Chẳng biết cái tên đó ai đặt cho nó tự hồi
nảo hồi nào, chỉ nghe ông nội nó gọi nó là Đực rồi người
ta cứ thế kêu theo. Đực tốt mã, bảnh trai nhưng hơi bị lù
khù, tháo vát dữ lắm nhưng cũng chỉ ba cái chuyện đồng áng
nhà nông. Người ta bảo nó có hiếu nhất nước hổng chừng, thời buổi
này mà có đứa đạo đức vậy, quá hiếm.
Gần bốn chục tuổi đầu làm thuê cuốc mướn, một chữ rách
cũng không có nói chi đến chuyện văn chương thơ phú. Ấy vậy
mà câu ca dao nào nó cũng thuộc làu làu như máy tuốt lúa, nghĩ phục.
Lụi cụi suốt ngày ngoài đồng, tối thui mới về tới nhà, lại chui vô bếp,
lại phải nấu nướng, cực nhưng nó lúc nào cũng cười, cái cười như đóng
kịch. Con Nẫm mê nó lắm, nghe đâu mẹ nó chửi cho mấy
trận ra trò nhưng nhắm chẳng ăn thua gì:
- Bộ mày hết đường rồi sao chui đầu vô cái hốc
bà tó đó, hở con. Đất cát không có tí bụi, làm
thuê quần quật, mai mốt thiên hạ mua máy nọ, máy kia thì làm gì ăn?
Mày nuôi nó chắc?
Con Nẫm chẳng nói gì, nó biết rõ mẹ nó như lòng
bàn tay, “bả nói chán rồi cũng huề”. Ở quê có tiền như bà không
nhiều, nhưng mẹ nó đâu biết chính vì đồng tiền đó mà nó ở giá quá lâu
rồi còn gì. Nó nghĩ chỉ cần có người biết ăn, biết làm thì sẽ nên
chuyện cứ gì phải có nhiều tiền, có học thức cao. Khối gì người
giàu sang ra đó mà con cái có ra gì đâu, vợ chồng
thừa chắp dư vá, chẳng qua chưa bỏ nhau là bởi cái gia tài quá kếch
sù. Chê người ta hay người ta coi mình chẳng ra gì, liệu người ta có thèm để ý tới
mình không mà tính tới tính lui, chỉ cóđêm đen mới biết được
lòng nó rối rắm thế nào.
Số là, thằng Đực thường ghé cái quán ốc
tiêu của nó để mua vài ba thứ lăng nhăng cho bữa cơm tối cho hai ông
cháu. Khi thì miếng đậu, quả trứng vịt, khi thì chút đường, chút
tiêu, chút hành ngò… Họa hoằn lắm mới thấy thằng Đực mua chút thịt
cho ông nó. Nó nghĩ chắc ông thằng Đực bệnh, nó nhìn vào mắt thằng Đực
chẳng thấy gì, chỉ một màu đen thăm thẳm. Chẳng có gì mà cả làng
cứ râm ran chuyện nó với thằng Đực yêu nhau da diết. Chuyện to
thế lẽ nào thằng Đực không hay biết gì. Chắc nó không biết
thật, nó cứ phơn phỡn ra đó.
Con Nẫm lân la:
- Sao ông nội không đi hỏi vợ cho anh?
- Có ma nào thèm tui đâu mà hỏi.
- Tại anh không để ý đó thôi.
- Kệ.
Đã vậy nó còn trêu con Nẫm đến tội nghiệp:
- Sao bà không lấy chồng cho rồi, lấy quách thằng nào
cũng được, ai mà con gái… băm tới băm lui hoài… nát bét.
- Nè nè… ăn nói đàng quàng nghe ông kia, ông mới ế đó,
không khéo mai mốt già vác xác lên giữ đình hổng chừng.
Thằng Đực cười hí hí, khi nó đi rồi con Nẫm mới
rơm rớm nước mắt, nó giận thằng Đực, nó giận cả buổi chiều đáng
ghét phía bên kia sông. Nó nhìn ra mé lộ, cái lộ bé tẹo vừa lọt chiếc
xe bò, hai bên gai bồ kết tua tủa mỗi khi xe rơm kềnh càng đi qua rơm
mắc đầy lên đó, gió phất phơ bay trông ngồ ngộ. Và cứ thế,
chiều nào như chiều nào, nó đợi thằng Đực ghé qua quán nó.
Mấy hôm rồi, thằng Đực biệt vô âm tín. Con Nẫm lòng
như lửa đốt, nó hỏi thăm hết người này tới người nọ, ai cũng tủm tỉm
cười bảo thằng Đực đi cưới vợ tuốt làng trên rồi. Con Nẫm đánh
liều, chạy xộc vô xóm trong. Gọi là xóm cho văn vẻ chứ lèo
tèo ba, bốn nóc nhà lá tuềnh toàng, trong đó có nhà thằng Đực. Đường đi
cha ơi là cỏ dại, bông cỏ cao lút đầu gối, nó sợ dính
quần, xắn lên, cỏ cắt da rát rạt, mẹ nó mà biết chắc rầy
cho đã. Cắm đầu, cắm cổ nó chui lọt tỏm vào nhà thằng Đực
lúc nào không hay, líu qua líu quíu như kẻ trộm.
- Nẫm đó hả - tiếng ông nội thằng Đực
dò xét.
- Dạ, ông bịnh à ?
- Không…
- Sao ông nằm thừ ra thế kia.
- Ông bị rít cắn con à, sốt quá không dậy nổi,
thằng Đực có rịt thuốc gà gì gì đó nhưng vẫn nhức lắm.
Tội nghiệp nó xoay đâu ra tiền mà mua thuốc Bắc cho ông nữa đó.
Nó mượn chỗ con phải không?
Ông nhìn nó như muốn nói gì nữa, lại thôi.
Bây giờ con Nẫm mới định hồn, nó nghe mùi thuốc
thơm thoang thoảng, siêu thuốc phun khói sè sè, lửa già quá, nó lấy chút
tro bếp rắc lên chỗ mấy cục than rực hồng. Tiện tay, nó giở mấy
cái nắp nồi ra xem, cái này là cơm nguội chắc thằng Đực nấu từ sáng,
cái này là nồi cháo trắng đến tinh khiết, lõng bõng nước. Chẳng thấy
nồi thức ăn đâu cả, nó nhìn quanh quất, trống trơn một màu ám
khói. Mẹ nó nói đúng, chẳng có gì ngoài cái bàn thờ kê giữa
nhà lạnh lẽo và hai cái giường xập xà, xập xệ kê hai bên… Thằng Đực
chắc chạy đi đâu đó.
- Bà ở đây mà tui tưởng… Tui tính mua cái
trứng vịt đánh cháo cho ông ăn…
- Ủa, không có ai ngoài quán à ?
- Không.
- Sao anh không lấy đại đi, bộ không thấy hả.
- Có, trong rổ mà, nhưng sao lấy được.
- Thì cứ lấy, hồi nào… trả sau có sao đâu.
Thằng Đực không nói gì, nó rót cho con Nẫm ly nước
trà lá nguội ngắt, hình như tay nó run run.
Ông Tó là ông nội thằng Đực, năm nay chắc gần tám
chục, người khô đét nhưng rắn chắc. Ông không để râu như người ở tuổi
này thường làm. Ông giỏi nghề thả lờ, chụp cá nên người ta gọi ông
cái tên xấu xí đó chăng?. Con Nẫm không biết. Ông hiền tính, dễ cười,
chưa hề mắc lòng ai bao giờ. Nhà ông có cây ổi Tàu sum suê những
trái là trái, trẻ con thích lắm, miệng vừa xin “ông Tó…” thì tay
chúng đã bứt lia, bứt lịa ra rồi. Ông bảo chúng hái trái chín
thôi đừng hái trái xanh chua lắm, ăn không được bỏ phí của ông.
Rồi trái xanh cũng chín, lũ trẻ chẳng bao giờ vắng và ông
chẳng có trái nào ngâm rượu. Hình như đó là niềm vui của ông
thì phải, ông cười, nụ cười rất Phật.
Ông Tó mê tuồng cổ dữ lắm, hôm nào có đoàn hát
về làng ông cũng đi xem. Ông chuẩn bị một bó hoa vườn
tươm tất để tặng cô đào nào hát hay mà trẻ đẹp. Phải đẹp
nhất cơ!. Cả làng này từ cụ già đến trai tráng đều ngồi
ngớ ra, chẳng ai dám làm cái việc “nho nhã” ấy đâu. Họ kháo
nhau: “Bao nhiêu tài tật ông nội nó lấy hết cả rồi, chả trách
thắng cháu cứ đờ như ngỗng”. Thằng Đực nghe mà vẫn cười
híp mắt, trong lòng nó phục ông nội nó sát đất. Kháo nhau chán
người ta đâm ra phục ông.
Người ta biết ông mồ côi vợ từ hồi nảo hồi nào, khăn gói tới đây lập nghiệp lúc thằng Đực bé tẹo, còn xin sữa bú thép, vậy mà ông có lẹo tẹo với bà nào đâu, nếu có thì giờ đã con đàn cháu đống. Ở đâu mà chẳng có bà góa. Xóm này góa hơi bị nhiều, chiến tranh có trừ ông bà nào đâu. Người ta càng phân tích, càng thấy ông bí mật. Trông vẻ ngoài xuề xòa của ông mà nhận định này nọ có khi hỏng bét, hẳn là ông có một mối tình thật đẹp và cũng rất bi thương. Nhìn thằng Đực thì đủ biết, ba mẹ nó phải cao ráo, bảnh bao như thế nào! Ông bà nội nó chắc phải tuyệt vời hơn thế. Cũng có thể người ta ngại phải vất vả nuôi nấng thằng Đực mà từ chối ông chăng? Chẳng ai biết, thằng Đực cũng chẳng biết cha mẹ nó là ai, khi hỏi ông ông chỉ lắc đầu, chết cả rồi, tuyệt nhiên không nói gì thêm nữa.
Người ta biết ông mồ côi vợ từ hồi nảo hồi nào, khăn gói tới đây lập nghiệp lúc thằng Đực bé tẹo, còn xin sữa bú thép, vậy mà ông có lẹo tẹo với bà nào đâu, nếu có thì giờ đã con đàn cháu đống. Ở đâu mà chẳng có bà góa. Xóm này góa hơi bị nhiều, chiến tranh có trừ ông bà nào đâu. Người ta càng phân tích, càng thấy ông bí mật. Trông vẻ ngoài xuề xòa của ông mà nhận định này nọ có khi hỏng bét, hẳn là ông có một mối tình thật đẹp và cũng rất bi thương. Nhìn thằng Đực thì đủ biết, ba mẹ nó phải cao ráo, bảnh bao như thế nào! Ông bà nội nó chắc phải tuyệt vời hơn thế. Cũng có thể người ta ngại phải vất vả nuôi nấng thằng Đực mà từ chối ông chăng? Chẳng ai biết, thằng Đực cũng chẳng biết cha mẹ nó là ai, khi hỏi ông ông chỉ lắc đầu, chết cả rồi, tuyệt nhiên không nói gì thêm nữa.
Bây giờ, con Nẫm mới có dịp quan sát ông thật kỹ. Bộ pijama
tuy cũ nhưng phẳng phớn, tóc tai gọn gàng chứng tỏ thời trai trẻ ông
có cuộc sống sung túc, ngăn nắp, không vì cái nghèo mà nhếch nhác buông
xuôi. Ông sống đạm bạc trong hoàn cảnh không thể khác được. Đánh
bắt ven bờ bằng những phương tiện thô sơ nhất nước thế này thì rất
nhọc, mà chẳng thể dôi dư tí nào. Vài ba con rô, con lóc… quanh
quẩn chợ làng đổi gạo, đổi rau chẳng bõ bèn gì. May mà thằng Đực
trời thương không đau yếu, không cảm nắng cúm mưa nên cũng đỡ vất
vả. Vừa nuôi cháu, vừa chạy ăn như ông, nhiều người mủi lòng. Xóm này
nghèo từ muôn thuở, hun hút xa thị thành, rẻo đất mom sông nằm lọt
thỏm giữa bạt ngàn lau lách, tiếng thùng gõ gọi nhau trong đêm là tiếng
kêu cứu cuối cùng. Đợi thiên hạ đốt đuốc, vác gậy tới cứu mình
thì đã cốt. Nghĩ mà rợn. Bây giờ người có đông hơn
chút xíu, đường xá có khang trang hơn chút xíu nhưng là cái
khang trang của nơi sơn cùng hải tận, muốn ra tới trung tâm huyện phải đi
bộ mất nửa ngày đường. Muối là mặt hàng quý hiếm ở đây
trong những năm chiến tranh, người ta không dám xa xỉ dùng nó để muối
dưa, muối măng, muối cá. Tất cả sản vật nào đó muốn để dành
thì phải phơi khô, treo giàn bếp là được. Khi ăn thì ăn
luôn mùi khói khét lẹt, mùi thịt thum thủm, mùi bồ hống nhân nhẩn nhưng
quen riết cũng đâm ghiền. Khi bắt được con cá to ông cũng
không ăn một mình, khi bẫy được con thú dữ ông thường chia
cho cả xóm. Thảo ăn như ông là vậy nên thằng Đực cũng được
thơm lây. Khi nào có giỗ quẩy gì đó người ta cũng gói cho
thằng Đực cái bánh, miếng xôi nhờ ông mang về. Ấy vậy mà mấy
hôm rày ông đau chẳng ai biết, chẳng ai thăm hỏi, con Nẫm thấy mình có lỗi
với ông nhiều lắm. Nó nhìn ông, ông nhìn nó, chẳng ai nói gì nhưng trông ánh
mắt ông, nó vừa gặp ánh mắt của một người cha đau khổ tột
cùng đang muốn tâm sự gì với nó lại thôi.
Bữa đó con Nẫm bị bố nó nện cho một
trận ra trò, hai mắt sưng húp, bầm tím. Thằng Đực biết tỏng chuyện gì. Nó đau
lòng lắm mà không nói, ông nội nó cũng im lặng, hai mắt âng ấng
nước trợn trừng. Chỗ rít cắn sưng tấy lên, đỏ mọng, sốt cao, ông
rên hừ hừ đắp mấy chăn cũng kêu lạnh, thằng Đực chẳng dám rời ông
nửa bước. Đêm nào nó cũng ôm ông thật chặt cho ông khỏi
run, rồi khi nó ngủ thiếp đi, hình như ông chỉ chờ vậy,
ông trút hơi thở cuối cùng.
Thêm hai mùa cúc quỳ vàng nữa, con Nẫm vẫn chưa lấy chồng,
thằng Đực bây giờ như tảng đáđộc không nói, không rằng. Nó
chỉ về ngang qua quán con Nẫm khi trời đã tối kín mặt, đi
nép sát bên kia đường, lầm lũi. Rồi ngày giỗ ông cụ cũng đến,
bà con chòm xóm tíu tít rất đông lo chuyện chay đàn. Thằng Đực
lăng xăng như gà mắc đẻ, ai bảo gì làm nấy, không thì xớ rớ đâu đó mà chẳng
biết làm gì. Tội nghiệp. Con Nẫm có cớ mang hoa quả sang nhà.
Nhớ ngày nào, khi bàn hương án ông Tó vừa chỉnh tề,
người ta bảo thằng Đực đọc tên họ và ngày tháng năm sinh của
ông cụ để ghi vào giấy tiếp. Thằng Đực lắc đầu nguầy nguậy,
chừng như nhớ ra điều gì, nó mang cả chồng thư tín của
ông cụ để lại và mấy cuốn sách đã cũ mèm ra lục lục,
tìm tìm…
- Đưa đây tao xem nào. Ai đó dõng dạc.
- Chẳng thấy gì.
Rồi ông hạ giọng khi đã cầm xấp gì đó trên
tay :
- Cháu đã đọc chưa?
- Chưa ạ!
- Cháu đọc đi…
Thằng Đực ấp úng. Lúc này có trăm con mắt tò
mò nhìn nó, người thì nghĩ ông cụ để lại của cải, người thì nghĩ ông
cụ trăn trối nợ nần, thằng Đực thì vã mồ hôi hột,
may sao con Nẫm nhanh nhảu:
- Để em đọc cho.
Thằng Đực mừng rơn.
Eo Gió, ngày… tháng… năm…
Ta là Tó, không, Phan Ngọc Núi ở Hòa Châu, Cẩm
Lệ… Lưu lạc vào đất này từ năm 1955, mang theo đứa con trai
bốn tháng tuổi, đứa con mà mẹ nó là người làm thuê của
gia đình ta sinh ra. Nó tên là Đực là Phan Ngọc Đức. Gia đình
ta vốn nhiều đời khoa bảng nên không thể chấp nhận ta đứa con
trai thứ, hư đốn. Ta ra đi hai bàn tay trắng và một mầm sống vô tội… Bất đắc
dĩ phải gọi con là cháu bởi lúc đó ta đã ngoài
năm mươi. Nhìn đâu ta cũng thấy miệng lưỡi thế gian răng nanh tua tủa,
ta sợ… Ta sợ không ai đồng cảm, hiểu và thương mình. Càng sợ hơn
nữa khi nghĩ liệu những người đàn bà trẻ đẹp kia có cho con
mình bú nhờ, một khi biết mình là người cha không nên nết!
Và ta chọn giải pháp này: nhận con là cháu.
May sao ai cũng thương tình cho cha con ta có chốn dung thân…
Thằng Đực gục xuống nghẹn ngào, lần đầu tiên nó được
gọi cha thì cha không còn. Con Nẫm nhớ lại ánh mắt của ông
cụ nhìn nó hôm nào, cũng quỳ phủ phục xuống bàn thờ ông kêu
gào thảm thiết. Mắt hàng xóm cũng rơm rớm đỏ. Bây giờ, họ mới thấy ông
cao thượng đến nhường nào, chung thủy chung tình nhất mực, hy sinh cuộc sống
giàu sang phú quý để giữ lấy hòn máu bé bỏng do mình tạo
ra. Một nghĩa cử mà chỉ có tình thâm thiêng liêng mới làm nổi.
Bây giờ mọi chuyện đã an bài, thằng Đực hết
buồn rồi. Nó đang vui lắm, nó tíu tít rót rượu mời mọi người, nó
huyên thuyên đủ chuyện, hình như nó đang yêu. Thêm một mùa
hoa cúc vàng chờ đợi. Con Nẫm liếc nhìn thằng Đực tình tứ, hình như bây
giờ nó mới hiểu ra. Nó gật đầu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét