Một mình ở Châu Âu 1
Giới thiệu
Bất hạnh là một tài sản
Những người đàn bà, họ không một mình ngẫu nhiên tới Paris,
Venice, Rome, Florence…
Họ có thể là sinh viên mới ra trường, muốn đến Paris để viết
văn; có thể là người đã đi qua một cuộc hôn nhân, giờ đến đó để nhìn lại; có thể
là người bấy lâu vẫn mòn mỏi chờ đợi mối tình lớn của đời mình và mong nó xảy
ra ở châu Âu… Hoặc họ có thể, như tác giả của cuốn sách này, đến châu Âu một
mình để du lịch như một người không quá khứ, không ràng buộc; và để hỏi những
câu hỏi bước ngoặt về tình yêu và hôn nhân…
Cuốn sách này, hơn cả một cuốn du ký về những ngày du ngoạn
qua các thánh địa mơ ước ở châu Âu, còn là một hành trình nội tâm xuyên suốt,
dai dẳng, và không phải không đau đớn.
Có thể thấy điều đó, dẫu chẳng ở châu Âu một mình.
Trích đoạn trong sách:
“… Nhưng có lẽ đó chính là vấn đề của quảng trường San Marco,
của Venice, và là lý do tại sao đến đây lần thứ hai nhưng tôi vẫn không ấn tượng
với quảng trường này. Có cái gì đó rất Hollywood ở đây và ở khắp Venice. Những
người ngồi sưởi nắng ở đây, và dàn nhạc này không giống với những người sưởi nắng
trong vườn Luxembourg. Bởi vì họ không sống ở đây. Họ đến rồi đi… Trong tất cả
cái đẹp và sự tinh xảo của Venice, tôi không sao thoát khỏi cảm giác rằng thành
phố này đang chết. Nó đang chìm dần. Venice là ngôi mộ của một quá khứ. Chỉ còn
khách du lịch đến đây, và thành phố này chỉ còn đủ người để phục vụ du khách chứ
nó không có những người Venice, như Paris có người Paris, Hà Nội có người Hà Nội.
Sáng nay, sau khi rời nhà thờ Mary of Narazeth, tôi mua một
vé xe buýt nước theo tuyến số 2 để đi từ đó tới quảng trường San Marco; tức là
gần như đi từ đầu này đến đầu kia của Venice; có điều thay vì lấy vé tuyến số 1
chạy theo Kênh Lớn thì tôi lấy tuyến xe buýt chạy bên ngoài Lagoon. Với những
người không quan tâm tới hành trình mà chỉ quan tâm tới cái đích cuối cùng thì
tuyến số 1 hay số 2 đều thế cả, chúng đều kết thúc ở quảng trường San Marco;
chính vì thế mà một bà già đã nói khi thấy tôi phân vân ngoài bến:
“Lên đi con, cái nào thì cũng đến quảng trường San Marco
thôi.”
Thuyền chạy từ bến nước ra ngoài Lagoon. Từ đây, tôi có thể
nhìn vào Venice và những công trình kiến trúc của nó – Byzantine, Gothic, Phục
hưng… Tất cả đều tuyệt vời nhưng rất nhiều trong chúng chỉ còn là những xác nhà
đóng kín và đang được UNESCO bảo quản như di sản văn hóa thế giới. “Di sản” – đấy
là một từ chính xác nữa để mô tả Venice. Một thời carnival, các lễ hội hóa
trang, những bữa tiệc và hòa nhạc không ngừng giờ chỉ còn lưu dấu ở những chiếc
mặt nạ bày bán quanh quảng trường và dọc các con đường của Venice; các ngôi
nhà, phòng hoà nhạc từng ngập các ông chúa bà hoàng giờ chỉ còn là những hành
lang mục nát, tường gạch nham nhở, nước lên ngập tầng một vào mỗi trận lụt, khiến
cho rêu rong nấm mốc loang lổ.
Venice đẹp, Venice lạ, nhưng không thể ở đây mà không ý thức
về sự lụi tàn. Phải, tiệc vui mấy cũng có lúc tàn và bữa tiệc Venice có lẽ đã
tàn từ thế kỷ XIX. Tôi cũng như mười hai triệu khách du lịch đến đây mỗi năm chỉ
như những khán giả đến nhìn những gì còn vương vãi từ bữa tiệc đó và cố hình
dung về bữa tiệc.
Dù thế, không thể không ngả mũ kính phục người Ý. Họ muốn xây
một thành phổ nổi trên mặt nước, vậy là họ xây một thành phố nổi trên mặt nước.
Họ muốn một thành phố như một đại tiệc không dứt, và họ đã có một thành phố là
một đại tiệc không dứt. Cái đến sau là việc của cái đến sau. Sự lụi tàn trong
tương lai không thể là điều ngăn trở sự sản sinh trong hiện tại. Có lẽ tôi và
Sơn nên chia tay.”
Cùng bạn đọc
Cuốn sách này tập hợp những ghi chép rời rạc vào mùa hè 2008,
khi tôi đi Châu Âu một mình trong một tháng. Nó là điểm bắt đầu của một câu
truyện mà tôi sẽ kể trong hai câu truyện tiếp theo – về những truyện buồn mà cuối
cùng đã trở thành tài sản. Như mọi câu truyện có tính hồi kí khác, đây chỉ là
ký ức của tôi, sự thật của tôi, nó không chắc là sự thật duy nhất. Mọi nhân vật
được đề cập trong cuốn sách này đều được thay đổi danh tính để bảo vệ sự riêng
tư cho họ.
“Sợ thì cũng phải làm”
Rostock, Đức
Rostock, Đức, ngày …. tháng Tám, năm 2008
Bây giờ là 4 giờ sáng
Tôi không ngủ được nên đã ngồi dậy để viết. Cái máy tính này
của Hiền, em chồng tôi, dùng Window Đức và bàn phím Đức nên hơi khác so với bàn
phím Mỹ: chữ Y bị chuyển từ hàng thứ nhất xuống hàng thứ ba và chữ Z thế vào chỗ
chữ Y. Các phím Shift, Control, và các phím số đều lạ: tôi thậm chí không thể
gõ một số ký tự và dấu theo ý mình và đang mất gấp đôi thời gian bình thường để
gõ những dòng này. Nhưng đi du lịch là như vậy: mọi thứ không bao giờ như ở
nhà.
Hôm qua, chuyến bay từ Boston đi New York chỉ có một tiếng và
tôi phải chờ những ba tiếng ở New York JFK trước khi lên máy bay đi Berlin.
Chính ở JFK chiều qua, tôi đã chạm chán châu Âu lần đầu. Khu vực đi Châu Âu
tràn ngập người Âu và có thể nhận ra họ ngay: người Âu, kể cả khi bay đường dài
vẫn ăn mặc chải chuốt trong khi người Mỹ ăn mặc cốt sao thoải mái. Những cô gái
Đức, Pháp, Ý vẫn váy ngắn, giày cao gót, tất dài, kính mắt, khuôn mặt trang điểm
cẩn thận như đang đến một cuộc hẹn; những người đàn ông mặc áo suit đen khít
người hoặc designer jean với sơ mi phẳng phiu. Và nước hoa! Người Mỹ hầu như
không còn dùng nước hoa khi đi làm hằng ngày, và nếu có thì thường dùng quá tay
như để đề phòng. Còn những người Âu trong khu chờ bay, ai cũng mang nước hoa,
nhẹ, mà lưu mùi rất lâu.
Máy bay xuống sân bay Tegel lúc gần trưa. Từ trên nhìn xuống,
sân bay Tegel rất nhỏ. Nó lập tức gợi cho tôi nhớ đến hoặc Sheremetyevo ở
Matxcơva hoặc Nội Bài những năm 1990. Khi làm xong thủ tục, bước ra ngoài, tôi
không tin được là phần cửa ra chỉ có duy nhất một cái máy trả hành lý và cách
đó vài bước chân thấy taxi xếp hàng đón khách.
Châu Âu.
Phải nói gì về ấn tượng đầu tiên khi đặt chân lên đất Châu
Âu, mà chính xác là Berlin! Nếu phải chọn một cụm từ chủ đạo cho ngày đầu tiên
này, tôi sẽ chọn một cụm từ đã bị lạm dụng trong thời gian gần đây nhưng lại
chính xác trong trường hợp này: “thế giới phẳng”. Sau bảy tiếng đồng hồ từ khi
rời New York, cái đập vào tôi đầu tiên trong sân bay ở Berlin là sạp bán sách
và tạp chí. Chúng không khác gì với quầy Hudson News ở sân bay JFK ngoài chuyện
bằng tiếng Đức.
Vẫn các tạp chí Cosmopolitan, Vogue, People, National,
Geographic – bằng tiếng Đức.
Vẫn hình ảnh Jenifer Aniston, Britney Spears và Angelina
Jolie tràn các bìa bào và tạp chí – bằng tiếng Đức.
Vẫn là Khaled Hosseini, Stephenie Meyer, Stephen King và dĩ
nhiên J.K Rowling ở khu sách bestseller - bằng tiếng Đức.
Cứ như thể tôi không hề rời Mỹ mà nước Mỹ chỉ đột nhiên được
“dịch” sang tiếng Đức và tôi mất oan bảy tiếng đồng hồ cho một sự di chuyển chỉ
có tính hình thức.
Nhưng cái ấn tượng “ phẳng “ lớn nhất là trên khuôn mặt người.
Trong hành lang sân bay Tegel, hầu hết người chờ bay đều mang khuôn mặt “phẳng”
giống hệt nhau: khuôn mặt nhìn thẳng về phía trước, không thái độ, như thể
không biết dòng người đi lại hối hả xung quanh. Không biết người Đức không có
thói quen biều lộ tình cảm nơi công cộng hay cái vẻ mặt phẳng đó là biểu hiện của
sự đồng dạng về tình cảm, suy nghĩ, hành vi mà cội nguồn của nó có thể chính là
sự đồng dạng trong tiêu thụ các sản phẩm văn hóa. Với tốc độ toàn cầu hóa (mà
phần nhiều là Âu – Mỹ hóa) như bây giờ thì đến một lúc nào đó, du lịch có lẽ mất
cái ý nghĩa khám phá một văn hóa khác , với giá trị tương
đương và tự thân , so với các giá trị Âu- Mỹ.
Từ Berlin, xe đi ba tiếng đồng hồ tới Rostock, Vừa ra khỏi những
khối nhà bê tông cuối cùng của Berlin là những đống lúa mỳ và cỏ đã mở ra trên
các triền đồi thấp, chạy thành sóng đến chân trời. Trên những cánh đồng, bò sữa
đứng nhẩn nha cạnh những cối xay gió khổng lồ chầm chậm quay. Vắt ngang các
cánh đồng là những vệt đường nhỏ, trên đó thi thoảng một chiếc xe tải chạy đơn
độc rồi biến mất. Cảnh tượng này gợi nhớ đến California, nhất là vùng quanh
thung lũng Napa. Tuy nhiên, ở California nói riêng và các thành phố lớn ở Mỹ
nói chúng không có cảnh lái xe quy củ như tôi thấy trên đường từ Berlin đi
Rostock. Tất cả xe chạy ở làn bên ngoài đều chạy nhanh để vượt, và khi vượt
xong thì lập tức vào làn bên trong; cho nên làn bên ngoài hầu như luôn trống.
Chiều nay, Hiền dẫn tôi đi chợ. Chợ ở đây rất sạch, ngăn nắp;
xúc xích, thịt xông khói, pho mát và sữa ngồn ngộn trên các quầy. Rau quả mơn mởn.
Có một cảnh trong siêu thị mà tôi không thấy ở Mỹ: người Đức mua nước giải
khát, uống xong thì mang chai đi trả lại ở các máy tự động, mỗi chai lấy lại
hai mươi xu. Nhà ai cũng có các thùng rác phân loại theo quy trình tái chế, giấy
riêng, đồ thủy tinh riêng, nhựa riêng vá rác riêng.
Rostock nghèo và buồn. Những khu nhà chung cư ở đây giống những
hộp các tông hồng, chanh cốm và xanh được xếp chồng lên nhau - một sự đơn điệu
đã rơi đến ngưỡng khắc khổ. Cái không khí “bao cấp” và “Đông Đức cũ” còn rất
rõ, thêm vào đó là nỗi buồn len lén của một thành phố đang lụi dần khi các
ngành công nghiệp từng nuôi sống thành phố bị thu hẹp [1] . Tôi muốn
viết nhiều thêm về chuyện này và nhiều chuyện khác nhưng cơn buồn ngủ hình như
đang trở lại. Bây giờ tôi sẽ datei öffnen cái file này, sẽ beenden và computer
ausschalten . Trên cái Windows bằng tiếng Đức này, tôi hi vọng nó có nghĩa
là tôi save file, close file, và shut down máy
tính.
[1] Rostock từng là thành phố sản xuất máy bay và là thành phố
cảng chính của Đức, nhưng từ sau khi nước Đức thống nhất, vị trí này bị mất đi;
do đó các nhà máy và dân số Rostock ngày càng giảm xuống.
Giờ mới là im lặng thực sự. Không có tiếng bàn phím r ờ i r ạ
c n à y…
…. t h ì tất cả những gì còn lại chỉ là bóng đêm tuy đang nhạt
dần nhưng không hề có dấu hiệu của một thành phố sắp trở dậy. Tôi còn ở đây một
vài ngày với gia đình Hiền rồi sẽ lang thang một mình ở Châu Âu. Tôi mong làm
sao đến ngày đó.
Nhưng giấc ngủ không đến dễ dàng. Tôi cứ nghĩ mãi những gì
chúng tôi đã nói đến chiều nay.
Chiều nay, trong lúc chúng tôi chuẩn bị bữa tối, Hiền nói:
“Việt ở được với anh Sơn thì giỏi thật.” (Hiền hơn tuổi
tôi nên chúng tôi thỏa thuận gọi nhau bằng tên thay vì chị em).
“Cả cái nhà này không có ai ở được với chú Sơn đâu đó cô ơi,”
cháu tôi cười.” Ai cũng sợ chú Sơn như sợ cọp đó, cô không biết à?”
Không, điều này tôi không hề biết.
“Chuyện đám cưới với Việt cũng thế đấy,” ba chồng tôi cười.
“Chuyện vợ con của Sơn, cả nhà không ai hỏi gì bao giờ, đùng cái Sơn viết thư về
cho ba bảo ba ơi con sắp cưới vợ… thì ba cũng chuẩn bị mọi thứ chứ hồi đấy đã gặp
Việt đâu… Đến lúc ăn hỏi gặp bố mẹ Việt ở Hà Nội, ba bảo thôi gặp được anh chị,
thấy anh chị hiền lành thì tôi cũng đỡ lo, chắc con Việt cũng hiền lành như anh
chị. Bố mẹ Việt cũng run run, bảo gặp ba thì cũng yên tâm chứ hai ông bà cũng
chưa gặp Sơn bao giờ, thấy Việt bảo đám cưới thì đám cưới… mắc cười hai ông bà
thông gia an ủi nhau, chả biết con dâu, con rể mình mặt mũi ra sao. Hai đứa vậy
là giống tính nhau… thế nên ở được với nhau… cũng là duyên số cả.”
“Chắc là vậy ba nhỉ?” Hiền nói. “Ai cũng bảo từ hồi lấy vợ,
anh Sơn hiền đi bao nhiêu.”
Mọi người đều cười. Tôi cũng cười. Tôi kể cho mọi người nghe
vô vàn những chuyện ly kỳ khi sống với Sơn. Như chuyện ngày trước ngày cưới,
Sơn và mấy người bạn rủ nhau lái xe vòng quanh nước Mỹ, từ Boston xuống Miami,
qua Texas rồi vượt qua biên giới sang Mexico, rồi một người bị giữ lại ở Mexico
và Sơn phải đưa cậu bạn đó tới thủ đô để bay về Việt Nam, rồi cả đoàn lại đi tiếp
sang đến bờ Tây, rồi ghé thăm tôi ở Chicago mấy ngày, rồi đi tiếp lên Michigan,
vượt qua biên giới sang Canada, rồi về lại Boston; sau đó Sơn mới bay về
Chicago để chúng tôi cùng về Việt Nam làm đám cưới.
“Trời ơi, con ở nhà cứ thấp thỏm. Anh ấy với bạn thì bị giữ ở
biên giới Mexico, mà hồi đó Mexico đang có đảo chính, cảnh sát với quân đội
súng ống khắp nơi. Xong rồi, có hôm, bạn anh ấy còn đăng lên mạng một mẩu tin
là anh Sơn và mấy người bị bắn chết. Lúc con đọc, con tưởng thật, con cầm cái
điện thoại mà không bấm nổi số, tay con cứ run bần bật thế này này, điện thoại
cứ rơi xuống. Mãi sau mới bấm được số gọi sang Mexico, gặp anh ấy, anh ấy cười
hềnh hệch bảo là chúng nó đùa. Hôm ấy, con không vỡ tim chết là may.”
Rồi tôi kể chuyện những khi đi đường với Sơn; Sơn luôn lái xe
rất nhanh, vượt hết xe này đến xe khác. Nếu xe nào chậm chậm mà cứ chạy ở làn
ngoài là Sơn bấm còi liên tục; thậm chí chạy sang làn bên cạnh, vượt lên trước,
và chặn không cho xe kia lên để “dạy cho con lợn này một bài học”. Mỗi lần như
thế, tôi ngồi ghế bên này, chỉ còn biết bám chặt vào thành ghế và tay nắm ở cửa
xe. Suốt mấy năm qua, bất kể chúng tôi sống ở bờ Đông hay bờ Tây, các loại phiếu
phạt lái xe quá tốc độ, đỗ xe ở chỗ cấm đỗ… từ khắp các thành phố mà Sơn từng
đi qua cứ bám theo chúng tôi như một cái đuôi dài.
Tôi kể; ba chồng tôi, Hiền và cháu tôi cười chảy cả nước mắt.
Tôi cũng cười chảy cả nước mắt. Sao khi kể lại, những chuyện ấy lại buồn cười đến
thế. Hình như tất cả những câu chuyện kể lại đều lãng mạn hơn, bớt đau lòng hơn
lúc chúng đang diễn ra. Chuyện về Sơn giống như chuyện về một nhân vật anh hùng
bạt mạng trong các bộ phim Hollywood; chúng hấp dẫn nhất là khi ta là khán giả.
Tôi và Sơn đã gặp nhau ở Boston, rồi đăng ký kết hôn mười tháng sau đó mà không
có gia đình chứng kiến; rồi về Việt Nam làm đám cưới; và Sơn đã nghỉ việc để về
Chicago với tôi; rồi chúng tôi đã chuyển đi bờ Tây sống; rồi Sơn lại nghỉ việc ở
đó và về làm lại ở bờ Đông; rồi Sơn lại nghỉ việc ở bờ Đông và chúng tôi quay lại
Chicago; còn bây giờ Sơn lại trở lại bờ Đông và tôi lại đi theo. Lúc nào cũng
di chuyển, lúc nào cũng sống trong căng thẳng, bấp bênh như thể cả hai đang
trong một bộ phim hành động đầy những cảnh rượt đuổi.
Nhưng mà… khi tôi chờ Sơn và các bạn anh đi xuyên Mỹ, hay những
lần chúng tôi chất đồ đạc lên xe, chạy từ bang này sang bang khác, chỉ dừng lại
ngủ đêm ở những thị trấn dọc xa lộ… thì mọi việc không hề giống phim và không hề
buồn cười. Những ngày tháng ở Oregon, ở New Jersey, hay như bây giờ, ở New
Hampshire… những ngày tháng ấy không hề buồn cười.
Chiều nay, tôi không nói cho ba và mọi người biết rằng tôi
không chắc chắn tôi có thể chịu đựng được bao lâu nữa. Tôi đã mệt rồi. Tôi thực
sự đã mệt rồi. Tôi yêu Sơn nhưng sống với anh khó quá. Nó không khác gì xây nhà
dưới chân môt ngọn núi lửa đang âm ỉ cháy; tôi không bao giờ biết trước lúc nào
thì núi lửa phun trào; chỉ biết mỗi lần phun trào thì tất cả mọi thứ quanh chân
núi đều bị hủy diệt. Tôi đã cuống cuồng vơ vét chạy di tản quá nhiều lần, và đến
giờ thì bắt đầu hỏi tại sao mình vẫn cứ hy vọng có thể xây dựng một ngôi nhà
yên ổn dưới chân ngọn núi này?
Nhưng tôi sẽ không nghĩ đến những việc này vội. Bây giờ, tôi
sẽ cố ngủ để giữ sức cho những ngày ở Châu Âu. Phải rồi, tôi đang ở
châu Âu. Tôi đã mong chờ chuyến đi này biết bao.
Rome, ngày…
Sáng nay, tôi rời Berlin trong mưa. Trời lạnh, nhiều gió. Sau
hai tiếng, Rome đón tôi bằng bản nhạc Clair de Lune của Debussy đột
ngột được mở trong khoang máy bay của hang hàng không giá rẻ Easyjet. Ra khỏi cửa
máy bay là nắng ấm và trời xanh Địa Trung Hải. Tôi đã tới Rome rồi.
Từ sân bay Ciampino phải bắt xe buýt vào nhà ga trung tâm của
Rome: Roma Termini. Bên ngoài sân bay, cảnh tượng nhốn nháo khác hẳn với Đức và
cũng bẩn hơn Đức rất nhiều. Ba lần liền, những chiếc xe con sà vào gần chỗ tôi
đứng và những đại gia đình bảy, tám người huyên náo chui vào những chiếc Fiat
năm chỗ, chưa kể hành lý được chất đầy trong cốp xe hoặc chằng trên nóc xe.
Trên xe buýt chạy vào thành phố, radio được mở to cho cả xe nghe. Không biết tiếng
Ý thì tôi cũng hiểu là đang có một trận bóng đá. Chà, bình luận viên trên
radio… nói thế nào nhỉ… à, “nói văng nước miếng” trong khi người tài xế và một
số hành khách ngồi gần đó vừa nghe vừa mắng nhiếc, la ó các cầu thủ một cách đầy
kích động khiến cho tôi vừa thót tim sợ rằng bác tài xế sẽ tông xe vào lề đường
vừa không nhịn được cười khi nghe tiếng gào thét huyên náo và những âm rung r…
r… đặc trưng của tiếng Ý. Ngoài đường, hầu như xe ô tô nào cũng để ngỏ kính cửa,
từ đó vọng ra tiếng radio tường thuật bóng đá - và lái xe taxi có một vẻ mặt hầm
hầm như thể khách đi xe là kẻ thù khiến họ bỏ lỡ cơ hội xem trận bóng.
Sự thật là tôi không hề có ý định đi Ý khi chuẩn bị chuyến đi
châu Âu này. Tôi chỉ định tới Rostock thăm gia đình Hiền rồi sẽ đi Paris và ở
đó toàn bộ thời gian. Cho đến khi quyết định đi thêm Ý, tôi không có thời gian
đọc bất cứ thông tin gì để chuẩn bị cho hành trình. Trong đầu tôi, tất cả ý niệm
về Rome và nước Ý được chắp vá từ phim Bố Già, các sách sử về đế quốc La Mã,
các đĩa opera, và ký ức về cái thời mà người Việt Nam háo hức chờ World Cup để
xem Robero Baggio trên ti vi đen trắng.
Xuống xe buýt ở nhà ga Termini, tôi kéo hành lý tới chỗ có một
dãy xe taxi chờ. Vừa thấy tôi tiến tới, một người đàn ông to béo, trông như
Clemenza bước ra từ Bố Già, lập tức nổ ra một tràng tiếng Ý rổn ráng và chỉ vào
chiếc taxi đầu tiên. Tôi chưa kịp định thần thì Don Clemenza bật tay cái tách,
và từ đâu bỗng nhiên hiện ra một anh chàng chứng hai mươi tuổi, trông giống hệt
Roberto Baggio. Chàng Baggio mặc áo phông Lacoste xanh lam, quần bò xé, đeo
kính Armani, mái tóc đen hơi xoăn được vuốt keo bóng mượt – y như một tài tử điện
ảnh. Chàng hùng dũng tiến tới nhấc hành lý của tôi cho vào cốp xe taxi đã mở sẵn
và chỉ tay ra hiệu cho tôi vào xe theo một lối không chừa cho tôi bất cứ lựa chọn
nào khác.
Chàng Baggio có vẻ chỉ biết nói tiếng Ý, tôi thì “non
parto italiano [2] ” nên sau khi vào xe, tôi đưa cho chàng tờ giấy đặt
khách sạn, có địa chỉ trên đó. Chàng nhìn địa chỉ, gât đầu rồi đánh xe hòa vào
dòng xe đông đúc trên phố. Suốt mười lăm phút sau đó, chàng chạy lòng vòng
qua Via nọ, Via kia [3] . Trong lúc này, tôi đọc
lại tờ giấy đật khách sạn: hướng dẫn trên đó nói rằng khách sạn chỉ cách nhà ga
Roma Termini khoảng 2 phút đi bộ và bản đồ thì cho thấy nó ở ngay ngách bên cạnh
nhà ga. À, đã quá muộn! Nhưng thôi, có thể đi taxi phải tránh đường một chiều
nên lâu hơn. Có một điều là nhìn mãi chẳng thấy có đường một chiều nào cả, còn
chàng Baggio cứ liên tục lòng vòng gần nhà ga, vừa lái vừa liên tục xổ ra những
tràng tiếng Ý du dương và chỉ tay ra hai bên phố ra ý rằng không hiểu cái khách
sạn quỷ quái này ở chỗ nào mà tìm mãi không thấy. Đoán chừng chạy quanh có lẽ
không giải quyết được vấn đề nên khi xe quay lại gần nhà ga một lần nữa, tôi
nói:
“Xin anh dừng ở đây, tôi sẽ xuống từ tìm lấy vậy.”
[2] Không biết nói tiếng Ý.
[3] Via: tiếng Ý là “đường, phố”.
Chàng Baggio tiếp tục chỉ ra hai bên đường, ra vẻ không hiểu
ý, và tiếp tục chạy xe. Tôi phải kêu lên “Stop, stop, stop”; và sau khi lần nữa
thêm một đoạn thì chàng cũng ngặm ngùi dừng xe. Tôi xuống xe, lấy hành lý để
lên vỉa hè, rồi quay lại đề trả tiền. Đồng hồ lúc trước chỉ có 8 euro, nhưng
khi tôi quay lại thì đã thấy 14 euro và chàng Baggio thản nhiên nói tiếng Anh:
“Forteen [4] ”
[4] Mười bốn.
Rồi lè nhè một tràng dài tiếng Ý, trong đó có từ “bagaglio”
mà tôi lập tức hiểu là “hành lý”.
“Xin lỗi, chắc là anh đùa?” Tôi nói. “Tôi chưa bao giờ thấy
đi taxi phải trả thêm tiền hành lý.”
Nhưng chàng Baggio rõ ràng không đùa vì chàng rút từ phía sau
lưng ghế ra một tờ giấy trắng nhàu nhĩ, có ghi một số dòng bằng tiếng Ý. Chàng
chỉ cho tôi một dòng loáng thoáng về “bagaglio”, rồi lại lè nhè một tràng tiếng
Ý với vẻ mặt vô cùng nghiêm trọng – trong số đó cũng chỉ có một từ mà tôi hiểu
rõ: “polizia”. Ý chàng nói, nếu tôi không trả tiền thì sẽ gọi cảnh sát.
“Xin lỗi, anh lại đùa?” Tôi nói. “Ai viết ra cái tờ giấy này?
Tôi không thấy có dấu má hay biểu tượng của tồ chức nào hết?”
Baggio không trả lời câu hỏi của tôi mà rút điện thoại di động
và chỉ về phía trạm cảnh sát gần đó, đồng thời liên tục nhắc đi nhắc lại
“polizia, polizia” và làm ra vẻ chuẩn bị bấm máy. Biết không thể “nói chuyện phải
quẫy” với kẻ vừa ăn cắp vừa la làng này, tôi nói:
“Anh cứ gọi cảnh sát đi, đồ lừa đảo!”
Tôi ném tờ 10 euro vào người chàng và ra khỏi xe, sập cửa lại.
Thật may là hành lý của tôi đã ở trên vỉa hè. Chàng Baggio cúi nhìn qua cửa, vẫn
tiếp tục ra bộ bấm điện thoại; rồi chừng mấy giây sau thì chàng dông thẳng.
Sau khi loanh quanh một hồi dưới nắng và mồ hôi nhễ nhại vì vẫn
mặc áo khoác từ Berlin, tôi tìm thấy con đường có khách sạn. Đó là một đường phố
vắng vẻ cách nhà ga khoảng 300 mét. Tuy nhiên, khi tôi tìm đến đúng số nhà thì ở
đó không hề có khách sạn nào mà chỉ có một cái cửa lớn, đóng kín, với một tấm
biển đồng ở bên ngoài, trên tấm biển đó có một số tên nhà với nút chuông bấm
cho từng căn.
Vừa nóng vừa mệt vừa đói, tôi bắt đầu tin nước Ý toàn mafia
thì một ông già đầu hói bụng phệ trông giống hệt Frankie ở Bố Già tập
hai đủng đỉnh đi qua. Trong tình trạng chết đuối vớ được cọc, tôi lễ phép hỏi
Don Frankie bằng tiếng Anh liệu ông có biết cái “hotel” này ở đâu không. Don
Frankie nhìn địa chỉ rồi nói với tôi bằng tiếng Ý là tôi đến đúng “hotel” rồi.
Tôi đáp lại bằng tiếng Anh rằng tôi chẳng thấy có biểu hiện “hotel” gì cả (chỉ
có mỗi từ này là hai bên đều hiểu) . Don Frankie đeo kính lên nhìn các chữ
trên tấm biển đồng rồi thản nhiên bấm lần lượt tất cả các chuông cửa từ trên xuống
dưới, mỗi lần bấm lại nhún vai nói ra một tràng tiếng Ý ra ý “Ôi dào, biết làm
thế nào được? Việc phải làm thì làm thôi, cứ bấm cho chúng nó chết.” Vừa mệt vừa
chán nản mà tôi không nhịn được cười. Nhưng bấm tất cả chuông cửa mà không có
ai trả lời, Don Frankie lắc đầu ra ý rất tiếc ông không thể giúp gì thêm.Để rút ngắn câu truyện này tôi sẽ kể vắn tắt rằng cuối cùng
tôi cũng tìm được khách sạn sau khi tiếp tục chạy lòng vòng, gặp một người đàn
ông Sri Lanka gọi giúp điện thoại đến khách sạn và lần này gặp một người của
khách sạn. Hóa ra, cái địa chỉ mà họ cho tôi chỉ là văn phòng môi giới; người
môi giới sau đó mới đưa tôi tới khách sạn. Và khách sạn này thực ra cũng không
phải của người Ý mà của một gia đình Nga – tóm lại, mọi thứ đều rất lòng vòng
và mafia. Như tôi nhanh chóng nhận ra sau nửa ngày ở Rome, hầu hết khách sạn nhỏ
và các cửa hàng quanh khu nhà ga chính của Rome cũng như ở một số điểm du lịch
đều do người Ấn Độ, Pakistan, Sri Lanka, Nga, v.v… thuê lại của người Ý để kinh
doanh. Tôi cũng hỏi người chủ khách sạn về chuyện anh chàng lái taxi đòi tôi tiền
hành lý, ông ta nói đó là chiêu lừa phổ biến ở đây.Chiều hôm đó, sau khi sắp xếp phòng, tắm, thay quần áo, tôi
đi tới nhà thờ Santa Maria Maggiore, khu đấu trường La Mã Colosseo, khu di tích
Domus Aurea Palatino.Chà, tôi buộc phải nói rằng sau ngày thứ nhất, Rome làm tôi
thất vọng. Khu đấu trường Golosseo quả có to lớn, quả có cổ xưa, nhưng trong tổng
thể Rome, đấu trường này chỉ khiến tôi liên tưởng đến một miếng gấm được vá vào
một chiếc áo sơ mi Dolce & Gabbana made in China. Thực tế là toàn bộ Rome -
cho đến lúc này - gợi cho tôi cảm giác về sự nham nhở và lệch lạc vì cái cổ xưa
và hiện đại, cái hoành tráng và tiểu tiết lẫn lộn với nhau một cách lộn xộn, bừa
ẩu, nhốn nháo. Tôi lại phải nhắc lại là Rome bẩn: bẩn hơn Berlin, bẩn hơn các
thành phố lớn của Mỹ. Hơn thế, Rome gợi một cảm giác về một chàng công tử đỏm
dáng nhưng lấc cấc, hư hỏng, thuộc một dòng họ quý tộc có lịch sử ngàn năm. Tổ
tiên của anh ta có thể danh giá và tạo ra nhiều kỳ tích nhưng đến anh ta thì hầu
như tất cả sự văn hóa và lịch lãm đó biến mất, còn lại chỉ là tên họ và một số
đồ gia bảo mà anh ta trưng hết ở phòng ngoài cho khách xem (và không quên thu
tiền). Nói như người Việt Nam là “hổ phụ sinh cẩu tử”. Có thể ngày mai tôi sẽ đổi
ý, nhưng lúc này thì là như vậy.Tôi ăn bữa tối đầu tiên ở ngay gần khách sạn: spaghetti thịt
bò xốt cà chua với một ít rau. Thức ăn dở - điều này tôi đã biết trước vì đây
là một cửa hàng phục vụ khách du lịch chứ không phải là một nhà hàng tử tế,
nhưng tôi chỉ muốn ăn nhanh để quay lại nhà thờ Santa Maria Maggiore [5] xem
lễ tối và sau đó sẽ đi bộ trở lại khu đấu trường Colosseo xem nó có đẹp hơn vào
buổi tối không. Nhưng nhà thờ Santa Maria Maggiore đã đóng cửa khi tôi tới. Bên
ngoài đài phun nước đối diện với nhà thờ, mấy du khách đang ngồi nghỉ chân;
khuôn mặt họ thất thểu và mệt mỏi, như thể muốn nói “Người ta bảo mọi con đường
đều dẫn về thành Rome, nhưng đến Rome rồi thì đi đâu?” Cũng phải nói thêm:
tháng Tám là tháng đi du lịch của Rome nên hầu hết người bản xứ đi vắng; thành
phố sau 8 giờ tối hầu như không còn hoạt động gì nhiều. Tôi bỏ luôn ý định đi bộ
tiếp ra khu Colosseo để về ngủ sớm.[5] Một trong những nhà thờ cổ nhất và thiêng liêng nhất ở
Rome cũng như trên thế giới, được coi là một thành tích của Thiên Chúa Giáo La
Mã.Sau 10 giờ đêm, những con đường hẹp và cổ kính quanh nhà ga
trung tâm đã vắng người. Ít đèn đường. Mèo hoang không biết từ đâu ra rất nhiều,
kêu thảm thiết. Trên vỉa hè, mấy người đàn ông Ấn Độ đang mệt nhọc thu dọn những
món đồ lưu niệm và túi da Ý rởm mà họ bày bán. Tôi muốn vào Internet để có cảm
giác kết nối với thế giới quen thuộc của mình nhưng khi người chủ cửa hàng
Internet yêu cầu tôi phải xuất trình hộ chiếu mới được dùng mạng thì trong
không khí nghi ngờ cả thành Rome, tôi từ chối và đi thẳng về khách sạn. Đất
thánh ư? Rome lúc này không có gì giống đất thánh. Điều vui nhất trong ngày hôm
nay với tôi là gặp được chị Mai, nói chính xác là sơ Anna Thanh Mai. Chị là người
quen của gia đình chồng tôi. Tôi quý chị ngay lập tức.Cái mà tôi chú ý nhất trong ngày hôm nay là những phòng xưng
tội bằng gỗ đặt dọc hai bên sảnh chính của nhà thờ Santa Maria Maggiore. Có gần
hai mươi phòng và người xưng tội có thể xưng tội bằng nhiều thứ tiếng - Ý, Anh,
Pháp, Đức, Hà Lan, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha. Có một phòng mà cha nghe xưng tôi
là người Việt Nam: cha Joseph Trần. Lúc tôi ở trong nhà thờ, có một phòng xưng
tội sáng đèn; rồi một người đàn ông chừng năm mươi tuổi đến quỳ ở bục, chắp
tay, cúi đầu, lầm rầm xưng tội chừng mười phút. Trông ông ta rất thành kính và
đau khổ.Ý nghĩ cuối cùng của tôi trước khi chìm vào giấc ngủ là:
không biết tội lỗi được xưng nhiều nhất ở Rome là tội gì? Và tội lỗi mà con người
thường xuyên mắc phải nhất là tội gì?Đêm qua, trước khi đi ngủ, rồi đã nhủ thầm rằng sáng nay sẽ dậy
trước 6 giờ để tới nhà thờ Santa Maria Maggiore xem người Rome xưng tội trong lễ
sáng. Tuy nhiên, khi tôi mở được mắt, đồng hồ đã chỉ 7 giờ. Ngoài cửa sổ, bầu
trời có màu xanh Địa Trung Hải ngăn ngắt, không mây. Một ngày nắng rực rỡ.Hơn 8 giờ, chị Mai tới. Hôm sau, chị mặc áo trắng với váy
đen; hôm nay áo hoa và váy hoa vải phin thô màu vàng nhạt nhưng kiểu dáng giống
hệt hôm qua. Chị đi xăng đan da nâu và đội mũ vải mềm – gợi tôi nhớ đến những bức
ảnh các thiếu nữ trường dòng Sài Gòn từ trước 1975. Chị nhìn tôi bằng đôi mắt
nâu rất trong, mỉm cười:“Hôm qua Việt ngủ có ngon không?”Chị nói chậm; và sự chậm rãi, cộng với cái nhìn của chị đột
nhiên gột khỏi tôi một cái gì đó. Có lẽ là sự đề phòng bản năng. Chị đã hỏi một
câu đơn giản nhưng thật lòng.“Em ngủ như chết,” tôi nói. Tôi đã ngủ như chết thật.Chị Mai chỉ hơn tôi bốn tuổi, người gốc Huế. Chị vào nhà dòng
từ năm mười sáu tuổi, sau khi tốt nghiệp trung học. Chị đã sống nhiều năm ở
Pháp rồi qua Rome từ bốn năm nay để học tiếp. Khi nào học xong trong trường
dòng, chị sẽ ở lại đây và sống vĩnh viễn trong nhà dòng. Dòng tu mà chị theo gọi
là dòng Nữ Công Truyền Giáo; những người theo dòng này không mặc trang phục nữ
tu như các dòng khác (tức áo thung với khăn trùm đầu) mà vẫn mặc quần áo bình
thường vì họ muốn sống đạo giữa đời.Sáng nay, trên tàu điện ngầm đi Vatican, tôi hỏi rất nhiều về
cuộc sống trong nhà dòng của chị. Ví dụ như hằng ngày lịch hoạt động của chị
như thế nào, chị lấy đâu ra tiền để sống; chị nói rằng nhà dòng chu cấp cho chị
“mọi thứ”, chị không phải lo gì cả.“Mọi thứ tức là,” tôi cố nghĩ ra cái gì đó thật riêng tư “em
xin lỗi chị, kể cả quần áo lót và băng vệ sinh!”“Ừ,” chị cười. “Bọn mình có một chị bề trên lo quản lý tất cả
những thứ đó, khi nào hết thì chị phát cho.”“Thế nếu chị muốn tiêu gì đó riêng thì sao?”“Bọn mình không phải tiêu gì riêng hết,” chị lại cười từ
“riêng” của tôi. “Bọn mình sống chung, hưởng chung, có gì cần thì trình bày với
chị bề trên, chị sẽ cung cấp cho.”“Nhưng mà… chị vẫn phải có những thứ cần dùng riêng chứ. Như
hôm nay chị ra ngoài thì vé tàu điện ngầm chị lấy tiền ở đâu để mua? Nếu chị muốn
ăn kem hay uống nước bên ngoài thì sao?”“À, cũng được lo hết rồi; mình trình bày với chị bề trên và
chị đưa vé cho mình. Mỗi tháng, mình được 15 euro để chi các khoản riêng như Việt
nói. Nhưng bọn mình không có đi ra ngoài nhiều như người thường, hôm nay mình
ra gặp Việt thì mình trình bày với chị bề trên là em xin phép ra ngoài gặp gia
đình từ Việt Nam sang.”Chị cho tôi biết chị sống cùng với một sơ người châu Phi nữa
trong một căn phòng nhỏ. Tôi không nhịn được tò mò nên cứ căn vặn chị mô tả tỉ
mỉ cho tôi xem phòng đó trông thế nào, diện tích bao nhiêu mét vuông, đồ đạc
chính xác có những gì, giường có đệm không, có toilet riêng không, có ti vi,
radio, máy tính không, có Internet không, vân vân… Chị cười, kiên nhẫn trả lời
tôi rằng phòng của chị khoảng 12 mét vuông, trong phòng có vài cái ghế gỗ, hai
cái bàn, không có tivi với radio, Internet thì có ở một cái máy tính chung cho
mọi người và chỉ dùng vào cuối tuần. Chị và sơ cùng phòng mỗi người có một giường
ngủ đơn chứ không có phòng ngủ riêng và quanh giường của mình thì “mình cũng có
thể trang trí tùy theo sở thích”.“Thế sở thích của chị là gì?”“Mình chỉ muốn phụng sự Chúa thôi!” Chị Mai cười ngất trước sự
háo hức của tôi.“Thế chị trang trí quanh giường thế nào? Các bạn của chị
trang trí như thế nào?” (Tôi cứ hình dung các phòng ký túc xá của sinh
viên ở Việt Nam với những cái giường cá nhân quây ri đô, và những bức tường dán
đầy ảnh Brad Pitt.)“Mình thì không trang trí gì cả; chỉ có ảnh Chúa,” chị Mai cười.
“Các chị em khác cũng thế. Có người thì có ảnh gia đình, có người thì không.”Tôi càng tò mò không biết sống trong nhà dòng thì thế nào.“Chị Mai ơi, cho em vào sống với chị mấy ngày được không?”Chị Mai ngạc nhiên nhìn tôi. Rồi chị nói nếu tôi nghiêm túc
thì chị sẽ trình với “chị bề trên” xem thế nào.Tôi nghiêm túc chứ. Cách đây hơn mười năm, tôi từng vô cùng dị
ứng với đạo Thiên Chúa khi Quang Anh, người bạn thân của tôi lúc đó, quyết định
theo đạo. Tôi từng nghe rằng tôn giáo “là thuốc phiện của đám đông”, chỉ dành
cho những người yếu đuối, không làm chủ được cuộc sống của mình nên phải trông
vào một đấng siêu nhiên. Khi thấy Quang Anh đổi từ “lương” sang “đạo” vào năm
thứ hai ở đại học, tôi bắt đầu đi nhà thờ theo bạn, thậm chí còn đến các lớp học
Kinh Thánh do một nhà truyền giáo Tin Lành người Mỹ dạy trong hai năm. Nhưng sự
thật là trong suốt những năm ấy, cái duy nhất mà tôi thích trong đạo Tin Lành
chỉ là những buổi thánh ca miễn phí ở nhà thờ. Tôi không sao có thể tin Chúa.Thế thì những người tin Chúa là như thế nào? Cái gì làm cho
tôi không thể tin mà họ lại tin? Tôi chắc chắn người Mỹ không phải "những
người yếu đuối, không làm chủ được cuộc sống của mình"; tại sao đa phần
người Mỹ tin Chúa? Mà thực tế là hơn hai tỷ người trên thế giới này đang tin
Chúa. Hơn thế, nếu chỉ lựa chọn tin Chúa nhưng vẫn sống cuộc sống thế tục thì
không sao, nhưng còn những người vào nhà dòng để toàn tâm toàn ý phụng sự Chúa?
Cái đức tin ấy của họ là thế nào, cái đời sống ấy là thế nào? Không ít người
cho rằng những người tu hành sống đời khổ hạnh, thậm chí hành xác, không có tự
do. Nhưng nhìn chị Mai, tôi không thấy bóng dáng khổ hạnh, cũng không có bóng
dáng sự tù túng. Trên mặt chị ít khổ đau hơn hầu hết những người "vô thần",
"tự do" mà tôi gặp.Một bà sơ trên đường phố RomeSáng nay, chúng tôi định sẽ tới bảo tàng Vatican trước. Lúc 9
giờ sáng, bên ngoài bảo tàng đã có một hàng người dài khoảng hai trăm mét, vắt
từ cổng qua hai khúc quanh của con đường. Họ nhích chậm chạp dưới cái nắng ngày
càng gay gắt. Những người đứng xung quanh tôi – đa phần là khách du lịch da trắng
– vừa liên tục uống nước, vừa thở nặng nề và lau mồ hôi nhễ nhại trên mặt, trên
cổ. Nhìn tốc độ di chuyển của dòng người, chúng tôi quyết định bỏ cuộc để đi
sang nhà thờ Thánh Peter.Nhà thờ Thánh Peter là một trong những điểm du lịch chính của
Vatican và cũng là nơi công chúng được vào tự do, những nơi khác đều có những
người lính Thụy Sĩ mặc đồng phục vàng, xanh, đỏ, đeo súng đứng gác. Trên đường
từ bảo tàng Vatican sang nhà thờ, tôi nhìn thấy nhiều linh mục mặc áo thụng đen
và các bà sơ mặc áo thụng xanh nhạt nghiêm trang đi ra đi vào các cánh cổng có
lính gác. Họ băng qua đường, chậm rãi bước trên các vỉa hè lát đá, khuôn mặt
không thuộc về thế giới này và không hề quan tâm tới những dòng xe cộ đông đúc.
Đây hẳn là một cảnh bình thường với Rome và với chị Mai nhưng tôi phải đứng lại
nhìn. Có cái gì đó siêu thực trong chuyển động của những khuôn mặt bình thản ấy
giữa phố phường Rome ngập người và xe.Quảng trường Thánh Peter là một không gian đồ sộ. Tôi chưa từng
thấy một quảng trường nào đồ sộ như vậy. Cả quảng trường được bao bởi những
hành lang vòng cung lớn với 248 cột đá khổng lồ, mỗi cột cao hai mươi mét, đường
kính mấy người ôm, được dựng song song theo kiểu các hàng cột của đền Pantheon.
Trên đỉnh các hành lang vòng cung là 140 bức tượng thánh trong các tư thế rất
sinh động, đang đổ những bóng dài trên quảng trường ngập nắng.Nhưng tôi thích quảng trường bên ngoài bao nhiêu thì lại
không thích bên trong nhà thờ Thánh Peter bấy nhiêu, mặc dù, đây nữa, đây cũng
là một công trình khổng lồ. Có quá nhiều thứ được “trưng bày” ở đây; bức tranh
nào, bức tượng nào cũng đi kèm những dòng giới thiệu về kì tích có một không
hai của nó, khiến cả basilica [6] như một bữa tiệc thánh tích ngồn ngộn
mà chỉ nhìn đã phải bội thực. Nào là các thánh tích và hầm mộ của các Giáo
hoàng; nào là tượng của Michelangelo; nào là tranh, bàn thờ của người nổi tiếng
này người nổi tiếng khác. Tôi không thấy Chúa hay “đạo” ở đây. Cũng không thấy
có sự thiêng liêng hay bình yên nào - ngay cả trong những phòng nguyện nhỏ hai
bên nhà thờ cho các khách du lịch vào cầu nguyện.[6] Basilica là nhà thờ kiểu lớn, xây kiểu hoàng cung La Mã.Cái duy nhất có vẻ có tính đạo trong nhà thờ Thánh Peter là cảnh
một nhóm khoảng hai mươi phụ nữ Hàn Quốc đứng xung quanh một cây thánh giá gỗ gắn
trên một bức tường trần trụi hiếm hoi trong nhà thờ. Họ cùng vươn tay về cây
thánh giá; những người không đứng gần cây thánh giá thì vươn tay chạm vào vai
người đứng trước. Trông họ như những cái rễ mọc ra từ cây thánh giá trong lúc họ
cúi đầu, lầm rầm cầu nguyện.Ở nhà thờ thánh Peter ra, chúng tôi đi tới Spanish steps, qua
quảng trường Republica, qua Piazza del Popolo (quảng trường Nhân dân); rồi đi
qua các đường phố hẹp lát đá tới đài phun nước Trevi. Có đi bộ như vậy mới bắt
đầu hình dung được Rome và cái tinh thần thần thánh của Rome. Ở Rome, nếu tính
tỷ lệ, có lẽ đài phun nước, nhà thờ, và các quảng trường công cộng là ba dạng
công trình có mật độ dày đặc nhất. Cứ đi vài phố lại thấy một đài phun nước giữa
một quảng trường lớn hoặc nhỏ. Và nhà thờ thì hầu như góc phố nào cũng có. Hình
như từ ban đầu, người La Mã hiểu rằng để có một xã hội tốt và một đời sống cao
thì phải có một xã hội dân sự và người dân cần được thực hành quyền dân chủ của
mình bên cạnh việc vui chơi giải trí. Họ hiểu rằng con người thực sự là một thực
thể xã hội, bên cạnh việc là một thực thể sinh học và tâm linh. Một điều nữa
cũng khiến tôi nghĩ: Rome thực sự rất nhỏ về diện tích và theo một số tài liệu
tôi từng đọc thì người La Mã cổ đại chỉ có chiều cao trung bình khoảng một mét
rưỡi, nhưng họ đã thiết kế tất cả các công trình công cộng với một sự phóng
khoáng và vĩ đại cả về ý nghĩa và kích thước thực. Những quảng trường thênh
thang, những nóc nhà cao, những hành lang đá lớn, những trụ tường cẩm thạch mấy
người ôm, những tháp nhà thờ vươn thẳng lên trời, những bậc thềm, và những chạm
trổ kỳ công… Mọi thứ đều phải cao rộng, hoành tráng, phải như thế giới của các
vị thần, của Chúa trên thiên đàng. Con người quả là một bản sao của thế giới thần
thánh; và nghiễm nhiên có thể là thần thánh.Sau 3 giờ chiều, Rome tràn ngập người ngồi nhàn tản sưởi nắng
ở các quảng trường – cả dân cư Rome và khách du lịch. Cũng khó mà có thể vội vã
trong một ngày nắng đẹp như thế này, giữa một thành phố chậm rãi thế này. Trên
phố, các tiệm kem đầy ắp người. Ngay cả những cảnh sát lực lưỡng, bảnh bao cũng
vừa tán chuyện, vừa ngả ngốn trên những chiếc xe Vespa mà ăn kem thoải mái. Những
người đàn ông đi bộ trên phố với một vẻ tự tin và trễ nải của những con báo ăn
no đang đi dạo. Tôi thấy cả những ông già mặc com lê nghiêm chỉnh đủng đỉnh bước
đi, vừa đi vừa liếm kem như một đứa trẻ. Các cô gái mặc đẹp chạy rông trên phố
với mái tóc đen buông xõa; họ thoải mái phô bày cái cơ thể sexy như một quyền tự
nhiên của con người.Quanh đài phun nước Trevi, khách du lịch và người Rome la liệt
nằm, ngồi, sửa nắng; họ ở sát cạnh nhau mà không thấy chật chội. Ngay cạnh đó,
tôi nhìn thấy một cánh cửa gỗ màu đen pha đỏ, trông rất cổ kính; tôi không rõ
nó là cửa vào cái gì nhưng cứ liều đẩy thử rồi bước vào. Bên trong hóa ra là một
nhà thờ nhỏ hoàn toàn tĩnh lặng. Nhà thờ chỉ có diện tích như một gian phòng nhỏ,
tối, với một ban thờ Chúa ở chính giữa và một vài hàng ghế. Có ba người đang gục
đầu yên lặng cầu nguyện trong khi chỉ cách vài bước chân là bao nhiêu khách du
lịch và người Rome đang ngồi ăn kem sưởi nắng. Nhìn từ bên ngoài, không thể biết
được đây là một nhà thờ - và có lẽ có tuổi đời cả ngàn. Không biết có bao nhiêu
nhà thờ như thế này ở Rome - thật khó tưởng tượng rằng tôi đang ngồi ở một tàn
tích có thể đã có từ thời Julius Caesar Cleopartra, Antony, khi mà đế chế La Mã
trải rộng tới tận sông Nile.Tối nay, đã chán ngán các loại pizza và mỳ ống, tôi ăn tối ở
một nhà hàng Trung Quốc gần khách sạn. Bàn bên cạnh là một cặp vợ chồng châu Á
và một cậu con trai nhỏ - có vẻ như cặp vợ chồng đã cãi nhau trước khi đi ăn tối
nên họ không hề nói chuyện với nhau và cũng không nhìn nhau suốt bữa; cả hai chỉ
nhìn vào cậu con trai. Người vợ có một vẻ mặt khiến cho tôi nghĩ tới cụm từ
"bể khổ". Hai mắt chị là hai cái hố khổ và khuôn mặt chị là một bản
khắc sống của những năm tháng không vui; một khuôn mặt chỉ chực gục xuống khóc
nếu quanh đây không có người. Chị có vẻ rất muốn chấm dứt cuộc hôn nhân này
nhưng không biết cách, có khi không biết lựa chọn đó liệu có tồn tại với chị.
Giữa hai người ngồi đó là một khoảng trống chết chóc. Thật là một cảnh đau lòng
giữa Rome - thành phố mà người ta hôn nhau ở khắp các góc phố và cúi xuống buộc
giày cho nhau.Tôi vừa ăn vừa liếc nhìn chị và tự hỏi, không biết chị đang
nghĩ gì.Khó lắm, tôi biết chứ.Những ngày này, tôi chỉ ngủ từ hai đến năm tiếng mỗi ngày. Đã
thế, ngày nào tôi cũng đi bộ liên tục, ăn ít, chỉ uống nước là nhiều. Vậy mà
không thấy mệt.Sáng nay, tôi mở mắt lúc 3 giờ sáng và đến 5 giờ đã ra khỏi
nhà, xuống tàu điện tới bảo tàng Vatican. Tôi muốn đến sớm để xếp hàng mua vé
và có thể vào được bảo tàng trước khi rời Rome.Bên ngoài, trời còn tối và hơi lạnh. Những đường phố Rome yên
tĩnh. Dưới bến tàu điện, chỉ có một vài người chờ tàu. Trông họ đều mệt mỏi và
nhem nhuốc - điều rất khó thấy ở Rome. Họ chắc chắn không phải người Ý. Có vẻ
như họ là dân nhập cư từ Ấn Độ, Sri Lanka, Thổ Nhĩ Kỳ, Pakistan hay một nước
nào đó có màu da sẫm màu.Lúc hơn 6 giờ 15, bên ngoài bảo tàng chưa hề có ai. Những chỉ
vài phút sau, một nhóm người Tây Ban Nha xuất hiện: một gia đình bốn người, gồm
bố mẹ và hai người con có lẽ đang là học sinh cấp ba. Sau đó, một chiếc xe buýt
dừng lại ở ngay chỗ chúng tôi và hai bà sơ chừng ngoài bốn mươi tuổi bước xuống,
một mặc áo thụng trắng, một mặc áo thụng đen. Hôm trước, tôi hỏi chị Mai các
màu áo có nghĩa là gì; có phải giống như là đai trắng, đai đen trong võ thuật
không; chị Mai cười, bảo không phải, màu khác nhau là do các dòng tu khác nhau.
Hai bà sơ đi tới chỗ tôi đứng; nhìn tấm biển báo giờ mở cửa; rồi có vẻ không chắc
chắn lắm, họ hỏi tôi. Người mặc áo trắng nói tiếng Anh không sõi nhưng có thể
hiểu được; vậy là chúng tôi bập bõm tán gẫu. Hóa ra, họ từ Philippines tới. Tôi
nói rằng bảo tàng phải đến 8 giờ 30 mới mở cửa, nhưng người ta có thói quen đến
từ sớm để xếp hàng. Sau khi nghe thông tin này và thấy mới chỉ có khoảng chục
người đứng xếp hàng, hai bà sơ đi ra trước hai cánh cổng kín bằng gỗ của bảo
tàng để chụp ảnh cho nhau. Họ giơ tay giơ chân làm điệu bộ, rồi trêu nhau gì đó
và cười lăn lộn, đến mức phải ngồi xuống cho khỏi ngã. Trông họ giống như hai
cô gái trẻ thân nhau đang đi shopping trong siêu thị chứ không phải hai nữ tu
sĩ. Tôi quan sát họ và cũng thấy vui lây.Trời buổi sớm có gió lạnh nên những người đứng đợi bắt đầu co
ro. Chẳng mấy chốc, có mấy người phụ nữ mang rất nhiều khăn quàng và mũ len đến
chào bán. Khăn mũ đủ các loại màu sắc, bằng lụa và len, giá từ 3 đến 5 euro. Họ
bán những thứ này vì bảo tàng cấm những người mặc quần sooc và áo cộc tay vào
bên trong, những người này phải mua khăn để trùm lên.Đến 8 giờ 30, bảo tàng mở cửa. Phòng đầu tiên là các cổ vật
và tượng thần trong Thần thoại Hy Lạp, hầu hết được làm từ trước hay ngay đầu
Công nguyên. Tôi nhanh chóng nhận ra rằng tôi cần cả tuần mới có thể xem hết được
bảo tàng này, mà tôi chỉ có buổi sáng nay. Vậy là tôi đành bỏ qua một loạt
phòng để đi thẳng tới Nhà nguyện Sistine.Đường đi tới đó không dễ. Phải đi lên đi xuống các cầu thang
hẹp và xuyên qua các căn phòng đầy những bức tranh trần và tranh tường lớn, vẽ
các tích tôn giáo. Một ý nghĩ cứ trở đi trở lại trong đầu tôi: tại sao ở các nền
văn minh đầu tiên của con người, đời sống nghệ thuật và tôn giáo – tâm linhNhững người đến từ 6 giờ sáng để xếp hàng bên ngoài bảo tang
Vatican (Rome)được hòa trộn tự nhiên đến thế vào đời sống thế tục? Nghĩa là
việc kính Chúa, thờ thần, việc coi con người như một hóa thân hoặc sự nối dài của
thế giới thần linh là một việc tự nhiên; trong khi thế giới hiện đại của chúng
ta dễ coi điều đó là biểu hiện của sự tăm tối và ngu dốt. Kết luận này có vẻ
quá vội vàng và là một sản phẩm chính trị - xã hội nhiều hơn là sự thật. Con
người hiện đại có lẽ đã quá tự mãn về quyền lực của mình và trong sự tự mãn đó
đã cắt đứt mình khỏi một sợi dây nối với một cái gì đó cao cả, toàn thiện.Phần chính của nhà nguyện Sistine là một căn phòng kiến trúc
Phục hưng được xây dựng theo kích thước của đền thờ Solomon trong kinh Cựu ước
– và lúc này đông nghẹt người. Tôi hầu như không thể di chuyển mà chỉ có thể thả
lỏng cho mình được đẩy đi trong cái sóng người đều đang ngửa cổ nhìn lên trần
nhà. Trên đó, trong vòng bốn năm từ 1508 đến 1512, Giáo hoàng Julius đệ nhị đã
thuê Michelangelo vẽ chín bức bích họa để mô tả ba giai đoạn trong quan hệ của
con người với Chúa trời: Chúa tạo ra thế giới, Chúa và con người, Loài người phản
bội lại Chúa. Sau đó, từ năm 1537 đến năm 1541, Giáo hoàng lại thuê tiếp
Michelangelo vẽ bức Sự phán xử cuối cùng (The Last Judgment) để
tạo nên mắt xích cuối cùng cho tổng thể câu chuyện về loài người và Chúa.Căn phòng lúc này rất tối vì toàn bộ cửa sổ đều bị đóng và do
vậy khó mà nhìn rõ các họa tiết, nhất là trong tư thế ngửa đầu. Tuy thế, chỉ
quy mô của những bức họa cũng có thể khiến người ta choáng ngợp. Tất cả những
người trong phòng hẳn đều cũng có cảm giác này nên hầu như không ai nói gì, chỉ
ngửa cổ nhìn, và thỉnh thoảng khẽ tặc lưỡi. Sự chiêm bái và ngả mũ này chỉ có một
nửa với Chúa; nửa còn lại là với sức sáng tạo kinh khủng của Michelangelo. Ít
nhất là tôi cảm thấy thế. Tôi không có gì để nói khi đứng đây. Tôi chỉ có thể
im lặng và đồng tình với cái tuyên ngôn không lời của Michelangelo khi ông vẽ
những bức fiasco này: hoặc là thế này , hoặc là không gì cả.Nhưng thế này thực sự khó lắm. Những người cho rằng
nó dễ là những người hoặc rất may mắn, hoặc không hề biết họ đang nói gì.Tôi tới Rome làm gì? Câu hỏi này trở đi trở lại trong đầu tôi
tối qua. Đa số những người tới Rome – mà phần nhiều là từ các nước phương Tây,
hoặc các nước châu Á thân phương Tây như Nhật, Hàn Quốc, Singapore – đều ít nhiều
có mục đích hành hương. Họ tới Rome để tới Vatican, để được gần Chúa hơn thông
qua việc gần với Giáo hoàng hơn và gần với đất thánh hơn. Nói gì đi nữa, Thiên
Chúa giáo vẫn là tôn giáo lớn nhất thế giới vào thời điểm hiện tại, với khoảng
hơn hai tỷ tín đồ, trong đó có quá nửa thuộc Thiên Chúa giáo La Mã.Với tôi, mục đích hành hương này hoàn toàn không có. Từ lâu
tôi đã nghĩ, ngoại trừ chuyện một người xuất thân trong gia đình nào và xã hội
nào, sự lựa chọn tôn giáo của người đó còn phụ thuộc tạng người. Tạng của tôi
không sao tin được những điều cơ bản mà người theo đạo Thiên Chúa nào cũng tin:
có một đấng sáng tạo, gọi là Chúa Trời, đã tạo ra thế giới và con người từ cát
bụi; loài người đã phản bội lại Chúa và vì thế mà tất cả chúng ta sinh ra đã có
tội lỗi khởi thủy; tuy nhiên Chúa thương loài người nên đã cử con duy nhất của
Ngài là Jesus xuống chịu tội cho loài người bằng cách chết trên thánh giá; và
những ai tin nhận Chúa sẽ được rửa sạch tội lỗi để lên thiên đường sau khi chết
còn tất cả những người không tin Chúa sẽ xuống địa ngục [7] .[7] Dĩ nhiên là một số dòng chỉ tin chúa Jesus là sứ giả của
Chúa chứ không phải con của Chúa.Đi nhà thờ với Quang Anh đến hai năm và dầu cố gắng hết sức,
tôi vẫn không sao chấp nhận được những điều này. Có cái gì đó trong tôi cứ cưỡng
ra. Có lần, khi hết cả kiên nhẫn với tôi, Quang Anh đã nói:“Tại sao chị bướng thế nhỉ? Chị không chịu tin nhận Chúa chẳng
qua là do chị kiêu ngạo chứ không phải vì nó phi logic. Chị sợ người ta bảo chị
ngu ngốc.”Bướng thì tôi công nhận, nhưng sợ người ta bảo mình ngu ngốc
thì chắc chắn là không.“Em nhầm,” tôi nói. “Nếu thực sự có Chúa, và Chúa đã để Jesus
chết trên thánh giá để rửa tội cho con người, thì chị hết tội rồi, tại sao chị
lại phải theo Đạo, mà không chị lại còn phải xuống địa ngục. Đã bảo là chết để
đền tội thay rồi mà vẫn còn bắt vào đạo mới được chuộc tội thật; cái lỗi đấy là
lỗi phiên dịch và cưỡng ép của nhà thờ, chị chẳng tin Chúa tử tế nào lại ép người
ta như thế. Phật chẳng bao giờ ép ai theo đạo Phật, Phật bảo mỗi người đều là
Phật, phải tự mà cứu mình.”Nghe đến Phật thì dĩ nhiên Quang Anh càng điên tiết. Nhất là
vì lúc đó, trong cố gắng tìm một lối tắt để đi tới sự thật (trời
ơi!), tôi vừa đi nhà thờ cùng Quang Anh vừa bắt đầu tập thiền cùng với một nhóm
bạn khác.“Đây không phải là phiên dịch của nhà thờ,” Quang Anh nói
“Đây là Kinh Thánh nói! Kinh Thánh là lời Chúa; chị đã đọc sách Luke
và Mathew trong Tân ước, chị biết việc Chúa Jesus là con của Chúa chính là lời Chúa nói
trong Kinh Thánh chứ không phải là sự phiên dịch của nhà thờ.”“Dào,” tôi tặc lưỡi, “Luke và Mathew trước hết là các nhà
chính trị.”Đến đây thì Quang Anh hết chịu nổi.“Vấn đề không phải là logic , vấn đề là chị chưa thấy
địa ngục đấy thôi; nếu chị biết chắc chị sẽ phải xuống địa ngục nếu
không tin Chúa thì chị đã ba chân bốn cẳng tin nhận rồi. Chị đúng là chưa thấy
quan tài chưa nhỏ lệ.”“Em lại nhầm nữa rồi,” tôi cũng phì khói qua hai tai. “Nếu quả
thực là như thế thì lại càng phi lý. Thế thì chị thà xuống địa ngục còn hơn. Đằng
nào thì đa số bạn của chị với em cũng xuống địa ngục với chị. Xuống đấy cũng
vui chán.”Lúc ấy chúng tôi đang uống sinh tố trên phố Hoàng Diệu vào một
buổi tối thứ Bảy, sau khi đi tập thánh ca ở nhà thờ về (hồi đó, phố Hoàng Diệu
còn là phố sinh tố). Đến đây thì Quang Anh không nói không rằng, lên xe đi thẳng.Cũng vì xung đột này mà bọn tôi đã từ mặt nhau một thời gian
dài trước khi làm bạn trở lại một cách dè dặt. Chúng tôi học cách không mang
chuyện tôn giáo ra tranh luận nữa; nhưng tôi biết Quang Anh vẫn không thể tiêu
hóa nổi việc tôi lại không nhận ra cái sự thật rành rành về Chúa.Chị Mai, trái lại, thuộc tạng có thể theo đạo Thiên
Chúa và thực tế là chị đang hiến cả đời mình cho Chúa. Tôi đoán, khi tôi và chị
Mai đứng trong nhà nguyện Sistine nhìn lên những bức fiasco của Michelangelo,
chị Mai nhìn thấy Chúa, còn tôi chủ yếu thấy Michelangelo. Chị Mai cho rằng
ngay cả sự sáng tạo của Maichelangelo cũng thuộc về Chúa, nếu không nhờ ân phước
của Chúa thì Michelangelo không thể nào tạo ra kiệt tác này; còn tôi thì chỉ
nhìn thấy cơ bắp và các nơ ron thần kinh của Michelangelo căng ra trong lúc ông
ngửa đầu ra vẽ, bất kể Chúa hay quỷ Satan có muốn ông vẽ hay không.Nhưng rút cục, tôi tới Rome để làm gì?Ngày hôm nay, tôi đối mặt lại với câu hỏi này, nhưng là trước
“chị bề trên” trong nhà dòng của chị Mai. Chiều nay, khi gặp chị Mai, tôi lại hỏi
chị không biết chị đã hỏi “chị bề trên” cho tôi chưa.“Nếu chị bề trên đồng ý thì em sẽ quay lại Rome để đến sống
thử trong nhà dòng,” tôi nói.“Chị hỏi rồi,” Chị Mai cười. “Chị bề trên bảo sao cứ nói mà
mãi không đưa cô ấy đến đây giới thiệu.”Lúc ấy, chúng tôi đang đứng bên ngoài nhà ga Termini, tôi
nói, “ Thế thì đi luôn bây giờ được không chị, để em xuống rửa mặt một chút
trông cho tử tế đã.” Tôi chạy xuống tầng dưới để vào nhà vệ sinh. Nhưng tôi vội
quá và có lẽ là mừng quá nên đã chạy nhầm và toilet nam mà không biết. Trong
lúc trang điểm, tôi nhìn vào gương và nhận thấy những người đàn ông đi ngang
phía sau tôi cứ nhìn tôi chằm chằm. Đến lúc, những cái nhìn xoáy quá, tôi quay
lại nhìn họ và nhận ra mình đang ở trong nhà vệ sinh nam. Tôi vội vàng ôm túi đồ
trang điểm chạy ra khỏi phòng.Nhà dòng của chị Mai ở trong một con phố rất hẹp cạnh khu
Piazza Navona. Không có cổng vào, không có tường cao, không có hàng rào, không
có thánh giá hay bất cứ dấu hiệu nào bên ngoài cho thấy đây là một nhà dòng. Đó
chỉ là một căn nhà hai tầng sơn màu vàng mang kiến trúc Phục Hưng như những căn
nhà bên cạnh. Chúng tôi đi qua một cái cửa nhỏ, rồi chị Mai dẫn tôi sang một
căn phòng giống như một cái am, ở đó có một bàn thờ Chúa và Đức Mẹ Maria rất
đơn giản. Chị bỏ dép, quỳ xuống làm dấu thánh – tuy chỉ trong vài giây nhưng
các cử động đều tập trung, tự nhiên, và nối nhau mềm mại như một thứ bản năng
thường hằng, tôi cũng vội vàng bỏ dép, quỳ xuống sau chị, và cũng bất giác làm
dấu thánh mặc dù ngay trong lúc đang làm dấu, trí óc lập tức đánh động tôi rằng
cái dấu thánh của tôi hoàn toàn trống rỗng về nghĩa (và ở đây thì có một phần
khác lại lặng im ghi nhận rằng cái phản xạ làm dấu đầu tiên, trước khi trí óc
tôi can thiệp, là một phản xạ tự nhiên để đáp lại một điều gì đó tự nhiên mà gọi
bằng tên không gì quan trọng). Rồi chị đứng dậy, nói với tôi rằng mỗi lần đi ra
ngoài hay đi về, mọi người trong nhà dòng đều phải chào Chúa trước.“Giống như con cái khi ra ngoài nhà hay đi về đều phải chào bố
mẹ mình,” chị nhẹ nhàng nói.Chào Chúa xong, chị Mai dẫn tôi đi qua một cái cửa ngách để
vào bếp – chị giải thích rằng phải đi qua bếp mới lên được nhà trên, nơi mọi
người sinh hoạt. Vừa bước vào bếp, tôi đã nghe tiếng cười lớn và sau tiếng cười
là bốn phụ nữ da đen to lớn, đầu vấn khăn, mặc váy hoa rộng kiểu châu Phi, đang
lau dọn những cái bồn rửa bát to như những bể nước ở giữ phòng (họ lập tức gợi
tôi nhớ đến những bộ phim từ thời những năm 1980 như Nô tì Isaura). Chị Mai nói
với họ rằng tôi là người nhà của chị từ Việt Nam sang (họ nói với nhau bằng tiếng
Pháp), rồi giới thiệu với tôi lần lượt cả bốn người: hai chị từ châu Phi, một
chị từ Úc và một từ Haiti. Mỗi lần chị Mai giới thiẹu đến ai, người đó lại tiến
tới hôn tôi vào hai bên má.“Bon jour. Enchanté!” các chị cười hiền hậu.“Bon jour,” tôi luống cuống đáp lại vì còn bất ngờ với những
cái hôn. “Enchanté!”Các chị lúc đó chưa biết tôi không nói tiếng Pháp nên hỏi tôi
“Comment ca va [8] ?” và nhiều câu khác, tôi trả lời rằng tôi “très
bien [9] ” và tôi “non parle Francaise [10] ”. Vậy là họ chỉ
mỉm cười rất trìu mến, mắt ai cũng lấp lánh niềm vui. Tôi nhìn thấy trên bàn cạnh
đó hai thùng đựng sâm banh nên nói:“Ah, champane... Beaucoup de champagne. Champage no good for
sisters [11] .”[8] Em khỏe không?[9] Rất khỏe[10] Không biết nói tiếng Pháp.[11] A, sâm banh... Nhiều sâm banh quá. Sâm banh không tốt
cho các bà sơ đâu.Các chị phá lên cười, rồi giải thích với tôi qua chị Mai rằng
“ non non ”, sâm banh này không phải cho các sisters, sâm banh này là
cho “restaurant”. Họ đang chuẩn bị mở một cửa hàng nấu món ăn Pháp để có thêm
thu nhập cho nhà dòng. Một chị nói gì đó với chị Mai và chỉ lên nhà trên, ra ý
rằng chị bề trên đang ở trên đó.Tôi theo chị Mai đi qua một cầu thang gỗ lên nhà trên. Ngang
qua một căn phòng nhỏ, tôi nhận thêm vài chục cái “bious” vào má từ khoảng chục
sơ mặc đồng phục trắng đen, đang ngồi trong phòng nói chuyện rất vui vẻ với một
đức cha vừa từ Pháp sang. Họ cười rất nhiều và đều lần lượt đứng lên hôn tôi
vào hai má khi chị Mai giới thiệu – kể cả người ngồi xa nhất trong phòng và phải
đi vòng qua người khác để ra cửa hôn tôi. Ở phòng lớn bên cạnh – mà chị Mai giải
thích là phòng ăn và phòng họp của nhà dòng – tôi gặp chị bề trên.Chị bề trên là một phụ nữ da đen gốc châu Phi và nói tiếng
Anh với giọng của người châu Phi. Trông chị nghiêm nghị hơn những người còn lại
trong nhà. Chị mời tôi ngồi, lấy nước cho tôi, rồi hỏi:“Em muốn tới nhà dòng để làm gì?”“Em muốn tìm hiểu về đời sống ở nhà dòng.”“Tại sao em muốn tìm hiểu? Tìm hiểu cái gì?”Cố gắng tỏ ra tự tin thật vô ích và ngớ ngẩn.“Em cũng không biết chắc,” tôi cố tìm cách sắp xếp các ý nghĩ
của mình cho các trật tự logic, mặc dù tôi cũng lập tức hiểu rằng các ý muốn tạo
logic cho câu trả lời của mình có lẽ là vô nghĩa, nhưng dù sao tôi cũng sẽ cố.
“Em muốn đến đây sống cùng các chị trước hết để quan sát xem các chị sinh hoạt
như thế nào. Là người bên ngoài, bản thân em và nhiều người em biết ở Việt Nam
nghĩ rằng đời sống ở nhà dòng rất khổ hạnh, khắc nghiệt, nhưng em thấy mọi người
ở đây và em thấy chị Mai chẳng hạn, rất vui vẻ thanh thản. Em muốn tìm hiểu điều
đó.”“Điều đó là điều gì?”“Sự thanh thản, niềm vui sống.”“Để giải thích với mọi người à?”“Có thể. Nhưng trước hết là để cho em hiểu. Em nghĩ ai cũng
muốn sống thanh thản, ai cũng muốn tìm điều đó, bản thân em cũng tìm, cho nên
khi thấy có người có thể đã tìm được thì em muốn tìm hiểu. Sau đó thì có thể là
em sẽ viết cái gì đó, ví dụ như một bài báo, để cho mọi người có cái nhìn đúng
hơn về các nhà dòng và người đi tu.”“Nhưng nhà dòng và người theo đạo không cần thanh minh với ai
cả,” chị mỉm cười.“Không phải là thanh minh, nhưng để cho xã hội có một cái
nhìn chính xác hơn thì cũng tốt phải không ạ? Vả lại, cơ bản là cho em, em muốn
tìm hiểu.”“Chính xác là hiểu cái gì?”“Hiểu vì sao mọi người đi tu, hiểu xem lựa chọn ấy là như thế
nào?”“Mọi người vào nhà dòng là do ơn gọi của Chúa em ạ,” chị nói.
“Em có cảm thấy được gọi không?”Có chữ, tôi nghĩ, có trước hết là sự tò mò gọi tôi; tò mò
theo nghĩa cơ bản nhất và lành nhất. Và cả cái gì đó tôi không gọi tên được
nhưng nhận biết trong tim tôi, nó là cái mà bao năm qua đã luôn dẫn đường và thầm
mách tôi câu trả lời vào những lúc tôi đứng ở ngã ba đường. Tôi cố gắng trình
bày những ý nghĩ của mình trong khoảng thời gian năm phút.“Chị rất thông cảm với ý muốn tìm hiểu của em,” chị bề trên
cười sau khi lắng nghe tôi một lúc. “Nhưng chị sợ là không đồng ý cho em vào được
vì như vậy là trái với quy định của nhà dòng. Nếu chị đồng ý cho em vào, chị sẽ
phải đồng ý cho người khác, và như thế có thể xáo trộn đời sống của các chị em ở
đây. Khi nào em có ơn gọi, chắc chắn em sẽ đến. Khi đó, nhà thờ sẽ rộng cửa đón
em.”Tôi đã đoán trước được câu trả lời này. Thực sự, nếu như là
chị, tôi cũng sẽ không cho tôi đến. Tôi nói không sao đâu, chỉ cần đến đây một
tiếng vừa rồi là em cũng đã biết thêm một số thứ rồi.Trên đường trở lại nhà ga cùng chị Mai, tôi không nhịn được lại
hỏi:“Chị Mai ơi, chị đã yêu ai bao giờ chưa?”Chị cười:“Mình chưa. Mình vào nhà dòng từ năm mười sáu tuổi mà.”Trời ơi, phí quá, lẽ ra một hoặc nhiều người đàn ông đã có thể
có cái hạnh phúc được yêu chị Mai hoặc được chị Mai yêu.“Em mà là con trai, nhất định em phải quyến rũ chị mới được,”
tôi nói.Chị lại cười và nói với tôi rằng các chị trong nhà dòng đều cảnh
báo với chị thế nào cũng có ngày chị phải đối mặt với thử thách này và nó sẽ là
một thử thách rất khó vượt qua. Các chị trong nhà dòng đều đã trải qua thử
thách đó; một số người đã không vượt qua và bỏ nhà dòng ra ngoài. Những người
còn lại ở trong nhà dòng hiện giờ thì, nếu họ đã vượt qua thử thách yêu đương,
họ sẽ đeo một cái nhẫn cưới ở ngón áp út, để chứng tỏ rằng họ đã kết hôn với
chúa Jesus, còn những cô gái trẻ như chị Mai thì sẽ đeo nhẫn đính hôn, để nói rằng
họ đã được đính hôn, được hứa gả cho Chúa Jesus, nhưng có kết hôn hay không còn
tùy thuộc vào việc họ có vượt qua được thử thách khi họ phải lòng một người đàn
ông và sẽ phải chọn giữa Chúa và con người.“Thế thì chị đã đến nơi lý tưởng cho thử thách này rồi.” Tôi
nói “Đàn ông Rome rất đẹp trai và có biệt tài tán tỉnh. Chắc chắn là chị sẽ sớm
được thử thách.”“Chị cũng mong như vậy. Chị mong sớm được thử thách để có trưởng
thành hơn trong Chúa.”Tôi bật cười. Ôi chị Mai ơi, có lẽ không nên mong được thử
thách bằng tình yêu với một người đàn ông trong lúc đã được hứa hẹn hoặc kết
hôn với một người khác. Thử thách ấy không phải là một thứ nên được mong chờ
đâu. Nó có khả năng hủy hoại chị theo những cách không thể tưởng tượng được; đã
có quá nhiều người rơi vào cái vết xe đổ ấy. Như trong Kinh Cựu ước, Adam đã
nghe con rắn và Eva mà ăn quả táo cấm, và mở mắt, và biết mình đang trần truồng,
và lần đầu biết thế nào là xấu hổ, và Adam đã phải ra khỏi thiên đường.“Nhưng như thế tức là tình yêu với Chúa của mình không đủ mạnh
rồi,” chị Mai nói. “Và như thế thì mình ra khỏi nhà dòng là đúng. Các chị trong
nhà dòng đều cảnh báo mình rằng sẽ rất khó, nhưng mình mong là lúc đó, mình sẽ
đủ tình yêu với Chúa để chọn Chúa.”“Chọn” – chính là cái từ này. Tất cả khó khăn của cuộc sống
chúng ta, dù là khó khăn thật hay ảo tưởng, hẳn đều nằm ở cái từ này. Làm sao để
biết mình chọn đúng ? Làm sao biết lựa chọn của mình tối
ưu ? Làm sao để biết lựa chọn của mình có nghĩa khi mà thông tin
và thời gian luôn luôn hữu hạn?- Chị có bao giờ tiếc không? Tiếc là chị đã theo đạo?
Chị không được ra ngoài, đi chơi, đi du lịch như em, rồi lấy chồng, có con, rồi
làm việc này việc khác... sống điên rồ, tự do một tí chẳng hạn. Lấy chồng, có
gia đình cũng vui.- Không, mình chưa bao giờ tiếc cả. Mình cảm thấy lời gọi
của Chúa với mình rất rõ ràng. Khó giải thích lắm nhưng mà mình muốn cuộc sống
này hơn bất kì thứ gì khác. Mình chưa bao giờ tiếc.Bên ngoài cửa sổ xe buýt, Rome bắt đầu lác đác ánh đèn. Thành
phố đầy những người hối hả tìm cách vượt qua đám tắc đường để tới một cái đích
nào đó: một buổi hẹn với người yêu, về nhà với chồng con sau giờ làm, trốn vợ
đi vụng trộm với bồ, hoặc tới lớp học đêm sau tám tiếng làm ngày... Chúng tôi
quặt qua một con phố và tôi nhìn thấy ngay giữa khúc giao của hai con đường đầy
ô tô và các cửa hàng thời trang Ý hào nhoáng là một khoảng tường thành hõm xuống,
nham nhở gạch, cỏ dại phủ kín chân tường và mèo hoang dàn hàng chờ đêm trên các
bờ tường. Đây là tàn tích của nền văn minh La Mã đã bị phá hủy, một thời hoàng
kim chỉ còn là quá khứ. Tôi cầu mong chị Mai sẽ mãi giữ được cái chị đang có
ngày hôm nay dù rằng cái dấu tích La Mã cổ đang nằm như một vết thương không thể
kín miệng giữa đường phố Rome hào nhoáng nói với tôi rằng không có bất cứ thứ
gì trên đời là vĩnh viễn không đổi thay.Chị Mai dĩ nhiên sẽ nói: “Việt, không có gì trên đời không
thay đổi, ngoài Chúa.”Tôi suýt không gặp được chị Mai trước khi rời Rome.Chúng tôi đã hẹn gặp để chào nhau nhưng do hiểu nhầm, tôi đợi
chị ở bên ngoài bảo tàng Vatican còn chị thì đợi tôi ở đền Pantheon. Chờ một
lúc không thấy chị và cũng không có điện thoại để gọi, tôi về khách sạn, check
out và ra nhà ga Termini đợi đến giờ ra sân bay. Tôi không quên gọi điện đến
nhà dòng để nhắn lại lời chào tạm biệt. Trong lúc đó, chị chờ tôi hai tiếng
ngoài Pantheon, rồi đi về nhà, nhận được tin nhắn lại vội vàng trở lại nhà ga.
Khi tôi nhìn thấy chị đi lẫn trong dòng người tấp nập của nhà ga, vẫn giản dị
trong một bộ váy hoa bằng vải thô, khuôn mặt hơi lo lắng nhưng bình an, một niềm
vui ào ạt nhấn chìm tôi.“Chị Mai! Chị Mai!” Tôi kêu to.Chị quay đầu, nhìn thấy tôi và, trái với sự khoan thai thường
ngày, chạy sà lại chỗ tôi đang ngồi. Hai chị em ôm chầm lấy nhau cười như thể
chúng tôi đã thân với nhau lâu lắm chứ không phải mới gặp nhau cách đây mấy
hôm. Ôi, chị Mai! Đây là một con người mà tôi sẽ dùng từ “đẹp” để mô tả. Chị
Mai là một người đẹp; một tâm hồn như một dòng nước suối mà người ta muốn ở gần.
Tôi yêu quý chị quá thể.Bên ngoài đường tàu của nhà ga Roma Termini, tôi “ bisous ”
chị vào hai bên má. Sau đó, tàu bắt đầu chuyển bánh. Chị vẫn đứng trên sân ga,
nhỏ bé, mảnh mai, tay vẫy và cười với tôi – nụ cười trên miệng và cả trong đôi
mắt sáng, trong, hiền mà tôi rất hiếm thấy ở những người khác.Và đấy là hình ảnh cuối cùng tôi mang về từ Rome.Rostock,
ngàyRostock, ngày...Suốt mấy ngày vừa rồi, tôi đã trở lại Đức dự lễ nhập học của
cháu tôi. Ở Đức, lễ vào lớp một là dịp trọng đại ngang với lễ tốt nghiệp cấp ba
hoặc đại học ở Mỹ.Từ sáng, chúng tôi đã dậy chuẩn bị. Tất cả đàn ông đều mặc
com-lê, kể cả bé Andy hai tuổi. Tôi đã lo lắng chúng tôi ăn mặc quá trịnh trọng
nhưng khi tới trường của Nam, nỗi lo của tôi tan biến vì các gia đình khác và
lũ trẻ đều mặc lễ phục cả. Đứa trẻ nào cũng được tháp tùng bởi ông bà nội ngoại,
bố mẹ, cô dì chú bác, anh chị em họ... Họ mang theo hoa, bóng bay chúc mừng,
máy quay phim, máy chụp ảnh để ghi lại khoảnh khắc trọng đại này.Phụ huynh và học sinh tập trung trong nhà thể thao của trường.
Ở đó, các giáo viên và học sinh các lớp lớn hơn đã trang trí rất nhiều băng
rôn, biểu ngữ chào mừng các em lớp một. Học sinh trật tự xếp hàng theo lớp; phụ
huynh ngồi ở các hàng ghế xung quanh. Ở chỗ này tôi phải mở ngoặc nói rằng trẻ
con Đức, từ những em bé một, hai tuổi đã có ý thức kỷ luật và tự lập một cách
kinh ngạc; không hề có cảnh trẻ con khóc lóc, bám bố mẹ; không có cảnh bố mẹ dỗ
dành, quát nạt, bú mớm, cho con ăn uống, tay xách nách mang. Một cô giáo hình
như là cô hiệu phó đứng phía trên cầm micro hướng dẫn các em ngồi vào chỗ của
mình, và học sinh cứ thế răm rắp làm theo, không hề có chen lấn, xô đẩy.Đúng giờ, lễ nhập học bắt đầu. Các em học sinh lớp ba hát một
vài bài hát và đóng một vở kịch ngắn; sau đó, cô hiệu trưởng đọc lời chào mừng
các học sinh lớp một; rồi giáo viên chủ nhiệm của mỗi lớp một mới đọc tên từng
học sinh để các em đi vào các lớp. Cô giáo gọi đến tên ai, em đó đứng lên, và
gia đình vỗ tay, chụp ảnh rồi đi vào lớp rất trật tự. Điều mà tôi nghĩ đến nhiều
nhất khi chứng kiến toàn bộ buổi lễ này là “sự tôn trọng”. Trẻ em ở đây được
tôn trọng như những cá thể độc lập và có ý thức; cho nên chúng được đối xử trên
tinh thần như thế; và chúng cư xử lại cũng với tinh thần như thế. Không có sự
bao bọc, nuông chiều, cung phụng, hoặc hách dịch với trẻ em.Chúng tôi theo Nam vào lớp. Trong lớp, cô chủ nhiệm nói thêm
vài lời chúc và dặn dò; rồi các em được về - để các gia đình có thể tổ chức tiệc
nhập học ở nhà. Buổi lễ rất đơn gỉan nhưng sang trọng. Sau lễ, chúng tôi đi tới
một nhà hàng để ăn trưa, rồi lên tàu đi ra một hòn đảo cách đó ba mươi phút. Ở
đó có bãi biển và bọn trẻ con được xuống tắm. Hầu hết các bố mẹ ngồi hoặc sưởi
nắng ở bên trên, mặc bọn trẻ muốn làm gì thì làm. Có những đứa bé chỉ lẫm chẫm
đi, hoặc còn đang bò nhưng bố mẹ chúng mặc kệ cho chúng bò xuống mép nước hoặc
nghịch cát. Họ chỉ im lặng quan sát và theo dõi từ xa chứ không kè kè bên cạnh,
cũng không ngăn cản, đe dọa, khuyên bảo, dỗ dành. Tôi quan sát một em bé còn
đeo tã lẫm chẫm đi ra mép nước, ngồi xuống sờ tay vào nước và hét lên thích
thú, rồi bị một cơn sóng đánh ngã ra nhưng bố mẹ em chỉ chăm chú theo dõi mà
không chạy tới giúp. Em bé lồm cồm bò dậy, tự động lùi lại rồi tiếp tục sục tay
xuống nước để vầy. Ở ngoài xa hơn một chút, những đứa bé ba, bốn tuổi; và xa
hơn là bọn trẻ mười – mười lăm tuổi túm tụm chơi đùa. Chúng có thể cãi nhau và
đánh nhau, và phải tự giải quyết lấy; người lớn sẽ không can thiệp ngay cả khi
trẻ con quay về “mách”.“Việc của con, con tự giải quyết” tôi nghe thấy một ông bố
nói với đứa con khoảng sáu tuổi của mình; trong lúc đó, người mẹ nằm sưởi nắng
đọc sách.Tôi nằm trên cát, cạnh những bụi sậy úa vàng dưới nắng hè xem
bọn trẻ đùa trên bãi biển và kinh ngạc vì cái cách mà người Đức dạy con. Họ kỷ
luật và lý tính còn hơn người Mỹ. Được nuôi lớn lên trong sự bình tĩnh và kỷ luật
tự nhiên như thế này, hy vọng những đứa trẻ sẽ có cơ hội giữ được bình tĩnh và
kỷ luật trước những biến động và cám dỗ của cuộc sống người lớn sau này.Đây có lẽ là điều tôi yêu nhất ở Sơn. Anh không bị cám dỗ bởi
tiền bạc; không coi việc phải có nhà cửa ổn định, công việc ổn định, thăng tiến
trong xã hội là mục đích sống – và tôi đồng ý với điều đó.Nhưng anh lại cũng không thông cảm và kiên nhẫn được với những
người yếu đuối hơn anh. Có phải ai sinh ra cũng đã may mắn có được sự mạnh mẽ
đâu, ngay cả khi họ cố hết sức.Biển Baltic, ngày...Biển Baltic, ngày...Những ngày này, tôi đã hoàn toàn mất cảm giác về thời gian.
Tôi không còn nhớ hôm nay là thứ Hai, thứ Ba hay thứ Tư. Ngay cả cảm giác về những
nơi chốn cũng trở nên nhạt nhòa; những địa danh chỉ giống như những hình ảnh
nhòe trong một cuộn phim chụp hỏng.Hôm trước, ở nhà ga trung tâm khổng lồ của Berlin, nhìn những
tàu con thoi tốc độ chạy xuyên quốc gia và tầng tầng bến tàu đổ đi các hướng,
tôi còn có cảm giác như mình lạc vào một bộ phim khoa học viễn tưởng và sẽ
không ngạc nhiên nếu thấy những chiếc ô tô vun vút hạ từ trên trời xuống và
Skywalker bước ra. Cũng ở Berlin, khi xuống khỏi bến tàu điện ở khu trung tâm,
tôi tưởng như mình đang ở trên Đại lộ Michigan ở Chicago bởi vì kiến trúc của
các tòa nhà vừa cửa hiệu ở đây giống hệt Magnificient Mile [12] của
Chicago: cũng Chanel, H&M, Niketown, Salvatore Ferragamo, McDonald, và cả
Dunkin Donuts. Nhưng chỉ đi ngược một đoạn ra tàn tích của bức tường Berlin, trả
mấy euro để chụp một tấm ảnh lưu niệm với hai người mặc đồng phục Hồng quân
Liên Xô và Đức Quốc xã, tôi lại tưởng như mình đang sống trong Thế Chiến II hay
Chiến tranh Lạnh. Hay hôm nay, ở Copenhagen, khi bước trên những đường phố nhỏ
gần nhà An- đéc- xen, tôi ngỡ có thể thấy ông từ đâu đó đi ngược lại phía tôi,
cao, gầy, đầu đội mũ, tay chống một chiếc ba toong đen.[12] Đoạn phố Chicago trong khu trung tâm, toàn các cửa hàng
hào nhoáng.Copenhagen nhỏ, hiền hòa. Xe đạp ở khắp nơi. Những ngôi nhà
và những con đường đầy cây, gợi cảm giác chúng đã ở đó từ thế kỉ XIV, XV, và sẽ
vẫn ở đó rất lâu, ngay cả khi phần còn lại của thế giới được số hóa và ảo hóa.
Ngay cả khu bến tàu bận rộn nhất của thành phố cũng có một vẻ hiền hòa, nhàn tản,
khiến cho tôi nghĩ đến những cảng cá luôn thổi một thứ “gió sầu phương Bắc” ru
thành phố ngủ mà An-đéc-xen đã nhắc đến.Copenhagen thực sự rất chậm và có thể làm nản lòng những người
muốn tìm kiếm giải trí. Đây là một thành phố hoặc sẽ bị coi là nhạt nhòa và điển
hình của sự già cỗi châu Âu hoặc một thành phố dường như đang điềm tĩnh cưỡng lại
sự toàn cầu hóa bằng một ý thức sâu sắc về sự trụy lạc và tự diệt vong trá hình
dưới cái vỏ “hiện đại hóa”. Copenhagen vẫn còn đầy bóng dáng của sự cổ điển.Ở Copenhagen cũng như ở Berlin, ở Rome những ngày này, cảm
giác nổi trội nhất trong tôi chỉ là cảm giác về sự di chuyển: tôi chỉ đang trôi
từ nơi này tới nơi khác trong một thế giới đã hóa lỏng.Nhưng vào lúc hoàng hôn ngày hôm nay, khi vượt qua biển
Baltic trên chiếc tàu phà khổng lồ Seandlines để trở lại Rostock từ Copenhagen,
nhìn những con sóng bị mũi tàu đánh tơi thành những đám bọt trắng trong lúc con
tàu tiến nhanh về phía Nam, ngay cả cảm giác di chuyển cũng dừng lại. Tất cả những
gì tôi cảm thấy chỉ là một sự bình yên được bỏ neo sâu và chắc chắn bên trong -
ở nơi nào thì tôi không biết. Cái khối bình thản ấy không chứa trong nó bất cứ
ý nghĩ cụ thể nào nhưng nó làm nước mắt tôi dâng lên. Tôi cứ đứng ngoài boong
tàu ngắm mặt trời lặn trong lúc mọi người đã vào cả trong khoang để tránh gió.8:00: Mặt trời đang xuống nhanh. Ánh nắng chỉ còn có ở góc xa
của mặt biển, hắt chéo lên những cột buồm cao của những con tàu lớn đứng rải
rác trên mặt nước. Mặt biển chìm trong bóng râm. Nước có một màu thép non hiền
lành ở bên trên nhưng hứa hẹn những vực tối bên dưới.8:03: Mặt trời chuẩn bị chạm vào mặt nước. Trông như một quả
cầu lửa chuẩn bị được nhúng xuống một chảo nước khổng lồ.8:09: Một nửa mặt trời đã chìm xuống nước và đang chìm rất
nhanh.8:11: Khoảng 4/5 mặt trời đã biến mất8”12: Tất cả quả cầu đã biến mất. Chỉ còn một quầng sáng màu
lửa dội lại từ chỗ mặt trời lặn xuống. Mặt biển đã chuyển sang màu xám thẫm, có
lẫn màu xanh đen.Hôm kia, tôi cũng đã nhìn thấy một hoàng hôn tương tự bên bờ
biển Rostock. Lúc ấy, chúng tôi đã từ lễ nhập học về và vào ăn tối ở một nhà
hàng Việt Nam. Tôi ăn xong trước mọi người nên ra ngoài đi dạo bên bờ nước. Mặt
trời lúc đó đã lặn nhưng mặt nước ở phía xa vẫn có màu lửa tối trong khi ở phía
này đã chuyển màu xanh đen.Những cây sậy ở mép nước chỉ còn là những bóng đen
phơ phất trên nền trời và từ chỗ tôi ngồi, tất cả khung cảnh này làm tôi nghĩ tới
những bức tranh của Monet.Tôi đang ngồi trên một cái trụ gỗ thấp mà người ta
dùng để buộc thuyền vào bến. Một còn vịt trời bay ngang qua mặt nước, cánh của
nó chạm khẽ vào chỗ này, chỗ kia, tạo nên những vòng sóng tròn nhỏ trên mặt nước
hoàn toàn tính lặng. Dọc vỉa hè, rất nhiều người ngồi yên ngắm mặt trời lặn. Một
người đàn ông, chắc cũng là khách du lịch, hỏi tôi:“Cô từ đâu tới?”“Chiacago,” tôi đáp.Tôi nói xong thì mới nghĩ ra câu trả lời thực ra không chính
xác.Tôi đang sống ở New Hampshire chứ không phải Chicago; thực tế từ mấy năm
nay tôi đã không sống ở Chicago thường xuyên. Nhưng tại sao, khi nghĩ đến
“nhà”, tôi vẫn cứ nghĩ đến Chicago. Có thể là vì những ngày ở Chicago là khoảng
thời gian chỉ có đọc, lên lớp, viết, và đắm chìm trong thế giới tri thức và vì
thế mà tôi thường trực có cảm giác “neo đậu”. Hay vì đấy là nơi cuối cùng mà
tôi sống cuộc sống độc thân, trước khi tôi hiểu ra rằng cái cô đơn có thể có
trong quan hệ với người khác – nhất là với những người mà mình coi là quan trọng
nhất trong cuộc đời mình - còn thấm thía hơn nhiều trạng thái một mình?Con tàu lúc này đang tiến nhanh về bến và gió thổi lạnh hơn.
Trên khoang tàu không còn bóng người nhưng tôi vẫn sẽ đứng đây để lấy cảm giác
này.Berlin, ngày…Oma trong tiếng Đức có nghĩa là “bà”. Oma Marta là người quen
của gia đình chồng tôi; hồi Sơn còn làm việc ở Đức, anh đã sống với oma Marta một
thời gian.Bây giờ là 8 giờ 57 phút sáng. Phòng khách của oma Marta lúc
này không một tiếng động và được thắp sáng bởi một ngọn đèn bàn nhỏ. Tuy thế,
ngoài vườn có nắng; có thể nhìn xuyên qua rèm cửa sổ để thấy những cây phong đầy
lá và hàng rào dài bằng những bụi gai. Không nghe thấy gì nhưng tôi mường tượng
được tiếng xào xạc của lá phong trong gió. Hôm nay là đầu tháng Chín, tức là bắt
đầu mùa thu rồi. Tôi nhớ đến Omaha và những sáng mùa thu khi tôi mới đến Mỹ; đã
tám năm. Trời cũng nắng nhạt như thế này, nhiều gió như thế này; ngày nào tôi
cũng dậy sớm, đi xuyên qua công viên đầy những cây phong xào xạc trong gió khô,
luôn luôn trong tình trạng lâng lâng vì cái quang cảnh như trong truyện cổ
tích: những thảm cỏ xanh tỉa gọn ghẽ, những luống hoa cúc đủ màu trồng theo
mùa, những con quạ đen chí chóe và lũ sóc với thỏ chạy đầy trong công viên.Oma Marta đã dậy từ sớm và lúc này đang làm gì đó trong vườn.
Gần 7 giờ sáng, khi tôi dậy đi toilet đã thấy oma dậy rồi. Nghe tiếng tôi, bà từ
ngoài vườn đi vào hỏi tôi có uống cà phê không. Bà nói tiếng Đức, tôi không hiểu
một từ tiếng Đức nào nhưng bà chỉ vào lọ cà phê cho tôi. Tôi cảm ơn bà và nói rằng
tôi muốn ngủ thêm – bằng cách đặt hai bàn tay xuống dưới đầu và nghiêng đầu nhắm
mắt. Oma Marta hiểu ra. Bà đi vào trong phòng khách kéo rèm cửa xuống cho tôi
vì từ lúc 7 giờ sáng, rèm cửa tự động được kéo lên. Sau đó, bà ra ngoài, đóng cửa
phòng lại và bây giờ chắc đang làm gì đó trong vườn hoặc ngồi sưởi nắng trên
xích đu trước hiên nhà với con chó Andrew. Vài phút nữa tôi sẽ ra xem oma đang
làm gì và chúng tôi sẽ uống trà. Nhưng bây giờ thì chưa. Bây giờ, tôi nằm trên
sofa viết những dòng này bởi vì it feels so damn good . Tôi muốn cố gắng
sống trong giây phút này càng lâu càng tốt.Một ý nghĩ vừa khiến tôi ngồi hẳn dậy để viết. Cái ý nghĩ đó
là thế này: giao tiếp không lời. Oma Marta không biết tiếng Anh và tôi không biết
tiếng Đức; tất cả những gì chúng tôi có chỉ là rất nhiều cử chỉ và những nụ cười.
Đôi khi, tôi phá ra cười vì tình trạng kì cục của hai chúng tôi: Oma đã ngoài
tám mươi nên thường xuyên quên rằng tôi không nói tiếng Đức, vậy là oma cứ nói
một tràng dài gì đó, khuôn mặt rất hào hứng chờ tôi trả lời, còn tôi thì hoàn
toàn không hiểu; vậy là tôi phải nói lại gì đó bằng tiếng Anh để có thể đoán…
và khi những nỗ lực phỏng đoán của chúng tôi đều thất bại thì tôi phá ra cười.Ý nghĩ thứ hai khiến tôi ngồi dậy viết những dòng này cũng
liên quan đến giao tiếp và ngôn ngữ. Cho đến nay, sau gần mười ngày ở châu Âu,
có lẽ những khoảnh khắc đáng nhớ nhất trong chuyến đi này lại là những khoảng lặng
yên. Tôi chắc sẽ cần phải xem lại ảnh và tra cứu sách mới nhớ ra các dữ kiện về
các công trình kiến trúc ở Rome, ở Berlin, ở Copenhagen, nhưng tôi chẳng cần bất
cứ phương tiện trung gian nào để nhớ lại lúc tôi nằm trên bờ bồn nước lớn ở khu
trung tâm Đông Berlin cũ, nhìn trời và thỉnh thoảng liếc trộm một đôi tình nhân
đang hôn nhau say sưa. Lúc ấy, tôi thấy hạnh phúc cho họ và hạnh phúc cho cả thế
giới nữa. Cứ như thể cả vũ trụ đang mỉm cười (giống tôi) khi thấy đôi tình nhân
trẻ hôn nhau. Hay như lúc tôi ngắm mặt trời lặn trên biển Baltic từ trong
khoang tàu Scandlines từ Copenhagen trở lại Đức. Và như lúc này… trong phòng
khách của oma Marta, nhìn ra khu vườn đầy lá của bà, nghe nhạc một chút trước
khi trở dậy ra sân bay đi Paris.Tối hôm đó, khi tôi từ Rostock lên, đã muộn rồi nhưng oma vẫn
làm salad cho tôi ăn tối. Bà làm rất nhanh; chỉ có hành tây và đỗ đũa xanh đóng
hộp trộn với dầu ăn, một chút muối, một chút hạt tiêu và gia vị gì đó – nhưng rất
ngon. Sau khi ăn xong, bà chỉ lên đồng hồ và xòe ngón tay đếm bằng tiếng Đức, rồi
nói “taxi” và “Schonefeld”. Ý bà nhắc tôi là 11 giờ sáng mai, taxi sẽ đến đưa
tôi ra sân bay Schonefeld đi Paris. Paris! Phải rồi, 8 giờ tối nay tôi sẽ có mặt
ở Paris rồi. Bây giờ tôi sẽ ra ngoài xem oma đang làm gì.10:45 sáng: Vừa ăn sáng với oma. Tôi không muốn ăn sáng và
tôi nhắc đi nhắc lại “No, no”, đồng thời lắc đầu để oma hiểu… nhưng bà lấy hết
thứ này đến thứ khác khỏi tủ lạnh và liên tục nói tiếng Đức với tôi với một vẻ
mặt vô cùng hớn hở vì sẽ được cho tôi ăn. Bà bày ra ba loại salami khác nhau,
thịt lợn xông khói, mứt quả, rồi bơ, bánh mỳ, nước quả… Khi tôi nhận ra rằng đồng
ý ăn sáng còn dễ hơn là giải thích với oma rằng tôi không muốn ăn, và việc tôi
ăn sáng sẽ làm oma vui lòng hơn nhiều lần sự lười biếng của tôi. Tôi cười, nói
“yes, yes, yes” với tất cả những thứ oma đưa cho tôi xem. Rốt cuộc, trên khay
ăn sáng của tôi có đủ bà loại Salami, thịt nguội, mứt, bơ, hai lát bánh mỳ nướng
và sữa. Tôi mang khay ra ngoài phòng sưởi nắng ngồi ăn. Còn oma, sau khi thuyết
phục được tôi ăn sáng thì vô cùng mãn nguyện đi ra ngoài vườn; bà không quên
khép cửa lại. Mấy phút sau, tôi nghe có tiếng động khe khẽ. Hóa ra oma đang cắt
cỏ.Bà di chuyển chậm chạp; cổ tay buộc một dải băng, hình như cổ
tay bà bị sưng. Tôi đi lại gần, nói với oma để tôi cắt giùm bà – bằng cách chỉ
vào tôi, rồi chỉ vào máy cắt cỏ và ra hiệu đẩy đẩy. Nhưng oma cười, lắc đầu, chỉ
xuống cỏ, rồi xuống chân và ống quần, rồi đẩy tôi vào trong nhà. Ý oma nói cỏ ướt,
tôi sẽ bị bẩn quần và chân, bà có thể hiểu được và tôi nên lo ăn sáng đi. Tôi
biết là không thể thuyết phục được một người Đức, nhất là một người đã sống qua
Thế chiến và Chiến tranh Lạnh, đã làm chủ một cửa hàng và sống một mình nhiều
năm như oma, nên tôi quay vào bàn ăn.Trên bàn có một tờ báo dày có chữ Berlin, tôi đoán chắc là thời
báo Berlin… trang đầu tiên có một tấm ảnh vệ tinh chụp cơn bão Gustav. Tôi cố gắng
thử đọc xem có hiểu gì không nhưng chỉ nhận ra vài từ như “Kubas” và “New
Orleans” còn lại thì chịu. Vừa lúc đó, oma mở cửa đi vào, tay cầm mấy bông hoa
cúc trắng nhỏ xíu. Bà lấy một bình hoa bằng xứ trắng cũng nhỏ xíu, bỏ mấy bông
hoa vào rồi đặt lên bàn ăn cho tôi. Vừa bất ngờ vừa cảm động, và vẫn còn đủ
minh mẫn để nhớ rằng mình không biết tiếng Đức, tôi làm hành động rất kỳ quặc:
tôi đứng lên vỗ tay và cười toe toét như một đứa bé. Giờ viết lại và tưởng tượng
bản thân lúc đó, tôi cũng buồn cười.Oma Marta mỉm cười, nói một câu gì đó có mấy từ nghe giống
như “ good good [13] ” trong tiếng Anh, đồng thời chỉ ra vườn.
Tôi đoán bà nói rằng hoa này bà ngắt trong vườn; tôi bất giác nói “ beautiful,
pretty [14] ”… rồi khi nhận ra oma không hiểu, tôi đặt tay lên tim.
Hành động này thì oma hiểu; bà cười rạng rỡ.[13] Tốt, tốt.[14] Đẹp quá.Oma Marta đã ngồi xuống ghế, với tay bật radio rồi bắt đầu
nói chuyện với tôi – bà lại quên là tôi không nói được tiếng Đức rồi. Nhưng
hình như ngay cả sau khi nhớ ra tôi không nói tiếng Đức thì oma cũng không phiền
lòng – bà chỉ cần một người để nghe chứ không cần một người để hiểu. Bà chỉ ra
cửa sổ rồi đưa tay lên xuống nhiều lần. Tôi tưởng oma nhắc đến cái rèm cửa sổ
hôm trước bị gãy rơi xuống, nhưng rồi bà với tờ báo trên bàn và chỉ cho tôi một
bức ảnh nhỏ bên dưới. Đấy là ảnh một đám mây có mưa và chữ Berlin với con số 23
độ C bên cạnh. Tôi nói “ vâng, mưa ”. Rồi bà giở sang trang sau, nói
“Paris” và chỉ vào một bức ảnh khác. Ngày hôm nay Paris sẽ nắng, nhiệt độ khoảng
21 độ. Tôi nói “ vâng, vâng….Paris good… Paris có nắng. ” Oma mỉm cười,
nói “ Paris good good .”Trên radio lúc đó, một giọng ca nam đang hát một bài tiếng Đức.
Oma bắt đầu lẩm nhẩm theo và nói tên của ca sĩ. Tôi không bắt được tên đầu
tiên, nhưng họ thì nghe giống như “Bjork”. Oma giải thích rằng đây là “oma
musik”, nhạc của thế hệ bà, rằng bà không nghe được cái “tekno musik” bây giờ,
nó làm bà váng đầu ( chỉ vào đầu ), đau cả tai ( chỉ vào
tai ) và toàn “chat xình chát chát bùm”. Tôi cười, nói với oma rằng đến
tôi cũng còn đau đầu khi nghe “tekno music”Thế rồi đột nhiên giọng Elvis Presley vang lên trên radio.
Tôi không nhận ra bài hát nhưng lập tức nhận ra giọng Elvis. Tôi nói “Elvis
Presley”. Trời ơi, mặt oma sáng lên và bà đặt một tay lên tim, nói “Elvis
Presley”. Trong lúc tôi đang nghĩ ra cách để nói rằng Elvis rất nổi tiếng ở Mỹ
thì oma đã đứng dậy và bắt đầu nói rất nhanh, hai má hồng lên, mắt lấp loáng,
miệng mỉm cười. Bà nói và làm bộ cho tôi hiểu rằng Elvis Presley rất nổi tiếng ở
Đức vì từng đến đây đóng quân thời chiến tranh và thế hệ của oma đã lớn lên
trong “ Elvis music ” và thần tượng Elvis.Và rồi, trong lúc liên tục nói tiếng Đức, oma bất thần hất đầu
vừa lắc hông, xoay đầu gối và khua tay giống hệt như các động tác lắc hông nổi
tiếng một thời của Elviss. Trời ơi, tôi không thể nhịn được cười. Tôi cười đến
nỗi trượt khỏi ghế, loạng choạng ngã xuống sàn nhà. Thật không thể tưởng tượng
được: oma Marta bắt chước Elvis Presley! Và bà nhảy đẹp! My oma, she got
the moves! Lúc còn trẻ, oma hẳn là một cô gái rất năng động và đẹp lắm.
Ngay lúc này, bất chấp làn da mồi và cổ tay bị sưng, trông bà giống như một cô
gái trẻ đang swing theo nhạc Elvis, vừa cười vừa nói tiếng Đức với tôi.Ă sáng xong, tôi mang khay vào trong bếp, bỏ các đồ ăn còn lại
vào tủ lạnh. Khi tôi đi ra, oma đang đứng trong phòng với hai cuốn sách rất
dày. Bà đưa cho tôi và ra hiệu rằng bà muốn tặng tôi. Đó là hai cuốn Illiad và Odyssey –
bìa cứng, bằng tiếng Đức và Hy Lạp cổ. Bà biết tôi viết truyện và tối hôm qua
đã khoe với tôi tủ sách nhỏ của bà trên gác xép – trên đó có Cuốn theo chiều
gió và một ít thơ. Bà bảo hồi Sơn sống với bà ở Berlin, anh ở trên cái gác
xép này và thường đọc sách đến khuya.“Cậu ấy rất hiền”, oma nói với tôi. “Lúc nào cũng đọc sách và
rất ít nói. Giờ cậu ấy còn hay đọc sách không?”Tôi nói có, Sơn vẫn hay đọc sách khuya. Buổi tối chúng tôi
hay nằm đọc sách cạnh nhau, và nói những chuyện vớ vẩn như:“Anh ơi, Lao Tsu là Lão tử, Sun Tzu làTôn tử, còn Lieh Tzu là
gì nhỉ?”(Nghĩ một lúc) “Không biết, chắc là Lợn tử.”Bao giờ tôi cũng bật cười vì những câu như thế; Sơn luôn nghĩ
ra những điều kỳ dị và bang bổ nhất để nói về bất cứ ai, không chừa bất cứ một
ai. Có lần tôi cười, bảo Sơn, “Sống với anh cứ như là sống dưới một loa phóng
thanh mà 24 trên 24 toàn nghe thấy tin xấu”. Sơn thì bảo tôi ngây thơ, nhìn cuộc
đời toàn màu hồng. Hai chúng tôi thực sự là hai thái cực. Nhưng tôi có thể tưởng
tượng Sơn nằm trên cái gác xép này đọc sách hồi anh mới hai mấy tuổi - và “rất
hiền”.Cái gì có thể xảy ra khiến cho những con người hai mươi trở
thành những con người ngoài ba mươi nhìn cuộc đời và con người như thể không
còn bất cứ cái gì thiêng liêng, không còn bất cứ cái gì đáng tin, mọi thứ đều
có thể báng bổ và “nhổ toẹt vào”? Bernard Shaw nói “Nếu anh không theo chủ
nghĩa cộng sản ở tuổi hai mươi, anh không có tim. Nếu anh không theo chủ nghĩa
tư bản ở tuổi ba mươi, anh không có óc”. Hay những xung đột giữa tôi với Sơn
đơn giản chỉ là như thế? Chúng tôi lấy nhau khi tôi đang giữa tuổi hai mươi còn
anh đã sang đến ngưỡng ba mươi? Và bây giờ, khi tôi bắt đầu sang tuổi ba mươi,
Sơn đã ở chỗ nào đó tôi không bắt kịp còn anh thì không thể nhớ lại và thông cảm?Tôi rất muốn nhận sách của oma nhưng tôi còn phải đi nhiều
trong ba tuần tới, mà hai cuốn sách to và nặng. Vậy là tôi buộc phải nói với
oma “ danke schoen ” nhưng tôi không thể mang chúng theo lần này, có
thể khi nào quay lại Berlin tôi sẽ lấy. Tôi nói bằng cách ra hiệu tôi đang kéo
va li và thở nặng nhọc, rồi xoa hai vai tôi và cúi xuống như thể bị hai cuốn
sách kéo. Oma hiểu ý; trông bà thật buồn… Oma bảo tôi cất hai cuốn sách lên
trên gác xép cho bà.Khi tôi từ trên gác xép xuống, taxi đã đợi bên ngoài. Ở cổng,
tôi hôn vào hai má của oma rồi lên xe. Xe đã chạy đến cuối đường mà oma vẫn còn
đứng ở cổng nhìn theo. Tạm biệt oma Marta. Tôi không biết có còn gặp lại bà hay
không. Năm nay bà đã hơn tám mươi và tôi thì không bao giờ muốn trở lại Đức. Danke
schone, oma [15] ! Chúc oma mọi điều tốt lành, dù bà ở đâu, trong cuộc
sống này hay cuộc sống khác, dưới mặt đất hay trên thiên đường.[15] Cảm ơn (tiếng Đức).Paris, ngày thứ nhất…Bây giờ là nửa đêm và tôi đang viết từ trong phòng ăn của
khách sạn. Tôi đang ở Paris. Phải rồi, tôi đang ở Paris. Tôi vẫn không thể tin
được. Cuối cùng tôi cũng đã đến Paris.Ahhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh!Chiều nay, máy bay xuống sân bay Orly lúc 6 rưỡi. Từ trên cao
nhìn xuống, lúc đầu, chỉ thấy những tòa nhà cao của khu hành chính ở ngoại ô
Paris, tôi đã nghĩ đến New York, Boston hay Chicago và hơi thất vọng. Nhưng rồi
máy bay đột nhiên đảo cánh và khi máy bay lấy lại thăng bằng thì, voilà ,
sông Seine đột nhiên hiện ra bên dưới cánh máy bay. Màu xanh thủy tinh non của
mặt nước và cái cách mà dòng nước uốn khúc lững lờ quanh các khu nhà mái xám và
những bóng cây dẻ… nghe thì sáo mòn nhưng quả đúng là một giấc mơ.Ahhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh!Xuống sân bay, tôi lấy hành lí, rồi ra quầy “Information” để
lấy bản đồ và hỏi cách đi tàu điện ngầm về khách sạn ở quận Bốn. Hướng dẫn tôi
là một thanh niên Pháp còn trẻ, tóc hạt dẻ hơi xoăn, khuôn mặt thanh tú, nói tiếng
anh với cách phát âm Pháp.“Ồ, grất dễ, grất dễ thôi mà”, anh ta mỉm cười kết luận.Còn tôi thì thầm kết luận rằng anh ta “ grất xinh, grất
xinh ”. Ước gì anh ta cứ nói nhiều nữa vào để tôi được nghe cái cách phát
âm Pháp đó nhưng anh ta đã lại mỉm cười, kết thúc cuộc nói chuyện bằng một câu
quen thuộc:“Bienvenue à Paris!” [16][16] Chào mừng tới Paris.That’s right, bébé ! Tôi đã ở Paris.Theo chỉ dẫn, tôi bắt tàu Orlyval chạy từ sân bay tới ga
Antony thì chuyển sang tàu RER B đi tới trạm Châtelex, lại chuyển sang tàu đỏ
chạy tới ga Gare de Lyon, rồi chuyển sang tàu vàng chạy tới trạm Thánh Paul thì
xuống [17] .[17] Sau này tôi mới nhận ra là tôi đã đi lòng vòng rất không
cần thiết.Kéo va li lên khỏi bến Thánh Paul, tôi thấy mình đứng trên vỉa
hè phố Rue de Rivoli lúc này tràn ngập ánh hoàng hôn cuối hè. Con phố không lớn
nhưng vỉa hè rất rộng, lát đá xám cổ. Hai bên phố là những căn nhà quét vôi
vàng nhạt, cửa chính và cửa sổ cao với những cửa sổ gác mái van vát. Ánh nắng
cuối ngày thắp sang những cửa hàng bánh mỳ, tiệm cà phê, restaurant san sát dọc
phố, sáng choang, thơm nức và dòng người đi bộ như một dòng sông không ngừng,
trong tình trạng chuếch choáng, tôi mất hết phương hướng, không biết mình nên rẽ
phải hay rẽ trái để đi về khách sạn. Nhìn quanh, tôi thấy một ông già đang đứng
dựa vào một chiếc ghế dài đặt dọc vỉa hè. Nhìn ông già, tôi lập tức nhớ tới một
cụm từ mà Victor Hugo dùng trong cuốn Những người khốn khổ “một vị tư
sản già sống bằng lợi tức thường niên” - tức là một quần kaki, sơ mi trắng bên
trong, áo vest thô bên ngoài, đội một chiếc mũ bê-rê của những người già Paris,
và chống một cây ba toong màu vàng. Vì trông ông có vẻ không phải làm gì ngoài
thưởng thức buổi chiều tối mùa hè Paris, tôi tiến tới lễ phép nói:“Bonsoir monsieur [18] …”[18] Chào ôngTôi mới nói đến đây thì “vị tư sản già sống bằng lợi tức thường
niên” đã lập tức nhăn mặt và quả quyết xua tay:“Non! Non!”Phải. Tất cả các sách du lịch đều đã cảnh báo tôi rằng người
Paris, nhất là người già, không ưa gì khách du lịch, nhất là khách Mỹ [19] ;
nhưng mà tôi rõ ràng không phải da trắng, cũng không mặc quần soóc, áo phông,
đi giày thể thao, bụng không có mỡ chảy xệ, và tôi cũng không có “chỉ trỏ cười
nói thô bỉ” như nhiều du khách Mỹ. Tôi sốc đến nỗi thành thật là tôi đã rơm rớm
nước mắt, đồng thời muốn thụi cho vị tư sản già một quả vào bụng. Sao mà tôi lại
ngu xuẩn và ngây thơ đến mức tin rằng tôi có thể đến Paris một mình và đinh
ninh rằng thành phố này có một chỗ dành cho tôi. Có lẽ Paris mà tôi mơ tưởng,
Paris của Hugo đã chết từ lâu rồi. Nghĩ thế, tôi lùi ra một quãng và cố thở đều
để lấy lại tinh thần rồi giở bản đồ với quyết tâm sẽ tự tìm lấy đường về khách
sạn thay vì trông chờ vào lòng tốt của dân Paris hoa hòe hoa sói.[19] Cũng không thể trách họ vì mỗi năm, Paris đón tới hơn 40
triệu khách du lịch, khiến cho thành phố trở nên quá chật chội bởi khách du lịch.Chắc trông tôi loay hoay với cái bản đồ rất tội nghiệp và hẳn
đã thấy tôi rơm rớm nước mắt nên Bụt lập tức hiện ra – dĩ nhiên là dưới vỏ bọc
một quý bà Paris ngoài sáu mươi tuổi, vô cùng thanh lịch. Đây hẳn là người phụ
nữ đẹp lão nhất mà tôi từng gặp: nước da bà trắng mịn, khuôn mặt thanh tú, tóc
bạch kim, vấn cao, bà mặc suit Chanel cổ điển màu sữa, tay đeo một cái túi da
màu đen, quấn khăn hoa nhỏ quanh cổ và mang nước hoa rất nhẹ. Bà đã đi ngang
qua tôi, rồi được vài bước bà quay lại, nói bằng tiếng Anh:“Mademoiselle, cô tìm gì?”Rút kinh nghiệm từ vị tư sản già, tôi lập tức “merci
beaucoup” trước và trình bày rằng thưa madam, cháu cần phải về khách sạn trên
phố Rue des Barres. Nói thật là lúc đó tôi nghĩ đến khách sạn thì ít mà ngỡ
ngàng vì lần đầu đối diện với “vẻ đẹp phụ nữ Paris” thì nhiều. Trong lúc tôi ngỡ
ngàng vì bà ( tôi xin gọi là Grand Dame cho dễ ) thì bà cũng ngỡ
ngàng không biết Rue des Barres nằm ở đâu. Tôi lại “merci beaucoup” và chờ
Grand Dame trả lại tờ giấy đặt khách sạn cho tôi nhưng, Chúa phù hộ bà, bà đã
bước lại phía vị tư sản già lúc nãy để trao đổi gì đó bằng tiếng Pháp. Nhìn bộ
dạng thì rõ ràng vị tư sản già cũng không biết phố Rue dei Barres ở đâu và cũng
không niềm nở gì với Grand Dame của tôi. Không nản lòng, Grand Dame lại đi hẳn
vào trong tiệm bánh ngọt gần đó để hỏi ( Trời phật phù hộ cho bà và các
con cháu chín đời của bà! ) Hai phút sau, bà quay lại với khuôn mặt thất vọng.“Sorry mademoiselle,” bà nói, “không ai biết phố Rue des
Barres ở đâu cả.”Thật may là lúc ở sân bay, tôi đã tìm ra phố này trên bản đồ,
tôi chỉ không biết nó nằm bên trái hay bên phải chỗ tôi đứng. Vậy là tôi chỉ nó
cho Grand Dame trên bản đồ.“ Voilà !” bà mỉm cười rạng rỡ. “Thế thì tôi biết rồi.”Bà bảo tôi đi về phía bên trái, cứ dọc theo Rue de Rivoli cho
tới khi gặp Rue Louis Phillipe thì rẽ trái.Cuối cùng thì tôi cũng tìm tới Rue des Barres. Trời ơi, thật
không thể tin; con phố chỉ dài chừng 100 mét, nằm giữa Rue Miron và một đại lộ
dài chạy phía bên kia. Phải, người ta đã nói Paris là thành phố đi bộ; và tôi
đã thuộc cả những trang mô tả các ngõ nhỏ Paris lúc Giăng Van Giăng đưa Cô-dét
chạy trốn Gia-ve, nhưng mà những đường phố của Paris thực sự có thể
nhỏ và đẹp đến mức này thì không ngờ.Ở sân bay Schonefeld, chuẩn bị đi Pari, tôi đã tra và tìm ra
phố Rue des Barres trên bản đồSau khi check in, tôi đi một cái thang máy bé tí xíu lên
phòng của tôi ở tầng ba. Tầng nhà ở đây đánh số từ 0 nên thực chất là tôi ở độ
cao của tầng bốn. Căn phòng tôi ở là phòng cho bốn người; chỉ chừng hai mươi
mét vuông với hai giường tầng, một bốn rửa và nhà tắm nhỏ… và lúc đó chưa có
ai. Tôi bỏ va li vào trong hốc tường, lựa một cái giường tầng trên rồi mở cửa sổ
ra và phải cố gắng lắm mới không hét lên…Ahhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh!Ngay ngoài cửa sổ, cách khoảng ba mét, là tháp chuông một nhà
thơ Gothic cổ kính; tưởng như chỉ cần với tay ra là chạm được vào những cái đầu
thú. Thắng từ cửa sổ phòng xuống mặt đất là một khoảng sân rộng lát gạch cổ
theo vòng tròn, ở đó các bàn cà phê lúc này chật người ngồi ăn tối. Tôi có thể
nghe rõ tiếng trò chuyện giọng Pháp, tiếng thìa dĩa chạm vào nhau và tiếng lanh
canh của các ly rượu. Nhìn ra xa, các nóc nhà Paris thấp đều nhau, kiến trúc
Pháp đặc trưng, mái xám, những cửa sổ cao, tường sơn vàng nhạt, tầng gác mái
hơi vát… và xa hơn nữa là một cái tháp nhọn quen thuộc, cộng với một mái vòm
tròn khả nghi. Có lẽ nào tôi đang nhìn thấy tháp nhọn phía sau của nhà thờ Đức
Bà và mái vòm của đền Pantheon? Không thể như thế được… nhưng mà rõ ràng…Ahhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh!Tôi cuống cuồng tắm gội, thay quần áo để ra ngoài ăn tối vì sợ
rằng các restaurant sẽ đóng cửa sau 10 giờ như ở Mỹ. Ra khỏi khách sạn 9 giờ 45
phút tối, tôi rẽ trái đi về phía có tháp nhọn khả nghi, cũng là phía có mấy nhà
hàng mà tôi nhìn thấy từ trên cửa số. Đi mấy bước chân đã tới con đường dài chạy
dọc một bờ tường và phía bên kia là một cái cầu bê tông hơi vòng lên. Nhưng mà
cầu bắc qua cái gì? Sông Seine? Không đời nào?Không cưỡng được tò mò, và quên cả nhiệm vụ đi tìm bữa tối,
tôi băng qua đường để tiến tới gần. Vừa qua khỏi đường, tôi vội đưa mắt nhìn xuống
phía dưới.Ahhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh!Đúng là sông Seine!La Seine !Thật không thể tin mình đang ở Paris, đang đứng đây mà nhìn
xuống sông Seine. Paris đang vào đêm sâu. Mặt nước trong bóng tối lấp lánh ánh
đèn vàng của những căn nhà hai bên sông và những đèn ánh sáng chạy dọc con đường
đi bộ sát mép nước. Trong cái tĩnh lặng của buổi đêm, có cảm giác sông Seine
đang chảy cho một mình tôi, để chào mừng tôi. Những hàng dương liễu dưới sông
thì thầm rằng chúng đã luôn chờ tôi tới.Tôi đừng đó không biết bao lâu mà tim vẫn đập thình thịch và
không ngừng lẩm bẩm “ Xin chào, xin chào, tôi đây, tôi đây !”Thật không thể tin được,Nhưng sau cùng, những thói quen sống cũng tóm được tôi và
chúng bảo tôi phải nhanh chân tìm chỗ ăn tối trước khi các nhà hàng đóng cửa và
tôi phải đi ngủ đói. Vậy là tôi băng ngược trở lại bên kia, đi theo con đường dọc
sông. Chỉ cách vài bước chân, tòa nhà Hôtel de Ville [20] sừng sững
hiện ra. Trước quảng trường nhỏ của Hôtel de Ville, tôi nhìn sang bên trái và lại
thấy một cái tháp khả nghi mà tôi đã thấy ở cửa sổ. Tôi rất muốn tới xem có phải
Nhà thờ Đức Bà không; nhưng rồi tự nhủ rằng tối hôm nay tôi đã thấy quá nhiều.
Vậy là tôi rẽ vào một quán Nhật, gọi bữa tối đầu tiên ở Paris gồm có sáu miếng
sushi cá hồi và nấm xào thịt nướng với pho mát. Sau đó, tôi đi bộ trở lại khách
sạn.[20] Tòa Thị chính Paris.Đã gần nửa đêm nhưng các restaurant dọc đường về và cả hai
cái restaurant ở khoảng sân cạnh khách sạn vẫn đông người ngồi ăn như thể buổi
tối chỉ mới bắt đầu và Paris sẽ không bao giờ đi ngủ. Trong phòng khách sạn,
người bạn cùng phòng đầu tiên của tôi đã tới: một cô gái trọc đầu đang nằm ngủ
sấp mặt trên giường tầng phía đối diện tôi: chăn đắp ngang lưng, chỉ để hở hai
cánh tay và phần gáy có rất nhiều hình xăm. Tôi rửa mặt, đánh răng, thay quần
áo, rồi xuống nhà. Lobby dưới tầng một tối đèn, chỉ có một người lễ tân da đen
đang ngủ ngồi trên ghế bành sau quầy (và ngáy rất to). Mặc dù tôi đi rất khẽ,
anh ta vẫn tỉnh dậy “ bon soir ”. Tôi không nhịn được mà hỏi cái tháp
chuông… cái tháp chuông phía bên kia sông Senie…, anh ta nói “Oui, the
Notre Dame [21] ”, rồi cười toe toét khi thấy tôi nhảy cẫng lên.[21] Đúng rồi, Nhà thờ Đức Bà.“ Oh man, tôi không thể tin được.”“Tin đi, mademoiselle,” anh ta cười to, rồi lấy bản đồ
chỉ cho tôi thấy . Phải, phải, tôi chỉ ở cách bảo tàng Louvre chừng
mười lăm phút đi bộ, cứ đi dọc Rivoli là tới, vườn Tuileries thì ở kế bên bảo
tàng và ngay đó là khu Coocotes đại lộ Champs – Elysees và Khải Hoàn Môn; còn
Pompidou ngay phía bên kia phố Rivoli; khu Latin thì cứ đi bộ dọc đại lộ thánh
Michel là tới… đền Pantheon thì ở ngay gần vườn Luxembourg… “Phải rồi,
mademoiselle, vườn Luxembourg… mademoiselle, mademoiselle, cô có nghe thấy tôi
nói không?”Tôi trả 2 euro để vào internet được hai mươi lăm phút từ cái
máy tính dưới quầy và email cho Sơn. Em đã đến Paris. Mọi việc đều ổn.Paris, ngày…Suốt cả đêm qua tôi đã để cửa sổ mở để lấy không khí bên
ngoài và nằm mơ màng nghe những tiếng giày vọng lên từ dưới phố. Sáng nay, khi
mở mắt nhìn ra ngoài cửa sổ, những nóc nhà xám của Paris và đám lá thường xuân
mướt mát xòa từ tường nhà vào bậu cửa lại một lần nữa làm tôi chuếnh choáng, và
không sao nhập được vào đầu cái ý nghĩ tôi đang ở Paris. Nhưng rồi, tiếng thở nặng
nhọc của cô bạn đầu trọc ở giường dưới đã giúp tôi có được niềm tin này. Hé đầu
nhìn ra, tôi thấy cô ấy vẫn nằm úp sấp đúng tư thế đêm hôm qua và đúng chỗ cũ,
không xe dịch một xăng-ti-met; hình như cô ấy không trở mình cả đêm, dù chỉ một
lần. Hẳn là người bạn cùng phòng của tôi vừa đi một chuyến rất xa và mệt. Đêm
qua, khi nhìn thấy người bạn đầu trọc người đầy hình xăm này, tôi có hơi lo
lăng. Tôi đã đi ngủ với ý nghĩ: trời ơi nhỡ cô gái này là sát thủ giết người
hàng loạt, nửa đêm cô ta sẽ chồm dậy, dí dao vào cổ mình thì sao? Hoặc cô ta là
dạng psycho đang bỏ nhà đi bụi, cô ta cũng sẽ chồm dậy… Nếu phải chết
vào đêm đầu tiên ở Paris thì thật là…Nhưng giờ, tôi vẫn còn nguyên đây và người bạn cùng phòng vẫn
đang úp mặt ngủ. Tôi sẽ để cho cô ấy ngủ tiếp, còn tôi thì phải xuống nhà ăn
sáng để còn ra ngoài Paris.Qua cửa sổ, sáng nay Paris nhiều mây xám, trông như sắp mưa.
Gió thổi mạnh, lay những hàng cây dọc sông Seine và khiến những người đi bộ bên
ngoài đều dựng cổ áo, rảo bước. Nhìn họ, tôi cũng muốn nhanh chóng ăn xong bữa
sáng để ra ngoài. Khách sạn này cho mỗi người một bữa sáng miễn phí gồm một cái
croissant, nửa cái bánh mì dài baguette, một cốc nước cam, một phần bơ, một phần
mứt quả, và một cốc nước để rót cà phê hoặc chocolate nóng. Tôi chọn chocolate
nóng, bỏ lại cái baguette. Mặc dù không có thói quen ăn sáng, nhưng biết hôm
nay sẽ đi bộ nhiều nên tôi cũng cố ăn hết cái croissant và uống cạn cốc
chocolate.Tôi cẩn thận đội mũ, quấn khăn, và mang theo một chiếc ô nhỏ.
Ở quầy tiếp tân, anh chàng da đen trực đêm tối qua nhận ra tôi nên toe toét cười:“Bonjour, mademoiselle. Hôm nay cô sẽ đi đâu?”“Nhà Victor Hugo,” Tôi nói.“ Trés bien … chúc cô một ngày tốt lành.”Trong rất nhiều ý nghĩa, Paris với tôi trước hết là thành phố
Victor Hugo và có Victor Hugo. Trước khi tới Paris tôi đã dự định sẽ dành buổi
sáng đầu tiên ở Paris để đi đến căn nhà mà Hugo đã sống cùng vợ trong mười sáu
năm. Căn nhà nằm ở khu Place de Vosges tại quận Bốn, cách khách sạn không xa.Nhưng tôi ra khỏi cửa được vài bươc, tôi đứng lại, rồi cứ từ
từ quay đầu hướng về phía Nhà thờ Đức Bà Paris. Tôi đã không thể cưỡng lại, như
thể có một bàn tay vô hình nào đó dẫn dắt. Vậy là tôi đi dọc con đường bờ sông,
băng qua cây cầu trước cửa Hôtel de Ville để tới Nhà thờ Đức Bà.Từ bên ngoài và từ đằng trước, Nhà thờ Đức Bà không mấy ấn tượng.
Hai tháp chuông và mặt tiền của nhà thờ có một vẻ trần trụi không ăn khớp với
tưởng tượng của tôi; do thế trông lại khang trang, sang sủa đáng thất vọng do
màu vôi sáng. Thêm vào đó, từ sớm và trời tuy lất phất mưa nhưng rất nhiều
khách du lịch đã xếp hàng và ngồi khắp quảng trường phía trước nhà thờ - tất cả
đều toach toách làm dáng để chụp ảnh khiến cho toàn bộ tưởng tượng mấy chục năm
nay của tôi về Nhà thờ Đức Bà cứ bị những cái chớp máy ảnh và những nụ cười nhiếp
ảnh xé nát.Trong nhà thờ hơi tối. Ánh sáng dường như chủ yếu có mục đích
làm nền cho hàng cửa sổ kính màu ở trên cao, còn bên dưới, những khuôn mặt làm
người chìm vào bóng tối và sự chờn vờn của những ánh nến thắp dọc hành lang. Đột
nhiên, Paris bên ngoài không còn tồn tại. Xung quanh, những người khách du lịch
đi lại rón rén; một số khác gục xuống những hàng ghế cầu nguyện; tiếng thì thầm
của khách và những tiếng cầu nguyện cùng với tiếng bước chân ầm ầm dưới những
mái vòm cao khiến cả nhà thờ có không khí của một nhà nguyện Trung cổ. Tôi ngồi
xuống một hàng ghế gần một cậy cao. Càng ngồi, tôi càng chìm dần vào một cảm
giác quen thuộc như thể tôi không phải khách du lịch ở đây; tôi là một người
quen ghé lại căn nhà cũ, nơi người chú mà tôi từng thân thiết đã chuyển đi từ
lâu nhưng cũng có thể bất thình lình ghé lại ngồi xuống cạnh tôi: “Xin chào, đã
lâu quá rồi phải không?”Sáng nay, khi đi ngang cây cầu phía trước Hôtel de Ville và
nhìn sông Seine lần đầu dưới ánh sáng ban ngày, tôi cũng có cảm giác đúng như
thế. Rằng bất thần, khi tôi đứng nhìn Paris trong thời tiết xe lạnh và hơi xám,
với những ngôi nhà trầm mặc đứng dọc hai bên bờ sông và những hàng liễu rủ dưới
kè sông, có thể nhà cách mạng già trong Chín mươi ba, hay một thanh
niên Sorbonne trong nhóm bạn ABC, mà cũng có thể người đàn ông cầm ô mặc áo
vest đen trong bức “Paris trời mưa” của Gustave Caillebotte [22] sẽ đến
đứng gần tôi mà thì thầm “ Xin chào, đã lâu quá rồi phải không?”Phải, đã lâu quá rồi.[22] Họa sĩ người Pháp, thuộc trường phái ấn tượng.Rời khỏi Nhà thờ Đức Bà, tôi đi dọc con đường chạy ngang mặt
nhà thờ, băng qua đại lộ chạy dọc bên kia sông Seine, rẽ trái, và bắt đầu lạc
vào một mê lộ những con đường nhỏ mang không khí phố cổ Hà Nội, chỉ có điều là
kiến trúc Pháp hoàn toàn sạch, đẹp hơn nhiều. Tôi cố gắng nhớ tên Rue nọ Rue
kia để xem tôi đã đọc thấy chúng trong sách chưa, nhưng nhanh chóng đầu hàng vì
quá nhiều đường phải nhớ, quá nhiều thứ phải nhìn… Sau một lúc, tôi hoàn toàn lạc
đường, nhưng hoàn toàn hạnh phúc. Tôi đang ở trong khu Latin – khu vực bao
quanh Đại học Sorbonne ngày xưa, trung tâm của Paris cổ. Khắp nơi tôi nhìn, những
quán cà phê san sát, những cái bàn nhỏ và ghế đặt từng đôi dọc vỉa hè, và khách
ngồi ngập các quán, uống cà phê trong những cái chén nhỏ xíu khác hẳn ở Mỹ, và
hút thuốc và nói chuyện như thể họ có tất cả thời gian trên đời. Và tôi phải
công nhận, người Paris đẹp, ít nhất là ở khu Latin này.Bây giờ thì tôi đang ngồi trong nhà hàng của vườn Luxembourg,
gần lối vào từ đại lộ Thánh Michel. Nhà hàng ở ngoài trời, hầu hết bàn được đặt
dưới những bóng cây, có dù che nhưng lúc này các cây dù đều được cụp lại. Người
bồi bàn vừa mang bữa trưa của tôi ra. Bữa trưa có thịt bò bourguignon [23] ,
mấy củ khoai tây luộc còn để nguyên cả củ, và hai lát bánh mì trắng cùng một miếng
bơ. Lúc này, mặt trời đột nhiên ló ra sau những đám mây và một cơn gió nhẹ thổi
xuyên qua những hàng cây cổ thụ xanh lá, đuổi cát và lá khô chạy thành một cơn
sóng dưới mặt đất. Ánh nắng chiếu qua những tán lá rộng đung đưa, làm cho những
bóng nắng dưới đất liên tục nhảy múa. Một ngày mùa thu tuyệt vời. Tôi tháo khăn
khỏi cổ, và ngồi đó ăn bữa trưa đơn giản, một mình giữa những người Paris xa lạ
mà hạnh phúc không sao tưởng nổi. Tôi xắt những củ khoai tây mềm thành những miếng
nhỏ, tưởng như đang xắn vào những khối hạnh phúc, rồi nhúng chúng vào nước xốt
thịt bò hầm và để cho những miếng hạnh phúc tơi trong miệng thành triệu triệu hạt
sung sướng.[23] Thịt bò hầm với rượu vang, một món truyền thống của
Pháp.Lúc này, trong nhà hàng cũng như trong vườn có rất nhiều người.
Một số ngồi trên những chiếc ghế sắt xanh nhạt tranh luận, một số đọc sách
( và nhìn bìa sách thì có thể đoán chúng là sách triết học, khoa học, thơ,
tiểu thuyết nghiêm túc chứ không phải loại sách đọc giải trí mà người Mỹ hay
mang ra công viên hoặc bãi biển đọc trong lúc tắm nắng). Một số người đang
hí hoáy viết trên những cuốn sổ nhỏ; một số thì cưỡi lừa (không hiểu lừa ở
đâu ra); một số chơi tennis hoặc cầu lông; những ông già thì chơi cờ dưới
một cái nhà bát giác có mái. Quanh bồn nước lớn, những đứa trẻ nặn cát; nghịch
nước, đua thuyền buồm; những người cha vừa ăn trưa vừa tỉ tê nói chuyện với
con; những đôi vợ chồng già thì ngồi yên lặng cạnh nhau, mặt cùng hướng về mặt
trời. Rất đông thanh niên trẻ, chắc từ trường Đại học Sorbonne và các trường Đại
học quanh đây – họ ngồi từng nhóm cười đùa, nói chuyện và hút thuốc trong lúc mấy
đứa trẻ cứ đạp vòng vòng quanh bồn nước… như thể Paris đã tiếp diễn thế này từ
thế kỷ XVIII, XIX… và thời gian cứ thế trôi…Sau bữa trưa, tôi đi loanh quanh trong vườn, ghé chỗ này một
tí, chỗ kia một tí, xem các ông già ném bi sắt, nghe lỏm những câu chuyện tiếng
Pháp tôiTrong vườn có rất nhiều người. Một số ngồi trên những chiếc
ghế sắt xanh nhạt tranh luận, một số đọc sáchkhông hiểu chỉ để mà nghe, ngắm những dáng người ngồi yên lặng
trong vườn… rồi khi cảm thấy rằng tôi cần để dành vườn Luxembourg cho những lần
tới nữa thì tôi ra khỏi vườn bằng cổng trên phố Rue de Vaugirard, tôi nghe lỏm
được câu chuyện tiếng Anh của hai phụ nữ Mỹ; họ vừa tra bản đồ vừa bàn nhau
cách đi tới tháp Eiffel rồi bước đi quả quyết. Vậy là tôi đi theo bọn họ, nhưng
chẳng mấy chốc, tôi mất dấu vì họ bước quá nhanh và cứ theo đúng chỉ dẫn mà đi,
còn tôi thì cứ la cà nhìn hết cái nọ cái kia trên phố… và ngẩn ngơ như một kẻ dở
hơi.Ở góc giữa Boulevard Raspail và Rue de Babylone, tôi nhìn thấy
một cô gái trẻ mảnh mai, tóc hạt dẻ rối bời đang úp mặt vào tường, hai tay che
mặt khóc nức nở một cách hồn nhiên. Có cái gì đó rất Paris trong cảnh này – một
sự bồng bột, bốc đồng, và hồn nhiên Paris mà tôi không nghĩ mình có thể gặp ở Mỹ,
Đức hay Việt Nam. Những người Paris khác đi qua cô gái với vẻ thản nhiên như thể
họ thấy điều đó quá thường xuyên; trong khi đó tôi và hai người phụ nữ Mỹ thì
không sao thản nhiên được. Chúng tôi đưa mắt nhìn nhau rồi cùng bước lại phía
cô gái. Người già hơn trong số hai người kia hỏi cô gái bằng tiếng Pháp:“Cô có làm sao không? Chúng tôi có thể giúp gì cho cô không?”Cô gái quay lại nói: “ Non non merci ” nhưng liền
đó tuôn ra một tràng dài tiếng Pháp. Cô tiếp tục khoa tay và hồn nhiên kể qua
hàng nước mắt một câu chuyện gì đó với hai người phụ nữ kia; câu chuyện có vẻ
liên quan đến một người bạn trai đã làm cô đau lòng. Ngay cả trong lúc khóc nức
nở, hai má đầm đìa nước, mặt hồng lên vì kích động, và tóc tả tơi, trông cô gái
Paris này quá quyến rũ. Tôi không hiểu chàng trai nào làm cô đau lòng đến thế.
Nếu tôi là đàn ông, tôi sẽ ôm lấy cô mà an ủi. Thực ra lúc này tôi cũng muốn
làm việc như vậy nhưng tôi để phần đó cho hai người phụ nữ đứng tuổi.Trên phố Rue de Bac, tôi dừng lại mua một cái thẻ điện thoại,
nhưng lý do lớn hơn là để chiêm ngưỡng cái sạp báo và tạp chí nhỏ giữa đường; ở
đó báo và tạp chí được sắp xếp như một công trình nghệ thuật sắp đặt hoàn hảo;
nhưng tuyệt nhất là cái cách người đàn ông bán báo đứng tuổi ăn mặc chỉn chu,
đeo cà vạt, mang nước hoa trong lúc bán báo, và luôn miệng nói chuyện với những
người khách ghé vào mua báo như thể họ đã quen nhau lâu lắm rồi và câu chuyện họ
nói là một câu chuyện vĩnh cửu. Tôi đứng đó nghe cái dòng đối thoại liên tu bất
tận mà tôi chỉ hiểu vài chữ lõm bõm “Oui”, “D’accord”, “Voilà”, xen
những tiếng cười và những cái vung tay. Trên phố Rue de Varenne, tôi đứng lại ở
những cửa hàng bánh ngọt đế ngắm những cái bánh đẹp đến mức khó tưởng tượng là
người ta nỡ ăn chúng, rồi không dừng được mà mua một cái tiramisu và tiếp tục
ngẩn ngơ nhìn người chủ cửa hàng cẩn thận cho vào trong một hộp giấy nhỏ, thắt
một chiếc nơ bên ngoài, rồi bỏ vào một cái túi giấy cho tôiChao ôi là sự công phu và kiều diễm trong từng chi tiết của
cái đời sống Paris. Cái tinh thần lãng mạn Paris không nằm trong sự bay bổng của
tình yêu hay trong nghệ thuật, mà mấu chốt của nó là ở niềm tin chắc chắn của
người Paris rằng cái đẹp cần thiết cho cuộc sống, và người Paris theo
đuổi cái đẹp ấy với sự kiện định như người Mỹ theo đuổi thực dụng, hoặc người
Việt Nam theo đuổi… thực sự thì tôi không chắc người Việt Nam theo đuổi cái gì.Tôi lại bắt đầu lẫn đường. Tháp Eiffel có vẻ ngay trước mặt
mà đi mãi không tới. Hai sinh viên Mỹ đến từ Philadelphia thấy tôi loay hoay giở
bản đồ ra tra thì hỏi thăm và bảo với tôi rằng tôi đã đi sai đường nhưng gần
đây có bảo tàng Rodin. Vậy là tôi một lần nữa bỏ dở kế hoạch tới tháp Eiffel để
rẽ vào bảo tàng Rodin và một lần nữa, lại chuếnh choáng say sưa vì tượng.Rời khỏi bảo tàng Rodin lúc 4 giờ chiều, tôi đi ra đại lộ
Invalides. Ngày đang bắt đầu tàn; tôi ngồi trên bờ tường thấp xung quanh điện
Invalides ăn cái tiramisu dưới ánh nắng ấm của ngày đầu thu. Trước mặt tôi là
đường Tocqueville và sau lưng tôi là điện Invalides – nơi chứa hài cốt của một
số nhà cách mạng và những người anh hùng đã hy sinh vì nước Pháp, bao gồm cả
Napolêon. Tôi nghĩ đến cuốn Dân chủ của Tocqueville và hiểu chính là ở
Paris chứ không ở đâu khác mới có thể khởi đầu cuộc đại cách mạng tư sản, mới
có những nhà triết học, nhà chính trị, nhà văn, và tư tưởng như Tocqueville,
Hugo, Zola… Paris cho họ tinh thần để làm điều đó.Thật may mắn khi tôi được ở Paris vào lúc này.Vào lúc này không có bất cứ thứ gì khác mà tôi cần làm ngoài
việc nằm trên bờ tường thấp này, nhìn lên trời, và để cho nắng cuối ngày, và những
cơn gió nhẹ, và Paris, ngấm vào tôi.Trở về phòng sau ngày đầu tiên, tôi thấy cô gái đầu trọc vẫn
đang nằm trên giường y như đêm qua và sáng nay. Có điều, cô ấy không ngủ. Khi
thấy tôi, cô ấy nói “ Bon soir ”, rồi cười. Vậy là chúng tôi làm
quen. Fracesca không nói tiếng Anh, còn tôi thì không biết ngoại ngữ nào khác
ngoài tiếng Anh. Cuộc nói chuyện lộn xộn tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Ý bồi của
chúng tôi diễn ra thế này:Fracesca: “You name?”Tôi: “Ruby [24] . And you?”[24] Nếu bạn ở Mỹ lâu và đã chán việc cứ phải đánh vần tên tiếng
Việt của bạn khi người ta hỏi bạn tên gì, thì bạn cũng sẽ như tôi chọn một cái
tên tiếng Anh để trả lời những người xa lạ.Fracesca: “Francesca.”Tôi: “You work?”Francesca: “Nurse. You?”Tôi: “Etudiant.”Francesca: “Ah, where you from?”Tôi: “America. Where you from?”Francesca: “Milan. You how old?”Tôi: “30. You how old?”Francesca: “33” ( giơ ba ngón tay ra hai lần ) [25]Sau đó, chúng tôi kể xem ngày hôm nay chúng tôi đã làm những
gì.[25] Tên gì? Ruby, còn chị? Francesca. Chị làm gì? Y tá, còn
chị? Sinh viên? À, chị từ đâu tới? Mỹ, chị thì sao? Milan, chị bao nhiêu tuổi?
30, còn chị? 33.Francesca: “Me go Montmartre. Where you go?”Tôi: “Notre Dame, Pantheon, Rodin Museum, Invalides.”Francesca: “Ah, beaucoup. Bien.”Tôi: “Yes, beaucoup walking.”Francesca: “Huh?”Tôi: “Beaucoup walking… walking… đi bộ” ( lấy hai ngón
tay làm động tác đi bộ trên mặt bàn ).Francesca: “Ah…”Tôi: “Chị làm gì… hừm… tôi, Notre Dame, Muser Rodin… nhìn, ngắm
nhìn ( mắt lơ láo nhìn lên trần nhà và quanh phòng) … chị thì sao?
Shopping?”Francesca: “Ah, non non… Tôi, nhà thờ Sacré-Coeur.”Tôi: “Bảo tàng Salvador Dali [26] ?”[26] Bảo tàng trong cùng khu đồi Montmartre, cạnh nhà thờ
Sacré-Coeur.Francesca: “Non non… vẽ… vẽ chân dung… tôi chân dung…”Tôi: “Chị chân dung? Ở Montmatre?” ( Tôi tưởng là chị ấy
tới Montmartre và để cho các nghệ sĩ đường phố vẽ chân dung. )Francesca: “Non, ở Italy… tôi bức tranh.”Tôi: “Chị bức tranh?”Francesca: “Yes, tôi bức tranh.”Khổ quá, ý Francesca là ở Milan, chị ấy cũng vẽ tranh. Chúng
tôi tiếp tục nói chuyện theo cách đó – lẫn lộn tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Ý bồi
và rất nhiều cử chỉ. Thế nào mà chúng tôi cũng kể được cho nhau nghe xem mình
có mấy anh chị em ( Francesca có một chị gái đang có một đứa con chín
tháng tuổi ). Tôi hỏi Francesca chị đã ăn tối chưa ( lấy tay và vào
miệng ); Francesca nói ăn rồi và hỏi tôi ăn chưa. Tôi nói “non non, no
dinner”; chị mở túi đưa cho tôi hai cái bánh cam.Chúng tôi đang ăn bánh thì cửa phòng bật mở toang và một cô
gái Hàn Quốc khệ nệ lôi hai cái va li lớn vào phòng. Thấy chúng tôi, cô gái vừa
cười vừa thả cho hai cái va li rơi xuống sàn. Đấy là một cô gái Hàn quốc điển
hình: tóc dài ép thẳng; mặt trang điểm như sứ trắng, trông hiền lành. Cô gái ngồi
phịch xuống một giường còn trống, tự giới thiệu mình tên là Julia. Vậy là chúng
tôi bắt đầu một cuộc nói chuyện tay ba trong đó Francesca bập bõm tiếng Pháp,
Julia nói một ít tiếng Anh còn tôi nói tiếng Anh với một vài từ tiếng Pháp. Thế
mà chúng tôi vẫn nói được đủ thứ chuyện phiếm, như chuyện diễn viên và cầu thủ
ưa thích. Francesca thích Al Pacino và Robert de Niro. Julia thì thích Brad
Pitt và Orlando Bloom. Tôi tranh thủ nói với Francesca về sự hâm mộ của người
Việt Nam một thời với bóng đá Ý, nhất là Roberto Baggio.Tôi: “Roberto Baggio. World Cup. On television. Baggio đẹp
trai. Vietnam like Baggio.”Francesca: “Baggio đẹp trai? No no. Baggio no đẹp trai.”Tôi: “Baggio no đẹp trai? Nhưng Baggio football bien. Très
bien.”Francesca: “Oui, Baggio football bien. Nhưng I love you non
Roberto Baggio. I love you non noir hair ( chỉ vào tóc ). No Europe
sud. No Mediteranian.”Ý Francesca là Roberto Baggio đá bóng hay thật nhưng mà không
đẹp trai; chị ấy không thích Roberto Baggio; chị ấy không thích đàn ông tóc đen
và bóng nhẫy như đàn ông Nam Âu hay đàn ông ở vùng Địa Trung Hải. Tôi dịch lại
cho Julia hiểu.Julia ( quay sang Francesca ): “What you like [27] ?”[27] Chị thích kiểu gì?Francesca: “Me like hair blonde ( chỉ vào tóc ). Me
like eye blue ( chỉ vào mắt ). Nord Europe, Switzeland. Sweden.”Vậy là Francesca thích đàn ông Bắc Âu tóc vàng mắt xanh. Ví dụ
đàn ông Thụy Sĩ hay Thụy Điển. Đến đây, như mọi cuộc nói chuyện giữa các cô
gái, câu chuyện quay về tình yêu và hôn nhân.Francesca ( hỏi tôi ): “You boy [28] ?”[28] Em, con trai?Tôi: “Huh?”Francesca: “You boy?... hmm… boyfriend? You boyfriend? [29] ”[29] Em, con trai? Hửm… bạn trai. Em, bạn trai? Có bạn trai?Tôi: “Ah, boyfriend, me no boyfriend. Me husband… Husband in
America [30] .”[30] À, bạn trai. Không, em không bạn trai. Em có chồng… chồng
đang ở Mỹ.Julia: “Wow… You husband? You young [31] .”[31] Wow, em có chồng? Em trẻ.Tôi: “Me young? No no, me no young. Me 30. Francesca 33. You
how old? [32] ”[32] Em trẻ? Không không, em không trẻ. Em 30. Francesca 33.
Chị bao tuổi?Julia ( phá lên cười, lấy tay che miệng ): “No no,
me not tell [33] .”[33] Không không, chị không nói đâu.Julia dứt khoát không chịu nói tuổi (nhưng tôi đoán ít nhất
cũng bằng Francesca).Tôi hỏi Francesca điều mà tôi tò mò từ hôm qua:“You no hair [34] ?”[34] Sao chị không có tóc?Đến đây thì Francesca cười buồn buồn, nói rằng chị không có
tóc vì đang phải hóa trị và xạ trị bệnh ung thư vú. Đợt này chị đang có một
quãng nghỉ giữa hai kỳ điều trị nên tranh thủ đi du lịch; khi trở lại Milan, chị
sẽ lại phải tiếp tục một đợt điều trị mới. Chị không biết là còn sống được bao
lâu, có thể chị sẽ khỏi hẳn mà cũng có thể không; Francesca đã quyết định là chừng
nào còn có thể đi lại được thì sẽ đi thăm tất cả những nơi chị muốn, đề phòng
khả năng không còn nhiều thời gian.Cả tôi và Julia đều nói chúng tôi rất tiếc và chúc chị mọi điều
tốt lành. Tôi nói, Francesca, trông chị còn rất khỏe mạnh, da chị rất sáng và đẹp,
không giống người ốm tí nào. Francesca cười, nói rằng da đẹp phải như da của
Julia. Julia nói trời ơi, để có được làn da này vất vả lắm, giá mà chị có làn
da trắng tự nhiên như Francesca thì đã đỡ biết bao; chứ con gái Hàn Quốc phải học
dưỡng da từ lúc bốn, năm tuổi và mỗi tối trước khi đi ngủ phải mất cả tiếng để
làm các thủ tục dưỡng da. Chính vì thế mà mỗi lần đi du lịch, chị phải lôi theo
cả đống va li to đùng ( chỉ vào hai cái va li trên sàn nhà ). Julia mở
cả va li cho chúng tôi xem. Bên trong va li lỉnh kỉnh các loại hộp, chai, lọ,
tuýp đựng các loại kem, dầu, phấn dưỡng tóc, dưỡng da… cho từng bộ phận… kem
riêng cho da cổ, vài loại cho da mặt, vài loại cho mắt, cho vùng chữ T, cho
môi, cho cả tai, kem làm trắng da, kem chống nếp nhăn, kem giữ ẩm, kem giữ da
săn, kem chống tàn nhang, vân vân… Julia còn mang theo những lọ dầu gội và dầu
xả to, cộng với sữa tắm, thuốc xịt côn trùng và rệp; máy sấy tóc; năm, sáu đôi
giày dùng cho các trang phục khác nhau và ngồn ngộn quần ao. Tôi nói tôi chỉ có
mỗi một cái va li nhỏ và túi xách tay.Julia không tin, bắt tôi mở va li cho xem. Tôi mở ra: tôi chỉ
có cả thảy ba cái quần bò, vài cái sơ mi; hai đôi giày trong đó một đôi đang
đi… Tôi chỉ mang một lọ dầu gội đầu nhỏ mà tôi dùng luôn làm sữa tắm khi đi du
lịch. Chỉ có thế thôi, chẳng có gì khác cả.“Thế túi mỹ phẩm của em đâu?” Julia không tin nổi.Tôi cho Julia xem: tôi chỉ có một cái túi lớn hơn cái bao
kính một chút, đựng một lọ kem dưỡng ẩm nhỏ, một hộp phấn nền, một hộp phấn má
nhỏ, một thỏi son môi, một cái bút chì mắt, chấm hết. Julia liên tục “wow, wow”
– tôi không biết chị ngưỡng mộ hay sốc khi một cô gái có thể chỉ có từng ấy thứ
đồ mỹ phẩm.“Me nothing!” Francesca nói. “No hair. No makeup. No
care [35] .”[35] Tôi chẳng có gì cả. Không tóc. Không mỹ phẩm. Không quan
tâm.Francesca đúng rồi. Nếu tôi bị ung thư, tôi chắc cũng không
quan tâm đến mỹ phẩm, thời trang nữa. Sự hiện hữu của cái chết sẽ làm chúng ta
nhận rõ cái gì thực sự cần, cái gì không cần. Nhìn Francesca, tôi lại nghĩ, dường
như quá nhiều người trong chúng ta chỉ làm điều mà chúng ta thực sự muốn khi bị
dồn vào bước đường cùng, khi có một cái hạn cụ thể cho sự tồn tại. Còn bình thường,
ta phó mặc cho những ước mơ cứ thế chết dần chết mòn trong cái thường nhật và sự
nhạt nhòa của thời gian.Paris, ngày…Sáng nay, tôi tỉnh dậy lúc 7 rưỡi. Bên ngoài, trời sầm sì u
ám. Kính cửa sổ phủ một lớp hơi nước dày, không sao nhìn được ra ngoài. Julia
đã ra khỏi giường, vừa lục cục mở hành lý vừa thở nặng nề như người hen suyễn.
Mũi và họng Julia chắc chắn đã tắc. Tôi hỏi Julia có muốn tôi đánh cảm cho
không, Julia đồng ý… nhưng tôi chỉ mới bôi xong dầu cao và bắt đầu miết tay từ
thái dương vào sống mũi thì Fulia đã kêu “ái… ái…” và bảo tôi dừng lại vì đau.
Tôi nói phải đau thì mới tốt và tôi đang cố gắng trục khí độc ra khỏi Julia… À,
nhưng Julia là một cô gái Hàn Quốc mẫu mực, và giống tất cả các cô gái Hàn Quốc
mẫu mực, chị cảm ơn tôi đã có ý giúp đỡ nhưng Julia sẽ kiếm cách gì đó đỡ bạo lực
hơn. Như ngủ chẳng hạn. Vậy là Julia lên giường đi ngủ còn tôi đi bộ ra Nhà thờ
Đức Bà để leo tháp chuông.Bên ngoài Paris không mưa và cũng không lạnh nhưng ẩm ướt và
nhiều mấy xám. Vừa băng qua con đường chạy dọc sông, tôi lập tức phát hiện ra một
điều: hóa ra những cái thùng lớn màu xanh lam đóng kín đặt dọc sông Seine mà
tôi tưởng là thùng rác lại là các quầy bán sách và đồ lưu niệm. Hôm qua, vì trời
mưa nên các “cửa hàng” đều đóng cửa. Còn hôm nay, có một dãy quầy sách cũ mở ra
ở ngay chỗ tôi sang đường.Tất cả sách đều bằng tiếng Pháp. Có một số tên quen thuộc đập
ngay vào mắt như Aragon, Jean-Paul Sartre, Mallarmé và một hàng dài tác phẩm củaHóa ra những cái thùng lớn màu xanh lam đóng kín đặt dọc sông
Seine mà tôi tưởng là thùng rác lại là các quầy bán sách và đồ lưu niệmAndré Malraw. Tôi đang cố đoán tên một số cuốn và nhìn lướt để
tìm xem có cuốn tranh mỏng nào về Rodin không thì một monsieur khoảng
ngoài sáu mươi tuổi bước lại. Monsieur cao dong dỏng, mặc áo sơ mi trắng bên
trong, áo gió xanh nhạt bên ngoài, thắt cà vạt, đội một cái mũ Paris và, tất
nhiên, có mang nước hoa. Khuôn mặt monsieur có một vẻ hài hước và thân thiện mà
thoạt nhìn cũng nhận ra.“Bonjour petite mademoiselle [36] ,” monsieur mỉm
cười.[36] Chào cô gái bé nhỏ.“Bonjour,” tôi đáp lại và chuẩn bị bỏ đi vì từ xưa tới nay những
người bán hàng hầu như luôn làm tôi sợ (hệ quả của thời bao cấp với các cô bán
hàng mậu dịch mặt lạnh).Nhưng tôi vừa dứt tiếng “Bonjour” thì một suối tiếng Pháp lập
tức thánh thót tuôn ra, cộng với một cái khoát tay duyên dáng trên những cuốn
sách, ra ý “Mademoiselle nhìn xem, những cuốn sách mới đẹp làm sao” (tôi hoàn
toàn đồng ý). Tôi lập tức đoán monsieur là người bán sách nên giải thích với
monsieur rằng tôi “non parle Francais”, tôi chỉ xem thôi chứ không mua vì,
vâng, một lần nữa, tôi “non parle Francais”. Tôi tưởng là giống như những người
bán hàng Mỹ, monsieur sẽ lịch sự mỉm cười rồi lảng ra tìm khách hàng khác;
nhưng không, monsieur vẫn mỉm cười và nói một tràng dài đại ý mời mademoiselle
cứ thoải mái xem đi, “ pas de problème, pas de problème ”.Cung kính không bằng tuân mệnh. Tôi chiêm ngưỡng các cuốn
sách thêm khoảng nửa phút cho phải phép. Rồi khi ngẩng lên định “merci, au
revoir” thì trước mặt tôi monsieur đã đứng sừng sững, tay cầm một cuốn sách nhỏ,
đồng thời ra hiệu cho tôi chờ. Tôi kịp liếc bìa sách: một cuốn thơ của Paul
Verlaine. Tôi đang đoán là monsieur muốn gạ tôi mua cuốn thơ thì monsieur đã lật
lật vài trang và ngoắc tay cho tôi ghé lại gần. Tôi lại cung kính tuân mệnh. Lập
tức bên tai tôi vang lên những khổ đầu của một bài thơ có tiêu đề “ Chanson
l’automne [37] ”:[37] Khúc hát mùa thu , hay còn được dịch là Thu
ca.Les sanglots longsDes violonsDe l’automneBlessent mon coeurD’une lanheurMonotone [38][38] Bài thơ này từng được dịch là Thu ca: “Đàn ai nức nở. Nhạc
thu ngân dài. Điệu buồn buồn mãi. Lòng tôi ai hoài.” (Theo tham khảo trí nhớ một
người bạn, không tìm được tên dịch giả).Tôi vừa mơ màng thưởng thức những lời thơ du dương vừa nghĩ:
“Bỏ bố!”Quả thực là tôi quá bất ngờ. Cái phần lãng mạn trong tôi thì
lơ lửng trên mây; phần trẻ con thì cười khúc khích; cái phần một phụ nữ Việt
Nam đã lớn lên cũng những chương trình “ kể..ể..ể chuyện cảnh giác ”
vào các tối thứ Bảy hàng tuần suốt những năm 1980 thì ngồi phắt dậy nghe ngóng,
trong khi cái phần lý tính và thực dụng mà người Mỹ đã dạy cho tôi trong tám
năm qua thì chống cằm “hừm, hừm, ông này muốn gì ở mình?”. Các phần còn lại thì
vẫn đang bất tỉnh nhân sự vì bất ngờ.Tôi còn đang chới với trong mớ hỗn độn các cảm giác thì nghe
monsieur hỏi tôi có “ cảm ” được đoạn thơ này không. Tôi định thần lại
rồi trả lời rằng tôi chỉ “ cảm ” một số từ thôi, ví dụ như “ mon
coeur ” là “trái tim của tôi”, “ mots ” là “từ” ( như trong
bài Michelle của The Beatles: “Michelle, ma belle, sont des mots qui vont très
bien ensemble” ), “ automne ” thì chắc là “mùa thu” giống từ
“autumn” trong tiếng Anh, “ monotone ” là “đơn điệu” còn “ violon ”
thì, chậc, là violon. Thế nhưng toàn bộ khổ thơ nghĩa là gì thì tôi chịu.
Monsieur bèn vui vẻ giải thích cho tôi từng câu thơ bằng một thứ tiếng Pháp pha
tiếng Anh bồi. Rút cục thì tôi cũng hiểu đại khái khổ thơ này nói rằng mùa thu
réo rắt những cây violon của nó, khiến cho trái tim người ta não nề.“Toi chi muon đọọc dững cau thơ nay choa iem,” monsieur nói.Nhìn khuôn mặt monsieur có vẻ rất thành thực thích thú việc đọc
thơ này. “Wow, thì ra đây là cái mà người ta gọi là sự lãng mạn Pháp”, tôi nghĩ
thầm với một sự thán phục và cảm động trong lúc phần lãng mạn thắng tuyệt đối
phần cảnh giác. Nhưng vì cũng không có ý định mua sách gì, tôi “merci, merci
beaucoup” và nói rằng đã đến lúc tôi phải đi.Hoặc là monsieur không hiểu tôi nói gì hoặc có hiểu mà tảng lờ
vì tôi vừa dứt lời thì monsieur yêu cầu “petite mademoiselle” hãy đọc lại bài
thơ cho monsieur nghe. Đến đây thì tôi lại không còn hiểu ra sao nữa. Tôi lại
nói lại câu kinh điển: xin lỗi monsieur, tôi “non parle Francais”.“Khoong sao đau,” monsieur nói. “Đọọc đi, đọọc đi.”Không biết phải làm thế nào với tình huống chưa có tiền lệ
này và lại rất không biết nói “Không” với người khác nên “petite mademoiselle”
là tôi đành phải đọc bài thơ. Dĩ nhiên là bằng một thứ tiếng Pháp bồi khủng khiếp.
Khủng khiếp đến nỗi tôi không nhịn được, cứ phá ra cười trong lúc chật vật phát
âm từng từ. Monsieur cũng cười hài lòng… và chỉnh lại phát âm cho tôi mỗi khi
tôi phát âm sai.Tôi đọc xong thì lập tức cảm ơn monsieur lần nữa và nói rằng
tôi phải đi.Nhưng một lần nữa, monsieur hoàn toàn tảng lờ việc tôi phải
đi.“Where you from, mademoiselle?” Monsieur hỏi.“Vietnam.”“Ah, Vietnam. Chao iem!” Monsieur nói tiếng Việt và chắp tay
cúi đầu chào như… người Thái.Trong lúc tai tôi vẫn còn lùng bùng hai tiếng “”Chao iem” thì
monsieur đã lại nói rất nhanh rằng monsieur đã đến Việt Nam sáu lần. Và rồi
monsieur đột nhiên nhắc đến Hồ Chí Minh.“Ho Chi Minh gióng Charles de Gaulle,” monsieur nói.“Ngươi Anh đen Phap, Charles de Gaulle noi cút đi. Ngươi Phap
đen Vietnam. Ho Chi Minh noi cút đi. Gióng nhau, gióng nhau ca thoi.”Liền đó monsieur tuyên bố rằng monsieur đã luôn có ý định dịch
mười hai cuốn tuyển tập Hồ Chí Minh ra tiếng Pháp. Tôi không còn biết mình đang
nói chuyện với một học giả đội lốt người bán sách hay là người bán sách đội lốt
học giả hay bán sách kiêm học giả. Tôi đành cười và chúc monsieur thành công với
dự định dịch sách của mình để giúp cho tình đoàn kết giữa Pháp và Việt Nam thêm
thắm thiết.Thế rồi, bất thình lình, câu hỏi sau đây bật ra rất rành rọt
từ phía monsieur, bằng một thứ tiếng Anh rất chuẩn như đã được tập luyện nhiều
lần:“Em đi ăn tối với tôi nhé?”“Bỏ cụ!” Tôi nghĩ.Tuy luống cuống, tôi vẫn đủ tỉnh táo để biết rằng tôi không
thể ăn tối với monsieur dù monsieur có đọc thơ Verlaine cho tôi nghe. Tôi cố gắng
tìm một cách lịch sự để từ chối nhưng nghĩ mãi không ra cách gì, tôi sử dụng lý
do kinh điển của các cô gái:“Merci, merci monsieur nhưng bố mẹ tôi không cho tôi đi ăn tối
với người lạ.”“Oh lah lah…” monsieur vung hai tay lên trời một cách thất vọng,
nhưng vẫn mỉm cười, “Bo mẹ, bo mẹ. Tại sao ngươi Vietnamien luc nao cung phai
xin phep bo me?”Câu hỏi này quá vĩ mô và không có lợi gì cho tình huống cụ thể
của tôi lúc đó nên tôi vừa cười trừ vừa chỉ vào đồng hồ đeo tay:“Merci monsieur nhưng thật sự là tôi phải đi.”Quan sát nét mặt monsieur, tôi biết là tôi vừa mới đấm bị
bông ( Chúa phù hộ sự kiên nhẫn của đàn ông Pháp với phụ nữ! ) Để thể
hiện sự quyết tâm và tự chủ, tôi tuôn ra một tràng tiếng Anh rằng tôi có hẹn với
bạn tôi, tôi nhất định phải đi nếu không tôi sẽ bị muộn, rằng monsieur đã rất
nice khi đọc thơ cho tôi nghe, tôi rất cảm động nhưng tôi “thực sự, thực sự phải
đi” và chúc monsieur bán được nhiều sách. Tôi vừa nói vừa bắt đầu rảo bước.
Monsieur cũng rảo bước đi cùng và hỏi tôi có quay lại buổi chiều nay không,
monsieur sẽ chờ tôi ở quán cà phê bên kia đường. Tôi nói non non, tôi không
quay lại đâu – và bước nhanh hơn. Monsieur lại nói rằng ngày nào monsieur cũng
đứng đây bán sách hoặc ngồi bên kia uống cà phê, nếu tôi đổi ý định muốn ăn tối
hay uống cà phê với monsieur thì cứ tới tìm bất cứ lúc nào.Tôi bước đi khỏi một đoạn đã xa mà vẫn thấy đầu óc lùng nhùng
vì không hiểu chuyện gì vừa xảy ra. Một ví dụ nhỏ về sự lãng mạn Pháp hay
chương một của một tiểu thuyết trinh thám Mỹ mà đến chương hai thì người bán
sách mê thơ Verlaine sẽ hiện nguyên hình là sát thủ giết người hàng loạt?Nhưng thở đều một lúc, sự lãng mạn đã lại thắng thế. Nghĩ cho
kỹ, rõ ràng monsieur không hề có gì khả nghi và không làm gì hại tôi ngoài việc
đọc thơ Verlaine cho tôi nghe và mời tôi uống cà phê. Tôi kết luận rằng tôi
không cần phải lo lắng; không nên nghi ngờ oan cho monsieur mặc dù quả nhiên
cách tiếp cận này hơi kỳ cục. Buổi tối nay, khi gặp Kai và Sarah, tôi sẽ hỏi họ
chuyện này.Tôi đã không liên hệ với bất cứ người bạn Việt Nam nào khi tới
Paris lần này vì tôi muốn đi du lịch như một người không nguồn gốc, không quá
khứ, không ràng buộc. Kai, người bạn cũ từ Đại học Chicago, là người duy nhất
biết tôi tới.Kai và Sarah tới lúc 7 giờ. Tôi đã cuống cuồng nhảy tàu điện
từ khu Khải Hoàn Môn về khách sạn thay quần áo để kịp đi ăn tối với họ. Hôm nay
là ngày thứ ba của tôi ở Paris, cả ba ngày đều lây rây lúc mưa lúc nắng; mà tôi
thì không làm việc gì khác ngoài lang thang ngoài đường nên hôm nào quần áo
cũng ẩm ướt và cả ba tấm bản đồ của tôi đều bắt đầu mục vì ngấm nước. Nhưng tôi
sẽ không vì thế mà đánh đổi lấy những ngày Paris toàn nắng đẹp. Paris trong mưa
có cái gì đó quyến rũ vô cùng. Chiều tối nay, khi tôi nhìn thấy Kai và Sarah
thong thả bước cạnh nhau từ phía con đường bờ sông tới trước khách sạn, thì tôi
hiểu cái quyến rũ ấy là cảm giác Paris và người Paris chậm lại, xích lại gần
nhau. Nó là sự lãng mạn được cô đặc, được làm giảm đi một chút bốc đồng để trở
nên đằm và thật. Như chiều may, khi đi ngang Nhà thờ Đức Bà và nghe lỏm một người
con trai nói trên điện thoại “Em nhất định phải đến, anh cần em” thì tôi tin là
anh ấy cần cô gái kia thật. Làm sao có thể không cần một người khác trong cái
se lạnh này của mùa thu Paris.“Chào em,” Kai cười từ xa. “Em khỏe không?”“Em khỏe,” tôi nói. “Kai ơi, Paris đẹp quá; em thật ghen với
anh.”“Dĩ nhiên rồi,” Kai cười, hôn tôi hai bên má. “Tất cả mọi người
đều ghen với anh. Nhưng biết làm thế nào được.”Không thể không nhận ra rằng Kai đã khác đi kể từ lần cuối
cùng tôi gặp anh, cách đây chừng một năm, ở Chicago. Hồi đó, Kai bơ phờ và dường
như lúc nào cũng ngấp nghé một miệng vực vô hình; còn bây giờ, khuôn mặt anh có
một ánh sáng mới. Có lẽ Paris làm cho người ta hạnh phúc hơn.Chúng tôi tới một tiệm ăn có tên “Les Philosopher” ở Rue
Vieilles-du-Temple bên phía Marais, không xa khách sạn tôi ở (chắc chỉ có ở
Paris thì tiệm ăn mới có những cái tên như “Nhà triết học” hay “Descarter”). Tiệm
Les Philosopher nằm trên mặt phố, trong một căn nhà tường ốp gỗ với những cửa sổ
lớn mở ra ngoài vỉa hè; vỉa hè cũng có bàn nhưng chủ yếu dành cho người uống cà
phê, rượu, hút thuốc sau khi ăn. Chúng tôi vào bên trong; chọn một chiếc bàn gỗ
nhỏ. Xung quanh chúng tôi, các bàn hầu như chật người; từng nhóm từng nhóm ngồi
với nhau theo cái lối của những người đã đi ăn tối với nhau rất nhiều lần. Họ
thoải mái, ồn ào, và tự nhiên. Mỗi lần có một người mới đến, người đó lại ồn ào
chào hỏi rồi đi vòng quanh bàn hôn má từng người ngồi quanh bàn. Thật là một cảnh
vui mắt. Người Mỹ không bao giờ cho phép mình ồn ào quá ở các nhà hàng mà chỉ
có thể ồn ào ở các sport bar.Kai nói món vịt ở đây khá ngon; vậy là tôi gọi vịt là món
chính, khai vị là patê ngỗng. Chúng tôi gọi một chai vang đỏ.“Chào mừng em đến Paris!” Kai nói. “Cho những ngày Paris vui
vẻ!”“Cho những ngày Paris vui vẻ!” Tôi nói.“Ở Paris thì khó mà buồn được,” Sarah nói. “Em hiện nay chẳng
làm gì, coi như thất nghiệp, thế mà cũng chẳng buồn.”Sarah là người Mỹ, Kai người Nhật, hai người gặp nhau ở
Chicago; rồi yêu nhau; khi Kai đi Paris nhận việc sau khi tốt nghiệp, Sarah
chuyển sang sống chung. Hằng ngày, Kai đi làm, còn Sarah ở nhà học tiếng Pháp
và tìm việc.Chúng tôi hỏi thăm công việc và những người quen cũ ở
Chicago. Rồi tôi không đừng được mà kể lại câu chuyện về người đàn ông bán sách
đọc thơ Verlaine.“Em vẫn không hiểu, tại sao ông ấy lại đọc thơ cho em nghe?
Ông ấy muốn gì ở em?”Kai phá lên cười.“Chết thôi, em bị Mỹ hóa mất rồi. Người Mỹ lúc nào cũng hỏi tại
sao, để làm gì, họ muốn gì ở tôi, tôi được gì, mất gì. Có thể ông ấy không muốn
gì ở em cả, ông ấy chỉ muốn đọc thơ cho em nghe, đơn giản thế thôi.”“Ồ, nếu em là một cô gái sexy, quyến rũ thì em còn hiểu được;
đằng này…”“Cũng chẳng sao, ông ấy muốn làm vậy vì ông ấy muốn làm vậy
thôi. Đàn ông Pháp là thế.”“Mà phải nói là họ kiên nhẫn thật. Em đã nói không không tôi
phải đi bao nhiêu lần mà ông ấy không tha.”“Ờ,” Kai tặc lưỡi, “về khoản kiên nhẫn thì công nhận đàn ông
Pháp là số 1. Người Mỹ với Nhật chẳng bao giờ mất thời gian cho việc tán tỉnh
vô thưởng vô phạt ngoài đường như thế, người Pháp thì khác, mà không, anh phải
nói chính xác là người Paris thì khác. Đàn ông Paris là một giống riêng. Họ tán
tỉnh như một bản năng; nếu thấy có một cái cửa; họ sẽ gõ; cửa chỉ cần hé ra là
họ lách chân vào, rồi cứ thế đẩy dần cửa ra, và trước khi em nhận ra thì họ đã
trong nhà em rồi.”“Nhưng nhất định họ vẫn phải có một mục đích cuối cùng nào đó
chứ. Ông ấy mời em đi ăn tối để làm gì? Họ mời các cô gái xa lạ qua đường đi ăn
tối với mục đích gì? Để ngủ với họ à?”“Cũng có thể là thế. Nhưng có người đơn giản là họ muốn đi ăn
tối với em thôi. Với người Paris, đi ăn tối với ai đó, kể cả người xa lạ, là một
niềm vui. Đơn giản thế thôi. Gặp nhau, ăn tối, uống chút rượu, nói chuyện phiếm,
tán tỉnh nhau một chút, đại để là có mấy tiếng vui vẻ với nhau… đấy là văn hóa
Paris. Có thể ông ấy chỉ muốn có người ăn tối cùng.”“Cái đó thì em cũng hiểu. Em cũng ủng hộ sống cho ngày hôm
nay, sống cho hiện tại, tận hưởng những khoảnh khắc với người khác, nhưng mà em
vẫn thấy có cái gì đó kỳ kỳ.”“Em ở Paris một thời gian, em sẽ không để ý nữa đâu.”“Đúng rồi đấy,” Sarah nói. “Hồi em mới sang đây, em cũng gặp
chuyện này, em dị ứng lắm. Gần nhà em ở có cái công viên; cứ lần nào em vào đấy
chạy bộ hay đọc sách là y như rằng có một anh Parisien ra tán tỉnh.
Em nghĩ, bỏ mẹ, không biết bọn này muốn gì ở mình. Trời ơi, có một lão trong
công viên lại còn bảo em là lão phát điên vì yêu em… Làm em phải bỏ cả cái công
viên đấy một thời gian. Giờ thì em quen rồi; lơ mơ là em chửi cho. Các lão ấy
biết chị là khách du lịch mới đến nên thế thôi. Mà đàn ông Pháp thì thích các
cô gái Á Đông nhỏ bé lắm.”“Chị cứ tưởng là cái kiểu tâm lý thuộc địa đấy chỉ có ở thời
Thế chiến chứ giờ vẫn còn à?”“Còn đấy, một số đàn ông Pháp vẫn cứ thích các cô gái Á Đông
vì họ dịu dàng, chiều chuộng. Chứ đàn bà Pháp với đàn bà châu Âu chả chịu được
cái thói lãng mạn rửng mỡ của các ông ấy.”Đến đây thì bồi bàn mang món patê ngỗng ăn với bánh mỳ nướng
và một chút mứt dâu tây. Ở các bàn bên cạnh, thức ăn và rượu cũng đầy ắp, những
câu chuyện ngày càng ồn ào. Vài người đàn ông mặt đỏ, tóc rối bời, đứng cả lên
để tranh luận về chính phủ và Giáo hoàng (nghe nói sắp tới Giáo hoàng sẽ sang
thăm Paris), và một thứ tiếng Pháp mê li cứ thế tuôn ra hôi hổi. Tôi vừa ăn vừa
nói chuyện với Kai và Sarah vừa quan sát cái không khí một quán ăn tối Paris… Tại
sao ngồi đây tôi lại có cảm giác nhớ không khí này và nhớ Paris như thể tôi từng
ở Paris? Tại sao, giữa những người Paris trong quán ăn xa lạ này, tôi lại nhớ
Hugo, Chopin, Verlaine như thể tôi đã từng ngồi ăn tối với họ ở đâu đó, trong
những buổi tối Paris mùa thu?Ở ngoài khách sạn, Kai và Sarah lại hôn tạm biệt tôi, hẹn rằng
sẽ gặp lại trước khi tôi rời Paris.“Cẩn thận nhé, Kai dặn tôi. Em chỉ có một mình, mà đàn ông
Pháp thì mê phụ nữ Á Đông lắm và không phải ai trong số họ cũng tử tế đâu. Em
nhớ nhé.”Tôi nói với Kai rằng tôi sẽ cẩn thận. nhưng nếu tôi gặp những
trường hợp tán tỉnh và mời đi ăn tối khác, tôi sẽ nhận lời để tìm hiểu xem rút
cục thì những người đàn ông này muốn gì. Có thể nào người ta lãng mạn chỉ để
lãng mạn mà thôi? Hay là tôi bị “Mỹ hóa” thật như Kai nói nhỉ? Lẽ nào tôi không
còn tin và cũng không còn khả năng cảm nhận sự lãng mạn nữa?Tôi đã tháo nhẫn cưới khỏi tay từ hôm đến Paris. Tôi không biết
tại sao. Chắc chắn tôi không định tán tỉnh, yêu đương hay lừa ai nhưng tôi vẫn
cứ bỏ nhẫn cưới ra.Cái nhẫn cưới này, tôi và Sơn đã mua trong một cửa hàng trang
sức ở Boston. Lúc ấy, tôi có hai sự lựa chọn: một cái nhẫn với một vòng
tròn khép kín và mặt kim cương đính bên trên; hoặc một cái nhẫn với vòng
tròn không khép kín và một mặt kim cương nằm giữa hai cái đầu không khép kín ấy.
cuối cùng tôi đã chọn cái thứ hai. Trong suốt những năm đeo cái nhẫn này, ngón
tay tôi thỉnh thoảng lại bị trầy bởi vì bị cái đầu nhọn kim loại của vòng tròn
không khép kín đâm. Chị gái tôi – một người tương đối mê tín – đã nói với tôi
khi nhìn thấy cái nhẫn rằng cái nhẫn thế này là biểu tượng của xa cách, hai người
không làm thành một vòng tròn. Tôi đã cười, nói chị ấy vớ vẩn. Tôi cũng đã nghĩ
những điều khác là vớ vẩn. Ví dụ như Sơn chưa bao giờ đeo nhẫn cưới và tôi chưa
bao giờ bắt anh phải đeo.Nhưng có thể, chúng không vớ vẩn như tôi tưởng? Có thể, để có
một cuộc sống vợ chồng lâu bền thì cần có cả những thứ thủ tục, những khuôn khổ,
những quy tắc mà người ta phải tuân theo để cầm cương cái bản ngã cá nhân luôn
dễ dàng hư hỏng khi được dung túng?Cả hai chúng tôi, hay ít nhất là tôi, hình như đã quá tự do
và ngây thơ về hôn nhân cũng như về chính mình.Paris, ngày…Tôi đã quyết định rằng từ chủ đạo cho ngày hôm nay là “trèo”.
Sáng nay, trở lại Nhà thờ Đức Bà ( lần thứ mấy nhỉ? ). Tôi đã trèo
hơn 300 bậc đá để lên tháp chuông. Chiều tối nay, ở bảo tàng Pompidou ra, tôi
thấy từ này càng chính xác.Để vào bảo tàng Mỹ thuật bên trong Popidou Center, phải trèo
một cái cầu thang rất dài bên ngoài để tới tầng bốn. Bước vào trong, cái đầu
tiên đập vào mắt tôi là một tấm canvas trắng mỗi chiều vài mét, trên đó hình
như ai đã sơ ý đánh rơi một xô lớn đựng sơn xanh da trời, khiến cho sơn xanh
tung tóe trên bề mặt. Bên cạch tôi, một cô gái, lúc này đang đứng nhìn bức
tranh, thì thầm với người bạn trai”“Thế này mà gọi là nghệ thuật á? Em nhắm mắt cũng làm được như
thế. ”Phải rồi, tôi cũng vừa thoáng nghĩ như vậy mặc dù ngay sau
đó, cái ý thức mới hình thành của người viết bảo tôi rằng tôi lại sa vào cái bẫy
phán xét theo quán tính của một người ngoài. Với tư cách là một người ngoài,
tôi có thể nói tôi thích hoặc không thích một tác phẩm nghệ thuật, tôi thậm chí
hoàn toàn có quyền nhận xét nó hay hay dở; nhưng nói “dễ” thì có lẽ phải bắt
tay vào làm mới biết. Mà kể cả khi bắt tay vào rồi, tôi chỉ thực sự biết nếu
tôi muốn vượt qua bản thân, muốn trèo tới đỉnh. Giống như hôm nay, phải thực sự
trèo hơn 300 bậc thang Nhà thờ Đức Bà sau cả một ngày đi bộ lang thang khắp
Paris, tôi mới phát hiện ra mình có thể mắc chứng claustrophobia khi phải đi
vòng vòng liên tục trong một cầu thang xoáy trôn ốc với những bậc đá chỉ vừa đủ
đặt một bàn chân. Và khi lên tới nơi rồi, nhìn Paris trải ra bên dưới, và bất lực
trong việc dùng máy ảnh để bắt lại cái nhìn thấy bằng mắt, tôi hiểu là nhiếp ảnh,
cũng như tất cả mọi thứ khác trên đời, đều khó khi người ta muốn thực sự lên đến
đỉnh.Quay trở lại với Pompidou. Thực sự, tôi không hiểu gì về hội
họa; tôi chỉ biết thích hoặc không thích mà thôi; và nếu phải xếp thứ tự các bảo
tàng nghệ thuật cho đến nay, thì tôi sẽ xếp Pompidou trước Orsay, rồi mới đến
Louvre. Ngay lúc này, tôi có thể khẳng định rằng tôi thích Pompidou hơn Louvre.
Tranh ở Louvre và Orsay vẫn là dạng tranh “minh họa” cảm giác “bội thực” và “ngột
ngạt”. Còn ở Pompidou không có sự “minh họa” nào cả. Nó là cảm giác và ý nghĩ
thông qua khâu trung gian, không cần phiên dịch hay diễn dịch, không có phóng
chiếu và ước lệ. Chúng là máu thịt của ý tưởng sống động, tươi nguyên, mạnh mẽ,
cá nhân, điên rồ, chuếnh choáng, không che đậy, không thanh minh, không bao biện.
Chúng cứ thế tràn ra. Quá nhiều cá tính. Quá nhiều đời sống. Quá nhiều tự do.Ở bên phải của bảo tàng Pompidou có một phim tài liệu ngắn về
Jackson Pollock. Tất cả những gì ông làm, nhìn từ bên ngoài chỉ là nhẩn nha đi
đi lại lại (miệng ngậm thuốc), vẩy vẩy màu hoặc nhỏ màu (dripping) lên canvas.
Nhưng Pollock nói rằng ông hoàn toàn làm chủ cái việc vẩy màu đó không có cái
gì là “accident” bởi vì “mỗi bức tranh có một đời sống riêng của nó, tôi chỉ cố
gắng để nó lộ ra”. Hôm trước, Rodin cũng nói tương tự như vậy trong phim tài liệu.
Nghĩ mà xem, Rodin làm việc trên đá, chỉ bằng một cái búa và một cái đục. Cho đến
hôm nay, tôi vẫn còn chưa hết kinh ngạc mỗi lần nghĩ đến cái sự thật ngớ ngẩn
này. Điêu khắc – dĩ nhiên rồi, phải làm việc trên đá, trên đất. Nhưng phải nhìn
Rodin cầm búa đẽo từng miếng đá cứng, nhìn bụi đá bay ra… và rồi nhìn sự nhẵn
nhụi, hoàn hảo – hơn hết là cảm giác sensual sống động của những bức
tượng như The Eternal Idol, The Kiss, hay Despair… thì mới biết “điêu khắc”
không hề dễ mặc dù Rodin nói rất đơn giản: “trong mỗi khối đá đều có săn một bức
tượng, điêu khắc chỉ là công việc loại bỏ đi những phần thừa để bức tượng lộ
ra”.Biết cái gì là thừa để loại bỏ đi là một việc không hề dễ
dàng. Mà không, tôi sẽ không nói một câu đãi bôi như thế. Tôi sẽ nói: biết cái
gì thừa để mà loại bỏ là một việc khó. Có thể là theo những con đường khác
nhau, bằng những cái thang khác nhau, tất cả loài người nói chung và người làm
nghệ thuật nói riêng đều chỉ đang trèo lên cùng một đỉnh núi. Chính
cái ý nghĩ này làm cho tôi thấy mình thoải mái khi ở trong Pompidou chứ không
thấy xa lạ như ở Louvre. Đứng giữa một bên là Joan Mitchell cố gắng diễn tả những
giấc mơ thời thơ ấu và một bên là Sam Fracis vẽ lại những bông waterlilies nổi
tiếng của Monet theo phong cách hiện đại, tôi có thể cảm thấy rõ phía sau những
bức tranh là những con người thật, là những ý nghĩ và tình cảm thật. Hơn thế,
dường như có một dạng tình bằng hữu ngầm giữa tất cả những người đứng phía sau
các tác phẩm nghệ thuật. Đấy là tình bằng hữu của những người cùng muốn theo đuổi
sự thật.Cuộc sống của những người này có bao giờ dễ dàng!Ở Pompidou ra lúc 9 giờ tối, đói run tay, tôi ghé vào một quầy
bán dạo ở ngay bên ngoài bảo tàng để mua một cái bánh mỳ kẹp. Đang đứng chờ người
bán hàng nướng lại bánh mỳ, tôi nghe phía sau lưng:“Ní hảo.”Quay đầu lại: một người đàn ông đang ngồi trên một chiếc ghế
nhỏ, mỉm cười với tôi. Một người vẽ ký họa chân dung ở trước bảo tàng cho khách
qua lại. Ông ta khoảng ngoài bốn mươi, khuôn mặt giống người Ý hơn là người
Pháp: da ngăm đen, mắt đen, tóc đen, “nam tính” toát ra mạnh mẽ. Nghĩ đến chuyện
người bán sách hôm qua và lại đang đói, muốn về nhà, nên tôi lắc đầu “No ní hảo”
rồi quay người đi. Nhưng tôi chỉ quay được nửa người vì ông ta đã nói bằng giọng
nói như thể một bàn tay nắm vào khuỷu tay tôi mà giữ lại:“No ní hảo?”Tôi lại phải quay lại, lắc đầu một lần nữa:“No ní hảo! Tôi không phải người Trung Quốc.”Đáp lại khuôn mặt và cái lắc đầu của tôi là một câu tiếng Anh
rất chuẩn:“Mademoiselle, em có đôi môi thật đẹp. Với tư cách là một họa
sĩ, tôi phải nói rằng em có đôi môi thật đẹp.”Từ hôm qua đến giờ, tôi vẫn thỉnh thoảng nghĩ lại câu chuyện
về người bán sách và câu chuyện Sarah kể về người đàn ông trong công viên. Và
càng nghĩ, tôi càng cảm thấy vừa buồn vừa giận. Tưởng tượng xem, dường như có một
đội quân những người đàn ông đứng tuổi hứng tình, đang âm thầm tỏa đi khắp
Paris với sứ mệnh là lừa phỉnh các cô gái đi du lịch một mình nhằm biến những kỷ
niệm về Paris của họ thành một tập hợp những câu chuyện rẻ tiền và lãng nhách.
Thật là một sự lăng mạ lớn cho Paris và cho những người phụ nữ.Và bây giờ thì một chiến binh trong cái đội thánh chiến đó
đang ngồi trước mặt tôi, vừa mỉm cười mơn trớn vừa tuyên bố rằng tôi có “đôi
môi đẹp”. Tôi rất muốn bảo ông ta “Monsieur, xin ông cút đi với quỷ và để Paris
với tôi được yên”. Nhưng tôi lại chỉ nói:“Cám ơn sự tán dương của ông nhưng tôi phải đi đây. Au
revoir .”Y như người bán sách hôm qua, monsieur này không hề quan tâm
tới việc tôi phải đi cũng như khuôn mặt không hề thân thiện của tôi. Monsieur
nói:“Không không, đây không phải là sự tán dương, tôi chỉ đang
nói sự thật bởi vì đó là sự thật và bởi vì tôi là một họa sĩ. Với tư cách một họa
sĩ, tôi phải nói rằng em có đôi môi thật đẹp.”Monsieur này nói tiếng Anh khá chuẩn, mặc dù vẫn có accent –
nhưng không hoàn toàn là accent của người Pháp. Trong lúc tôi còn
đang tần ngần cố nghĩ ra một cách gì đó thật bạo lực để chấm dứt cái màn tán tỉnh
lỗ mãng này, tôi nghe monsieur nói với một vẻ hết sức thành khẩn:“Em có thể làm mẫu cho tôi vẽ không? Tôi muốn vẽ em.”Tôi cười:“Và sau khi làm mẫu cho ông, chắc là tôi sẽ phải đưa ông mấy
đồng; tôi nói có đúng không?”Monsieur không hề có vẻ mếch lòng. Thay vì thế, monsieur hỏi
tôi:“Em có phải là một nhà khoa học không?”“Không, có thể một ngày nào đó tôi sẽ, nếu tôi may mắn.”“Tôi là một nhà khoa học,” monsieur tuyên bố trịnh trọng.“Vậy sao?” tôi nói. “Chúc mừng ông.”Monsieur quan sát nét mặt của tôi một lúc, rồi không nói
không rằng lục túi lấy ra một tấm danh thiếp.“Đọc đi!” Monsieur nói mát mẻ.Đấy là một cái danh thiếp được làm sơ sài bằng bìa mềm. Nền
màu xanh da trời, hình như loáng thoáng có vài ngôi sao màu trắng. Không có
trang trí gì khác, không có biểu tượng tổ chức, cơ quan, hiệp hội nghệ sĩ gì. Ở
góc trái phía trên của các-vi-zít chỉ có tên Paul gì đó… in rất to. Và bên dưới
là dòng chữ tiếng Anh:“Owner of the 5 th dimension of the universe
expansion theory”(Chủ nhân của học thuyết về sự giãn nở chiều thứ năm của vũ
trụ [39] )[39] Hoặc là “Chủ nhân chiều thứ năm trong học thuyết giãn nở
vũ trụ” – thực sự tôi cũng không chắc người đàn ông này làm chủ cái nào.“ Damn ! Thật là thiên tài” tôi nghĩ; và phải cố gắng
lắm mới không buột miệng cười. Tôi sợ rằng chỉ cần tôi buột miệng cười, tôi sẽ
không bao giờ dừng lại được. Tôi hỏi monsieur liệu tôi có thể hân hạnh giữ một
tấm danh thiếp của monsieur để còn google về lý thuyết giãn nở vũ trụ của
monsieur trên mạng. Nghe đề nghị này, monsieur lập tức rút tấm danh thiếp từ
tay tôi và đút ngay vào trong ví. Monsieur nói đầy hờn dỗi:“Không, tôi không thể đưa cho em vì em không tin tôi.”“Xin lỗi,” tôi nói. “Tôi có thể sai, nhưng tôi có quyền nghi
ngờ, đúng không?”Monsieur ném vào tôi một cái nhìn sắc lạnh:“Em có tin tôi là nhà khoa học không? Em có tin không? Hử!”Lúc này, bánh của tôi cũng đã nướng xong rồi, và thấy không
nên mất thời gian ở đây, tôi nói rằng tôi phải đi. Nhưng monsieur đã cầm tay
tôi bằng cả hai tay:“Tôi là một nhà khoa học,” monsieur nói. “Em có tin tôi là
nhà khoa học không? Hử? Có tin không?”“Vâng, tôi tin. Ông là nhà khoa học,” tôi rút tay ra. “Au
revoir”“Au revoir.”Tôi thừa nhận rất có thể mình vừa mới có một hành vi rất khiếm
nhã vì monsieur có thể là nhà khoa học kiêm nghệ sĩ thật sự. Nhưng tôi không thể
cáng đáng nổi sự cả tin của mình trong trường hợp này.Sau 9 giờ, nắng đã tắt và bóng tối bắt đầu xuống nhanh nhưng
trên Rue des Archives, buổi tối dường như mới chỉ bắt đầu. Lần đầu tiên tôi nhận
ra khu Marais của Paris thực sự là khu vực của người Do Thái và đồng tính luyến
ái. Các đôi tình nhân nam nắm tay nhau đi lại trên phố rất tự nhiên; mỗi khi gặp
người quen lại đứng lại bisous thân mật. Họ ăn mặc rất có style, không cố tình
lòe loẹt hoặc ồn ào kiểu các drama queen để khẳng định giới tính của mình như
dân đồng tính Mỹ, thường là desiger jean với jacket mỏng gam lạnh, mang khăn.Lúc rời Pompidou, tôi đã mệt, định về nhà; nhưng rồi chỉ đi bộ
đến Rue des Archives và Rue de Sainte-Croix-De-La-Bretonnerie, tôi lại có cảm
giác như được sống lại. Đây là cái khác biệt của Paris, hoặc ít nhất là của khu
trung tâm. Thành phố này có cách để nâng bạn lên và đỡ bạn đi khi bạn mệt, theo
một cách rất ân cần. Vậy là tôi đứng lại ở một góc phố quan sát người qua lại
cho đến lúc trời đổ mưa.Chiều hôm qua, trên đường về từ vườn Luxembourg, tôi đi qua mấy
phố ngách phía sau điện Pantheon và phát hiện ra mấy thứ nho nhỏ:- Có một tiệm phở Việt Nam mang tên Tây Đô trên phố Rue de
L’Ecoles.- Có một cái vườn nhỏ rất đẹp ở góc phố Rue Monge… Trong vườn
có những bức tượng và những ghế băng tuyệt đẹp, cộng với rất nhiều bóng râm và
cây leo trên tường. Một nơi lý tưởng để nghỉ chân và đọc.- Có một cửa hàng nhạc jazz trên cái phố nhỏ cạnh nhà thờ
Thánh Gienevieve – nữ thánh bảo hộ của Paris. Cửa hàng có rất nhiều đĩa CD và một
cái poster lớn đề dòng chữ “Jazz không chết ở Paris”. Không biết jazz chết ở
Paris bao giờ! Thực tế là Paris khiến tôi nghĩ đến nhạc jazz rất nhiều, cũng
như Paris làm tôi nghĩ đến những bức tranh của trường phái Ấn tượng. Nhịp điệu
của Paris và tinh thần của thành phố này rất hợp jazz, nhất là khu Latin và
Marais.- Trên phố Rue des Bernardin lại có một nhà thờ cổ tuyệt vời
nữa theo kiến trúc Gothic.- Ở phía sau Nhà thờ Đức Bà có một quảng trường gọi là Thánh
Jean XXIII. Một lần nữa: tuyệt đẹp.Đẹp, đẹp, tuyệt đẹp. Tôi bắt đầu hết từ để tả Paris rồi.Ngày mai là thứ Sáu. Trời ơi, tôi nói như thể tôi quan tâm
ngày mai là thứ mấy vậy.[40] Đội bóng rổ Chicago nổi tiếng, có Michael Jordan.[41] Đội bóng chày ở phía Nam thành phố Chicago, niềm tự hào
của người da đen ở Chicago.Paris, ngày…Paris, ngày…Cách đây năm phút, tôi gần như đã ghét Paris khi cô gái gác cổng
Đại học Sorbonne trên phố Thánh Jacques đã trả lời đề nghị được vào thăm trường
của tôi bằng một từ “Non!” và vẻ mặt khinh khỉnh.Nhưng tôi không bỏ cuộc; tôi đi vòng sang cổng khác và ở đây,
người gác cổng da đen đã cho tôi vào sau khi hỏi tôi vào làm gì và tôi nói tôi
là sinh viên ở Chicago, tôi muốn vào thăm trường, và anh ta nói “Tôi ghét đội
Chicago Bulls [40] , tôi thích Michael Jordan nhưng giờ anh ấy ngủ rồi”,
và tôi đã trả lời “Nhưng Chicago còn có nhiều thứ khác, nhất định anh phải
thích một cái gì đó chứ… đội White Sox [41] chẳng hạn?”; và anh ta
phá lên cười “OK, vào đi”. Và giờ thì tôi đang ngồi trên một cái ghế đá trong khoảng
sân hình chữ nhật lát đầy đá cổ, đối diện với hai pho tượng: Louis Pasteur và
Victor Hugo. Ở Paris, đi đến đâu cũng có bóng dáng Hugo và vì thế mà tôi càng cảm
thấy mình thuộc về Paris. Thành phố này có một chỗ cho tôi – nếu không phải giữa
những người Paris thì là giữa Paris đầy Hugo; đấy là một mối tình
không cần nói thành lời.Nhưng quả thực, tôi đã suýt ghét Paris khi cô bảo vệ trường
Sorbonne từ chối cho tôi vào trong. Nghĩ cho kỹ, cũng không thể trách cô ấy được.
Cái mầm mống cơn chán ghét của tôi thực ra có bóng dáng một sự thất tình/ghen
tuông và nó đã bắt đầu từ đêm qua, và lỗi là do tôi cả.Đêm qua, lúc tôi trở về khách sạn, Francesca không ở đó, chỉ
có Julia đang ở trong phòng cùng với một người bạn gái Nhật Bản mới quen. Chúng
tôi hỏi thăm nhau xem đã làm gì trong ngày. Julia nói chị đã tới nghĩa trang
Pere Lachaise với mục đích tìm một chỗ yên tĩnh mà suy nghĩ, nhưng những khách
du lịch đi thăm nghĩa trang cứ liên tục quấy rầy bằng những câu hỏi “Mộ này của
ai đấy? Ông ấy có nổi tiếng không?” Chị cứ ngồi xuống bất cứ ngôi mộ nào là có
người hỏi mộ của ai và người chết có nổi tiếng không.“Nổi tiếng, nổi tiếng, nổi tiếng,” Julia nói. “Tất cả những
gì họ quan tâm chỉ là người chết này có nổi tiếng không, họ thậm chỉ chẳng buồn
đọc bia mộ và chẳng có tí ý niệm gì về người đã chết.”Julia thở hắt ra. Lần đầu tiên tôi thấy chị ấy nổi giận.“Tôi đã tới Paris để tìm lại bản thân mình… nhưng mà trời ơi,
Paris ồn ào không thể tưởng tượng được, quá nhiều khách du lịch, quá nhiều, quá
nhiều… mà đàn ông Pháp thì trơ trẽn và lộ liễu quá mức. Không thể nào tìm thấy
bản thân mình ở đây.”“Tìm lại bản thân mình” – cụm từ này nén quá nhiều thứ. Tôi hỏi
Julia muốn tìm lại bản thân như thế nào, chị tìm gì, và nếu tìm được thì cái “bản
thân” ấy trông như thế nào. Vậy là Julia kể cho tôi về cuộc sống của chị ở Hàn
Quốc.Julia là giáo viên dạy tiếng Anh ở tiểu học. Chị năm nay đã
ba lăm và bố mẹ chị vô cùng sốt ruột vì chị vẫn chưa lấy chồng, Julia từng có một
mối tình gần mười năm với một người đàn ông Hàn Quốc, nhưng đã không đi đến đám
cưới; và sau đó một thời gian dài thì chị không còn yêu lại ai. “Tôi chán đàn
ông Hàn Quốc rồi,” Julia nói. “Họ vừa gia trưởng lại vừa yếu đuối.” Gần đây chị
thích một anh chàng người Anh – người này là giáo viên tiếng Anh của Julia ở
Seoul; và chị có cảm giác anh chàng ấy cũng thích chị; họ hay gặp nhau nói chuyện,
nhưng họ cũng chưa chính thức hẹn hò vì Julia cố gắng giấu giếm tình cảm của
mình, còn anh kia thì mới đến Hàn Quốc nên thấy các cô gái Hàn Quốc quá bí ẩn.
Mùa hè này, anh chàng người Anh về lại London thăm nhà và sẽ cùng mấy người bạn
đi du lịch ở Châu Âu, bao gồm cả Paris. Vậy là Julia lên kế hoạch đi châu Âu, với
mục đích ngấm ngầm là để gặp anh chàng người Anh ở Paris; nhưng để làm thế, chị
đã lên cả một lịch trình châu Âu dài dòng, với nhiều thành phố khách nhau, chỉ
để trông có vẻ như chị không đi Paris để gặp anh chàng người Anh mà chỉ “tình cờ”
có mặt ở đó đúng lúc anh ấy cũng có mặt ( trời ơi, phụ nữ châu Á hình như
giống hệt nhau về sự lòng vòng này ).“Dĩ nhiên là chị đến Paris không chỉ vì anh ấy,” Julia nói,
“chị muốn đến Paris vì chị chưa bao giờ đến Paris; ai cũng bảo Paris là thành
phố lãng mạn nhất thế giới. Chị muốn đến đây để nghĩ, để lãng mạn trở lại một
chút; chị quá mệt mỏi với cuộc sống ở Hàn Quốc, ai cũng giục lấy chồng đi, đẻ
con đi, thế này đi, thế kia đi, chị ngột ngạt quá rồi.”Julia đã viết thư cho anh chàng người Anh để thông báo rằng
chị sẽ ở châu Âu; nếu anh ấy cũng ở Paris vào cùng ngày thì hãy gặp nhau. Anh
chàng kia trả lời rằng anh ấy sẽ đi Paris nhưng không biết chính xác ngày nào
vì còn tùy các bạn anh ấy sắp xếp. Vậy là Julia tiếp tục chờ… và ngày này qua
ngày khác, tiếp tục cố tìm sự lãng mạn của Paris, “cố tìm lại bản thân” trong
lúc chờ đợi. Nhưng ngày nào cũng thế, khi Julia đi ra ngoài với phấn son, áo
váy, giày cao gót, và mái tóc đen dài được chăm sóc cận thận hằng đêm để buông
xõa vào ban ngày - thì những người đàn ông Pháp xa lạ trên đường cứ lăn xả vào
chị mà tán tỉnh theo những lời mà Julia cho là” rẻ tiền”.Có một người đàn ông trung niên dường như ngày nào cũng ngồi
uống cà phê ở cái quán gần cầu Pont Notre Dame với một mục đích là chờ chị đi tới
để tán tỉnh. Ông ta nói ông ta “phát điên” vì chị; ông ta đã hai lần cầm tay chị
hôn và hôm nay thì đòi hôn môi chị.“Tôi chán ngấy Paris và đàn ông Paris rồi” Julis nói với tôi
và cô gái Nhật.” Mai tôi sẽ xuống Nice tắm biển, ở đó yên tĩnh hơn, may ra thì
có thể nghỉ ngơi. Sau đó thì tôi sẽ đi Tây Ban Nha.”Cô gái Nhật cũng nói rằng cô đến Paris để nghỉ ngơi và
“ enjoy the city ” nhưng cô viêm họng suốt những ngày ở đây vì Paris
ngập khói thuốc lá ở khắp nơi và quá nhiều khách du lịch. Càng nghe chuyện tôi
càng nhận ra rằng có rất nhiều cô gái châu Á một mình tới Paris - đều với những
ảo tưởng và fantasy khác nhau; và thường thì họ thất vọng. Tôi nữa, tôi cùng là
một cô gái châu Á, cũng đang ở Paris một mình, thất vọng thì không, ít nhất là
chưa, nhưng sau cuộc nói chuyện với Julia và cô gái Nhật, tôi tự hỏi bao giờ đến
lượt mình. Và càng nghĩ, tôi càng bực. Tự bao giờ sự lãng mạn Pháp nói riêng và
sự lãng mạn nói chung của con người trở nên rẻ tiền như vậy? Từ bao giờ tình
yêu trở nên cái gì đó khó bắt, đỏng đảnh, đầy những trò mèo đến vậy? Từ bao giờ
cuộc sống con người trở nên một lối mòn trúc trắc gần như chỉ dẫn vào một ngõ cụt?
Và từ bao giờ, Paris cho phép những người đàn ông trung niên nứng tình phá hỏng
những chuyến đi của người khác?Nhưng buồn nhất là ý nghĩ ở ngoài kia có nhiều phụ nữ cô đơn
và lạc lõng. Nhất là ở các nước châu Á. Họ đều là những người giằng xé giữa ý
thức đạo đức truyền thống với mong muốn cá nhân; họ khao khát được yêu một cách
chân thành, mãnh liệt – một tình yêu lớn – nhưng rồi luôn luôn phải chấp nhận một
cái gì đó thứ cấp, vừa phải. Họ đã tới Paris để “tìm lại mình”, “để tìm lại sự
lãng mạn” như cách nói của Julia – bởi vì cái thứ tình yêu thứ cấp đó không bao
giờ có thể làm người ta nguôi ngoai khao khát về tình yêu kia.Tôi cũng biết rất nhiều người con gái không bao giờ có cùng
câu hỏi và nhu cầu với Julia. Họ không bao giờ cần “tìm lại bản thân
mình”. Cuộc sống với họ luôn luôn rõ ràng; họ chọn người đàn ông tối ưu, và lấy
chồng và sinh con, và cuộc sống của họ cứ thế tiếp diễn. Ở một khía cạnh nào
đó, họ thật đáng ngưỡng mộ và ghen tị. Cuộc đời sẽ dễ dàng hơn bao nhiêu nếu
như bạn không có những ý nghĩ kiểu như bạn cần tìm lại bản thân mình. Cuộc đời
sẽ dễ dàng hơn bao nhiêu nếu như bạn chỉ cần có chồng con, chứ không
cần thêm một thứ xa xỉ là được chồng hiểu.Nhưng than ôi, cả điều ấy nữa, người ta cũng đâu có cưỡng được.
Tôi tin là Julia đã cố dẹp những tiếng thì thầm trong lòng mình, nhưng không thể.Đêm qua, tôi nói với Julia:“Chị đừng buồn. Mình không thể kiểm soát được người khác được
đâu. Điều duy nhất chúng ta có thể làm là kiểm soát bản thân mình. Đừng để mấy
người đàn ôn Pháp phá hỏng Paris của chị. Chị hãy tìm Paris của riêng chị và
tìm chỗ của chị ở Paris.”Nhưng Julia đã chịu đựng Paris đủ rồi. Tôi đồ rằng chị ấy
đang “thất tình” với Paris – và cả với anh chàng người Anh có lẽ sẽ không bao
giờ đủ dứt khoát mà đến Paris gặp chị. Chị đã quyết tâm ngày mai sẽ đi Nice – để
thử cơ hội với Nice. Tôi e rằng chị lại cũng sẽ thất vọng với Nice thôi; nhưng
ít nhất chị cũng đang cố gắng đi tìm và tôi chúc chị mọi tốt lành.Sáng nay, khi tỉnh dậy, những tàn dư của cuộc nói chuyện đêm
qua vẫn còn vương lại trong đầu tôi. Và rồi, để thêm vào đó, Paris lại mưa,
xám, và lạnh… còn tôi thì đã đánh mất cái ô của mình ngày hôm qua. Một câu hỏi
lặng lẽ hiện lên trong đầu tôi. “Mình đang làm gì ở đây? Thực sự thì mình đang
làm gì ở Paris và ở châu Âu một mình? Mình tìm gì? Cần gì? Muốn gì?Nhưng dù tôi có biết mình tìm gì, muốn gì ở Paris hay không
thì sự thật là tôi đang ở Paris và tôi không muốn trời mưa hay sự tuyệt
vọng của Julia trở thành sự tuyệt vọng của tôi; vậy là tôi thay quần áo và ra
ngoài. Trời không thực sự lạnh nhưng ướt và xám. Ai cũng bước đi vội vã trong
mưa, tay nắm chặt ô. Điều lạ là khi tôi vượt qua sông Seine dưới trời mưa, đầu
để trần và nhìn những ngươi Paris cắm cúi bước trong mưa dưới những chiếc ô
đen, rồi nhìn sông Seine và cả thành phổ ủ dột dưới màn nước màu xám, đột nhiên
tôi bình tĩnh lại. Một cảm giác thanh thản, thậm chí hạnh phúc, lại len lén đến
gần ôm lấy tôi. Bất kể thế nào, tôi vẫn có thể có một mối tình riêng, một chuyến
đi riêng với Paris mà không ai có thể lấy mất của tôi điều đó.Khi tôi đi dọc bờ sông, người đàn ông đã đọc thơ Verlaine cho
tôi hôm trước lại từ hiệu sách bước ra “”Bonjour petite mademoiselle”. Tôi nói
“Bonjour” rồi cứ thế đi thẳng. Ông ta kêu lên “Troi oi” nhưng tôi cứ bước đi mà
không hề ngoái đầu.Paris, ngày…Cuối cùng thì tôi cũng tới Maison de Victor Hugo. Buổi chiều
tối ngày thứ năm sau khi tới Paris, tôi đã quyết định không thể chần chừ thêm nữa.Nó bắt đầu từ một ý nghĩ vào buổi tối hôm trước. Tôi muốn đi
tìm phố Rue Plumet và phố Rue Saint Denis. Trong những người khốn khổ ,
Rue Plumet là phố mà Cô-dét sống cùng Giăng Van Giăng, và từ đó bắt đầu tình
yêu với Ma-ri-uýt trong những buổi dạo chơi ở vườn Luxembourg. Vào các buổi tối,
Ma-ri-uýt thường lẻn tới ngôi nhà Cô-dét trên phố, lách qua hàng rào vườn; và họ
sẽ ngồi cạnh nhau suốt đêm, chẳng để nói gì, mà chỉ để chiêm ngưỡng người kia
và ngập trong tình yêu. Hugo gọi đó là “Tình ca phố Pơ Luy Mê”. Còn phố Saint
Denis là phố mà những người bạn trong nhóm ABC đã lập chiến lũy làm cách mạng
và Ma-ri-uýt đã tới đó để chết cho nền cộng hòa non tre khi nghĩ rằng Cô-dét bỏ
đi. Ma-ri-uýt lẽ ra đã chết nếu Giăng Van Giăng không đến chiến lũy cõng anh
trên vai, lội qua cống ngầm Paris để trả anh về cho ông nội. Trong Những
người khốn khổ , Hugo gọi cuộc chiến của những người bạn ABC là “”anh hùng
ca phố Xanh Đờ Ni”. Sau buổi nói chuyện với Julia, tôi dứt khoát rằng tôi phải
đi tìm xem có còn chút nào bóng dáng của cái “tình ca phố Pơ Luy Mê” và “anh
hùng ca phố Xanh Đờ Ni” ở Paris không.Trước khi đi, để cho chắc chắn, tôi hỏi người lễ tân về phố
Saint Denis. Anh ấy chỉ cho tôi con đường dài trên bản đồ; rồi nói một câu làm
tôi đứng tim:“Cô muốn tới đó làm gì? Phố này nổi tiếng là phố đèn đỏ.”Tôi nói với người lễ tân rằng tôi cần đến đó tìm một thứ. Vậy
là tôi đi dọc phố Rivoli và chỉ qua một quãng ngắn, tôi nhìn thấy tấm biển đề
“Rue Saint Denis”. Con phố hoàn toàn không như tôi tưởng tượng.Phố Saint Denis ở khúc này chỉ là một đoạn ngắn chừng vài
trăm mét; chạy giữa phố Rivoli và phố Lombards. Một bên phố là một bức tường
cao của một tòa nhà cổ; bên kia là một vài cửa hàng ăn Địa Trung Hải khá xập xệ
theo tiêu chuẩn của Paris. Loanh quanh một lúc vẫn không thấy chút bóng dáng
“anh hùng ca phố Xanh Đờ Ni” nào, tôi quyết định sẽ ăn vội một bữa trưa gồm cơm
sữa chua với thịt cừu nướng ở một nhà hàng Địa Trung Hải rồi sẽ đi tới Maison
de Victor Hugo [42] và bỏ qua “Tình ca phố Pơ Luy Mê”.[42] Nhà Victor Hugo.Tôi không hy vọng gì nhiều. Thực sự, đến Paris lần đầu tiên
và một mình bằng những ký ức về Paris trong các tiểu thuyết Pháp từ thế kỷ
XVIII-XIX, tôi hiểu rằng tôi hầu như đã tự lên cho mình một kịch bản đầy các thất
vọng và có khi còn đẩy mình vào những tình huống ngớ ngẩm kỳ lạ. Mầy ngày hôm
nay, tôi đã rơi vào tình huống ấy rồi, khi cố gắng tìm cho được cái hàng cấy
tròn vườn Luxembourg, nơi Ma-ri-uýt và Cô-dét nhìn thấy nhau lần đầu trong lúc
đi dạo, cho đến lúc “Ma-ri-uýt yêu như si như dại”. Trong Những người khốn
khổ , Hugo tả hàng cây này nằm gần cổng vào ở phổ Rue de I’Ouest và cạnh
đó có mấy “pho tượng lực sĩ”. Tôi đã tìm suốt cả mấy hôm nay trên cả ba cái bản
đồ tôi có nhưng không sao tìm thấy phố Rue de I’Ouest đâu, và tôi cũng đã đi
loanh quoanh khắp vườn nhưng vẫn không xác định được chính xác hàng cây đó là ở
chỗ nào vì không thấy chỗ nào có các “pho tượng lực sĩ” cả. Một buổi sáng, sau
khi tìm mãi không thấy, tôi quyết định cầu cứu hai cô gái trẻ ngồi cạnh tôi
trong vườn bằng cách chìa cuốn Những người khốn khổ bằng tiếng Anh
cho họ xem và chỉ cho họ nơi tôi muốn tìm. Trong sách tiếng Anh, chỗ những hàng
cây được gọi là “The Pepinere” và tôi chỉ cho họ chữ đó, cộng với “Rue de
I’Ouest”. Hai cô gái bàn với nhau một lúc rồi quay sang tôi:“Chị biết đấy, có khi những cái tên này chỉ là hư cấu thôi.
Cuốn sách này cũ rồi mà.”Phải, cuốn sách này cũ thật nhưng mấy cái tên này chắc chắn
không phải hư cấu. Hugo không bịa ra chúng. Hugo đã mô tả Paris đúng như thời của
ông. Có thể là tên đường đã thay đổi khi Paris được tái thiết theo kế hoạch của
bá tước Haussmann. Có thể các cô gái này quá trẻ để biết và tin vào một Paris
đó.Vậy là tôi quyết định rời khỏi vườn và trở lại vào một ngày
có nắng để tìm cho ra. Ngoài cổng vườn trên phố Thánh Michel, tôi nhìn thấy một
hiệu bán sách và tạp chí với cái tên “The Economist [43] ” nổi bật
phía trên và bên cạnh đó là jazz club có tên The Little Journal mà cả
mấy cuốn sách du lịch đều gợi ý tôi nên ghé vào. Vì tất cả giấy và bút tôi mang
theo đều đã hết nên tôi ghé vào hiệu sách để mua thêm.[43] Nhà kinh tế học.Trả tiền xong và đã quay người đi, một cái gì đó kéo tôi quay
lại hỏi người bán hàng – cũng là người chủ tiệm sách – rằng tại sao cửa hàng của
ông ấy lại có tên “The Economist”. Người bán hàng hào hứng giải thích với tôi rằng
cửa hàng của ông ấy là “đối tác” với tạp chí The Economist nổi tiếng.
Tôi nói “ oh très bien, excellent magazine [44] ” và giải thích
thêm với ông ấy rằng, hồi còn học đại học ở Hà Nội, tôi theo học ngành ngoại
thương, thế nên hồi đó tôi đọc The Economist hằng tuần. Quả thật, hồi
những năm từ 1995 đến 1997, khi Internet còn hiếm, tôi thường mua những bản The
Economist, Time và Newsweek từ cửa hàng bán sách báo cũ trên phố Bà Triệu
để học cái gọi là “tiếng Anh thương mại” và thỉnh thoảng dịch một bài tôi thích
cho các báo Việt Nam. Hồi đó, tùy vào báo đã cũ một tuần hay hai tuần mà tôi sẽ
trả hai ngàn đến mười ngàn đồng một tờ, và khi dịch xong một bài, tôi có thể được
trả tứ tám mươi đến hai trăm ngàn đồng. Đấy là một trong những cách kiếm tiền đầu
tiên của tôi ở đại hoc, trước khi tôi tìm ra những cách khác nhanh hơn và nhiều
hơn.[44] Ồ, hay quá, một tạp chí tuyệt vời.Ông chủ hiệu sách rất vui khi biết rằng tôi đọc The
Economist ở Việt Nam. Ông tặng tôi một cuốn sổ nhỏ có chữ “The Economist”
bên ngoài làm kỷ niệm. Thấy ông vui tính, tôi lấy cuốn Những người khốn khổ trong
túi ra hỏi xem ông có biết “the Pepienere” với phố Rue I’Ouest ở đâu không. Ông
nói nó ngay bên đường kỳa cô kỳa, chính là cái hàng cây cắt phẳng đó, cô nhìn
thấy chưa?Trời ơi, tôi đã loanh quanh luẩn quẩn ở đó mấy lần; đã nằm đó
mà đọc sách; thậm chí đã nằm ở đó để tra bản đồ tìm chính nó. Thật không thể
tin được.Nhưng lần này, rõ ràng không có bóng dáng anh hùng ca phố
Xanh Đờ Ni nào. Tôi cũng không hy vọng nhiều ở Maison de Victor Hugo.Lúc 5 giờ chiều, từ cửa sổ tầng ba căn nhà Victor Hugo nhìn
ra, Place des Vosges – cái công viên nhỏ hình chữ nhật có nhiều hàng cây dẻ
xanh lá và những ghế băng dài – không một bóng người. Mưa đã ngớt nhưng mặt trời
vẫn khuất sau mây và mặt đất trong công viên có những vũng nước nhỏ như những
chiếc gương xám. Căn phòng tôi đang ngồi này có sàn gỗ, với những tấm rèm màu đỏ
sẫm và thảm tường treo quanh phòng. Một cái gương, một bức tượng bán thân của
Hugo và sáu bức tranh lớn trên tường trong đó có một bức vẽ Hugo và con trai mà
tôi quen thuộc. Giữa phòng có hai tủ kính lớn báy bản tin đầu tiên của các tập
thơ và kịch của Hugo: Lá thu, Ánh sáng và những cái bóng, Chàng hề của nhà
vua . Có cả hai cái kiếm sắt cùng một số huân chương, mề đay được bày
trong phòng.Ba phòng liền kề căn phòng này hơi kỳ cục, nếu không muốn nói
là xấu. Một căn phòng trưng bày rất nhiều đĩa sứ và đồ cổ từ phương Đông; tường
nhà cũng được sơn và trang trí bằng sơn mài hoặc chất liệu gì đó, khiến cho căn
phòng trở nên nặng nề, ngột ngạt. Thậm chí có cả một bức tượng Phật Bà Quan Âm
bằng sứ và một số đồ sứ minh họa các điển tích trong văn hóa Trung Hoa. Căn
phòng tiếp theo có một cái bàn lớn ở chính giữa phòng, xung quanh là ghế và các
tủ gỗ - đây là phòng ăn hoặc phòng hút xì gà. Phòng tiếp theo là phòng làm việc,
nơi Hugo viết. Căn phòng chỉ có vài cái ghế, bút, lọ mực và một tủ sách. Kế đến
là phòng ngủ. Căn phòng rất tối và lạ lùng – tường phủ thảm đỏ, và cái gường
thì hết sức nhỏ; không thể tưởng tượng cái giường búp bê đó lại có thể chứa một
con người như Hugo.Từ lúc vào Maison de Hugo đến lúc này, tôi không hề có cảm
giác rằng Hugo từng sống ở đây. Không một đồ vật nào gợi lên tinh thần của ông,
khí chất của ông. Thứ duy nhất mang lại một chút liên hệ là những tấm kính màu
nhỏ xíu ở các cửa sổ dọc cầu thang dẫn lên căn nhà. Và ở cái chiếu nghỉ giữa tầng
hai và tầng ba có một tượng thần Cupid bằng đồng đen tinh nghịch nhìn xuống;
tôi cứ nghĩ nếu cái tượng này đã ở đó từ lúc còn Hugo, thì thần Cupid xinh xắn
kia đã chứng kiến Hugo đi lại trên cầu thanh này nhiều năm. Hugo hẳn là sẽ dừng
lại ở cái chiếu nghỉ này mà nhìn qua những vuông cửa sổ nhỏ ra ngoài.Nhưng ngoài hai chi tiết ấy, cả căn nhà là một cổ vật không
linh hồn, không tính cách.Ở Maison de Victor Hugo ra, trời bắt đầu nhá nhem tối và mưa
xối xả. Không có ô nên tôi đành đứng lại trong mái hiên của khu nhà mà lúc nãy
một nghệ sĩ piano đường phố có tên Yuri Klempert đang chơi nhạc. Tôi bỏ 1 euro
để yêu cầu ông chơi bản Raindrops (Những giọt mưa) của Chopin. Rồi
tôi yêu cầu vài bản nhạc nữa của Liszt và Tchaikovsky. Bên ngoài, mưa tiếp tục
trút, khác hẳn những cơn mưa lây rây mấy hôm trước. Nước mưa chảy ròng ròng từ
mái hiên xuống thành một bức rèm nước; ngoài công viên không một bóng người; chỉ
có tiếng piano thánh thót lẫn tiếng mưa trong hành lang lớn bao bọc cả khu nhà
này.Tôi ngồi khoảng ba mươi phút thì một cô gái rất đẹp cũng ghé
vào tránh mưa và cũng bỏ tiền để yêu cầu nghe Beethoven.Thế rồi, giữa lúc mưa ngày một nặng hạt, một thanh niên chạy
một chiếc xe Yamaha dừng lại dưới hiên. Cậu ta rất trẻ, có lẽ khoảng mười tám
hay hai mươi tuổi. Cậu ta mặc một cái áo da đen với quần bò đen bó sát và giày
da đen cao cổ kiểu nhà binh, dây buộc còn lòng thòng. Lúc mới tới, cậu ta đội
mũ bảo hiểm nhưng giờ thì đã bỏ mũ ra ôm trước ngực. Lúc mới xuống khỏi xe, cậu
ta bồn chồn, vừa hút thuốc vừa trầm ngâm nhìn ra ngoài trời mưa nặng hạt như sợ
rằng sẽ không kịp đến một cuộc hẹn nào đó, nhưng sau khi hút hết điếu thuốc, cậu
có vẻ bình tĩnh lại, rồi bỏ mũ xuống yên xe và giờ thì đang hướng về phía Yuri
Kemplert để nghe nhạc. Lúc nãy tôi chỉ thấy khuôn mặt nhìn nghiêng của cậu ta,
giờ thì tôi thấy cả khuôn mặt.Tôi chưa bao giờ nhìn thấy Ma-ri-uýt trong Những người
khốn khổ , nhưng nếu Ma-ri-uýt hiện ra bằng xương bằng thịt thì chắc sẽ có
khuôn mặt của chàng trai này.Và cái ý nghĩ tự nhiên tiếp theo, mà không, đó không phải ý
nghĩ, nó là một cảm giác tự nhiên mà tôi cảm thấy bằng cả cơ thể: tôi yêu chàng
trai này, không phải như yêu sự tái hiện của Ma-ri-uýt mà như chính cậu ấy,
chàng trai Paris xa lạ này. Giá tôi có thể mời cậu ấy đi ăn tối. Giá mà có thể
ngồi bên cạnh cậu ấy ăn một bữa tối, như hai người xa lạ, và cậu ấy có thể nói
gì hoặc không nói gì cũng được, có thể hiểu tôi hoặc không hiểu tôi, có thể biết
về tình yêu của tôi hoặc không biết cũng được, tôi không bận lòng. Chỉ cần được
ngồi cạnh nhau ăn một bữa tối; tôi sẽ chấp nhận khoảng trống ở giữa để đổi lấy
cái việc ở gần cậu ấy vào một chiều mưa thế này; như lúc này tôi đã đang chấp
nhận khoảng trống giữa tôi với cậu ấy, với cô gái đẹp kia và với Yuri Klempert.“Anh có thể đi ăn tối với tôi không?”Như thế có kỳ cục quá không? Có rẻ tiền quá không? Tôi đang
làm đúng cái việc mà người bán sách và “nhà khoa học sở hữu thuyết giãn nở vũ
trụ” đã làm với tôi. Những cơn bốc đồng này? Chúng là lỗi của Paris hay của
tôi? Nhưng mà thực sự, tôi ước gì tôi có đủ dũng cảm mà nói với cậu ấy “Anh có
thể đi ăn tối với tôi không?”Anh có thể đi ăn tối với tôi không?Nhưng tôi là một kẻ hèn nhát, đã luôn là một kẻ hèn nhát
trong những tình huống thế này. Thế nên tôi chỉ tiếp tục nghe nhạc và viết những
dòng này vào sổ trong lúc vẫn theo dõi Ma-ri-uýt của tôi qua đuôi mắt.
Ma-ri-uýt cũng đang theo dõi tôi – có lẽ cậu ấy đang tự hỏi không biết tôi viết
gì, và chắc không thể ngờ rằng tôi đang viết về cậu ấy.Người yêu Paris của tôi. Mon coeur . Tôi yêu cậu
nhiều hơn cậu biết.Trời vừa đổ một cơn mưa nặng hạt mới. Yuri Klepert đang
chơi Pathetique của Beethoven và Ma-ri-uýt của tôi lại lo lắng nhìn
ra trời mưa. Tôi mong trời ngớt mưa để cậu ấy kịp đến cuộc hẹn với Cô-dét của cậu
ấy.Đi đi, và hãy yêu cô ấy thật nhiều. Tôi sẽ không ghen.Paris, ngày…Francesca đã về Milan, Julia đã đi Nice, tôi đã chuyển sang
phòng ở mới và có ba người bạn mới: Amy người Seattle, Tristan người Anh, và một
phụ nữ trung niên bí ẩn người Canada. Amy là sinh viên ngành chính trị và quan
hệ quốc tế tới Paris một năm theo chương trình trao đổi sinh viên; Tristan cũng
là sinh viên đang đi du lịch. Còn người phụ nữ Canada to béo thì tôi hoàn toàn
không biết lai lịch và cũng không biết lý do chị ấy tời Paris làm gì và tại sao
lại có mặt ở cái khách sạn sinh vên này.Rất nhiều người tới Paris để mua sắm. Nhiều cô gái đặc biệt tới
Paris chỉ để mua sắm và ngắm thời trang. Nhưng mua sắm không nằm
trong danh sách các việc tôi muốn làm khi tới Paris, và sự thật là chưa bao giờ
nằm trong danh sách các việc tôi muốn làm ở bất cứ đâu. Từ hôm đến Paris, tôi
chưa hề bước chân vào một cửa hàng quần áo giày dép nào mặc dù đã ngắm nghía từ
xa những cửa hàng thời trang trên Rue de Royale và Rue St-Honoré. Nhưng chiêm
ngưỡng cái đẹp và sự thanh lịch Paris vậy thôi, chứ tôi không có ham muốn mua
những quần áo ấy mang lên người. Cho đến hôm nay, tôi mới chỉ lên một cơn
shopping khi tôi gặp một cửa hàng bán sách và băng đĩa cũ ở số 20 phố Thánh
Michel. Cũng ở đây lần đầu tiên tôi thấy phiền lòng với việc mình không biết tiếng
Pháp và đành bất lực nhìn những dãy sách cũ như người đi trên sa mạc thấy nước
mà không được uống. Có một số tên sách và tác giả ở khu “Poche Romantique” và
“Romans Poche” là quen thuộc, như Barbara Taylor Bradford hay Danielle Sterk và
“Arts Humor Theatre Poesie Cinema” có nhiều đầu sách mà tôi lờ mờ đoán được tên
sách nhưng không thể biết thêm các tác giả Pháp viết gì, style ra sao.Tuy thế, khi đọc sách du lịch về khu chợ trời Clignancent bên
quận 18, nơi người ta bán “thượng vàng hạ cám”, tôi nhất định phải tới xem. Như
giới thiệu thì đây là chợ trời lớn nhất trên thế giới, có rất nhiều thứ chỉ có
thể kiếm được ở đây, và chỉ mở vào thứ Bảy, Chủ nhật và thứ Hai.Sáng nay, khi tôi chuẩn bị ra ngoài, Amy và Tristan hỏi tôi
đi đâu; tôi nói “chợ trời” và Amy lập tức vùng dậy muốn đi cùng; nhưng vì Amy
còn phải tắm gội, ăn sáng, và trang điểm rất lâu nên cô ấy bảo tôi cứ đi trước,
với lời dặn:“Khi nào tới nơi, em sẽ tìm chị rồi mình cùng mua sắm hay ăn
trưa.”Nhưng bây giờ, khi đang ở trong chợ rồi, tôi nhận thấy không
có cách nào Amy có thể tìm ra tôi trong cái chợ trời lớn này. Khu chợ gồm rất
nhiều các khu vực bán đồ khác nhau, chia theo thể loại, và đúng là bán thượng
vàng hạ cám, bất cứ cái gì mà người ta có thể nghĩ tới, từ búp bê, kim chỉ,
tranh ảnh, bàn ghế, đèn, đồ uống trà, đồ nhà bếp, đồ trên bàn ăn, thắt lưng, quần
áo thời trang cổ xưa, găng tay, dây đeo chìa khóa, sách, cây cảnh, đĩa, đài
quay đĩa cổ, thậm chỉ cả quan tài và bia mộ. Và mỗi một thứ đồ được bày thành
khu riêng; như khu bán kim chỉ có cả vài đường ngách ngắn chỉ bán đủ các thứ
kim chỉ, len, sợi cho những người thích khâu, may, đan lát.Trong chợ trời ở Clignancourt có thượng vàng hạ cám. Đây là
những bao diêm đủ loại (Paris)Khi viết những dòng này, tôi ngồi ở góc cắt giữa Allée 3
(Ngách 3) và Allée 4 (Ngách 4) của Marche Antiques, khu chợ bán đồ cổ. Những
ngách này chằng chịt khắp chợ, giống những đường làng nhỏ và ngắn, làm thành một
ma trận. Vào đến đây, tôi mới thấy mình hoàn toàn sai lầm khi cho rằng mình
không phải là người thích mua sắm. Tôi có thể ở đây cả ngày để đi khắp chợ bởi
vì thực tế là tôi đã ngồi cả tiếng vừa rồi để đọc các postcard trong một cửa
hàng bán postcard cũ. Tôi dĩ nhiên chỉ có thể đoán lờ mờ nội dung những tấm thiệp.
Có một loạt thiệp từ một người đàn ông đang đi du lịch ở Ấn Độ vào năm 1063 gửi
cho bạn ở Marseille; rồi một xấp thiệp từ một ông mục sư đều đặn hàng tháng gửi
cho vợ từ châu Phi, kể những chuyện “safari” và bệnh “syphilis”. Có nhiều tấm
thiệp gửi từ Việt Nam về Paris từ thời Đông Dương, với những hình phố cổ Hà Nội,
vịnh Bắc Bộ, chợ Đồng Xuân, hay các cô gái Sài Gòn – Gia Định. Tôi bỏ 50 xu mua
một tấm thiệp gửi từ Hà Nội năm 1926 từ một thanh niên pháp có vẻ đang rất nhớ
nhà:Georges thân mến,Từ một xứ sở rất xa xôi mình gửi đến bạn những lời chúc cho
năm mới 1926 và không phải không có những nỗi buồn. Mình đã nhớ nhà nhiều hơn
mình tưởng.Tuy nhiên mình cưỡi ngựa một giờ mỗi buổi sáng và bạn biết đó
là một trong những niềm say mê lớn của mình. Có điều, suốt dọc đường, mình chỉ
thấy cảnh ruộng lúa khá đơn điệu.Khi cưỡi ngựa bạn có thể có ý niệm về nông nghiệp tại đất nước
này; điều không may là bạn chẳng thể biết thêm gì chính xác vì một cách tự
nhiên, tất cả những cánh đồng lúa đều ngập nước và người ta làm việc trong điều
kiện như vậy.Mình ở đây rất bận rộn (toàn chuyện pháp lý, ban hành luật lệ)
và không còn lúc nào để đi săn. Còn bạn thì sao?Hãy viết cho mình vài chữ, mình sẽ rất vui; nó mang tới cho
mình chút hương của mảnh đất mình yêu hết lòng.Thân áiÔm hôn từ một người bạn đã không quên bạn.Những tấm thiệp đều đã ố vàng, nước mực đen nhem nhuốc, được
đựng trong một cái hộp gỗ có lẽ cũng có tuổi đời hàng trăm năm. Tất cả những
người gửi thư này giờ đã chết. Georges có lẽ đã chết. Người gửi thư cho Georges
cùng với nỗi nhớ nhà và những ký ức Việt Nam của anh ta cũng đã chết.Tất cả những gì còn lại của họ đang được bán ở đây, với giá
50 xu. Họ có lẽ không bao giờ hình dung những tấm thiệp riêng tư lại ra chợ, xếp
lẫn trong những bưu thiếp của hàng ngàn người khác. Ngồi đọc những tấm thiệp
này giống như được mở những cánh cửa bí mật vào cuộc đời của những người xa lạ
trong quá khứ và quan sát những chuyện đời vô danh đã trôi qua không ai ghi
chép, kể lại.Tôi may mắn làm sao khi còn đang sống đây, còn đang hít thở
và đi lại. Càng may mắn hơn nữa vì tôi đang ở Paris vào một ngày như hôm nay;
trời đã hửng nắng sau nhiều ngày mưa rả rích.Đã trưa rồi và chợ ngày càng đông người tới mua sắm, trong đó
có rất nhiều du khách Mỹ, người nào cũng hớn hở túi lớn, túi nhỏ. Chính tôi, mặc
dù đã huy dộng tất cả ý chí và lý do, vẫn cứ mua ba cái áo thun mỏng cao cổ,
hai cái mũ nồi (cùng với một bài học về cách đội mũ kiểu Paris từ người bán
hàng Ấn Độ), một cái áo khoác mùa thu màu đen. Tất cả đều là đồ rẻ tiền nhưng lại
rất đẹp. Ba cái áo có cổ đề giá 5 euro một cái nhưng tôi mua cả ba với giá 10
euro; cái áo khoác chỉ 23 euro. Tôi phải cố gắng lắm mới cưỡng lại được ham muốn
mua giày cao gót và bốt vì chúng đẹp mà rẻ, một đôi bốt chỉ chừng 20 euro. Quả
thực, ngay cả những đồ gia công bán ở chợ trời Paris cũng rất đẹp. Điều này thì
Mỹ không bằng.Rời khỏi khu chợ trời, tôi lên tàu số 4 rồi lên xuống bến
Chateau Rouge của khu Montmartre. Lên khỏi bến, từ đầu tiên nảy lên trong óc
tôi là “đen”. Người da đen ở khắp nơi; nhưng không phải kiểu người da đen đã bị
Mỹ hóa qua hàng trăm năm như tôi thấy ở Chicago. Đây là những người da đen vẫn
còn gần với châu Phi, có lẽ mới nhập cư từ các thuộc địa cũ của pháp. Cả phố
dài dẫn từ bến tàu lên đến đỉnh đồi Montmartre san sát các hiệu làm đầu cho người
da đen và của người da đen. Những bộ tóc giả đủ màu sắc trưng dọc các cửa kính
đều là tóc của người da đen. Ở cuối một con đường hẹp, tôi leo mấy trăm bậc
thang dọc theo Rue Foyatier để lên đỉnh đồi, chỗ có Sacré-Coeur Basilica.Bên ngoài thánh đường Scacré-Coeur ở khu Montmartre của ParisLúc này, trời nắng rực rỡ và người tràn ra ngồi khắp các bậc
đá dẫn lên Basilica trong lúc các nghệ sĩ đường phố chơi nhạc rộn rac. Từ chỗ
này có thể nhìn xuống toàn cảnh Paris… với những khối nhà mái xám, sông Seine
và các đại lộ. Một thanh niên da đen đang vừa chơi guitar vừa hát bài I’ll
survive trong lúc những khuôn mặt đẹp đẽ quanh tôi cứ ngửa lên hứng nắng
và ôm lấy nhau. Trông ai cũng rạng ngời hạnh phúc và thảnh thơi.Chiều tối nay, trên đường từ Basilica Sacré-Coeur xuống, tôi
đi sau một đôi nam nữ đang khoác tay nhau bước chậm. Giữa con đường lát đá dốc
xuống phía dưới, họ đột nhiên đứng lại hôn nhau như thể không có ai ở xung
quanh. Mà quả thực là ngoài tôi thì không còn ai khác xung quanh thật. Tôi bước
ngang qua họ như thể không hề biết là có người đang hôn nhau cạnh mình. Ở cuối
con đường dốc, trước khi rẽ phải, tôi lén liếc nhìn lại. Đôi bạn trẻ vẫn đang
hôn nhau, trời ơi! Nghĩa là họ đã hôn nhau không ngừng ít nhất là năm phút vừa
rồi. Nhưng mà, quả thật, ở những bậc thềm dẫn lên Basilica, các đôi tình nhân
cũng hôn nhau say đắm; thực tế là khắp Paris tôi đi, người ta hôn nhau như
không biết có ngày mai. Mà không phải những cái hôn ngớ ngẩn, nụ hôn nào cũng dài.Trời ơi, tôi cũng muốn hôn.Thực sự, ở Paris, không thể không nghĩ về tình yêu. Paris tôn
thờ tình yêu – yêu như cách giải thoát duy nhất, yêu như biểu hiện cao nhất của
sự duy mỹ, yêu như không thể tưởng tượng nổi một cách sống nào khác hơn.Trời ơi, tôi cũng muốn hôn.Rời Montmartre, tôi bắt tàu về lại khách sạn. Vừa rời khỏi bến
tàu Hôtel de Ville, cái không khí “nghệ sĩ” của Montmartre vừa ngấm vào tôi đã
lập tức bị không khí rạo rực của khu Marais phủ nên. Lúc này, một cái chợ trời
nhỏ vừa được mở ngay góc phố Rue de Rivoli; bày đầy những khúc xúc xích óng mỡ,
những tảng thịt quay vàng, những tủ gà vịt rôti ngồn ngộn, khoai tây nướng trồng
cao, rau củ quả la liệt, cộng với rất nhiều pho mát, bơ, bánh mỳ, rượu vang… cả
một biển màu săc, mùi vị làm người ta ứa nước bọt.Tôi mua một chùm nho và một nửa con gà quay nhỏ rồi trở về
phòng. Nhưng gần đến cửa khách sạn, tôi nhìn thấy mấy bà sơ mặc áo thụng trắng
thong thả bước từ căn nhà kế bên khách sạn vào nhà thờ đối diện. Tôi đã ở khách
sạn này cả tuần và nghe chuông nhà thờ hằng ngày mà không biết gì về nhà thờ
này, vậy là tôi đi theo họ.Vừa vào qua cửa, tôi lập tức đứng lại nín thở và từ đó bắt đầu
phải rón rén bước. Mỗi lần cái túi đựng nho và gà quay của tôi lạo xạo là tôi
rúm lại chờ sấm sét giáng xuống đầu. Hóa ra đây là nhà tu Thánh Gervais thuộc cộng
đoàn Jerusalem; và lúc đó trong nhà tu đang có buổi cầu kinh theo kiểu ngồi im
(the silent mass). Tất cả các tu sĩ đều mặc áo thụng dài, nữ thì màu xanh nhạt
hoặc trắng, nam thì màu đen; họ ngồi xếp thành nhiều hàng, cúi đầu im lặng trước
bàn thờ Chúa. Cả nhà tu không một tiếng động. Chỉ có những bóng người ngồi im lặng
nói chuyện với Chúa bằng ý nghĩ trong lúc ánh nắng cuối ngày rọi từng vệt màu
lên những bức tường xám bằng đá cẩm thạch. Thật khó tin là ở ngay bên ngoài những
tấm kính màu và những trụ tường xám đó, ở phía bên phải là Rue de Rivoli với một
cái chợ trời đang náo nhiệt người mua bán và bên trái là con đường chạy dọc
sông Seine lúc nào cũng đầy xe.Buổi cầu kinh trong nhà tu Thánh Gervais thuộc cộng đoàn
Jerusalem, đối diện khách sạn tôi ởParis có quá nhiều màu sắc, quá nhiều mảng miếng, nhiều góc
khuất, nhiều tiếng nói khác nhau. Paris là một biển ấn tượng không ngừng thay đổi.
Paris bắt người ta phải chăm chú ngắm nhìn. Và càng nhìn càng bị mê hoặc. Giờ
thì tôi hiểu tại sao Paris là thành phố của nghệ thuật; nhất là vì sao hội họa Ấn
tượng đã ra đời và phát triển ở nơi đây. Cả thành phố như một palette màu vô
biên cho người nghệ sĩ.Những ngày này, ở Paris, tôi thực sự không thể quan tâm được
tới nơi nào khác. Tôi đã hầu như cắt đứt giao tiếp với thế giới bên ngoài, với
thế giới cũ. Vào các buổi sáng trước khi ra ngoài, hoặc vào đêm, trước khi đi
ngủ, tôi vẫn xuống nhà, bỏ 2 euro vào cái máy tính của khách sạn để kiểm tra
email trong mười phút. Thỉnh thoảng có email của Sơn; “ở nhà vẫn bình thường” –
anh viết. Có cả một đống thư từ Nhà xuất bản – họ đang làm bìa và biên tập nội
dung lần cuối cho tập truyện ngắn sắp xuất bản của tôi. Nhưng tôi thậm chí cũng
không quan tâm được tới cuốn sách của chính mình. Cuộc sống cũ có vẻ như ở rất
xa, thâm chí không có thật.Mai là Chủ nhật. Tôi không có kế hoạch gì cả. Tôi dành cho
mình niềm vui kiên nhẫn chờ xem sáng mai, khi tỉnh dậy, Paris gợi ý với tôi điều
gì.Paris, ngày Chủ nhật…10:42 sáng: Đứng viết trên cầu Royal Port – cầu bắc qua sông
Seine từ vườn Tuileries sang bảo tàng Orsay. Tôi vẫn không thể nào get
enough of the Seine [45] . Mỗi lần qua sông, tôi lại đứng lại nhìn và
lại choáng voáng. Vào lúc này, từ chỗ tôi đứng, bên trái là bảo tàng Orsay, bên
phải là vườn Tuileries, phía trước mặt là vòm kính màu xanh lá mạ nhạt của Gare
du Nord đang ánh lên trong ánh nắng (hay là Gare Saint-Lazare? Không chắc lắm).
Tôi quay người và thấy hai ngọn tháp kiêu hãnh của Nhà thờ Đức Bà, vòm tròn của
Pantheon, những cây cầu bắc ngang sông Seine, những ngôi nhà dọc sông, hàng
dương liễu dưới sông và dĩ nhiên là màu nước sông Seine. Vẫn là cảnh đã nhìn
nhiều lần, vậy mà lần nào cũng mới và vẫn không đủ.[45] Cảm thấy đã nhìn đủ sông Seine.Mưa rơi cả đêm qua nhưng đến sáng nay thì ngừng và bây giờ mặt
trời đang sắp sửa ló ra. Trời nhiều mây, nhưng xuyên qua những đám mây thấp là
một vài khoảng xanh nhạt. Ở đường chân trời, phía Gare du Nord, nắng chiếu chéo
lên các nóc nhà, thắp sáng cả khoảng thành phố bên đó. Dưới sông, các thuyền du
lịch chạy đều đặn; khách đứng đầy ở ngoài boong, nhìn lên vẫy vẫy tay, tôi cũng
vẫy tay đáp lại. Tuy thế, trừ những con thuyền dưới sông, thành phố vắng vẻ lạ
thường, Paris còn chưa dậy. Từ sáng tới giờ, những người Paris duy nhất mà tôi
nhìn thấy là những người chạy bộ trong vườn Tuileries và dưới con đường bê tông
dọc sông Seine (họ gần như mặc đồng phục Abercrombie và Fitch). Không có những
dòng xe ô tô. Không có khách du lịch nườm nượp trên phố. Các quầy bán sách dọc
sông không mở. Đây là một Paris khác – yên tĩnh, hơi ảm đạm, hơi ngái ngủ… -
nhưng vì thế mà càng quyến rũ.Người ta bảo “ngày nào ở Paris cũng là Chủ nhật”. Tôi không đồng
ý. Tôi nghĩ phải sửa lại: “Ngày nào ở Paris cũng là thử Bảy; còn ngày Chủ nhật ở
Paris là ngày Chủ nhật ở Paris”. Bần thần, ít nhất là vào những giờ sớm của buổi
sáng, thành phố rửa sạch son phấn trang điểm và lộ khuôn mặt mộc của nó. Một vẻ
hoài niệm cổ điển bao trùm, khiến cho người ta đột nhiên cũng trở nên trầm mặc
và muốn xích lại gần nhau. Trên metro không người buổi sớm, tôi ngồi đối diện một
chàng trai có vẻ là sinh viên Sorbonne. Anh ta liếc tôi, khi tôi nhận ra và liếc
lại thì anh ta lại quay đi. Buồn cười. Thật dễ dàng để bắt đầu một romance ở
Paris. Thành phố này giống như một bãi mìn, à không, nói thế thì dễ nghĩ đến
phân chó khắp nơi; thành phố này giống như là một bãi cỏ khô được đánh tơi, chỉ
cần một cái liếc mắt cũng có thể bốc thành một ngọn lửa. Bất cứ nơi đâu, bất cứ
lúc nào.3:02 chiều: Viết từ Café A Bonaparte, 42 Rue Bonaparte,
75006, Paris.Đã gọi một thứ đồ uống có tên café crème, chocolate maison và
một món có tên Mixte Ourf et Omelettes. Họ vừa mang ra một cái chén sứ trắng đựng
chocolate dạng xi rô và một cái bình sứ đựng cái gì đó có bọt trắng ở trên, bốc
hơi nữa. Tôi đoán là sữa nhưng không chắc. Cách phục vụ đồ ăn ở Paris khác với ở
Mỹ nên nhiều khi cũng không biết chắc là mình gọi được món gì.Quán café này nằm trong quảng trường Thánh Germain des Pres,
góc cắt giữa Rue de Rennes và Rue Bonarparte. Tôi ngồi ở một cái bàn phía bên
ngoài vỉa hè. Từ chỗ này, nhìn thẳng ra nhà thờ Thánh Germain (thực ra không biết
tên chính xác, tôi gọi tạm như vậy) và cách hai mươi mét phía trước mặt là quán
café Les Deux Magots, chỗ mà Hemingway, Fitzgerald và nhiều người viết thuộc
Thê Hệ Mất Mát thường ngồi vào thập kỷ 20 của thế kỷ trước. Bên cạnh café
Magots là Café de Flore, nơi Jean Paul Satre viết The Road To Freedom (Đường
tới tự do) và Simon de Beauvoir [46] hay ngồi chờ Satre. Ngay
trên vỉa hè phía bên ngoài hai quán cà phê này có một cái cột sắt nhỏ, trên có
tấm biển viết đại khái như vậy.[46] Nhà triết học, nhà văn nữ quyền và hiện sinh của Pháp, đồng
nghiệp và người tình của Satre.Tấm biển bên ngoài hai quán Café Deux Magots và Café de FloreTôi đã định vào bên trong café Deux Magots nhưng quán quá
đông nên tôi đi sang bên café Bonaparte. Tôi sẽ ngồi đây, have fun [47] vào
một buổi chiều Chủ nhật lười biếng bằng cách viết phác vài thứ thế này.[47] Vui chơi3:24 chiều: Vừa ăn xong món omelette.Người ta bảo quảng trường Thánh Germain des Pres là một trong
những nơi tuyệt vời nhất ở Paris để ngắm người qua lại. Chắc ngày thường thì chỗ
này đông lắm. Nhưng hôm nay là Chủ nhật, đường phố vắng vẻ hơn nhiều. Trời lại
có vẻ sắp mưa nữa. Tuy thế, quanh chỗ tôi ngồi, không ai có vẻ lo lắng đến chuyện
trời nắng hay mưa. Họ cứ đủng đỉnh ngồi ăn bữa trưa muộn (giờ là 3:33 chiều rồi),
uống cà phê, hút thuốc, đọc báo và dĩ nhiên cứ hôi hổi tuôn ra những tràng tiếng
Pháp du dương. Bên phải tôi, một người phụ nữ châu Á đứng tuổi (có lẽ là người
Philippines) đang uống espresso trong một cái tách trắng bé xíu; bà ta mặc
cocktail dress màu đen, đánh phấn rất đậm, mang kính to che gần nửa khuôn mặt
và đeo một cái vòng bạc lớn ở cổ tay. Bà ta có cái vẻ của một thương nhân thành
đạt mà bạn thấy bước vào các cửa hàng với vẻ mặt lạnh lùng và các cô phục vụ phải
xô ra đón tiếp. Bà ta ngồi một mình – thực tế là tôi và bà ta là hai người duy
nhất ngồi một mình.Bên tay trái tôi là một người đàn ông Pháp ngồi với một người
phụ nữ - cả hai uống bia Corona. Trông họ như là người tình đã nhiều năm rồi,
biểu hiện vừa có cái yêu chiều lại vừa thân mật, tin tưởng, tức là vừa là người
yêu vừa là bạn đường. Trước mặt tôi là hai đôi vợ chồng trẻ - ngồi quay lưng lại
nên tôi không thể quan sát kỹ được. Chênh chếch là ba học sinh trung học vừa
hút thuốc vừa uống cà phê đen và giải ô đố chữ trên báo Chủ nhật. Lại tự hỏi:
đàn ông Pháp bắt đầu học các phép tắc phòng trà từ năm lên mấy?Hôm nay, nhiều cửa hàng trên phố đóng cửa. Trên đường đến
đây, tôi lần đầu tiên nhìn thấy những người vô gia cư và ăn xin của Paris. Nói
chính xác thì hôm qua, hôm kia tôi cũng đã nhìn thấy họ ở Montmartre, ở khu
Clignancourt, ở dưới bến tàu điện… nhưng những người này bị nuốt chửng trong biển
người nườm nượp trên các đường phố Paris. Còn hôm nay, Chủ nhật, khi các đường
phố hoàn toàn vắng vẻ, đột nhiên những người vô gia cư và ăn xin này nổi lên
trên nền chính như những dân cư chính thức của thành phố thay vì chỉ là người tạm
trú hoặc phần tử bên lề. Trông họ như những ông hoàng và bà chúa trên những con
đường mang tên các vị thánh: Thánh Dominique, Thánh Germain, Thánh Này và Thánh
Nọ.Người vô gia cư và ăn xin thì chỗ nào trông cũng giống hệt
nhau, dù là Paris hay Chicago hay Boton. Họ luôn cuộn một tấm chăn lớn quanh
người, quây những hộp các tông rỗng thành pháo đài xung quanh mình, chất đầy quần
áo cũ và đồ đạc trong một cái xe chở hàng lấy được ở một siêu thị nào đó. Họ
chiếm đóng một cái cửa kính ăn sâu vào tường của một cửa hàng trên phố, để
tránh gió mà vẫn không quá xa đám đông đi lại trên phố. Và họ có thể ngủ bất cứ
lúc nào, trong bất cứ tư thế nào.5:44 chiều: Viết từ trong vườn Lugxembourg. Đang ngồi ở thảm
cỏ giữa những hàng cây được tỉa thẳng tắp, cạnh cổng ra đường Thánh Michel –
chính là cái chỗ Pierpene mà tôi mất bao công mới tìm ra. Ngồi xung qunh tôi chủ
yếu là sinh viên Sorbonne và học sinh từ Lycée Saint Louis [48] . Từng
nhóm đứng, ngồi, nằm trên cỏ, ăn, uống, nói chuyện, đánh bài, ném đĩa, đọc sách
và dĩ nhiên hút thuốc. Từ đêm qua, cổ họng tôi đã bắt đầu rát, chắc là vì hít
quá nhiều khói thuốc lá ngoài đường phố. Nhưng ở Paris, không thể tránh khỏi
khói thuốc lá.[48] Một trường học nổi tiếng, chuyên đào tạo sinh viên để
chuẩn bị vào hệ thống đại học lớn (Grandes Ecoles) của Pháp.6:13 chiều: Nói thật, tôi đã ngừng đọc sách từ mười lăm phút
trước mặc dù vẫn nhìn vào trang sách. Nguyên nhân một đôi tình nhân vừa đến ngồi
cạnh tôi. Chàng trai ngồi hướng mặt về phía tôi – có một khuôn mặt rất cute; mặc
jean với một cái áo phông màu hồng nhạt (trông không hề gay); còn cô gái ngồi
quay lưng lại tôi nên tôi chỉ biết là cô gái có tóc dài màu hạt dẻ, người mảnh
mai. Trong mười lăm phút vừa rồi, họ chỉ làm một việc là hôn nhau. Tôi dĩ nhiên
không nhìn… thì tôi đang đọc sách mà, nhưng tôi vẫn có thể theo dõi sự việc.Tôi ngồi trên một cái ghế sắt cạnh bồn nước lớn trong vườn
Luxembourg đọc Những người khốn khổ của Victor Hugo. Một ngày mùa thu
nắng nhạtSự việc diễn ra như thế này:Đầu tiên, chàng trai áp hai tay vào khuôn mặt cô gái rồi nói
gì đó có vẻ rất chậm và ngọt ngào ( trời ơi ), rồi sau đó hôn vào tóc
cô gái ở phía bên ngoài tai phải, sau đó thì hôn đến vành tai, sau đó thì cụng
trán vào trán cô gái và giữ như vậy khoảng mấy phút. Sau đó thì đến màn hôn
môi. Không biết là bên trong thì thế nào còn từ bên ngoài thì có thứ tự như thế
này:Đầu tiên có rất nhiều những sự mút nhẹ vào môi dưới, sau đó
là đến môi trên, sau đó là đến khóe miệng, rồi sau đó là cả miệng, rồi sau đó
thì có vẻ là hai cái lưỡi quấn vào nhau… sau đó thì hai bên nghiêng đầu để đổi
tư thế sang bên kia… và rồi lặp lại quy trình từ chỗ mút nhẹ vào môi dưới… cứ
thế… cứ thế… và cứ thế… suốt 15 phút vừa rồi.Trong lúc này, một nhóm hai mươi sinh viên đi ngang qua và
không một ai thèm nhìn. Xung quanh tôi, cũng không ai nhìn. Thì tôi cũng đâu có
nhìn; tôi đang đọc sách mà.Ngay sau khi kết thúc tràng hôn đầu tiên thì đôi tình nhân
này lại bắt đầu tràng hôn thứ hai. Có vẻ như là màn Frech cancan này
còn tiếp diễn lâu nên tôi sẽ tiếp tục đọc sách vậy.6:40 chiều: Đôi bạn đã đi rồi. Màn French cancan miễn phí của
tôi đã hết.6:51 chiều: Một cô gái trẻ vừa đi ngang qua tôi, vừa đi vừa
nói chuyện trên điện thoại di động và khoa tay trong lúc nói. Mảnh dẻ, da trắng
nhưng có tàn nhang, tóc buộc lỏng lẻo trên đỉnh đầu, để xòa xuống mặt. Mặc một
cái áo len mỏng không tay màu xanh lá cây, váy ngắn màu trắng, bốt ngắn bằng da
đen loại mềm. Chắc chắn là cô gái này không quá mười tám tuổi. Nhưng nhìn cái
dáng đi và cử chỉ mà xem. Cô gái này đã có tất cả sự duyên dáng và quyến rũ của
một người đàn bà thuần thục. Đôi môi hơi bĩu ra và cong lên trong lúc nói chuyện
– đôi môi hoàn toàn sẵn sàng để hôn cũng như để cãi nhau với bạn trai. Eo nhỏ
như của một vũ nữ ballet, đồng thời lại vẫn thoáng cái xương xẩu, gày gò của một
đứa bé gái chưa lớn hết. Mũi cao và kiêu hãnh. Không biết những người con gái
Paris học sự quyến rũ chết người của họ từ đâu?7:25 tối: Mặt trời đang lặn dần phía sau cây thông cao đúng
chính giữa bãi cỏ. Thảm cỏ này xanh lạ lùng, là thứ cỏ ngắn màu xanh non giống
cỏ sân golf chứ không phải cỏ mật… khiến cho cái vòng tròn này giống như một ốc
đảo mà ngay bên ngoài hàng rào sắt là đường phố Paris lúc này chật người ngồi
trong các quán cà phê vỉa hè. Nhưng cái ấn tượng nhất là cách tất cả mọi người
đều kéo ghế ngồi thành vòng cung quanh bãi cỏ, mặt hướng về mặt trời và để bóng
họ đổ dài ra phía sau. Người thì đọc sách, người thì nói chuyện, người thì vẽ,
nhiều người chỉ ngồi im.11:30 tối: Hôm nay, tôi tìm ra con đường tối ưu để đi từ vườn
Luxembourg về khách sạn: thoát ra bằng cổng trên đường Thánh Michel, sau đó đi
thẳng Rue Soufflor hướng về Pantheon, đến phố Thánh Jacques thì rẽ trái và cứ
đi thẳng cho đến lúc gặp sông Seine và Nhà thờ Đức Bà. Phố Thánh Jacques là một
con đường dốc, như đi xuống đồi. Khi đi dọc phố, có thể nhìn thấy mặt trời lăn
trên nóc Nhà thờ Đức Bà.Tất cả mọi người đều kéo ghế ngồi thành vòng cung quanh bãi cỏ,
mặt hướng về mặt trờiTôi cũng phát hiện ra trong vườn Luxembourg có tượng Stendhal
và George Sand.Ghi ở lề: Nhận thấy là khi đi bộ dọc phố Thánh Jacques,
có hơi đánh hông. Cái này là tại đôi giày hay tại Paris? Có lẽ là Paris. Có cái
gì đó của Paris khiến người ta muốn đi chậm lại và đánh hông một chút trong lúc
bước.Ngày nào cũng đi ngang Nhà thờ Đức Bà trên đường về khách sạn,
vậy mà vẫn không chán.Đã sụt hơn một cân.
Nhân nói đến giày, hông, và sụt một cân, tôi phải thừa nhận một
điều: không thể ở Paris mà không lây cái tinh thần duy mỹ của Paris. Tôi không
phải người thích làm đẹp, cũng không biết cách làm đẹp, và cái đời sống học thuật
trong những năm qua ở Mỹ càng làm cho việc làm đẹp tụt hạng trong thứ tự ưu
tiên của tôi. Thế mà từ hôm đến Paris, tôi cũng để ý đến ăn mặc hơn. Hôm trước,
tôi còn mặc một cái áo hở bụng khi đi ăn tối với Kai - điều mà tôi không bao giờ
làm ở Mỹ hay Việt Nam. Đấy là lỗi của Paris. Ở Paris, tất cả những người đàn ông,
đàn bà, những con đường, sông Seine, những hàng cây, những hiệu sách, thậm chí
cả những thùng rác cũng nói với bạn: phải đẹp. Phải đẹp như một cách để thể hiện
tình yêu với người khách, với trời đất, với cuộc sống, và với chính mình. Đẹp
như một trách nhiệm. Đẹp như một cứu cánh và một quyền tự nhiên nhất.Thôi thì tôi cũng sẽ cố gắng làm đẹp, để ít nhất không làm xấu
Paris. Tôi sẽ làm đẹp để cho tương xứng với hạnh phúc mà tôi cảm thấy trong những
tháng ngày một mình ở thành phố này.
Nhân nói đến giày, hông, và sụt một cân, tôi phải thừa nhận một
điều: không thể ở Paris mà không lây cái tinh thần duy mỹ của Paris. Tôi không
phải người thích làm đẹp, cũng không biết cách làm đẹp, và cái đời sống học thuật
trong những năm qua ở Mỹ càng làm cho việc làm đẹp tụt hạng trong thứ tự ưu
tiên của tôi. Thế mà từ hôm đến Paris, tôi cũng để ý đến ăn mặc hơn. Hôm trước,
tôi còn mặc một cái áo hở bụng khi đi ăn tối với Kai - điều mà tôi không bao giờ
làm ở Mỹ hay Việt Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét