Vứt lên trời nỗi buồn xám xịt, những
áng mây nặng nề trôi về chiều. Bầy chim xanh hung dữ kết thành dải lụa quái dạng
vắt qua những ngọn đồi thấp lúp xúp xếp thành hình dích dzắc hai bên cánh đồng.
Cánh đồng bé tẹo không tên bị đánh thức bởi những tán phượng đỏ ối trải dọc
theo triền suối phả ra cái nóng hừng hực nung chín những bông lúa cong quẹo,
vàng ươm.
Giáp biên cánh đồng là rừng hổn giao, nơi
có những lùm tre gai xanh dìu dịu điểm xuyết cho bộ mặt ủ rũ của đám cây dầu
làm nổi bật lên con lộ đỏ chót màu đất. Con lộ có vẻ yếu đuối ốm tong ốm teo
nhưng cõng trên vai nó hàng ba, bốn chục nóc nhà lá, một tàu ngựa tổ chảng và
vài ba chuồng trâu, bò cùng với năm bảy ụ rơm to tướng. Cao hơn cả là chùa
làng. Đó là ngọn đồi khá đẹp có nhiều loài hoa, làm nền cho nó là đỉnh Bà Nà
hùng vĩ phía xa xa. Người ta thành kính dựng lên đó một ngôi chùa khá khang
trang, mái cũng lợp lá nhưng là lá mây sáp chắc chắn và bền bỉ có thể cằn cựa
với mưa nắng hàng chục năm trời.
Chùa dành hai phòng để dạy học cho con em
trong xóm. Có nhiều lớp cùng học chung một phòng. Cha mẹ chúng đóng học phí
cho chúng bằng những ngày làm công quả trên chùa, nếu không có công thì đóng
hiện vật. Nói chung là có gì đóng nấy, ấy vậy mà nhiều đứa trong đám học trò
quê này cũng đỗ đạt đàng hoàng như ai. Thầy thì trẻ như anh, chẳng phải tiểu
mà cũng chẳng phải sư. Thầy là những học trò lớn tuổi của làng, thầy cũng muốn
làm người lớn nên ưa xoa đầu bọn trẻ, cái bọn khét lẹt mùi nắng gió, mùi mũi
dãi, mùi bùn sình mà dễ dạy.
Duy nhất ở cái làng này là ngôi đình được lợp
ngói âm dương, rường cột bằng gỗ mun bóng lựng. Phía trước sân đình là tấm
bình phong xây bằng gạch thẻ nung chạm hình con hổ đang diễu võ giương oai.
Cái đình thì bé tẹo mà cái sân thì quá rộng chứa cả dân làng còn dư. Đó là chỗ
cho gánh hát bội vô danh nào đó ghé ngang vét những đồng bạc khó của vụ mùa vừa
thu hoạch. Cũng có tường rào bao quanh sân diễn nhưng là vỏ thùng giấy, bao tải
cũ, vải bạt rách, dây nhợ giăng ngang, giăng dọc nhí nhố vậy mà chẳng có ai
xé rào vào coi cọp bao giờ. Chỉ bọn trẻ con là phá phách nhất làng nhưng
chúng cũng chả thèm làm cái chuyện ruồi bu ấy. Chúng leo lên hai cây đa thuộc
hàng phải cung kính mà người xưa trồng làm cổng đình ngồi xem thỏa thích mà
chẳng cần quan ngại ai. Chúng cười hí hố khi thấy ai đó thay áo quần, vẽ mắt
môi. Chúng la ó khi cô đào nào đó ôm chầm ông kép nưng niu cái chỗ mà tụi nó
chưa bao giờ được nghe ai nói bao giờ.
Con suối là mạch sống chính của làng, người
ta dành chỗ sâu nhất làm bến tắm ngựa. Những con ngựa hằng ngày phải đi về nhiều
cây số để nối nơi đìu hiu này với chợ Hàn là thị tứ tấp nập màu lính mặc dù
quãng đường chỉ đủ để nhai dập miếng trầu. Bên trên bến tắm ngựa là bến tắm của
làng. Cứ đận chiều là trai tráng quy tụ về đây tắm giặt, đàn bà con gái cũng
léng phéng ra đó gánh nước, gội đầu, liếc dọc liếc ngang. Con suối ban ngày
yên ắng là thế nhưng ban đêm thì chằng chịt tiếng cười, tiếng thầm thì của
người pha lẫn tiếng động cỡn của bọn ếch nhái, nhất là những đêm không trăng.
Lũ đom đóm ngứa nghề xách đèn chạy tới, chạy lui dọc theo đường làng để coi mặt
bọn đực cái lén lút tâm tình đâu đó.
Làng không có tên, người ta gọi tên làng
theo nhận định của người qua đường là ở đây gió mát rười rượi khi ai đó là du
khách lần đầu tiên đến nơi này. Rời chân khỏi con tàu nóng như lửa của khối sắt
biết đi kia người ta sẽ được thưởng thức thứ không khí trong lành đến tinh
khiết, thứ gió mát đến không ngờ. Eo Gió có tên từ đó. Nó cũng là tên làng và
tên ga. Nói là ga chứ chẳng thấy ai buôn bán gì bởi các chuyến tàu qua đây chỉ
dừng lại dăm phút để ăn củi, uống nước, cho ai đó lên xuống rồi lại vút đi.
Ga là thế, còn tàu là những cỗ máy hơi nước xập xà xập xệ, trầy tróc
lung tung. Chúng có tuổi đời hàng trăm năm già, chạy chậm như rùa, bọn trẻ
con trèo lên nhảy xuống dễ như không. Cả đoàn tàu chỉ có một toa hàng chợ chứa
đủ mọi loại mắm muối, thịt cá từ miền xuôi chở lên miền ngược còn lại là những
toa hàng quân dụng. Thời chiến nên tàu lúc nào cũng lúc nhúc lính. Ngứa tay,
ai đó thả một băng đạn lên trời, khơi khơi vậy nhưng cũng làm cho lũ con nít
khoái chí vỗ tay rào rào.
Đạn bom nghe riết hóa nhàm. Vài ba cây cầu
sập, vài ba tiếng mìn, dăm chiếc xe tăng banh xác đâu đó cứ sao mà dửng dưng.
Mấy cái hòm phủ cờ ba sọc theo tàu chạy lên, chạy xuống giống nhau như đúc diễn
ra hằng ngày, họa hoằn lắm mới thấy ai đó rơi nước mắt đau xót. Sống chết sao
mà bình thường đến lạ, vô tư đến lạ. Nhà bên kia đám tang, nhà bên đây đám cưới
âu cũng là chuyện thường tình. Người ta dễ dàng khóc bên này, cười bên kia một
cách vô tư. Buồn đó, vui đó chưa xanh mộ chồng thì đã chung chạ chiếu giường,
bầu bì đã lum lúp. Chiến tranh hình như không thể ngăn cản sự rậm rựt của
trai gái, của đàn ông, đàn bà. Chết như rạ dân số vẫn tăng vù vù, tăng đến
chóng mặt. Dân mình ăn thuở ở thì đã quen, sống với thiên nhiên trần trụi đã
quen nên tình ái cũng phải thiên nhiên mới thích thú và bọn trẻ con cứ thế mà
ung dung chào đời.
Ở cái làng này không có công trình nào là
quan trọng nên chẳng có bốt đồn nào canh phòng. Ban đêm chỉ có tốp dân vệ
quanh quẩn ở sân ga nhậu nhẹt, đánh bạc là chính nên cái xóm đìu hiu ấy vẫn cứ
mãi đìu hiu. Đìu hiu đến nỗi chỉ có một cái quán xập xệ mọc bên cạnh ga, quán
của Út nhỏ. Chồng chết trận đâu tận Tây Nguyên, nó bảo thế thì người ta nghe
thế. Cũng có thể nó bảo thế để người ta gờm cái mác cô nhi quả phụ để nó dễ bề
làm ăn hay chăng? Nói gì thì nói nhưng chẳng ai dại mà đụng vào cô nhi quả phụ.
Đó là cái cớ để cho cánh thương binh quậy phá, đặt yêu sách này nọ với chính
quyền sở tại. Họ nhân danh kẻ bảo vệ những người vợ của các chiến sĩ đã tử trận
bằng các loại vũ khí hạng nặng như cánh tay cụt, cái chân què hay mù cả đôi mắt.
Đó là bức tường đồng mà chẳng mấy đội quân nào hăng hái húc đầu vào.
Cái quán vô thừa nhận ấy là chỗ duy nhất
tiêu thụ những con gà bị bệnh, gù rù chờ chết. Những con gà mà thuốc đạn M16
trộn với nước tỏi, nước hành cho uống cũng chẳng ăn thua gì. Hồi đó người ta
gọi căn bệnh này là gà phải gió khi thời tiết thay đổi giữa hai mùa mưa nắng
chớ có biết H5N1, N2 gì đâu nên thiên hạ cứ thịt và đánh chén tuốt luốt.
Út nhỏ có cái quy định bất thành văn là gà
sống thì mua thoải mái đã đành, gà chết cũng mua nhưng phải làm lông sạch sẽ
rồi mới đem tới quán cho nó. Ai dám khẳng định là con gà đã làm lông sạch sẽ
đó là không chết vì bệnh, vì toi và không có vi trùng? Không ăn thì thôi, đừng
có bẻm mép mà vạ dính mồm. Đã thế, có ai chết vì ăn phải thịt gà này của
nó đâu, bằng chứng hiển hách là bọn dân vệ vẫn mập ú ra đó thôi.
Chỉ có dân làng này là biết tỏng mọi chuyện
nhưng họ cũng chẳng ngán, họ cũng xơi tất tật còn đám lưu linh thì càng không
thể khô mỏ. Ai đó nói ra, nói vào thì đám con ông Trời này vẫn cười khinh khỉnh:
“Mẹ kiếp, nước sôi cả trăm độ thế kia con quái nào sống được, sá gì ba
con vi trùng bé tẹo”, và chúng vẫn ngửa cổ hào sảng dzô dzô hằng đêm.
Út nhỏ ở trọ cuối xóm, trong cái hốc bà tó
phía sau đồi chùa, cạnh nhà thằng Độ. Ruộng rẫy chẳng có gì, nó hẳn là dân nhập
cư trẻ nhất trong cái làng già nua cú đế này. Nghe đồn nó là đứa con vụng trộm
của mẹ nó với ông trưởng ấp ở quê, còn quê nó ở đâu thì có Chúa may ra mới biết.
Vừa sinh ra, mẹ nó quẳng nó trước cổng chùa rồi đi biền biệt. Lớn lên nó trốn
chùa rồi trôi giạt vào xứ này, nó chẳng hề biết mặt cha mẹ cũng như tên họ của
nó là gì. Cái tên Diệu Hương mà nhà chùa ban cho nó cũng đã mốc meo từ hồi nảo
hồi nào. Cái tên nghe tinh khiết quá, không thể đặt lên cái thân xác hừng hực
nhục dục của nó. Nó cố quên, quên luôn sự bao dung quý giá của nhà chùa để
vào đời cho thanh thản.
Út nhỏ chắc là cái tên của ai đó gọi riết
thành quen. Nhỏ thó, lanh lợi, gian xảo nhưng kín đáo là biểu tượng của đám
di dân tự do trong thời chiến. Út nhỏ có nét đẹp hừng hực của ngọn lửa, thứ lửa
của gốc tre già khô khốc, đanh chắc, trùng trục màu thời gian của miền Trung
chó ăn đá gà ăn sỏi. Thứ lửa đó đốt thép cũng chảy, đốt sắt cũng tan huống
chi là ruột gan của đám dân vệ, lực lượng hèn nhất của chế độ Việt Nam Cộng
hòa. Út nhỏ thích tắm giặt khi tiếng gà còn ngái ngủ. Nó nhóm bếp bắc nồi nước,
cởi trần ra rồi ngồi sau nhà mà tắm thỏa thích. Nó bảo quê nó miệt biển nên
chỉ cần mặc mỗi cái xì líp, xu chiêng là ung dung long nhong khắp xóm mà chẳng
phải suy tư gì.
- Quen riết thành tật, tắm dzậy mới khoái;
mà nữa, trời tối in ỉn thế kia ai mà thấy gì.
Có bữa bọn nhậu trêu nó:
- Tui thấy hàng hiếm của bà rồi, sáng
nay.
Út tỉnh queo:
- Dóc... dữ cha nội, rình hả?
Rồi như sợ mất lòng khách quen nó kề tai gã
dê xồm thì thào:
- Thấy... có đã không. Quỷ sứ?
Thằng bợm cũng đỏ rần hai lỗ tai con khỉ đột,
cười the thé kiểu mắc dịch. Nhiều lúc con Út cũng chơi nghịch, nó giả bộ vô
tình đưa tay sờ nắn dây nịt vú căng cứng của nó làm cho cánh đàn ông líu
quíu, mặt mũi tối sầm. Nó nổi tiếng dữ từ hôm lia con dao bay phéng ngón tay
thằng nhậu chùa. Cả làng bênh nó, kẻ thương tích tiu nghỉu ôm bàn tay máu biến
tiệt. Bênh nó cũng phải, bởi nó nhỏ nhẹ từng lời với bà con chòm xóm, chưa mặt
nặng mày nhẹ với ai bao giờ, cho mượn cho vay mà chẳng hề lấy lãi xu nào, cả
làng mắc nợ nó. Không bênh nó mới là lạ.
Buôn bán phọt phẹt thế mà vàng đeo đỏ tay mới
ngộ, mấy kẻ ác miệng ác mồm bảo con Út làm tiền với đám ăn bạc. Thằng Độ
không nghĩ thế, nó nhìn con Út bằng cái nhìn phục lăn. Đứa con trai mới lớn
như nó phải theo mấy ông anh dân vệ ra ngủ nhà làng bởi ông trưởng ấp từng
hăm he: “Tụi mày tính theo Việt Cộng hay sao mà ngủ ở nhà”. Cha nó bảo nó cứ
đi đi cho biết người biết ta. Vậy là đêm nào nó cũng quấn tấm chăn màu lông
chuột ra ngồi ngơ ngơ ở quán con Út, xem bọn dân vệ đánh bài, uống rượu. Lâu
lâu lén nhìn Út nhỏ vậy thôi, thế mà con Út cũng bắt bí:
- Nhìn gì trân trân dzậy cưng, sao
không ăn uống gì... chê đồ của Út hả?
Thằng Độ xấu hổ muốn chết, nó nghĩ chắc hai
vành tai nó đỏ rần như mào gà chọi, may sao có ai đó chở che :
- Nè nè đừng thấy trai tơ mà tơm tớp nghe
gái già, tội dụ dỗ vị thành niên xé lịch không nổi đâu bà cố. Tui mà ghen tui
đốt quán à nha.
Út nhỏ cười, nụ cười rất đĩ:
- Chẳng lẽ dụ ông?
Rồi nó nắm tay thằng Độ kéo vô ngồi lên chiếc
giường thơm phức mùi đàn bà của nó như thách thức. Chiếc giường là chỗ ban
ngày nó dùng để chất hàng, ban đêm để ngủ. Ni lông giăng tứ phía nhà để cho ấm
hay chống mưa gió nhưng có gió thì lại phát ra tiếng kêu lạch bạch rất gợi,
thằng Độ nghe cũng vui vui.
- Ngồi đây đi cưng, chị nói này cho nghe...
Mà nó có nói gì đâu, nó dọn bánh tráng thịt
luộc, rau sống ra bảo thằng Độ ăn khuya. Nó cuốn cho thằng Độ một cuốn to tướng
rồi níu bàn tay thằng Độ đặt vào, nó bảo:
- Ăn đi cục cưng của Út, ngồi với mấy ông xỉn
đó làm gì, mai mốt quen mùi cuốc mấy đất cũng không đủ rượu.
Lơ ngơ thế nào mà thằng Độ quên chấm nước mắm
cứ thế mà nhai lạt. Út nhỏ cười như phải thụt lét, nhìn thằng Độ khiêu khích:
- Biết yêu rồi hả, thấy cưng là tui nhớ bồ...
sứt cạp...
- Biết hộc máu chết liền.
- Thề chi mà độc dữ rứa. Ngựa non sao chẳng
thấy háu...
Thằng Độ lí nhí trong lòng:
- Sao bà biết không háu... Tui biết tỏng,
bà chẳng có bạn bè quái quỷ nào đâu thèm đực muốn chết. Chồng mổng chồng mông
thì có. Chồng rồi sao ngực cứ vun như núi thế kia...!
Thằng Độ kín đáo nuốt nước bọt. Người ta bảo
gò má con Út cao nên sát chồng đứa nào va vào thì phải vạ. Ấy nên chồng nó
nhanh đứt bóng là vậy, chẳng kịp để lại hậu duệ nối dõi tông đường. Cuốn bánh
thứ hai cho thằng Độ con Út gắp mắm bỏ vào luôn, nhiều quá, mặn chát, thằng Độ
nhìn nó trân trân. Nó lại nhìn xuống ngực mình. Từ đó đêm nào thằng Độ cũng lảng
vảng quanh nó, không ăn gì thì tán gẫu. Con Út nói chuyện có duyên đáo để,
cái răng khểnh dễ thương làm sao, thằng Độ ngồi nghe chuyện mà mặt cứ đực ra.
Hôm nào cũng vậy, trước khi đóng quán con
Út đều bảo thằng Độ mai ra uống cà phê rồi hẳn đi làm. Thằng Độ không trông
mong gì, cũng không mừng, nó nghĩ con Út thấy nhà nó nghèo nên thương hại rồi
nói thế chứ lý nào một cô gái đẹp có của ăn, của để như con Út mà lại
sà vào chia sớt gian nan với nó bởi nó từng chứng kiến nhiều hôm chỉ có hai đứa,
con Út vẫn ngồi thừ ra nhìn mưa rơi mà chẳng thèm bộc lộ một cử chỉ yêu
thương nào. Một sự liên tưởng không lô gíc nhưng suốt ngày cứ lởn vởn trong đầu
thằng Độ. Hình bóng của Út nhỏ như ai dán trước mắt nó, nó mong sao đêm nhanh
đến để nó được ngồi bên khối nam châm hừng hực lửa tình ấy mà nhìn ngắm vu
vơ.
Nó tập uống rượu, chẳng khó khăn gì bởi mùi
rượu đâu xa lạ với nó nhưng chỉ vài ly thôi là đầu óc nó đã nhảy lambada rồi.
Con Út chẳng nói chẳng rằng, có vẻ không thích. Mặc. Nó uống tới mửa mật
xanh, mật vàng con Út vẫn điềm nhiên. Nó buồn. Cả tuần sau nó không đến quán,
con Út nhắn hết người nọ, người kia cũng chẳng kết quả gì. Con Út đành qua
nhà làng tìm nó, nhìn nó nằm chèo queo trên tấm phản lạnh ngắt, con Út chạnh
lòng:
- Dậy đi, Út nè... Đàn ông con trai gì mà
làm nũng ra nước, qua quán uống rượu.
- Thôi, ông già ngầy rồi.
- Sợ thiệt hả, sao tui nói hổng nghe.
- Thì đang nghe mà.
- Nghe sao hổng ngồi dậy.
Thằng Độ chống tay uể oải tính ngồi dậy,
con Út quàng tay qua lưng nó nâng nó lên.
- Ôm tui đi cha nội.
- Có ai thấy không?
- Kệ...
Nó cầm tay con Út mân mê, hình như tay nó
run run. Bất ngờ, con Út hôn cái chụt lên má nó rồi mất hút sau màn đêm. Tiếng
lành đồn xa, tiếng dữ cũng đồn xa, cha thằng Độ giận lắm, ông đánh nó một trận
thừa chết thiếu sống. Nó bỏ làng ra đi, năm đó nó mười bảy tuổi, Út nhỏ hai
mươi. Nó vào rừng.
Phan Thành Minh
Theo http://vannghedanang.org.vn/
|
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét