Nếu cuộc sống là một
quyển nhật ký dày vừa đủ cho đến ngày tất cả chúng ta hóa hư vô,
thì tôi cam đoan những trang viết cho những cuộc đời thấm đẫm nước mắt,
về số phận con người thấp yếu, đau khổ, tức tưởi những năm tháng cuộc
đời sẽ chiếm số trang dày nhất của quyển sách đời Thượng Đế đã
công tạo. Những con người khốn cùng, lẻ loi cô đơn, nghèo đói sống
nương tựa lẫn nhau không đủ làm nên sức mạnh để thay đổi vận mệnh.
Lực lượng nào đã dày ám những người sống dưới đáy xã hội, những người
nghèo, những thân phận bất hạnh, cô đơn, những con người yếu thế để họ thất
bại nhiều trong lúc nỗ lực chân chính vươn lên đấu tranh để bảo vệ sự
sống, nhân phẩm và tình yêu thương chính đáng của mình của mình.
Ai cũng khẳng định được
mình có trái tim đồng cảm với những mảnh đời bất hạnh. Khả năng là
xã hội nào cũng có những lời hứa gắn bó với những con người chân chất,
thiệt thòi, đau khổ, tứ cố vô thân, những con người dưới đáy xã hội nhưng
thực tế lại thật trớ trêu. Trong cuộc sống đời thường, nhiều người được tiếp
xúc với những cảnh đời bất hạnh rất dễ xúc động, dễ khóc nhưng để sẻ
chia thì con số còn rất hữu hạn.
Khi viết lại câu chuyện
này, tôi bật khóc khi nghĩ đến đời sống cực khổ của một kiếp con người
lầm lũi, lam lũ và bất hạnh, khóc khi kể lại những khổ đau, oan trái
trong một thân phận con người lắm nỗi truân chuyên giữa dòng đời khắc
nghiệt, oan khiên...
Hãy nghe tôi kể:
…Lần nữa chị lại khóc, khóc
nấc lên như có bao nhiêu nỗi đau khổ vỡ òa hết bởi nhớ con trai. Làn khói
trầm tháng 11 này sao nặng nề, ảm đạm thê lương. Từ nay, chị không
còn chạm được vào tình thương duy nhất trên dương thế mà chị có
được. Trách con tạo xoay vần khắc khe với một phụ nữ yếu đuối…Lần
về thăm con này cũng là lần sau cuối chị nhìn thấy con mình qua đôi
mắt của một linh hồn khổ đau sắp được lệnh rời xa không gian nhân thế
vĩnh viễn không trở lại được nữa. Chị khóc, tiếng khóc câm lặng
trong dòng đời của một linh hồn còn đau đáu niềm thương nhớ con…
Chiều mưa buồn lê thê, mưa
mùa này sao dai dẳng, những cơn bão không mời mà đến liên miên, nhấn
chìm những con phố, làm nghẹn ngào những cuộc đời mưu sinh trên đường
phố. Có vài tiếng rao vọng lại yếu ớt từ con hẻm đối diện dãy nhà trọ
sinh viên, tiếng trẻ con khóc, tiếng hai người đàn ông say rượu đốp chát
nhau, tiếng khua của mưa trên những mái tôn hoẻn rỉ hòa vào tiếng côn
trùng rả rích giữa xóm lao động nghèo bên trong lòng một đô thi sang
trọng. Nó lọt thỏm, mất hút, lãng quên và đen đúa, nhớp nhúa. Nhưng
nơi ấy, có sức sống âm thầm, có tình thương che chở nhau, có những
nỗi bất hạnh đi liền với những tình tương thân tương ái, san sẻ.
Chị Hai đồng nát đã về,
con đường vết rạn, bong tróc, nhiều ổ voi, ổ gà, mặt đường trũng xuống thành
ao giữa đường của con phố này làm cho tiếng kêu ken két từ cái bàn đạp đã
gãy một bên của chị càng nặng nề hơn. Chị vẫn đi về với chiếc xe đạp
cũ kỹ mà chị nhặt được ở bãi rác ngoài ngoại ô. Mượn của bà Năm
Thiểu. Trên trời mây xám trôi dồn cục như chuẩn bị “dội” xuống “đô thành
thất thủ” đang chim f trong biển nước chưa rút kịp vì cơn mưa tối qua.
Chị vui vẻ chào bà Tư béo bán chuối chiên đang dọn hàng chạy mưa.
Cuộc sống của chị đơn giản thôi, với bao lao lực và hi vọng, túi chị bây
giờ đã có được vài ba chục ngàn tiền lời bán phế liệu. Vừa đạp xe,
thỉnh thoảng chị lại sờ vào túi của chiếc áo bà ba ướt mồ hôi, ở đó có niềm
vui, tình thương và hy vọng chỉ gọn trong vài tờ giấy bạc mệnh giá
cùng khổ. Chẳng sao, nơi đó có tình yêu thương của chị là đủ.
Thành phố này đón rất
nhiều người như chị đến sinh sống như một bà mẹ già có những thế
hệ con. Tình thương và cơ hội của bà mẹ thành phố dường như không
công bình để những phụ nữ như chị vật lộn trên mười năm mà vẫn
trắng tay và đi về với chiếc xe đạp cót két như sản phẩm sau cùng
của công nghệ gần hai ba thế kỷ trước.
Cuộc đời những người
giàu có thì tiền của được gắn vào những con số không ở phía sau
tăng dần từng ngày, người nghèo cũng vậy nhưng khổ nỗi những con số
không “nghịch ngợm” lại chạy đừng trước những con số khác. Đời chị
có những con số không ấy: không chồng, không thân thuộc, không nghề
nghiệp, không học vấn và nhiều con số không nữa tăng theo từng tuổi
đời. Cái “có” duy nhất trên đời mang lại niềm an ủi lớn cho chị là một
đứa con 6 tuổi.
Nửa tháng nay, mưa dầm, cả
con phố nghèo này thiên hạ thi nhau mắc bệnh thời tiết. Mà mẹ con chị
có bao giờ được ăn no, có bao giờ đủ tiền chạy thuốc nên thể tạng
suy nhược khó chịu đựng trước những cơn mưa dầm. Làm ra được đồng nào là
lại ngấm hết cả vào thuốc men. Trong xóm trọ nghèo để mượn tiền thuốc thang là
khó khăn vô cùng, ai cũng nghèo thì khả năng giúp nhau cũng chỉ chừng
mực, cơm nước qua ngày được đã là phước đức. Mẹ con chị được lối xóm
giúp đỡ nhiệt tình, nhưng rồi sau vài chén cơm, miếng cháo loãng ban đầu
rồi họ cũng phải bỏ rơi mẹ con chị. Cuộc sống của họ cũng nhiều vất vả
khó lòng cưu mang nỗi mẹ con chị dù lòng rất xót, rất thương. Họ lực
bất tòng tâm. Xóm trọ nghèo bên sông Sài Gòn như một thước phim buồn liên
miên.
Hai ngày mưa, cơn ho hành
hạ chị, chiều nay lại sốt cao không đi lại được để tìm kiếm nguồn
sống nhờ việc bới tìm phế liệu trong các thùng rác công cộng những
ngày nắng. Bà lão bán vé số kế bên cám cảnh mẹ con chị, giúp cho
họ được vài hớp cháo loãng đỡ dạ nhưng cũng không giúp mãi được
với số tiền còm cõi có được từ những xấp vé số tất tả ngược xuôi
trên đường phố của một bà già trên 70. Cuộc sống sao trái khoáy,
những tình người chân chất lại cứ ham mê chạy tìm những kẻ nghèo,
người già và những đứa trẻ thơ hơn là một phần sung túc còn lại
của đời…
Cơn mưa đêm qua cũng dứt
từ lâu, chị đứng dậy. À mà phải tự đứng dậy thôi chứ chẳng lẽ phải nằm
mãi thì lấy gì nuôi đứa bé. Chiếc xe đạp già cỗi đang đợi chị
“thúc mã” lên đường mưu sinh. Sau mấy cơn mưa nặng, mùi xú uế từ những
thùng rác đầy nước mưa xông lên sặc sụa. Mặc kệ, chị vẫn gồng mình
chịu đựng mùi ghe tởm ấy để tìm sự sống cho mình và cho con. Những
thùng rác cũng không đến nỗi bạc đãi, cuối cùng, chị cũng có tiền
độ nhật. Chị sẽ mua đùi gà chiên cho con, tội nghiệp thằng nhỏ chưa
bao giờ được ăn. Nghĩ về số tiền và gương mặt hớn hở của con trai
bé nhỏ, chị quệt mồ hôi và lại đạp xe cót két trên đường nhưng với
nhịp nhanh hơn và vui tươi hơn…
Tiếng ken két của chiếc xe đạp
lướt qua những vũng nước mưa nhẹ tênh. Chị chẳng thấy đói gì cả. Dù lúc trưa chỉ
uống nước, và ăn mớ xôi hôm qua mà chủ trọ cúng thần tài thổ địa cho
chị.
Trên sạp thịt còn ướt
nước mưa lẫn mùi mỡ heo nhớp nháp, có một ông già co ro, run lẩy
bẩy. Chị ngừng xe:
- Ủa, Ông Bảy, trời đất ơi, sao thế này. Ông đi đâu hổm rày vậy. Ông có
sao hông?
- Đói quá, tao đói quá bây ơi. Kiếm gì cho tao ăn chút đi…- Ông Bảy “xe
đạp” hồi trước ở cùng xóm trọ. Ổng có thằng con trai bị tâm thần bỏ đi từ
lâu. Không biết ai báo tin nó đang ngủ bờ ở Chợ Lớn. Thế mà giờ thì ông
đang thoi thóp trên tấm ván đầy mỡ heo chợ sáng này.
- Ờ, ờ ông đợi tui cái. Tui chạy u đi mua cho ông ổ bánh mỳ nghen. - Chị
chạy vào tiệm tạp hóa gần đó. Mua cho già bảy một bịch sữa, một ổ bánh mỳ.
Có bao nhiêu đâu, chỉ hết 10 ngàn, chị nhẫm tính rồi. Còn 40 ngàn mà lo gì. Ông
già đói chẳng lẽ mình bỏ đi, trước đây bác tốt với mình.....
- À, kìa. Gặp rồi đa nghen con kia! Bây nói tao là không có tiền trả mà đi
mua đồ sang heng. Bánh mỳ và sữa nữa. – Bà Năm Thiểu bước xuống xe
honda túm lấy túi áo chị. - Tao không tự lấy thì chắc kiếp sau mày trả
quá, đưa đây, có bao nhiêu đưa hết đây, 1 đồng tao cũng lấy - . Khổ đời, chỉ
có 2 tờ 2 chục ngàn cũ xì trên tay chị. Chị giằng lại.
- Bà Năm, con xin bà thương. Con của con đang sốt....
Bà chủ nợ béo quá, chị
thì gầy quá. Tay chị lại ướt nữa, 2 tờ tiền cứ thế tuột ra. Chị cứ đứng đờ người
ra đó mà chẳng biết làm gì, khuôn mặt chị méo xệch không còn đủ chỗ cho nỗi
thất vọng nữa rồi. Và chủ nợ thất nhân cũng đã mất hút đầu hẻm. Mà không
quên cảnh cáo chị và chỉ thằng nhỏ đi theo: “ nó còn thiếu tao bốn trăm
bảy. Cho nó một tuần, tao sẽ đến hỏi chuyện. Không có, mày lấy luôn chiếc
xe đạp của nó cho tao...
Chị tê buốt hết cả người.
Đứng đó trong nỗi đau. Trời nắng nhẹ mà toàn thân chị nóng ran. Con
trai chị. Nó đang nằm đó, nó ngoái cổ nghiêng tai để nghe tiếng xe của mẹ nó về.
Nó nghĩ đến cái đùi gà, nghĩ đến mẹ nó, nghĩ đến những ý nghĩ nhỏ bé về cuộc đời
bé nhỏ của nó. Chị nghĩ thế, trong đầu chị ngập đầy hình ảnh con trai. Chị toan
bước đi thì dẫm lên bịch sữa hồi nãy chị và bà béo giằng co nhau làm rơi.
Hay là chị mang bịch sữa và
bánh mỳ về cho con trai. Còn ông bảy có là gì của mình đâu, đúng rồi, cuộc đời
mà. Cái gì từ máu từ thịt mình thì mình mới đau, phải không. Phải, chẳng có gì
lớn hơn được tình mẹ con cả. Cũng như mấy ngày trước, chị cố lê lết ra phố chợ
này thiếu nợ. Mà...có được đâu. Làm sao mà được. Đừng hòng che đậy, đừng hòng rủ
rê, lôi kéo chị - những thứ tình cảm xa vời nhợt nhạt và hời hợt kia. Chị gạt
nước mắt. Bước đi. Chị ôm khư khư bịch bánh và sữa, hít thật sâu, hai mắt chị
căng ra để đón sự vô cảm ùa vào. Chị đi về phía ông già co ro. Không được.
Phải mang về cho con.
- Đói.....sao mà lâu về thế cô ơi, cô bỏ tôi luôn sao, ai cũng bỏ thằng già này
luôn sao -. Ông già vừa nằm vừa rên rỉ y như đâm dao vào lòng chị vậy.
“Đời này biết mấy ai
thân…” tiếng hát Jimmy Nguyễn từ chiếc máy hát nhà lầu có giậu
tường vi cao cao vọng xuống.
Chị nhìn ông bảy, đặt ổ
bánh mỳ và bịch sửa vào tay ông rồi khóc, rồi bỏ chạy. Chị không biết
mình chạy vì cái gì. Trời vẫn lùn phùn mưa. Mà đời đâu có đau lùn phùn vào lúc
này nữa.
Ôi chao ôi ! Tình thương đối
với chị sao mà nó xa xỉ quá thế này, xa xỉ như những tờ tiền polyme giá
thấp của người nghèo mới ban nảy mà chị cầm trong tay…
Chị không biết tại sao mình
lại đứng tần ngần trước quán gà nướng từ khi nào. Mà cũng đúng thôi. Vấn đề lớn
nhất của chị bây giờ không phải là đói khổ, là cơ cực, là lẻ loi, bạc bẽo ở đời
sống này. Mà là niềm trông ngóng của thằng con trai chị. Nó là tất cả...là tất
cả...
- Chị
bán cho em một…
- À... hôm nay có tiền
ăn đùi gà rồi hả? Cấm nợ nghe chưa....đầu tháng không nợ nọt gì đâu nga….
- Chị yên t....tâm đi,
lấy cái nào to nhất ấy... - Chị dấu nét tội nghiệp, khắc khổ, cái sầu sầu trong
mắt lúc trước thật tài. Điều gì khiến chị cố gắng đến mức đó, ngoài tình mẫu tử
đây.
- Ờ...cái con kia, tiền
tao đâu, à...á...ăn cướp hả....bớ người ta, ăn cướp...ăn cướp....Chó má...mày
đứng lại cho tao…
Chị chạy, hình như với chị
chỉ có chạy mới thoát khỏi mớ khổ đời.
Chị nghĩ rồi, bà Tư béo bán
chỉ có một mình, mà lại già cả nữa chắc chẳng đuổi theo chị đâu. Với lại bà ta
cũng tốt bụng. Nhưng mà chị chạy ở phố chợ này thì như chạy vào đường cụt, vì
ai chả biết chị. Có lẽ chị đã mụ mị mất rồi. Lần đầu tiên đi làm cái việc mà
thiên hạ gọi là ăn cướp. Chị mụ mị rồi, không bàn cãi nữa.Có những lúc con người
ta tự cho mình mụ mị, vì họ đã lỡ bước chân lên con đường cụt, mà mắt họ chẳng
nhìn thấy một lối ra nào hết cả. Thật thương thay, thương thay cho chị.
Không ai đuổi theo. Chị vẫn
cầm khư khư đùi gà, vừa ngoái đầu lại vừa chạy. Chị chạy rất nhanh. Giá mà cuộc
đời cứ chạy như thế, sẽ thoát được đói khổ cơ cực thì có phải hay không. Nhưng
không thể. Cuộc đời đâu chỉ chạy là thoát, là rời xa được đâu.
Chị chạy ở mé đường, chạy rất
nhanh, trên những nắp cống cũ kỹ. Có một cái nắp đã bị ai đó dỡ lên. Chị không
nhìn thấy, chân chị lọt thõm xuống đó. “Bụp”- đầu chị va vào nắp cống. Cả thân
hình chị như cái bóng bay dài của đám trẻ bị xì hơi. “á... Người ta chỉ nghe có
thế. Rồi người ta thấy máu me tràn ra tan vào cả vũng nước tù đọng nơi cái
mương nhỏ của của góc chợ tồi tàn.
Đám dân nhậu ở cái quán rẻ
tiền bỏ bàn đứng dậy, chạy ra...
Bà lão bán vé số xô
cửa bước vào, thằng bé đang sốt quấn chiếc mền cũ kỹ nhàu nát…
- Bà Năm, sao má con lâu về vậy, ôi đùi gà ngon quá đi mất. Năm ăn một miếng đi
này. ...Khiếp, má cho con tới 50 ngàn cơ đấy. Mà Năm gặp má con ở đâu, làm gì
mà làm hoài, con không cần nhiều thế này đâu, con cần má ở đây à. .....Ngày mai
nè, con khỏe, con sẽ dùng 50 ngàn này mua cho má một tô vằn thắn to thiệt là
to....he he con mua cho Năm nữa chứ... - Thằng nhỏ con chị, vừa nhai đùi gà vừa
thủ thỉ với bà Năm vé số.
Bốn giờ sáng, bà mới kịp
mang cái đùi gà và 50 ngàn qua cho thằng nhỏ:
- Nè Tý, quà của má mày nè, bả chưa về, đang đi mớ hàng mấy ngày lận, của một
công ty giải thể tận Bình Chánh đó con. Mày biết Bình Hưng Hòa ở đâu không? -
Ý nghĩ của bà đứt quảng....hình như bà muốn khóc.
- Ăn đi con, ăn đi… cho má con vui nghen con. Ăn đi còn nhanh lớn nữa. Nhanh lớn
nữa mày hiểu không?
Căn phòng xập xệ, ánh điện
cũng xập xệ, đôi mắt ngái ngủ của thằng nhỏ không thể nhìn thấy được đôi mắt bà
Năm già đang long lanh nước mắt, lòng bà đang quặn đau.....
Chị trở về. Người chị nhức mỏi
ghê gớm. Trời sáng sớm, phố nghèo đã lục đục âm thanh. Đó là cái âm thanh “đi
trước giấc cuộc đời và đi sau tiếng còi xe cuối cùng của đêm” để kiếm
miếng cơm. Chú Tư xe ôm, bà Ba đồng nát, Bà Khiêm hủ tiếu.....nhiều lắm. Mới
có 4 giờ sáng họ đã lục đục dậy chuẩn bị, thế mà vui, thế mà họ và chị đã sống
qua bao năm tháng như một điệp khúc đời người. Mà điệp khúc thì cứ lặp đi lặp lại,
chứ có gì khác đâu.
Chẳng ai thấy chị, chị cũng
chẳng chào ai. Chỉ lo đi nhanh để về với thằng nhỏ.Tay chị vẫn cầm khư khu chiếc
đùi gà đã nhuốm máu, ăn nhằm gì, về chị rửa lại, chị luộc lại. Rồi sang lão chủ
nhà trọ năn nỉ lão một ít mỡ hành về xối lên. Thằng bé chẳng lại quíu cả miệng
lại ấy chứ.
Có tiếng ru từ trong nhà vọng
ra, đó là tiếng bà Năm già. Chị mừng quá, chị đẩy cửa bước vào:
- Bác Năm, con biết là bác sẽ trông thằng nhỏ mà... - Chị dừng lại. Kìa, sao chị
nói mà bà Năm chẳng hề để ý. Hay bà giận chị....
- Bác Năm…Trời ơi…sao thế này - Chị không thể chạm vào bà Năm nữa. Không thể
chạm vào đứa nhỏ nữa.
- Không…! - Chị hét lên, nhưng chẳng tới đươc cái thế giới của cuộc đời
quen thuộc này nữa rồi. Thằng con chị gối đầu lên đùi bà Năm ngủ ngon lành. Miệng
nó vẫn còn bóng loáng màu mỡ, tay vẫn cầm khư khư tờ năm mươi ngàn. Thỉnh thoảng
nó ú ớ “50 ngàn của má con nè”.
Ở ngoài kia, một góc của xóm
trọ tồi tàn này. Tiếng sụt sùi, tiếng thủ thỉ to nhỏ, tiếng đóng cộp cộp của
búa đinh. Quan tài chị đã được đóng kỹ lại ở bãi bồi của mé sông. Người ta không
thể đưa chị vào căn trọ tồi tàn ấy được. Đó là nhà trọ của người ta. Ai
cho chị được quàn. Tội nghiệp thằng con chị quá nhỏ. Trời mờ sương rạng
sáng bên sông. Xóm ngèo buồn một nỗi buồn liêu tịch…
Hai ngày sau, thằng nhỏ con
chị được chồng bà Tư béo cõng trên vai đi ra khỏi xóm trọ nghèo ấy. Bà Tư béo
đi bên cạnh, một tai xách túi đồ của thằng nhỏ, một tay vỗ vỗ lên lưng nó :
- Đừng khóc con trai, đã có ba mẹ đây rồi. - Ông bà Tư sống gần hết đời người.
Cũng có phúc đức, mà không biết sao chẳng có con....
Những con người trong xóm nhỏ
ấy thở dài đón yên bình trở lại. Có người gạt nước mắt mừng thầm cho số kiếp của
thằng nhỏ ít nhiều đã đổi thay.
Còn chị, chị lại bắt đầu một
cuộc chạy trốn nữa rồi.
Có thể bạn cho rằng đây
là câu chuyện hư cấu. Cũng được thôi. Hư cấu đấy, nhưng tôi cứ bị ảm ánh
mãi bởi hình ảnh những người phụ nữ tảo tần khốn khổ có thực giữa cuộc
đời. Những trang viết ngắn ngủi này thay cho những nén hương xin thắp
lên bàn thờ của những kiếp đời đau khổ đã đi qua hồng trần. Tôi cố
cầu mong điều tha thứ cho xã hội đã thiếu những cánh tay vươn tới
người đang khốn ấy, để cho họ níu lấy như tia hy vọng vươn lên cho
xứng nhân phẩm làm người, xứng với sự tảo tần, và con tim hiền lương
chân chất và cầu xin phép nhiệm màu đến với những người đang sống trong những
nỗi cơ cực gần giống như thế.
Không biết tôi sợ cái
nghèo vì đói cơm hay vì chiếc áo rách của họ hay sợ cho cái nghèo làm nên
những bế tắc đến đến cùng cực đoạn trường như người mẹ khổ đau trong
câu chuyện của tôi. Nỗi đau ấy sẽ chẳng bao giờ nguôi ngoai, nhưng biết làm
sao khi cùng lúc có rất nhiều mảnh đời đang kêu cứu mà được bao người
chịu lắng nghe vì chẳng ai có thể thấu hiểu nỗi khổ của ai cả! Chúng ta chỉ
có thể nhìn nhận, ghi nhận, phản ảnh, còn những chia sẻ thực tế thì
sao? Vậy thì kể khổ có ích gì?.
Phạm Huỳnh Anh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét