Thi sĩ Đinh Hùng (1920-1967) là một nhà
thơ tình nổi tiếng thời tiền chiến. Ngoài việc ký tên thật Đinh Hùng, ông còn
dùng bút hiệu Thần Đăng khi làm thơ châm biếm và Hoài Điệp Thứ
Lang khi viết tiểu thuyết.
Ông sinh ngày 3 tháng 7 năm 1920 tại làng Phượng
Dực tỉnh Hà Đông (nay thuộc Thủ đô Hà Nội), là con út của cụ Hàn Phụng. Thuở nhỏ
ông theo học bậc tiểu học tại trường Sinh Từ, rồi bậc trung học tại trường Bưởi
(Hà Nội).
Sau khi đậu “Cao đẳng tiểu học” hạng bình thứ
và được học bổng theo ban chuyên khoa để thi tú tài bản xứ thì “thần Ái
tình đã hiện đến cùng một lúc với sự thành công đầy hứa hẹn trên” (theo lời kể
của ông Vũ Hoàng Chương), khiến ông bỏ ngang đi viết văn, làm thơ.
Thi sĩ Đinh Hùng
Năm 1943, ông theo sống với chị là bà Thục
Oanh. Cũng năm này, ông cho xuất bản tập văn xuôi “Đám Ma Tôi” và
đăng thơ trên Hà Nội Tân Văn của Vũ Ngọc Phan, Giai Phẩm Đời Nay của nhóm Tự Lực
Văn Đoàn… Nhưng ông thật sự bắt đầu nổi tiếng với bài thơ “Kỳ Nữ” mà
Thế Lữ chọn in trong truyện “Trại Bồ Tùng Linh”.
Năm 1944, ông Vũ Hoàng Chương cưới bà Thục
Oanh rồi về Nam Định, thi sĩ Đinh Hùng ở lại Hà Nội và cho ra đời giai phẩm “Dạ
Đài”, với sự cộng tác của một số bạn như Trần Dần, Trần Mai Châu, Vũ Hoàng Địch,…Cũng
trong năm này, Đinh Hùng tản cư theo báo Cứu Quốc. Sau đó, ông về Thái Bình dạy
học cùng người vợ mới cưới, Nguyễn Thị Thanh. Khi ấy, ông Vũ Hoàng Chương và vợ
cũng đang tản cư về ở nơi đó.
Năm 1949, ông cùng vợ con trở lại Hà Nội. Tại
đây ông cho ấn hành giai phẩm “Kinh Đô Văn Nghệ” (1952) và tập thơ “Mê
Hồn Ca” (1954).
Tháng 8 năm 1954, ông cùng vợ con vào Sài
Gòn, lập ra tờ nhật báo “Tự Do”, có sự cộng tác của Tam Lang, Mặc Đỗ, Mặc
Thu, Như Phong,…
Năm 1955, nhật báo trên đình bản, ông cộng
tác với Đài Phát Thanh Sài Gòn, giữ mục Tao Đàn, chuyên về thơ ca, cho đến hết
đời.
Trong những năm tháng ở Sài Gòn, Đinh Hùng viết
tiểu thuyết dã sử “Cô Gái Gò Ôn Khâu”, “Người Đao Phủ Thành Đại La” và
làm thơ trào phúng trên báo Tự Do, báo Ngôn Luận.
Năm 1961, ông cho in tập “Đường Vào Tình
Sử” – tác phẩm này được trao giải thưởng Văn Chương Thi Ca năm 1962.
Năm 1962, ông cho ra tuần báo Tao Đàn Thi
Nhân, nhưng mới phát hành được 2 số thì ông mất lúc 5 giờ sáng ngày 24 tháng 8
năm 1967 tại bệnh viện Bình Dân, Sài Gòn, vì bệnh ung thư gan.
Sau khi ông mất, nhà xuất bản Giao Điểm cho
phát hành tác phẩm “Ngày Đó Có Em” vào ngày 16 tháng 10 năm 1967.
Ngoài những tác phẩm vừa kể trên, Đinh Hùng
còn có 8 tác phẩm chưa xuất bản: “Tiếng Ca Bộ Lạc” (thơ), “Tiếng Ca Đầu
Súng” (hồi ký), “Dạ Lan Hương” (văn xuôi), “Sử Giả” (tùy bút), “Vần Điệu Giao
Tình” (cảo luận) và 3 kịch thơ: “Lạc Lối Trần Gian”, “Phan Thanh Giản”, “Cánh
Tay Hào Kiệt”.
Thi phẩm “Tự Tình Dưới Hoa” (Thi sĩ Đinh
Hùng)
Chưa gặp em, tôi vẫn nghĩ rằng:
Có nàng thiếu nữ đẹp như trăng,
Mắt xanh lả bóng dừa hoang dại,
Thăm thẳm nhìn tôi, không nói năng
Có nàng thiếu nữ đẹp như trăng,
Mắt xanh lả bóng dừa hoang dại,
Thăm thẳm nhìn tôi, không nói năng
Bài thơ hạnh ngộ đã trao tay,
Ôi mộng nào hơn giấc mộng nàỷ
Mùi phấn em thơm mùi hạ cũ,
Nửa như hoài vọng, nửa như say
Ôi mộng nào hơn giấc mộng nàỷ
Mùi phấn em thơm mùi hạ cũ,
Nửa như hoài vọng, nửa như say
Em đến như mây, chẳng đợi kỳ
Thương hàng gió núi động hàng mi
Tâm tư khép mở đôi tà áo,
Hò hẹn lâu rồi — Em nói đi
Thương hàng gió núi động hàng mi
Tâm tư khép mở đôi tà áo,
Hò hẹn lâu rồi — Em nói đi
Em muốn đôi ta mộng chốn nào
Ước nguyền đã có gác trăng sao
Chuyện tâm tình: dưới hoa thiên lý,
Còn lối bâng khuâng: ngõ trúc đào
Ước nguyền đã có gác trăng sao
Chuyện tâm tình: dưới hoa thiên lý,
Còn lối bâng khuâng: ngõ trúc đào
Em chẳng tìm đâu cũng sẵn thơ,
Nắng trong hoa, với gió ven hồ
Dành riêng em đấy. Khi tình tự,
Ta sẽ đi về những cảnh xưa
Nắng trong hoa, với gió ven hồ
Dành riêng em đấy. Khi tình tự,
Ta sẽ đi về những cảnh xưa
Rồi buổi u sầu, em với tôi
Nhìn nhau cũng đủ lãng quên đời
Vai kề một mái thơ phong nguyệt,
Hạnh phúc xa xa mỉm miệng cười
Nhìn nhau cũng đủ lãng quên đời
Vai kề một mái thơ phong nguyệt,
Hạnh phúc xa xa mỉm miệng cười
Thi khúc “Mộng Dưới Hoa” (Nhạc sĩ Phạm
Đình Chương)
(Lời 1):
Chưa gặp em, tôi vẫn nghĩ rằng
Có nàng thiếu nữ đẹp như trăng
Mắt xanh lả bóng dừa hoang dại
Âu yếm nhìn tôi không nói năng
Có nàng thiếu nữ đẹp như trăng
Mắt xanh lả bóng dừa hoang dại
Âu yếm nhìn tôi không nói năng
Ta gặp nhau yêu chẳng hạn kỳ
Mây ngàn gió núi đọng trên mi
Áo bay mở khép nghìn tâm sự
Hò hẹn lâu rồi em nói đi
Mây ngàn gió núi đọng trên mi
Áo bay mở khép nghìn tâm sự
Hò hẹn lâu rồi em nói đi
Nếu bước chân ngàn có mỏi
Xin em dựa sát lòng anh
Ta đi vào tận rừng xanh
Vớt cánh rong vàng bên suối
Xin em dựa sát lòng anh
Ta đi vào tận rừng xanh
Vớt cánh rong vàng bên suối
Ôi hoa kề vai, hương ngát mái đầu
Đêm nào nghe bước mộng trôi mau
Gió ơi gởi gió lời tâm niệm.
Và nguyện muôn chiều ta có nhau.
Đêm nào nghe bước mộng trôi mau
Gió ơi gởi gió lời tâm niệm.
Và nguyện muôn chiều ta có nhau.
(Lời 2):
Tôi cùng em, mơ những chốn nào
Ước nguyện chung giấc mộng trăng sao
Sánh vai một mái lầu phong nguyệt
Hoa bướm vì em nghiêng cánh chao
Ước nguyện chung giấc mộng trăng sao
Sánh vai một mái lầu phong nguyệt
Hoa bướm vì em nghiêng cánh chao
Hy vọng thơm như má chớm đào
Anh chờ em tới hẹn chiêm bao
Dưới hoa tưởng thấy ngàn sao rụng
Hoa lệ ân tình môi khát khao
Anh chờ em tới hẹn chiêm bao
Dưới hoa tưởng thấy ngàn sao rụng
Hoa lệ ân tình môi khát khao
Bước khẽ cho lòng nói nhỏ
Bao nhiêu mộng ước phù du
Ta say thành mộng nghìn thu
Núi biếc sông dài ghi nhớ
Bao nhiêu mộng ước phù du
Ta say thành mộng nghìn thu
Núi biếc sông dài ghi nhớ
Ôi chưa gặp nhau như đã ước thề
Mây hồng giăng tám ngã sơn khê
Bóng hoa ngả xuống bàn tay mộng
Và mộng em cười như giấc mê.
Mây hồng giăng tám ngã sơn khê
Bóng hoa ngả xuống bàn tay mộng
Và mộng em cười như giấc mê.
Bên dưới mình có các bài:
– Đinh Hùng, người làm thơ tình kiệt xuất
– NHẠC SĨ PHẠM ĐÌNH CHƯƠNG
– NHẠC SĨ PHẠM ĐÌNH CHƯƠNG
Cùng với 10 clips tổng hợp thi khúc “Mộng
Dưới Hoa” do các nghệ sĩ xưa và nay diễn xướng để các bạn tiện việc tham
khảo và thưởng thức.
Mời các bạn.
Túy Phượng
Đinh Hùng, người làm thơ tình kiệt xuất
Hữu Đạt
“Ngát một vườn thơm nhạc cảm hoài
Lâng lâng hồn tưởng thoát trần ai.
Chia đôi thân xác tiên liền tục,
Nghe lắng tiền thân trở gót hài”
Lâng lâng hồn tưởng thoát trần ai.
Chia đôi thân xác tiên liền tục,
Nghe lắng tiền thân trở gót hài”
Như đáp lại lòng mong mỏi của khách yêu thơ,
trong quý II năm 1995, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn (Hà Nội) đã cho tái bản tập thơ
MÊ HỒN CA của thi sĩ Đinh Hùng. Việc làm ấy, lại một lần nữa, xác nhận thi tài
của nhà thơ này. Thi phẩm Mê Hồn Ca được Nhà Xuất Bản Tiếng Phương Đông Hà Nội
in lần đầu năm 1954, nhà sách Khai Trí Sài Gòn tái bản năm 1970 và lần này là lần
in thứ ba. Tập thơ đầu tay này của Đinh Hùng đã từng gây xôn xao một thời trong
thi giới không chỉ vì tài hoa của tác giả mà còn vì những nét lạ lùng kỳ bí
trong thơ.
Tháng 7 năm 1995, Nhà Xuất Bản Văn Học Hà Nội
lại cho tái bản tập thơ ĐƯỜNG VÀO TÌNH SỬ của Đinh Hùng. Hai Nhà xuất bản của
Nhà nước vào loại lớn nhất nước này đã tái bản thơ Đinh Hùng cho thấy thơ anh
giá trị nhường nào.
Trên đây là bốn câu thơ tuyệt mệnh mà Đinh
Hùng đã viết tại Trà Hoa trang Gia Định cuối mùa hạ năm 1967, không lâu trước
ngày anh đi vào cõi vĩnh hằng.
Đinh Hùng là con trai của cụ Hàn Phụng, một
gia đình trung lưu ở làng Phượng Dực, tỉnh Hà Đông (nay là Hà Nội), nhưng từ
lâu đã ra lập nghiệp tại Hà Nội. Đinh Hùng được hoài thai năm 1919 tại
Philippines nhưng lại ra đời ở Việt Nam ngày 3 tháng 7 năm 1920 tại trại Trung
Phụng gần tòa Khâm Thiên giám cũ ở Hà Nội. Đinh Hùng là con út của một gia đình
gồm sáu anh chị em: anh cả là Đinh Lân, các chị là Loan, Yến, Hồng, Oanh. Chị
Đinh Thục Oanh chỉ lớn hơn Đinh Hùng một tuổi, kết duyên cùng thi sĩ Vũ Hoàng
Chương.. Mới hơn mười tuổi, Đinh Hùng phải chịu liên tiếp ba cái tang: năm 1931
người chị thứ ba là Tuyết Hồng, một nữ lưu tân tiến, hoa khôi của Hà Nội, mới
mười tám tuổi xuân đã tự vẫn tại hồ Trúc Bạch vì hờn giận tình duyên. Mấy tháng
sau, thân phụ anh đau nặng rối thất lộc, tuổi chưa đến 50. Ba năm sau nữa đến
lượt người chị lớn nhất, tên Loan, cũng qua đời, tuy đã lập gia đình nhưng hãy
còn trẻ lắm. Những cái tang buổi thiếu thời ấy đã ảnh hưởng rất nhiều đến tâm
tính của Đinh Hùng nên thơ anh thường đượm vẻ ảm đạm bi thương đến tê tái cả
tâm hồn.
Thuở bé Đinh Hùng học trường Tiểu học Sinh Từ,
rồi trường Trung học Bảo Hộ tức trường Bưởi, đậu bằng Cao đẳng Tiểu học hạng
Bình thứ nên được cấp học bổng để theo học ban chuyên khoa. Nhưng một ngày đẹp
trời kia ái tình bỗng nhiên chợt đến:
Có chàng mang lòng thương
Đi dạo muôn con đường.
Một hôm dừng trước mộng,
Yêu nàng tên Tần Hương.
Đi dạo muôn con đường.
Một hôm dừng trước mộng,
Yêu nàng tên Tần Hương.
(Tần Hương – Đường vào tình sử)
Người đẹp ấy tên là Kiều Hương, nhưng Đinh
Hùng sợ gây rắc rối cho nàng khi đi lấy chồng nên sửa lại là Tần Hương. Mối
tình ấy của Đinh Hùng tuy là mối tình đầu nhưng không sâu sắc lắm và chỉ là
tình đơn phương nên khi nàng đi lấy chồng, Đinh Hùng cũng không buồn lắm:
Ngày em mới bước chân ra,
Tuy rằng cách mặt, lòng ta chưa sầu.
Tuy rằng cách mặt, lòng ta chưa sầu.
(Bài hát mùa thu – ĐVTS)
Nhưng dù sao thì đó cũng là kỷ niệm buổi đầu
đời nên không dễ gì dứt được mối tơ vương:
Tần Hương ơi Tần Hương,
Tên nàng như hoa đẹp.
Chàng là bướm tơ vương,
Nên chàng là Hồ Điệp.
Tên nàng như hoa đẹp.
Chàng là bướm tơ vương,
Nên chàng là Hồ Điệp.
(Tần Hương – ĐVTS)
Do đó về sau, khi viết tiểu thuyết, Đinh Hùng
ký bút hiệu Hoài Điệp Thứ Lang.
Mối tình thứ hai mới thực sự mãnh liệt và ghi
dấu ấn suốt đời trong tâm khảm nhà thơ. Nàng là một cô bé họ xa, tên Bích Liên,
thỉnh thoảng đến chơi trại Trung Phụng của ông bà Hàn nên Đinh Hùng có dịp quen
thân. Thuở ấy nàng còn bé nhưng xinh đẹp tuyệt vời:
Độ em còn trèo cây khế,
Vin hái quả xanh bên tường.
Có phải chúng mình còn bé
Cho nên đời rất thơm hương?
Vin hái quả xanh bên tường.
Có phải chúng mình còn bé
Cho nên đời rất thơm hương?
(Tiếc bướm hay Linh hồn Hoài Điệp – ĐVTS)
Vì tên nàng là Liên nên Đinh Hùng viết:
Người đẹp ngày xưa tên giống hoa,
Mùa xuân cây cỏ biếc quanh nhà.
Thùy hương phảng phất sen đầu hạ,
Lén bước trang đài tới gặp ta.
Mùa xuân cây cỏ biếc quanh nhà.
Thùy hương phảng phất sen đầu hạ,
Lén bước trang đài tới gặp ta.
(Liên tưởng – ĐVTS)
Hai người mỗi ngày một lớn, tình yêu cũng
cùng với tháng năm mà lớn dần theo, cô bé càng ngày càng đẹp, trên môi luôn nở
đóa hồng và cả một trời thu hiện lên trong mắt:
Nắng vàng năm xưa đã tắt,
Cô bé ngày xưa lớn rồi.
Hoa hồng vừa nở trên môi,
Và một trời thu trong mắt.
Cô bé ngày xưa lớn rồi.
Hoa hồng vừa nở trên môi,
Và một trời thu trong mắt.
(Tiếc bướm – ĐVTS)
Hai người yêu nhau tha thiết nhưng mối tình
hoàn toàn trong trắng. Không may nàng Liên bị bệnh phổi nặng, sắc đẹp ngày càng
kỳ ảo và huyền hoặc khiến Đinh Hùng say sưa ngây ngất, trong khi đó thì sức khỏe
của nàng hao mòn nhanh chóng rồi từ trần khoảng năm 1940. Đó là cái chết thứ tư
của người thân yêu mà Đinh Hùng chứng kiến trong khoảng thời gian chưa tới mười
năm. Mất Liên, Đinh Hùng đau đớn như điên như dại:
Qua xứ ma sầu, ta mất trí,
Thiêu đi tập sách vẽ hoa nguyền.
Trời ơi ! Trời ơi ! Làn tử khí,
Lạc lõng hương thầm đóa Bạch Liên.
Thiêu đi tập sách vẽ hoa nguyền.
Trời ơi ! Trời ơi ! Làn tử khí,
Lạc lõng hương thầm đóa Bạch Liên.
(Cầu hồn – Mê Hồn Ca)
Từ đó Đinh Hùng viết những bài thơ “Chiêu niệm”,
tên Liên được thay thế bằng những tên khác, nào Diệu Hương, Diệu Thư, nào Ý
Liên, Bạch Liên, Diệu Liên, nào Em Buồn, Em Đau Thương, Sầu Hoài Thương Nữ, nào
Thần Nữ, Kỳ Nữ vân vân… nhưng thực ra cũng chỉ có một nàng Bích Liên mà thôi
(1). Trong bài thơ “Kỳ Nữ” có những câu tuyệt hay:
Thấy cả bóng một vầng đông thuở trước,
Cả con đường sao mọc lúc ta đi.
Cả chiều sương mây phủ lối ta về,
Khắp vũ trụ bỗng vô cùng thương nhớ.
Cả con đường sao mọc lúc ta đi.
Cả chiều sương mây phủ lối ta về,
Khắp vũ trụ bỗng vô cùng thương nhớ.
(Mê hồn ca)
Nàng Liên chết, Đinh Hùng bỏ trường mà đi, sống
lang bạt kỳ hồ, khi thì dạy học ở Hà Đông, lúc thì gia nhập một ban nhạc tài tử
của sinh viên lên trình diễn tại hồ Ba Bể miền Bắc Cạn. Đi đâu Hùng cũng mang
theo tấm ảnh của nàng Liên. Trong một lá thư gửi Huyền Kiêu, Đinh Hùng viết: “Đó
là di vật cuối cùng của Liên, sự được nhìn thấy duy nhất còn lại của người nằm
dưới mộ. Liên mất rồi nhưng tôi không chịu tin như vậy. Không. Nghìn lần không.
Cái chết của hoa và ánh sáng, ngày và mặt trời, nơi tôi là vĩnh viễn hoài nghi
và phủ nhận. Bởi tôi vẫn ghen tuông ghê gớm như khi nàng còn sống. Tấm hình đặt
trên mặt bàn dạy học, tôi úp sấp tấm hình xuống cho ngoài tôi, không một kẻ thứ
hai nào được nhìn thấy mặt trời…”.
Bích Liên mất, nhưng hình ảnh của Liên, giọng
nói của Liên mãi mãi còn âm vang trong tâm hồn nhà thơ, không phút giây nào
quên lãng:
Chao ôi! Mỗi cánh sương run rẩy
Nghe cũng âm vang giọng nói người.
Nghe cũng âm vang giọng nói người.
Và xác thân anh tuy còn đó nhưng kể như đã chết
rồi:
Và xác thân anh giữa cuộc đời
Tiêu ma vào thạch động làn môi.
Vì trong cấm địa hàm răng ấy
Huyệt lạnh kề bên mỗi nụ cười.
Tiêu ma vào thạch động làn môi.
Vì trong cấm địa hàm răng ấy
Huyệt lạnh kề bên mỗi nụ cười.
(Trái tim Hồng Ngọc – Nguyệt san Vạn Hạnh số
13 năm 1966)
Cũng như các bạn trẻ khác, Đinh Hùng đã có một
thời niên thiếu thật đẹp “làm học trò mắt sáng với môi tươi”, nhưng cậu học trò
họ Đinh ấy đi học mà “hồn lơ đãng mộng ra ngoài cửa lớp”, rồi cũng “đã từng
phen trèo cổng bỏ trường về” để đi đến những nơi chốn đầy kỷ niệm mà sau này
khó lòng quên được:
Riêng ta nhớ những trưa hè sắc đỏ,
Đường hoàng lan nắng động: lối đi quen.
Nghìn bóng cây chen bóng mộng hư huyền,
Ta đến đó lần đầu nghe rạo rực.
Đường hoàng lan nắng động: lối đi quen.
Nghìn bóng cây chen bóng mộng hư huyền,
Ta đến đó lần đầu nghe rạo rực.
(Khi mới lớn – ĐVTS)
Rồi chiến cuộc xảy ra, mọi người bị cuốn hút
vào đó, cả nhà thơ họ Đinh cũng vậy. Cuối năm 1946, Đinh Hùng lại rời Hà Nội, rồi
khi Cống Thần, khi Chợ Đại, Hà Nam, lúc viết cho tờ báo này, lúc vẽ cho tờ báo
khác. Trong thời gian này, Đinh Hùng làm bài thơ “Người nữ du kích Hải Kiến”
trong đó có mấy câu khá hay:
Lòng gái rung theo bước lữ đoàn,
Lâu rồi chinh chiến lạnh dung nhan.
Chiêu dương bừng lửa trên gò má,
Gợn sắc hồng pha mây hợp tan.
Lâu rồi chinh chiến lạnh dung nhan.
Chiêu dương bừng lửa trên gò má,
Gợn sắc hồng pha mây hợp tan.
Ai đã gặp Đinh Hùng một lần thì khó lòng quên
được. Thân hình mảnh mai, nước da xanh như tàu lá, đôi chân ngắn, bàn tay đẹp
như bàn tay con gái với những đường gân như suốt đời mệt mỏi. Ngón tay dài, mềm
mại và thon thon, rất đẹp khi “vân vê” điếu thuốc lào hay khi lướt nhẹ trên chiếc
vĩ cầm. Đôi mắt mơ hồ và huyền hoặc dường như luôn luôn in bóng một trời thơ diệu
kỳ và mộng ảo. Giọng nói Đinh Hùng rất đặc biệt, nó “vang vang mà nhừa nhựa,
nửa như thoát lên cao cùng mây, nửa như la đà cùng khói” (Hoàng Hương Trang).
Ngay lúc nằm trên giường bệnh, giọng nói ấy cũng vẫn còn nồng nàn nỗi yêu đời
và niềm lưu luyến tình người.
Bên ngoài, Đinh Hùng bao giờ cũng chải chuốt
và trang trọng: tứ thời bát tiết lúc nào cũng complet – cravate cho dù nóng chảy
mỡ, đầu chải láng, miệng ngậm pipe, đôi vai nghiêng bởi chiếc cặp dày và nặng
trĩu. Gặp bạn thơ thì mừng rỡ, chèo kéo bắt uống cho bằng được một vài ly để rồi
say sưa nói về Aragon, Eluard, Baudelaire, Rimbaud, Edgar Poe (2) hoặc về chuyện
văn thơ không dứt.
Mặc Đỗ cho rằng “Đinh Hùng là con người
tài hoa. Từ vóc dáng, nét bút tới giọng nói, từ tuổi nhỏ cho đến ngày lìa đời,
Đinh Hùng không ngớt biểu lộ tư chất tài hoa”. Thật vậy, Đinh Hùng không chỉ
làm thơ, viết tiểu thuyết, viết kịch (3), làm báo mà còn soạn nhạc, chơi đàn và
vẽ nữa. Anh chơi đàn mandoline và kéo violon rất điệu nghệ, đã từng tham gia
trong các ban nhạc và đàn cho các phòng trà. Về họa, anh đã tự tay vẽ tranh bìa
cho hai tập thơ của mình (Mê Hồn Ca, Đường Vào Tình Sử) và vẽ tranh làm nền cho
các trang thơ Mê Hồn Ca.
Tạ Tỵ gợi lại một vài kỷ niệm: “Có những
đêm đông Hà Nội tôi đến thăm Hùng tại căn nhà cổ nằm sâu trong ngõ hẹp ở cửa ô
Cầu Rền, chẳng cách xa phường Dạ Lạc là bao. Ở tuổi hoa niên, tôi quen nhiều bạn
biết uống rượu, nhưng tôi chưa thấy ai uống hào bằng Đinh Hùng và Văn Cao.
Riêng Hùng có thể uống hai lít đế không cần đồ nhắm, vì thế Hùng mới có gan đối
ẩm với Tản Đà hàng nửa ngày trời” (4). Và cũng vì thế mà bạn bè không ai cảm
thấy bất ngờ khi hay tin Hùng bị ung thư gan ở tuổi 48.
Đinh Hùng làm thơ rất sớm, từ ngày còn đi học
và có một hồn thơ kỳ ảo. Năm 34 tuổi đã in Mê Hồn Ca (NXB Tiếng Phương Đông Hà
Nội 1954) và bảy năm sau đó (1961) in Đường Vào Tình Sử (Nam Chi Tùng Thư Sài
Gòn xuất bản).
Thi phẩm Mê Hồn Ca gồm bốn phần, không kể phần
ngoại tập và một bài tựa ký Nhà Xuất Bản, nhưng sau này Đinh Hùng chua thêm: Hồ
Dzếnh. Thì ra chính Hồ Dzếnh viết bài tựa này. Bốn phần ấy là: Nguyên Thủy, Thần
Tượng, Chiêu Niệm và Mê Hồn. Phần Ngoại Tập gồm bài thơ trường thiên “Thần tụng”
và hai bài khác: Truyện lòng và Bài hát mùa thu, ghi là trong tập thơ “Tuổi mộng”.
Hai bài này về sau in lại trong tập Đường Vào Tình Sử.
Đường Vào Tình Sử hoàn toàn là một tập thơ
tình gồm 60 bài và lá thư văn nghệ của Đoàn Thêm thay cho lời đề từ. Đây là tập
thơ tình tuyệt hay mà lời lời ý ý là những hàng châu ngọc:
Ôi cặp mắt sáng trăng xưa hò hẹn,
Có nghìn năm quá khứ tiễn nhau đi.
Có nghìn năm quá khứ tiễn nhau đi.
(Đường vào tình sử)
Ở vùng đồng chiêm ngoài Bắc, vào mùa nước lớn
ngập cả cánh đồng, mọi người phải đi lại bằng thuyền, ban đêm đèn trên thuyền bập
bềnh trôi trên sóng nước khiến Đinh Hùng nhớ đến đôi mắt người yêu. Tưởng tượng
thật phong phú và ý thơ bay bướm vô cùng:
Giấc mộng đêm nào cũng gió mưa,
Gối chăn như hải đảo vô bờ.
Sóng dâng bốn vách sầu nghiêng bóng
Thoáng ngọn đèn trôi ánh mắt xưa.
Gối chăn như hải đảo vô bờ.
Sóng dâng bốn vách sầu nghiêng bóng
Thoáng ngọn đèn trôi ánh mắt xưa.
(Sóng nước đồng chiêm – ĐVTS)
Nghĩ đến một ngày kia người yêu sẽ đi lấy chồng,
Đinh Hùng viết:
Nghe động bàn chân nắng tỏa hương,
Mong manh từng gợn phấn còn vương.
Em đi, nửa gối hoa tàn mộng,
Thương nhớ bay cùng mây viễn phương.
Mong manh từng gợn phấn còn vương.
Em đi, nửa gối hoa tàn mộng,
Thương nhớ bay cùng mây viễn phương.
(Bao giờ em lấy chồng? – ĐVTS)
Các bạn thơ đã từng tranh cãi về giá trị của
hai tập thơ này. Trong khi Trần Tuấn Kiệt chọn Đường Vào tình Sử thì Trần Phong
Giao lại chọn Mê Hồn Ca. Trần Tuấn Kiệt nói: “Mê Hồn Ca tuy đặc biệt nhưng
thua xa tiếng thơ của tập Đường Vào Tình Sử”. Còn Trần Phong Giao thì nói: “Ai
cũng bảo Mê Hồn Ca là tuyệt tác, chỉ có mình cậu là khác”. Rồi Trần Phong Giao
khẳng định: “Trong tất cả những tác phẩm đã và sẽ in của Đinh Hùng, gặp
trường hợp chỉ được quyền cất giữ một cuốn thì tôi sẽ không ngần ngại gì trong
việc chọn lựa Mê Hồn Ca. Vì đó là tất cả vũ trụ thơ anh. Vì đó là tất cả anh” (5).
Nhận định về thi phẩm Mê Hồn Ca, nhà nghiên cứu
Phạm Việt Tuyền cho rằng “thi phẩm này thuộc loại thơ nói ít hiểu nhiều,
cái hay cốt ở chỗ sử dụng nghệ thuật ném hỏa mù mơ mộng lên những mảnh thực tại
tản mác, điều mà Đinh Hùng chắc đã chịu ảnh hưởng ít nhiều nơi các nhà thơ tượng
trưng Pháp: Baudelaire, Rimbaud. Thế giới Mê Hồn Ca là thế giới của đắm đuối
say mê, của hoang sơ man dại, của chết chóc lạnh lùng, của nhiệm mầu huyền bí.
Tình yêu trong Mê Hồn Ca thiết tha, mãnh liệt và kinh khủng. Có nhà thơ nào đã
xây dựng được cả một khu nghĩa trang huyền ảo như những bài: Tìm bóng tử thần,
Màu sương linh giác, Cầu hồn, Thoát duyên trần cấu, Gửi người dưới mộ… như Đinh
Hùng?” (Tôi đọc thơ).
Còn Cao Thế Dung thì “giá trị lớn của
thơ Đinh Hùng trước sau vẫn một Mê Hồn Ca. Thi phẩm ấy vốn như loài dị thảo và
như mười ngón tay của một nhan sắc từ dưới vực sâu chơi vơi giơ lên cao mà với
tìm cái tuyệt vời của tình ái. Mê Hồn Ca còn tiêu biểu cho một thứ mỹ cảm bén
nhạy và bềnh bồng giữa những yêu ma và huyền hoặc” (Văn học hiện đại).
Bàng Bá Lân cũng thích Mê Hồn Ca hơn Đường
Vào Tình Sử và trong Mê Hồn Ca anh thích nhất Bài Ca Man Rợ vì bài thơ này rất
giàu vần điệu, chữ dùng táo bạo và gợi hình, nhạc thơ toàn bài hùng mạnh một
cách man rợ hợp với nhan đề bài thơ. Chữ dùng táo bạo và gợi hình thì:
Và ta thấy hiện nguyên lòng sơn dã:
Cảnh sắc này bỗng nhuộm máu tà dương.
Ta xót thương, ta căm giận, hung cuồng,
Ta gầm thét, rung mấy trời thế sự.
Cảnh sắc này bỗng nhuộm máu tà dương.
Ta xót thương, ta căm giận, hung cuồng,
Ta gầm thét, rung mấy trời thế sự.
Và lời thơ hùng mạnh:
Rồi dày xéo lên sông núi đô kỳ,
Bên thành quách ta ra tay tàn phá.
Giữa hoang loạn của lâu đài, đình tạ
Ta thản nhiên, đi trở lại núi rừng.
Một mặt trời đẫm máu xuống sau lưng.
Bên thành quách ta ra tay tàn phá.
Giữa hoang loạn của lâu đài, đình tạ
Ta thản nhiên, đi trở lại núi rừng.
Một mặt trời đẫm máu xuống sau lưng.
Còn các bạn khác của Đinh Hùng thì sao? Trưa
ngày 23-8-1967 – một hôm trước ngày Đinh Hùng mất – các bạn thơ họp mặt trong một
quán nhỏ, Thanh Nam đọc bốn câu thơ mà anh rất thích:
Khi tôi ngồi xuống ở bên em,
Giở tập thư xưa đọc trước đèn.
Vẫn ngọn đèn mờ, trang giấy lạnh,
Tiếng mùa thu động, tiếng mưa đêm.
Giở tập thư xưa đọc trước đèn.
Vẫn ngọn đèn mờ, trang giấy lạnh,
Tiếng mùa thu động, tiếng mưa đêm.
Nhà thơ Kiên Giang khen thơ đẹp và hay quá,
nhưng khi hỏi xuất xứ thì Thanh Nam không nhớ rõ, chỉ biết đó là thơ Đinh Hùng
trong cuốn Đường Vào Tình Sử. Về đến nhà đã hơn hai giờ chiều mà Kiên Giang
chưa vội ăn cơm, tìm cuốn Đường Vào Tình Sử để đọc bài thơ có bốn câu ấy. Đó là
bài Gặp nhau lần cuối và Kiên Giang rất thích 8 câu này ở khổ 5-6 của bài thơ:
Mắt lặng nhìn nhau từ dĩ vãng,
Chợt xanh màu áo nhớ thương xưa.
Bóng em, khoảnh khắc thành hư ảo,
Buồn lướt hàng mi thấp thoáng mưa.
Chợt xanh màu áo nhớ thương xưa.
Bóng em, khoảnh khắc thành hư ảo,
Buồn lướt hàng mi thấp thoáng mưa.
Từng nhớ, từng thương, từng chụm đầu,
Từng chung dòng lệ thấm vai nhau.
Mà trong mắt liếc (6) ngờ non ải,
Nhịp thở ân tình cũng biển dâu.
Từng chung dòng lệ thấm vai nhau.
Mà trong mắt liếc (6) ngờ non ải,
Nhịp thở ân tình cũng biển dâu.
Còn Trần Tuấn Kiệt thì nhắc lại: “Đối với
tôi, tập Đường Vào Tình Sử vẫn là tập thơ cao viễn hơn tập Mê Hồn Ca nhiều… nhiều
lắm vậy!”.
Vậy đó, khó mà nói được rằng Mê Hồn Ca hay Đường
Vào Tình Sử, tập thơ nào hay hơn mà chỉ có thể nói thích tập nào hơn tùy theo sự
cảm thụ nghệ thuật của mỗi người.
