Đối với nghệ thuật hội họa từ
xưa đến nay, con mắt người thưởng thức đã quen tiếp xúc với những sắc màu sặc sỡ,
đẹp đẽ của hiện thực, những sắc màu đó đã ăn sâu vào tiềm thức từ khi mới lọt
lòng cho đến khi về già và được định hình trong tâm trí người xem để rồi trở
thành những điều đương nhiên tồn tại, không thay đổi, nên khi bắt gặp những
hình tướng với màu sắc kỳ dị, lạ lẫm người xem thường khó chấp nhận. Tuy nhiên,
một bức tranh có màu sắc rực tươi, tương phản va đập mạnh mẽ, bạo liệt, cuồng nộ
sẽ tạo không khí khác hẳn với một bức tranh có sắc độ phơn phớt, nhờn nhợt được
tô vẽ mơn trớn yểu điệu, nhu mì ướt át, đó là điều không thể chối cãi được. Do
đó để sự nhìn trở nên phong phú hơn, đa dạng hơn cần có sự thay đổi và bổ sung,
cần có nhiều sự lựa chọn, nhiều thể nghiệm để tiến dần đến không còn giới hạn
những bảng màu theo nguyên tắc pha trộn truyền thống bất biến với lối thể hiện
ve vuốt nuột nà, căng mọng nịnh mắt, cũng không phải mô tả tô vẽ hình thù đơn
thuần mà là sự thay đổi để đem đến cái rung động của cảm xúc.
Từ thực tiễn trên cho thấy
muốn hội họa có sự đa dạng và phong phú về nội dung mà vẫn không làm mất đi cái
hiện thực vốn có của nó thì rất cần sử dụng thủ pháp biến thái màu sắc.
Sự biến thái màu sắc có thể
hiểu là sự diễn biến tinh tế của các màu, nó cho ta cảm giác về nhiệt độ: nóng,
lạnh: màu đỏ/vàng gợi ý cái nóng của lửa, màu lục/lam gợi ý cái lạnh của tuyết,
băng, màu nóng có cảm giác tiến tới gần còn màu lạnh gây cảm giác lùi xa. Bản
thân một màu, một sắc đôi khi bị những hợp sắc bên cạnh tác động tạo
ra sự chuyển sắc dưới tác dụng của ánh sáng, khi các màu bổ túc đứng cạnh nhau
sẽ tạo ấn tượng mạnh mẽ về thị giác. Mỗi sắc thái của màu luôn gắn liền với
tính cục bộ và bối cảnh, là sự thay đổi màu sắc đậm dần lên, nhạt dần đi, chuyển
dần sang màu khác, là sự thay đổi sắc thái của chính màu tự thân khi gặp ánh
sáng chiếu vào tạo ra màu khác.
Sự biến thái màu sắc trong hội
họa là sự thay đổi các màu không còn giống như nguyên gốc, nó không theo cấu
trúc hay nguyên tắc nào mà chủ yếu dựa theo cảm xúc, trạng thái tư tưởng của
người sáng tác nhằm đem lại hiệu quả thị giác mà vẫn giữ nguyên bản chất của
nó. Màu sắc khi bị biến thái thành gam trầm thì mang sắc thái u buồn, già nua,
hoài cổ, khi nó ở trạng thái đối lập, tương phản cộng với sắc độ nguyên chất
thì lại phản ánh những mâu thuẫn, sự căng thẳng gây hấn, mãnh liệt. Họa
sĩ Matisse - thủ lĩnh phái Dã thú đưa ra nhận định: “Khi
tôi đặt một màu lục, ấy không phải là tôi muốn nói đến cỏ; khi tôi đặt một màu
lam, ấy không phải là tôi muốn nói đến bầu trời... Tôi đã từng cho một chiếc
bàn đá cẩm thạch màu xanh biến thành màu đỏ; bận khác, tôi thấy cần một mảng
đen để gợi lên (évoquer) ánh lấp lánh (miroitement) của mặt trời trên biển”.
Ông quan niệm về sự biến hóa, biến thái của màu sắc là do thị giác chứ
không phải do sự lựa chọn của trí tuệ, vì vậy sự biến thái màu sắc
trong hội họa là quá trình chuyển biến tinh tế của một sắc, một màu về đậm nhạt,
nóng lạnh, hoặc những sắc độ mang tính chất trung gian chuyển tiếp giữa hai màu
và được đặt trong những ánh sáng khác nhau nhằm ra tạo hiệu quả tinh
tế, lý thú cho tác phẩm. Nó không những đem lại sự khác lạ mà còn
làm thay đổi những cảm xúc vốn dĩ đã tồn tại trong tâm hồn mỗi người.
Ngay cả trong thơ
ca cũng mang trong mình các yếu tố biến thái của màu sắc. Ví dụ:
…“Sắc đâu nhuộm ở quan hà
Cỏ
vàng cây đỏ bóng tà tà dương”…
Hoặc:
…“Áo chàng đỏ tựa
ráng pha
Ngựa
chàng sắc trắng như là tuyết in”…
(Đoàn
Thị Điểm)
“Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khối biếc non
phơi bóng vàng
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Màu sắc biến thái cũng
tạo hiệu quả tâm trạng cho những sự vật hiện tượng để có được điều mới lạ, tạo
ra được sắc thái màu độc đáo:
“Tiếng ve màu đỏ, cháy trong
lùm cây”
(Thanh Thảo)
Để
miêu tả mùa thu ngoài những sắc độ thông thường các nhà thơ đôi khi còn sử dụng
những màu sắc hết sức kỳ lạ, đậm thần sắc, đầy biến thái như: “rừng biếc chen hồng,
sắc đỏ rũa màu xanh, áo mơ phai, trời xanh ngăn ngắt”...
Trong âm nhạc đôi lúc
nhạc sĩ sáng tác những bản nhạc mà trong đó ẩn chứa giai điệu đầy biến ảo khiến
người nghe cảm nhận rõ nét sự biến đổi sắc thái của màu: Đại diện
tiêu biểu là thiên tài Wagner(1813-1883), ông sáng tạo ra các bản giao hưởng với hòa
âm có cấu trúc phong nhiêu, tinh vi và sâu sắc khiến âm nhạc trở nên rực rỡ khiến
người nghe cảm giác thấy được sự thay đổi chốc lát của thời tiết từ âm u, màu
xám xịt bỗng biến hóa bừng lên với ngàn hoa khoe sắc ... hay nhạc sĩ Hector
Berlioz (thế kỷ 19) với bản giao hưởng “Ảo tưởng” đã thêm vào tổng phổ của
mình những nhạc cụ mà khi thể hiện giai điệu trầm lắng thì chúng tạo bối cảnh
màu sắc xám xịt, sầu thảm. Khi cao trào có thể nghe như tiếng sấm sét, chớp giật,
bầu trời mây đen vần vũ, đến đoạn điệp khúc thì người thưởng thức cảm thấy xúc
động tưởng tượng ra cảnh nước suối trong vắt, núi đồi xanh thẳm ẩn trong làn
khói lam chiều. Đến đoạn nhạc buồn bã thì tạo ra sắc nắng nhạt của buổi chiều
đông, đoạn nhạc rời rạc cô quạnh lại khiến người nghe liên tưởng đến
sự ẩm ướt, xơ xác vàng úa của mùa thu li biệt. Như vậy, thủ pháp biến thái màu
sắc trong âm nhạc chủ yếu dựa trên sự tưởng tượng, sự tưởng tượng càng phong
phú bao nhiêu, âm nhạc càng đạt được thành công bấy nhiêu. Trong hội họa, sự biến
thái của màu sắc là một trong những lý do làm thay đổi về mặt cảm thức: có màu
gây cảm giác mềm mại, có màu gây cảm giác khô cứng, có màu gây cảm giác buồn thảm,
màu gây cảm giác hứng khởi đôi khi lại gây ra yếu tố kỳ bí. Ngay từ thời nguyên
thủy, những hình vẽ có màu sắc đã được thể hiện trên các vách hang động với gam
màu chủ yếu lấy từ thiên nhiên như: vàng đất, nâu, nâu đỏ, cam, đen. Thời kỳ
sau, bảng màu Ai Cập cổ đơn giản và rất ít màu: trắng, đen, nâu, đỏ, xanh
cây, xanh chàm, vàng nghệ (có thể dát vàng) nhưng độc đáo, lạ mắt, rất hấp dẫn. Trải
qua các giai đoạn phát triển của hội họa, nhu cầu tìm hiểu màu sắc
ngày càng được nhiều họa sĩ khám phá. Thái Bá Vân khi phân tích khoa học về màu
sắc trong Sadanga (Ấn Độ) có đề cập “ Khi ta vẽ bức phong cảnh bằng
mực, tư tưởng ta buộc phải cảm thấy rằng tất cả những đường nét vạch ra bằng mực
kia đều không thực là đen, mà trái lại, là những màu sắc: nóng và bốc rực lên
như lửa, tươi mát hun đúc như bầu trời sáng trong, óng ánh như hòn lam ngọc”[4;
tr.141]. Họa sĩ Tề Bạch Thạch có nói “Tranh vẽ phải thực thực hư hư.
Nếu thực quá thì mị đời, nếu quá hư thì dối đời”. Qua đó có thể lý giải vì sao
khi thể hiện các bức phong cảnh, họa sĩ C. Monet đáng lẽ tạo thêm màu sắc khác
nhau trong bảng màu của mình thì ông lại bỏ bớt đi và sử dụng màu sắc ở một sắc
thái mới. Ông miêu tả bầu trời và mặt nước màu da cam pha với màu lục
lam sẫm đậm, mặt trời màu đỏ chói, người trèo thuyền nhìn hướng trái sáng trong
nắng lóa. Cả một không gian sương khói mờ ảo, hơi nước thấm đẫm với những biến
sắc đơn thuần trong tranh mà trước đó chưa họa sĩ nào thể hiện (tác
phẩm “Ấn tượng mặt trời mọc”). Đặc biệt hơn, nhờ sự biến đổi sắc
thái ánh sáng khác nhau trong ngày mà người xem nhận thức được thời
gian sáng, trưa, chiều tối ở một loạt tranh vẽ nhà thờ Rouen của
ông.
Trong tranh thủy mặc Phương
Đông, điều tinh tế và hấp dẫn nhất là việc các họa sĩ chỉ dùng sắc độ đen trắng
mà khiến người xem cảm nhận được sự thay đổi của bốn mùa, khí tiết, hơi nước tự
nhiên hay nhìn thấy sự biến hóa vô cùng của màu sắc sự vật. Khi thì trong trẻo,
khi thì âm u ẩm ướt, khi thì xám đục trĩu nặng…Với tác phẩm hội họa, nếu chỉ
đơn thuần vẽ cây cỏ màu xanh lục, đất màu nâu và trời màu lam sáng, hoa màu đỏ,
bướm màu vàng thì không đủ thỏa mãn tận hưởng được trọn vẹn sự cuồng nhiệt của
sắc độ, ánh sáng của tri giác, vì vậy cần có những bảng màu mạnh mẽ làm thay đổi
nhu cầu trên, điều này dẫn đến người họa sĩ sử dụng chất liệu sơn dầu
một cách bạo liệt, triệt để, bộc lộ sự rung động của màu sắc lên mặt tranh. Màu
sắc không chỉ còn là giá trị mô tả, nó còn là nhân tố sáng tạo, cây biến thành
màu đỏ, nâu, vàng và đất biến thành màu xanh, các màu sắc tương phản mạnh lấn
át đường nét. Tiêu biểu là tác phẩm “Phong cảnh với những cây đỏ” sơn dầu của
Derain, hàng cây đỏ, con đường đỏ, nhà cửa màu đỏ, tất cả đều là sắc hòa sắc đỏ,
đỏ như bốc lửa, đỏ như lửa cháy, nhưng nó dào dạt, mãnh liệt và đầy quyến rũ. Họa
sĩ C.Mônet vẽ phong cảnh một ngày sương mù bình thường ở Luân Đôn bằng màu đỏ
thắm, trong khi nhiều người quan niệm rằng sương mù có màu xám. Trong
tác phẩm “ Nhà ga Saint Lazare” ông đã thể hiện những vệt
màu nóng và lạnh có độ đậm nhạt tương đương khi đặt cạnh nhau, trông xa
nó rung lên như một màn ảo ảnh giữa không khí và ánh sáng. Ở một số
họa sĩ, họ đã từ bỏ cách thể hiện theo lối sao chép tự nhiên trên bề mặt mà chú
ý đến những rung động của ánh sáng, không khí được gợi lên bằng cách đặt cạnh
nhau những sắc độ tươi, điều này khiến nó đáp ứng được sự thỏa mãn đầy đủ của mắt
nhìn.Màu sắc không những là cái đích để thể hiện trong hội họa mà nó còn là
phương tiện để thể hiện khối hình, không gian và bộc lộ cảm xúc. Ngoài những
tác động của ánh sáng, màu sắc hiện thực thì còn có sự tồn tại của thứ ánh
sáng, màu sắc phát sinh từ ảo giác mà hiện thực để lại trong trí tưởng tượng: một
đám người xanh xanh, đỏ đỏ nhảy múa, những vệt màu mờ nhòa thành nét chấm, phẩy…khiến
hình thể con người hoàn toàn được giản lược. P.Picasso từng nói “ Quả thật,
bạn sáng tác với một ít màu sắc. Nhưng khi số màu ít ỏi đó được đặt đúng chỗ
thì nó sẽ cho chúng ta thấy chúng trở thành nhiều màu” Ta có thể xem xét
khía cạnh này trong tác phẩm “Thiếu nữ và chiếc mũ” sơn dầu của H.
Matisse. Gam màu đối chọi gay gắt, những đường viền nét đen đậm, thô mộc đến
táo bạo bao quanh toàn bộ chân dung. Nền được tạo bởi các mảng màu lam, lục tím
đỏ, cam tương phản đặt cạnh nhau không mịn, chau chuốt. Khuôn mặt
thiếu nữ bên diện sáng được tác giả thể hiện các cặp màu đỏ- đen, xanh lam
vàng, da cam - trắng.
Hình ảnh thiếu nữ được thể hiện theo cảm xúc với bên tối thì nóng, bên sáng thì lạnh gây kích thích mạnh cho thị giác. Lối đặt màu trên chân dung được cách tân khác hẳn với lối vẽ chân dung thời trước, không vờn tỉa nịnh mắt như những chân dung thiếu nữ thông thường, toàn bộ tác phẩm thể hiện sự mãnh liệt trong cách dùng màu, mạnh bạo trong bút pháp. Đôi khi màu sắc bị họa sĩ tác động mạnh, làm thay đổi đến mức khó tin với những điều chưa bao giờ thấy, thậm chí phi lý, không tồn tại lại xuất hiện trong tác phẩm. Một màu đỏ chói của bầu trời, một màu đen thăm thẳm trong vắt của mặt nước, hoa màu xanh, lá màu đỏ, màu rực rỡ mà không trối, không chua, các màu hòa nhập với nhau êm dịu, phẳng tạo cảm giác sâu, rất thực, rất có lý trong cái phi lý, rung động, đầy cảm xúc. (Tác phẩm “Tát nước đồng chiêm” sơn mài của Trần Văn Cẩn.) Có thể thấy, tính hiện thực không bao giờ vắng bóng ở các bức tranh có màu sắc biến thái nhưng nó vượt qua tầm thị giác cảm nhận để tác động chủ yếu đến phần cảm xúc cho nên họa sĩ không ngần ngại dùng những màu đối chọi mạnh mẽ, tương phản về đậm nhạt đặt cạnh nhau nhằm tạo cho bức tranh một tinh thần nặng nề hoặc bất an, lo lắng hoặc tươi vui, mỉa mai châm biếm hoặc cảm thông, chia sẻ... Nhiều họa sĩ đã cố gắng dùng khả năng gợi ý rất sâu sắc để mô tả những niềm đau, nỗi buồn…Và ở một khía cạnh nội dung nào đó chính bản thân nó cũng mang những thông điệp tinh thần đến với người thưởng thức. Trong “Guernica” của Picasso, chỉ với gam màu trắng, xám và đen mà tác giả đã tạo nên không khí ai oán, đau khổ, tàn ác của chiến tranh. Bức tranh “Tiếng thét” sơn dầu của E. Munch thể hiện sự đối lập mạnh mẽ giữa các màu vàng, tím, đỏ lam gây cảm giác nhức nhối, tức mắt tạo ra một không gian đặc quánh. Những nhát màu song song dựng theo một chiều, tỏa ra đồng hướng gây cảm giác dữ dội của âm thanh khiến người xem cảm nhận được nỗi sợ hãi, khiếp đảm kịch tính đến tột cùng bao trùm toàn bộ bức tranh. Trong tác phẩm “ Madona” ông lại thể hiện các vết màu cam, tím loãng, nhẹ mỏng, ướt trượt chuyển động mơn trớn lướt trên thân thể nhân vật. Họa sĩ Bùi Xuân Phái thường sử dụng hòa sắc màu trắng xám, lam, nâu tạo nên các mảng tường cũ kỹ, mái ngói rêu mốc khiến “Phố cổ” của ông khác biệt hẳn với tranh vẽ phố của các họa sĩ Châu Âu. H.Matisse đã từng nói “Tôi không sao chép thiên nhiên một cách nô lệ, thiên nhiên mà tôi gắng sức diễn đạt và bắt phải theo tinh thần bức họa. Những sắc độ mà tôi đã tìm được phải tạo ra một hòa hợp sinh động các màu sắc, một sự hài hòa tương tự như sự hài hòa của một bản nhạc.(…) việc chọn màu không dựa trên bất kỳ lý thuyết khoa học nào, có một sự cân xứng cần thiết giữa các sắc độ, nó có thể dẫn dắt tôi thay đổi hình thể một hình diện hay bố cục…” Trong bức tranh “Âm nhạc” ông đã thể hiện một màu trời tô phẳng xanh thắm, đồng cỏ xanh mướt. Những con người màu đỏ đất nung nguyên sơ, hồn nhiên đang cùng đất trời hòa tấu bài ca đồng nội. Các đường nét viền toàn bộ màu sắc vào trong hình thể đơn giản thuần khiết khiến tất cả đều sinh động và giàu tính biểu cảm. Đó cũng chính là tinh thần đáng để chúng ta học tập và nghiên cứu từ các bậc thầy. Thủ pháp biến thái màu sắc trong sáng tác hội họa luôn là niềm cảm hứng để các họa sĩ trên thế giới khai thác trong suốt chặng đường phát triển của hội họa. Có thể thấy bản thân sự biến thái màu sắc luôn mang tính cá biệt nhằm tái hiện đối tượng đã ghi nhận bằng các dạng thức, điều này khiến cho bức tranh lạ hơn về cách hoà hợp màu sắc: diễn tả sự khắc khoải và cảm giác đè nén của hình diện, màu sắc như huyền bí hơn, âm u, lạnh lẽo hơn hoặc dữ dội, mãnh liệt hơn. Do vậy đòi hỏi họa sĩ phải trăn trở suy nghĩ để cho ra đời những bức tranh có tính nhất quán và sắc thái độc đáo nhất, như Picasso đã từng nói “ tôi không đi tìm, tôi thấy’’. Bằng cách vận dụng tinh tế sự biến thái màu sắc, mỗi họa sĩ tạo trên mặt phẳng tranh sự hao mòn của thời gian, sự xói mòn, suy sụp, nứt vỡ, thối rữa của sự vật hiện tượng khiến cho bức tranh có giá trị tạo hình cao, độc đáo và lạ mắt.
Hình ảnh thiếu nữ được thể hiện theo cảm xúc với bên tối thì nóng, bên sáng thì lạnh gây kích thích mạnh cho thị giác. Lối đặt màu trên chân dung được cách tân khác hẳn với lối vẽ chân dung thời trước, không vờn tỉa nịnh mắt như những chân dung thiếu nữ thông thường, toàn bộ tác phẩm thể hiện sự mãnh liệt trong cách dùng màu, mạnh bạo trong bút pháp. Đôi khi màu sắc bị họa sĩ tác động mạnh, làm thay đổi đến mức khó tin với những điều chưa bao giờ thấy, thậm chí phi lý, không tồn tại lại xuất hiện trong tác phẩm. Một màu đỏ chói của bầu trời, một màu đen thăm thẳm trong vắt của mặt nước, hoa màu xanh, lá màu đỏ, màu rực rỡ mà không trối, không chua, các màu hòa nhập với nhau êm dịu, phẳng tạo cảm giác sâu, rất thực, rất có lý trong cái phi lý, rung động, đầy cảm xúc. (Tác phẩm “Tát nước đồng chiêm” sơn mài của Trần Văn Cẩn.) Có thể thấy, tính hiện thực không bao giờ vắng bóng ở các bức tranh có màu sắc biến thái nhưng nó vượt qua tầm thị giác cảm nhận để tác động chủ yếu đến phần cảm xúc cho nên họa sĩ không ngần ngại dùng những màu đối chọi mạnh mẽ, tương phản về đậm nhạt đặt cạnh nhau nhằm tạo cho bức tranh một tinh thần nặng nề hoặc bất an, lo lắng hoặc tươi vui, mỉa mai châm biếm hoặc cảm thông, chia sẻ... Nhiều họa sĩ đã cố gắng dùng khả năng gợi ý rất sâu sắc để mô tả những niềm đau, nỗi buồn…Và ở một khía cạnh nội dung nào đó chính bản thân nó cũng mang những thông điệp tinh thần đến với người thưởng thức. Trong “Guernica” của Picasso, chỉ với gam màu trắng, xám và đen mà tác giả đã tạo nên không khí ai oán, đau khổ, tàn ác của chiến tranh. Bức tranh “Tiếng thét” sơn dầu của E. Munch thể hiện sự đối lập mạnh mẽ giữa các màu vàng, tím, đỏ lam gây cảm giác nhức nhối, tức mắt tạo ra một không gian đặc quánh. Những nhát màu song song dựng theo một chiều, tỏa ra đồng hướng gây cảm giác dữ dội của âm thanh khiến người xem cảm nhận được nỗi sợ hãi, khiếp đảm kịch tính đến tột cùng bao trùm toàn bộ bức tranh. Trong tác phẩm “ Madona” ông lại thể hiện các vết màu cam, tím loãng, nhẹ mỏng, ướt trượt chuyển động mơn trớn lướt trên thân thể nhân vật. Họa sĩ Bùi Xuân Phái thường sử dụng hòa sắc màu trắng xám, lam, nâu tạo nên các mảng tường cũ kỹ, mái ngói rêu mốc khiến “Phố cổ” của ông khác biệt hẳn với tranh vẽ phố của các họa sĩ Châu Âu. H.Matisse đã từng nói “Tôi không sao chép thiên nhiên một cách nô lệ, thiên nhiên mà tôi gắng sức diễn đạt và bắt phải theo tinh thần bức họa. Những sắc độ mà tôi đã tìm được phải tạo ra một hòa hợp sinh động các màu sắc, một sự hài hòa tương tự như sự hài hòa của một bản nhạc.(…) việc chọn màu không dựa trên bất kỳ lý thuyết khoa học nào, có một sự cân xứng cần thiết giữa các sắc độ, nó có thể dẫn dắt tôi thay đổi hình thể một hình diện hay bố cục…” Trong bức tranh “Âm nhạc” ông đã thể hiện một màu trời tô phẳng xanh thắm, đồng cỏ xanh mướt. Những con người màu đỏ đất nung nguyên sơ, hồn nhiên đang cùng đất trời hòa tấu bài ca đồng nội. Các đường nét viền toàn bộ màu sắc vào trong hình thể đơn giản thuần khiết khiến tất cả đều sinh động và giàu tính biểu cảm. Đó cũng chính là tinh thần đáng để chúng ta học tập và nghiên cứu từ các bậc thầy. Thủ pháp biến thái màu sắc trong sáng tác hội họa luôn là niềm cảm hứng để các họa sĩ trên thế giới khai thác trong suốt chặng đường phát triển của hội họa. Có thể thấy bản thân sự biến thái màu sắc luôn mang tính cá biệt nhằm tái hiện đối tượng đã ghi nhận bằng các dạng thức, điều này khiến cho bức tranh lạ hơn về cách hoà hợp màu sắc: diễn tả sự khắc khoải và cảm giác đè nén của hình diện, màu sắc như huyền bí hơn, âm u, lạnh lẽo hơn hoặc dữ dội, mãnh liệt hơn. Do vậy đòi hỏi họa sĩ phải trăn trở suy nghĩ để cho ra đời những bức tranh có tính nhất quán và sắc thái độc đáo nhất, như Picasso đã từng nói “ tôi không đi tìm, tôi thấy’’. Bằng cách vận dụng tinh tế sự biến thái màu sắc, mỗi họa sĩ tạo trên mặt phẳng tranh sự hao mòn của thời gian, sự xói mòn, suy sụp, nứt vỡ, thối rữa của sự vật hiện tượng khiến cho bức tranh có giá trị tạo hình cao, độc đáo và lạ mắt.
Tuy nhiên, sự biến thái màu
sắc cũng có những hạn chế nhất định, đó là quan niệm cho rằng cứ tùy ý vô lối
biến thái màu sắc trong tác phẩm là sẽ gây xúc động, như vậy dẫn tới hậu quả là tác
phẩm chỉ thành cái palet không hơn không kém. Hội họa có sự biến
thái màu sắc được xây dựng phần lớn dựa trên việc khai thác hiện thực khách
quan và một phần cảm xúc riêng của họa sĩ . Với những biến đổi góp phần làm
tăng giá trị cho nghệ thuật thị giác nên những yếu tố trên luôn khiến người xem
phải thay đổi cách nhìn cũng như cách cảm nhận, nó có sức truyền cảm mạnh mẽ,
khát khao tìm đến với các ngôn ngữ tạo hình mới, sáng tạo ra chúng, để chúng tồn
tại duy nhất và vĩnh viễn. Tất cả các dạng biến thái màu sắc trong tác phẩm của
các họa sĩ đều có xu hướng phá bỏ thói quen cảm nhận thực tại đơn điệu,
đề ra một loạt các bảng màu biểu hiện sắc thái mới tinh tế hơn, cảm xúc hơn,
sâu sắc và lắng đọng hơn.
Nghệ thuật hội họa có thủ
pháp biến thái màu sắc luôn tạo ra sự thay đổi diện mạo mới về màu: mở rộng
biên độ hơn về lối diễn hình đối tượng, cảm xúc nhân vật, nó mang tính tượng
trưng, tính sáng tác dựa trên cảm xúc của họa sĩ nhiều hơn, nó không lệ thuộc
quá nhiều vào thực tế. Bản thân mỗi tác phẩm này luôn tạo ra sự riêng biệt
trong sáng tạo, đôi khi nó còn tạo ra sự phi lý hơn và thích thú hơn trong thưởng
thức màu sắc, nó luôn vượt qua những hình ảnh thị giác quen mắt để vươn tới cái
nhìn mang tính cảm xúc sâu kín lắng đọng không thể gọi tên. Tác phẩm hội họa có
sự biến thái màu sắc chủ yếu tìm chuyển biến thay đổi nội
dung đề tài với sự phản ánh những xung đột, mâu thuẫn xã hội, sự đau khổ trong
nội tâm con người và sự quằn quại của thể xác. Họ giải quyết các xung đột
xã hội bằng sự trải nghiệm mang tính cá nhân, đề ra một loạt biểu hiện mới, tư
tưởng mới cho nghệ thuật hội họa thông qua tác phẩm, nó diễn tả thế giới tâm trạng
phức tạp của họa sĩ, những cảm quan về cuộc sống xung quanh mà người nghệ sĩ
thu nhận được, về mặt kỹ thuật sử lý bề mặt được khai thác tối đa: cào, vạch, đắp,
trát, vờn, nhòe mờ, lau trơn…với những mảng màu mạnh mẽ, dầy cộp cảm xúc nhằm tạo
ấn tượng cho thị giác.
Trong sáng tác hội họa,
nếu cứ bóc tách mọi vấn đề một cách rõ ràng, rành mạch, chi tiết là điều khó có
thể thực hiện được, vậy nên, quan điểm của tác giả chỉ khảo sát sự biến thái
màu sắc trong một giai đoạn nhất định, một số họa sĩ điển hình, một vài tác phẩm
tiêu biểu. Các họa sĩ Việt Nam và thế giới vẫn chủ trương tiếp tục tìm tòi sáng
tạo những hình thức biểu đạt mới nhằm hướng tới những cảm xúc đẹp đẽ
nhất của con người, hy vọng rằng những khảo sát của tác giả sẽ giúp ích cho người
đọc có cái nhìn mới mẻ hơn về sự biến thái màu sắc trong hội họa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. David Piper (Lê Thanh Lộc
dịch) (1997), Thưởng ngoạn hội họa, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
2. Laurie Schneider Adams,
(2005), Khám phá thế giới
mỹ thuật, Nxb Mỹ thuật.
3.Nguyễn Quân (2005), Con
mắt nhìn cái đẹp, Nxb Mỹ thuật.
4. Thái Bá Vân (1995) Tiếp
xúc với nghệ thuật, Nxb Mỹ thuật.
Nguyễn Quang Hưng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét