Tôn.”
Thực sự, tôi thấy đọc/tụng/trì chú rất thú vị nhưng tôi vẫn không thể chấp nhận được niềm tin rằng, đối với kinh, chú, cứ tụng đi, không cần hiểu, cũng vẫn sẽ có tác dụng. Mà niềm tin này có vẻ rất phổ biến trong cộng đồng Phật tử và được biểu hiện thành những dạng hoạt động khác nữa - như lạy từng chữ trong kinh Pháp Hoa, đội kinh Pháp Hoa lên đầu, nô nức đi các lễ điểm đạo của các vị được cho là tái sinh mà không cần biết ý nghĩa, đeo vòng tay vòng chân có trì chú, bỏ tiền mua rất nhiều các loại đá phong thủy bày trong nhà. Ở rất nhiều chùa nông thôn tại Việt Nam, các bản kinh mà các bà già tụng hằng ngày vẫn là kinh A Di Đà hay Bát Nhã bằng tiếng Hán mà các bà già thuộc lòng nhưng không hề hiểu nghĩa. “Như thị ngã văn nhĩ thời Phật tại Xá Vệ quốc, kỳ thụ Cấp Cô Độc viên, dữ đại tỷ khiêu tăng, thiên nhị bách ngũ thập nhân câu...”. - các bà tụng trôi chảy lắm nhưng khi tôi hỏi nghĩa thì các bà nói không hiểu. Thậm chí các chú tiểu mới vào chùa cũng tụng nhưng không hiểu.
“Con cảm thấy trì chú nó cứ xa lạ với con. Con vẫn sợ sợ. Làm thế nào để biết là mình hợp với tu thiền, niệm Phật hay trì chú?”
“Cô mới bắt đầu thì cứ pháp nào làm tâm mình an thì pháp đó hợp với mình.”
Về sau này, sau khi đã thử cả niệm Phật, tụng kinh, trì chú, tọa thiền, có lúc tham dự thất A Di Đà bảy ngày liên tục niệm Phật, rồi lại đả thiền thất ở Vạn Phật Thánh Thành của cố hòa thượng Tuyên Hóa, tôi nhận ra khi tâm an thì theo pháp nào cũng được, pháp nào cũng thế, và cái gì cũng là pháp. Khi đó thì thực tế là niệm Phật thành trì Phật, tọa thiền thành trì thiền, tụng kinh thành trì kinh. Trì giống lúc tôi xâu kim cho mẹ tôi khi nhỏ. Lúc đó, tay trái cầm kim giơ lên, tay phải cầm đầu sợi chỉ; phải tập trung cao độ, tay không được run, đưa đầu sợi chỉ đúng vào lỗ kim; chờ cho sợi chỉ luồn qua một chút, rồi vẫn không được run tay, dùng tay phải rút nó qua lỗ kim. Trì kinh hay chú không phải là hoạt động cơ học của việc phát ra một âm thanh mà toàn bộ thân và tâm mình thu vào trong âm thanh, không có niệm nào khác khởi lên xen giữa các câu kinh hay chú. Niệm “Nam mô A Di Đà Phật”, khi thành thục, cũng giống trì chú vậy. Tôi nhớ khi tham dự thất A Di Đà ở Vạn Phật Thánh Thành, càng niệm tôi càng nhìn rõ rằng chỉ đi từ tiếng “nam” sang tiếng “mô”, tưởng là liên tục mà giữa hai tiếng đã đủ thời gian cho vô vàn niệm khởi lên, hoặc không khởi thành niệm có phát ngôn rõ rệt trong đầu (“Đói quá”, “Buồn ngủ quá”) thì sẽ có các cảm thọ mơ hồ như bứt rứt, cáu bẳn, hoặc an lạc mà ta có thể nhận biết - và cái nhận biết đó cũng đã làm ta rời khỏi câu niệm Phật.
Trong mấy năm qua, bao gồm cả ba mùa hè 2013, 2014, 2015 sống ở chùa, tôi đã tụng đọc kinh chú rất nhiều lần. Không lần nào giống hệt lần nào. Có những khi tôi tụng đọc như bay như lướt, nhắm mắt lại mà toàn thân hoàn toàn là một khoảng trống, chỉ có miệng vẫn tiếp tục tuôn ra các lời kinh chú như thể tuôn ra từ không khí, với một cảm giác an lạc vô cùng. Có những khi, vừa tụng đọc mà trong người tôi bực dọc, giận dữ cứ cuộn lên như một con hổ lồng lộn gào thét xui tôi đứng dậy bỏ ra ngoài Tam Bảo. Hoặc lần đầu tiên tụng kinh Địa Tạng, tôi nôn nao khắp người; cứ ngừng đọc thì thôi, bắt đầu đọc là nôn nao. Có khi tôi cùng tụng kinh Lương Hoàng Sám vào thời khóa tối với một vài người trong chùa mà họ không sao tụng được - có người ở ngoài thì không sao, cứ vào tụng là ngay lập tức mắt sưng đỏ, mặt phù lên tại chỗ, phải dừng lại để ra ngoài, tối nào cũng như vậy; có người cứ giở trang sách là thấy hình ma quỷ đầy trên trang sách, phải thôi; trong khi đó tôi tụng rất an lạc.
Có một buổi sáng sau động đất ở Nepal, tôi ngồi xuống tụng Lăng Nghiêm như mọi ngày nhưng vừa ngồi xuống bồ đoàn, xếp chân sửa áo để chuẩn bị tụng thì một ý nghĩ đi ngang đầu tôi. “Mình vừa ngồi xuống, chỉ là một việc thủ tục như mọi ngày, nhưng chính lúc này, hàng ngàn người đang bị chôn sống; họ muốn thở mà đầy bụi đất, họ muốn cựa mà chân tay bị gạch đá đè gãy nát, họ muốn kêu mà không ai nghe thấy. Biết bao nhiêu sợ hãi và đau đớn. Mình chỉ nghe tiếng thở của một thứ vô hình trong đêm tối mà còn hoảng sợ như thế, thì họ trong bóng tối với cái chết đến gần sẽ còn sợ hãi thế nào. Với họ, được ngồi xuống như mình thế này là thiên đường.”
Khi tôi nghĩ thế, toàn thân tôi rúng động, nước mắt bắt đầu dâng lên không ngăn nổi, cứ thế tuôn thành dòng. Tôi bèn nguyện rằng bài chú Thủ Lăng Nghiêm và Đại Bi sắp tụng đây, tôi sẽ dành cho tất cả những người đang gặp nạn ở Nepal - dù còn sống hay đã chết. Nếu còn sống thì họ khởi được sự tin tưởng và an lạc trong tâm, chờ người đến cứu. Nếu đã chết thì có thể xả bỏ sợ hãi, đau đớn, tuyệt vọng. Khi phát nguyện như vậy, tâm tôi tự khắc nhiếp vào các câu chú; hết Lăng Nghiêm, tôi tụng ba lượt chú Đại Bi và các tiểu chú, rồi niệm Phật A Di Đà, Phật Dược Sư, Bồ tát Quán Âm, Văn Thù, Thế Chí, Phổ Hiền, Địa Tạng, toàn thể chư Phật, Bồ tát, hiền thánh tăng, hộ pháp thiện thần trong mười phương. Niệm đến ai là triệu thỉnh người đó.
Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát
Nam mô Đại Lực Đại Thế Chí Bồ Tát
Nam mô Đại Trí Văn Thù Bồ Tát
Nam mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát
Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát
Đấy là lần đầu tiên tôi tụng mà cảm giác rõ rệt rằng mình đang thực sự triệu thỉnh các Bồ Tát và Phật. Triệu thỉnh từng người và gửi họ đi Nepal. Xa bất cứ đâu trong mười phương thì các Ngài cũng phải đến vì không có cách nào quay đi với những khổ đau này của con người. Cũng là khi tôi hiểu rằng tất cả Phật, Bồ Tát, hiền thánh; tất cả Phật lực, Bồ Tát hạnh, hiền thánh nguyện đều đầy đủ trong ta; cùng tất cả ma lực, ma cảnh. Trong thân người phàm hai mắt hai tay hai chân này của ta có đầy đủ tất cả thần thông và năng lực làm mọi sự.
Vừa tụng, nước mắt tôi tiếp tục chảy.
Lại cũng phải lâu sau này, tôi mới trải nghiệm việc nghe kinh không phải bằng ý thức, không dùng cái hiểu để tháo gỡ văn tự, mà nghe kinh như nghe thấy lời Phật thuyết thẳng vào tâm, có thể cảm nhận được thần lực của Phật đang thuyết pháp. Nghe như vậy, tâm mở toang và có thể lập tức chuyển.
Cả sáng nay, chùa không khách vãng lai. Trời ngừng mưa, mặt trời lên dìu dịu, không khí rất mát. Bọn trẻ, sư ông Đạo Nhất, chú Ngũ, và tôi ngồi quanh chân nhà sàn hỏi chuyện thầy cả sáng. Tôi nói với thầy tôi cảm thấy đạo Phật thật mênh mông, càng khám phá càng ra nhiều; tôi không biết phải tìm hiểu từ đâu, thế nào. Thầy cười:
“Cô cứ từ từ, đừng nóng vội. Hãy thành tâm học Phật. Trong tu hành thì Phật dạy phải trải qua các quá trình Văn - Tư - Tu - Tín - Nguyện - Hành. ‘Văn’ nghĩa là ‘nghe’. Đầu tiên mình cứ nghe đã, rồi mình ‘Tư’ tức là mình suy nghĩ xem nó có hợp lý không; nếu mình thấy nó hợp lý, nó làm mình an, thì mình bắt đầu ‘Tu’; nhưng tu ở đây mới là ‘sửa’ thôi đã, không phải là đi tu. Khi mình bắt đầu sửa lại thân, khẩu, ý, sửa các thói quen trong cuộc sống của mình sao cho hợp đạo, rồi mình thấy lợi lạc thực sự từ những thay đổi đó thì mình sinh ‘Tín’. Có tín rồi, tin vào lợi lạc của Phật pháp rồi thì mình lại phát ‘Nguyện’ rộng lớn là mình muốn tất cả các chúng sinh khác nữa cũng tìm được an lạc như mình.”
“Như con bây giờ chắc là đang ‘văn’?”
“Cô cứ nghe đi. Ngày xưa Đức Phật cũng nói đừng bao giờ tin ngay chỉ vì đó là lời do ta nói ra hoặc do thầy các ông nói ra, chỉ khi nào các ông đã nghe, đã kiểm chứng, đã thấy nó hợp lý và mang lại lợi lạc thì hẵng tin.”
“Thưa thầy, con thấy con cứ hay nghi nghi hoặc hoặc.”
“Phật nói có nhiều thứ chướng ngại sự tu hành, như tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, thân kiến... Với giới trí thức, cái ‘mạn’ và cái ‘nghi’ thường là cái ngăn họ đến với sự thật. Khi xưa Phật đã gọi những người như thế là ‘thế trí biện thông’, họ có trí tuệ thế gian nhưng không thể ra khỏi cái thuộc về tâm trí. Vẫn đang hoạt động bằng ‘thức’. Tu là chuyển ‘bát thức’ thành ‘ngũ trí’. Mà trí thì thuộc về chỗ tĩnh chứ không phải chỗ động.”
Tôi cười, xá thầy. Chiều tối, tôi xin phép về nhà để đi Sài Gòn có việc. Mẹ đã phát hiện ra việc tôi ở chùa rồi. Mẹ bảo con phải cẩn thận không bị lừa đấy, bị người ta bỏ bùa. Các đồng nghiệp Mỹ mà tôi kể chuyện hầu đồng, mượn xác cũng bảo tôi:
“Cẩn thận đấy. Những người đó có thể đang có các trạng thái ‘altered reality (13) ’. Cảm nhận của họ về thực tại bị bóp méo hoàn toàn. Cậu không cẩn thận cũng sẽ bị nhiễm theo họ.”
Từ Sài Gòn ra, tôi ở Hà Nội thêm mấy ngày rồi trở lại Mỹ. Trước khi đi, tôi đến chào thầy và hẹn rằng mùa hè sau, tôi sẽ trở lại, xin thầy lại cho tôi vào chùa sống để tiếp tục học. Thầy cười, như thể thầy biết không chỉ mùa hè tới mà còn mùa hè sau, mùa hè sau nữa... tôi sẽ còn quay lại.
Tôi vẫn chưa hỏi thầy trực tiếp chuyện con ma, nhưng lần ở chùa ngắn ngủi này đã giúp tôi bắt đầu có thể khống chế được nỗi sợ của mình. Những ngày cuối ở chùa, tôi đã có thể tắt điện đi ngủ dù rằng về đến nhà, tôi lại phải bật điện trở lại vào buổi đêm. Tôi vẫn cứ thấp thỏm chờ con ma trở lại viếng thăm một ngày nào đó. Tôi biết, nó chỉ đang tạm lui binh mà thôi.
Phần 3: San Jose - Mùa thu 2011 - Chương 20
Rác, rác, rác
Nhưng trong chín tháng sau đó ở San Jose, con ma không trở lại. Trong vòng chín tháng ấy, tôi đã tìm một công việc khác. Đầu tháng Mười một, tôi phỏng vấn vòng một với các trường. Từ đó đến đầu năm mới, tôi phỏng vấn vòng hai tại năm trường - một ở South Carolina, một ở Los Angeles, một ở Wisconsin, một ở Berkeley, và một ở Missouri. Cuối tháng Một, tôi có lời mời làm việc đầu tiên. Đến đầu tháng Ba, tôi có ba lời mời làm việc và đã quyết định sẽ đi South Carolina.
Thực sự, quyết định đi South Carolina này không hề dễ bởi vì tôi nghĩ đến AJ. Online dating hóa ra cũng có tác dụng. AJ và tôi đã gặp nhau hồi tôi mới mở tài khoản, nhưng sau đó quyết định chỉ là bạn. Khi tôi từ Việt Nam trở lại, tôi và AJ gặp nhau nhiều hơn và từ lúc nào thì tình bạn chuyển thành một thứ tình cảm khác.
AJ người Mỹ gốc Ấn Độ, có bằng tiến sĩ về cơ khí hóa, hiện đang làm việc cho một tập đoàn lớn ở Silicon Valley. AJ thực sự không giống bất cứ người đàn ông nào tôi từng biết. Không giống ở chỗ AJ rất bình thường và làm mọi thứ trở nên bình thường đến mức những ai đã quen làm cho cuộc sống chộn rộn sẽ ngẩn ngơ “lẽ nào cuộc sống chỉ có thế?” AJ bình thường theo nghĩa anh tốt đến mức hiển nhiên - khiến cho lòng tốt trở thành một điều bình thường chứ không phải một phẩm chất đặc biệt đáng ca ngợi. Anh không nói hay làm điều gì vì sĩ diện; thực sự ở AJ không hề có sĩ diện - đến mức không có sĩ diện trở thành một điều hiển nhiên chứ không phải một cố gắng đạo đức. Anh không bao giờ nổi nóng vô cớ. Không nói câu nào để tâng bốc, đãi bôi người khác; nếu không thể nói điều gì tử tế thì anh không nói và tuyên bố rõ: “Tôi không thể nói gì vào lúc này”. Thế nhưng, nếu bạn hỏi ý kiến thì dù là bất cứ vấn đề gì - nền dân chủ Mỹ, chiến tranh Trung Đông, tiểu thuyết đương đại Ấn Độ, cổ phiếu Apple, nên mua nhà hay thuê nhà, phim truyền hình Hàn Quốc, Aishwarya Rai và Amitabh Bachan, cách giảm béo, Tính Không, Vô Ngã, bệnh táo bón - anh cũng sẽ nói cho bạn biết các dữ liệu khoa học về vấn đề đó, cộng với ý kiến trung thực của anh.
“I am a constitutional man (14) ” - AJ tuyên bố.
Có lẽ vì anh bình thường hóa tất cả mọi thứ trong cuộc sống và tước đi tất cả sự rườm rà, tô vẽ nên AJ vẫn độc thân cho đến nay, khi đã ngoài 40. Trong một đám đông nam giới, anh sẽ không phải người mà các cô gái để ý tới vì anh không có gì hào nhoáng và cũng không có bất kỳ nỗ lực tỏ ra “nam tính” hay “đàn ông” nào. Lúc trẻ hơn, có lẽ tôi sẽ không thể hiểu được sự “hiếm có khó tìm” này. AJ có tiền triệu nhưng cuộc sống của AJ đơn giản đến khó tin - và thường trở thành một chủ đề để tôi trêu chọc. Suốt 14 năm nay, anh sống một mình trong một căn hộ hai phòng ngủ trong đó một phòng được dùng làm phòng tập Yoga hằng ngày. Căn hộ hầu như trống không; vài món đồ anh có (một cái ghế bành, ti vi, vài giá sách) đều có tuổi đời ít nhất là mười năm. AJ không cho phép ai tặng quà vào sinh nhật hoặc bất cứ dịp nào; cũng không cho ai mang thêm gì vào căn hộ vì anh không muốn tích trữ đồ đạc, của cải. Mỗi khi tôi hỏi anh có muốn tôi mang quà gì về từ Việt Nam, anh luôn nói: “Mang cái gì mà chính em thích ăn ấy, đừng mang cái gì để trang trí nhà.”
“Junk, junk, junk” - AJ nói - “Rác rác rác.”
Mấy chục năm nay, AJ tổ chức ngày của anh thành một lịch bất di bất dịch để anh cứ tự động làm, không phải mất năng lượng suy nghĩ. Sáng đúng 6 giờ dậy; pha trà sữa, uống trà và đọc tin tức; sau đó thực hiện 3S (shit, shower, shave), tập Yoga, mặc quần áo đi làm. Trưa anh ăn cơm ở công ty. Buổi chiều, AJ về nhà lúc 6 giờ. Vào đến nhà, việc đầu tiên là pha trà sữa, uống trà và đọc tin tức. Buổi tối anh đọc sách, xem tin tức, làm việc hoặc ra ngoài với bạn nếu cần, rồi đi ngủ; sáng hôm sau lại dậy đúng 6 giờ. Một ngày, AJ chỉ ăn một bữa trưa, không ăn sáng, không ăn tối, không ăn linh tinh. Anh có thể uống một cốc bia, một, hai ly rượu khi đi với bạn bè nhưng về cơ bản không uống rượu. AJ hút thuốc, chỉ để cho vui và mỗi lần về Ấn Độ thăm mẹ thì anh có thể hoàn toàn bỏ thuốc cả tháng, không vấn đề. Thứ Bảy, anh vẫn dậy lúc 6 giờ sáng. Có điều ngày thứ Bảy, sau 3S thì anh sẽ xem ca nhạc tạp kỹ Ấn Độ trên kênh truyền hình cho người Ấn ở hải ngoại, sau đó cân đối bảng biểu tài chính cá nhân mà anh tự viết phần mềm quản lý. Ngày Chủ nhật sẽ có thêm mục giặt đồ và gọi điện cho mẹ vào buổi tối. Đều đặn hơn 20 năm nay, từ khi AJ rời Bombay sang Mỹ du học rồi ở lại làm việc, AJ luôn gọi điện cho mẹ vào các tối Chủ nhật, không bỏ tuần nào. Mỗi lần gọi điện có khi cả tiếng. Anh rất nhẫn nại nghe mẹ nói chuyện, ca cẩm về sức khỏe, bà con, hàng xóm.
“Yes, Mom” - anh gật gù - “Con hiểu.”
AJ ngăn nắp đến mức tủ quần áo của anh cũng có trật tự và quy trình mà AJ gọi là “vòng tròn khép kín”. AJ có khoảng 10 cái áo sơ mi, 10 áo lót, 10 đôi tất, 10 quần lót, 5 quần bò - tất cả đều đã được mua từ cách đây nhiều năm. Mỗi ngày, AJ thay áo sơ mi cũ, mặc áo sơ mi mới; quần lót, tất, và áo lót cũng vậy. Cuối tuần, sau khi AJ giặt đồ, anh sẽ treo áo sơ mi theo đúng trình tự - đồ vừa giặt sẽ treo ở góc xa nhất; bít tất, quần lót, áo lót và quần bò cũng được xếp như vậy - đồ mới giặt xong sẽ xếp xuống đáy. Vậy là quần áo cứ thế luân chuyển thành vòng tròn. AJ có ba đôi giày - một đôi thể thao, hai đôi giày công sở, một đen một nâu để hợp với áo. Chấm hết. Nhiều năm nay, AJ đã không mua quần áo mới.
“Junk, junk, junk - AJ nói - Rác, rác, rác.”
Đa phần của cải được AJ coi là rác nên dù có tiền, anh cũng không mua nhà, không tích trữ đồ trong nhà. Mỗi khi có người tặng đồ hoặc anh trúng thưởng các cuộc thi ở công ty - iPad, đồng hồ, Kindle, thẻ mua hàng - anh đều tìm cách cho đi thật nhanh. AJ sẽ không bao giờ làm bất cứ việc gì có tính chất vi phạm, luồn lách luật vì không muốn tốn đầu óc nghĩ mánh khóe, hoặc mất thời gian giải quyết rắc rối nếu bị bắt. Một lần, tôi nhờ AJ mang hộ một cái iPhone cho em gái tôi, AJ bảo:
“Ừ anh sẽ mang, nhưng em cần biết là nếu hải quan hỏi có phải điện thoại của anh không thì anh sẽ bảo không phải.”
AJ thực sự không thể nói dối dù anh biết mọi người đều nói dối trong thế giới này. Anh nghiễm nhiên chấp nhận hậu quả của sự trung thực mà không thấy đó là một điều cao cả hay đáng bức xúc. Tôi chưa thấy người Việt Nam, Mỹ, hay bất cứ người bạn nào ở bất cứ nước nào đơn giản hóa cuộc sống đến vậy. Tôi từng nghĩ có lẽ AJ ngăn nắp như vậy vì công việc của anh là xây dựng các mô hình tối ưu trong sản xuất chip máy tính nên AJ có bệnh nghề nghiệp phải mô hình hóa và tối ưu hóa cả cuộc sống của mình. Nhưng không phải. Anh muốn giảm thiểu tất cả những yếu tố dư thừa trong cuộc sống - vì chúng làm tốn thời gian và năng lượng suy tính. Buổi sáng, AJ không bao giờ cần nghĩ hôm nay mặc gì mà chỉ đơn giản vào tủ, lấy cái áo lót trên cùng của chồng áo lót và cái áo sơ mi ngoài cùng của dây áo sơ mi - vậy thôi. Ngoài quần áo, AJ có một cái túi da cũ trong đó anh đựng hộ chiếu, giấy tờ tùy thân và vài túi ni lông nhỏ, mỗi túi để một ít ngoại tệ - euro châu Âu, yên Nhật, peso của Mexico và hơn ngàn đô la Mỹ. Anh bảo đấy là “tiền khẩn cấp” để nếu có động đất, mất điện, ngân hàng không hoạt động, thì lúc đó còn có tiền mặt mà tiêu. Đó là tất cả hành trang của AJ. Anh có thể đi bất cứ đâu, vào bất cứ lúc nào một cách nhẹ nhàng.
Về cơ bản, AJ nhẹ. Cuộc sống của anh nhẹ. Sự sống của anh nhẹ. AJ thậm chí có cả một bộ quy tắc 9 điều (gọi đùa là Chín lời răn của tiến sĩ AJ ) để làm nhẹ cuộc sống của mình:
Quy tắc “Số 3 thần thánh”: mọi thứ đều có thể quy về 3; nếu có quá nhiều, hãy chọn 3 cái quan trọng nhất.
Quy tắc “Sợ và Tham”: mọi cảm giác, lời nói, hành xử đều có thể quy về gốc là Sợ và Tham; nếu có rắc rối, hãy truy ra gốc Sợ và Tham để loại bỏ.
Quy tắc “Sợ chỉ là ảo tưởng”: đừng sợ, nỗi sợ chỉ là ảo tưởng.
Quy tắc “Quay vòng”: hãy sắp xếp mọi thứ thành một vòng tròn khép kín.
Quy tắc “Mọc sừng”: khi làm việc gì, hãy “mọc sừng” cho việc đó (tức là tập trung (15) ).
Quy tắc “Để ý đến tiền”: muốn có tiền, phải để ý đến tiền, dù không tham tiền.
Quy tắc “Danh sách”: muốn làm việc hiệu quả, hãy lên danh sách việc cần làm, rồi làm từng việc.
Quy tắc “Rác”: không tích rác trong nhà.
Quy tắc “Đừng tạo việc”: đừng tạo thêm việc cho tiến sĩ AJ (đừng cho, tặng, biếu, rủ rê mưu mô, tính toán cái gì).
Chính vì bộ quy tắc 9 điều và nguyên tắc “vòng tròn khép kín” này mà nhiều khi chúng tôi có những tình huống buồn cười. Ví dụ như một hôm, AJ phàn nàn:
“Anh nhận thấy là em cứ rửa cốc và đĩa bẩn anh để trong bồn. Lần sau em đừng rửa.”
“Tiện tay thì em rửa luôn.”
“Nhưng mà như thế là em phá vỡ vòng tròn của anh. Anh đang chờ để có đủ bát đĩa cho vào máy rửa. Nếu em cứ rửa thì anh không có đủ để rửa máy.”
“Thì cứ rửa những cái anh đang có trong máy rồi.”
“Như thế lãng phí năng lượng. Cho nên đừng rửa nữa. Chỉ cần tráng rồi bỏ vào máy là được.”
Vậy là lần sau, khi ăn xong, tôi nói với AJ:
“Thấy chưa, sướng nhá, em không hề rửa bát.”
Với tiền bạc, AJ đặc biệt nhẹ. Thỉnh thoảng anh mua sổ xố và bao giờ cũng mua 10 tấm để nếu trúng, anh sẽ chia tiền cho 10 người thân nhất - 4 người trong gia đình, 6 là bạn bè và người yêu cũ. Di chúc mà AJ soạn chia đều tất cả tài sản, tiền bạc của anh cho mẹ, anh trai, cháu trai, một số bạn thân, và người yêu cũ. Anh lập cả quỹ tín thác cho con của người yêu cũ để lũ trẻ có tiền vào đại học. Ngoài 40, đã có tiền triệu, AJ không quan trọng chuyện việc làm nữa - thực tế là anh chưa bao giờ quan trọng chuyện thăng tiến. Anh có thể nghỉ hưu bất cứ lúc nào và muốn dành thời gian làm việc cho người khác. Từ hồi biết AJ, anh dạy tôi cách mở tài khoản hưu, cách đầu tư chứng khoán, rồi cứ thế để tiền tự quản lý mà không phải lo lắng.
“Chúng ta đều không phải hạng người muốn giàu có đâu” - AJ nói - “Đừng mất thời gian làm giàu quá mức làm gì; chỉ cần có vừa đủ.”
Hai chúng tôi có thể nói chuyện về bất cứ thứ gì, thực sự là bất cứ thứ gì, và tôi có thể thoải mái tranh luận với AJ mà biết chắc anh không bao giờ nổi nóng vô cớ rồi chặn họng tôi. Chúng tôi hay đùa nhau bằng cách chơi chữ tiếng Anh mà tôi không có cách gì chuyển tải lại trong tiếng Việt. Tôi hay bắt chước cách AJ nói chữ “w” thành “v” theo kiểu của người Ấn Độ. Ví dụ “What” thành “Vat”, “Where” thành “Ve” or “We” thành “Vi”. Còn AJ thấy tôi viết văn thì bảo:
“Em là thoughtist, không em là writist, à không em là penist... Nhưng nhớ đánh vần chữ “t” để người ta khỏi nhầm (16) .”
Quyết định đi South Carolina quả thật không dễ dàng. Tôi đã đắn đo nhiều lần. Đi thì tôi và AJ sẽ thế nào? Thực sự, nếu tôi muốn kết hôn lại thì không ai hợp với tôi hơn AJ và chúng tôi có thể kết hôn bất cứ khi nào tôi muốn. Nhưng đây chính là điều tôi không còn chắc chắn nữa: tôi không biết tôi có muốn kết hôn không. Tôi chỉ biết tôi chưa sẵn sàng nhảy trở lại vòng xoáy vợ vợ chồng chồng đó.
Khi tôi cân nhắc chuyện đi South Carolina, AJ nói:
“Quyết định là ở em. Em phải ra quyết định nào tốt nhất cho em, đừng nghĩ đến anh hay ai cả. Em có ba lựa chọn. Một là em ở lại, tiếp tục làm ở trường này. Hai là em ở lại nhưng không làm ở trường nữa, ở nhà viết văn chuyên nghiệp và anh sẽ nuôi em. Chúng ta có thể cưới nhau lúc nào em muốn. Ba là em có thể chuyển đi South Carolina. Em phải ra quyết định mà em thấy tốt nhất cho em và đừng nghĩ đến anh khi ra quyết định.”
“Dĩ nhiên em phải nghĩ đến anh chứ.”
“Ừ, nhưng đừng ra quyết định theo kiểu vì anh mà ra quyết định hoặc nghĩ thay cho anh mà ra quyết định. Em phải ra quyết định về cuộc đời em, trong đó anh là một nhân tố mà em cân nhắc. Nhưng đừng ra quyết định bằng cách nghĩ hộ anh xem anh sẽ cảm thấy thế nào, cuộc đời anh sẽ ảnh hưởng thế nào bởi quyết định của em. Phần đấy là phần của anh.”
Tôi nói với AJ rằng xin lỗi anh nhưng tôi phải đi South Carolina. Tôi muốn tự đứng đàng hoàng trên hai chân mình. Tôi nhất định phải có thể tôn trọng bản thân thì cuộc sống của chính tôi cũng như quan hệ của tôi với AJ mới có cơ hội.
“Anh biết em sẽ quyết định thế. Được rồi, chúng ta sẽ tìm các phương án. Anh sẽ bay xuống đó, em sẽ bay về đây, mình thử một thời gian rồi tính tiếp.”
Từ đó đến tháng Sáu là bận rộn kết thúc các dự án ở trường và chuẩn bị chuyển đi South Carolia. Lại đóng đồ, tìm và thuê công ty chuyển nhà, làm giấy tờ chấm dứt công việc với trường cũ. Một lần nữa, tôi lại băng ngang nước Mỹ nhưng lần này là từ bờ Tây trở lại bờ Đông. Lần này cũng là lần đầu tiên tôi xuống sống ở miền Nam nước Mỹ.
Từ Việt Nam trở lại, nỗi sợ với con ma của tôi chỉ giảm đi chứ chưa hề dứt. Buổi tối vẫn làm tôi phấp phỏng; tôi vẫn phải để một bóng điện nhỏ khi đi ngủ, vẫn tránh tắm buổi tối, vẫn không thể đọc, xem, nghe bất cứ cái gì khơi gợi cảm giác sợ hãi, tối tăm. Trước đây, tôi thích những nơi vắng người, các khu rừng, cảnh thiên nhiên râm mát tĩnh mịch, thì nay tôi thích ở nơi nào có nhiều năng lượng dương, có người, sáng sủa. Tôi không hề kể cho AJ chuyện ma vì trực giác mách bảo tôi rằng đây là chuyện tôi phải tự đối phó một mình. Đây là con ma “của tôi”.
Cũng từ lúc trở lại Mỹ, tôi hay có những giấc mơ lạ lùng. Trước đây, tôi cũng hay mơ thấy những cảnh thần tiên hoặc rất thường xuyên mơ bay nhưng rồi tôi sẽ quên đi nhanh chóng với ý nghĩ chúng chỉ là những đoạn “lỗi” của trí nhớ, khi các mong muốn vô thức của tôi (“vô thức” theo nghĩa của Sigmund Freud) bị trộn với các cảnh phim từng xem. Nhưng từ lúc ở chùa về, tôi có nhiều hơn những giấc mơ bay và những giấc mơ thần tiên mà khi tỉnh dậy, chúng còn hiển hiện trong đầu như thể không phải tôi đã mơ mà thần thức của tôi đã thực sự làm những việc đó.
Có đêm tôi mơ thấy chùa, thấy tôi và thầy đứng bên cổng chùa nhìn lên. Cổng chùa thấp, tường thấp, có hai con rồng màu hồng bằng ngói đỏ, chạy dài, chầu vào cổng. Bên dưới hai con rồng là hoa văn đơn giản... trông cổng rất đẹp, thanh thoát, kiểu kiến trúc đời nhà Lý.
Có đêm, tôi thấy mình trong một căn nhà, đang ngồi bên một cái bàn nước đối diện với một người bạn, xung quanh còn có nhiều người khác. Người bạn đó cầm tay tôi, nói một số lời. Được một lúc, tôi chợt nhận ra không hề có người bạn nào cầm tay tôi mà chính là tay trái của tôi cầm tay phải của tôi và cả người bạn lẫn những người xung quanh đều là giả, là từ tâm tôi tưởng tượng và phóng ra như người ta tưởng ra trong mộng và thấy nó rất thật. Và lúc đó tôi trong mơ khởi lên câu này với sự thấu hiểu rõ ràng: “nhất tâm chân như pháp giới duyên khởi”. Từ một tâm chân như mà khởi ra tất cả. Khi tôi mở mắt ra, niệm và cái hiểu đó vẫn còn nguyên. Tôi lúc tỉnh thực sự chỉ là một sự nối dài của tôi trong mơ, không hề có khác biệt. Cái hiện hữu này thực sự chỉ là một giấc mộng.
Có đêm tôi mơ mình sống ở một ngôi chùa trên núi. Một nhà sư trong chùa dạy võ công và pháp cho tôi và những người khác. Trong lúc nhà sư đang dạy, tôi trong mơ đọc được rõ từng người đang nghĩ gì, như đọc sách vậy. Tôi lại còn có thể nhắm mắt mà vẫn nhìn thấy, đồng thời hiểu ra rất nhiều điều mà lúc thức tôi đã nghiền ngẫm. Khi tôi mở mắt tỉnh lúc 3 giờ sáng để ghi lại thì chúng lại biến mất vì dòng suy nghĩ lý tính lại ập vào, xóa mất.
Rất nhiều đêm, tôi mơ thấy mình ở một ngôi chùa trên núi. Trong mơ, tôi cứ đi tìm một người không thấy mặt.
Những buổi sáng, khi vừa tỉnh dậy, tôi ngày càng thường xuyên bắt được khoảnh khắc chuyển từ ngủ sang “thức nhưng chưa suy nghĩ” và rồi sang trạng thái “thức và bắt đầu suy nghĩ”. Khi đã thức nhưng còn chưa suy nghĩ, tôi không hề có ý niệm bây giờ là mấy giờ, mình đang nằm ở đâu, mình là ai. Tôi chỉ là một sự hiện hữu và có thể tiếp nhận mọi thứ, nhất là âm thanh, nhưng không thực sự có cảm giác gì về chúng, bực mình hay thích thú. Lúc ấy thời gian và không gian không hề có ý nghĩa, chỉ có một sự nhận biết sạch sẽ, không tồn tại ý niệm về tuổi, về già, về đau ốm, bệnh tật hay bất cứ điều gì của thân hay tâm. Nhưng chỉ cần từ đâu đó khởi lên một suy nghĩ “Mấy giờ rồi nhỉ?” thì lập tức tôi tỉnh. Suy nghĩ bắt đầu ập vào. Tôi sẽ nhận rõ mình nằm trên giường trong nhà, nằm thẳng hay nằm nghiêng, có đắp chăn hay không. Cảm giác nóng hay lạnh, ngạt mũi hay không, đau ở lưng hay sườn cũng sẽ ập tới. Liền sau đó là sự trở lại ào ạt của những suy nghĩ đang ám ảnh tôi gần đây. Có thể là chuyện tìm việc. Có thể là chuyện với AJ. Có thể là chuyện cuốn sách đang viết dở. Đồng nghiệp ở trường. Chuyện thẻ xanh. Chuyến du lịch sắp tới. Vân vân...
Nhiều buổi sáng, khi suy nghĩ vừa trỗi lên, chúng ào ạt và xóa sạch sẽ sự trong sạch của khoảnh khắc trước khiến tôi ngỡ ngàng. Trong cái ngỡ ngàng ấy, tôi nằm quan sát dòng suy nghĩ ào ạt không ngừng đó. Trời ơi, chúng mới tạp nham làm sao. Luôn luôn là những tính toán để thỏa mãn cái tôi: sẽ làm cái này, sẽ làm cái kia, làm sao cho cái tôi này được đẹp đẽ, hạnh phúc, sung sướng, quan trọng, không đau, không bị chê bôi, v.v... thật là tít mù. Muốn cái nọ, muốn cái kia, làm cái nọ cái kia. Tự tranh luận trong đầu với người nọ, người kia; bình luận người nọ người kia để bao biện cho chính mình. Rồi có khi, đang suy nghĩ, một câu hát đột nhiên chen vào. “Mười năm cách biệt tưởng tình đã cũ”. Hoặc “Sáng nay em đi học sớm qua đồng lúa xanh xanh...”
Dòng chảy ào ạt của suy nghĩ và ký ức này không hề có quy luật và dường như không thể dừng.
Tôi bắt đầu lờ mờ nhận ra rằng rất nhiều kinh nghiệm của các giác quan - nhìn, nghe, nếm, ngửi, sờ - hình như không phải trực nghiệm. Thỉnh thoảng có khi đang ngồi viết hoặc đọc sách, tôi thấy một mùi hương thoảng qua rất thơm và nhẹ mà không biết mùi hương ở đâu ra, chắc chắn không phải từ trong phòng hay từ nhà bên mà như từ trong trí nhớ. Kinh nghiệm có một vị lạ, rất dễ chịu trong miệng dù không ăn gì cũng có. Lại có khi nhắm mắt mà vẫn “nhìn thấy” các hình ảnh.
Càng ngày tôi càng cảm thấy rằng cái gọi là suy nghĩ, cảm xúc, và các kinh nghiệm giác quan là một thứ gì đó không đáng tin, vận động theo quy luật của nó. Khi tôi ngủ chúng vẫn chạy, khi tôi tỉnh, chúng nổi lên ngự trị. Lâu nay, tôi đã luôn mặc định “TÔI” chính là tổng hợp của các suy nghĩ và cảm xúc, cộng với thân vật lý này; nhưng hình như không phải. Suy nghĩ, cảm xúc như một dòng sông mà ở mỗi khúc lại có củi khô, cây mục, túi bóng, xác gà, xác chó thỉnh thoảng nổi lên mặt. Lâu nay, vì mặc định mình chính là dòng sông này nên tôi cứ theo dòng chảy trôi và loay hoay ngụp lặn vớt những củi khô, cây mục, túi bóng, xác gà, xác chó đó. Bây giờ, tôi bắt đầu thấy hình như mình thực ra là một người ngồi trên bờ nhìn dòng sông. Mà có thể, tôi cũng chẳng phải người ngồi trên bờ.
Phan Việt
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mười bảy và những cơn mưa đầu hạ

Mười bảy và những cơn mưa đầu hạ Tiếng thầy giảng chồng lên tiếng mưa, cứ êm êm và nhạt nhòa. Buổi đầu ở một lớp học thêm mới nên Việt Anh...