Ngày 24-8-1967 tức 19 tháng 7 năm Đinh Mùi,
lúc 5 giờ sáng, Đinh Hùng đã rời bỏ bạn bè và người thân để đi vào cơn trường mộng
lúc mới 48 tuổi. Dường như anh linh cảm mình không thọ nên lúc còn trẻ đã tưởng
tượng một ngày kia, khi mình nhắm mắt xuôi tay, các em sẽ về bên mộ mà tiếc
thương khóc lóc:
Khi anh chết, các em về đây nhé!
Vị chút tình lưu luyến với nhau xưa.
Anh muốn thấy các em cùng nhỏ lệ,
Tay cầm hoa, xõa tóc đứng bên mồ.
Vị chút tình lưu luyến với nhau xưa.
Anh muốn thấy các em cùng nhỏ lệ,
Tay cầm hoa, xõa tóc đứng bên mồ.
…Anh tưởng niệm các em về một buổi,
Ở bên mồ, cỏ úa sắc chiều rơi.
Ngược sông Mê, bàng bạc nẻo luân hồi,
Sầu rũ tóc, ngậm ngùi in khoé mắt.
Ở bên mồ, cỏ úa sắc chiều rơi.
Ngược sông Mê, bàng bạc nẻo luân hồi,
Sầu rũ tóc, ngậm ngùi in khoé mắt.
(Cung đàn tưởng niệm – ĐVTS)
Tháng 7 năm 1967, bệnh tình của Đinh Hùng trở
nặng, trên nét mặt của người thơ đã phảng phất bóng dáng của tử thần. Bác sĩ Phạm
Biểu Tâm, vì lòng liên tài, đã đánh xe đến tận nhà Đinh Hùng, tình nguyện đưa
anh vào bệnh viện Bình Dân để tự tay cứu chữa (7), nhưng bệnh ung thư thì có thầy
tiên thuốc thánh nào cứu nổi. Khi nhà thơ Tô Kiều Ngân vào thăm thì “trước
mắt tôi không phải là chàng thơ phong vận từng bơi qua Hồ Tây, từng đánh đàn
mandoline trong các phòng trà, nói chuyện có duyên, làm thơ tình ái rất hay.
Người nằm đóchỉ là một bệnh nhân, mắt rất buồn, hơi thở mệt nhọc, đang chờ mổ
mà tin tưởng thì rất mong manh… Người thơ của chúng ta trầm mình trong nỗi cô
đơn giữa bốn bức tường bệnh viện lạnh lùng, đôi vai gầy, gầy thêm, khuôn mặt nhỏ,
nhỏ thêm. Cuộc sống ở đây hoàn toàn bị lùi xa, bị tách rời”. Có những người “vô
danh” tình nguyện cho anh máu để đủ sức chịu đựng giải phẫu, nhưng đến nơi thì
anh đã đuối quá mà đi rồi.
“Trước giờ liệm Hùng, tôi giở tấm vải trắng
nhìn anh lần chót. Mớ tóc xõa ra, đôi mắt nhắm nghiền, da mặt trắng xanh. Buồn
quá, không ngờ Hùng chết nhanh như vậy. 48 năm, thôi thế cũng được, 48 năm miệt
mài với thơ, với nhạc, với Bộ lạc, Hải tần, Kỳ nữ, với “mây trắng bay đầy gối”,
với “hiu hắt tiếng dương cầm”, đời anh toàn gắn liền với thơ, với rượu, kể ra
đã thừa chất đẹp” (Tô Kiều Ngân).
Hôm đưa tang Đinh Hùng – chủ nhật 27-8-1967 tức
22 tháng 7 năm Đinh Mùi – là một ngày trong tiết thu sơ, bầu trời ảm đạm. Bạn
bè đi đưa tuy không đông lắm nhưng ai nấy đều chan chứa trong lòng niềm tiếc
thương vô hạn một nhà thơ tài hoa mà yểu mệnh. Bên chiếc huyệt đào sẵn, Vũ
Hoàng Chương gọi lớn “Đinh Hùng! Đinh Hùng!” nhưng người thơ phong vận
không bao giờ lên tiếng nữa. Bậc đàn anh Vi Huyền Đắc ngậm ngùi bên bờ huyệt,
Vũ Khắc Khoan lặng lẽ ném một hòn đất xuống quan tài. Thanh Nam bỏ ra ngoài lặng
lẽ đưa khăn lau mắt, Hoàng Anh Tuấn khóc lăn bên nấm mộ… Khi ra về, đi bên cạnh
Tuấn, tôi mới hỏi “Toa hôm nay xúc động quá nhỉ !” Tuấn nói “Đâu
mình có khóc Đinh Hùng, khóc cho mình đấy chứ ! (Ký giả Lô-Răng).
Đinh Hùng mất, một ngôi sao sáng của thi đàn
đã tắt, một thiên tài đã vĩnh viễn ra đi, nhưng hồn thơ kỳ ảo của anh vẫn long
lanh trong hai viên ngọc Mê Hồn Ca và Đường Vào Tình Sử. Đinh Hùng mất là một sự
thiệt thòi lớn cho thơ, không gì bù đắp được, biết tìm đâu một khuôn mặt thơ
như của Đinh Hùng, “một hồn thơ đã lấy tình yêu làm động lực, đã mượn sự chết
làm đòn bẩy để vượt lên tuyệt đối, vươn tới vô cùng”. Người yêu thơ luôn nghĩ rằng
trong tuyển tập thi ca nổi tiếng là cuốn “Thi nhân Việt Nam” của Hoài Thanh và
Hoài Chân mà không có tên Đinh Hùng là một thiếu sót lớn, thật đáng tiếc vô
cùng. Thời gian gần đây thơ Bùi Giáng, Vũ Hoàng Chương đã lần lượt được tái bản,
rồi cuối cùng cũng đến lượt Đinh Hùng. Vậy đó, những người yêu thơ cũng như những
nhà xuất bản nặng lòng với sự nghiệp văn chương có thể nào bỏ qua những tập thơ
như Mê Hồn Ca và Đường Vào Tình Sử. Gần đây nhất, bài thơ “Đường khuya trở bước”
của Đinh Hùng được chọn in vào cuốn “100 bài thơ hay nhất Việt Nam thế kỷ 20”.
Xin mượn lời Cao Thế Dung để kết thúc bài
này:
“Ai cũng phải công nhận rằng Đinh Hùng là một
thi nhân độc đáo. Không một nhà thơ nào có giọng Liêu Trai như ông, không một
nhà thơ nào có cái giọng phong tỏa lên hồn thơ mình những khói hương nghi ngút
như ông. Thơ Đinh Hùng như thể một hoang đường và ảo mộng. Thơ Đinh Hùng còn là
bản trường ca tình ái. Thơ Đinh Hùng quả là những ngôn ngữ nhiệm mầu của tình
yêu.
“Thơ Đinh Hùng chất chứa một bản sắc thơ rất
bén nhạy (Kỳ nữ) và kết đọng cả ba yếu tố: Ái tình, Thiên nhiên và Mộng ảo. Ba
yếu tố ấy sinh thành trong cái không khí hồ ly và nỗi chết không rời.
“Đinh Hùng như một bông hoa kỳ lạ, một thứ
kim cương kết tụ từ huyệt sâu, từ non bồng của mộng ảo. Đinh Hùng là một thiên
tài, Mê Hồn Ca đã thể nhận điều đó. Đinh Hùng với Mê Hồn Ca như bức họa có màu
sắc âm ty và Liêu Trai, lại vừa như cung đàn bạc mệnh chứa thứ âm thanh mê dại
và kỳ ảo”.
Ác Mộng
Niềm khát vọng, ta ghi vào huyết sử,
Dưới chân em, Thơ lạc mất linh hồn.
Ta đau xót trong mỗi giờ tình tự,
Ta khóc nhiều cả những lúc trao hôn.
Dưới chân em, Thơ lạc mất linh hồn.
Ta đau xót trong mỗi giờ tình tự,
Ta khóc nhiều cả những lúc trao hôn.
Đời tàn tạ em đừng ca hát nữa:
Hội thanh bình, cuộc sống gượng vui thôị
Ta muốn điên vì khóe miệng em cười,
Ta cuồng dại bởi nghìn câu em nóị
Nhan sắc ấy chớ nên tàn nhẫn vội,
Tình mất rồi! oán hận đã mênh mông.
Chớ thờ ơ! Ta nổi giận vô cùng,
Nhiều ác mộng hằng len vào giấc ngủ.
Hội thanh bình, cuộc sống gượng vui thôị
Ta muốn điên vì khóe miệng em cười,
Ta cuồng dại bởi nghìn câu em nóị
Nhan sắc ấy chớ nên tàn nhẫn vội,
Tình mất rồi! oán hận đã mênh mông.
Chớ thờ ơ! Ta nổi giận vô cùng,
Nhiều ác mộng hằng len vào giấc ngủ.
Ta quên hết! Ta sẽ làm Bạo Chúa,
Sống nghìn năm ngự trị một lòng em.
Cuộc ân tình ghê rợn suốt muôn đêm
Nào ai tiếc thương gì thân mỹ nữ!
Tay mỏi ôm sẽ dày vò nhung lụa,
Phấn hương nhàu, tan tác áo xiêm baỵ
Ta bắt em cười, nói, bắt em say,
Ta đòi lấy mảnh linh hồn bỡ ngỡ.
Ôi! ly rượu em dâng toàn huyết đỏ,
Ta uống cùng dòng lệ chảy đêm xưa,
Để ưu tư, hờn giận với nghi ngờ
Về hiển hiện bóng ma kề bên gối
Bao hoan lạc ! sau những giờ tội lỗi,
Một mình Em sửng sốt đứng bên giường,
Ngắm ta nằm say giấc ngủ đau thương,
Trong run sợ bỗng thấy lòng tê tái.
Sống nghìn năm ngự trị một lòng em.
Cuộc ân tình ghê rợn suốt muôn đêm
Nào ai tiếc thương gì thân mỹ nữ!
Tay mỏi ôm sẽ dày vò nhung lụa,
Phấn hương nhàu, tan tác áo xiêm baỵ
Ta bắt em cười, nói, bắt em say,
Ta đòi lấy mảnh linh hồn bỡ ngỡ.
Ôi! ly rượu em dâng toàn huyết đỏ,
Ta uống cùng dòng lệ chảy đêm xưa,
Để ưu tư, hờn giận với nghi ngờ
Về hiển hiện bóng ma kề bên gối
Bao hoan lạc ! sau những giờ tội lỗi,
Một mình Em sửng sốt đứng bên giường,
Ngắm ta nằm say giấc ngủ đau thương,
Trong run sợ bỗng thấy lòng tê tái.
Bao giờ em lấy chồng
Như bao người gái đến xuân thì.
Mỗi đêm say tỉnh vài cơn mộng,
Trở giấc, lòng ơi! buồn làm chi?
Mỗi đêm say tỉnh vài cơn mộng,
Trở giấc, lòng ơi! buồn làm chi?
Ôi biết bao giờ em lấy chồng?
Đầu thu hay cuối một mùa đông?
Bên người có ánh trăng, đèn mới,
Em nhận thơ lòng tôi nữa không?
Đầu thu hay cuối một mùa đông?
Bên người có ánh trăng, đèn mới,
Em nhận thơ lòng tôi nữa không?
Hoa nở cô đơn, bóng động thềm,
Vườn xưa còn thoảng chút hương em.
Xót xa lá cỏ vương mùi tóc,
Tà áo bay về, nhớ suốt đêm.
Vườn xưa còn thoảng chút hương em.
Xót xa lá cỏ vương mùi tóc,
Tà áo bay về, nhớ suốt đêm.
Em cũng như làn hương phấn kia,
Gió về rồi đến buổi chia ly
Nhớ trong khung cửa, mong ngoài ngõ,
như kẻ xưa buồn lối phượng đi.
Gió về rồi đến buổi chia ly
Nhớ trong khung cửa, mong ngoài ngõ,
như kẻ xưa buồn lối phượng đi.
Nhớ buổi người yêu, kẻ hững hờ,
Em là thục nữ, chỉ mê thơ.
Còn lòng tôi đấy, em không rõ,
Chẳng đến dò thăm, chẳng muốn ngờ.
Em là thục nữ, chỉ mê thơ.
Còn lòng tôi đấy, em không rõ,
Chẳng đến dò thăm, chẳng muốn ngờ.
Mà chẳng tình chung cũng hẹn nhiều,
Lời em bay bướm, tưởng rằng yêu.
Vì ai làm đẹp mây trời thế?
Tôi đợi tin thu sớm lại chiều.
Lời em bay bướm, tưởng rằng yêu.
Vì ai làm đẹp mây trời thế?
Tôi đợi tin thu sớm lại chiều.
Em ướp hương vào những giấy thư,
Tôi hôn lên chữ một đôi tờ.
Nghĩ rằng: Em gửi hồn thơm đấy,
Là bởi lòng kia đã ước mơ.
Tôi hôn lên chữ một đôi tờ.
Nghĩ rằng: Em gửi hồn thơm đấy,
Là bởi lòng kia đã ước mơ.
Mơ ước hiền như truyện trẻ thơ,
Hoài nghi từng nét mực phai mờ.
Chữ Yêu lượn nét hoa kiều diễm,
Tưởng thấy nghìn đuôi mắt hẹn hò.
Hoài nghi từng nét mực phai mờ.
Chữ Yêu lượn nét hoa kiều diễm,
Tưởng thấy nghìn đuôi mắt hẹn hò.
Vầng trăng vừa ngả bóng chung đôi,
Em đã xa như dĩ vãng rồị
Tình cũng quan san từ đáy mắt,
Một hàng mi lặng, mấy trùng khơi.
Em đã xa như dĩ vãng rồị
Tình cũng quan san từ đáy mắt,
Một hàng mi lặng, mấy trùng khơi.
Nghe động bàn chân, nắng tỏa hương,
Mong manh từng gợn phấn còn vương.
Em đi, nửa gối hoa tàn mộng,
Thương nhớ bay cùng mây viễn phương.
Mong manh từng gợn phấn còn vương.
Em đi, nửa gối hoa tàn mộng,
Thương nhớ bay cùng mây viễn phương.
NHẠC SĨ PHẠM ĐÌNH CHƯƠNG
Nguyễn Đình Toàn
Nghe nhạc Việt Nam, nói chung, hẳn có lúc
chúng ta phải giật mình vì hình như nhạc của chúng ta quá buồn. Một nhà phê bình
âm nhạc có nhận xét rằng: “Âm nhạc ở đâu dễ nghe, đời sống ở đó dễ sống.” Không
biết có phải vì đời sống của chúng ta khó sống, nên đã tạo ra một nền âm nhạc
như thế?
Không phải chúng ta không có nhạc vui. Nhưng
cái vui, cái trong sáng của nhạc Hoàng Quý mới chỉ là cái vui, cái hớn hở của một
buổi họp đoàn hướng đạo.
Dương Thiệu Tước, Nguyễn Xuân Khoát, Hùng Lân
cũng có những bài hát vui. Nhưng đằng sau cái vui của nhạc Dưong Thiệu Tước,
Hùng Lân hay Nguyễn Xuân Khoát vẫn lẩn khuất một chút buồn.
Phải chờ đến Phạm Đình Chương, chúng ta mới
được nghe, được hát những ca khúc thật sự vui tươi, thật sự khỏe mạnh.
Nhac Phạm Đình Chương bát ngát sức trai, nồng
nàn hương sắc của núi rừng đồng nội. Căn cứ vào những ca khúc đầu tiên của ông
“Sáng Rừng”, “Được Mùa”, “Tiếng Dân Chài” hay “Ra Đi Khi Trời Vừa Sáng”, người
ta cảm nhận một sức sống rạt rào, nao nức. Cái nao nức của một cuộc lên đường,
một bước vào đời có gian lao vất vả nhưng cũng phơi phới tin yêu. Có một vẻ gì
đó giống như một thách thức hào hứng.
Nhạc như thế, lòng người như thế, tuổi xuân
như thế, phải được hát lên không phải chỉ bằng một người, một giọng mà phải bằng
nhiều người, nhiều giọng. Có lẽ điều này cũng giải thích vì sao Phạm Đình
Chương đã xuất hiện cùng một lúc với ban hợp ca Thăng Long. Rừng núi, sông biển,
ruộng đồng đều được nhắc tới trong nhạc Phạm Đình Chương. Nói như vậy cũng
không chính xác. Phải nói rằng, những cảnh sắc ấy, những thực thể ấy, chính là
một phần nhạc của ông, một phần tâm hồn ông.
Có bao nhiêu người đã viết về rừng núi, nhưng
ca khúc “Sáng Rừng” của Phạm Đình Chương vẫn cứ bừng bừng một nét riêng biệt.
Cái âm u không bí hiểm, cái hoang dã không đe dọa. Mà ở đó là thơ. Ở đó là cuộc
lễ linh thiêng của con người tiếp nhận tặng phẩm của Thượng Đế. Đó là sự chan
hòa giữa thiên nhiên và con người. Tiếng chim hót như thế người ta chỉ có thể
nghe thấy trong một sáng rừng. Và rừng là ân sủng của Thượng Đế ban cho. Rừng
là của ta. Có lẽ không còn hình thức tiếp nhận nào hơn là hình thức tiếp nhận bằng
âm nhạc trong một cuộc lễ như thế. Hay nói như Tagore: “Chỉ với tư cách là
ca sĩ tôi mới nhận ra sự hiện diện của Người”.
Nói về tình yêu đất nước trong nhạc của chúng
ta có rất nhiều. Nhưng sừng sững như núi non có lẽ không có tác phẩm nào vượt
qua bộ “Hòn Vọng Phu” của Lê Thương, “Con Đường Cái Quan” của Phạm Duy và “Hội
Trùng Dương” của Phạm Đình Chương. Ôi! Chúng ta chỉ nguyện làm sao có được tấm
lòng yêu thương đất nước, yêu thương nhau mãi mãi như thế.
Vết thương nào rồi cũng lành. Sự xa cách nào
rồi cũng có ngày nối lại. Núi non sông biển là vĩnh cửu. Có nhạc của Lê Thương,
còn nhạc của Phạm Duy và với nhạc của Phạm Đình Chương, rồi những con sông vẫn
cứ chảy xuôi một niềm thương, sẽ đưa chúng ta về một biển, dù có phải hòa chung
một dòng nước mắt.
Những lúc Phạm Đình Chương trở về với cái
riêng của mình, ông cũng để lại cho đời những tình khúc tuyệt vời, dù đó không
phải là những bài ca hạnh phúc. Tình ca của chúng ta rất nhiều. Nhưng có vẻ như
người ta nói về “tình” nhiều hơn là “tình” nói. Phạm Đình Chương đã bước qua được
sự cách biệt này. Chỉ khi người ta thực sự yêu, mới có được cái tiếng nói thiết
tha, cái giọng nồng nàn đến thế.
Phổ nhạc thơ, Phạm Đình Chương cũng tỏ ra là
một nhạc sĩ cao tay lắm. Song nghe nhạc ông, người ta vẫn cứ thấy những ca khúc
do chính ông viết lời ca nó thật hơn, đằm thắm hơn. Tuy nhiên “Khi Cuộc Tình Đã
Chết” thơ Du Tử Lê, Phạm Đình Chương phổ nhạc, vẫn cứ là một trong những tình
khúc đạt nhất của ông và của chung những tình khúc Việt Nam nữa.
Nếu chúng ta, ai có dịp nghe Phạm Đình Chương
hát một lần, trong một quán rượu về khuya, hát một mình với ly rượu trong tay
và bằng cái giọng một nửa tưởng chừng bị cháy vì khói thuốc, nửa kia được dập tắt
bằng rượu mới thấy được hết cái hay của giọng hát Phạm Đình Chương. Ông không
chỉ là nhạc sĩ, ông còn là một ca sĩ nữa.
Chúng ta đã nghĩ đến việc cám ơn các nhạc sĩ,
tại sao chúng ta lại không nghĩ chuyện công khai cảm ơn các ca sĩ. Không gì buồn
bằng một bản tình ca không được hát. Cũng không gì buồn bằng một bản tình ca bị
hát sai. Vậy thì, được nghe một giọng hát trình bày hết những gì chứa dấu trong
một bản nhạc, phải chăng cũng là một điều hạnh phúc? Ấy là chưa kể, cùng một ca
khúc, mỗi ca sĩ có thể có một cách hát khác nhau, và bằng cách ấy, vẫn mở cho
người nghe những cánh cửa tưởng tượng kỳ lạ, vừa có khả năng đưa người ta trở về
một quá khứ nào đó, lại vừa dường như làm giàu thêm hiện tại, vẽ ra và kể lại
những thế giới kỳ ảo, chỉ khi yêu hay đã ra khỏi tình, người ta mới biết, mới
nhận ra được.
Mộng Dưới Hoa – Ca sĩ Duy Trác
Mộng Dưới Hoa – Ca sĩ Elvis Phương
Mộng Dưới Hoa – Ca sĩ Tuấn Ngọc
Mộng Dưới Hoa – Ca sĩ Ý Lan
Mộng Dưới Hoa – Ca sĩ Vũ Khanh
Mộng Dưới Hoa – Ca sĩ Thu Phương
Mộng Dưới Hoa – Ca sĩ Đức Tuấn
Mộng Dưới Hoa – Ca sĩ Trần Thu Hà, Bằng Kiều
Mộng Dưới Hoa – Ca sĩ Ánh Tuyết, Hồ Trung
Dũng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét