Vẻ đẹp cổ điển
và hiện đại trong
Viết về đề tài rất quen thuộc và có nhiều bài thơ nổi tiếng
nhưng vẫn tạo được cho thi phẩm của mình một màu sắc độc đáo, hấp dẫn thì không
thể không nói đến nhà thơ Thâm Tâm với bài thơ Tống biệt hành. Đã có rất
nhiều người khám phá vẻ đẹp lung linh muôn sắc màu của tác phẩm này. Xin góp
thêm cảm nhận về Tống biệt hành nhìn từ góc độ cấu tứ mang màu sắc Đường
thi trong việc thể hiện tâm trạng, tinh thần của đấng nam nhi thời đại mới
thông qua cuộc tiễn đưa.
Một trong những đặc điểm của cấu tứ thơ Đường là các nhà
thơ không bao giờ nói trực tiếp và nói hết ý mình mà chỉ dựng lên các mối quan
hệ để độc giả luận ra ý tác giả. Thâm Tâm đã kế thừa cấu tứ thơ Đường làm cho
bài thơ đậm đà phong vị Đường thi nhưng lại ngời sáng tinh thần thời đại. Trước
hết, tác giả tạo dựng mối quan hệ KHÔNG – CÓ ở bốn câu thơ mở đầu bài thơ để diễn
tả nỗi buồn tê tái của người đưa tiễn, ẩn chứa đằng sau đó là tâm trạng của người
ra đi: không có sông nhưng có tiếng sóng ở trong lòng, không có bóng chiều
nhưng có hoàng hôn trong mắt. Thâm Tâm đã tạo ra sự hiện diện của những cái
không có bằng hàng loạt từ phủ định (“không đưa qua sông”, “bóng chiều không thắm,
không vàng vọt”) nhưng liền sau đó lại đưa ra những câu hỏi tu từ.
Đưa người, ta không đưa qua sông,
Sao nghe tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt,
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Chính điều đó lại gợi cái có trong liên tưởng người đọc về
hình ảnh “dòng sông”, “hoàng hôn” đã trở thành biểu tượng cho những cuộc chia
ly. Trong thơ Đường, dường như cuộc tiễn đưa nào cũng không thể thiếu những
hình ảnh đó:
Sổ thanh phong địch ly đình vãn
Sổ thanh phong địch ly đình vãn
Quân hướng Tiêu Tương, ngã hướng Tần.
(Trịnh
Cốc – Hoài thượng biệt hữu nhân)
(Vài tiếng sáo theo gió vi vút, ở đình ly biệt buổi chiều hôm
Anh đi tới vùng sông Tiêu, sông Tương, tôi đi tới đất Tần)
- Thỉnh quân thi vấn đông lưu thuỷ
Biệt ý dữ chi thuỷ đoản trường.
(Xin bạn thử dòng nước chảy về đông.
Xem tình ý biệt ly và dòng nước bên nào ngắn bên nào dài)
- Li tâm bất dị Tây giang thuỷ
(Hứa Hồn)
(Tình li biệt chẳng khác gì dòng nước sông)
Các nhà thơ cổ điển lúc viết thơ “tống biệt” vẫn thường hay
dùng thủ pháp đồng nhất tình và cảnh, còn Thâm Tâm có cách thể hiện
riêng: không tả cảnh nhưng lại gợi cảnh đồng thời cảnh lại gợi tình. Cái tài của
tác giả là tạo nên sự cộng hưởng, sự liên tưởng cuộc chia ly hiện tại với cảnh
cũ người xưa trong lòng độc giả. Chính vì vậy nhà thơ đã thành công khi thể hiện
tình cảm muôn thưở của con người: “Bi mạc bi hề sinh biệt ly”(Không gì buồn
bằng nỗi buồn chia ly) (Khuất Nguyên). Có lẽ Thâm Tâm đã gặp gỡ Huy Cận trong
cách thể hiện này. Khi tác giả Tràng giang viết “Lòng quê dợn dợn
vời con nước/ Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” đâu có ý phủ nhận “khói”
để khẳng định nỗi nhớ nhà của mình da diết và thường trực hơn Thôi Hiệu:
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?
(Thôi Hiệu – Hoàng Hạc lâu)
Ngược lại Huy Cận đã tạo sự cộng hưởng bằng cách cộng
thêm nỗi buồn của người xưa để diễn tả nỗi buồn hiện tại và tình quê thiết tha,
sâu nặng. Cũng bằng cách này đã giúp Thâm Tâm thể hiện sâu sắc tình li biệt.
Tác giả Tống biệt hành đã phát hiện những nét đối
lập mà thống nhất để tạo dựng hàng loạt mối quan hệ: bề ngoài – bên trong; con
người giả - con người thực; dửng dưng, lạnh lùng - buồn bã, dằn vặt… để khắc hoạ
tâm trạng, ý chí, khát vọng của li khách thông qua cảm nhận của người đưa tiễn.
Người ra đi (li khách) là con người khác thường, bề ngoài có vẻ dửng dưng với tất
cả, vượt lên mọi trở lực riêng tư để thực hiện chí lớn.
Đưa người, ta chỉ đưa người ấy,
Một giã gia đình, một dửng dưng…
Li khách! Li khách! Con đường nhỏ,
Chí nhớn chưa về bàn tay không,
Thì không bao giờ nói trở lại!
Ba năm, mẹ già cũng đừng mong.
Các từ ngữ “một”, “giã”, “không bao giờ”, “đừng” cực tả cái
rắn rỏi, dứt khoát tưởng chừng không ai có thể ngăn cản quyết tâm của người ra
đi. Li khách có vẻ như không hề vướng bận với một chút tình riêng:
Mẹ thà coi như chiếc là bay
Chi thà coi như là hạt bụi
Dáng vẻ cương quyết của li khách, chúng ta đã từng bắt gặp ở
tráng sĩ Kinh Kha, ở “Chàng tuổi trẻ” trong Chinh phụ ngâm của Đặng
Trần Côn. Nhưng đến khổ thơ thứ ba qua sự hồi tưởng của người tiễn thì con người
thật bị che đậy ở trên đã được bộc lộ.
Ta biết người buồn chiều hôm trước…
Ta biết người buồn sáng hôm nay
“Ta biết” chứ không phải “ta thấy” tức là người ở lại hiểu
được nỗi niềm sâu thẳm trong cõi lòng người ra đi. Nếu như “nước mắt như mưa”
giúp ta nhận biết về con người thật ẩn chứa sau dáng vẻ bề ngoài oai nghiêm,
hùng dũng của lính thú đời xưa thì ở bài thơ này ta nhận được con người thật li
khách qua sự đồng cảm của người ở lại. Đằng sau cốt cách rắn rỏi, dửng dưng của
đấng nam nhi ý thức được “Làm trai đứng ở trong trời đất/ Phải có danh gì
với núi sông” là cả chiều sâu nội tâm. Đó là những nỗi buồn day dứt, dằn vặt,
xót xa của li khách trước tình cảm gia đình thiêng liêng. Ngay sau giọng thơ có
vẻ dứt khoát, rắn rỏi và sự lặp đi lặp lại ba chữ “thà coi như” ở ba câu cuối
bài thơ là sự xót xa, nghẹn ngào thầm lặng. Có một sự giằng xé nội tâm trong
con người này: một bên là tình cảm, một bên là ý chí, khát vọng. Những sự tương
phản đó chính là nhằm tô đậm thêm sự thống nhất trong hành động, ý chí của li
khách. Có lẽ điều đó cho ta thấy tráng sĩ trong thơ của Thâm Tâm vừa phảng phất
bóng dáng của tráng sĩ xưa nhưng lại vừa mang hơi thở của thời đại.
Thủ pháp gợi - một thủ pháp quen thuộc trong Đường thi đã
được nhà thơ vận dụng để thể hiện khát vọng thực hiện chí lớn của li khách. Khi
Thâm Tâm cực tả tình cảm tiếc thương, níu kéo của người thân chính là để cực tả
ý chí không gì lay chuyển nổi của người ra đi. Tác giả còn tạo ra mối quan hệ
tin – không tin để tô đậm thêm ý này. Người ở lại in đây là cuộc đưa tiễn thật
nên mới có “sóng ở trong lòng”, “hoàng hôn trong mắt” thế mà khi li khách đi rồi
vẫn không tin là có thật: “Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!”. Câu thơ diễn
tả sự bàng hoàng, ngỡ ngàng của người tiễn vì anh ta cứ tưởng là tình cảm của
người thân có thể níu kéo li khách ở lại được. Làm sao có thể đành lòng trước cảnh
mẹ già, cảnh chị gái “Khuyên nốt em trai dòng lệ sót” , còn em gái
thì“Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay” ?... Điều đó cũng chỉ nhằm khắc
hoạ thêm quyết tâm thực hiện một cuộc ra đi tự nguyện đầy lãng mạn với những
khát vọng cao cả của li khách. Tạo dựng nên các mối quan hệ, nhà thơ dần dần hé
mở cho người đọc nhận ra cái có ẩn chứa trong cái không, cái thực ẩn chứa trong
cái hư… và cuối cùng là sự lộ diện hình ảnh một con người mang dáng dấp trượng
phu được nhiều người ngưỡng mộ.
Kế thừa nhưng không lặp lại, Thâm Tâm đã tạo nên sức sống
diệu kỳ cho Tống biệt hành. Đặc biệt, sự kế thừa, sáng tạo trong cấu tứ
thơ Đường giúp tác giả thể hiện sâu sắc một cái nhìn đa chiều về “vẻ đẹp con
người cao cả trong toàn bộ sự biểu hiện chân thật của nhân tính, đầy tinh thần
nhân đạo” (Trần Đình Sử). Và ai đó đã rất có lí khi cho rằng thi phẩm này là
“quả lạ trái mùa”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét