Chủ Nhật, 3 tháng 11, 2024

Một mình ở Châu Âu 1

Một mình ở Châu Âu 1

Giới thiệu
Bất hạnh là một tài sản
Những người đàn bà, họ không một mình ngẫu nhiên tới Paris, Venice, Rome, Florence…
Họ có thể là sinh viên mới ra trường, muốn đến Paris để viết văn; có thể là người đã đi qua một cuộc hôn nhân, giờ đến đó để nhìn lại; có thể là người bấy lâu vẫn mòn mỏi chờ đợi mối tình lớn của đời mình và mong nó xảy ra ở châu Âu… Hoặc họ có thể, như tác giả của cuốn sách này, đến châu Âu một mình để du lịch như một người không quá khứ, không ràng buộc; và để hỏi những câu hỏi bước ngoặt về tình yêu và hôn nhân…
Cuốn sách này, hơn cả một cuốn du ký về những ngày du ngoạn qua các thánh địa mơ ước ở châu Âu, còn là một hành trình nội tâm xuyên suốt, dai dẳng, và không phải không đau đớn.
Có thể thấy điều đó, dẫu chẳng ở châu Âu một mình.
Trích đoạn trong sách:
“… Nhưng có lẽ đó chính là vấn đề của quảng trường San Marco, của Venice, và là lý do tại sao đến đây lần thứ hai nhưng tôi vẫn không ấn tượng với quảng trường này. Có cái gì đó rất Hollywood ở đây và ở khắp Venice. Những người ngồi sưởi nắng ở đây, và dàn nhạc này không giống với những người sưởi nắng trong vườn Luxembourg. Bởi vì họ không sống ở đây. Họ đến rồi đi… Trong tất cả cái đẹp và sự tinh xảo của Venice, tôi không sao thoát khỏi cảm giác rằng thành phố này đang chết. Nó đang chìm dần. Venice là ngôi mộ của một quá khứ. Chỉ còn khách du lịch đến đây, và thành phố này chỉ còn đủ người để phục vụ du khách chứ nó không có những người Venice, như Paris có người Paris, Hà Nội có người Hà Nội.
Sáng nay, sau khi rời nhà thờ Mary of Narazeth, tôi mua một vé xe buýt nước theo tuyến số 2 để đi từ đó tới quảng trường San Marco; tức là gần như đi từ đầu này đến đầu kia của Venice; có điều thay vì lấy vé tuyến số 1 chạy theo Kênh Lớn thì tôi lấy tuyến xe buýt chạy bên ngoài Lagoon. Với những người không quan tâm tới hành trình mà chỉ quan tâm tới cái đích cuối cùng thì tuyến số 1 hay số 2 đều thế cả, chúng đều kết thúc ở quảng trường San Marco; chính vì thế mà một bà già đã nói khi thấy tôi phân vân ngoài bến:
“Lên đi con, cái nào thì cũng đến quảng trường San Marco thôi.”
Thuyền chạy từ bến nước ra ngoài Lagoon. Từ đây, tôi có thể nhìn vào Venice và những công trình kiến trúc của nó – Byzantine, Gothic, Phục hưng… Tất cả đều tuyệt vời nhưng rất nhiều trong chúng chỉ còn là những xác nhà đóng kín và đang được UNESCO bảo quản như di sản văn hóa thế giới. “Di sản” – đấy là một từ chính xác nữa để mô tả Venice. Một thời carnival, các lễ hội hóa trang, những bữa tiệc và hòa nhạc không ngừng giờ chỉ còn lưu dấu ở những chiếc mặt nạ bày bán quanh quảng trường và dọc các con đường của Venice; các ngôi nhà, phòng hoà nhạc từng ngập các ông chúa bà hoàng giờ chỉ còn là những hành lang mục nát, tường gạch nham nhở, nước lên ngập tầng một vào mỗi trận lụt, khiến cho rêu rong nấm mốc loang lổ.
Venice đẹp, Venice lạ, nhưng không thể ở đây mà không ý thức về sự lụi tàn. Phải, tiệc vui mấy cũng có lúc tàn và bữa tiệc Venice có lẽ đã tàn từ thế kỷ XIX. Tôi cũng như mười hai triệu khách du lịch đến đây mỗi năm chỉ như những khán giả đến nhìn những gì còn vương vãi từ bữa tiệc đó và cố hình dung về bữa tiệc.
Dù thế, không thể không ngả mũ kính phục người Ý. Họ muốn xây một thành phổ nổi trên mặt nước, vậy là họ xây một thành phố nổi trên mặt nước. Họ muốn một thành phố như một đại tiệc không dứt, và họ đã có một thành phố là một đại tiệc không dứt. Cái đến sau là việc của cái đến sau. Sự lụi tàn trong tương lai không thể là điều ngăn trở sự sản sinh trong hiện tại. Có lẽ tôi và Sơn nên chia tay.”
Cùng bạn đọc
Cuốn sách này tập hợp những ghi chép rời rạc vào mùa hè 2008, khi tôi đi Châu Âu một mình trong một tháng. Nó là điểm bắt đầu của một câu truyện mà tôi sẽ kể trong hai câu truyện tiếp theo – về những truyện buồn mà cuối cùng đã trở thành tài sản. Như mọi câu truyện có tính hồi kí khác, đây chỉ là ký ức của tôi, sự thật của tôi, nó không chắc là sự thật duy nhất. Mọi nhân vật được đề cập trong cuốn sách này đều được thay đổi danh tính để bảo vệ sự riêng tư cho họ.
“Sợ thì cũng phải làm”
Rostock, Đức
Rostock, Đức, ngày …. tháng Tám, năm 2008
Bây giờ là 4 giờ sáng
Tôi không ngủ được nên đã ngồi dậy để viết. Cái máy tính này của Hiền, em chồng tôi, dùng Window Đức và bàn phím Đức nên hơi khác so với bàn phím Mỹ: chữ Y bị chuyển từ hàng thứ nhất xuống hàng thứ ba và chữ Z thế vào chỗ chữ Y. Các phím Shift, Control, và các phím số đều lạ: tôi thậm chí không thể gõ một số ký tự và dấu theo ý mình và đang mất gấp đôi thời gian bình thường để gõ những dòng này. Nhưng đi du lịch là như vậy: mọi thứ không bao giờ như ở nhà.
Hôm qua, chuyến bay từ Boston đi New York chỉ có một tiếng và tôi phải chờ những ba tiếng ở New York JFK trước khi lên máy bay đi Berlin. Chính ở JFK chiều qua, tôi đã chạm chán châu Âu lần đầu. Khu vực đi Châu Âu tràn ngập người Âu và có thể nhận ra họ ngay: người Âu, kể cả khi bay đường dài vẫn ăn mặc chải chuốt trong khi người Mỹ ăn mặc cốt sao thoải mái. Những cô gái Đức, Pháp, Ý vẫn váy ngắn, giày cao gót, tất dài, kính mắt, khuôn mặt trang điểm cẩn thận như đang đến một cuộc hẹn; những người đàn ông mặc áo suit đen khít người hoặc designer jean với sơ mi phẳng phiu. Và nước hoa! Người Mỹ hầu như không còn dùng nước hoa khi đi làm hằng ngày, và nếu có thì thường dùng quá tay như để đề phòng. Còn những người Âu trong khu chờ bay, ai cũng mang nước hoa, nhẹ, mà lưu mùi rất lâu.
Máy bay xuống sân bay Tegel lúc gần trưa. Từ trên nhìn xuống, sân bay Tegel rất nhỏ. Nó lập tức gợi cho tôi nhớ đến hoặc Sheremetyevo ở Matxcơva hoặc Nội Bài những năm 1990. Khi làm xong thủ tục, bước ra ngoài, tôi không tin được là phần cửa ra chỉ có duy nhất một cái máy trả hành lý và cách đó vài bước chân thấy taxi xếp hàng đón khách.
Châu Âu.
Phải nói gì về ấn tượng đầu tiên khi đặt chân lên đất Châu Âu, mà chính xác là Berlin! Nếu phải chọn một cụm từ chủ đạo cho ngày đầu tiên này, tôi sẽ chọn một cụm từ đã bị lạm dụng trong thời gian gần đây nhưng lại chính xác trong trường hợp này: “thế giới phẳng”. Sau bảy tiếng đồng hồ từ khi rời New York, cái đập vào tôi đầu tiên trong sân bay ở Berlin là sạp bán sách và tạp chí. Chúng không khác gì với quầy Hudson News ở sân bay JFK ngoài chuyện bằng tiếng Đức.
Vẫn các tạp chí Cosmopolitan, Vogue, People, National, Geographic – bằng tiếng Đức.
Vẫn hình ảnh Jenifer Aniston, Britney Spears và Angelina Jolie tràn các bìa bào và tạp chí – bằng tiếng Đức.
Vẫn là Khaled Hosseini, Stephenie Meyer, Stephen King và dĩ nhiên J.K Rowling ở khu sách bestseller - bằng tiếng Đức.
Cứ như thể tôi không hề rời Mỹ mà nước Mỹ chỉ đột nhiên được “dịch” sang tiếng Đức và tôi mất oan bảy tiếng đồng hồ cho một sự di chuyển chỉ có tính hình thức.
Nhưng cái ấn tượng “ phẳng “ lớn nhất là trên khuôn mặt người. Trong hành lang sân bay Tegel, hầu hết người chờ bay đều mang khuôn mặt “phẳng” giống hệt nhau: khuôn mặt nhìn thẳng về phía trước, không thái độ, như thể không biết dòng người đi lại hối hả xung quanh. Không biết người Đức không có thói quen biều lộ tình cảm nơi công cộng hay cái vẻ mặt phẳng đó là biểu hiện của sự đồng dạng về tình cảm, suy nghĩ, hành vi mà cội nguồn của nó có thể chính là sự đồng dạng trong tiêu thụ các sản phẩm văn hóa. Với tốc độ toàn cầu hóa (mà phần nhiều là Âu – Mỹ hóa) như bây giờ thì đến một lúc nào đó, du lịch có lẽ mất cái ý nghĩa khám phá một văn hóa khác , với giá trị tương đương và tự thân , so với các giá trị Âu- Mỹ.
Từ Berlin, xe đi ba tiếng đồng hồ tới Rostock, Vừa ra khỏi những khối nhà bê tông cuối cùng của Berlin là những đống lúa mỳ và cỏ đã mở ra trên các triền đồi thấp, chạy thành sóng đến chân trời. Trên những cánh đồng, bò sữa đứng nhẩn nha cạnh những cối xay gió khổng lồ chầm chậm quay. Vắt ngang các cánh đồng là những vệt đường nhỏ, trên đó thi thoảng một chiếc xe tải chạy đơn độc rồi biến mất. Cảnh tượng này gợi nhớ đến California, nhất là vùng quanh thung lũng Napa. Tuy nhiên, ở California nói riêng và các thành phố lớn ở Mỹ nói chúng không có cảnh lái xe quy củ như tôi thấy trên đường từ Berlin đi Rostock. Tất cả xe chạy ở làn bên ngoài đều chạy nhanh để vượt, và khi vượt xong thì lập tức vào làn bên trong; cho nên làn bên ngoài hầu như luôn trống.
Chiều nay, Hiền dẫn tôi đi chợ. Chợ ở đây rất sạch, ngăn nắp; xúc xích, thịt xông khói, pho mát và sữa ngồn ngộn trên các quầy. Rau quả mơn mởn. Có một cảnh trong siêu thị mà tôi không thấy ở Mỹ: người Đức mua nước giải khát, uống xong thì mang chai đi trả lại ở các máy tự động, mỗi chai lấy lại hai mươi xu. Nhà ai cũng có các thùng rác phân loại theo quy trình tái chế, giấy riêng, đồ thủy tinh riêng, nhựa riêng vá rác riêng.
Rostock nghèo và buồn. Những khu nhà chung cư ở đây giống những hộp các tông hồng, chanh cốm và xanh được xếp chồng lên nhau - một sự đơn điệu đã rơi đến ngưỡng khắc khổ. Cái không khí “bao cấp” và “Đông Đức cũ” còn rất rõ, thêm vào đó là nỗi buồn len lén của một thành phố đang lụi dần khi các ngành công nghiệp từng nuôi sống thành phố bị thu hẹp [1] . Tôi muốn viết nhiều thêm về chuyện này và nhiều chuyện khác nhưng cơn buồn ngủ hình như đang trở lại. Bây giờ tôi sẽ datei öffnen cái file này, sẽ beenden và computer ausschalten . Trên cái Windows bằng tiếng Đức này, tôi hi vọng nó có nghĩa là tôi save file, close file, và shut down máy tính.
[1] Rostock từng là thành phố sản xuất máy bay và là thành phố cảng chính của Đức, nhưng từ sau khi nước Đức thống nhất, vị trí này bị mất đi; do đó các nhà máy và dân số Rostock ngày càng giảm xuống.
Giờ mới là im lặng thực sự. Không có tiếng bàn phím r ờ i r ạ c n à y…
…. t h ì tất cả những gì còn lại chỉ là bóng đêm tuy đang nhạt dần nhưng không hề có dấu hiệu của một thành phố sắp trở dậy. Tôi còn ở đây một vài ngày với gia đình Hiền rồi sẽ lang thang một mình ở Châu Âu. Tôi mong làm sao đến ngày đó.
Nhưng giấc ngủ không đến dễ dàng. Tôi cứ nghĩ mãi những gì chúng tôi đã nói đến chiều nay.
Chiều nay, trong lúc chúng tôi chuẩn bị bữa tối, Hiền nói:
“Việt ở được với anh Sơn thì giỏi thật.” (Hiền hơn tuổi tôi nên chúng tôi thỏa thuận gọi nhau bằng tên thay vì chị em).
“Cả cái nhà này không có ai ở được với chú Sơn đâu đó cô ơi,” cháu tôi cười.” Ai cũng sợ chú Sơn như sợ cọp đó, cô không biết à?”
Không, điều này tôi không hề biết.
“Chuyện đám cưới với Việt cũng thế đấy,” ba chồng tôi cười. “Chuyện vợ con của Sơn, cả nhà không ai hỏi gì bao giờ, đùng cái Sơn viết thư về cho ba bảo ba ơi con sắp cưới vợ… thì ba cũng chuẩn bị mọi thứ chứ hồi đấy đã gặp Việt đâu… Đến lúc ăn hỏi gặp bố mẹ Việt ở Hà Nội, ba bảo thôi gặp được anh chị, thấy anh chị hiền lành thì tôi cũng đỡ lo, chắc con Việt cũng hiền lành như anh chị. Bố mẹ Việt cũng run run, bảo gặp ba thì cũng yên tâm chứ hai ông bà cũng chưa gặp Sơn bao giờ, thấy Việt bảo đám cưới thì đám cưới… mắc cười hai ông bà thông gia an ủi nhau, chả biết con dâu, con rể mình mặt mũi ra sao. Hai đứa vậy là giống tính nhau… thế nên ở được với nhau… cũng là duyên số cả.”
“Chắc là vậy ba nhỉ?” Hiền nói. “Ai cũng bảo từ hồi lấy vợ, anh Sơn hiền đi bao nhiêu.”
Mọi người đều cười. Tôi cũng cười. Tôi kể cho mọi người nghe vô vàn những chuyện ly kỳ khi sống với Sơn. Như chuyện ngày trước ngày cưới, Sơn và mấy người bạn rủ nhau lái xe vòng quanh nước Mỹ, từ Boston xuống Miami, qua Texas rồi vượt qua biên giới sang Mexico, rồi một người bị giữ lại ở Mexico và Sơn phải đưa cậu bạn đó tới thủ đô để bay về Việt Nam, rồi cả đoàn lại đi tiếp sang đến bờ Tây, rồi ghé thăm tôi ở Chicago mấy ngày, rồi đi tiếp lên Michigan, vượt qua biên giới sang Canada, rồi về lại Boston; sau đó Sơn mới bay về Chicago để chúng tôi cùng về Việt Nam làm đám cưới.
“Trời ơi, con ở nhà cứ thấp thỏm. Anh ấy với bạn thì bị giữ ở biên giới Mexico, mà hồi đó Mexico đang có đảo chính, cảnh sát với quân đội súng ống khắp nơi. Xong rồi, có hôm, bạn anh ấy còn đăng lên mạng một mẩu tin là anh Sơn và mấy người bị bắn chết. Lúc con đọc, con tưởng thật, con cầm cái điện thoại mà không bấm nổi số, tay con cứ run bần bật thế này này, điện thoại cứ rơi xuống. Mãi sau mới bấm được số gọi sang Mexico, gặp anh ấy, anh ấy cười hềnh hệch bảo là chúng nó đùa. Hôm ấy, con không vỡ tim chết là may.”
Rồi tôi kể chuyện những khi đi đường với Sơn; Sơn luôn lái xe rất nhanh, vượt hết xe này đến xe khác. Nếu xe nào chậm chậm mà cứ chạy ở làn ngoài là Sơn bấm còi liên tục; thậm chí chạy sang làn bên cạnh, vượt lên trước, và chặn không cho xe kia lên để “dạy cho con lợn này một bài học”. Mỗi lần như thế, tôi ngồi ghế bên này, chỉ còn biết bám chặt vào thành ghế và tay nắm ở cửa xe. Suốt mấy năm qua, bất kể chúng tôi sống ở bờ Đông hay bờ Tây, các loại phiếu phạt lái xe quá tốc độ, đỗ xe ở chỗ cấm đỗ… từ khắp các thành phố mà Sơn từng đi qua cứ bám theo chúng tôi như một cái đuôi dài.
Tôi kể; ba chồng tôi, Hiền và cháu tôi cười chảy cả nước mắt. Tôi cũng cười chảy cả nước mắt. Sao khi kể lại, những chuyện ấy lại buồn cười đến thế. Hình như tất cả những câu chuyện kể lại đều lãng mạn hơn, bớt đau lòng hơn lúc chúng đang diễn ra. Chuyện về Sơn giống như chuyện về một nhân vật anh hùng bạt mạng trong các bộ phim Hollywood; chúng hấp dẫn nhất là khi ta là khán giả. Tôi và Sơn đã gặp nhau ở Boston, rồi đăng ký kết hôn mười tháng sau đó mà không có gia đình chứng kiến; rồi về Việt Nam làm đám cưới; và Sơn đã nghỉ việc để về Chicago với tôi; rồi chúng tôi đã chuyển đi bờ Tây sống; rồi Sơn lại nghỉ việc ở đó và về làm lại ở bờ Đông; rồi Sơn lại nghỉ việc ở bờ Đông và chúng tôi quay lại Chicago; còn bây giờ Sơn lại trở lại bờ Đông và tôi lại đi theo. Lúc nào cũng di chuyển, lúc nào cũng sống trong căng thẳng, bấp bênh như thể cả hai đang trong một bộ phim hành động đầy những cảnh rượt đuổi.
Nhưng mà… khi tôi chờ Sơn và các bạn anh đi xuyên Mỹ, hay những lần chúng tôi chất đồ đạc lên xe, chạy từ bang này sang bang khác, chỉ dừng lại ngủ đêm ở những thị trấn dọc xa lộ… thì mọi việc không hề giống phim và không hề buồn cười. Những ngày tháng ở Oregon, ở New Jersey, hay như bây giờ, ở New Hampshire… những ngày tháng ấy không hề buồn cười.
Chiều nay, tôi không nói cho ba và mọi người biết rằng tôi không chắc chắn tôi có thể chịu đựng được bao lâu nữa. Tôi đã mệt rồi. Tôi thực sự đã mệt rồi. Tôi yêu Sơn nhưng sống với anh khó quá. Nó không khác gì xây nhà dưới chân môt ngọn núi lửa đang âm ỉ cháy; tôi không bao giờ biết trước lúc nào thì núi lửa phun trào; chỉ biết mỗi lần phun trào thì tất cả mọi thứ quanh chân núi đều bị hủy diệt. Tôi đã cuống cuồng vơ vét chạy di tản quá nhiều lần, và đến giờ thì bắt đầu hỏi tại sao mình vẫn cứ hy vọng có thể xây dựng một ngôi nhà yên ổn dưới chân ngọn núi này?
Nhưng tôi sẽ không nghĩ đến những việc này vội. Bây giờ, tôi sẽ cố ngủ để giữ sức cho những ngày ở Châu Âu. Phải rồi, tôi đang ở châu Âu. Tôi đã mong chờ chuyến đi này biết bao.
Rome, ngày…
Sáng nay, tôi rời Berlin trong mưa. Trời lạnh, nhiều gió. Sau hai tiếng, Rome đón tôi bằng bản nhạc Clair de Lune của Debussy đột ngột được mở trong khoang máy bay của hang hàng không giá rẻ Easyjet. Ra khỏi cửa máy bay là nắng ấm và trời xanh Địa Trung Hải. Tôi đã tới Rome rồi.
Từ sân bay Ciampino phải bắt xe buýt vào nhà ga trung tâm của Rome: Roma Termini. Bên ngoài sân bay, cảnh tượng nhốn nháo khác hẳn với Đức và cũng bẩn hơn Đức rất nhiều. Ba lần liền, những chiếc xe con sà vào gần chỗ tôi đứng và những đại gia đình bảy, tám người huyên náo chui vào những chiếc Fiat năm chỗ, chưa kể hành lý được chất đầy trong cốp xe hoặc chằng trên nóc xe. Trên xe buýt chạy vào thành phố, radio được mở to cho cả xe nghe. Không biết tiếng Ý thì tôi cũng hiểu là đang có một trận bóng đá. Chà, bình luận viên trên radio… nói thế nào nhỉ… à, “nói văng nước miếng” trong khi người tài xế và một số hành khách ngồi gần đó vừa nghe vừa mắng nhiếc, la ó các cầu thủ một cách đầy kích động khiến cho tôi vừa thót tim sợ rằng bác tài xế sẽ tông xe vào lề đường vừa không nhịn được cười khi nghe tiếng gào thét huyên náo và những âm rung r… r… đặc trưng của tiếng Ý. Ngoài đường, hầu như xe ô tô nào cũng để ngỏ kính cửa, từ đó vọng ra tiếng radio tường thuật bóng đá - và lái xe taxi có một vẻ mặt hầm hầm như thể khách đi xe là kẻ thù khiến họ bỏ lỡ cơ hội xem trận bóng.
Sự thật là tôi không hề có ý định đi Ý khi chuẩn bị chuyến đi châu Âu này. Tôi chỉ định tới Rostock thăm gia đình Hiền rồi sẽ đi Paris và ở đó toàn bộ thời gian. Cho đến khi quyết định đi thêm Ý, tôi không có thời gian đọc bất cứ thông tin gì để chuẩn bị cho hành trình. Trong đầu tôi, tất cả ý niệm về Rome và nước Ý được chắp vá từ phim Bố Già, các sách sử về đế quốc La Mã, các đĩa opera, và ký ức về cái thời mà người Việt Nam háo hức chờ World Cup để xem Robero Baggio trên ti vi đen trắng.
Xuống xe buýt ở nhà ga Termini, tôi kéo hành lý tới chỗ có một dãy xe taxi chờ. Vừa thấy tôi tiến tới, một người đàn ông to béo, trông như Clemenza bước ra từ Bố Già, lập tức nổ ra một tràng tiếng Ý rổn ráng và chỉ vào chiếc taxi đầu tiên. Tôi chưa kịp định thần thì Don Clemenza bật tay cái tách, và từ đâu bỗng nhiên hiện ra một anh chàng chứng hai mươi tuổi, trông giống hệt Roberto Baggio. Chàng Baggio mặc áo phông Lacoste xanh lam, quần bò xé, đeo kính Armani, mái tóc đen hơi xoăn được vuốt keo bóng mượt – y như một tài tử điện ảnh. Chàng hùng dũng tiến tới nhấc hành lý của tôi cho vào cốp xe taxi đã mở sẵn và chỉ tay ra hiệu cho tôi vào xe theo một lối không chừa cho tôi bất cứ lựa chọn nào khác.
Chàng Baggio có vẻ chỉ biết nói tiếng Ý, tôi thì “non parto italiano [2] ” nên sau khi vào xe, tôi đưa cho chàng tờ giấy đặt khách sạn, có địa chỉ trên đó. Chàng nhìn địa chỉ, gât đầu rồi đánh xe hòa vào dòng xe đông đúc trên phố. Suốt mười lăm phút sau đó, chàng chạy lòng vòng qua Via nọ, Via kia [3] . Trong lúc này, tôi đọc lại tờ giấy đật khách sạn: hướng dẫn trên đó nói rằng khách sạn chỉ cách nhà ga Roma Termini khoảng 2 phút đi bộ và bản đồ thì cho thấy nó ở ngay ngách bên cạnh nhà ga. À, đã quá muộn! Nhưng thôi, có thể đi taxi phải tránh đường một chiều nên lâu hơn. Có một điều là nhìn mãi chẳng thấy có đường một chiều nào cả, còn chàng Baggio cứ liên tục lòng vòng gần nhà ga, vừa lái vừa liên tục xổ ra những tràng tiếng Ý du dương và chỉ tay ra hai bên phố ra ý rằng không hiểu cái khách sạn quỷ quái này ở chỗ nào mà tìm mãi không thấy. Đoán chừng chạy quanh có lẽ không giải quyết được vấn đề nên khi xe quay lại gần nhà ga một lần nữa, tôi nói:
“Xin anh dừng ở đây, tôi sẽ xuống từ tìm lấy vậy.”
[2] Không biết nói tiếng Ý.
[3] Via: tiếng Ý là “đường, phố”.
Chàng Baggio tiếp tục chỉ ra hai bên đường, ra vẻ không hiểu ý, và tiếp tục chạy xe. Tôi phải kêu lên “Stop, stop, stop”; và sau khi lần nữa thêm một đoạn thì chàng cũng ngặm ngùi dừng xe. Tôi xuống xe, lấy hành lý để lên vỉa hè, rồi quay lại đề trả tiền. Đồng hồ lúc trước chỉ có 8 euro, nhưng khi tôi quay lại thì đã thấy 14 euro và chàng Baggio thản nhiên nói tiếng Anh:
“Forteen [4] ”
[4] Mười bốn.
Rồi lè nhè một tràng dài tiếng Ý, trong đó có từ “bagaglio” mà tôi lập tức hiểu là “hành lý”.
“Xin lỗi, chắc là anh đùa?” Tôi nói. “Tôi chưa bao giờ thấy đi taxi phải trả thêm tiền hành lý.”
Nhưng chàng Baggio rõ ràng không đùa vì chàng rút từ phía sau lưng ghế ra một tờ giấy trắng nhàu nhĩ, có ghi một số dòng bằng tiếng Ý. Chàng chỉ cho tôi một dòng loáng thoáng về “bagaglio”, rồi lại lè nhè một tràng tiếng Ý với vẻ mặt vô cùng nghiêm trọng – trong số đó cũng chỉ có một từ mà tôi hiểu rõ: “polizia”. Ý chàng nói, nếu tôi không trả tiền thì sẽ gọi cảnh sát.
“Xin lỗi, anh lại đùa?” Tôi nói. “Ai viết ra cái tờ giấy này? Tôi không thấy có dấu má hay biểu tượng của tồ chức nào hết?”
Baggio không trả lời câu hỏi của tôi mà rút điện thoại di động và chỉ về phía trạm cảnh sát gần đó, đồng thời liên tục nhắc đi nhắc lại “polizia, polizia” và làm ra vẻ chuẩn bị bấm máy. Biết không thể “nói chuyện phải quẫy” với kẻ vừa ăn cắp vừa la làng này, tôi nói:
“Anh cứ gọi cảnh sát đi, đồ lừa đảo!”
Tôi ném tờ 10 euro vào người chàng và ra khỏi xe, sập cửa lại. Thật may là hành lý của tôi đã ở trên vỉa hè. Chàng Baggio cúi nhìn qua cửa, vẫn tiếp tục ra bộ bấm điện thoại; rồi chừng mấy giây sau thì chàng dông thẳng.

Sau khi loanh quanh một hồi dưới nắng và mồ hôi nhễ nhại vì vẫn mặc áo khoác từ Berlin, tôi tìm thấy con đường có khách sạn. Đó là một đường phố vắng vẻ cách nhà ga khoảng 300 mét. Tuy nhiên, khi tôi tìm đến đúng số nhà thì ở đó không hề có khách sạn nào mà chỉ có một cái cửa lớn, đóng kín, với một tấm biển đồng ở bên ngoài, trên tấm biển đó có một số tên nhà với nút chuông bấm cho từng căn.

Vừa nóng vừa mệt vừa đói, tôi bắt đầu tin nước Ý toàn mafia thì một ông già đầu hói bụng phệ trông giống hệt Frankie ở Bố Già tập hai đủng đỉnh đi qua. Trong tình trạng chết đuối vớ được cọc, tôi lễ phép hỏi Don Frankie bằng tiếng Anh liệu ông có biết cái “hotel” này ở đâu không. Don Frankie nhìn địa chỉ rồi nói với tôi bằng tiếng Ý là tôi đến đúng “hotel” rồi. Tôi đáp lại bằng tiếng Anh rằng tôi chẳng thấy có biểu hiện “hotel” gì cả (chỉ có mỗi từ này là hai bên đều hiểu) . Don Frankie đeo kính lên nhìn các chữ trên tấm biển đồng rồi thản nhiên bấm lần lượt tất cả các chuông cửa từ trên xuống dưới, mỗi lần bấm lại nhún vai nói ra một tràng tiếng Ý ra ý “Ôi dào, biết làm thế nào được? Việc phải làm thì làm thôi, cứ bấm cho chúng nó chết.” Vừa mệt vừa chán nản mà tôi không nhịn được cười. Nhưng bấm tất cả chuông cửa mà không có ai trả lời, Don Frankie lắc đầu ra ý rất tiếc ông không thể giúp gì thêm.
Để rút ngắn câu truyện này tôi sẽ kể vắn tắt rằng cuối cùng tôi cũng tìm được khách sạn sau khi tiếp tục chạy lòng vòng, gặp một người đàn ông Sri Lanka gọi giúp điện thoại đến khách sạn và lần này gặp một người của khách sạn. Hóa ra, cái địa chỉ mà họ cho tôi chỉ là văn phòng môi giới; người môi giới sau đó mới đưa tôi tới khách sạn. Và khách sạn này thực ra cũng không phải của người Ý mà của một gia đình Nga – tóm lại, mọi thứ đều rất lòng vòng và mafia. Như tôi nhanh chóng nhận ra sau nửa ngày ở Rome, hầu hết khách sạn nhỏ và các cửa hàng quanh khu nhà ga chính của Rome cũng như ở một số điểm du lịch đều do người Ấn Độ, Pakistan, Sri Lanka, Nga, v.v… thuê lại của người Ý để kinh doanh. Tôi cũng hỏi người chủ khách sạn về chuyện anh chàng lái taxi đòi tôi tiền hành lý, ông ta nói đó là chiêu lừa phổ biến ở đây.
Chiều hôm đó, sau khi sắp xếp phòng, tắm, thay quần áo, tôi đi tới nhà thờ Santa Maria Maggiore, khu đấu trường La Mã Colosseo, khu di tích Domus Aurea Palatino.
Chà, tôi buộc phải nói rằng sau ngày thứ nhất, Rome làm tôi thất vọng. Khu đấu trường Golosseo quả có to lớn, quả có cổ xưa, nhưng trong tổng thể Rome, đấu trường này chỉ khiến tôi liên tưởng đến một miếng gấm được vá vào một chiếc áo sơ mi Dolce & Gabbana made in China. Thực tế là toàn bộ Rome - cho đến lúc này - gợi cho tôi cảm giác về sự nham nhở và lệch lạc vì cái cổ xưa và hiện đại, cái hoành tráng và tiểu tiết lẫn lộn với nhau một cách lộn xộn, bừa ẩu, nhốn nháo. Tôi lại phải nhắc lại là Rome bẩn: bẩn hơn Berlin, bẩn hơn các thành phố lớn của Mỹ. Hơn thế, Rome gợi một cảm giác về một chàng công tử đỏm dáng nhưng lấc cấc, hư hỏng, thuộc một dòng họ quý tộc có lịch sử ngàn năm. Tổ tiên của anh ta có thể danh giá và tạo ra nhiều kỳ tích nhưng đến anh ta thì hầu như tất cả sự văn hóa và lịch lãm đó biến mất, còn lại chỉ là tên họ và một số đồ gia bảo mà anh ta trưng hết ở phòng ngoài cho khách xem (và không quên thu tiền). Nói như người Việt Nam là “hổ phụ sinh cẩu tử”. Có thể ngày mai tôi sẽ đổi ý, nhưng lúc này thì là như vậy.
Tôi ăn bữa tối đầu tiên ở ngay gần khách sạn: spaghetti thịt bò xốt cà chua với một ít rau. Thức ăn dở - điều này tôi đã biết trước vì đây là một cửa hàng phục vụ khách du lịch chứ không phải là một nhà hàng tử tế, nhưng tôi chỉ muốn ăn nhanh để quay lại nhà thờ Santa Maria Maggiore [5] xem lễ tối và sau đó sẽ đi bộ trở lại khu đấu trường Colosseo xem nó có đẹp hơn vào buổi tối không. Nhưng nhà thờ Santa Maria Maggiore đã đóng cửa khi tôi tới. Bên ngoài đài phun nước đối diện với nhà thờ, mấy du khách đang ngồi nghỉ chân; khuôn mặt họ thất thểu và mệt mỏi, như thể muốn nói “Người ta bảo mọi con đường đều dẫn về thành Rome, nhưng đến Rome rồi thì đi đâu?” Cũng phải nói thêm: tháng Tám là tháng đi du lịch của Rome nên hầu hết người bản xứ đi vắng; thành phố sau 8 giờ tối hầu như không còn hoạt động gì nhiều. Tôi bỏ luôn ý định đi bộ tiếp ra khu Colosseo để về ngủ sớm.
[5] Một trong những nhà thờ cổ nhất và thiêng liêng nhất ở Rome cũng như trên thế giới, được coi là một thành tích của Thiên Chúa Giáo La Mã.
Sau 10 giờ đêm, những con đường hẹp và cổ kính quanh nhà ga trung tâm đã vắng người. Ít đèn đường. Mèo hoang không biết từ đâu ra rất nhiều, kêu thảm thiết. Trên vỉa hè, mấy người đàn ông Ấn Độ đang mệt nhọc thu dọn những món đồ lưu niệm và túi da Ý rởm mà họ bày bán. Tôi muốn vào Internet để có cảm giác kết nối với thế giới quen thuộc của mình nhưng khi người chủ cửa hàng Internet yêu cầu tôi phải xuất trình hộ chiếu mới được dùng mạng thì trong không khí nghi ngờ cả thành Rome, tôi từ chối và đi thẳng về khách sạn. Đất thánh ư? Rome lúc này không có gì giống đất thánh. Điều vui nhất trong ngày hôm nay với tôi là gặp được chị Mai, nói chính xác là sơ Anna Thanh Mai. Chị là người quen của gia đình chồng tôi. Tôi quý chị ngay lập tức.
Cái mà tôi chú ý nhất trong ngày hôm nay là những phòng xưng tội bằng gỗ đặt dọc hai bên sảnh chính của nhà thờ Santa Maria Maggiore. Có gần hai mươi phòng và người xưng tội có thể xưng tội bằng nhiều thứ tiếng - Ý, Anh, Pháp, Đức, Hà Lan, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha. Có một phòng mà cha nghe xưng tôi là người Việt Nam: cha Joseph Trần. Lúc tôi ở trong nhà thờ, có một phòng xưng tội sáng đèn; rồi một người đàn ông chừng năm mươi tuổi đến quỳ ở bục, chắp tay, cúi đầu, lầm rầm xưng tội chừng mười phút. Trông ông ta rất thành kính và đau khổ.
Ý nghĩ cuối cùng của tôi trước khi chìm vào giấc ngủ là: không biết tội lỗi được xưng nhiều nhất ở Rome là tội gì? Và tội lỗi mà con người thường xuyên mắc phải nhất là tội gì?
Đêm qua, trước khi đi ngủ, rồi đã nhủ thầm rằng sáng nay sẽ dậy trước 6 giờ để tới nhà thờ Santa Maria Maggiore xem người Rome xưng tội trong lễ sáng. Tuy nhiên, khi tôi mở được mắt, đồng hồ đã chỉ 7 giờ. Ngoài cửa sổ, bầu trời có màu xanh Địa Trung Hải ngăn ngắt, không mây. Một ngày nắng rực rỡ.
Hơn 8 giờ, chị Mai tới. Hôm sau, chị mặc áo trắng với váy đen; hôm nay áo hoa và váy hoa vải phin thô màu vàng nhạt nhưng kiểu dáng giống hệt hôm qua. Chị đi xăng đan da nâu và đội mũ vải mềm – gợi tôi nhớ đến những bức ảnh các thiếu nữ trường dòng Sài Gòn từ trước 1975. Chị nhìn tôi bằng đôi mắt nâu rất trong, mỉm cười:
“Hôm qua Việt ngủ có ngon không?”
Chị nói chậm; và sự chậm rãi, cộng với cái nhìn của chị đột nhiên gột khỏi tôi một cái gì đó. Có lẽ là sự đề phòng bản năng. Chị đã hỏi một câu đơn giản nhưng thật lòng.
“Em ngủ như chết,” tôi nói. Tôi đã ngủ như chết thật.
Chị Mai chỉ hơn tôi bốn tuổi, người gốc Huế. Chị vào nhà dòng từ năm mười sáu tuổi, sau khi tốt nghiệp trung học. Chị đã sống nhiều năm ở Pháp rồi qua Rome từ bốn năm nay để học tiếp. Khi nào học xong trong trường dòng, chị sẽ ở lại đây và sống vĩnh viễn trong nhà dòng. Dòng tu mà chị theo gọi là dòng Nữ Công Truyền Giáo; những người theo dòng này không mặc trang phục nữ tu như các dòng khác (tức áo thung với khăn trùm đầu) mà vẫn mặc quần áo bình thường vì họ muốn sống đạo giữa đời.
Sáng nay, trên tàu điện ngầm đi Vatican, tôi hỏi rất nhiều về cuộc sống trong nhà dòng của chị. Ví dụ như hằng ngày lịch hoạt động của chị như thế nào, chị lấy đâu ra tiền để sống; chị nói rằng nhà dòng chu cấp cho chị “mọi thứ”, chị không phải lo gì cả.
“Mọi thứ tức là,” tôi cố nghĩ ra cái gì đó thật riêng tư “em xin lỗi chị, kể cả quần áo lót và băng vệ sinh!”
“Ừ,” chị cười. “Bọn mình có một chị bề trên lo quản lý tất cả những thứ đó, khi nào hết thì chị phát cho.”
“Thế nếu chị muốn tiêu gì đó riêng thì sao?”
“Bọn mình không phải tiêu gì riêng hết,” chị lại cười từ “riêng” của tôi. “Bọn mình sống chung, hưởng chung, có gì cần thì trình bày với chị bề trên, chị sẽ cung cấp cho.”
“Nhưng mà… chị vẫn phải có những thứ cần dùng riêng chứ. Như hôm nay chị ra ngoài thì vé tàu điện ngầm chị lấy tiền ở đâu để mua? Nếu chị muốn ăn kem hay uống nước bên ngoài thì sao?”
“À, cũng được lo hết rồi; mình trình bày với chị bề trên và chị đưa vé cho mình. Mỗi tháng, mình được 15 euro để chi các khoản riêng như Việt nói. Nhưng bọn mình không có đi ra ngoài nhiều như người thường, hôm nay mình ra gặp Việt thì mình trình bày với chị bề trên là em xin phép ra ngoài gặp gia đình từ Việt Nam sang.”
Chị cho tôi biết chị sống cùng với một sơ người châu Phi nữa trong một căn phòng nhỏ. Tôi không nhịn được tò mò nên cứ căn vặn chị mô tả tỉ mỉ cho tôi xem phòng đó trông thế nào, diện tích bao nhiêu mét vuông, đồ đạc chính xác có những gì, giường có đệm không, có toilet riêng không, có ti vi, radio, máy tính không, có Internet không, vân vân… Chị cười, kiên nhẫn trả lời tôi rằng phòng của chị khoảng 12 mét vuông, trong phòng có vài cái ghế gỗ, hai cái bàn, không có tivi với radio, Internet thì có ở một cái máy tính chung cho mọi người và chỉ dùng vào cuối tuần. Chị và sơ cùng phòng mỗi người có một giường ngủ đơn chứ không có phòng ngủ riêng và quanh giường của mình thì “mình cũng có thể trang trí tùy theo sở thích”.
“Thế sở thích của chị là gì?”
“Mình chỉ muốn phụng sự Chúa thôi!” Chị Mai cười ngất trước sự háo hức của tôi.
“Thế chị trang trí quanh giường thế nào? Các bạn của chị trang trí như thế nào?” (Tôi cứ hình dung các phòng ký túc xá của sinh viên ở Việt Nam với những cái giường cá nhân quây ri đô, và những bức tường dán đầy ảnh Brad Pitt.)
“Mình thì không trang trí gì cả; chỉ có ảnh Chúa,” chị Mai cười. “Các chị em khác cũng thế. Có người thì có ảnh gia đình, có người thì không.”
Tôi càng tò mò không biết sống trong nhà dòng thì thế nào.
“Chị Mai ơi, cho em vào sống với chị mấy ngày được không?”
Chị Mai ngạc nhiên nhìn tôi. Rồi chị nói nếu tôi nghiêm túc thì chị sẽ trình với “chị bề trên” xem thế nào.
Tôi nghiêm túc chứ. Cách đây hơn mười năm, tôi từng vô cùng dị ứng với đạo Thiên Chúa khi Quang Anh, người bạn thân của tôi lúc đó, quyết định theo đạo. Tôi từng nghe rằng tôn giáo “là thuốc phiện của đám đông”, chỉ dành cho những người yếu đuối, không làm chủ được cuộc sống của mình nên phải trông vào một đấng siêu nhiên. Khi thấy Quang Anh đổi từ “lương” sang “đạo” vào năm thứ hai ở đại học, tôi bắt đầu đi nhà thờ theo bạn, thậm chí còn đến các lớp học Kinh Thánh do một nhà truyền giáo Tin Lành người Mỹ dạy trong hai năm. Nhưng sự thật là trong suốt những năm ấy, cái duy nhất mà tôi thích trong đạo Tin Lành chỉ là những buổi thánh ca miễn phí ở nhà thờ. Tôi không sao có thể tin Chúa.
Thế thì những người tin Chúa là như thế nào? Cái gì làm cho tôi không thể tin mà họ lại tin? Tôi chắc chắn người Mỹ không phải "những người yếu đuối, không làm chủ được cuộc sống của mình"; tại sao đa phần người Mỹ tin Chúa? Mà thực tế là hơn hai tỷ người trên thế giới này đang tin Chúa. Hơn thế, nếu chỉ lựa chọn tin Chúa nhưng vẫn sống cuộc sống thế tục thì không sao, nhưng còn những người vào nhà dòng để toàn tâm toàn ý phụng sự Chúa? Cái đức tin ấy của họ là thế nào, cái đời sống ấy là thế nào? Không ít người cho rằng những người tu hành sống đời khổ hạnh, thậm chí hành xác, không có tự do. Nhưng nhìn chị Mai, tôi không thấy bóng dáng khổ hạnh, cũng không có bóng dáng sự tù túng. Trên mặt chị ít khổ đau hơn hầu hết những người "vô thần", "tự do" mà tôi gặp.
Một bà sơ trên đường phố Rome
Sáng nay, chúng tôi định sẽ tới bảo tàng Vatican trước. Lúc 9 giờ sáng, bên ngoài bảo tàng đã có một hàng người dài khoảng hai trăm mét, vắt từ cổng qua hai khúc quanh của con đường. Họ nhích chậm chạp dưới cái nắng ngày càng gay gắt. Những người đứng xung quanh tôi – đa phần là khách du lịch da trắng – vừa liên tục uống nước, vừa thở nặng nề và lau mồ hôi nhễ nhại trên mặt, trên cổ. Nhìn tốc độ di chuyển của dòng người, chúng tôi quyết định bỏ cuộc để đi sang nhà thờ Thánh Peter.
Nhà thờ Thánh Peter là một trong những điểm du lịch chính của Vatican và cũng là nơi công chúng được vào tự do, những nơi khác đều có những người lính Thụy Sĩ mặc đồng phục vàng, xanh, đỏ, đeo súng đứng gác. Trên đường từ bảo tàng Vatican sang nhà thờ, tôi nhìn thấy nhiều linh mục mặc áo thụng đen và các bà sơ mặc áo thụng xanh nhạt nghiêm trang đi ra đi vào các cánh cổng có lính gác. Họ băng qua đường, chậm rãi bước trên các vỉa hè lát đá, khuôn mặt không thuộc về thế giới này và không hề quan tâm tới những dòng xe cộ đông đúc. Đây hẳn là một cảnh bình thường với Rome và với chị Mai nhưng tôi phải đứng lại nhìn. Có cái gì đó siêu thực trong chuyển động của những khuôn mặt bình thản ấy giữa phố phường Rome ngập người và xe.
Quảng trường Thánh Peter là một không gian đồ sộ. Tôi chưa từng thấy một quảng trường nào đồ sộ như vậy. Cả quảng trường được bao bởi những hành lang vòng cung lớn với 248 cột đá khổng lồ, mỗi cột cao hai mươi mét, đường kính mấy người ôm, được dựng song song theo kiểu các hàng cột của đền Pantheon. Trên đỉnh các hành lang vòng cung là 140 bức tượng thánh trong các tư thế rất sinh động, đang đổ những bóng dài trên quảng trường ngập nắng.
Nhưng tôi thích quảng trường bên ngoài bao nhiêu thì lại không thích bên trong nhà thờ Thánh Peter bấy nhiêu, mặc dù, đây nữa, đây cũng là một công trình khổng lồ. Có quá nhiều thứ được “trưng bày” ở đây; bức tranh nào, bức tượng nào cũng đi kèm những dòng giới thiệu về kì tích có một không hai của nó, khiến cả basilica [6] như một bữa tiệc thánh tích ngồn ngộn mà chỉ nhìn đã phải bội thực. Nào là các thánh tích và hầm mộ của các Giáo hoàng; nào là tượng của Michelangelo; nào là tranh, bàn thờ của người nổi tiếng này người nổi tiếng khác. Tôi không thấy Chúa hay “đạo” ở đây. Cũng không thấy có sự thiêng liêng hay bình yên nào - ngay cả trong những phòng nguyện nhỏ hai bên nhà thờ cho các khách du lịch vào cầu nguyện.
[6] Basilica là nhà thờ kiểu lớn, xây kiểu hoàng cung La Mã.
Cái duy nhất có vẻ có tính đạo trong nhà thờ Thánh Peter là cảnh một nhóm khoảng hai mươi phụ nữ Hàn Quốc đứng xung quanh một cây thánh giá gỗ gắn trên một bức tường trần trụi hiếm hoi trong nhà thờ. Họ cùng vươn tay về cây thánh giá; những người không đứng gần cây thánh giá thì vươn tay chạm vào vai người đứng trước. Trông họ như những cái rễ mọc ra từ cây thánh giá trong lúc họ cúi đầu, lầm rầm cầu nguyện.
Ở nhà thờ thánh Peter ra, chúng tôi đi tới Spanish steps, qua quảng trường Republica, qua Piazza del Popolo (quảng trường Nhân dân); rồi đi qua các đường phố hẹp lát đá tới đài phun nước Trevi. Có đi bộ như vậy mới bắt đầu hình dung được Rome và cái tinh thần thần thánh của Rome. Ở Rome, nếu tính tỷ lệ, có lẽ đài phun nước, nhà thờ, và các quảng trường công cộng là ba dạng công trình có mật độ dày đặc nhất. Cứ đi vài phố lại thấy một đài phun nước giữa một quảng trường lớn hoặc nhỏ. Và nhà thờ thì hầu như góc phố nào cũng có. Hình như từ ban đầu, người La Mã hiểu rằng để có một xã hội tốt và một đời sống cao thì phải có một xã hội dân sự và người dân cần được thực hành quyền dân chủ của mình bên cạnh việc vui chơi giải trí. Họ hiểu rằng con người thực sự là một thực thể xã hội, bên cạnh việc là một thực thể sinh học và tâm linh. Một điều nữa cũng khiến tôi nghĩ: Rome thực sự rất nhỏ về diện tích và theo một số tài liệu tôi từng đọc thì người La Mã cổ đại chỉ có chiều cao trung bình khoảng một mét rưỡi, nhưng họ đã thiết kế tất cả các công trình công cộng với một sự phóng khoáng và vĩ đại cả về ý nghĩa và kích thước thực. Những quảng trường thênh thang, những nóc nhà cao, những hành lang đá lớn, những trụ tường cẩm thạch mấy người ôm, những tháp nhà thờ vươn thẳng lên trời, những bậc thềm, và những chạm trổ kỳ công… Mọi thứ đều phải cao rộng, hoành tráng, phải như thế giới của các vị thần, của Chúa trên thiên đàng. Con người quả là một bản sao của thế giới thần thánh; và nghiễm nhiên có thể là thần thánh.
Sau 3 giờ chiều, Rome tràn ngập người ngồi nhàn tản sưởi nắng ở các quảng trường – cả dân cư Rome và khách du lịch. Cũng khó mà có thể vội vã trong một ngày nắng đẹp như thế này, giữa một thành phố chậm rãi thế này. Trên phố, các tiệm kem đầy ắp người. Ngay cả những cảnh sát lực lưỡng, bảnh bao cũng vừa tán chuyện, vừa ngả ngốn trên những chiếc xe Vespa mà ăn kem thoải mái. Những người đàn ông đi bộ trên phố với một vẻ tự tin và trễ nải của những con báo ăn no đang đi dạo. Tôi thấy cả những ông già mặc com lê nghiêm chỉnh đủng đỉnh bước đi, vừa đi vừa liếm kem như một đứa trẻ. Các cô gái mặc đẹp chạy rông trên phố với mái tóc đen buông xõa; họ thoải mái phô bày cái cơ thể sexy như một quyền tự nhiên của con người.
Quanh đài phun nước Trevi, khách du lịch và người Rome la liệt nằm, ngồi, sửa nắng; họ ở sát cạnh nhau mà không thấy chật chội. Ngay cạnh đó, tôi nhìn thấy một cánh cửa gỗ màu đen pha đỏ, trông rất cổ kính; tôi không rõ nó là cửa vào cái gì nhưng cứ liều đẩy thử rồi bước vào. Bên trong hóa ra là một nhà thờ nhỏ hoàn toàn tĩnh lặng. Nhà thờ chỉ có diện tích như một gian phòng nhỏ, tối, với một ban thờ Chúa ở chính giữa và một vài hàng ghế. Có ba người đang gục đầu yên lặng cầu nguyện trong khi chỉ cách vài bước chân là bao nhiêu khách du lịch và người Rome đang ngồi ăn kem sưởi nắng. Nhìn từ bên ngoài, không thể biết được đây là một nhà thờ - và có lẽ có tuổi đời cả ngàn. Không biết có bao nhiêu nhà thờ như thế này ở Rome - thật khó tưởng tượng rằng tôi đang ngồi ở một tàn tích có thể đã có từ thời Julius Caesar Cleopartra, Antony, khi mà đế chế La Mã trải rộng tới tận sông Nile.
Tối nay, đã chán ngán các loại pizza và mỳ ống, tôi ăn tối ở một nhà hàng Trung Quốc gần khách sạn. Bàn bên cạnh là một cặp vợ chồng châu Á và một cậu con trai nhỏ - có vẻ như cặp vợ chồng đã cãi nhau trước khi đi ăn tối nên họ không hề nói chuyện với nhau và cũng không nhìn nhau suốt bữa; cả hai chỉ nhìn vào cậu con trai. Người vợ có một vẻ mặt khiến cho tôi nghĩ tới cụm từ "bể khổ". Hai mắt chị là hai cái hố khổ và khuôn mặt chị là một bản khắc sống của những năm tháng không vui; một khuôn mặt chỉ chực gục xuống khóc nếu quanh đây không có người. Chị có vẻ rất muốn chấm dứt cuộc hôn nhân này nhưng không biết cách, có khi không biết lựa chọn đó liệu có tồn tại với chị. Giữa hai người ngồi đó là một khoảng trống chết chóc. Thật là một cảnh đau lòng giữa Rome - thành phố mà người ta hôn nhau ở khắp các góc phố và cúi xuống buộc giày cho nhau.
Tôi vừa ăn vừa liếc nhìn chị và tự hỏi, không biết chị đang nghĩ gì.
Khó lắm, tôi biết chứ.
Những ngày này, tôi chỉ ngủ từ hai đến năm tiếng mỗi ngày. Đã thế, ngày nào tôi cũng đi bộ liên tục, ăn ít, chỉ uống nước là nhiều. Vậy mà không thấy mệt.
Sáng nay, tôi mở mắt lúc 3 giờ sáng và đến 5 giờ đã ra khỏi nhà, xuống tàu điện tới bảo tàng Vatican. Tôi muốn đến sớm để xếp hàng mua vé và có thể vào được bảo tàng trước khi rời Rome.
Bên ngoài, trời còn tối và hơi lạnh. Những đường phố Rome yên tĩnh. Dưới bến tàu điện, chỉ có một vài người chờ tàu. Trông họ đều mệt mỏi và nhem nhuốc - điều rất khó thấy ở Rome. Họ chắc chắn không phải người Ý. Có vẻ như họ là dân nhập cư từ Ấn Độ, Sri Lanka, Thổ Nhĩ Kỳ, Pakistan hay một nước nào đó có màu da sẫm màu.
Lúc hơn 6 giờ 15, bên ngoài bảo tàng chưa hề có ai. Những chỉ vài phút sau, một nhóm người Tây Ban Nha xuất hiện: một gia đình bốn người, gồm bố mẹ và hai người con có lẽ đang là học sinh cấp ba. Sau đó, một chiếc xe buýt dừng lại ở ngay chỗ chúng tôi và hai bà sơ chừng ngoài bốn mươi tuổi bước xuống, một mặc áo thụng trắng, một mặc áo thụng đen. Hôm trước, tôi hỏi chị Mai các màu áo có nghĩa là gì; có phải giống như là đai trắng, đai đen trong võ thuật không; chị Mai cười, bảo không phải, màu khác nhau là do các dòng tu khác nhau. Hai bà sơ đi tới chỗ tôi đứng; nhìn tấm biển báo giờ mở cửa; rồi có vẻ không chắc chắn lắm, họ hỏi tôi. Người mặc áo trắng nói tiếng Anh không sõi nhưng có thể hiểu được; vậy là chúng tôi bập bõm tán gẫu. Hóa ra, họ từ Philippines tới. Tôi nói rằng bảo tàng phải đến 8 giờ 30 mới mở cửa, nhưng người ta có thói quen đến từ sớm để xếp hàng. Sau khi nghe thông tin này và thấy mới chỉ có khoảng chục người đứng xếp hàng, hai bà sơ đi ra trước hai cánh cổng kín bằng gỗ của bảo tàng để chụp ảnh cho nhau. Họ giơ tay giơ chân làm điệu bộ, rồi trêu nhau gì đó và cười lăn lộn, đến mức phải ngồi xuống cho khỏi ngã. Trông họ giống như hai cô gái trẻ thân nhau đang đi shopping trong siêu thị chứ không phải hai nữ tu sĩ. Tôi quan sát họ và cũng thấy vui lây.
Trời buổi sớm có gió lạnh nên những người đứng đợi bắt đầu co ro. Chẳng mấy chốc, có mấy người phụ nữ mang rất nhiều khăn quàng và mũ len đến chào bán. Khăn mũ đủ các loại màu sắc, bằng lụa và len, giá từ 3 đến 5 euro. Họ bán những thứ này vì bảo tàng cấm những người mặc quần sooc và áo cộc tay vào bên trong, những người này phải mua khăn để trùm lên.
Đến 8 giờ 30, bảo tàng mở cửa. Phòng đầu tiên là các cổ vật và tượng thần trong Thần thoại Hy Lạp, hầu hết được làm từ trước hay ngay đầu Công nguyên. Tôi nhanh chóng nhận ra rằng tôi cần cả tuần mới có thể xem hết được bảo tàng này, mà tôi chỉ có buổi sáng nay. Vậy là tôi đành bỏ qua một loạt phòng để đi thẳng tới Nhà nguyện Sistine.
Đường đi tới đó không dễ. Phải đi lên đi xuống các cầu thang hẹp và xuyên qua các căn phòng đầy những bức tranh trần và tranh tường lớn, vẽ các tích tôn giáo. Một ý nghĩ cứ trở đi trở lại trong đầu tôi: tại sao ở các nền văn minh đầu tiên của con người, đời sống nghệ thuật và tôn giáo – tâm linh
Những người đến từ 6 giờ sáng để xếp hàng bên ngoài bảo tang Vatican (Rome)
được hòa trộn tự nhiên đến thế vào đời sống thế tục? Nghĩa là việc kính Chúa, thờ thần, việc coi con người như một hóa thân hoặc sự nối dài của thế giới thần linh là một việc tự nhiên; trong khi thế giới hiện đại của chúng ta dễ coi điều đó là biểu hiện của sự tăm tối và ngu dốt. Kết luận này có vẻ quá vội vàng và là một sản phẩm chính trị - xã hội nhiều hơn là sự thật. Con người hiện đại có lẽ đã quá tự mãn về quyền lực của mình và trong sự tự mãn đó đã cắt đứt mình khỏi một sợi dây nối với một cái gì đó cao cả, toàn thiện.
Phần chính của nhà nguyện Sistine là một căn phòng kiến trúc Phục hưng được xây dựng theo kích thước của đền thờ Solomon trong kinh Cựu ước – và lúc này đông nghẹt người. Tôi hầu như không thể di chuyển mà chỉ có thể thả lỏng cho mình được đẩy đi trong cái sóng người đều đang ngửa cổ nhìn lên trần nhà. Trên đó, trong vòng bốn năm từ 1508 đến 1512, Giáo hoàng Julius đệ nhị đã thuê Michelangelo vẽ chín bức bích họa để mô tả ba giai đoạn trong quan hệ của con người với Chúa trời: Chúa tạo ra thế giới, Chúa và con người, Loài người phản bội lại Chúa. Sau đó, từ năm 1537 đến năm 1541, Giáo hoàng lại thuê tiếp Michelangelo vẽ bức Sự phán xử cuối cùng (The Last Judgment) để tạo nên mắt xích cuối cùng cho tổng thể câu chuyện về loài người và Chúa.
Căn phòng lúc này rất tối vì toàn bộ cửa sổ đều bị đóng và do vậy khó mà nhìn rõ các họa tiết, nhất là trong tư thế ngửa đầu. Tuy thế, chỉ quy mô của những bức họa cũng có thể khiến người ta choáng ngợp. Tất cả những người trong phòng hẳn đều cũng có cảm giác này nên hầu như không ai nói gì, chỉ ngửa cổ nhìn, và thỉnh thoảng khẽ tặc lưỡi. Sự chiêm bái và ngả mũ này chỉ có một nửa với Chúa; nửa còn lại là với sức sáng tạo kinh khủng của Michelangelo. Ít nhất là tôi cảm thấy thế. Tôi không có gì để nói khi đứng đây. Tôi chỉ có thể im lặng và đồng tình với cái tuyên ngôn không lời của Michelangelo khi ông vẽ những bức fiasco này: hoặc là thế này , hoặc là không gì cả.
Nhưng thế này thực sự khó lắm. Những người cho rằng nó dễ là những người hoặc rất may mắn, hoặc không hề biết họ đang nói gì.
Tôi tới Rome làm gì? Câu hỏi này trở đi trở lại trong đầu tôi tối qua. Đa số những người tới Rome – mà phần nhiều là từ các nước phương Tây, hoặc các nước châu Á thân phương Tây như Nhật, Hàn Quốc, Singapore – đều ít nhiều có mục đích hành hương. Họ tới Rome để tới Vatican, để được gần Chúa hơn thông qua việc gần với Giáo hoàng hơn và gần với đất thánh hơn. Nói gì đi nữa, Thiên Chúa giáo vẫn là tôn giáo lớn nhất thế giới vào thời điểm hiện tại, với khoảng hơn hai tỷ tín đồ, trong đó có quá nửa thuộc Thiên Chúa giáo La Mã.
Với tôi, mục đích hành hương này hoàn toàn không có. Từ lâu tôi đã nghĩ, ngoại trừ chuyện một người xuất thân trong gia đình nào và xã hội nào, sự lựa chọn tôn giáo của người đó còn phụ thuộc tạng người. Tạng của tôi không sao tin được những điều cơ bản mà người theo đạo Thiên Chúa nào cũng tin: có một đấng sáng tạo, gọi là Chúa Trời, đã tạo ra thế giới và con người từ cát bụi; loài người đã phản bội lại Chúa và vì thế mà tất cả chúng ta sinh ra đã có tội lỗi khởi thủy; tuy nhiên Chúa thương loài người nên đã cử con duy nhất của Ngài là Jesus xuống chịu tội cho loài người bằng cách chết trên thánh giá; và những ai tin nhận Chúa sẽ được rửa sạch tội lỗi để lên thiên đường sau khi chết còn tất cả những người không tin Chúa sẽ xuống địa ngục [7] .
[7] Dĩ nhiên là một số dòng chỉ tin chúa Jesus là sứ giả của Chúa chứ không phải con của Chúa.
Đi nhà thờ với Quang Anh đến hai năm và dầu cố gắng hết sức, tôi vẫn không sao chấp nhận được những điều này. Có cái gì đó trong tôi cứ cưỡng ra. Có lần, khi hết cả kiên nhẫn với tôi, Quang Anh đã nói:
“Tại sao chị bướng thế nhỉ? Chị không chịu tin nhận Chúa chẳng qua là do chị kiêu ngạo chứ không phải vì nó phi logic. Chị sợ người ta bảo chị ngu ngốc.”
Bướng thì tôi công nhận, nhưng sợ người ta bảo mình ngu ngốc thì chắc chắn là không.
“Em nhầm,” tôi nói. “Nếu thực sự có Chúa, và Chúa đã để Jesus chết trên thánh giá để rửa tội cho con người, thì chị hết tội rồi, tại sao chị lại phải theo Đạo, mà không chị lại còn phải xuống địa ngục. Đã bảo là chết để đền tội thay rồi mà vẫn còn bắt vào đạo mới được chuộc tội thật; cái lỗi đấy là lỗi phiên dịch và cưỡng ép của nhà thờ, chị chẳng tin Chúa tử tế nào lại ép người ta như thế. Phật chẳng bao giờ ép ai theo đạo Phật, Phật bảo mỗi người đều là Phật, phải tự mà cứu mình.”
Nghe đến Phật thì dĩ nhiên Quang Anh càng điên tiết. Nhất là vì lúc đó, trong cố gắng tìm một lối tắt để đi tới sự thật (trời ơi!), tôi vừa đi nhà thờ cùng Quang Anh vừa bắt đầu tập thiền cùng với một nhóm bạn khác.
“Đây không phải là phiên dịch của nhà thờ,” Quang Anh nói “Đây là Kinh Thánh nói! Kinh Thánh là lời Chúa; chị đã đọc sách Luke và Mathew trong Tân ước, chị biết việc Chúa Jesus là con của Chúa chính là lời Chúa nói trong Kinh Thánh chứ không phải là sự phiên dịch của nhà thờ.”
“Dào,” tôi tặc lưỡi, “Luke và Mathew trước hết là các nhà chính trị.”
Đến đây thì Quang Anh hết chịu nổi.
“Vấn đề không phải là logic , vấn đề là chị chưa thấy địa ngục đấy thôi; nếu chị biết chắc chị sẽ phải xuống địa ngục nếu không tin Chúa thì chị đã ba chân bốn cẳng tin nhận rồi. Chị đúng là chưa thấy quan tài chưa nhỏ lệ.”
“Em lại nhầm nữa rồi,” tôi cũng phì khói qua hai tai. “Nếu quả thực là như thế thì lại càng phi lý. Thế thì chị thà xuống địa ngục còn hơn. Đằng nào thì đa số bạn của chị với em cũng xuống địa ngục với chị. Xuống đấy cũng vui chán.”
Lúc ấy chúng tôi đang uống sinh tố trên phố Hoàng Diệu vào một buổi tối thứ Bảy, sau khi đi tập thánh ca ở nhà thờ về (hồi đó, phố Hoàng Diệu còn là phố sinh tố). Đến đây thì Quang Anh không nói không rằng, lên xe đi thẳng.
Cũng vì xung đột này mà bọn tôi đã từ mặt nhau một thời gian dài trước khi làm bạn trở lại một cách dè dặt. Chúng tôi học cách không mang chuyện tôn giáo ra tranh luận nữa; nhưng tôi biết Quang Anh vẫn không thể tiêu hóa nổi việc tôi lại không nhận ra cái sự thật rành rành về Chúa.
Chị Mai, trái lại, thuộc tạng có thể theo đạo Thiên Chúa và thực tế là chị đang hiến cả đời mình cho Chúa. Tôi đoán, khi tôi và chị Mai đứng trong nhà nguyện Sistine nhìn lên những bức fiasco của Michelangelo, chị Mai nhìn thấy Chúa, còn tôi chủ yếu thấy Michelangelo. Chị Mai cho rằng ngay cả sự sáng tạo của Maichelangelo cũng thuộc về Chúa, nếu không nhờ ân phước của Chúa thì Michelangelo không thể nào tạo ra kiệt tác này; còn tôi thì chỉ nhìn thấy cơ bắp và các nơ ron thần kinh của Michelangelo căng ra trong lúc ông ngửa đầu ra vẽ, bất kể Chúa hay quỷ Satan có muốn ông vẽ hay không.
Nhưng rút cục, tôi tới Rome để làm gì?
Ngày hôm nay, tôi đối mặt lại với câu hỏi này, nhưng là trước “chị bề trên” trong nhà dòng của chị Mai. Chiều nay, khi gặp chị Mai, tôi lại hỏi chị không biết chị đã hỏi “chị bề trên” cho tôi chưa.
“Nếu chị bề trên đồng ý thì em sẽ quay lại Rome để đến sống thử trong nhà dòng,” tôi nói.
“Chị hỏi rồi,” Chị Mai cười. “Chị bề trên bảo sao cứ nói mà mãi không đưa cô ấy đến đây giới thiệu.”
Lúc ấy, chúng tôi đang đứng bên ngoài nhà ga Termini, tôi nói, “ Thế thì đi luôn bây giờ được không chị, để em xuống rửa mặt một chút trông cho tử tế đã.” Tôi chạy xuống tầng dưới để vào nhà vệ sinh. Nhưng tôi vội quá và có lẽ là mừng quá nên đã chạy nhầm và toilet nam mà không biết. Trong lúc trang điểm, tôi nhìn vào gương và nhận thấy những người đàn ông đi ngang phía sau tôi cứ nhìn tôi chằm chằm. Đến lúc, những cái nhìn xoáy quá, tôi quay lại nhìn họ và nhận ra mình đang ở trong nhà vệ sinh nam. Tôi vội vàng ôm túi đồ trang điểm chạy ra khỏi phòng.
Nhà dòng của chị Mai ở trong một con phố rất hẹp cạnh khu Piazza Navona. Không có cổng vào, không có tường cao, không có hàng rào, không có thánh giá hay bất cứ dấu hiệu nào bên ngoài cho thấy đây là một nhà dòng. Đó chỉ là một căn nhà hai tầng sơn màu vàng mang kiến trúc Phục Hưng như những căn nhà bên cạnh. Chúng tôi đi qua một cái cửa nhỏ, rồi chị Mai dẫn tôi sang một căn phòng giống như một cái am, ở đó có một bàn thờ Chúa và Đức Mẹ Maria rất đơn giản. Chị bỏ dép, quỳ xuống làm dấu thánh – tuy chỉ trong vài giây nhưng các cử động đều tập trung, tự nhiên, và nối nhau mềm mại như một thứ bản năng thường hằng, tôi cũng vội vàng bỏ dép, quỳ xuống sau chị, và cũng bất giác làm dấu thánh mặc dù ngay trong lúc đang làm dấu, trí óc lập tức đánh động tôi rằng cái dấu thánh của tôi hoàn toàn trống rỗng về nghĩa (và ở đây thì có một phần khác lại lặng im ghi nhận rằng cái phản xạ làm dấu đầu tiên, trước khi trí óc tôi can thiệp, là một phản xạ tự nhiên để đáp lại một điều gì đó tự nhiên mà gọi bằng tên không gì quan trọng). Rồi chị đứng dậy, nói với tôi rằng mỗi lần đi ra ngoài hay đi về, mọi người trong nhà dòng đều phải chào Chúa trước.
“Giống như con cái khi ra ngoài nhà hay đi về đều phải chào bố mẹ mình,” chị nhẹ nhàng nói.
Chào Chúa xong, chị Mai dẫn tôi đi qua một cái cửa ngách để vào bếp – chị giải thích rằng phải đi qua bếp mới lên được nhà trên, nơi mọi người sinh hoạt. Vừa bước vào bếp, tôi đã nghe tiếng cười lớn và sau tiếng cười là bốn phụ nữ da đen to lớn, đầu vấn khăn, mặc váy hoa rộng kiểu châu Phi, đang lau dọn những cái bồn rửa bát to như những bể nước ở giữ phòng (họ lập tức gợi tôi nhớ đến những bộ phim từ thời những năm 1980 như Nô tì Isaura). Chị Mai nói với họ rằng tôi là người nhà của chị từ Việt Nam sang (họ nói với nhau bằng tiếng Pháp), rồi giới thiệu với tôi lần lượt cả bốn người: hai chị từ châu Phi, một chị từ Úc và một từ Haiti. Mỗi lần chị Mai giới thiẹu đến ai, người đó lại tiến tới hôn tôi vào hai bên má.
“Bon jour. Enchanté!” các chị cười hiền hậu.
“Bon jour,” tôi luống cuống đáp lại vì còn bất ngờ với những cái hôn. “Enchanté!”
Các chị lúc đó chưa biết tôi không nói tiếng Pháp nên hỏi tôi “Comment ca va [8] ?” và nhiều câu khác, tôi trả lời rằng tôi “très bien [9] ” và tôi “non parle Francaise [10] ”. Vậy là họ chỉ mỉm cười rất trìu mến, mắt ai cũng lấp lánh niềm vui. Tôi nhìn thấy trên bàn cạnh đó hai thùng đựng sâm banh nên nói:
“Ah, champane... Beaucoup de champagne. Champage no good for sisters [11] .”
[8] Em khỏe không?
[9] Rất khỏe
[10] Không biết nói tiếng Pháp.
[11] A, sâm banh... Nhiều sâm banh quá. Sâm banh không tốt cho các bà sơ đâu.
Các chị phá lên cười, rồi giải thích với tôi qua chị Mai rằng “ non non ”, sâm banh này không phải cho các sisters, sâm banh này là cho “restaurant”. Họ đang chuẩn bị mở một cửa hàng nấu món ăn Pháp để có thêm thu nhập cho nhà dòng. Một chị nói gì đó với chị Mai và chỉ lên nhà trên, ra ý rằng chị bề trên đang ở trên đó.
Tôi theo chị Mai đi qua một cầu thang gỗ lên nhà trên. Ngang qua một căn phòng nhỏ, tôi nhận thêm vài chục cái “bious” vào má từ khoảng chục sơ mặc đồng phục trắng đen, đang ngồi trong phòng nói chuyện rất vui vẻ với một đức cha vừa từ Pháp sang. Họ cười rất nhiều và đều lần lượt đứng lên hôn tôi vào hai má khi chị Mai giới thiệu – kể cả người ngồi xa nhất trong phòng và phải đi vòng qua người khác để ra cửa hôn tôi. Ở phòng lớn bên cạnh – mà chị Mai giải thích là phòng ăn và phòng họp của nhà dòng – tôi gặp chị bề trên.
Chị bề trên là một phụ nữ da đen gốc châu Phi và nói tiếng Anh với giọng của người châu Phi. Trông chị nghiêm nghị hơn những người còn lại trong nhà. Chị mời tôi ngồi, lấy nước cho tôi, rồi hỏi:
“Em muốn tới nhà dòng để làm gì?”
“Em muốn tìm hiểu về đời sống ở nhà dòng.”
“Tại sao em muốn tìm hiểu? Tìm hiểu cái gì?”
Cố gắng tỏ ra tự tin thật vô ích và ngớ ngẩn.
“Em cũng không biết chắc,” tôi cố tìm cách sắp xếp các ý nghĩ của mình cho các trật tự logic, mặc dù tôi cũng lập tức hiểu rằng các ý muốn tạo logic cho câu trả lời của mình có lẽ là vô nghĩa, nhưng dù sao tôi cũng sẽ cố. “Em muốn đến đây sống cùng các chị trước hết để quan sát xem các chị sinh hoạt như thế nào. Là người bên ngoài, bản thân em và nhiều người em biết ở Việt Nam nghĩ rằng đời sống ở nhà dòng rất khổ hạnh, khắc nghiệt, nhưng em thấy mọi người ở đây và em thấy chị Mai chẳng hạn, rất vui vẻ thanh thản. Em muốn tìm hiểu điều đó.”
“Điều đó là điều gì?”
“Sự thanh thản, niềm vui sống.”
“Để giải thích với mọi người à?”
“Có thể. Nhưng trước hết là để cho em hiểu. Em nghĩ ai cũng muốn sống thanh thản, ai cũng muốn tìm điều đó, bản thân em cũng tìm, cho nên khi thấy có người có thể đã tìm được thì em muốn tìm hiểu. Sau đó thì có thể là em sẽ viết cái gì đó, ví dụ như một bài báo, để cho mọi người có cái nhìn đúng hơn về các nhà dòng và người đi tu.”
“Nhưng nhà dòng và người theo đạo không cần thanh minh với ai cả,” chị mỉm cười.
“Không phải là thanh minh, nhưng để cho xã hội có một cái nhìn chính xác hơn thì cũng tốt phải không ạ? Vả lại, cơ bản là cho em, em muốn tìm hiểu.”
“Chính xác là hiểu cái gì?”
“Hiểu vì sao mọi người đi tu, hiểu xem lựa chọn ấy là như thế nào?”
“Mọi người vào nhà dòng là do ơn gọi của Chúa em ạ,” chị nói. “Em có cảm thấy được gọi không?”
Có chữ, tôi nghĩ, có trước hết là sự tò mò gọi tôi; tò mò theo nghĩa cơ bản nhất và lành nhất. Và cả cái gì đó tôi không gọi tên được nhưng nhận biết trong tim tôi, nó là cái mà bao năm qua đã luôn dẫn đường và thầm mách tôi câu trả lời vào những lúc tôi đứng ở ngã ba đường. Tôi cố gắng trình bày những ý nghĩ của mình trong khoảng thời gian năm phút.
“Chị rất thông cảm với ý muốn tìm hiểu của em,” chị bề trên cười sau khi lắng nghe tôi một lúc. “Nhưng chị sợ là không đồng ý cho em vào được vì như vậy là trái với quy định của nhà dòng. Nếu chị đồng ý cho em vào, chị sẽ phải đồng ý cho người khác, và như thế có thể xáo trộn đời sống của các chị em ở đây. Khi nào em có ơn gọi, chắc chắn em sẽ đến. Khi đó, nhà thờ sẽ rộng cửa đón em.”
Tôi đã đoán trước được câu trả lời này. Thực sự, nếu như là chị, tôi cũng sẽ không cho tôi đến. Tôi nói không sao đâu, chỉ cần đến đây một tiếng vừa rồi là em cũng đã biết thêm một số thứ rồi.
Trên đường trở lại nhà ga cùng chị Mai, tôi không nhịn được lại hỏi:
“Chị Mai ơi, chị đã yêu ai bao giờ chưa?”
Chị cười:
“Mình chưa. Mình vào nhà dòng từ năm mười sáu tuổi mà.”
Trời ơi, phí quá, lẽ ra một hoặc nhiều người đàn ông đã có thể có cái hạnh phúc được yêu chị Mai hoặc được chị Mai yêu.
“Em mà là con trai, nhất định em phải quyến rũ chị mới được,” tôi nói.
Chị lại cười và nói với tôi rằng các chị trong nhà dòng đều cảnh báo với chị thế nào cũng có ngày chị phải đối mặt với thử thách này và nó sẽ là một thử thách rất khó vượt qua. Các chị trong nhà dòng đều đã trải qua thử thách đó; một số người đã không vượt qua và bỏ nhà dòng ra ngoài. Những người còn lại ở trong nhà dòng hiện giờ thì, nếu họ đã vượt qua thử thách yêu đương, họ sẽ đeo một cái nhẫn cưới ở ngón áp út, để chứng tỏ rằng họ đã kết hôn với chúa Jesus, còn những cô gái trẻ như chị Mai thì sẽ đeo nhẫn đính hôn, để nói rằng họ đã được đính hôn, được hứa gả cho Chúa Jesus, nhưng có kết hôn hay không còn tùy thuộc vào việc họ có vượt qua được thử thách khi họ phải lòng một người đàn ông và sẽ phải chọn giữa Chúa và con người.
“Thế thì chị đã đến nơi lý tưởng cho thử thách này rồi.” Tôi nói “Đàn ông Rome rất đẹp trai và có biệt tài tán tỉnh. Chắc chắn là chị sẽ sớm được thử thách.”
“Chị cũng mong như vậy. Chị mong sớm được thử thách để có trưởng thành hơn trong Chúa.”
Tôi bật cười. Ôi chị Mai ơi, có lẽ không nên mong được thử thách bằng tình yêu với một người đàn ông trong lúc đã được hứa hẹn hoặc kết hôn với một người khác. Thử thách ấy không phải là một thứ nên được mong chờ đâu. Nó có khả năng hủy hoại chị theo những cách không thể tưởng tượng được; đã có quá nhiều người rơi vào cái vết xe đổ ấy. Như trong Kinh Cựu ước, Adam đã nghe con rắn và Eva mà ăn quả táo cấm, và mở mắt, và biết mình đang trần truồng, và lần đầu biết thế nào là xấu hổ, và Adam đã phải ra khỏi thiên đường.
“Nhưng như thế tức là tình yêu với Chúa của mình không đủ mạnh rồi,” chị Mai nói. “Và như thế thì mình ra khỏi nhà dòng là đúng. Các chị trong nhà dòng đều cảnh báo mình rằng sẽ rất khó, nhưng mình mong là lúc đó, mình sẽ đủ tình yêu với Chúa để chọn Chúa.”
“Chọn” – chính là cái từ này. Tất cả khó khăn của cuộc sống chúng ta, dù là khó khăn thật hay ảo tưởng, hẳn đều nằm ở cái từ này. Làm sao để biết mình chọn đúng ? Làm sao biết lựa chọn của mình tối ưu ? Làm sao để biết lựa chọn của mình có nghĩa khi mà thông tin và thời gian luôn luôn hữu hạn?
-  Chị có bao giờ tiếc không? Tiếc là chị đã theo đạo? Chị không được ra ngoài, đi chơi, đi du lịch như em, rồi lấy chồng, có con, rồi làm việc này việc khác... sống điên rồ, tự do một tí chẳng hạn. Lấy chồng, có gia đình cũng vui.
-  Không, mình chưa bao giờ tiếc cả. Mình cảm thấy lời gọi của Chúa với mình rất rõ ràng. Khó giải thích lắm nhưng mà mình muốn cuộc sống này hơn bất kì thứ gì khác. Mình chưa bao giờ tiếc.
Bên ngoài cửa sổ xe buýt, Rome bắt đầu lác đác ánh đèn. Thành phố đầy những người hối hả tìm cách vượt qua đám tắc đường để tới một cái đích nào đó: một buổi hẹn với người yêu, về nhà với chồng con sau giờ làm, trốn vợ đi vụng trộm với bồ, hoặc tới lớp học đêm sau tám tiếng làm ngày... Chúng tôi quặt qua một con phố và tôi nhìn thấy ngay giữa khúc giao của hai con đường đầy ô tô và các cửa hàng thời trang Ý hào nhoáng là một khoảng tường thành hõm xuống, nham nhở gạch, cỏ dại phủ kín chân tường và mèo hoang dàn hàng chờ đêm trên các bờ tường. Đây là tàn tích của nền văn minh La Mã đã bị phá hủy, một thời hoàng kim chỉ còn là quá khứ. Tôi cầu mong chị Mai sẽ mãi giữ được cái chị đang có ngày hôm nay dù rằng cái dấu tích La Mã cổ đang nằm như một vết thương không thể kín miệng giữa đường phố Rome hào nhoáng nói với tôi rằng không có bất cứ thứ gì trên đời là vĩnh viễn không đổi thay.
Chị Mai dĩ nhiên sẽ nói: “Việt, không có gì trên đời không thay đổi, ngoài Chúa.”
Tôi suýt không gặp được chị Mai trước khi rời Rome.
Chúng tôi đã hẹn gặp để chào nhau nhưng do hiểu nhầm, tôi đợi chị ở bên ngoài bảo tàng Vatican còn chị thì đợi tôi ở đền Pantheon. Chờ một lúc không thấy chị và cũng không có điện thoại để gọi, tôi về khách sạn, check out và ra nhà ga Termini đợi đến giờ ra sân bay. Tôi không quên gọi điện đến nhà dòng để nhắn lại lời chào tạm biệt. Trong lúc đó, chị chờ tôi hai tiếng ngoài Pantheon, rồi đi về nhà, nhận được tin nhắn lại vội vàng trở lại nhà ga. Khi tôi nhìn thấy chị đi lẫn trong dòng người tấp nập của nhà ga, vẫn giản dị trong một bộ váy hoa bằng vải thô, khuôn mặt hơi lo lắng nhưng bình an, một niềm vui ào ạt nhấn chìm tôi.
“Chị Mai! Chị Mai!” Tôi kêu to.
Chị quay đầu, nhìn thấy tôi và, trái với sự khoan thai thường ngày, chạy sà lại chỗ tôi đang ngồi. Hai chị em ôm chầm lấy nhau cười như thể chúng tôi đã thân với nhau lâu lắm chứ không phải mới gặp nhau cách đây mấy hôm. Ôi, chị Mai! Đây là một con người mà tôi sẽ dùng từ “đẹp” để mô tả. Chị Mai là một người đẹp; một tâm hồn như một dòng nước suối mà người ta muốn ở gần. Tôi yêu quý chị quá thể.
Bên ngoài đường tàu của nhà ga Roma Termini, tôi “ bisous ” chị vào hai bên má. Sau đó, tàu bắt đầu chuyển bánh. Chị vẫn đứng trên sân ga, nhỏ bé, mảnh mai, tay vẫy và cười với tôi – nụ cười trên miệng và cả trong đôi mắt sáng, trong, hiền mà tôi rất hiếm thấy ở những người khác.
Và đấy là hình ảnh cuối cùng tôi mang về từ Rome.Rostock, ngày
Rostock, ngày...
Suốt mấy ngày vừa rồi, tôi đã trở lại Đức dự lễ nhập học của cháu tôi. Ở Đức, lễ vào lớp một là dịp trọng đại ngang với lễ tốt nghiệp cấp ba hoặc đại học ở Mỹ.
Từ sáng, chúng tôi đã dậy chuẩn bị. Tất cả đàn ông đều mặc com-lê, kể cả bé Andy hai tuổi. Tôi đã lo lắng chúng tôi ăn mặc quá trịnh trọng nhưng khi tới trường của Nam, nỗi lo của tôi tan biến vì các gia đình khác và lũ trẻ đều mặc lễ phục cả. Đứa trẻ nào cũng được tháp tùng bởi ông bà nội ngoại, bố mẹ, cô dì chú bác, anh chị em họ... Họ mang theo hoa, bóng bay chúc mừng, máy quay phim, máy chụp ảnh để ghi lại khoảnh khắc trọng đại này.
Phụ huynh và học sinh tập trung trong nhà thể thao của trường. Ở đó, các giáo viên và học sinh các lớp lớn hơn đã trang trí rất nhiều băng rôn, biểu ngữ chào mừng các em lớp một. Học sinh trật tự xếp hàng theo lớp; phụ huynh ngồi ở các hàng ghế xung quanh. Ở chỗ này tôi phải mở ngoặc nói rằng trẻ con Đức, từ những em bé một, hai tuổi đã có ý thức kỷ luật và tự lập một cách kinh ngạc; không hề có cảnh trẻ con khóc lóc, bám bố mẹ; không có cảnh bố mẹ dỗ dành, quát nạt, bú mớm, cho con ăn uống, tay xách nách mang. Một cô giáo hình như là cô hiệu phó đứng phía trên cầm micro hướng dẫn các em ngồi vào chỗ của mình, và học sinh cứ thế răm rắp làm theo, không hề có chen lấn, xô đẩy.
Đúng giờ, lễ nhập học bắt đầu. Các em học sinh lớp ba hát một vài bài hát và đóng một vở kịch ngắn; sau đó, cô hiệu trưởng đọc lời chào mừng các học sinh lớp một; rồi giáo viên chủ nhiệm của mỗi lớp một mới đọc tên từng học sinh để các em đi vào các lớp. Cô giáo gọi đến tên ai, em đó đứng lên, và gia đình vỗ tay, chụp ảnh rồi đi vào lớp rất trật tự. Điều mà tôi nghĩ đến nhiều nhất khi chứng kiến toàn bộ buổi lễ này là “sự tôn trọng”. Trẻ em ở đây được tôn trọng như những cá thể độc lập và có ý thức; cho nên chúng được đối xử trên tinh thần như thế; và chúng cư xử lại cũng với tinh thần như thế. Không có sự bao bọc, nuông chiều, cung phụng, hoặc hách dịch với trẻ em.
Chúng tôi theo Nam vào lớp. Trong lớp, cô chủ nhiệm nói thêm vài lời chúc và dặn dò; rồi các em được về - để các gia đình có thể tổ chức tiệc nhập học ở nhà. Buổi lễ rất đơn gỉan nhưng sang trọng. Sau lễ, chúng tôi đi tới một nhà hàng để ăn trưa, rồi lên tàu đi ra một hòn đảo cách đó ba mươi phút. Ở đó có bãi biển và bọn trẻ con được xuống tắm. Hầu hết các bố mẹ ngồi hoặc sưởi nắng ở bên trên, mặc bọn trẻ muốn làm gì thì làm. Có những đứa bé chỉ lẫm chẫm đi, hoặc còn đang bò nhưng bố mẹ chúng mặc kệ cho chúng bò xuống mép nước hoặc nghịch cát. Họ chỉ im lặng quan sát và theo dõi từ xa chứ không kè kè bên cạnh, cũng không ngăn cản, đe dọa, khuyên bảo, dỗ dành. Tôi quan sát một em bé còn đeo tã lẫm chẫm đi ra mép nước, ngồi xuống sờ tay vào nước và hét lên thích thú, rồi bị một cơn sóng đánh ngã ra nhưng bố mẹ em chỉ chăm chú theo dõi mà không chạy tới giúp. Em bé lồm cồm bò dậy, tự động lùi lại rồi tiếp tục sục tay xuống nước để vầy. Ở ngoài xa hơn một chút, những đứa bé ba, bốn tuổi; và xa hơn là bọn trẻ mười – mười lăm tuổi túm tụm chơi đùa. Chúng có thể cãi nhau và đánh nhau, và phải tự giải quyết lấy; người lớn sẽ không can thiệp ngay cả khi trẻ con quay về “mách”.
“Việc của con, con tự giải quyết” tôi nghe thấy một ông bố nói với đứa con khoảng sáu tuổi của mình; trong lúc đó, người mẹ nằm sưởi nắng đọc sách.
Tôi nằm trên cát, cạnh những bụi sậy úa vàng dưới nắng hè xem bọn trẻ đùa trên bãi biển và kinh ngạc vì cái cách mà người Đức dạy con. Họ kỷ luật và lý tính còn hơn người Mỹ. Được nuôi lớn lên trong sự bình tĩnh và kỷ luật tự nhiên như thế này, hy vọng những đứa trẻ sẽ có cơ hội giữ được bình tĩnh và kỷ luật trước những biến động và cám dỗ của cuộc sống người lớn sau này.
Đây có lẽ là điều tôi yêu nhất ở Sơn. Anh không bị cám dỗ bởi tiền bạc; không coi việc phải có nhà cửa ổn định, công việc ổn định, thăng tiến trong xã hội là mục đích sống – và tôi đồng ý với điều đó.
Nhưng anh lại cũng không thông cảm và kiên nhẫn được với những người yếu đuối hơn anh. Có phải ai sinh ra cũng đã may mắn có được sự mạnh mẽ đâu, ngay cả khi họ cố hết sức.
Biển Baltic, ngày...
Biển Baltic, ngày...
Những ngày này, tôi đã hoàn toàn mất cảm giác về thời gian. Tôi không còn nhớ hôm nay là thứ Hai, thứ Ba hay thứ Tư. Ngay cả cảm giác về những nơi chốn cũng trở nên nhạt nhòa; những địa danh chỉ giống như những hình ảnh nhòe trong một cuộn phim chụp hỏng.
Hôm trước, ở nhà ga trung tâm khổng lồ của Berlin, nhìn những tàu con thoi tốc độ chạy xuyên quốc gia và tầng tầng bến tàu đổ đi các hướng, tôi còn có cảm giác như mình lạc vào một bộ phim khoa học viễn tưởng và sẽ không ngạc nhiên nếu thấy những chiếc ô tô vun vút hạ từ trên trời xuống và Skywalker bước ra. Cũng ở Berlin, khi xuống khỏi bến tàu điện ở khu trung tâm, tôi tưởng như mình đang ở trên Đại lộ Michigan ở Chicago bởi vì kiến trúc của các tòa nhà vừa cửa hiệu ở đây giống hệt Magnificient Mile [12] của Chicago: cũng Chanel, H&M, Niketown, Salvatore Ferragamo, McDonald, và cả Dunkin Donuts. Nhưng chỉ đi ngược một đoạn ra tàn tích của bức tường Berlin, trả mấy euro để chụp một tấm ảnh lưu niệm với hai người mặc đồng phục Hồng quân Liên Xô và Đức Quốc xã, tôi lại tưởng như mình đang sống trong Thế Chiến II hay Chiến tranh Lạnh. Hay hôm nay, ở Copenhagen, khi bước trên những đường phố nhỏ gần nhà An- đéc- xen, tôi ngỡ có thể thấy ông từ đâu đó đi ngược lại phía tôi, cao, gầy, đầu đội mũ, tay chống một chiếc ba toong đen.
[12] Đoạn phố Chicago trong khu trung tâm, toàn các cửa hàng hào nhoáng.
Copenhagen nhỏ, hiền hòa. Xe đạp ở khắp nơi. Những ngôi nhà và những con đường đầy cây, gợi cảm giác chúng đã ở đó từ thế kỉ XIV, XV, và sẽ vẫn ở đó rất lâu, ngay cả khi phần còn lại của thế giới được số hóa và ảo hóa. Ngay cả khu bến tàu bận rộn nhất của thành phố cũng có một vẻ hiền hòa, nhàn tản, khiến cho tôi nghĩ đến những cảng cá luôn thổi một thứ “gió sầu phương Bắc” ru thành phố ngủ mà An-đéc-xen đã nhắc đến.
Copenhagen thực sự rất chậm và có thể làm nản lòng những người muốn tìm kiếm giải trí. Đây là một thành phố hoặc sẽ bị coi là nhạt nhòa và điển hình của sự già cỗi châu Âu hoặc một thành phố dường như đang điềm tĩnh cưỡng lại sự toàn cầu hóa bằng một ý thức sâu sắc về sự trụy lạc và tự diệt vong trá hình dưới cái vỏ “hiện đại hóa”. Copenhagen vẫn còn đầy bóng dáng của sự cổ điển.
Ở Copenhagen cũng như ở Berlin, ở Rome những ngày này, cảm giác nổi trội nhất trong tôi chỉ là cảm giác về sự di chuyển: tôi chỉ đang trôi từ nơi này tới nơi khác trong một thế giới đã hóa lỏng.
Nhưng vào lúc hoàng hôn ngày hôm nay, khi vượt qua biển Baltic trên chiếc tàu phà khổng lồ Seandlines để trở lại Rostock từ Copenhagen, nhìn những con sóng bị mũi tàu đánh tơi thành những đám bọt trắng trong lúc con tàu tiến nhanh về phía Nam, ngay cả cảm giác di chuyển cũng dừng lại. Tất cả những gì tôi cảm thấy chỉ là một sự bình yên được bỏ neo sâu và chắc chắn bên trong - ở nơi nào thì tôi không biết. Cái khối bình thản ấy không chứa trong nó bất cứ ý nghĩ cụ thể nào nhưng nó làm nước mắt tôi dâng lên. Tôi cứ đứng ngoài boong tàu ngắm mặt trời lặn trong lúc mọi người đã vào cả trong khoang để tránh gió.
8:00: Mặt trời đang xuống nhanh. Ánh nắng chỉ còn có ở góc xa của mặt biển, hắt chéo lên những cột buồm cao của những con tàu lớn đứng rải rác trên mặt nước. Mặt biển chìm trong bóng râm. Nước có một màu thép non hiền lành ở bên trên nhưng hứa hẹn những vực tối bên dưới.
8:03: Mặt trời chuẩn bị chạm vào mặt nước. Trông như một quả cầu lửa chuẩn bị được nhúng xuống một chảo nước khổng lồ.
8:09: Một nửa mặt trời đã chìm xuống nước và đang chìm rất nhanh.
8:11: Khoảng 4/5 mặt trời đã biến mất
8”12: Tất cả quả cầu đã biến mất. Chỉ còn một quầng sáng màu lửa dội lại từ chỗ mặt trời lặn xuống. Mặt biển đã chuyển sang màu xám thẫm, có lẫn màu xanh đen.
Hôm kia, tôi cũng đã nhìn thấy một hoàng hôn tương tự bên bờ biển Rostock. Lúc ấy, chúng tôi đã từ lễ nhập học về và vào ăn tối ở một nhà hàng Việt Nam. Tôi ăn xong trước mọi người nên ra ngoài đi dạo bên bờ nước. Mặt trời lúc đó đã lặn nhưng mặt nước ở phía xa vẫn có màu lửa tối trong khi ở phía này đã chuyển màu xanh đen.Những cây sậy ở mép nước chỉ còn là những bóng đen phơ phất trên nền trời và từ chỗ tôi ngồi, tất cả khung cảnh này làm tôi nghĩ tới những bức tranh của Monet.Tôi đang ngồi trên một cái trụ gỗ thấp mà người ta dùng để buộc thuyền vào bến. Một còn vịt trời bay ngang qua mặt nước, cánh của nó chạm khẽ vào chỗ này, chỗ kia, tạo nên những vòng sóng tròn nhỏ trên mặt nước hoàn toàn tính lặng. Dọc vỉa hè, rất nhiều người ngồi yên ngắm mặt trời lặn. Một người đàn ông, chắc cũng là khách du lịch, hỏi tôi:
“Cô từ đâu tới?”
“Chiacago,” tôi đáp.
Tôi nói xong thì mới nghĩ ra câu trả lời thực ra không chính xác.Tôi đang sống ở New Hampshire chứ không phải Chicago; thực tế từ mấy năm nay tôi đã không sống ở Chicago thường xuyên. Nhưng tại sao, khi nghĩ đến “nhà”, tôi vẫn cứ nghĩ đến Chicago. Có thể là vì những ngày ở Chicago là khoảng thời gian chỉ có đọc, lên lớp, viết, và đắm chìm trong thế giới tri thức và vì thế mà tôi thường trực có cảm giác “neo đậu”. Hay vì đấy là nơi cuối cùng mà tôi sống cuộc sống độc thân, trước khi tôi hiểu ra rằng cái cô đơn có thể có trong quan hệ với người khác – nhất là với những người mà mình coi là quan trọng nhất trong cuộc đời mình - còn thấm thía hơn nhiều trạng thái một mình?
Con tàu lúc này đang tiến nhanh về bến và gió thổi lạnh hơn. Trên khoang tàu không còn bóng người nhưng tôi vẫn sẽ đứng đây để lấy cảm giác này.
Berlin, ngày…
Oma trong tiếng Đức có nghĩa là “bà”. Oma Marta là người quen của gia đình chồng tôi; hồi Sơn còn làm việc ở Đức, anh đã sống với oma Marta một thời gian.
Bây giờ là 8 giờ 57 phút sáng. Phòng khách của oma Marta lúc này không một tiếng động và được thắp sáng bởi một ngọn đèn bàn nhỏ. Tuy thế, ngoài vườn có nắng; có thể nhìn xuyên qua rèm cửa sổ để thấy những cây phong đầy lá và hàng rào dài bằng những bụi gai. Không nghe thấy gì nhưng tôi mường tượng được tiếng xào xạc của lá phong trong gió. Hôm nay là đầu tháng Chín, tức là bắt đầu mùa thu rồi. Tôi nhớ đến Omaha và những sáng mùa thu khi tôi mới đến Mỹ; đã tám năm. Trời cũng nắng nhạt như thế này, nhiều gió như thế này; ngày nào tôi cũng dậy sớm, đi xuyên qua công viên đầy những cây phong xào xạc trong gió khô, luôn luôn trong tình trạng lâng lâng vì cái quang cảnh như trong truyện cổ tích: những thảm cỏ xanh tỉa gọn ghẽ, những luống hoa cúc đủ màu trồng theo mùa, những con quạ đen chí chóe và lũ sóc với thỏ chạy đầy trong công viên.
Oma Marta đã dậy từ sớm và lúc này đang làm gì đó trong vườn. Gần 7 giờ sáng, khi tôi dậy đi toilet đã thấy oma dậy rồi. Nghe tiếng tôi, bà từ ngoài vườn đi vào hỏi tôi có uống cà phê không. Bà nói tiếng Đức, tôi không hiểu một từ tiếng Đức nào nhưng bà chỉ vào lọ cà phê cho tôi. Tôi cảm ơn bà và nói rằng tôi muốn ngủ thêm – bằng cách đặt hai bàn tay xuống dưới đầu và nghiêng đầu nhắm mắt. Oma Marta hiểu ra. Bà đi vào trong phòng khách kéo rèm cửa xuống cho tôi vì từ lúc 7 giờ sáng, rèm cửa tự động được kéo lên. Sau đó, bà ra ngoài, đóng cửa phòng lại và bây giờ chắc đang làm gì đó trong vườn hoặc ngồi sưởi nắng trên xích đu trước hiên nhà với con chó Andrew. Vài phút nữa tôi sẽ ra xem oma đang làm gì và chúng tôi sẽ uống trà. Nhưng bây giờ thì chưa. Bây giờ, tôi nằm trên sofa viết những dòng này bởi vì it feels so damn good . Tôi muốn cố gắng sống trong giây phút này càng lâu càng tốt.
Một ý nghĩ vừa khiến tôi ngồi hẳn dậy để viết. Cái ý nghĩ đó là thế này: giao tiếp không lời. Oma Marta không biết tiếng Anh và tôi không biết tiếng Đức; tất cả những gì chúng tôi có chỉ là rất nhiều cử chỉ và những nụ cười. Đôi khi, tôi phá ra cười vì tình trạng kì cục của hai chúng tôi: Oma đã ngoài tám mươi nên thường xuyên quên rằng tôi không nói tiếng Đức, vậy là oma cứ nói một tràng dài gì đó, khuôn mặt rất hào hứng chờ tôi trả lời, còn tôi thì hoàn toàn không hiểu; vậy là tôi phải nói lại gì đó bằng tiếng Anh để có thể đoán… và khi những nỗ lực phỏng đoán của chúng tôi đều thất bại thì tôi phá ra cười.
Ý nghĩ thứ hai khiến tôi ngồi dậy viết những dòng này cũng liên quan đến giao tiếp và ngôn ngữ. Cho đến nay, sau gần mười ngày ở châu Âu, có lẽ những khoảnh khắc đáng nhớ nhất trong chuyến đi này lại là những khoảng lặng yên. Tôi chắc sẽ cần phải xem lại ảnh và tra cứu sách mới nhớ ra các dữ kiện về các công trình kiến trúc ở Rome, ở Berlin, ở Copenhagen, nhưng tôi chẳng cần bất cứ phương tiện trung gian nào để nhớ lại lúc tôi nằm trên bờ bồn nước lớn ở khu trung tâm Đông Berlin cũ, nhìn trời và thỉnh thoảng liếc trộm một đôi tình nhân đang hôn nhau say sưa. Lúc ấy, tôi thấy hạnh phúc cho họ và hạnh phúc cho cả thế giới nữa. Cứ như thể cả vũ trụ đang mỉm cười (giống tôi) khi thấy đôi tình nhân trẻ hôn nhau. Hay như lúc tôi ngắm mặt trời lặn trên biển Baltic từ trong khoang tàu Scandlines từ Copenhagen trở lại Đức. Và như lúc này… trong phòng khách của oma Marta, nhìn ra khu vườn đầy lá của bà, nghe nhạc một chút trước khi trở dậy ra sân bay đi Paris.
Tối hôm đó, khi tôi từ Rostock lên, đã muộn rồi nhưng oma vẫn làm salad cho tôi ăn tối. Bà làm rất nhanh; chỉ có hành tây và đỗ đũa xanh đóng hộp trộn với dầu ăn, một chút muối, một chút hạt tiêu và gia vị gì đó – nhưng rất ngon. Sau khi ăn xong, bà chỉ lên đồng hồ và xòe ngón tay đếm bằng tiếng Đức, rồi nói “taxi” và “Schonefeld”. Ý bà nhắc tôi là 11 giờ sáng mai, taxi sẽ đến đưa tôi ra sân bay Schonefeld đi Paris. Paris! Phải rồi, 8 giờ tối nay tôi sẽ có mặt ở Paris rồi. Bây giờ tôi sẽ ra ngoài xem oma đang làm gì.
10:45 sáng: Vừa ăn sáng với oma. Tôi không muốn ăn sáng và tôi nhắc đi nhắc lại “No, no”, đồng thời lắc đầu để oma hiểu… nhưng bà lấy hết thứ này đến thứ khác khỏi tủ lạnh và liên tục nói tiếng Đức với tôi với một vẻ mặt vô cùng hớn hở vì sẽ được cho tôi ăn. Bà bày ra ba loại salami khác nhau, thịt lợn xông khói, mứt quả, rồi bơ, bánh mỳ, nước quả… Khi tôi nhận ra rằng đồng ý ăn sáng còn dễ hơn là giải thích với oma rằng tôi không muốn ăn, và việc tôi ăn sáng sẽ làm oma vui lòng hơn nhiều lần sự lười biếng của tôi. Tôi cười, nói “yes, yes, yes” với tất cả những thứ oma đưa cho tôi xem. Rốt cuộc, trên khay ăn sáng của tôi có đủ bà loại Salami, thịt nguội, mứt, bơ, hai lát bánh mỳ nướng và sữa. Tôi mang khay ra ngoài phòng sưởi nắng ngồi ăn. Còn oma, sau khi thuyết phục được tôi ăn sáng thì vô cùng mãn nguyện đi ra ngoài vườn; bà không quên khép cửa lại. Mấy phút sau, tôi nghe có tiếng động khe khẽ. Hóa ra oma đang cắt cỏ.
Bà di chuyển chậm chạp; cổ tay buộc một dải băng, hình như cổ tay bà bị sưng. Tôi đi lại gần, nói với oma để tôi cắt giùm bà – bằng cách chỉ vào tôi, rồi chỉ vào máy cắt cỏ và ra hiệu đẩy đẩy. Nhưng oma cười, lắc đầu, chỉ xuống cỏ, rồi xuống chân và ống quần, rồi đẩy tôi vào trong nhà. Ý oma nói cỏ ướt, tôi sẽ bị bẩn quần và chân, bà có thể hiểu được và tôi nên lo ăn sáng đi. Tôi biết là không thể thuyết phục được một người Đức, nhất là một người đã sống qua Thế chiến và Chiến tranh Lạnh, đã làm chủ một cửa hàng và sống một mình nhiều năm như oma, nên tôi quay vào bàn ăn.
Trên bàn có một tờ báo dày có chữ Berlin, tôi đoán chắc là thời báo Berlin… trang đầu tiên có một tấm ảnh vệ tinh chụp cơn bão Gustav. Tôi cố gắng thử đọc xem có hiểu gì không nhưng chỉ nhận ra vài từ như “Kubas” và “New Orleans” còn lại thì chịu. Vừa lúc đó, oma mở cửa đi vào, tay cầm mấy bông hoa cúc trắng nhỏ xíu. Bà lấy một bình hoa bằng xứ trắng cũng nhỏ xíu, bỏ mấy bông hoa vào rồi đặt lên bàn ăn cho tôi. Vừa bất ngờ vừa cảm động, và vẫn còn đủ minh mẫn để nhớ rằng mình không biết tiếng Đức, tôi làm hành động rất kỳ quặc: tôi đứng lên vỗ tay và cười toe toét như một đứa bé. Giờ viết lại và tưởng tượng bản thân lúc đó, tôi cũng buồn cười.
Oma Marta mỉm cười, nói một câu gì đó có mấy từ nghe giống như “ good good [13] ” trong tiếng Anh, đồng thời chỉ ra vườn. Tôi đoán bà nói rằng hoa này bà ngắt trong vườn; tôi bất giác nói “ beautiful, pretty [14] ”… rồi khi nhận ra oma không hiểu, tôi đặt tay lên tim. Hành động này thì oma hiểu; bà cười rạng rỡ.
[13] Tốt, tốt.
[14] Đẹp quá.
Oma Marta đã ngồi xuống ghế, với tay bật radio rồi bắt đầu nói chuyện với tôi – bà lại quên là tôi không nói được tiếng Đức rồi. Nhưng hình như ngay cả sau khi nhớ ra tôi không nói tiếng Đức thì oma cũng không phiền lòng – bà chỉ cần một người để nghe chứ không cần một người để hiểu. Bà chỉ ra cửa sổ rồi đưa tay lên xuống nhiều lần. Tôi tưởng oma nhắc đến cái rèm cửa sổ hôm trước bị gãy rơi xuống, nhưng rồi bà với tờ báo trên bàn và chỉ cho tôi một bức ảnh nhỏ bên dưới. Đấy là ảnh một đám mây có mưa và chữ Berlin với con số 23 độ C bên cạnh. Tôi nói “ vâng, mưa ”. Rồi bà giở sang trang sau, nói “Paris” và chỉ vào một bức ảnh khác. Ngày hôm nay Paris sẽ nắng, nhiệt độ khoảng 21 độ. Tôi nói “ vâng, vâng….Paris good… Paris có nắng. ” Oma mỉm cười, nói “ Paris good good .”
Trên radio lúc đó, một giọng ca nam đang hát một bài tiếng Đức. Oma bắt đầu lẩm nhẩm theo và nói tên của ca sĩ. Tôi không bắt được tên đầu tiên, nhưng họ thì nghe giống như “Bjork”. Oma giải thích rằng đây là “oma musik”, nhạc của thế hệ bà, rằng bà không nghe được cái “tekno musik” bây giờ, nó làm bà váng đầu ( chỉ vào đầu ), đau cả tai ( chỉ vào tai ) và toàn “chat xình chát chát bùm”. Tôi cười, nói với oma rằng đến tôi cũng còn đau đầu khi nghe “tekno music”
Thế rồi đột nhiên giọng Elvis Presley vang lên trên radio. Tôi không nhận ra bài hát nhưng lập tức nhận ra giọng Elvis. Tôi nói “Elvis Presley”. Trời ơi, mặt oma sáng lên và bà đặt một tay lên tim, nói “Elvis Presley”. Trong lúc tôi đang nghĩ ra cách để nói rằng Elvis rất nổi tiếng ở Mỹ thì oma đã đứng dậy và bắt đầu nói rất nhanh, hai má hồng lên, mắt lấp loáng, miệng mỉm cười. Bà nói và làm bộ cho tôi hiểu rằng Elvis Presley rất nổi tiếng ở Đức vì từng đến đây đóng quân thời chiến tranh và thế hệ của oma đã lớn lên trong “ Elvis music ” và thần tượng Elvis.
Và rồi, trong lúc liên tục nói tiếng Đức, oma bất thần hất đầu vừa lắc hông, xoay đầu gối và khua tay giống hệt như các động tác lắc hông nổi tiếng một thời của Elviss. Trời ơi, tôi không thể nhịn được cười. Tôi cười đến nỗi trượt khỏi ghế, loạng choạng ngã xuống sàn nhà. Thật không thể tưởng tượng được: oma Marta bắt chước Elvis Presley! Và bà nhảy đẹp! My oma, she got the moves! Lúc còn trẻ, oma hẳn là một cô gái rất năng động và đẹp lắm. Ngay lúc này, bất chấp làn da mồi và cổ tay bị sưng, trông bà giống như một cô gái trẻ đang swing theo nhạc Elvis, vừa cười vừa nói tiếng Đức với tôi.
Ă sáng xong, tôi mang khay vào trong bếp, bỏ các đồ ăn còn lại vào tủ lạnh. Khi tôi đi ra, oma đang đứng trong phòng với hai cuốn sách rất dày. Bà đưa cho tôi và ra hiệu rằng bà muốn tặng tôi. Đó là hai cuốn Illiad và Odyssey – bìa cứng, bằng tiếng Đức và Hy Lạp cổ. Bà biết tôi viết truyện và tối hôm qua đã khoe với tôi tủ sách nhỏ của bà trên gác xép – trên đó có Cuốn theo chiều gió và một ít thơ. Bà bảo hồi Sơn sống với bà ở Berlin, anh ở trên cái gác xép này và thường đọc sách đến khuya.
“Cậu ấy rất hiền”, oma nói với tôi. “Lúc nào cũng đọc sách và rất ít nói. Giờ cậu ấy còn hay đọc sách không?”
Tôi nói có, Sơn vẫn hay đọc sách khuya. Buổi tối chúng tôi hay nằm đọc sách cạnh nhau, và nói những chuyện vớ vẩn như:
“Anh ơi, Lao Tsu là Lão tử, Sun Tzu làTôn tử, còn Lieh Tzu là gì nhỉ?”
(Nghĩ một lúc) “Không biết, chắc là Lợn tử.”
Bao giờ tôi cũng bật cười vì những câu như thế; Sơn luôn nghĩ ra những điều kỳ dị và bang bổ nhất để nói về bất cứ ai, không chừa bất cứ một ai. Có lần tôi cười, bảo Sơn, “Sống với anh cứ như là sống dưới một loa phóng thanh mà 24 trên 24 toàn nghe thấy tin xấu”. Sơn thì bảo tôi ngây thơ, nhìn cuộc đời toàn màu hồng. Hai chúng tôi thực sự là hai thái cực. Nhưng tôi có thể tưởng tượng Sơn nằm trên cái gác xép này đọc sách hồi anh mới hai mấy tuổi - và “rất hiền”.
Cái gì có thể xảy ra khiến cho những con người hai mươi trở thành những con người ngoài ba mươi nhìn cuộc đời và con người như thể không còn bất cứ cái gì thiêng liêng, không còn bất cứ cái gì đáng tin, mọi thứ đều có thể báng bổ và “nhổ toẹt vào”? Bernard Shaw nói “Nếu anh không theo chủ nghĩa cộng sản ở tuổi hai mươi, anh không có tim. Nếu anh không theo chủ nghĩa tư bản ở tuổi ba mươi, anh không có óc”. Hay những xung đột giữa tôi với Sơn đơn giản chỉ là như thế? Chúng tôi lấy nhau khi tôi đang giữa tuổi hai mươi còn anh đã sang đến ngưỡng ba mươi? Và bây giờ, khi tôi bắt đầu sang tuổi ba mươi, Sơn đã ở chỗ nào đó tôi không bắt kịp còn anh thì không thể nhớ lại và thông cảm?
Tôi rất muốn nhận sách của oma nhưng tôi còn phải đi nhiều trong ba tuần tới, mà hai cuốn sách to và nặng. Vậy là tôi buộc phải nói với oma “ danke schoen ” nhưng tôi không thể mang chúng theo lần này, có thể khi nào quay lại Berlin tôi sẽ lấy. Tôi nói bằng cách ra hiệu tôi đang kéo va li và thở nặng nhọc, rồi xoa hai vai tôi và cúi xuống như thể bị hai cuốn sách kéo. Oma hiểu ý; trông bà thật buồn… Oma bảo tôi cất hai cuốn sách lên trên gác xép cho bà.
Khi tôi từ trên gác xép xuống, taxi đã đợi bên ngoài. Ở cổng, tôi hôn vào hai má của oma rồi lên xe. Xe đã chạy đến cuối đường mà oma vẫn còn đứng ở cổng nhìn theo. Tạm biệt oma Marta. Tôi không biết có còn gặp lại bà hay không. Năm nay bà đã hơn tám mươi và tôi thì không bao giờ muốn trở lại Đức. Danke schone, oma [15] ! Chúc oma mọi điều tốt lành, dù bà ở đâu, trong cuộc sống này hay cuộc sống khác, dưới mặt đất hay trên thiên đường.
[15] Cảm ơn (tiếng Đức).
Paris, ngày thứ nhất…
Bây giờ là nửa đêm và tôi đang viết từ trong phòng ăn của khách sạn. Tôi đang ở Paris. Phải rồi, tôi đang ở Paris. Tôi vẫn không thể tin được. Cuối cùng tôi cũng đã đến Paris.
Ahhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh!
Chiều nay, máy bay xuống sân bay Orly lúc 6 rưỡi. Từ trên cao nhìn xuống, lúc đầu, chỉ thấy những tòa nhà cao của khu hành chính ở ngoại ô Paris, tôi đã nghĩ đến New York, Boston hay Chicago và hơi thất vọng. Nhưng rồi máy bay đột nhiên đảo cánh và khi máy bay lấy lại thăng bằng thì, voilà , sông Seine đột nhiên hiện ra bên dưới cánh máy bay. Màu xanh thủy tinh non của mặt nước và cái cách mà dòng nước uốn khúc lững lờ quanh các khu nhà mái xám và những bóng cây dẻ… nghe thì sáo mòn nhưng quả đúng là một giấc mơ.
Ahhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh!
Xuống sân bay, tôi lấy hành lí, rồi ra quầy “Information” để lấy bản đồ và hỏi cách đi tàu điện ngầm về khách sạn ở quận Bốn. Hướng dẫn tôi là một thanh niên Pháp còn trẻ, tóc hạt dẻ hơi xoăn, khuôn mặt thanh tú, nói tiếng anh với cách phát âm Pháp.
“Ồ, grất dễ, grất dễ thôi mà”, anh ta mỉm cười kết luận.
Còn tôi thì thầm kết luận rằng anh ta “ grất xinh, grất xinh ”. Ước gì anh ta cứ nói nhiều nữa vào để tôi được nghe cái cách phát âm Pháp đó nhưng anh ta đã lại mỉm cười, kết thúc cuộc nói chuyện bằng một câu quen thuộc:
“Bienvenue à Paris!” [16]
[16] Chào mừng tới Paris.
That’s right, bébé ! Tôi đã ở Paris.
Theo chỉ dẫn, tôi bắt tàu Orlyval chạy từ sân bay tới ga Antony thì chuyển sang tàu RER B đi tới trạm Châtelex, lại chuyển sang tàu đỏ chạy tới ga Gare de Lyon, rồi chuyển sang tàu vàng chạy tới trạm Thánh Paul thì xuống [17] .
[17] Sau này tôi mới nhận ra là tôi đã đi lòng vòng rất không cần thiết.
Kéo va li lên khỏi bến Thánh Paul, tôi thấy mình đứng trên vỉa hè phố Rue de Rivoli lúc này tràn ngập ánh hoàng hôn cuối hè. Con phố không lớn nhưng vỉa hè rất rộng, lát đá xám cổ. Hai bên phố là những căn nhà quét vôi vàng nhạt, cửa chính và cửa sổ cao với những cửa sổ gác mái van vát. Ánh nắng cuối ngày thắp sang những cửa hàng bánh mỳ, tiệm cà phê, restaurant san sát dọc phố, sáng choang, thơm nức và dòng người đi bộ như một dòng sông không ngừng, trong tình trạng chuếch choáng, tôi mất hết phương hướng, không biết mình nên rẽ phải hay rẽ trái để đi về khách sạn. Nhìn quanh, tôi thấy một ông già đang đứng dựa vào một chiếc ghế dài đặt dọc vỉa hè. Nhìn ông già, tôi lập tức nhớ tới một cụm từ mà Victor Hugo dùng trong cuốn Những người khốn khổ “một vị tư sản già sống bằng lợi tức thường niên” - tức là một quần kaki, sơ mi trắng bên trong, áo vest thô bên ngoài, đội một chiếc mũ bê-rê của những người già Paris, và chống một cây ba toong màu vàng. Vì trông ông có vẻ không phải làm gì ngoài thưởng thức buổi chiều tối mùa hè Paris, tôi tiến tới lễ phép nói:
“Bonsoir monsieur [18] …”
[18] Chào ông
Tôi mới nói đến đây thì “vị tư sản già sống bằng lợi tức thường niên” đã lập tức nhăn mặt và quả quyết xua tay:
“Non! Non!”
Phải. Tất cả các sách du lịch đều đã cảnh báo tôi rằng người Paris, nhất là người già, không ưa gì khách du lịch, nhất là khách Mỹ [19] ; nhưng mà tôi rõ ràng không phải da trắng, cũng không mặc quần soóc, áo phông, đi giày thể thao, bụng không có mỡ chảy xệ, và tôi cũng không có “chỉ trỏ cười nói thô bỉ” như nhiều du khách Mỹ. Tôi sốc đến nỗi thành thật là tôi đã rơm rớm nước mắt, đồng thời muốn thụi cho vị tư sản già một quả vào bụng. Sao mà tôi lại ngu xuẩn và ngây thơ đến mức tin rằng tôi có thể đến Paris một mình và đinh ninh rằng thành phố này có một chỗ dành cho tôi. Có lẽ Paris mà tôi mơ tưởng, Paris của Hugo đã chết từ lâu rồi. Nghĩ thế, tôi lùi ra một quãng và cố thở đều để lấy lại tinh thần rồi giở bản đồ với quyết tâm sẽ tự tìm lấy đường về khách sạn thay vì trông chờ vào lòng tốt của dân Paris hoa hòe hoa sói.
[19] Cũng không thể trách họ vì mỗi năm, Paris đón tới hơn 40 triệu khách du lịch, khiến cho thành phố trở nên quá chật chội bởi khách du lịch.
Chắc trông tôi loay hoay với cái bản đồ rất tội nghiệp và hẳn đã thấy tôi rơm rớm nước mắt nên Bụt lập tức hiện ra – dĩ nhiên là dưới vỏ bọc một quý bà Paris ngoài sáu mươi tuổi, vô cùng thanh lịch. Đây hẳn là người phụ nữ đẹp lão nhất mà tôi từng gặp: nước da bà trắng mịn, khuôn mặt thanh tú, tóc bạch kim, vấn cao, bà mặc suit Chanel cổ điển màu sữa, tay đeo một cái túi da màu đen, quấn khăn hoa nhỏ quanh cổ và mang nước hoa rất nhẹ. Bà đã đi ngang qua tôi, rồi được vài bước bà quay lại, nói bằng tiếng Anh:
“Mademoiselle, cô tìm gì?”
Rút kinh nghiệm từ vị tư sản già, tôi lập tức “merci beaucoup” trước và trình bày rằng thưa madam, cháu cần phải về khách sạn trên phố Rue des Barres. Nói thật là lúc đó tôi nghĩ đến khách sạn thì ít mà ngỡ ngàng vì lần đầu đối diện với “vẻ đẹp phụ nữ Paris” thì nhiều. Trong lúc tôi ngỡ ngàng vì bà ( tôi xin gọi là Grand Dame cho dễ ) thì bà cũng ngỡ ngàng không biết Rue des Barres nằm ở đâu. Tôi lại “merci beaucoup” và chờ Grand Dame trả lại tờ giấy đặt khách sạn cho tôi nhưng, Chúa phù hộ bà, bà đã bước lại phía vị tư sản già lúc nãy để trao đổi gì đó bằng tiếng Pháp. Nhìn bộ dạng thì rõ ràng vị tư sản già cũng không biết phố Rue dei Barres ở đâu và cũng không niềm nở gì với Grand Dame của tôi. Không nản lòng, Grand Dame lại đi hẳn vào trong tiệm bánh ngọt gần đó để hỏi ( Trời phật phù hộ cho bà và các con cháu chín đời của bà! ) Hai phút sau, bà quay lại với khuôn mặt thất vọng.
“Sorry mademoiselle,” bà nói, “không ai biết phố Rue des Barres ở đâu cả.”
Thật may là lúc ở sân bay, tôi đã tìm ra phố này trên bản đồ, tôi chỉ không biết nó nằm bên trái hay bên phải chỗ tôi đứng. Vậy là tôi chỉ nó cho Grand Dame trên bản đồ.
“ Voilà !” bà mỉm cười rạng rỡ. “Thế thì tôi biết rồi.”
Bà bảo tôi đi về phía bên trái, cứ dọc theo Rue de Rivoli cho tới khi gặp Rue Louis Phillipe thì rẽ trái.
Cuối cùng thì tôi cũng tìm tới Rue des Barres. Trời ơi, thật không thể tin; con phố chỉ dài chừng 100 mét, nằm giữa Rue Miron và một đại lộ dài chạy phía bên kia. Phải, người ta đã nói Paris là thành phố đi bộ; và tôi đã thuộc cả những trang mô tả các ngõ nhỏ Paris lúc Giăng Van Giăng đưa Cô-dét chạy trốn Gia-ve, nhưng mà những đường phố của Paris thực sự có thể nhỏ và đẹp đến mức này thì không ngờ.
Ở sân bay Schonefeld, chuẩn bị đi Pari, tôi đã tra và tìm ra phố Rue des Barres trên bản đồ
Sau khi check in, tôi đi một cái thang máy bé tí xíu lên phòng của tôi ở tầng ba. Tầng nhà ở đây đánh số từ 0 nên thực chất là tôi ở độ cao của tầng bốn. Căn phòng tôi ở là phòng cho bốn người; chỉ chừng hai mươi mét vuông với hai giường tầng, một bốn rửa và nhà tắm nhỏ… và lúc đó chưa có ai. Tôi bỏ va li vào trong hốc tường, lựa một cái giường tầng trên rồi mở cửa sổ ra và phải cố gắng lắm mới không hét lên…
Ahhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh!
Ngay ngoài cửa sổ, cách khoảng ba mét, là tháp chuông một nhà thơ Gothic cổ kính; tưởng như chỉ cần với tay ra là chạm được vào những cái đầu thú. Thắng từ cửa sổ phòng xuống mặt đất là một khoảng sân rộng lát gạch cổ theo vòng tròn, ở đó các bàn cà phê lúc này chật người ngồi ăn tối. Tôi có thể nghe rõ tiếng trò chuyện giọng Pháp, tiếng thìa dĩa chạm vào nhau và tiếng lanh canh của các ly rượu. Nhìn ra xa, các nóc nhà Paris thấp đều nhau, kiến trúc Pháp đặc trưng, mái xám, những cửa sổ cao, tường sơn vàng nhạt, tầng gác mái hơi vát… và xa hơn nữa là một cái tháp nhọn quen thuộc, cộng với một mái vòm tròn khả nghi. Có lẽ nào tôi đang nhìn thấy tháp nhọn phía sau của nhà thờ Đức Bà và mái vòm của đền Pantheon? Không thể như thế được… nhưng mà rõ ràng…
Ahhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh!
Tôi cuống cuồng tắm gội, thay quần áo để ra ngoài ăn tối vì sợ rằng các restaurant sẽ đóng cửa sau 10 giờ như ở Mỹ. Ra khỏi khách sạn 9 giờ 45 phút tối, tôi rẽ trái đi về phía có tháp nhọn khả nghi, cũng là phía có mấy nhà hàng mà tôi nhìn thấy từ trên cửa số. Đi mấy bước chân đã tới con đường dài chạy dọc một bờ tường và phía bên kia là một cái cầu bê tông hơi vòng lên. Nhưng mà cầu bắc qua cái gì? Sông Seine? Không đời nào?
Không cưỡng được tò mò, và quên cả nhiệm vụ đi tìm bữa tối, tôi băng qua đường để tiến tới gần. Vừa qua khỏi đường, tôi vội đưa mắt nhìn xuống phía dưới.
Ahhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh!
Đúng là sông Seine!
La Seine !
Thật không thể tin mình đang ở Paris, đang đứng đây mà nhìn xuống sông Seine. Paris đang vào đêm sâu. Mặt nước trong bóng tối lấp lánh ánh đèn vàng của những căn nhà hai bên sông và những đèn ánh sáng chạy dọc con đường đi bộ sát mép nước. Trong cái tĩnh lặng của buổi đêm, có cảm giác sông Seine đang chảy cho một mình tôi, để chào mừng tôi. Những hàng dương liễu dưới sông thì thầm rằng chúng đã luôn chờ tôi tới.
Tôi đừng đó không biết bao lâu mà tim vẫn đập thình thịch và không ngừng lẩm bẩm “ Xin chào, xin chào, tôi đây, tôi đây !”
Thật không thể tin được,
Nhưng sau cùng, những thói quen sống cũng tóm được tôi và chúng bảo tôi phải nhanh chân tìm chỗ ăn tối trước khi các nhà hàng đóng cửa và tôi phải đi ngủ đói. Vậy là tôi băng ngược trở lại bên kia, đi theo con đường dọc sông. Chỉ cách vài bước chân, tòa nhà Hôtel de Ville [20] sừng sững hiện ra. Trước quảng trường nhỏ của Hôtel de Ville, tôi nhìn sang bên trái và lại thấy một cái tháp khả nghi mà tôi đã thấy ở cửa sổ. Tôi rất muốn tới xem có phải Nhà thờ Đức Bà không; nhưng rồi tự nhủ rằng tối hôm nay tôi đã thấy quá nhiều. Vậy là tôi rẽ vào một quán Nhật, gọi bữa tối đầu tiên ở Paris gồm có sáu miếng sushi cá hồi và nấm xào thịt nướng với pho mát. Sau đó, tôi đi bộ trở lại khách sạn.
[20] Tòa Thị chính Paris.
Đã gần nửa đêm nhưng các restaurant dọc đường về và cả hai cái restaurant ở khoảng sân cạnh khách sạn vẫn đông người ngồi ăn như thể buổi tối chỉ mới bắt đầu và Paris sẽ không bao giờ đi ngủ. Trong phòng khách sạn, người bạn cùng phòng đầu tiên của tôi đã tới: một cô gái trọc đầu đang nằm ngủ sấp mặt trên giường tầng phía đối diện tôi: chăn đắp ngang lưng, chỉ để hở hai cánh tay và phần gáy có rất nhiều hình xăm. Tôi rửa mặt, đánh răng, thay quần áo, rồi xuống nhà. Lobby dưới tầng một tối đèn, chỉ có một người lễ tân da đen đang ngủ ngồi trên ghế bành sau quầy (và ngáy rất to). Mặc dù tôi đi rất khẽ, anh ta vẫn tỉnh dậy “ bon soir ”. Tôi không nhịn được mà hỏi cái tháp chuông… cái tháp chuông phía bên kia sông Senie…, anh ta nói “Oui, the Notre Dame [21] ”, rồi cười toe toét khi thấy tôi nhảy cẫng lên.
[21] Đúng rồi, Nhà thờ Đức Bà.
“ Oh man, tôi không thể tin được.”
“Tin đi, mademoiselle,” anh ta cười to, rồi lấy bản đồ chỉ cho tôi thấy . Phải, phải, tôi chỉ ở cách bảo tàng Louvre chừng mười lăm phút đi bộ, cứ đi dọc Rivoli là tới, vườn Tuileries thì ở kế bên bảo tàng và ngay đó là khu Coocotes đại lộ Champs – Elysees và Khải Hoàn Môn; còn Pompidou ngay phía bên kia phố Rivoli; khu Latin thì cứ đi bộ dọc đại lộ thánh Michel là tới… đền Pantheon thì ở ngay gần vườn Luxembourg… “Phải rồi, mademoiselle, vườn Luxembourg… mademoiselle, mademoiselle, cô có nghe thấy tôi nói không?”
Tôi trả 2 euro để vào internet được hai mươi lăm phút từ cái máy tính dưới quầy và email cho Sơn. Em đã đến Paris. Mọi việc đều ổn.
Paris, ngày…
Suốt cả đêm qua tôi đã để cửa sổ mở để lấy không khí bên ngoài và nằm mơ màng nghe những tiếng giày vọng lên từ dưới phố. Sáng nay, khi mở mắt nhìn ra ngoài cửa sổ, những nóc nhà xám của Paris và đám lá thường xuân mướt mát xòa từ tường nhà vào bậu cửa lại một lần nữa làm tôi chuếnh choáng, và không sao nhập được vào đầu cái ý nghĩ tôi đang ở Paris. Nhưng rồi, tiếng thở nặng nhọc của cô bạn đầu trọc ở giường dưới đã giúp tôi có được niềm tin này. Hé đầu nhìn ra, tôi thấy cô ấy vẫn nằm úp sấp đúng tư thế đêm hôm qua và đúng chỗ cũ, không xe dịch một xăng-ti-met; hình như cô ấy không trở mình cả đêm, dù chỉ một lần. Hẳn là người bạn cùng phòng của tôi vừa đi một chuyến rất xa và mệt. Đêm qua, khi nhìn thấy người bạn đầu trọc người đầy hình xăm này, tôi có hơi lo lăng. Tôi đã đi ngủ với ý nghĩ: trời ơi nhỡ cô gái này là sát thủ giết người hàng loạt, nửa đêm cô ta sẽ chồm dậy, dí dao vào cổ mình thì sao? Hoặc cô ta là dạng psycho đang bỏ nhà đi bụi, cô ta cũng sẽ chồm dậy… Nếu phải chết vào đêm đầu tiên ở Paris thì thật là…
Nhưng giờ, tôi vẫn còn nguyên đây và người bạn cùng phòng vẫn đang úp mặt ngủ. Tôi sẽ để cho cô ấy ngủ tiếp, còn tôi thì phải xuống nhà ăn sáng để còn ra ngoài Paris.
Qua cửa sổ, sáng nay Paris nhiều mây xám, trông như sắp mưa. Gió thổi mạnh, lay những hàng cây dọc sông Seine và khiến những người đi bộ bên ngoài đều dựng cổ áo, rảo bước. Nhìn họ, tôi cũng muốn nhanh chóng ăn xong bữa sáng để ra ngoài. Khách sạn này cho mỗi người một bữa sáng miễn phí gồm một cái croissant, nửa cái bánh mì dài baguette, một cốc nước cam, một phần bơ, một phần mứt quả, và một cốc nước để rót cà phê hoặc chocolate nóng. Tôi chọn chocolate nóng, bỏ lại cái baguette. Mặc dù không có thói quen ăn sáng, nhưng biết hôm nay sẽ đi bộ nhiều nên tôi cũng cố ăn hết cái croissant và uống cạn cốc chocolate.
Tôi cẩn thận đội mũ, quấn khăn, và mang theo một chiếc ô nhỏ. Ở quầy tiếp tân, anh chàng da đen trực đêm tối qua nhận ra tôi nên toe toét cười:
“Bonjour, mademoiselle. Hôm nay cô sẽ đi đâu?”
“Nhà Victor Hugo,” Tôi nói.
“ Trés bien … chúc cô một ngày tốt lành.”
Trong rất nhiều ý nghĩa, Paris với tôi trước hết là thành phố Victor Hugo và có Victor Hugo. Trước khi tới Paris tôi đã dự định sẽ dành buổi sáng đầu tiên ở Paris để đi đến căn nhà mà Hugo đã sống cùng vợ trong mười sáu năm. Căn nhà nằm ở khu Place de Vosges tại quận Bốn, cách khách sạn không xa.
Nhưng tôi ra khỏi cửa được vài bươc, tôi đứng lại, rồi cứ từ từ quay đầu hướng về phía Nhà thờ Đức Bà Paris. Tôi đã không thể cưỡng lại, như thể có một bàn tay vô hình nào đó dẫn dắt. Vậy là tôi đi dọc con đường bờ sông, băng qua cây cầu trước cửa Hôtel de Ville để tới Nhà thờ Đức Bà.
Từ bên ngoài và từ đằng trước, Nhà thờ Đức Bà không mấy ấn tượng. Hai tháp chuông và mặt tiền của nhà thờ có một vẻ trần trụi không ăn khớp với tưởng tượng của tôi; do thế trông lại khang trang, sang sủa đáng thất vọng do màu vôi sáng. Thêm vào đó, từ sớm và trời tuy lất phất mưa nhưng rất nhiều khách du lịch đã xếp hàng và ngồi khắp quảng trường phía trước nhà thờ - tất cả đều toach toách làm dáng để chụp ảnh khiến cho toàn bộ tưởng tượng mấy chục năm nay của tôi về Nhà thờ Đức Bà cứ bị những cái chớp máy ảnh và những nụ cười nhiếp ảnh xé nát.
Trong nhà thờ hơi tối. Ánh sáng dường như chủ yếu có mục đích làm nền cho hàng cửa sổ kính màu ở trên cao, còn bên dưới, những khuôn mặt làm người chìm vào bóng tối và sự chờn vờn của những ánh nến thắp dọc hành lang. Đột nhiên, Paris bên ngoài không còn tồn tại. Xung quanh, những người khách du lịch đi lại rón rén; một số khác gục xuống những hàng ghế cầu nguyện; tiếng thì thầm của khách và những tiếng cầu nguyện cùng với tiếng bước chân ầm ầm dưới những mái vòm cao khiến cả nhà thờ có không khí của một nhà nguyện Trung cổ. Tôi ngồi xuống một hàng ghế gần một cậy cao. Càng ngồi, tôi càng chìm dần vào một cảm giác quen thuộc như thể tôi không phải khách du lịch ở đây; tôi là một người quen ghé lại căn nhà cũ, nơi người chú mà tôi từng thân thiết đã chuyển đi từ lâu nhưng cũng có thể bất thình lình ghé lại ngồi xuống cạnh tôi: “Xin chào, đã lâu quá rồi phải không?”
Sáng nay, khi đi ngang cây cầu phía trước Hôtel de Ville và nhìn sông Seine lần đầu dưới ánh sáng ban ngày, tôi cũng có cảm giác đúng như thế. Rằng bất thần, khi tôi đứng nhìn Paris trong thời tiết xe lạnh và hơi xám, với những ngôi nhà trầm mặc đứng dọc hai bên bờ sông và những hàng liễu rủ dưới kè sông, có thể nhà cách mạng già trong Chín mươi ba, hay một thanh niên Sorbonne trong nhóm bạn ABC, mà cũng có thể người đàn ông cầm ô mặc áo vest đen trong bức “Paris trời mưa” của Gustave Caillebotte [22] sẽ đến đứng gần tôi mà thì thầm “ Xin chào, đã lâu quá rồi phải không?”
Phải, đã lâu quá rồi.
[22] Họa sĩ người Pháp, thuộc trường phái ấn tượng.
Rời khỏi Nhà thờ Đức Bà, tôi đi dọc con đường chạy ngang mặt nhà thờ, băng qua đại lộ chạy dọc bên kia sông Seine, rẽ trái, và bắt đầu lạc vào một mê lộ những con đường nhỏ mang không khí phố cổ Hà Nội, chỉ có điều là kiến trúc Pháp hoàn toàn sạch, đẹp hơn nhiều. Tôi cố gắng nhớ tên Rue nọ Rue kia để xem tôi đã đọc thấy chúng trong sách chưa, nhưng nhanh chóng đầu hàng vì quá nhiều đường phải nhớ, quá nhiều thứ phải nhìn… Sau một lúc, tôi hoàn toàn lạc đường, nhưng hoàn toàn hạnh phúc. Tôi đang ở trong khu Latin – khu vực bao quanh Đại học Sorbonne ngày xưa, trung tâm của Paris cổ. Khắp nơi tôi nhìn, những quán cà phê san sát, những cái bàn nhỏ và ghế đặt từng đôi dọc vỉa hè, và khách ngồi ngập các quán, uống cà phê trong những cái chén nhỏ xíu khác hẳn ở Mỹ, và hút thuốc và nói chuyện như thể họ có tất cả thời gian trên đời. Và tôi phải công nhận, người Paris đẹp, ít nhất là ở khu Latin này.
Bây giờ thì tôi đang ngồi trong nhà hàng của vườn Luxembourg, gần lối vào từ đại lộ Thánh Michel. Nhà hàng ở ngoài trời, hầu hết bàn được đặt dưới những bóng cây, có dù che nhưng lúc này các cây dù đều được cụp lại. Người bồi bàn vừa mang bữa trưa của tôi ra. Bữa trưa có thịt bò bourguignon [23] , mấy củ khoai tây luộc còn để nguyên cả củ, và hai lát bánh mì trắng cùng một miếng bơ. Lúc này, mặt trời đột nhiên ló ra sau những đám mây và một cơn gió nhẹ thổi xuyên qua những hàng cây cổ thụ xanh lá, đuổi cát và lá khô chạy thành một cơn sóng dưới mặt đất. Ánh nắng chiếu qua những tán lá rộng đung đưa, làm cho những bóng nắng dưới đất liên tục nhảy múa. Một ngày mùa thu tuyệt vời. Tôi tháo khăn khỏi cổ, và ngồi đó ăn bữa trưa đơn giản, một mình giữa những người Paris xa lạ mà hạnh phúc không sao tưởng nổi. Tôi xắt những củ khoai tây mềm thành những miếng nhỏ, tưởng như đang xắn vào những khối hạnh phúc, rồi nhúng chúng vào nước xốt thịt bò hầm và để cho những miếng hạnh phúc tơi trong miệng thành triệu triệu hạt sung sướng.
[23] Thịt bò hầm với rượu vang, một món truyền thống của Pháp.
Lúc này, trong nhà hàng cũng như trong vườn có rất nhiều người. Một số ngồi trên những chiếc ghế sắt xanh nhạt tranh luận, một số đọc sách ( và nhìn bìa sách thì có thể đoán chúng là sách triết học, khoa học, thơ, tiểu thuyết nghiêm túc chứ không phải loại sách đọc giải trí mà người Mỹ hay mang ra công viên hoặc bãi biển đọc trong lúc tắm nắng). Một số người đang hí hoáy viết trên những cuốn sổ nhỏ; một số thì cưỡi lừa (không hiểu lừa ở đâu ra); một số chơi tennis hoặc cầu lông; những ông già thì chơi cờ dưới một cái nhà bát giác có mái. Quanh bồn nước lớn, những đứa trẻ nặn cát; nghịch nước, đua thuyền buồm; những người cha vừa ăn trưa vừa tỉ tê nói chuyện với con; những đôi vợ chồng già thì ngồi yên lặng cạnh nhau, mặt cùng hướng về mặt trời. Rất đông thanh niên trẻ, chắc từ trường Đại học Sorbonne và các trường Đại học quanh đây – họ ngồi từng nhóm cười đùa, nói chuyện và hút thuốc trong lúc mấy đứa trẻ cứ đạp vòng vòng quanh bồn nước… như thể Paris đã tiếp diễn thế này từ thế kỷ XVIII, XIX… và thời gian cứ thế trôi…
Sau bữa trưa, tôi đi loanh quanh trong vườn, ghé chỗ này một tí, chỗ kia một tí, xem các ông già ném bi sắt, nghe lỏm những câu chuyện tiếng Pháp tôi
Trong vườn có rất nhiều người. Một số ngồi trên những chiếc ghế sắt xanh nhạt tranh luận, một số đọc sách
không hiểu chỉ để mà nghe, ngắm những dáng người ngồi yên lặng trong vườn… rồi khi cảm thấy rằng tôi cần để dành vườn Luxembourg cho những lần tới nữa thì tôi ra khỏi vườn bằng cổng trên phố Rue de Vaugirard, tôi nghe lỏm được câu chuyện tiếng Anh của hai phụ nữ Mỹ; họ vừa tra bản đồ vừa bàn nhau cách đi tới tháp Eiffel rồi bước đi quả quyết. Vậy là tôi đi theo bọn họ, nhưng chẳng mấy chốc, tôi mất dấu vì họ bước quá nhanh và cứ theo đúng chỉ dẫn mà đi, còn tôi thì cứ la cà nhìn hết cái nọ cái kia trên phố… và ngẩn ngơ như một kẻ dở hơi.
Ở góc giữa Boulevard Raspail và Rue de Babylone, tôi nhìn thấy một cô gái trẻ mảnh mai, tóc hạt dẻ rối bời đang úp mặt vào tường, hai tay che mặt khóc nức nở một cách hồn nhiên. Có cái gì đó rất Paris trong cảnh này – một sự bồng bột, bốc đồng, và hồn nhiên Paris mà tôi không nghĩ mình có thể gặp ở Mỹ, Đức hay Việt Nam. Những người Paris khác đi qua cô gái với vẻ thản nhiên như thể họ thấy điều đó quá thường xuyên; trong khi đó tôi và hai người phụ nữ Mỹ thì không sao thản nhiên được. Chúng tôi đưa mắt nhìn nhau rồi cùng bước lại phía cô gái. Người già hơn trong số hai người kia hỏi cô gái bằng tiếng Pháp:
“Cô có làm sao không? Chúng tôi có thể giúp gì cho cô không?”
Cô gái quay lại nói: “ Non non merci ” nhưng liền đó tuôn ra một tràng dài tiếng Pháp. Cô tiếp tục khoa tay và hồn nhiên kể qua hàng nước mắt một câu chuyện gì đó với hai người phụ nữ kia; câu chuyện có vẻ liên quan đến một người bạn trai đã làm cô đau lòng. Ngay cả trong lúc khóc nức nở, hai má đầm đìa nước, mặt hồng lên vì kích động, và tóc tả tơi, trông cô gái Paris này quá quyến rũ. Tôi không hiểu chàng trai nào làm cô đau lòng đến thế. Nếu tôi là đàn ông, tôi sẽ ôm lấy cô mà an ủi. Thực ra lúc này tôi cũng muốn làm việc như vậy nhưng tôi để phần đó cho hai người phụ nữ đứng tuổi.
Trên phố Rue de Bac, tôi dừng lại mua một cái thẻ điện thoại, nhưng lý do lớn hơn là để chiêm ngưỡng cái sạp báo và tạp chí nhỏ giữa đường; ở đó báo và tạp chí được sắp xếp như một công trình nghệ thuật sắp đặt hoàn hảo; nhưng tuyệt nhất là cái cách người đàn ông bán báo đứng tuổi ăn mặc chỉn chu, đeo cà vạt, mang nước hoa trong lúc bán báo, và luôn miệng nói chuyện với những người khách ghé vào mua báo như thể họ đã quen nhau lâu lắm rồi và câu chuyện họ nói là một câu chuyện vĩnh cửu. Tôi đứng đó nghe cái dòng đối thoại liên tu bất tận mà tôi chỉ hiểu vài chữ lõm bõm “Oui”, “D’accord”, “Voilà”, xen những tiếng cười và những cái vung tay. Trên phố Rue de Varenne, tôi đứng lại ở những cửa hàng bánh ngọt đế ngắm những cái bánh đẹp đến mức khó tưởng tượng là người ta nỡ ăn chúng, rồi không dừng được mà mua một cái tiramisu và tiếp tục ngẩn ngơ nhìn người chủ cửa hàng cẩn thận cho vào trong một hộp giấy nhỏ, thắt một chiếc nơ bên ngoài, rồi bỏ vào một cái túi giấy cho tôi
Chao ôi là sự công phu và kiều diễm trong từng chi tiết của cái đời sống Paris. Cái tinh thần lãng mạn Paris không nằm trong sự bay bổng của tình yêu hay trong nghệ thuật, mà mấu chốt của nó là ở niềm tin chắc chắn của người Paris rằng cái đẹp cần thiết cho cuộc sống, và người Paris theo đuổi cái đẹp ấy với sự kiện định như người Mỹ theo đuổi thực dụng, hoặc người Việt Nam theo đuổi… thực sự thì tôi không chắc người Việt Nam theo đuổi cái gì.
Tôi lại bắt đầu lẫn đường. Tháp Eiffel có vẻ ngay trước mặt mà đi mãi không tới. Hai sinh viên Mỹ đến từ Philadelphia thấy tôi loay hoay giở bản đồ ra tra thì hỏi thăm và bảo với tôi rằng tôi đã đi sai đường nhưng gần đây có bảo tàng Rodin. Vậy là tôi một lần nữa bỏ dở kế hoạch tới tháp Eiffel để rẽ vào bảo tàng Rodin và một lần nữa, lại chuếnh choáng say sưa vì tượng.
Rời khỏi bảo tàng Rodin lúc 4 giờ chiều, tôi đi ra đại lộ Invalides. Ngày đang bắt đầu tàn; tôi ngồi trên bờ tường thấp xung quanh điện Invalides ăn cái tiramisu dưới ánh nắng ấm của ngày đầu thu. Trước mặt tôi là đường Tocqueville và sau lưng tôi là điện Invalides – nơi chứa hài cốt của một số nhà cách mạng và những người anh hùng đã hy sinh vì nước Pháp, bao gồm cả Napolêon. Tôi nghĩ đến cuốn Dân chủ của Tocqueville và hiểu chính là ở Paris chứ không ở đâu khác mới có thể khởi đầu cuộc đại cách mạng tư sản, mới có những nhà triết học, nhà chính trị, nhà văn, và tư tưởng như Tocqueville, Hugo, Zola… Paris cho họ tinh thần để làm điều đó.
Thật may mắn khi tôi được ở Paris vào lúc này.
Vào lúc này không có bất cứ thứ gì khác mà tôi cần làm ngoài việc nằm trên bờ tường thấp này, nhìn lên trời, và để cho nắng cuối ngày, và những cơn gió nhẹ, và Paris, ngấm vào tôi.
Trở về phòng sau ngày đầu tiên, tôi thấy cô gái đầu trọc vẫn đang nằm trên giường y như đêm qua và sáng nay. Có điều, cô ấy không ngủ. Khi thấy tôi, cô ấy nói “ Bon soir ”, rồi cười. Vậy là chúng tôi làm quen. Fracesca không nói tiếng Anh, còn tôi thì không biết ngoại ngữ nào khác ngoài tiếng Anh. Cuộc nói chuyện lộn xộn tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Ý bồi của chúng tôi diễn ra thế này:
Fracesca: “You name?”
Tôi: “Ruby [24] . And you?”
[24] Nếu bạn ở Mỹ lâu và đã chán việc cứ phải đánh vần tên tiếng Việt của bạn khi người ta hỏi bạn tên gì, thì bạn cũng sẽ như tôi chọn một cái tên tiếng Anh để trả lời những người xa lạ.
Fracesca: “Francesca.”
Tôi: “You work?”
Francesca: “Nurse. You?”
Tôi: “Etudiant.”
Francesca: “Ah, where you from?”
Tôi: “America. Where you from?”
Francesca: “Milan. You how old?”
Tôi: “30. You how old?”
Francesca: “33” ( giơ ba ngón tay ra hai lần ) [25]
Sau đó, chúng tôi kể xem ngày hôm nay chúng tôi đã làm những gì.
[25] Tên gì? Ruby, còn chị? Francesca. Chị làm gì? Y tá, còn chị? Sinh viên? À, chị từ đâu tới? Mỹ, chị thì sao? Milan, chị bao nhiêu tuổi? 30, còn chị? 33.
Francesca: “Me go Montmartre. Where you go?”
Tôi: “Notre Dame, Pantheon, Rodin Museum, Invalides.”
Francesca: “Ah, beaucoup. Bien.”
Tôi: “Yes, beaucoup walking.”
Francesca: “Huh?”
Tôi: “Beaucoup walking… walking… đi bộ” ( lấy hai ngón tay làm động tác đi bộ trên mặt bàn ).
Francesca: “Ah…”
Tôi: “Chị làm gì… hừm… tôi, Notre Dame, Muser Rodin… nhìn, ngắm nhìn ( mắt lơ láo nhìn lên trần nhà và quanh phòng) … chị thì sao? Shopping?”
Francesca: “Ah, non non… Tôi, nhà thờ Sacré-Coeur.”
Tôi: “Bảo tàng Salvador Dali [26] ?”
[26] Bảo tàng trong cùng khu đồi Montmartre, cạnh nhà thờ Sacré-Coeur.
Francesca: “Non non… vẽ… vẽ chân dung… tôi chân dung…”
Tôi: “Chị chân dung? Ở Montmatre?” ( Tôi tưởng là chị ấy tới Montmartre và để cho các nghệ sĩ đường phố vẽ chân dung. )
Francesca: “Non, ở Italy… tôi bức tranh.”
Tôi: “Chị bức tranh?”
Francesca: “Yes, tôi bức tranh.”
Khổ quá, ý Francesca là ở Milan, chị ấy cũng vẽ tranh. Chúng tôi tiếp tục nói chuyện theo cách đó – lẫn lộn tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Ý bồi và rất nhiều cử chỉ. Thế nào mà chúng tôi cũng kể được cho nhau nghe xem mình có mấy anh chị em ( Francesca có một chị gái đang có một đứa con chín tháng tuổi ). Tôi hỏi Francesca chị đã ăn tối chưa ( lấy tay và vào miệng ); Francesca nói ăn rồi và hỏi tôi ăn chưa. Tôi nói “non non, no dinner”; chị mở túi đưa cho tôi hai cái bánh cam.
Chúng tôi đang ăn bánh thì cửa phòng bật mở toang và một cô gái Hàn Quốc khệ nệ lôi hai cái va li lớn vào phòng. Thấy chúng tôi, cô gái vừa cười vừa thả cho hai cái va li rơi xuống sàn. Đấy là một cô gái Hàn quốc điển hình: tóc dài ép thẳng; mặt trang điểm như sứ trắng, trông hiền lành. Cô gái ngồi phịch xuống một giường còn trống, tự giới thiệu mình tên là Julia. Vậy là chúng tôi bắt đầu một cuộc nói chuyện tay ba trong đó Francesca bập bõm tiếng Pháp, Julia nói một ít tiếng Anh còn tôi nói tiếng Anh với một vài từ tiếng Pháp. Thế mà chúng tôi vẫn nói được đủ thứ chuyện phiếm, như chuyện diễn viên và cầu thủ ưa thích. Francesca thích Al Pacino và Robert de Niro. Julia thì thích Brad Pitt và Orlando Bloom. Tôi tranh thủ nói với Francesca về sự hâm mộ của người Việt Nam một thời với bóng đá Ý, nhất là Roberto Baggio.
Tôi: “Roberto Baggio. World Cup. On television. Baggio đẹp trai. Vietnam like Baggio.”
Francesca: “Baggio đẹp trai? No no. Baggio no đẹp trai.”
Tôi: “Baggio no đẹp trai? Nhưng Baggio football bien. Très bien.”
Francesca: “Oui, Baggio football bien. Nhưng I love you non Roberto Baggio. I love you non noir hair ( chỉ vào tóc ). No Europe sud. No Mediteranian.”
Ý Francesca là Roberto Baggio đá bóng hay thật nhưng mà không đẹp trai; chị ấy không thích Roberto Baggio; chị ấy không thích đàn ông tóc đen và bóng nhẫy như đàn ông Nam Âu hay đàn ông ở vùng Địa Trung Hải. Tôi dịch lại cho Julia hiểu.
Julia ( quay sang Francesca ): “What you like [27] ?”
[27] Chị thích kiểu gì?
Francesca: “Me like hair blonde ( chỉ vào tóc ). Me like eye blue ( chỉ vào mắt ). Nord Europe, Switzeland. Sweden.”
Vậy là Francesca thích đàn ông Bắc Âu tóc vàng mắt xanh. Ví dụ đàn ông Thụy Sĩ hay Thụy Điển. Đến đây, như mọi cuộc nói chuyện giữa các cô gái, câu chuyện quay về tình yêu và hôn nhân.
Francesca ( hỏi tôi ): “You boy [28] ?”
[28] Em, con trai?
Tôi: “Huh?”
Francesca: “You boy?... hmm… boyfriend? You boyfriend? [29] ”
[29] Em, con trai? Hửm… bạn trai. Em, bạn trai? Có bạn trai?
Tôi: “Ah, boyfriend, me no boyfriend. Me husband… Husband in America [30] .”
[30] À, bạn trai. Không, em không bạn trai. Em có chồng… chồng đang ở Mỹ.
Julia: “Wow… You husband? You young [31] .”
[31] Wow, em có chồng? Em trẻ.
Tôi: “Me young? No no, me no young. Me 30. Francesca 33. You how old? [32] ”
[32] Em trẻ? Không không, em không trẻ. Em 30. Francesca 33. Chị bao tuổi?
Julia ( phá lên cười, lấy tay che miệng ): “No no, me not tell [33] .”
[33] Không không, chị không nói đâu.
Julia dứt khoát không chịu nói tuổi (nhưng tôi đoán ít nhất cũng bằng Francesca).
Tôi hỏi Francesca điều mà tôi tò mò từ hôm qua:
“You no hair [34] ?”
[34] Sao chị không có tóc?
Đến đây thì Francesca cười buồn buồn, nói rằng chị không có tóc vì đang phải hóa trị và xạ trị bệnh ung thư vú. Đợt này chị đang có một quãng nghỉ giữa hai kỳ điều trị nên tranh thủ đi du lịch; khi trở lại Milan, chị sẽ lại phải tiếp tục một đợt điều trị mới. Chị không biết là còn sống được bao lâu, có thể chị sẽ khỏi hẳn mà cũng có thể không; Francesca đã quyết định là chừng nào còn có thể đi lại được thì sẽ đi thăm tất cả những nơi chị muốn, đề phòng khả năng không còn nhiều thời gian.
Cả tôi và Julia đều nói chúng tôi rất tiếc và chúc chị mọi điều tốt lành. Tôi nói, Francesca, trông chị còn rất khỏe mạnh, da chị rất sáng và đẹp, không giống người ốm tí nào. Francesca cười, nói rằng da đẹp phải như da của Julia. Julia nói trời ơi, để có được làn da này vất vả lắm, giá mà chị có làn da trắng tự nhiên như Francesca thì đã đỡ biết bao; chứ con gái Hàn Quốc phải học dưỡng da từ lúc bốn, năm tuổi và mỗi tối trước khi đi ngủ phải mất cả tiếng để làm các thủ tục dưỡng da. Chính vì thế mà mỗi lần đi du lịch, chị phải lôi theo cả đống va li to đùng ( chỉ vào hai cái va li trên sàn nhà ). Julia mở cả va li cho chúng tôi xem. Bên trong va li lỉnh kỉnh các loại hộp, chai, lọ, tuýp đựng các loại kem, dầu, phấn dưỡng tóc, dưỡng da… cho từng bộ phận… kem riêng cho da cổ, vài loại cho da mặt, vài loại cho mắt, cho vùng chữ T, cho môi, cho cả tai, kem làm trắng da, kem chống nếp nhăn, kem giữ ẩm, kem giữ da săn, kem chống tàn nhang, vân vân… Julia còn mang theo những lọ dầu gội và dầu xả to, cộng với sữa tắm, thuốc xịt côn trùng và rệp; máy sấy tóc; năm, sáu đôi giày dùng cho các trang phục khác nhau và ngồn ngộn quần ao. Tôi nói tôi chỉ có mỗi một cái va li nhỏ và túi xách tay.
Julia không tin, bắt tôi mở va li cho xem. Tôi mở ra: tôi chỉ có cả thảy ba cái quần bò, vài cái sơ mi; hai đôi giày trong đó một đôi đang đi… Tôi chỉ mang một lọ dầu gội đầu nhỏ mà tôi dùng luôn làm sữa tắm khi đi du lịch. Chỉ có thế thôi, chẳng có gì khác cả.
“Thế túi mỹ phẩm của em đâu?” Julia không tin nổi.
Tôi cho Julia xem: tôi chỉ có một cái túi lớn hơn cái bao kính một chút, đựng một lọ kem dưỡng ẩm nhỏ, một hộp phấn nền, một hộp phấn má nhỏ, một thỏi son môi, một cái bút chì mắt, chấm hết. Julia liên tục “wow, wow” – tôi không biết chị ngưỡng mộ hay sốc khi một cô gái có thể chỉ có từng ấy thứ đồ mỹ phẩm.
“Me nothing!” Francesca nói. “No hair. No makeup. No care [35] .”
[35] Tôi chẳng có gì cả. Không tóc. Không mỹ phẩm. Không quan tâm.
Francesca đúng rồi. Nếu tôi bị ung thư, tôi chắc cũng không quan tâm đến mỹ phẩm, thời trang nữa. Sự hiện hữu của cái chết sẽ làm chúng ta nhận rõ cái gì thực sự cần, cái gì không cần. Nhìn Francesca, tôi lại nghĩ, dường như quá nhiều người trong chúng ta chỉ làm điều mà chúng ta thực sự muốn khi bị dồn vào bước đường cùng, khi có một cái hạn cụ thể cho sự tồn tại. Còn bình thường, ta phó mặc cho những ước mơ cứ thế chết dần chết mòn trong cái thường nhật và sự nhạt nhòa của thời gian.
Paris, ngày…
Sáng nay, tôi tỉnh dậy lúc 7 rưỡi. Bên ngoài, trời sầm sì u ám. Kính cửa sổ phủ một lớp hơi nước dày, không sao nhìn được ra ngoài. Julia đã ra khỏi giường, vừa lục cục mở hành lý vừa thở nặng nề như người hen suyễn. Mũi và họng Julia chắc chắn đã tắc. Tôi hỏi Julia có muốn tôi đánh cảm cho không, Julia đồng ý… nhưng tôi chỉ mới bôi xong dầu cao và bắt đầu miết tay từ thái dương vào sống mũi thì Fulia đã kêu “ái… ái…” và bảo tôi dừng lại vì đau. Tôi nói phải đau thì mới tốt và tôi đang cố gắng trục khí độc ra khỏi Julia… À, nhưng Julia là một cô gái Hàn Quốc mẫu mực, và giống tất cả các cô gái Hàn Quốc mẫu mực, chị cảm ơn tôi đã có ý giúp đỡ nhưng Julia sẽ kiếm cách gì đó đỡ bạo lực hơn. Như ngủ chẳng hạn. Vậy là Julia lên giường đi ngủ còn tôi đi bộ ra Nhà thờ Đức Bà để leo tháp chuông.
Bên ngoài Paris không mưa và cũng không lạnh nhưng ẩm ướt và nhiều mấy xám. Vừa băng qua con đường chạy dọc sông, tôi lập tức phát hiện ra một điều: hóa ra những cái thùng lớn màu xanh lam đóng kín đặt dọc sông Seine mà tôi tưởng là thùng rác lại là các quầy bán sách và đồ lưu niệm. Hôm qua, vì trời mưa nên các “cửa hàng” đều đóng cửa. Còn hôm nay, có một dãy quầy sách cũ mở ra ở ngay chỗ tôi sang đường.
Tất cả sách đều bằng tiếng Pháp. Có một số tên quen thuộc đập ngay vào mắt như Aragon, Jean-Paul Sartre, Mallarmé và một hàng dài tác phẩm của
Hóa ra những cái thùng lớn màu xanh lam đóng kín đặt dọc sông Seine mà tôi tưởng là thùng rác lại là các quầy bán sách và đồ lưu niệm
André Malraw. Tôi đang cố đoán tên một số cuốn và nhìn lướt để tìm xem có cuốn tranh mỏng nào về Rodin không thì một monsieur khoảng ngoài sáu mươi tuổi bước lại. Monsieur cao dong dỏng, mặc áo sơ mi trắng bên trong, áo gió xanh nhạt bên ngoài, thắt cà vạt, đội một cái mũ Paris và, tất nhiên, có mang nước hoa. Khuôn mặt monsieur có một vẻ hài hước và thân thiện mà thoạt nhìn cũng nhận ra.
“Bonjour petite mademoiselle [36] ,” monsieur mỉm cười.
[36] Chào cô gái bé nhỏ.
“Bonjour,” tôi đáp lại và chuẩn bị bỏ đi vì từ xưa tới nay những người bán hàng hầu như luôn làm tôi sợ (hệ quả của thời bao cấp với các cô bán hàng mậu dịch mặt lạnh).
Nhưng tôi vừa dứt tiếng “Bonjour” thì một suối tiếng Pháp lập tức thánh thót tuôn ra, cộng với một cái khoát tay duyên dáng trên những cuốn sách, ra ý “Mademoiselle nhìn xem, những cuốn sách mới đẹp làm sao” (tôi hoàn toàn đồng ý). Tôi lập tức đoán monsieur là người bán sách nên giải thích với monsieur rằng tôi “non parle Francais”, tôi chỉ xem thôi chứ không mua vì, vâng, một lần nữa, tôi “non parle Francais”. Tôi tưởng là giống như những người bán hàng Mỹ, monsieur sẽ lịch sự mỉm cười rồi lảng ra tìm khách hàng khác; nhưng không, monsieur vẫn mỉm cười và nói một tràng dài đại ý mời mademoiselle cứ thoải mái xem đi, “ pas de problème, pas de problème ”.
Cung kính không bằng tuân mệnh. Tôi chiêm ngưỡng các cuốn sách thêm khoảng nửa phút cho phải phép. Rồi khi ngẩng lên định “merci, au revoir” thì trước mặt tôi monsieur đã đứng sừng sững, tay cầm một cuốn sách nhỏ, đồng thời ra hiệu cho tôi chờ. Tôi kịp liếc bìa sách: một cuốn thơ của Paul Verlaine. Tôi đang đoán là monsieur muốn gạ tôi mua cuốn thơ thì monsieur đã lật lật vài trang và ngoắc tay cho tôi ghé lại gần. Tôi lại cung kính tuân mệnh. Lập tức bên tai tôi vang lên những khổ đầu của một bài thơ có tiêu đề “ Chanson l’automne [37] ”:
[37] Khúc hát mùa thu , hay còn được dịch là Thu ca.
Les sanglots longs
Des violons
De l’automne
Blessent mon coeur
D’une lanheur
Monotone [38]
[38] Bài thơ này từng được dịch là Thu ca: “Đàn ai nức nở. Nhạc thu ngân dài. Điệu buồn buồn mãi. Lòng tôi ai hoài.” (Theo tham khảo trí nhớ một người bạn, không tìm được tên dịch giả).
Tôi vừa mơ màng thưởng thức những lời thơ du dương vừa nghĩ: “Bỏ bố!”
Quả thực là tôi quá bất ngờ. Cái phần lãng mạn trong tôi thì lơ lửng trên mây; phần trẻ con thì cười khúc khích; cái phần một phụ nữ Việt Nam đã lớn lên cũng những chương trình “ kể..ể..ể chuyện cảnh giác ” vào các tối thứ Bảy hàng tuần suốt những năm 1980 thì ngồi phắt dậy nghe ngóng, trong khi cái phần lý tính và thực dụng mà người Mỹ đã dạy cho tôi trong tám năm qua thì chống cằm “hừm, hừm, ông này muốn gì ở mình?”. Các phần còn lại thì vẫn đang bất tỉnh nhân sự vì bất ngờ.
Tôi còn đang chới với trong mớ hỗn độn các cảm giác thì nghe monsieur hỏi tôi có “ cảm ” được đoạn thơ này không. Tôi định thần lại rồi trả lời rằng tôi chỉ “ cảm ” một số từ thôi, ví dụ như “ mon coeur ” là “trái tim của tôi”, “ mots ” là “từ” ( như trong bài Michelle của The Beatles: “Michelle, ma belle, sont des mots qui vont très bien ensemble” ), “ automne ” thì chắc là “mùa thu” giống từ “autumn” trong tiếng Anh, “ monotone ” là “đơn điệu” còn “ violon ” thì, chậc, là violon. Thế nhưng toàn bộ khổ thơ nghĩa là gì thì tôi chịu. Monsieur bèn vui vẻ giải thích cho tôi từng câu thơ bằng một thứ tiếng Pháp pha tiếng Anh bồi. Rút cục thì tôi cũng hiểu đại khái khổ thơ này nói rằng mùa thu réo rắt những cây violon của nó, khiến cho trái tim người ta não nề.
“Toi chi muon đọọc dững cau thơ nay choa iem,” monsieur nói.
Nhìn khuôn mặt monsieur có vẻ rất thành thực thích thú việc đọc thơ này. “Wow, thì ra đây là cái mà người ta gọi là sự lãng mạn Pháp”, tôi nghĩ thầm với một sự thán phục và cảm động trong lúc phần lãng mạn thắng tuyệt đối phần cảnh giác. Nhưng vì cũng không có ý định mua sách gì, tôi “merci, merci beaucoup” và nói rằng đã đến lúc tôi phải đi.
Hoặc là monsieur không hiểu tôi nói gì hoặc có hiểu mà tảng lờ vì tôi vừa dứt lời thì monsieur yêu cầu “petite mademoiselle” hãy đọc lại bài thơ cho monsieur nghe. Đến đây thì tôi lại không còn hiểu ra sao nữa. Tôi lại nói lại câu kinh điển: xin lỗi monsieur, tôi “non parle Francais”.
“Khoong sao đau,” monsieur nói. “Đọọc đi, đọọc đi.”
Không biết phải làm thế nào với tình huống chưa có tiền lệ này và lại rất không biết nói “Không” với người khác nên “petite mademoiselle” là tôi đành phải đọc bài thơ. Dĩ nhiên là bằng một thứ tiếng Pháp bồi khủng khiếp. Khủng khiếp đến nỗi tôi không nhịn được, cứ phá ra cười trong lúc chật vật phát âm từng từ. Monsieur cũng cười hài lòng… và chỉnh lại phát âm cho tôi mỗi khi tôi phát âm sai.
Tôi đọc xong thì lập tức cảm ơn monsieur lần nữa và nói rằng tôi phải đi.
Nhưng một lần nữa, monsieur hoàn toàn tảng lờ việc tôi phải đi.
“Where you from, mademoiselle?” Monsieur hỏi.
“Vietnam.”
“Ah, Vietnam. Chao iem!” Monsieur nói tiếng Việt và chắp tay cúi đầu chào như… người Thái.
Trong lúc tai tôi vẫn còn lùng bùng hai tiếng “”Chao iem” thì monsieur đã lại nói rất nhanh rằng monsieur đã đến Việt Nam sáu lần. Và rồi monsieur đột nhiên nhắc đến Hồ Chí Minh.
“Ho Chi Minh gióng Charles de Gaulle,” monsieur nói.
“Ngươi Anh đen Phap, Charles de Gaulle noi cút đi. Ngươi Phap đen Vietnam. Ho Chi Minh noi cút đi. Gióng nhau, gióng nhau ca thoi.”
Liền đó monsieur tuyên bố rằng monsieur đã luôn có ý định dịch mười hai cuốn tuyển tập Hồ Chí Minh ra tiếng Pháp. Tôi không còn biết mình đang nói chuyện với một học giả đội lốt người bán sách hay là người bán sách đội lốt học giả hay bán sách kiêm học giả. Tôi đành cười và chúc monsieur thành công với dự định dịch sách của mình để giúp cho tình đoàn kết giữa Pháp và Việt Nam thêm thắm thiết.
Thế rồi, bất thình lình, câu hỏi sau đây bật ra rất rành rọt từ phía monsieur, bằng một thứ tiếng Anh rất chuẩn như đã được tập luyện nhiều lần:
“Em đi ăn tối với tôi nhé?”
“Bỏ cụ!” Tôi nghĩ.
Tuy luống cuống, tôi vẫn đủ tỉnh táo để biết rằng tôi không thể ăn tối với monsieur dù monsieur có đọc thơ Verlaine cho tôi nghe. Tôi cố gắng tìm một cách lịch sự để từ chối nhưng nghĩ mãi không ra cách gì, tôi sử dụng lý do kinh điển của các cô gái:
“Merci, merci monsieur nhưng bố mẹ tôi không cho tôi đi ăn tối với người lạ.”
“Oh lah lah…” monsieur vung hai tay lên trời một cách thất vọng, nhưng vẫn mỉm cười, “Bo mẹ, bo mẹ. Tại sao ngươi Vietnamien luc nao cung phai xin phep bo me?”
Câu hỏi này quá vĩ mô và không có lợi gì cho tình huống cụ thể của tôi lúc đó nên tôi vừa cười trừ vừa chỉ vào đồng hồ đeo tay:
“Merci monsieur nhưng thật sự là tôi phải đi.”
Quan sát nét mặt monsieur, tôi biết là tôi vừa mới đấm bị bông ( Chúa phù hộ sự kiên nhẫn của đàn ông Pháp với phụ nữ! ) Để thể hiện sự quyết tâm và tự chủ, tôi tuôn ra một tràng tiếng Anh rằng tôi có hẹn với bạn tôi, tôi nhất định phải đi nếu không tôi sẽ bị muộn, rằng monsieur đã rất nice khi đọc thơ cho tôi nghe, tôi rất cảm động nhưng tôi “thực sự, thực sự phải đi” và chúc monsieur bán được nhiều sách. Tôi vừa nói vừa bắt đầu rảo bước. Monsieur cũng rảo bước đi cùng và hỏi tôi có quay lại buổi chiều nay không, monsieur sẽ chờ tôi ở quán cà phê bên kia đường. Tôi nói non non, tôi không quay lại đâu – và bước nhanh hơn. Monsieur lại nói rằng ngày nào monsieur cũng đứng đây bán sách hoặc ngồi bên kia uống cà phê, nếu tôi đổi ý định muốn ăn tối hay uống cà phê với monsieur thì cứ tới tìm bất cứ lúc nào.
Tôi bước đi khỏi một đoạn đã xa mà vẫn thấy đầu óc lùng nhùng vì không hiểu chuyện gì vừa xảy ra. Một ví dụ nhỏ về sự lãng mạn Pháp hay chương một của một tiểu thuyết trinh thám Mỹ mà đến chương hai thì người bán sách mê thơ Verlaine sẽ hiện nguyên hình là sát thủ giết người hàng loạt?
Nhưng thở đều một lúc, sự lãng mạn đã lại thắng thế. Nghĩ cho kỹ, rõ ràng monsieur không hề có gì khả nghi và không làm gì hại tôi ngoài việc đọc thơ Verlaine cho tôi nghe và mời tôi uống cà phê. Tôi kết luận rằng tôi không cần phải lo lắng; không nên nghi ngờ oan cho monsieur mặc dù quả nhiên cách tiếp cận này hơi kỳ cục. Buổi tối nay, khi gặp Kai và Sarah, tôi sẽ hỏi họ chuyện này.
Tôi đã không liên hệ với bất cứ người bạn Việt Nam nào khi tới Paris lần này vì tôi muốn đi du lịch như một người không nguồn gốc, không quá khứ, không ràng buộc. Kai, người bạn cũ từ Đại học Chicago, là người duy nhất biết tôi tới.
Kai và Sarah tới lúc 7 giờ. Tôi đã cuống cuồng nhảy tàu điện từ khu Khải Hoàn Môn về khách sạn thay quần áo để kịp đi ăn tối với họ. Hôm nay là ngày thứ ba của tôi ở Paris, cả ba ngày đều lây rây lúc mưa lúc nắng; mà tôi thì không làm việc gì khác ngoài lang thang ngoài đường nên hôm nào quần áo cũng ẩm ướt và cả ba tấm bản đồ của tôi đều bắt đầu mục vì ngấm nước. Nhưng tôi sẽ không vì thế mà đánh đổi lấy những ngày Paris toàn nắng đẹp. Paris trong mưa có cái gì đó quyến rũ vô cùng. Chiều tối nay, khi tôi nhìn thấy Kai và Sarah thong thả bước cạnh nhau từ phía con đường bờ sông tới trước khách sạn, thì tôi hiểu cái quyến rũ ấy là cảm giác Paris và người Paris chậm lại, xích lại gần nhau. Nó là sự lãng mạn được cô đặc, được làm giảm đi một chút bốc đồng để trở nên đằm và thật. Như chiều may, khi đi ngang Nhà thờ Đức Bà và nghe lỏm một người con trai nói trên điện thoại “Em nhất định phải đến, anh cần em” thì tôi tin là anh ấy cần cô gái kia thật. Làm sao có thể không cần một người khác trong cái se lạnh này của mùa thu Paris.
“Chào em,” Kai cười từ xa. “Em khỏe không?”
“Em khỏe,” tôi nói. “Kai ơi, Paris đẹp quá; em thật ghen với anh.”
“Dĩ nhiên rồi,” Kai cười, hôn tôi hai bên má. “Tất cả mọi người đều ghen với anh. Nhưng biết làm thế nào được.”
Không thể không nhận ra rằng Kai đã khác đi kể từ lần cuối cùng tôi gặp anh, cách đây chừng một năm, ở Chicago. Hồi đó, Kai bơ phờ và dường như lúc nào cũng ngấp nghé một miệng vực vô hình; còn bây giờ, khuôn mặt anh có một ánh sáng mới. Có lẽ Paris làm cho người ta hạnh phúc hơn.
Chúng tôi tới một tiệm ăn có tên “Les Philosopher” ở Rue Vieilles-du-Temple bên phía Marais, không xa khách sạn tôi ở (chắc chỉ có ở Paris thì tiệm ăn mới có những cái tên như “Nhà triết học” hay “Descarter”). Tiệm Les Philosopher nằm trên mặt phố, trong một căn nhà tường ốp gỗ với những cửa sổ lớn mở ra ngoài vỉa hè; vỉa hè cũng có bàn nhưng chủ yếu dành cho người uống cà phê, rượu, hút thuốc sau khi ăn. Chúng tôi vào bên trong; chọn một chiếc bàn gỗ nhỏ. Xung quanh chúng tôi, các bàn hầu như chật người; từng nhóm từng nhóm ngồi với nhau theo cái lối của những người đã đi ăn tối với nhau rất nhiều lần. Họ thoải mái, ồn ào, và tự nhiên. Mỗi lần có một người mới đến, người đó lại ồn ào chào hỏi rồi đi vòng quanh bàn hôn má từng người ngồi quanh bàn. Thật là một cảnh vui mắt. Người Mỹ không bao giờ cho phép mình ồn ào quá ở các nhà hàng mà chỉ có thể ồn ào ở các sport bar.
Kai nói món vịt ở đây khá ngon; vậy là tôi gọi vịt là món chính, khai vị là patê ngỗng. Chúng tôi gọi một chai vang đỏ.
“Chào mừng em đến Paris!” Kai nói. “Cho những ngày Paris vui vẻ!”
“Cho những ngày Paris vui vẻ!” Tôi nói.
“Ở Paris thì khó mà buồn được,” Sarah nói. “Em hiện nay chẳng làm gì, coi như thất nghiệp, thế mà cũng chẳng buồn.”
Sarah là người Mỹ, Kai người Nhật, hai người gặp nhau ở Chicago; rồi yêu nhau; khi Kai đi Paris nhận việc sau khi tốt nghiệp, Sarah chuyển sang sống chung. Hằng ngày, Kai đi làm, còn Sarah ở nhà học tiếng Pháp và tìm việc.
Chúng tôi hỏi thăm công việc và những người quen cũ ở Chicago. Rồi tôi không đừng được mà kể lại câu chuyện về người đàn ông bán sách đọc thơ Verlaine.
“Em vẫn không hiểu, tại sao ông ấy lại đọc thơ cho em nghe? Ông ấy muốn gì ở em?”
Kai phá lên cười.
“Chết thôi, em bị Mỹ hóa mất rồi. Người Mỹ lúc nào cũng hỏi tại sao, để làm gì, họ muốn gì ở tôi, tôi được gì, mất gì. Có thể ông ấy không muốn gì ở em cả, ông ấy chỉ muốn đọc thơ cho em nghe, đơn giản thế thôi.”
“Ồ, nếu em là một cô gái sexy, quyến rũ thì em còn hiểu được; đằng này…”
“Cũng chẳng sao, ông ấy muốn làm vậy vì ông ấy muốn làm vậy thôi. Đàn ông Pháp là thế.”
“Mà phải nói là họ kiên nhẫn thật. Em đã nói không không tôi phải đi bao nhiêu lần mà ông ấy không tha.”
“Ờ,” Kai tặc lưỡi, “về khoản kiên nhẫn thì công nhận đàn ông Pháp là số 1. Người Mỹ với Nhật chẳng bao giờ mất thời gian cho việc tán tỉnh vô thưởng vô phạt ngoài đường như thế, người Pháp thì khác, mà không, anh phải nói chính xác là người Paris thì khác. Đàn ông Paris là một giống riêng. Họ tán tỉnh như một bản năng; nếu thấy có một cái cửa; họ sẽ gõ; cửa chỉ cần hé ra là họ lách chân vào, rồi cứ thế đẩy dần cửa ra, và trước khi em nhận ra thì họ đã trong nhà em rồi.”
“Nhưng nhất định họ vẫn phải có một mục đích cuối cùng nào đó chứ. Ông ấy mời em đi ăn tối để làm gì? Họ mời các cô gái xa lạ qua đường đi ăn tối với mục đích gì? Để ngủ với họ à?”
“Cũng có thể là thế. Nhưng có người đơn giản là họ muốn đi ăn tối với em thôi. Với người Paris, đi ăn tối với ai đó, kể cả người xa lạ, là một niềm vui. Đơn giản thế thôi. Gặp nhau, ăn tối, uống chút rượu, nói chuyện phiếm, tán tỉnh nhau một chút, đại để là có mấy tiếng vui vẻ với nhau… đấy là văn hóa Paris. Có thể ông ấy chỉ muốn có người ăn tối cùng.”
“Cái đó thì em cũng hiểu. Em cũng ủng hộ sống cho ngày hôm nay, sống cho hiện tại, tận hưởng những khoảnh khắc với người khác, nhưng mà em vẫn thấy có cái gì đó kỳ kỳ.”
“Em ở Paris một thời gian, em sẽ không để ý nữa đâu.”
“Đúng rồi đấy,” Sarah nói. “Hồi em mới sang đây, em cũng gặp chuyện này, em dị ứng lắm. Gần nhà em ở có cái công viên; cứ lần nào em vào đấy chạy bộ hay đọc sách là y như rằng có một anh Parisien ra tán tỉnh. Em nghĩ, bỏ mẹ, không biết bọn này muốn gì ở mình. Trời ơi, có một lão trong công viên lại còn bảo em là lão phát điên vì yêu em… Làm em phải bỏ cả cái công viên đấy một thời gian. Giờ thì em quen rồi; lơ mơ là em chửi cho. Các lão ấy biết chị là khách du lịch mới đến nên thế thôi. Mà đàn ông Pháp thì thích các cô gái Á Đông nhỏ bé lắm.”
“Chị cứ tưởng là cái kiểu tâm lý thuộc địa đấy chỉ có ở thời Thế chiến chứ giờ vẫn còn à?”
“Còn đấy, một số đàn ông Pháp vẫn cứ thích các cô gái Á Đông vì họ dịu dàng, chiều chuộng. Chứ đàn bà Pháp với đàn bà châu Âu chả chịu được cái thói lãng mạn rửng mỡ của các ông ấy.”
Đến đây thì bồi bàn mang món patê ngỗng ăn với bánh mỳ nướng và một chút mứt dâu tây. Ở các bàn bên cạnh, thức ăn và rượu cũng đầy ắp, những câu chuyện ngày càng ồn ào. Vài người đàn ông mặt đỏ, tóc rối bời, đứng cả lên để tranh luận về chính phủ và Giáo hoàng (nghe nói sắp tới Giáo hoàng sẽ sang thăm Paris), và một thứ tiếng Pháp mê li cứ thế tuôn ra hôi hổi. Tôi vừa ăn vừa nói chuyện với Kai và Sarah vừa quan sát cái không khí một quán ăn tối Paris… Tại sao ngồi đây tôi lại có cảm giác nhớ không khí này và nhớ Paris như thể tôi từng ở Paris? Tại sao, giữa những người Paris trong quán ăn xa lạ này, tôi lại nhớ Hugo, Chopin, Verlaine như thể tôi đã từng ngồi ăn tối với họ ở đâu đó, trong những buổi tối Paris mùa thu?
Ở ngoài khách sạn, Kai và Sarah lại hôn tạm biệt tôi, hẹn rằng sẽ gặp lại trước khi tôi rời Paris.
“Cẩn thận nhé, Kai dặn tôi. Em chỉ có một mình, mà đàn ông Pháp thì mê phụ nữ Á Đông lắm và không phải ai trong số họ cũng tử tế đâu. Em nhớ nhé.”
Tôi nói với Kai rằng tôi sẽ cẩn thận. nhưng nếu tôi gặp những trường hợp tán tỉnh và mời đi ăn tối khác, tôi sẽ nhận lời để tìm hiểu xem rút cục thì những người đàn ông này muốn gì. Có thể nào người ta lãng mạn chỉ để lãng mạn mà thôi? Hay là tôi bị “Mỹ hóa” thật như Kai nói nhỉ? Lẽ nào tôi không còn tin và cũng không còn khả năng cảm nhận sự lãng mạn nữa?
Tôi đã tháo nhẫn cưới khỏi tay từ hôm đến Paris. Tôi không biết tại sao. Chắc chắn tôi không định tán tỉnh, yêu đương hay lừa ai nhưng tôi vẫn cứ bỏ nhẫn cưới ra.
Cái nhẫn cưới này, tôi và Sơn đã mua trong một cửa hàng trang sức ở Boston. Lúc ấy, tôi có hai sự lựa chọn: một cái nhẫn với một vòng tròn khép kín và mặt kim cương đính bên trên; hoặc một cái nhẫn với vòng tròn không khép kín và một mặt kim cương nằm giữa hai cái đầu không khép kín ấy. cuối cùng tôi đã chọn cái thứ hai. Trong suốt những năm đeo cái nhẫn này, ngón tay tôi thỉnh thoảng lại bị trầy bởi vì bị cái đầu nhọn kim loại của vòng tròn không khép kín đâm. Chị gái tôi – một người tương đối mê tín – đã nói với tôi khi nhìn thấy cái nhẫn rằng cái nhẫn thế này là biểu tượng của xa cách, hai người không làm thành một vòng tròn. Tôi đã cười, nói chị ấy vớ vẩn. Tôi cũng đã nghĩ những điều khác là vớ vẩn. Ví dụ như Sơn chưa bao giờ đeo nhẫn cưới và tôi chưa bao giờ bắt anh phải đeo.
Nhưng có thể, chúng không vớ vẩn như tôi tưởng? Có thể, để có một cuộc sống vợ chồng lâu bền thì cần có cả những thứ thủ tục, những khuôn khổ, những quy tắc mà người ta phải tuân theo để cầm cương cái bản ngã cá nhân luôn dễ dàng hư hỏng khi được dung túng?
Cả hai chúng tôi, hay ít nhất là tôi, hình như đã quá tự do và ngây thơ về hôn nhân cũng như về chính mình.
Paris, ngày…
Tôi đã quyết định rằng từ chủ đạo cho ngày hôm nay là “trèo”. Sáng nay, trở lại Nhà thờ Đức Bà ( lần thứ mấy nhỉ? ). Tôi đã trèo hơn 300 bậc đá để lên tháp chuông. Chiều tối nay, ở bảo tàng Pompidou ra, tôi thấy từ này càng chính xác.
Để vào bảo tàng Mỹ thuật bên trong Popidou Center, phải trèo một cái cầu thang rất dài bên ngoài để tới tầng bốn. Bước vào trong, cái đầu tiên đập vào mắt tôi là một tấm canvas trắng mỗi chiều vài mét, trên đó hình như ai đã sơ ý đánh rơi một xô lớn đựng sơn xanh da trời, khiến cho sơn xanh tung tóe trên bề mặt. Bên cạch tôi, một cô gái, lúc này đang đứng nhìn bức tranh, thì thầm với người bạn trai”
“Thế này mà gọi là nghệ thuật á? Em nhắm mắt cũng làm được như thế. ”
Phải rồi, tôi cũng vừa thoáng nghĩ như vậy mặc dù ngay sau đó, cái ý thức mới hình thành của người viết bảo tôi rằng tôi lại sa vào cái bẫy phán xét theo quán tính của một người ngoài. Với tư cách là một người ngoài, tôi có thể nói tôi thích hoặc không thích một tác phẩm nghệ thuật, tôi thậm chí hoàn toàn có quyền nhận xét nó hay hay dở; nhưng nói “dễ” thì có lẽ phải bắt tay vào làm mới biết. Mà kể cả khi bắt tay vào rồi, tôi chỉ thực sự biết nếu tôi muốn vượt qua bản thân, muốn trèo tới đỉnh. Giống như hôm nay, phải thực sự trèo hơn 300 bậc thang Nhà thờ Đức Bà sau cả một ngày đi bộ lang thang khắp Paris, tôi mới phát hiện ra mình có thể mắc chứng claustrophobia khi phải đi vòng vòng liên tục trong một cầu thang xoáy trôn ốc với những bậc đá chỉ vừa đủ đặt một bàn chân. Và khi lên tới nơi rồi, nhìn Paris trải ra bên dưới, và bất lực trong việc dùng máy ảnh để bắt lại cái nhìn thấy bằng mắt, tôi hiểu là nhiếp ảnh, cũng như tất cả mọi thứ khác trên đời, đều khó khi người ta muốn thực sự lên đến đỉnh.
Quay trở lại với Pompidou. Thực sự, tôi không hiểu gì về hội họa; tôi chỉ biết thích hoặc không thích mà thôi; và nếu phải xếp thứ tự các bảo tàng nghệ thuật cho đến nay, thì tôi sẽ xếp Pompidou trước Orsay, rồi mới đến Louvre. Ngay lúc này, tôi có thể khẳng định rằng tôi thích Pompidou hơn Louvre. Tranh ở Louvre và Orsay vẫn là dạng tranh “minh họa” cảm giác “bội thực” và “ngột ngạt”. Còn ở Pompidou không có sự “minh họa” nào cả. Nó là cảm giác và ý nghĩ thông qua khâu trung gian, không cần phiên dịch hay diễn dịch, không có phóng chiếu và ước lệ. Chúng là máu thịt của ý tưởng sống động, tươi nguyên, mạnh mẽ, cá nhân, điên rồ, chuếnh choáng, không che đậy, không thanh minh, không bao biện. Chúng cứ thế tràn ra. Quá nhiều cá tính. Quá nhiều đời sống. Quá nhiều tự do.
Ở bên phải của bảo tàng Pompidou có một phim tài liệu ngắn về Jackson Pollock. Tất cả những gì ông làm, nhìn từ bên ngoài chỉ là nhẩn nha đi đi lại lại (miệng ngậm thuốc), vẩy vẩy màu hoặc nhỏ màu (dripping) lên canvas. Nhưng Pollock nói rằng ông hoàn toàn làm chủ cái việc vẩy màu đó không có cái gì là “accident” bởi vì “mỗi bức tranh có một đời sống riêng của nó, tôi chỉ cố gắng để nó lộ ra”. Hôm trước, Rodin cũng nói tương tự như vậy trong phim tài liệu. Nghĩ mà xem, Rodin làm việc trên đá, chỉ bằng một cái búa và một cái đục. Cho đến hôm nay, tôi vẫn còn chưa hết kinh ngạc mỗi lần nghĩ đến cái sự thật ngớ ngẩn này. Điêu khắc – dĩ nhiên rồi, phải làm việc trên đá, trên đất. Nhưng phải nhìn Rodin cầm búa đẽo từng miếng đá cứng, nhìn bụi đá bay ra… và rồi nhìn sự nhẵn nhụi, hoàn hảo – hơn hết là cảm giác sensual sống động của những bức tượng như The Eternal Idol, The Kiss, hay Despair… thì mới biết “điêu khắc” không hề dễ mặc dù Rodin nói rất đơn giản: “trong mỗi khối đá đều có săn một bức tượng, điêu khắc chỉ là công việc loại bỏ đi những phần thừa để bức tượng lộ ra”.
Biết cái gì là thừa để loại bỏ đi là một việc không hề dễ dàng. Mà không, tôi sẽ không nói một câu đãi bôi như thế. Tôi sẽ nói: biết cái gì thừa để mà loại bỏ là một việc khó. Có thể là theo những con đường khác nhau, bằng những cái thang khác nhau, tất cả loài người nói chung và người làm nghệ thuật nói riêng đều chỉ đang trèo lên cùng một đỉnh núi. Chính cái ý nghĩ này làm cho tôi thấy mình thoải mái khi ở trong Pompidou chứ không thấy xa lạ như ở Louvre. Đứng giữa một bên là Joan Mitchell cố gắng diễn tả những giấc mơ thời thơ ấu và một bên là Sam Fracis vẽ lại những bông waterlilies nổi tiếng của Monet theo phong cách hiện đại, tôi có thể cảm thấy rõ phía sau những bức tranh là những con người thật, là những ý nghĩ và tình cảm thật. Hơn thế, dường như có một dạng tình bằng hữu ngầm giữa tất cả những người đứng phía sau các tác phẩm nghệ thuật. Đấy là tình bằng hữu của những người cùng muốn theo đuổi sự thật.
Cuộc sống của những người này có bao giờ dễ dàng!
Ở Pompidou ra lúc 9 giờ tối, đói run tay, tôi ghé vào một quầy bán dạo ở ngay bên ngoài bảo tàng để mua một cái bánh mỳ kẹp. Đang đứng chờ người bán hàng nướng lại bánh mỳ, tôi nghe phía sau lưng:
“Ní hảo.”
Quay đầu lại: một người đàn ông đang ngồi trên một chiếc ghế nhỏ, mỉm cười với tôi. Một người vẽ ký họa chân dung ở trước bảo tàng cho khách qua lại. Ông ta khoảng ngoài bốn mươi, khuôn mặt giống người Ý hơn là người Pháp: da ngăm đen, mắt đen, tóc đen, “nam tính” toát ra mạnh mẽ. Nghĩ đến chuyện người bán sách hôm qua và lại đang đói, muốn về nhà, nên tôi lắc đầu “No ní hảo” rồi quay người đi. Nhưng tôi chỉ quay được nửa người vì ông ta đã nói bằng giọng nói như thể một bàn tay nắm vào khuỷu tay tôi mà giữ lại:
“No ní hảo?”
Tôi lại phải quay lại, lắc đầu một lần nữa:
“No ní hảo! Tôi không phải người Trung Quốc.”
Đáp lại khuôn mặt và cái lắc đầu của tôi là một câu tiếng Anh rất chuẩn:
“Mademoiselle, em có đôi môi thật đẹp. Với tư cách là một họa sĩ, tôi phải nói rằng em có đôi môi thật đẹp.”
Từ hôm qua đến giờ, tôi vẫn thỉnh thoảng nghĩ lại câu chuyện về người bán sách và câu chuyện Sarah kể về người đàn ông trong công viên. Và càng nghĩ, tôi càng cảm thấy vừa buồn vừa giận. Tưởng tượng xem, dường như có một đội quân những người đàn ông đứng tuổi hứng tình, đang âm thầm tỏa đi khắp Paris với sứ mệnh là lừa phỉnh các cô gái đi du lịch một mình nhằm biến những kỷ niệm về Paris của họ thành một tập hợp những câu chuyện rẻ tiền và lãng nhách. Thật là một sự lăng mạ lớn cho Paris và cho những người phụ nữ.
Và bây giờ thì một chiến binh trong cái đội thánh chiến đó đang ngồi trước mặt tôi, vừa mỉm cười mơn trớn vừa tuyên bố rằng tôi có “đôi môi đẹp”. Tôi rất muốn bảo ông ta “Monsieur, xin ông cút đi với quỷ và để Paris với tôi được yên”. Nhưng tôi lại chỉ nói:
“Cám ơn sự tán dương của ông nhưng tôi phải đi đây. Au revoir .”
Y như người bán sách hôm qua, monsieur này không hề quan tâm tới việc tôi phải đi cũng như khuôn mặt không hề thân thiện của tôi. Monsieur nói:
“Không không, đây không phải là sự tán dương, tôi chỉ đang nói sự thật bởi vì đó là sự thật và bởi vì tôi là một họa sĩ. Với tư cách một họa sĩ, tôi phải nói rằng em có đôi môi thật đẹp.”
Monsieur này nói tiếng Anh khá chuẩn, mặc dù vẫn có accent – nhưng không hoàn toàn là accent của người Pháp. Trong lúc tôi còn đang tần ngần cố nghĩ ra một cách gì đó thật bạo lực để chấm dứt cái màn tán tỉnh lỗ mãng này, tôi nghe monsieur nói với một vẻ hết sức thành khẩn:
“Em có thể làm mẫu cho tôi vẽ không? Tôi muốn vẽ em.”
Tôi cười:
“Và sau khi làm mẫu cho ông, chắc là tôi sẽ phải đưa ông mấy đồng; tôi nói có đúng không?”
Monsieur không hề có vẻ mếch lòng. Thay vì thế, monsieur hỏi tôi:
“Em có phải là một nhà khoa học không?”
“Không, có thể một ngày nào đó tôi sẽ, nếu tôi may mắn.”
“Tôi là một nhà khoa học,” monsieur tuyên bố trịnh trọng.
“Vậy sao?” tôi nói. “Chúc mừng ông.”
Monsieur quan sát nét mặt của tôi một lúc, rồi không nói không rằng lục túi lấy ra một tấm danh thiếp.
“Đọc đi!” Monsieur nói mát mẻ.
Đấy là một cái danh thiếp được làm sơ sài bằng bìa mềm. Nền màu xanh da trời, hình như loáng thoáng có vài ngôi sao màu trắng. Không có trang trí gì khác, không có biểu tượng tổ chức, cơ quan, hiệp hội nghệ sĩ gì. Ở góc trái phía trên của các-vi-zít chỉ có tên Paul gì đó… in rất to. Và bên dưới là dòng chữ tiếng Anh:
“Owner of the 5 th dimension of the universe expansion theory”
(Chủ nhân của học thuyết về sự giãn nở chiều thứ năm của vũ trụ [39] )
[39] Hoặc là “Chủ nhân chiều thứ năm trong học thuyết giãn nở vũ trụ” – thực sự tôi cũng không chắc người đàn ông này làm chủ cái nào.
“ Damn ! Thật là thiên tài” tôi nghĩ; và phải cố gắng lắm mới không buột miệng cười. Tôi sợ rằng chỉ cần tôi buột miệng cười, tôi sẽ không bao giờ dừng lại được. Tôi hỏi monsieur liệu tôi có thể hân hạnh giữ một tấm danh thiếp của monsieur để còn google về lý thuyết giãn nở vũ trụ của monsieur trên mạng. Nghe đề nghị này, monsieur lập tức rút tấm danh thiếp từ tay tôi và đút ngay vào trong ví. Monsieur nói đầy hờn dỗi:
“Không, tôi không thể đưa cho em vì em không tin tôi.”
“Xin lỗi,” tôi nói. “Tôi có thể sai, nhưng tôi có quyền nghi ngờ, đúng không?”
Monsieur ném vào tôi một cái nhìn sắc lạnh:
“Em có tin tôi là nhà khoa học không? Em có tin không? Hử!”
Lúc này, bánh của tôi cũng đã nướng xong rồi, và thấy không nên mất thời gian ở đây, tôi nói rằng tôi phải đi. Nhưng monsieur đã cầm tay tôi bằng cả hai tay:
“Tôi là một nhà khoa học,” monsieur nói. “Em có tin tôi là nhà khoa học không? Hử? Có tin không?”
“Vâng, tôi tin. Ông là nhà khoa học,” tôi rút tay ra. “Au revoir”
“Au revoir.”
Tôi thừa nhận rất có thể mình vừa mới có một hành vi rất khiếm nhã vì monsieur có thể là nhà khoa học kiêm nghệ sĩ thật sự. Nhưng tôi không thể cáng đáng nổi sự cả tin của mình trong trường hợp này.
Sau 9 giờ, nắng đã tắt và bóng tối bắt đầu xuống nhanh nhưng trên Rue des Archives, buổi tối dường như mới chỉ bắt đầu. Lần đầu tiên tôi nhận ra khu Marais của Paris thực sự là khu vực của người Do Thái và đồng tính luyến ái. Các đôi tình nhân nam nắm tay nhau đi lại trên phố rất tự nhiên; mỗi khi gặp người quen lại đứng lại bisous thân mật. Họ ăn mặc rất có style, không cố tình lòe loẹt hoặc ồn ào kiểu các drama queen để khẳng định giới tính của mình như dân đồng tính Mỹ, thường là desiger jean với jacket mỏng gam lạnh, mang khăn.
Lúc rời Pompidou, tôi đã mệt, định về nhà; nhưng rồi chỉ đi bộ đến Rue des Archives và Rue de Sainte-Croix-De-La-Bretonnerie, tôi lại có cảm giác như được sống lại. Đây là cái khác biệt của Paris, hoặc ít nhất là của khu trung tâm. Thành phố này có cách để nâng bạn lên và đỡ bạn đi khi bạn mệt, theo một cách rất ân cần. Vậy là tôi đứng lại ở một góc phố quan sát người qua lại cho đến lúc trời đổ mưa.
Chiều hôm qua, trên đường về từ vườn Luxembourg, tôi đi qua mấy phố ngách phía sau điện Pantheon và phát hiện ra mấy thứ nho nhỏ:
- Có một tiệm phở Việt Nam mang tên Tây Đô trên phố Rue de L’Ecoles.
- Có một cái vườn nhỏ rất đẹp ở góc phố Rue Monge… Trong vườn có những bức tượng và những ghế băng tuyệt đẹp, cộng với rất nhiều bóng râm và cây leo trên tường. Một nơi lý tưởng để nghỉ chân và đọc.
- Có một cửa hàng nhạc jazz trên cái phố nhỏ cạnh nhà thờ Thánh Gienevieve – nữ thánh bảo hộ của Paris. Cửa hàng có rất nhiều đĩa CD và một cái poster lớn đề dòng chữ “Jazz không chết ở Paris”. Không biết jazz chết ở Paris bao giờ! Thực tế là Paris khiến tôi nghĩ đến nhạc jazz rất nhiều, cũng như Paris làm tôi nghĩ đến những bức tranh của trường phái Ấn tượng. Nhịp điệu của Paris và tinh thần của thành phố này rất hợp jazz, nhất là khu Latin và Marais.
- Trên phố Rue des Bernardin lại có một nhà thờ cổ tuyệt vời nữa theo kiến trúc Gothic.
- Ở phía sau Nhà thờ Đức Bà có một quảng trường gọi là Thánh Jean XXIII. Một lần nữa: tuyệt đẹp.
Đẹp, đẹp, tuyệt đẹp. Tôi bắt đầu hết từ để tả Paris rồi.
Ngày mai là thứ Sáu. Trời ơi, tôi nói như thể tôi quan tâm ngày mai là thứ mấy vậy.
[40] Đội bóng rổ Chicago nổi tiếng, có Michael Jordan.
[41] Đội bóng chày ở phía Nam thành phố Chicago, niềm tự hào của người da đen ở Chicago.
Paris, ngày…
Paris, ngày…
Cách đây năm phút, tôi gần như đã ghét Paris khi cô gái gác cổng Đại học Sorbonne trên phố Thánh Jacques đã trả lời đề nghị được vào thăm trường của tôi bằng một từ “Non!” và vẻ mặt khinh khỉnh.
Nhưng tôi không bỏ cuộc; tôi đi vòng sang cổng khác và ở đây, người gác cổng da đen đã cho tôi vào sau khi hỏi tôi vào làm gì và tôi nói tôi là sinh viên ở Chicago, tôi muốn vào thăm trường, và anh ta nói “Tôi ghét đội Chicago Bulls [40] , tôi thích Michael Jordan nhưng giờ anh ấy ngủ rồi”, và tôi đã trả lời “Nhưng Chicago còn có nhiều thứ khác, nhất định anh phải thích một cái gì đó chứ… đội White Sox [41] chẳng hạn?”; và anh ta phá lên cười “OK, vào đi”. Và giờ thì tôi đang ngồi trên một cái ghế đá trong khoảng sân hình chữ nhật lát đầy đá cổ, đối diện với hai pho tượng: Louis Pasteur và Victor Hugo. Ở Paris, đi đến đâu cũng có bóng dáng Hugo và vì thế mà tôi càng cảm thấy mình thuộc về Paris. Thành phố này có một chỗ cho tôi – nếu không phải giữa những người Paris thì là giữa Paris đầy Hugo; đấy là một mối tình không cần nói thành lời.
Nhưng quả thực, tôi đã suýt ghét Paris khi cô bảo vệ trường Sorbonne từ chối cho tôi vào trong. Nghĩ cho kỹ, cũng không thể trách cô ấy được. Cái mầm mống cơn chán ghét của tôi thực ra có bóng dáng một sự thất tình/ghen tuông và nó đã bắt đầu từ đêm qua, và lỗi là do tôi cả.
Đêm qua, lúc tôi trở về khách sạn, Francesca không ở đó, chỉ có Julia đang ở trong phòng cùng với một người bạn gái Nhật Bản mới quen. Chúng tôi hỏi thăm nhau xem đã làm gì trong ngày. Julia nói chị đã tới nghĩa trang Pere Lachaise với mục đích tìm một chỗ yên tĩnh mà suy nghĩ, nhưng những khách du lịch đi thăm nghĩa trang cứ liên tục quấy rầy bằng những câu hỏi “Mộ này của ai đấy? Ông ấy có nổi tiếng không?” Chị cứ ngồi xuống bất cứ ngôi mộ nào là có người hỏi mộ của ai và người chết có nổi tiếng không.
“Nổi tiếng, nổi tiếng, nổi tiếng,” Julia nói. “Tất cả những gì họ quan tâm chỉ là người chết này có nổi tiếng không, họ thậm chỉ chẳng buồn đọc bia mộ và chẳng có tí ý niệm gì về người đã chết.”
Julia thở hắt ra. Lần đầu tiên tôi thấy chị ấy nổi giận.
“Tôi đã tới Paris để tìm lại bản thân mình… nhưng mà trời ơi, Paris ồn ào không thể tưởng tượng được, quá nhiều khách du lịch, quá nhiều, quá nhiều… mà đàn ông Pháp thì trơ trẽn và lộ liễu quá mức. Không thể nào tìm thấy bản thân mình ở đây.”
“Tìm lại bản thân mình” – cụm từ này nén quá nhiều thứ. Tôi hỏi Julia muốn tìm lại bản thân như thế nào, chị tìm gì, và nếu tìm được thì cái “bản thân” ấy trông như thế nào. Vậy là Julia kể cho tôi về cuộc sống của chị ở Hàn Quốc.
Julia là giáo viên dạy tiếng Anh ở tiểu học. Chị năm nay đã ba lăm và bố mẹ chị vô cùng sốt ruột vì chị vẫn chưa lấy chồng, Julia từng có một mối tình gần mười năm với một người đàn ông Hàn Quốc, nhưng đã không đi đến đám cưới; và sau đó một thời gian dài thì chị không còn yêu lại ai. “Tôi chán đàn ông Hàn Quốc rồi,” Julia nói. “Họ vừa gia trưởng lại vừa yếu đuối.” Gần đây chị thích một anh chàng người Anh – người này là giáo viên tiếng Anh của Julia ở Seoul; và chị có cảm giác anh chàng ấy cũng thích chị; họ hay gặp nhau nói chuyện, nhưng họ cũng chưa chính thức hẹn hò vì Julia cố gắng giấu giếm tình cảm của mình, còn anh kia thì mới đến Hàn Quốc nên thấy các cô gái Hàn Quốc quá bí ẩn. Mùa hè này, anh chàng người Anh về lại London thăm nhà và sẽ cùng mấy người bạn đi du lịch ở Châu Âu, bao gồm cả Paris. Vậy là Julia lên kế hoạch đi châu Âu, với mục đích ngấm ngầm là để gặp anh chàng người Anh ở Paris; nhưng để làm thế, chị đã lên cả một lịch trình châu Âu dài dòng, với nhiều thành phố khách nhau, chỉ để trông có vẻ như chị không đi Paris để gặp anh chàng người Anh mà chỉ “tình cờ” có mặt ở đó đúng lúc anh ấy cũng có mặt ( trời ơi, phụ nữ châu Á hình như giống hệt nhau về sự lòng vòng này ).
“Dĩ nhiên là chị đến Paris không chỉ vì anh ấy,” Julia nói, “chị muốn đến Paris vì chị chưa bao giờ đến Paris; ai cũng bảo Paris là thành phố lãng mạn nhất thế giới. Chị muốn đến đây để nghĩ, để lãng mạn trở lại một chút; chị quá mệt mỏi với cuộc sống ở Hàn Quốc, ai cũng giục lấy chồng đi, đẻ con đi, thế này đi, thế kia đi, chị ngột ngạt quá rồi.”
Julia đã viết thư cho anh chàng người Anh để thông báo rằng chị sẽ ở châu Âu; nếu anh ấy cũng ở Paris vào cùng ngày thì hãy gặp nhau. Anh chàng kia trả lời rằng anh ấy sẽ đi Paris nhưng không biết chính xác ngày nào vì còn tùy các bạn anh ấy sắp xếp. Vậy là Julia tiếp tục chờ… và ngày này qua ngày khác, tiếp tục cố tìm sự lãng mạn của Paris, “cố tìm lại bản thân” trong lúc chờ đợi. Nhưng ngày nào cũng thế, khi Julia đi ra ngoài với phấn son, áo váy, giày cao gót, và mái tóc đen dài được chăm sóc cận thận hằng đêm để buông xõa vào ban ngày - thì những người đàn ông Pháp xa lạ trên đường cứ lăn xả vào chị mà tán tỉnh theo những lời mà Julia cho là” rẻ tiền”.
Có một người đàn ông trung niên dường như ngày nào cũng ngồi uống cà phê ở cái quán gần cầu Pont Notre Dame với một mục đích là chờ chị đi tới để tán tỉnh. Ông ta nói ông ta “phát điên” vì chị; ông ta đã hai lần cầm tay chị hôn và hôm nay thì đòi hôn môi chị.
“Tôi chán ngấy Paris và đàn ông Paris rồi” Julis nói với tôi và cô gái Nhật.” Mai tôi sẽ xuống Nice tắm biển, ở đó yên tĩnh hơn, may ra thì có thể nghỉ ngơi. Sau đó thì tôi sẽ đi Tây Ban Nha.”
Cô gái Nhật cũng nói rằng cô đến Paris để nghỉ ngơi và “ enjoy the city ” nhưng cô viêm họng suốt những ngày ở đây vì Paris ngập khói thuốc lá ở khắp nơi và quá nhiều khách du lịch. Càng nghe chuyện tôi càng nhận ra rằng có rất nhiều cô gái châu Á một mình tới Paris - đều với những ảo tưởng và fantasy khác nhau; và thường thì họ thất vọng. Tôi nữa, tôi cùng là một cô gái châu Á, cũng đang ở Paris một mình, thất vọng thì không, ít nhất là chưa, nhưng sau cuộc nói chuyện với Julia và cô gái Nhật, tôi tự hỏi bao giờ đến lượt mình. Và càng nghĩ, tôi càng bực. Tự bao giờ sự lãng mạn Pháp nói riêng và sự lãng mạn nói chung của con người trở nên rẻ tiền như vậy? Từ bao giờ tình yêu trở nên cái gì đó khó bắt, đỏng đảnh, đầy những trò mèo đến vậy? Từ bao giờ cuộc sống con người trở nên một lối mòn trúc trắc gần như chỉ dẫn vào một ngõ cụt? Và từ bao giờ, Paris cho phép những người đàn ông trung niên nứng tình phá hỏng những chuyến đi của người khác?
Nhưng buồn nhất là ý nghĩ ở ngoài kia có nhiều phụ nữ cô đơn và lạc lõng. Nhất là ở các nước châu Á. Họ đều là những người giằng xé giữa ý thức đạo đức truyền thống với mong muốn cá nhân; họ khao khát được yêu một cách chân thành, mãnh liệt – một tình yêu lớn – nhưng rồi luôn luôn phải chấp nhận một cái gì đó thứ cấp, vừa phải. Họ đã tới Paris để “tìm lại mình”, “để tìm lại sự lãng mạn” như cách nói của Julia – bởi vì cái thứ tình yêu thứ cấp đó không bao giờ có thể làm người ta nguôi ngoai khao khát về tình yêu kia.
Tôi cũng biết rất nhiều người con gái không bao giờ có cùng câu hỏi và nhu cầu với Julia. Họ không bao giờ cần “tìm lại bản thân mình”. Cuộc sống với họ luôn luôn rõ ràng; họ chọn người đàn ông tối ưu, và lấy chồng và sinh con, và cuộc sống của họ cứ thế tiếp diễn. Ở một khía cạnh nào đó, họ thật đáng ngưỡng mộ và ghen tị. Cuộc đời sẽ dễ dàng hơn bao nhiêu nếu như bạn không có những ý nghĩ kiểu như bạn cần tìm lại bản thân mình. Cuộc đời sẽ dễ dàng hơn bao nhiêu nếu như bạn chỉ cần có chồng con, chứ không cần thêm một thứ xa xỉ là được chồng hiểu.
Nhưng than ôi, cả điều ấy nữa, người ta cũng đâu có cưỡng được. Tôi tin là Julia đã cố dẹp những tiếng thì thầm trong lòng mình, nhưng không thể.
Đêm qua, tôi nói với Julia:
“Chị đừng buồn. Mình không thể kiểm soát được người khác được đâu. Điều duy nhất chúng ta có thể làm là kiểm soát bản thân mình. Đừng để mấy người đàn ôn Pháp phá hỏng Paris của chị. Chị hãy tìm Paris của riêng chị và tìm chỗ của chị ở Paris.”
Nhưng Julia đã chịu đựng Paris đủ rồi. Tôi đồ rằng chị ấy đang “thất tình” với Paris – và cả với anh chàng người Anh có lẽ sẽ không bao giờ đủ dứt khoát mà đến Paris gặp chị. Chị đã quyết tâm ngày mai sẽ đi Nice – để thử cơ hội với Nice. Tôi e rằng chị lại cũng sẽ thất vọng với Nice thôi; nhưng ít nhất chị cũng đang cố gắng đi tìm và tôi chúc chị mọi tốt lành.
Sáng nay, khi tỉnh dậy, những tàn dư của cuộc nói chuyện đêm qua vẫn còn vương lại trong đầu tôi. Và rồi, để thêm vào đó, Paris lại mưa, xám, và lạnh… còn tôi thì đã đánh mất cái ô của mình ngày hôm qua. Một câu hỏi lặng lẽ hiện lên trong đầu tôi. “Mình đang làm gì ở đây? Thực sự thì mình đang làm gì ở Paris và ở châu Âu một mình? Mình tìm gì? Cần gì? Muốn gì?
Nhưng dù tôi có biết mình tìm gì, muốn gì ở Paris hay không thì sự thật là tôi đang ở Paris và tôi không muốn trời mưa hay sự tuyệt vọng của Julia trở thành sự tuyệt vọng của tôi; vậy là tôi thay quần áo và ra ngoài. Trời không thực sự lạnh nhưng ướt và xám. Ai cũng bước đi vội vã trong mưa, tay nắm chặt ô. Điều lạ là khi tôi vượt qua sông Seine dưới trời mưa, đầu để trần và nhìn những ngươi Paris cắm cúi bước trong mưa dưới những chiếc ô đen, rồi nhìn sông Seine và cả thành phổ ủ dột dưới màn nước màu xám, đột nhiên tôi bình tĩnh lại. Một cảm giác thanh thản, thậm chí hạnh phúc, lại len lén đến gần ôm lấy tôi. Bất kể thế nào, tôi vẫn có thể có một mối tình riêng, một chuyến đi riêng với Paris mà không ai có thể lấy mất của tôi điều đó.
Khi tôi đi dọc bờ sông, người đàn ông đã đọc thơ Verlaine cho tôi hôm trước lại từ hiệu sách bước ra “”Bonjour petite mademoiselle”. Tôi nói “Bonjour” rồi cứ thế đi thẳng. Ông ta kêu lên “Troi oi” nhưng tôi cứ bước đi mà không hề ngoái đầu.
Paris, ngày…
Cuối cùng thì tôi cũng tới Maison de Victor Hugo. Buổi chiều tối ngày thứ năm sau khi tới Paris, tôi đã quyết định không thể chần chừ thêm nữa.
Nó bắt đầu từ một ý nghĩ vào buổi tối hôm trước. Tôi muốn đi tìm phố Rue Plumet và phố Rue Saint Denis. Trong những người khốn khổ , Rue Plumet là phố mà Cô-dét sống cùng Giăng Van Giăng, và từ đó bắt đầu tình yêu với Ma-ri-uýt trong những buổi dạo chơi ở vườn Luxembourg. Vào các buổi tối, Ma-ri-uýt thường lẻn tới ngôi nhà Cô-dét trên phố, lách qua hàng rào vườn; và họ sẽ ngồi cạnh nhau suốt đêm, chẳng để nói gì, mà chỉ để chiêm ngưỡng người kia và ngập trong tình yêu. Hugo gọi đó là “Tình ca phố Pơ Luy Mê”. Còn phố Saint Denis là phố mà những người bạn trong nhóm ABC đã lập chiến lũy làm cách mạng và Ma-ri-uýt đã tới đó để chết cho nền cộng hòa non tre khi nghĩ rằng Cô-dét bỏ đi. Ma-ri-uýt lẽ ra đã chết nếu Giăng Van Giăng không đến chiến lũy cõng anh trên vai, lội qua cống ngầm Paris để trả anh về cho ông nội. Trong Những người khốn khổ , Hugo gọi cuộc chiến của những người bạn ABC là “”anh hùng ca phố Xanh Đờ Ni”. Sau buổi nói chuyện với Julia, tôi dứt khoát rằng tôi phải đi tìm xem có còn chút nào bóng dáng của cái “tình ca phố Pơ Luy Mê” và “anh hùng ca phố Xanh Đờ Ni” ở Paris không.
Trước khi đi, để cho chắc chắn, tôi hỏi người lễ tân về phố Saint Denis. Anh ấy chỉ cho tôi con đường dài trên bản đồ; rồi nói một câu làm tôi đứng tim:
“Cô muốn tới đó làm gì? Phố này nổi tiếng là phố đèn đỏ.”
Tôi nói với người lễ tân rằng tôi cần đến đó tìm một thứ. Vậy là tôi đi dọc phố Rivoli và chỉ qua một quãng ngắn, tôi nhìn thấy tấm biển đề “Rue Saint Denis”. Con phố hoàn toàn không như tôi tưởng tượng.
Phố Saint Denis ở khúc này chỉ là một đoạn ngắn chừng vài trăm mét; chạy giữa phố Rivoli và phố Lombards. Một bên phố là một bức tường cao của một tòa nhà cổ; bên kia là một vài cửa hàng ăn Địa Trung Hải khá xập xệ theo tiêu chuẩn của Paris. Loanh quanh một lúc vẫn không thấy chút bóng dáng “anh hùng ca phố Xanh Đờ Ni” nào, tôi quyết định sẽ ăn vội một bữa trưa gồm cơm sữa chua với thịt cừu nướng ở một nhà hàng Địa Trung Hải rồi sẽ đi tới Maison de Victor Hugo [42] và bỏ qua “Tình ca phố Pơ Luy Mê”.
[42] Nhà Victor Hugo.
Tôi không hy vọng gì nhiều. Thực sự, đến Paris lần đầu tiên và một mình bằng những ký ức về Paris trong các tiểu thuyết Pháp từ thế kỷ XVIII-XIX, tôi hiểu rằng tôi hầu như đã tự lên cho mình một kịch bản đầy các thất vọng và có khi còn đẩy mình vào những tình huống ngớ ngẩm kỳ lạ. Mầy ngày hôm nay, tôi đã rơi vào tình huống ấy rồi, khi cố gắng tìm cho được cái hàng cấy tròn vườn Luxembourg, nơi Ma-ri-uýt và Cô-dét nhìn thấy nhau lần đầu trong lúc đi dạo, cho đến lúc “Ma-ri-uýt yêu như si như dại”. Trong Những người khốn khổ , Hugo tả hàng cây này nằm gần cổng vào ở phổ Rue de I’Ouest và cạnh đó có mấy “pho tượng lực sĩ”. Tôi đã tìm suốt cả mấy hôm nay trên cả ba cái bản đồ tôi có nhưng không sao tìm thấy phố Rue de I’Ouest đâu, và tôi cũng đã đi loanh quoanh khắp vườn nhưng vẫn không xác định được chính xác hàng cây đó là ở chỗ nào vì không thấy chỗ nào có các “pho tượng lực sĩ” cả. Một buổi sáng, sau khi tìm mãi không thấy, tôi quyết định cầu cứu hai cô gái trẻ ngồi cạnh tôi trong vườn bằng cách chìa cuốn Những người khốn khổ bằng tiếng Anh cho họ xem và chỉ cho họ nơi tôi muốn tìm. Trong sách tiếng Anh, chỗ những hàng cây được gọi là “The Pepinere” và tôi chỉ cho họ chữ đó, cộng với “Rue de I’Ouest”. Hai cô gái bàn với nhau một lúc rồi quay sang tôi:
“Chị biết đấy, có khi những cái tên này chỉ là hư cấu thôi. Cuốn sách này cũ rồi mà.”
Phải, cuốn sách này cũ thật nhưng mấy cái tên này chắc chắn không phải hư cấu. Hugo không bịa ra chúng. Hugo đã mô tả Paris đúng như thời của ông. Có thể là tên đường đã thay đổi khi Paris được tái thiết theo kế hoạch của bá tước Haussmann. Có thể các cô gái này quá trẻ để biết và tin vào một Paris đó.
Vậy là tôi quyết định rời khỏi vườn và trở lại vào một ngày có nắng để tìm cho ra. Ngoài cổng vườn trên phố Thánh Michel, tôi nhìn thấy một hiệu bán sách và tạp chí với cái tên “The Economist [43] ” nổi bật phía trên và bên cạnh đó là jazz club có tên The Little Journal mà cả mấy cuốn sách du lịch đều gợi ý tôi nên ghé vào. Vì tất cả giấy và bút tôi mang theo đều đã hết nên tôi ghé vào hiệu sách để mua thêm.
[43] Nhà kinh tế học.
Trả tiền xong và đã quay người đi, một cái gì đó kéo tôi quay lại hỏi người bán hàng – cũng là người chủ tiệm sách – rằng tại sao cửa hàng của ông ấy lại có tên “The Economist”. Người bán hàng hào hứng giải thích với tôi rằng cửa hàng của ông ấy là “đối tác” với tạp chí The Economist nổi tiếng. Tôi nói “ oh très bien, excellent magazine [44] ” và giải thích thêm với ông ấy rằng, hồi còn học đại học ở Hà Nội, tôi theo học ngành ngoại thương, thế nên hồi đó tôi đọc The Economist hằng tuần. Quả thật, hồi những năm từ 1995 đến 1997, khi Internet còn hiếm, tôi thường mua những bản The Economist, Time và Newsweek từ cửa hàng bán sách báo cũ trên phố Bà Triệu để học cái gọi là “tiếng Anh thương mại” và thỉnh thoảng dịch một bài tôi thích cho các báo Việt Nam. Hồi đó, tùy vào báo đã cũ một tuần hay hai tuần mà tôi sẽ trả hai ngàn đến mười ngàn đồng một tờ, và khi dịch xong một bài, tôi có thể được trả tứ tám mươi đến hai trăm ngàn đồng. Đấy là một trong những cách kiếm tiền đầu tiên của tôi ở đại hoc, trước khi tôi tìm ra những cách khác nhanh hơn và nhiều hơn.
[44] Ồ, hay quá, một tạp chí tuyệt vời.
Ông chủ hiệu sách rất vui khi biết rằng tôi đọc The Economist ở Việt Nam. Ông tặng tôi một cuốn sổ nhỏ có chữ “The Economist” bên ngoài làm kỷ niệm. Thấy ông vui tính, tôi lấy cuốn Những người khốn khổ trong túi ra hỏi xem ông có biết “the Pepienere” với phố Rue I’Ouest ở đâu không. Ông nói nó ngay bên đường kỳa cô kỳa, chính là cái hàng cây cắt phẳng đó, cô nhìn thấy chưa?
Trời ơi, tôi đã loanh quanh luẩn quẩn ở đó mấy lần; đã nằm đó mà đọc sách; thậm chí đã nằm ở đó để tra bản đồ tìm chính nó. Thật không thể tin được.
Nhưng lần này, rõ ràng không có bóng dáng anh hùng ca phố Xanh Đờ Ni nào. Tôi cũng không hy vọng nhiều ở Maison de Victor Hugo.
Lúc 5 giờ chiều, từ cửa sổ tầng ba căn nhà Victor Hugo nhìn ra, Place des Vosges – cái công viên nhỏ hình chữ nhật có nhiều hàng cây dẻ xanh lá và những ghế băng dài – không một bóng người. Mưa đã ngớt nhưng mặt trời vẫn khuất sau mây và mặt đất trong công viên có những vũng nước nhỏ như những chiếc gương xám. Căn phòng tôi đang ngồi này có sàn gỗ, với những tấm rèm màu đỏ sẫm và thảm tường treo quanh phòng. Một cái gương, một bức tượng bán thân của Hugo và sáu bức tranh lớn trên tường trong đó có một bức vẽ Hugo và con trai mà tôi quen thuộc. Giữa phòng có hai tủ kính lớn báy bản tin đầu tiên của các tập thơ và kịch của Hugo: Lá thu, Ánh sáng và những cái bóng, Chàng hề của nhà vua . Có cả hai cái kiếm sắt cùng một số huân chương, mề đay được bày trong phòng.
Ba phòng liền kề căn phòng này hơi kỳ cục, nếu không muốn nói là xấu. Một căn phòng trưng bày rất nhiều đĩa sứ và đồ cổ từ phương Đông; tường nhà cũng được sơn và trang trí bằng sơn mài hoặc chất liệu gì đó, khiến cho căn phòng trở nên nặng nề, ngột ngạt. Thậm chí có cả một bức tượng Phật Bà Quan Âm bằng sứ và một số đồ sứ minh họa các điển tích trong văn hóa Trung Hoa. Căn phòng tiếp theo có một cái bàn lớn ở chính giữa phòng, xung quanh là ghế và các tủ gỗ - đây là phòng ăn hoặc phòng hút xì gà. Phòng tiếp theo là phòng làm việc, nơi Hugo viết. Căn phòng chỉ có vài cái ghế, bút, lọ mực và một tủ sách. Kế đến là phòng ngủ. Căn phòng rất tối và lạ lùng – tường phủ thảm đỏ, và cái gường thì hết sức nhỏ; không thể tưởng tượng cái giường búp bê đó lại có thể chứa một con người như Hugo.
Từ lúc vào Maison de Hugo đến lúc này, tôi không hề có cảm giác rằng Hugo từng sống ở đây. Không một đồ vật nào gợi lên tinh thần của ông, khí chất của ông. Thứ duy nhất mang lại một chút liên hệ là những tấm kính màu nhỏ xíu ở các cửa sổ dọc cầu thang dẫn lên căn nhà. Và ở cái chiếu nghỉ giữa tầng hai và tầng ba có một tượng thần Cupid bằng đồng đen tinh nghịch nhìn xuống; tôi cứ nghĩ nếu cái tượng này đã ở đó từ lúc còn Hugo, thì thần Cupid xinh xắn kia đã chứng kiến Hugo đi lại trên cầu thanh này nhiều năm. Hugo hẳn là sẽ dừng lại ở cái chiếu nghỉ này mà nhìn qua những vuông cửa sổ nhỏ ra ngoài.
Nhưng ngoài hai chi tiết ấy, cả căn nhà là một cổ vật không linh hồn, không tính cách.
Ở Maison de Victor Hugo ra, trời bắt đầu nhá nhem tối và mưa xối xả. Không có ô nên tôi đành đứng lại trong mái hiên của khu nhà mà lúc nãy một nghệ sĩ piano đường phố có tên Yuri Klempert đang chơi nhạc. Tôi bỏ 1 euro để yêu cầu ông chơi bản Raindrops (Những giọt mưa) của Chopin. Rồi tôi yêu cầu vài bản nhạc nữa của Liszt và Tchaikovsky. Bên ngoài, mưa tiếp tục trút, khác hẳn những cơn mưa lây rây mấy hôm trước. Nước mưa chảy ròng ròng từ mái hiên xuống thành một bức rèm nước; ngoài công viên không một bóng người; chỉ có tiếng piano thánh thót lẫn tiếng mưa trong hành lang lớn bao bọc cả khu nhà này.
Tôi ngồi khoảng ba mươi phút thì một cô gái rất đẹp cũng ghé vào tránh mưa và cũng bỏ tiền để yêu cầu nghe Beethoven.
Thế rồi, giữa lúc mưa ngày một nặng hạt, một thanh niên chạy một chiếc xe Yamaha dừng lại dưới hiên. Cậu ta rất trẻ, có lẽ khoảng mười tám hay hai mươi tuổi. Cậu ta mặc một cái áo da đen với quần bò đen bó sát và giày da đen cao cổ kiểu nhà binh, dây buộc còn lòng thòng. Lúc mới tới, cậu ta đội mũ bảo hiểm nhưng giờ thì đã bỏ mũ ra ôm trước ngực. Lúc mới xuống khỏi xe, cậu ta bồn chồn, vừa hút thuốc vừa trầm ngâm nhìn ra ngoài trời mưa nặng hạt như sợ rằng sẽ không kịp đến một cuộc hẹn nào đó, nhưng sau khi hút hết điếu thuốc, cậu có vẻ bình tĩnh lại, rồi bỏ mũ xuống yên xe và giờ thì đang hướng về phía Yuri Kemplert để nghe nhạc. Lúc nãy tôi chỉ thấy khuôn mặt nhìn nghiêng của cậu ta, giờ thì tôi thấy cả khuôn mặt.
Tôi chưa bao giờ nhìn thấy Ma-ri-uýt trong Những người khốn khổ , nhưng nếu Ma-ri-uýt hiện ra bằng xương bằng thịt thì chắc sẽ có khuôn mặt của chàng trai này.
Và cái ý nghĩ tự nhiên tiếp theo, mà không, đó không phải ý nghĩ, nó là một cảm giác tự nhiên mà tôi cảm thấy bằng cả cơ thể: tôi yêu chàng trai này, không phải như yêu sự tái hiện của Ma-ri-uýt mà như chính cậu ấy, chàng trai Paris xa lạ này. Giá tôi có thể mời cậu ấy đi ăn tối. Giá mà có thể ngồi bên cạnh cậu ấy ăn một bữa tối, như hai người xa lạ, và cậu ấy có thể nói gì hoặc không nói gì cũng được, có thể hiểu tôi hoặc không hiểu tôi, có thể biết về tình yêu của tôi hoặc không biết cũng được, tôi không bận lòng. Chỉ cần được ngồi cạnh nhau ăn một bữa tối; tôi sẽ chấp nhận khoảng trống ở giữa để đổi lấy cái việc ở gần cậu ấy vào một chiều mưa thế này; như lúc này tôi đã đang chấp nhận khoảng trống giữa tôi với cậu ấy, với cô gái đẹp kia và với Yuri Klempert.
“Anh có thể đi ăn tối với tôi không?”
Như thế có kỳ cục quá không? Có rẻ tiền quá không? Tôi đang làm đúng cái việc mà người bán sách và “nhà khoa học sở hữu thuyết giãn nở vũ trụ” đã làm với tôi. Những cơn bốc đồng này? Chúng là lỗi của Paris hay của tôi? Nhưng mà thực sự, tôi ước gì tôi có đủ dũng cảm mà nói với cậu ấy “Anh có thể đi ăn tối với tôi không?”
Anh có thể đi ăn tối với tôi không?
Nhưng tôi là một kẻ hèn nhát, đã luôn là một kẻ hèn nhát trong những tình huống thế này. Thế nên tôi chỉ tiếp tục nghe nhạc và viết những dòng này vào sổ trong lúc vẫn theo dõi Ma-ri-uýt của tôi qua đuôi mắt. Ma-ri-uýt cũng đang theo dõi tôi – có lẽ cậu ấy đang tự hỏi không biết tôi viết gì, và chắc không thể ngờ rằng tôi đang viết về cậu ấy.
Người yêu Paris của tôi. Mon coeur . Tôi yêu cậu nhiều hơn cậu biết.
Trời vừa đổ một cơn mưa nặng hạt mới. Yuri Klepert đang chơi Pathetique của Beethoven và Ma-ri-uýt của tôi lại lo lắng nhìn ra trời mưa. Tôi mong trời ngớt mưa để cậu ấy kịp đến cuộc hẹn với Cô-dét của cậu ấy.
Đi đi, và hãy yêu cô ấy thật nhiều. Tôi sẽ không ghen.
Paris, ngày…
Francesca đã về Milan, Julia đã đi Nice, tôi đã chuyển sang phòng ở mới và có ba người bạn mới: Amy người Seattle, Tristan người Anh, và một phụ nữ trung niên bí ẩn người Canada. Amy là sinh viên ngành chính trị và quan hệ quốc tế tới Paris một năm theo chương trình trao đổi sinh viên; Tristan cũng là sinh viên đang đi du lịch. Còn người phụ nữ Canada to béo thì tôi hoàn toàn không biết lai lịch và cũng không biết lý do chị ấy tời Paris làm gì và tại sao lại có mặt ở cái khách sạn sinh vên này.
Rất nhiều người tới Paris để mua sắm. Nhiều cô gái đặc biệt tới Paris chỉ để mua sắm và ngắm thời trang. Nhưng mua sắm không nằm trong danh sách các việc tôi muốn làm khi tới Paris, và sự thật là chưa bao giờ nằm trong danh sách các việc tôi muốn làm ở bất cứ đâu. Từ hôm đến Paris, tôi chưa hề bước chân vào một cửa hàng quần áo giày dép nào mặc dù đã ngắm nghía từ xa những cửa hàng thời trang trên Rue de Royale và Rue St-Honoré. Nhưng chiêm ngưỡng cái đẹp và sự thanh lịch Paris vậy thôi, chứ tôi không có ham muốn mua những quần áo ấy mang lên người. Cho đến hôm nay, tôi mới chỉ lên một cơn shopping khi tôi gặp một cửa hàng bán sách và băng đĩa cũ ở số 20 phố Thánh Michel. Cũng ở đây lần đầu tiên tôi thấy phiền lòng với việc mình không biết tiếng Pháp và đành bất lực nhìn những dãy sách cũ như người đi trên sa mạc thấy nước mà không được uống. Có một số tên sách và tác giả ở khu “Poche Romantique” và “Romans Poche” là quen thuộc, như Barbara Taylor Bradford hay Danielle Sterk và “Arts Humor Theatre Poesie Cinema” có nhiều đầu sách mà tôi lờ mờ đoán được tên sách nhưng không thể biết thêm các tác giả Pháp viết gì, style ra sao.
Tuy thế, khi đọc sách du lịch về khu chợ trời Clignancent bên quận 18, nơi người ta bán “thượng vàng hạ cám”, tôi nhất định phải tới xem. Như giới thiệu thì đây là chợ trời lớn nhất trên thế giới, có rất nhiều thứ chỉ có thể kiếm được ở đây, và chỉ mở vào thứ Bảy, Chủ nhật và thứ Hai.
Sáng nay, khi tôi chuẩn bị ra ngoài, Amy và Tristan hỏi tôi đi đâu; tôi nói “chợ trời” và Amy lập tức vùng dậy muốn đi cùng; nhưng vì Amy còn phải tắm gội, ăn sáng, và trang điểm rất lâu nên cô ấy bảo tôi cứ đi trước, với lời dặn:
“Khi nào tới nơi, em sẽ tìm chị rồi mình cùng mua sắm hay ăn trưa.”
Nhưng bây giờ, khi đang ở trong chợ rồi, tôi nhận thấy không có cách nào Amy có thể tìm ra tôi trong cái chợ trời lớn này. Khu chợ gồm rất nhiều các khu vực bán đồ khác nhau, chia theo thể loại, và đúng là bán thượng vàng hạ cám, bất cứ cái gì mà người ta có thể nghĩ tới, từ búp bê, kim chỉ, tranh ảnh, bàn ghế, đèn, đồ uống trà, đồ nhà bếp, đồ trên bàn ăn, thắt lưng, quần áo thời trang cổ xưa, găng tay, dây đeo chìa khóa, sách, cây cảnh, đĩa, đài quay đĩa cổ, thậm chỉ cả quan tài và bia mộ. Và mỗi một thứ đồ được bày thành khu riêng; như khu bán kim chỉ có cả vài đường ngách ngắn chỉ bán đủ các thứ kim chỉ, len, sợi cho những người thích khâu, may, đan lát.
Trong chợ trời ở Clignancourt có thượng vàng hạ cám. Đây là những bao diêm đủ loại (Paris)
Khi viết những dòng này, tôi ngồi ở góc cắt giữa Allée 3 (Ngách 3) và Allée 4 (Ngách 4) của Marche Antiques, khu chợ bán đồ cổ. Những ngách này chằng chịt khắp chợ, giống những đường làng nhỏ và ngắn, làm thành một ma trận. Vào đến đây, tôi mới thấy mình hoàn toàn sai lầm khi cho rằng mình không phải là người thích mua sắm. Tôi có thể ở đây cả ngày để đi khắp chợ bởi vì thực tế là tôi đã ngồi cả tiếng vừa rồi để đọc các postcard trong một cửa hàng bán postcard cũ. Tôi dĩ nhiên chỉ có thể đoán lờ mờ nội dung những tấm thiệp. Có một loạt thiệp từ một người đàn ông đang đi du lịch ở Ấn Độ vào năm 1063 gửi cho bạn ở Marseille; rồi một xấp thiệp từ một ông mục sư đều đặn hàng tháng gửi cho vợ từ châu Phi, kể những chuyện “safari” và bệnh “syphilis”. Có nhiều tấm thiệp gửi từ Việt Nam về Paris từ thời Đông Dương, với những hình phố cổ Hà Nội, vịnh Bắc Bộ, chợ Đồng Xuân, hay các cô gái Sài Gòn – Gia Định. Tôi bỏ 50 xu mua một tấm thiệp gửi từ Hà Nội năm 1926 từ một thanh niên pháp có vẻ đang rất nhớ nhà:
Georges thân mến,
Từ một xứ sở rất xa xôi mình gửi đến bạn những lời chúc cho năm mới 1926 và không phải không có những nỗi buồn. Mình đã nhớ nhà nhiều hơn mình tưởng.
Tuy nhiên mình cưỡi ngựa một giờ mỗi buổi sáng và bạn biết đó là một trong những niềm say mê lớn của mình. Có điều, suốt dọc đường, mình chỉ thấy cảnh ruộng lúa khá đơn điệu.
Khi cưỡi ngựa bạn có thể có ý niệm về nông nghiệp tại đất nước này; điều không may là bạn chẳng thể biết thêm gì chính xác vì một cách tự nhiên, tất cả những cánh đồng lúa đều ngập nước và người ta làm việc trong điều kiện như vậy.
Mình ở đây rất bận rộn (toàn chuyện pháp lý, ban hành luật lệ) và không còn lúc nào để đi săn. Còn bạn thì sao?
Hãy viết cho mình vài chữ, mình sẽ rất vui; nó mang tới cho mình chút hương của mảnh đất mình yêu hết lòng.
Thân ái
Ôm hôn từ một người bạn đã không quên bạn.
Những tấm thiệp đều đã ố vàng, nước mực đen nhem nhuốc, được đựng trong một cái hộp gỗ có lẽ cũng có tuổi đời hàng trăm năm. Tất cả những người gửi thư này giờ đã chết. Georges có lẽ đã chết. Người gửi thư cho Georges cùng với nỗi nhớ nhà và những ký ức Việt Nam của anh ta cũng đã chết.
Tất cả những gì còn lại của họ đang được bán ở đây, với giá 50 xu. Họ có lẽ không bao giờ hình dung những tấm thiệp riêng tư lại ra chợ, xếp lẫn trong những bưu thiếp của hàng ngàn người khác. Ngồi đọc những tấm thiệp này giống như được mở những cánh cửa bí mật vào cuộc đời của những người xa lạ trong quá khứ và quan sát những chuyện đời vô danh đã trôi qua không ai ghi chép, kể lại.
Tôi may mắn làm sao khi còn đang sống đây, còn đang hít thở và đi lại. Càng may mắn hơn nữa vì tôi đang ở Paris vào một ngày như hôm nay; trời đã hửng nắng sau nhiều ngày mưa rả rích.
Đã trưa rồi và chợ ngày càng đông người tới mua sắm, trong đó có rất nhiều du khách Mỹ, người nào cũng hớn hở túi lớn, túi nhỏ. Chính tôi, mặc dù đã huy dộng tất cả ý chí và lý do, vẫn cứ mua ba cái áo thun mỏng cao cổ, hai cái mũ nồi (cùng với một bài học về cách đội mũ kiểu Paris từ người bán hàng Ấn Độ), một cái áo khoác mùa thu màu đen. Tất cả đều là đồ rẻ tiền nhưng lại rất đẹp. Ba cái áo có cổ đề giá 5 euro một cái nhưng tôi mua cả ba với giá 10 euro; cái áo khoác chỉ 23 euro. Tôi phải cố gắng lắm mới cưỡng lại được ham muốn mua giày cao gót và bốt vì chúng đẹp mà rẻ, một đôi bốt chỉ chừng 20 euro. Quả thực, ngay cả những đồ gia công bán ở chợ trời Paris cũng rất đẹp. Điều này thì Mỹ không bằng.
Rời khỏi khu chợ trời, tôi lên tàu số 4 rồi lên xuống bến Chateau Rouge của khu Montmartre. Lên khỏi bến, từ đầu tiên nảy lên trong óc tôi là “đen”. Người da đen ở khắp nơi; nhưng không phải kiểu người da đen đã bị Mỹ hóa qua hàng trăm năm như tôi thấy ở Chicago. Đây là những người da đen vẫn còn gần với châu Phi, có lẽ mới nhập cư từ các thuộc địa cũ của pháp. Cả phố dài dẫn từ bến tàu lên đến đỉnh đồi Montmartre san sát các hiệu làm đầu cho người da đen và của người da đen. Những bộ tóc giả đủ màu sắc trưng dọc các cửa kính đều là tóc của người da đen. Ở cuối một con đường hẹp, tôi leo mấy trăm bậc thang dọc theo Rue Foyatier để lên đỉnh đồi, chỗ có Sacré-Coeur Basilica.
Bên ngoài thánh đường Scacré-Coeur ở khu Montmartre của Paris
Lúc này, trời nắng rực rỡ và người tràn ra ngồi khắp các bậc đá dẫn lên Basilica trong lúc các nghệ sĩ đường phố chơi nhạc rộn rac. Từ chỗ này có thể nhìn xuống toàn cảnh Paris… với những khối nhà mái xám, sông Seine và các đại lộ. Một thanh niên da đen đang vừa chơi guitar vừa hát bài I’ll survive trong lúc những khuôn mặt đẹp đẽ quanh tôi cứ ngửa lên hứng nắng và ôm lấy nhau. Trông ai cũng rạng ngời hạnh phúc và thảnh thơi.
Chiều tối nay, trên đường từ Basilica Sacré-Coeur xuống, tôi đi sau một đôi nam nữ đang khoác tay nhau bước chậm. Giữa con đường lát đá dốc xuống phía dưới, họ đột nhiên đứng lại hôn nhau như thể không có ai ở xung quanh. Mà quả thực là ngoài tôi thì không còn ai khác xung quanh thật. Tôi bước ngang qua họ như thể không hề biết là có người đang hôn nhau cạnh mình. Ở cuối con đường dốc, trước khi rẽ phải, tôi lén liếc nhìn lại. Đôi bạn trẻ vẫn đang hôn nhau, trời ơi! Nghĩa là họ đã hôn nhau không ngừng ít nhất là năm phút vừa rồi. Nhưng mà, quả thật, ở những bậc thềm dẫn lên Basilica, các đôi tình nhân cũng hôn nhau say đắm; thực tế là khắp Paris tôi đi, người ta hôn nhau như không biết có ngày mai. Mà không phải những cái hôn ngớ ngẩn, nụ hôn nào cũng dài.
Trời ơi, tôi cũng muốn hôn.
Thực sự, ở Paris, không thể không nghĩ về tình yêu. Paris tôn thờ tình yêu – yêu như cách giải thoát duy nhất, yêu như biểu hiện cao nhất của sự duy mỹ, yêu như không thể tưởng tượng nổi một cách sống nào khác hơn.
Trời ơi, tôi cũng muốn hôn.
Rời Montmartre, tôi bắt tàu về lại khách sạn. Vừa rời khỏi bến tàu Hôtel de Ville, cái không khí “nghệ sĩ” của Montmartre vừa ngấm vào tôi đã lập tức bị không khí rạo rực của khu Marais phủ nên. Lúc này, một cái chợ trời nhỏ vừa được mở ngay góc phố Rue de Rivoli; bày đầy những khúc xúc xích óng mỡ, những tảng thịt quay vàng, những tủ gà vịt rôti ngồn ngộn, khoai tây nướng trồng cao, rau củ quả la liệt, cộng với rất nhiều pho mát, bơ, bánh mỳ, rượu vang… cả một biển màu săc, mùi vị làm người ta ứa nước bọt.
Tôi mua một chùm nho và một nửa con gà quay nhỏ rồi trở về phòng. Nhưng gần đến cửa khách sạn, tôi nhìn thấy mấy bà sơ mặc áo thụng trắng thong thả bước từ căn nhà kế bên khách sạn vào nhà thờ đối diện. Tôi đã ở khách sạn này cả tuần và nghe chuông nhà thờ hằng ngày mà không biết gì về nhà thờ này, vậy là tôi đi theo họ.
Vừa vào qua cửa, tôi lập tức đứng lại nín thở và từ đó bắt đầu phải rón rén bước. Mỗi lần cái túi đựng nho và gà quay của tôi lạo xạo là tôi rúm lại chờ sấm sét giáng xuống đầu. Hóa ra đây là nhà tu Thánh Gervais thuộc cộng đoàn Jerusalem; và lúc đó trong nhà tu đang có buổi cầu kinh theo kiểu ngồi im (the silent mass). Tất cả các tu sĩ đều mặc áo thụng dài, nữ thì màu xanh nhạt hoặc trắng, nam thì màu đen; họ ngồi xếp thành nhiều hàng, cúi đầu im lặng trước bàn thờ Chúa. Cả nhà tu không một tiếng động. Chỉ có những bóng người ngồi im lặng nói chuyện với Chúa bằng ý nghĩ trong lúc ánh nắng cuối ngày rọi từng vệt màu lên những bức tường xám bằng đá cẩm thạch. Thật khó tin là ở ngay bên ngoài những tấm kính màu và những trụ tường xám đó, ở phía bên phải là Rue de Rivoli với một cái chợ trời đang náo nhiệt người mua bán và bên trái là con đường chạy dọc sông Seine lúc nào cũng đầy xe.
Buổi cầu kinh trong nhà tu Thánh Gervais thuộc cộng đoàn Jerusalem, đối diện khách sạn tôi ở
Paris có quá nhiều màu sắc, quá nhiều mảng miếng, nhiều góc khuất, nhiều tiếng nói khác nhau. Paris là một biển ấn tượng không ngừng thay đổi. Paris bắt người ta phải chăm chú ngắm nhìn. Và càng nhìn càng bị mê hoặc. Giờ thì tôi hiểu tại sao Paris là thành phố của nghệ thuật; nhất là vì sao hội họa Ấn tượng đã ra đời và phát triển ở nơi đây. Cả thành phố như một palette màu vô biên cho người nghệ sĩ.
Những ngày này, ở Paris, tôi thực sự không thể quan tâm được tới nơi nào khác. Tôi đã hầu như cắt đứt giao tiếp với thế giới bên ngoài, với thế giới cũ. Vào các buổi sáng trước khi ra ngoài, hoặc vào đêm, trước khi đi ngủ, tôi vẫn xuống nhà, bỏ 2 euro vào cái máy tính của khách sạn để kiểm tra email trong mười phút. Thỉnh thoảng có email của Sơn; “ở nhà vẫn bình thường” – anh viết. Có cả một đống thư từ Nhà xuất bản – họ đang làm bìa và biên tập nội dung lần cuối cho tập truyện ngắn sắp xuất bản của tôi. Nhưng tôi thậm chí cũng không quan tâm được tới cuốn sách của chính mình. Cuộc sống cũ có vẻ như ở rất xa, thâm chí không có thật.
Mai là Chủ nhật. Tôi không có kế hoạch gì cả. Tôi dành cho mình niềm vui kiên nhẫn chờ xem sáng mai, khi tỉnh dậy, Paris gợi ý với tôi điều gì.
Paris, ngày Chủ nhật…
10:42 sáng: Đứng viết trên cầu Royal Port – cầu bắc qua sông Seine từ vườn Tuileries sang bảo tàng Orsay. Tôi vẫn không thể nào get enough of the Seine [45] . Mỗi lần qua sông, tôi lại đứng lại nhìn và lại choáng voáng. Vào lúc này, từ chỗ tôi đứng, bên trái là bảo tàng Orsay, bên phải là vườn Tuileries, phía trước mặt là vòm kính màu xanh lá mạ nhạt của Gare du Nord đang ánh lên trong ánh nắng (hay là Gare Saint-Lazare? Không chắc lắm). Tôi quay người và thấy hai ngọn tháp kiêu hãnh của Nhà thờ Đức Bà, vòm tròn của Pantheon, những cây cầu bắc ngang sông Seine, những ngôi nhà dọc sông, hàng dương liễu dưới sông và dĩ nhiên là màu nước sông Seine. Vẫn là cảnh đã nhìn nhiều lần, vậy mà lần nào cũng mới và vẫn không đủ.
[45] Cảm thấy đã nhìn đủ sông Seine.
Mưa rơi cả đêm qua nhưng đến sáng nay thì ngừng và bây giờ mặt trời đang sắp sửa ló ra. Trời nhiều mây, nhưng xuyên qua những đám mây thấp là một vài khoảng xanh nhạt. Ở đường chân trời, phía Gare du Nord, nắng chiếu chéo lên các nóc nhà, thắp sáng cả khoảng thành phố bên đó. Dưới sông, các thuyền du lịch chạy đều đặn; khách đứng đầy ở ngoài boong, nhìn lên vẫy vẫy tay, tôi cũng vẫy tay đáp lại. Tuy thế, trừ những con thuyền dưới sông, thành phố vắng vẻ lạ thường, Paris còn chưa dậy. Từ sáng tới giờ, những người Paris duy nhất mà tôi nhìn thấy là những người chạy bộ trong vườn Tuileries và dưới con đường bê tông dọc sông Seine (họ gần như mặc đồng phục Abercrombie và Fitch). Không có những dòng xe ô tô. Không có khách du lịch nườm nượp trên phố. Các quầy bán sách dọc sông không mở. Đây là một Paris khác – yên tĩnh, hơi ảm đạm, hơi ngái ngủ… - nhưng vì thế mà càng quyến rũ.
Người ta bảo “ngày nào ở Paris cũng là Chủ nhật”. Tôi không đồng ý. Tôi nghĩ phải sửa lại: “Ngày nào ở Paris cũng là thử Bảy; còn ngày Chủ nhật ở Paris là ngày Chủ nhật ở Paris”. Bần thần, ít nhất là vào những giờ sớm của buổi sáng, thành phố rửa sạch son phấn trang điểm và lộ khuôn mặt mộc của nó. Một vẻ hoài niệm cổ điển bao trùm, khiến cho người ta đột nhiên cũng trở nên trầm mặc và muốn xích lại gần nhau. Trên metro không người buổi sớm, tôi ngồi đối diện một chàng trai có vẻ là sinh viên Sorbonne. Anh ta liếc tôi, khi tôi nhận ra và liếc lại thì anh ta lại quay đi. Buồn cười. Thật dễ dàng để bắt đầu một romance ở Paris. Thành phố này giống như một bãi mìn, à không, nói thế thì dễ nghĩ đến phân chó khắp nơi; thành phố này giống như là một bãi cỏ khô được đánh tơi, chỉ cần một cái liếc mắt cũng có thể bốc thành một ngọn lửa. Bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào.
3:02 chiều: Viết từ Café A Bonaparte, 42 Rue Bonaparte, 75006, Paris.
Đã gọi một thứ đồ uống có tên café crème, chocolate maison và một món có tên Mixte Ourf et Omelettes. Họ vừa mang ra một cái chén sứ trắng đựng chocolate dạng xi rô và một cái bình sứ đựng cái gì đó có bọt trắng ở trên, bốc hơi nữa. Tôi đoán là sữa nhưng không chắc. Cách phục vụ đồ ăn ở Paris khác với ở Mỹ nên nhiều khi cũng không biết chắc là mình gọi được món gì.
Quán café này nằm trong quảng trường Thánh Germain des Pres, góc cắt giữa Rue de Rennes và Rue Bonarparte. Tôi ngồi ở một cái bàn phía bên ngoài vỉa hè. Từ chỗ này, nhìn thẳng ra nhà thờ Thánh Germain (thực ra không biết tên chính xác, tôi gọi tạm như vậy) và cách hai mươi mét phía trước mặt là quán café Les Deux Magots, chỗ mà Hemingway, Fitzgerald và nhiều người viết thuộc Thê Hệ Mất Mát thường ngồi vào thập kỷ 20 của thế kỷ trước. Bên cạnh café Magots là Café de Flore, nơi Jean Paul Satre viết The Road To Freedom (Đường tới tự do) và Simon de Beauvoir [46] hay ngồi chờ Satre. Ngay trên vỉa hè phía bên ngoài hai quán cà phê này có một cái cột sắt nhỏ, trên có tấm biển viết đại khái như vậy.
[46] Nhà triết học, nhà văn nữ quyền và hiện sinh của Pháp, đồng nghiệp và người tình của Satre.
Tấm biển bên ngoài hai quán Café Deux Magots và Café de Flore
Tôi đã định vào bên trong café Deux Magots nhưng quán quá đông nên tôi đi sang bên café Bonaparte. Tôi sẽ ngồi đây, have fun [47] vào một buổi chiều Chủ nhật lười biếng bằng cách viết phác vài thứ thế này.
[47] Vui chơi
3:24 chiều: Vừa ăn xong món omelette.
Người ta bảo quảng trường Thánh Germain des Pres là một trong những nơi tuyệt vời nhất ở Paris để ngắm người qua lại. Chắc ngày thường thì chỗ này đông lắm. Nhưng hôm nay là Chủ nhật, đường phố vắng vẻ hơn nhiều. Trời lại có vẻ sắp mưa nữa. Tuy thế, quanh chỗ tôi ngồi, không ai có vẻ lo lắng đến chuyện trời nắng hay mưa. Họ cứ đủng đỉnh ngồi ăn bữa trưa muộn (giờ là 3:33 chiều rồi), uống cà phê, hút thuốc, đọc báo và dĩ nhiên cứ hôi hổi tuôn ra những tràng tiếng Pháp du dương. Bên phải tôi, một người phụ nữ châu Á đứng tuổi (có lẽ là người Philippines) đang uống espresso trong một cái tách trắng bé xíu; bà ta mặc cocktail dress màu đen, đánh phấn rất đậm, mang kính to che gần nửa khuôn mặt và đeo một cái vòng bạc lớn ở cổ tay. Bà ta có cái vẻ của một thương nhân thành đạt mà bạn thấy bước vào các cửa hàng với vẻ mặt lạnh lùng và các cô phục vụ phải xô ra đón tiếp. Bà ta ngồi một mình – thực tế là tôi và bà ta là hai người duy nhất ngồi một mình.
Bên tay trái tôi là một người đàn ông Pháp ngồi với một người phụ nữ - cả hai uống bia Corona. Trông họ như là người tình đã nhiều năm rồi, biểu hiện vừa có cái yêu chiều lại vừa thân mật, tin tưởng, tức là vừa là người yêu vừa là bạn đường. Trước mặt tôi là hai đôi vợ chồng trẻ - ngồi quay lưng lại nên tôi không thể quan sát kỹ được. Chênh chếch là ba học sinh trung học vừa hút thuốc vừa uống cà phê đen và giải ô đố chữ trên báo Chủ nhật. Lại tự hỏi: đàn ông Pháp bắt đầu học các phép tắc phòng trà từ năm lên mấy?
Hôm nay, nhiều cửa hàng trên phố đóng cửa. Trên đường đến đây, tôi lần đầu tiên nhìn thấy những người vô gia cư và ăn xin của Paris. Nói chính xác thì hôm qua, hôm kia tôi cũng đã nhìn thấy họ ở Montmartre, ở khu Clignancourt, ở dưới bến tàu điện… nhưng những người này bị nuốt chửng trong biển người nườm nượp trên các đường phố Paris. Còn hôm nay, Chủ nhật, khi các đường phố hoàn toàn vắng vẻ, đột nhiên những người vô gia cư và ăn xin này nổi lên trên nền chính như những dân cư chính thức của thành phố thay vì chỉ là người tạm trú hoặc phần tử bên lề. Trông họ như những ông hoàng và bà chúa trên những con đường mang tên các vị thánh: Thánh Dominique, Thánh Germain, Thánh Này và Thánh Nọ.
Người vô gia cư và ăn xin thì chỗ nào trông cũng giống hệt nhau, dù là Paris hay Chicago hay Boton. Họ luôn cuộn một tấm chăn lớn quanh người, quây những hộp các tông rỗng thành pháo đài xung quanh mình, chất đầy quần áo cũ và đồ đạc trong một cái xe chở hàng lấy được ở một siêu thị nào đó. Họ chiếm đóng một cái cửa kính ăn sâu vào tường của một cửa hàng trên phố, để tránh gió mà vẫn không quá xa đám đông đi lại trên phố. Và họ có thể ngủ bất cứ lúc nào, trong bất cứ tư thế nào.
5:44 chiều: Viết từ trong vườn Lugxembourg. Đang ngồi ở thảm cỏ giữa những hàng cây được tỉa thẳng tắp, cạnh cổng ra đường Thánh Michel – chính là cái chỗ Pierpene mà tôi mất bao công mới tìm ra. Ngồi xung qunh tôi chủ yếu là sinh viên Sorbonne và học sinh từ Lycée Saint Louis [48] . Từng nhóm đứng, ngồi, nằm trên cỏ, ăn, uống, nói chuyện, đánh bài, ném đĩa, đọc sách và dĩ nhiên hút thuốc. Từ đêm qua, cổ họng tôi đã bắt đầu rát, chắc là vì hít quá nhiều khói thuốc lá ngoài đường phố. Nhưng ở Paris, không thể tránh khỏi khói thuốc lá.
[48] Một trường học nổi tiếng, chuyên đào tạo sinh viên để chuẩn bị vào hệ thống đại học lớn (Grandes Ecoles) của Pháp.
6:13 chiều: Nói thật, tôi đã ngừng đọc sách từ mười lăm phút trước mặc dù vẫn nhìn vào trang sách. Nguyên nhân một đôi tình nhân vừa đến ngồi cạnh tôi. Chàng trai ngồi hướng mặt về phía tôi – có một khuôn mặt rất cute; mặc jean với một cái áo phông màu hồng nhạt (trông không hề gay); còn cô gái ngồi quay lưng lại tôi nên tôi chỉ biết là cô gái có tóc dài màu hạt dẻ, người mảnh mai. Trong mười lăm phút vừa rồi, họ chỉ làm một việc là hôn nhau. Tôi dĩ nhiên không nhìn… thì tôi đang đọc sách mà, nhưng tôi vẫn có thể theo dõi sự việc.
Tôi ngồi trên một cái ghế sắt cạnh bồn nước lớn trong vườn Luxembourg đọc Những người khốn khổ của Victor Hugo. Một ngày mùa thu nắng nhạt
Sự việc diễn ra như thế này:
Đầu tiên, chàng trai áp hai tay vào khuôn mặt cô gái rồi nói gì đó có vẻ rất chậm và ngọt ngào ( trời ơi ), rồi sau đó hôn vào tóc cô gái ở phía bên ngoài tai phải, sau đó thì hôn đến vành tai, sau đó thì cụng trán vào trán cô gái và giữ như vậy khoảng mấy phút. Sau đó thì đến màn hôn môi. Không biết là bên trong thì thế nào còn từ bên ngoài thì có thứ tự như thế này:
Đầu tiên có rất nhiều những sự mút nhẹ vào môi dưới, sau đó là đến môi trên, sau đó là đến khóe miệng, rồi sau đó là cả miệng, rồi sau đó thì có vẻ là hai cái lưỡi quấn vào nhau… sau đó thì hai bên nghiêng đầu để đổi tư thế sang bên kia… và rồi lặp lại quy trình từ chỗ mút nhẹ vào môi dưới… cứ thế… cứ thế… và cứ thế… suốt 15 phút vừa rồi.
Trong lúc này, một nhóm hai mươi sinh viên đi ngang qua và không một ai thèm nhìn. Xung quanh tôi, cũng không ai nhìn. Thì tôi cũng đâu có nhìn; tôi đang đọc sách mà.
Ngay sau khi kết thúc tràng hôn đầu tiên thì đôi tình nhân này lại bắt đầu tràng hôn thứ hai. Có vẻ như là màn Frech cancan này còn tiếp diễn lâu nên tôi sẽ tiếp tục đọc sách vậy.
6:40 chiều: Đôi bạn đã đi rồi. Màn French cancan miễn phí của tôi đã hết.
6:51 chiều: Một cô gái trẻ vừa đi ngang qua tôi, vừa đi vừa nói chuyện trên điện thoại di động và khoa tay trong lúc nói. Mảnh dẻ, da trắng nhưng có tàn nhang, tóc buộc lỏng lẻo trên đỉnh đầu, để xòa xuống mặt. Mặc một cái áo len mỏng không tay màu xanh lá cây, váy ngắn màu trắng, bốt ngắn bằng da đen loại mềm. Chắc chắn là cô gái này không quá mười tám tuổi. Nhưng nhìn cái dáng đi và cử chỉ mà xem. Cô gái này đã có tất cả sự duyên dáng và quyến rũ của một người đàn bà thuần thục. Đôi môi hơi bĩu ra và cong lên trong lúc nói chuyện – đôi môi hoàn toàn sẵn sàng để hôn cũng như để cãi nhau với bạn trai. Eo nhỏ như của một vũ nữ ballet, đồng thời lại vẫn thoáng cái xương xẩu, gày gò của một đứa bé gái chưa lớn hết. Mũi cao và kiêu hãnh. Không biết những người con gái Paris học sự quyến rũ chết người của họ từ đâu?
7:25 tối: Mặt trời đang lặn dần phía sau cây thông cao đúng chính giữa bãi cỏ. Thảm cỏ này xanh lạ lùng, là thứ cỏ ngắn màu xanh non giống cỏ sân golf chứ không phải cỏ mật… khiến cho cái vòng tròn này giống như một ốc đảo mà ngay bên ngoài hàng rào sắt là đường phố Paris lúc này chật người ngồi trong các quán cà phê vỉa hè. Nhưng cái ấn tượng nhất là cách tất cả mọi người đều kéo ghế ngồi thành vòng cung quanh bãi cỏ, mặt hướng về mặt trời và để bóng họ đổ dài ra phía sau. Người thì đọc sách, người thì nói chuyện, người thì vẽ, nhiều người chỉ ngồi im.
11:30 tối: Hôm nay, tôi tìm ra con đường tối ưu để đi từ vườn Luxembourg về khách sạn: thoát ra bằng cổng trên đường Thánh Michel, sau đó đi thẳng Rue Soufflor hướng về Pantheon, đến phố Thánh Jacques thì rẽ trái và cứ đi thẳng cho đến lúc gặp sông Seine và Nhà thờ Đức Bà. Phố Thánh Jacques là một con đường dốc, như đi xuống đồi. Khi đi dọc phố, có thể nhìn thấy mặt trời lăn trên nóc Nhà thờ Đức Bà.
Tất cả mọi người đều kéo ghế ngồi thành vòng cung quanh bãi cỏ, mặt hướng về mặt trời
Tôi cũng phát hiện ra trong vườn Luxembourg có tượng Stendhal và George Sand.
Ghi ở lề: Nhận thấy là khi đi bộ dọc phố Thánh Jacques, có hơi đánh hông. Cái này là tại đôi giày hay tại Paris? Có lẽ là Paris. Có cái gì đó của Paris khiến người ta muốn đi chậm lại và đánh hông một chút trong lúc bước.
Ngày nào cũng đi ngang Nhà thờ Đức Bà trên đường về khách sạn, vậy mà vẫn không chán.
Đã sụt hơn một cân.
Nhân nói đến giày, hông, và sụt một cân, tôi phải thừa nhận một điều: không thể ở Paris mà không lây cái tinh thần duy mỹ của Paris. Tôi không phải người thích làm đẹp, cũng không biết cách làm đẹp, và cái đời sống học thuật trong những năm qua ở Mỹ càng làm cho việc làm đẹp tụt hạng trong thứ tự ưu tiên của tôi. Thế mà từ hôm đến Paris, tôi cũng để ý đến ăn mặc hơn. Hôm trước, tôi còn mặc một cái áo hở bụng khi đi ăn tối với Kai - điều mà tôi không bao giờ làm ở Mỹ hay Việt Nam.
Đấy là lỗi của Paris. Ở Paris, tất cả những người đàn ông, đàn bà, những con đường, sông Seine, những hàng cây, những hiệu sách, thậm chí cả những thùng rác cũng nói với bạn: phải đẹp. Phải đẹp như một cách để thể hiện tình yêu với người khách, với trời đất, với cuộc sống, và với chính mình. Đẹp như một trách nhiệm. Đẹp như một cứu cánh và một quyền tự nhiên nhất.
Thôi thì tôi cũng sẽ cố gắng làm đẹp, để ít nhất không làm xấu Paris. Tôi sẽ làm đẹp để cho tương xứng với hạnh phúc mà tôi cảm thấy trong những tháng ngày một mình ở thành phố này.

Phan Việt
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mười bảy và những cơn mưa đầu hạ

Mười bảy và những cơn mưa đầu hạ Tiếng thầy giảng chồng lên tiếng mưa, cứ êm êm và nhạt nhòa. Buổi đầu ở một lớp học thêm mới nên Việt Anh...