Thơ Giáng Vân trong suốt và tĩnh lặng
Không biết nhà thơ Giáng Vân có tu tập thiền hay không, nhưng
khi đọc thơ chị, tôi đã lạc vào một không gian trong suốt và tĩnh lặng. Khá nhiều
bài thơ của chị đưa tôi đến trạng thái định tuệ trong mọi hoạt dụng của nhân
sinh, trong chuyển động của vạn hữu, nhưng luôn tỉnh giác, sáng suốt, thanh
bình. Có thể chị cũng không bận tâm với những nghi thức quán tưởng của giáo
pháp nào đó, nhưng thơ chị tựa chiếc lồng ánh sáng vây quanh tôi. Ánh sáng
thanh khiết và trinh bạch ấy cho tôi được thấu thị tâm và cảnh, thiện và ác, mê
và ngộ trong cõi ta bà này.
Cầm tập bản thảo thơ Giáng Vân, tôi đi về phía vạt cỏ cuối vườn
trong một sáng cuối thu. Ít gió, hơi se lạnh. Hình như tôi đã ngồi xuống một
phiến đá phẳng… Mọi màu sắc và chuyển động trong đó đang hiển hiện, trôi đi như
nó vốn có, không khởi phát, ít gây hấn. Thứ ánh sáng của từ bi, hỷ xả cứ tự
nhiên dẫn dắt tôi đi từ bài thơ này đến bài thơ khác.
Không gian thơ Giáng Vân mở rộng, thoáng đãng, thường được tạo
dựng bằng cảm xúc nhất quán, không ngăn cách, hay biến đổi đột ngột. Tràn ngập
trong đó ánh sáng không màu, trong lành và thanh khiết. Đây là khoảnh khắc đất
trời và con người đều tịnh định: Thỉnh chuông chùa ba tiếng/ Nghe lòng
mình tịnh không (Khoảnh khắc).
Những khoảnh khắc thiền thường đến với Giáng Vân trong khá
nhiều bài thơ, tôi gọi đó là trạng thái của thiền động. Chị ngắm nhìn sự trôi
chảy, sinh diệt, hợp tan của thế giới bằng tâm thế tỉnh táo, trạm nhiên, an định: Ngày
cuối năm/ Một người bán hoa đứng góc đường/ mời tôi mua/ Tôi chọn một bó tầm
xuân lớn để cắm/ vào chiếc bình gốm cũ/ Tôi đã rất chăm chú làm việc này/ Thay
vì/ Đi tìm những quên lãng. Phải chăng những “quên lãng” ấy của chị cũng
đang hành trình đến một chân trời mới, hay khởi đầu một hiện thực “nhớ” khác.
Trong bài thơ “Biến hóa“, chị đạt được nhiều mức độ tỉnh giác khác nhau, sản
sinh những đổi thay vĩnh viễn: Trong biệt tăm/ Tôi thả mình rơi thong thả/
Không gì bực dọc/ Chỉ rặt những thứ vu vơ/ Tôi/ Hóa ra những vụn vỡ nhỏ/ Li ti/
Hạt giống của loài hoa cỏ/ Có thể nẩy mầm rất nhanh/ Một sáng thôi/ Làm tràn ngập
sự thanh khiết… Nhà thơ tỉnh táo phân thân trong cuộc hòa nhập giữa đa chiều thời
gian: Tôi đã bước ra khỏi tôi/ Là không trở lại (Trong ngôi nhà rộng
lớn); Tôi thả tôi vào ánh sáng/ Ánh sáng tràn ngập tôi (Tôi
không là tôi); hiện thân trong hành trình của cuộc luân hồi: Quá khứ
tôi là tương lai kẻ khác/ Mùa đã chết trở mình trong những cơ thể
khác… Chị nhất thể hóa cái tôi cá nhân - tiểu vũ trụ với đại vũ trụ, qua “cơn
gió” xuyên thấu: Những cơn gió thổi/ Cuốn ta khỏi ngôi nhà…/ Những cơn gió
thổi/ Từ đáy khát vọng (Những cơn gió thổi).
Bài thơ “Tự trôi“ là trạng thái của dịch biến, trôi chảy,
không bao giờ bị hạn cuộc… Nhà thơ bình thản, an nhiên, không còn những hệ lụy,
ái dục, khổ đau của thế giới tập đế và khổ đế: Ta nhắm mắt/ Tự trôi/
Như nước trên sông/ Như trăng giữa thiên hà/ Như gió theo gió/ Như những
số phận rì rầm trong đêm. Sự thể nghiệm nhuần nhuyễn của thiền tuệ
trong khổ thơ này: Tự trôi,/ Tự trôi.../ Ta trôi đến khi nào/ Khi nào
ta cập bến?/ Ngươi chỉ là cát nhỏ/ Một giấc mơ thoảng qua/ Một chút
hương rồi hết/ Một ngày trong vạn năm. Bài thơ kết thúc trong trạng
thái tuệ tri, như thật: Thân xác rã tan/ Trong đất sâu/ Trong những
đời sống khác/ Có gì níu ta lại?/ Tự trôi/ Tự trôi/ Hiện hữu trong
không... Trạng thái “tự trôi”, buông lỏng tự nhiên đôi khi xuất hiện trong
những bài thơ khác, nhưng mang ý nghĩa khải thị, khởi nguồn. Đây là cánh cửa
thiên nhiên vừa mở: Hãy chảy đi, chảy đi/ Ta chỉ đầy lên khi cho đi/ Sự
tráng lệ của những dòng sông lớn/ Khởi từ sức mạnh của mạch nguồn/ Sự trầm tĩnh
của những dòng sông lớn/ Khởi từ sự bền bỉ…/ Hãy chảy đi, chảy đi/ Và đừng hỏi… (Lời
của nguồn suối); trạng thái lắng đọng một hồ nước, người ta chỉ có thể
nhìn thấu đến đáy nếu mặt nước không bị xao động: Im lặng đang tuôn chảy
âm thanh/ Ah, những âm thanh thần thánh (Viết ở Luangprabang).
Giáng Vân trong một số bài thơ, như muốn vươn tới thế giới
siêu hình, vượt qua màn vô minh bằng con mắt “thứ ba” xuyên thấu: Linh hồn
chúng ta nặng bao nhiêu (Linh hồn); Linh giác đi từ đầu mỗi ngón tay,
mỗi sợi tóc/ Thoát đi nhẹ như một hơi thở…/ Và/ Trên cánh đồng phiền muộn/
Chúng ta bắt đầu nở hoa (Những cuộc bay của linh giác). Chị lý giải bản chất
của sự vật, hiện tượng trong chốn u minh, trùng trùng duyên khởi: Đôi khi,
tôi thử giải mã những thế giới câm kia bằng các kí tự trên các khuôn mặt, bộ điệu (Những
buổi chiều). Chị nhìn thấy một con ruồi chuyển động “Dưới một tấm kính trong suốt”,
để nhận ra tấm kính “của mình” mà chị không thể vượt qua, chính
là ranh giới, cái hữu hạn của đời sống này, ngăn cách con người với mịt mùng,
vô tận.
Đôi lúc Giáng Vân nhìn đời sống hiện hữu từ một hệ “quy chiếu”
khác, bị tác động bởi những quy luật sống khác: Có một ánh sáng khác/ Soi
vào nỗi hoài nhớ của tôi/ Như mặt trời nhiệt đới chiếu vào những đường/ gân của
lá/ Nhưng đây là lá của những ngày xanh tươi/ Còn tôi/ Một chiếc lá đã mục (Chiếc
lá). Trong bài thơ “Tôi chỉ là một giọt nước mắt“, chị đã chuyển hóa trạng thái
trong thiền định, hóa thân thành Một giọt nước mắt của trời…/ Tôi có thể
thấy được em yếu đuối và tủi hổ nhưng/ không thể làm gì…/ Tôi thả tôi vào nước
hy vọng sẻ chia/ Tụ vào tôi/ Giọt nước ngày một lớn/ Hãy thử soi vào tôi đi.
Không gian thơ Giáng Vân khá ổn định, tĩnh lặng và thanh sạch.
Người đọc hiếm khi gặp được những câu thơ nhói sáng, như: Bật tung những
chồi xanh/ Trên khắp thân, cành./ Những cái cây/ Choáng váng vì hạnh
phúc (Những cái cây); Ô bài ca mặt trời/ Người ạ/ Vẫn sáng rực cả đêm
đen (Bài hát)… Nếu bạn đọc cố dõi tìm những câu thơ hay để “nằm lòng” chắc
sẽ khó gặp, giống như người đi “mò trăng” dưới đáy sông thuở nào. Câu thơ Giáng
Vân thường mang vẻ đẹp giản dị, bí ẩn khi đứng trong khổ thơ, chịu tác động
tương hỗ giữa các câu thơ, làm nên hoàn chỉnh từ trường toàn bài.
Chuyển động các thi ảnh trong thơ Giáng Vân cũng thường chậm,
giống như “Đám mây chiều vàng rực” đang trôi qua cửa sổ nhà chị, giống
như gió, dòng sông, màu diệp lục… đang trôi qua cuộc đời chúng ta: Hạnh
phúc cùng khổ đau/ như gió thổi/ tựa như ngày mai trôi tới/ đang trôi qua
và đang bay đi (Bài hát 3). Nhưng những chuyển động ấy bất ngờ, khó đoán
trước: Chảy tuôn/ Và biến tấu không ngừng/ Không thể lường được/ Đường đi
của gió/ Không thể lường được/ Những cơn bất thường của sông/ Dù ngày mai sông
cạn (Chảy tuôn).
Đôi lúc Giáng Vân như cố tình đứng cách xa nơi xảy ra sự kiện
một khoảng cách: Những ngọn gió chết lặng trên cây/ Cơn giông không sao tới
được (Trước cơn giông); Một sợi dây rất mảnh/ Nối từ ta đến người/
Làm sao để không thất lạc (Nhìn từ trên cao).
Thơ Giáng Vân đắm mê, nhưng tỉnh táo và tinh tế. Đó là sự
tinh tế trong quy luật chuyển hóa, biến đổi: Người thấm vào tôi/ Cũng theo
cái cách không khí thấm vào tôi/ Nước thấm vào tôi/ Làm mới lại một mùa gieo trồng/
Những thứ cây có hương vị vừa đủ mê hoặc (Một ngày).
Tâm trạng cô đơn, lẻ loi thường xuất hiện trong thơ chị,
không buồn bã, day dứt, mà tự nhiên, tự tin như nó vốn có. Cầu đứng một
mình với tôi một mình/ Gió thổi với mây trời/ Mặt trăng với sóng nước (Giấc
mơ). Hình ảnh “cây cầu” với “tôi” đều “một mình”. Chữ “một mình” trong câu
thơ đầu, như đã vô tình kéo giãn khoảng cách giữa các hình ảnh, mở ra nhiều góc
nhìn đơn lẻ khác, từ “gió”, “mây”, “mặt trăng”, “sóng”… Cũng trong bài “Giấc
mơ“ có câu thơ cấu trúc lạ Tôi đứng giữa cầu, gió thổi gió lay tôi.
Ít khi thấy trong thơ Giáng Vân có các điểm “giao tiếp” (ở bài thơ
này: tôi… cầu… gió) hội tụ vào một “tôi” như câu thơ trên. Nhân vật “tôi”
đã làm cả chiếc cầu chòng chành, chao đảo, nhưng không bị ngã vì chị đã đứng ở “giữa
cầu”. Gió trong câu thơ đã lay chị hay chị làm ra gió không biết nữa!
Trong bài thơ “Nợ”, nỗi cô đơn rợn ngợp, vỡ ra, tựa những mảnh
thủy tinh lung linh, sắc nhọn: Cô đơn ngợp lên đã thành rừng/ Sông chảy
lên trời đã như thác lũ…/ Mang mang/ Những kí ức buồn/ Những mảnh vụn đã không
thể chắp lại/ ĐẸP đã vỡ, đã khóc, đã bay hơi (Nợ). Nhiều lúc chị ở trạng
thái phân vân, lưỡng tự: Vương nỗi gì trong mắt/ Vương nỗi
gì như thể trong tim/ Muốn bỏ đi/ Nửa muốn đi
tìm (Tháng ba); cả thoáng những hoài nghi: Bài hát cuối cùng của em
đã hát/ Cho anh cho anh cho anh…/ Xin lửa đừng khi nào tắt (Không đề); Dường
như trong mơ tôi khóc…/ Vì trong suốt cuộc đời/ Tôi đã
sống/ Dù không biết mình sống (Những giấc mơ tôi)… Những biến động trong
tâm trạng chị cũng diễn ra chậm chạp: Một ngày thở than/ Cùng nhau
anh nhé (Bài hát 2). Từ những đơn lẻ, rời rạc, chậm rãi và buồn bã, nhưng
chúng kết nối, thường là những kết nối xa nhau, đã tạo nên một thế giới trong
suốt, dịu dàng: Thầm thì và dịu dàng đến nỗi/ Tất cả thương
đau sẽ lành/ Tất cả những môi thơm sẽ đợi/ Cả bình minh
cùng những hoàng hôn (Gửi…). Chị đã nhìn thế giới ấy, như con gái chị nhắm
nghiền mắt và mơ. Nó tựa hẳn vào tôi tin tưởng/ Như tựa vào
cả một thế giới/ Để không ngừng mọc ra một thế giới
khác (Thơ viết cho con). Chị lý giải những hệ lụy đời sống thật nhẹ
nhàng và thanh thản: Có buồn gì đâu/ Tự nhiên
như là hơi thở (Loa kèn).
Tôi thường nhìn thấy trong thơ chị hình ảnh một người đàn bà
lặng lẽ quan sát, chiêm nghiệm: Chảy mãi về trời/ Những câu hỏi câm lặng (Những
câu hỏi câm lặng); Bây giờ mới mùa xuân/ Mùa xuân cũng còn rất lâu nữa…/
Từ những cánh trắng/ Đến tận khi loa kèn chết (Loa kèn)… Hành vi sống,
mục đích sống của nhà thơ vì một điều thiêng, như lý tưởng, như tôn giáo,
vì Trên cao/ Những con đường rộng mở (Một ngày). Điều thiêng đó đã
cho chị gặp được may mắn, hạnh phúc, giao cảm với những người thân yêu của mình
ở thế giới khác: Thỉnh thoảng, mẹ ơi/ Con mơ/ Những chiếc lá từ trời (Mẹ
thả từ trời).
Trong trạng thái lẻ loi, trầm lặng, đôi lần chị đã cất lên tiếng
hát. Lời ca nghe mơ hồ trong giai điệu quyến rũ, da diết: Ôi, những con ngựa/
Sớm mai/ Chết dịu dàng trên thảm cỏ/ Chết những mắt buồn/ Vô hạn (Bài
hát cho những con ngựa); Người yêu dấu ơi/ Yêu và đừng muộn phiền/
Những cọn nước quay và quay/ Những cuộn chỉ quay và quay/ Vầng mặt
trời quay và quay…/ Như em dệt tình yêu cho anh/ Những sớm mai/ Dìu dịu (Những
ý nghĩ). Động từ “quay” lặp lại nhiều lần trong khổ thơ như một “con lắc đơn”
đang giao động. Mỗi nhịp của nó đã sản sinh ra biết bao điều kỳ diệu và lý thú
từ bàn tay dịu dàng, hơi thở ấm áp, nhân hậu của chị.
Không gian chị tạo dựng không biệt lập với thế giới bên ngoài,
bài thơ “Ghi trong cuộc triển lãm“, Giáng Vân đã mượn “ánh sáng quá độ của căn
phòng” để khắc họa chân dung đời sống rất dữ tợn, gai góc: Những khuôn mặt
đập thẳng vào thị giác/ Cơn buồn nôn của thời đại/ Vũng bùn cho tất thảy chúng
ta quá chật hẹp/ Để có thể múa may, gào thét, (Làm ra vẻ) điên loạn…
Mạch thơ Giáng Vân trôi chảy tự nhiên, có những mê đắm, nhưng
tỉnh táo, minh tuệ. Chị là họa sỹ vẽ tranh bằng ngôn ngữ, với những “nhát bay”
dứt khoát, ít chồng lấn: Đồng đất mầu nâu ngái/ Còn tôi mầu xám
tro (Ngẫu cảm). Tuy nhiên bên cạnh, ta cũng gặp những câu thơ luận đề khô
cứng, gượng ép. Ngôn ngữ trong thơ chị tinh lọc, giản dị, giàu hàm nghĩa, nhưng
có những câu thơ dễ dãi nhịp điệu và tu từ cũ…
Thơ Giáng Vân xuất hiện cùng thời với thơ Nguyễn Quang Thiều,
Nguyễn Lương Ngọc, Dương Kiều Minh, nhưng chị đã tạo đuợc không gian thơ biệt lập,
trong suốt và tĩnh lặng, góp phần làm phong phú, đa giọng điệu dòng thơ cách
tân sau 1975 tại Việt Nam. Thơ Giáng Vân là thế giới của những giấc mơ, mở cửa
giấc mơ. Chúng ta chỉ có thể bay trong mơ/ Để tuyệt giao với nhơ bẩn (Viết
tặng họa sỹ Trần Trọng Vũ). Câu thơ ấy có thể coi là tuyên ngôn thẩm mỹ, lý tưởng
thi ca của chị. Chị từng bay trong nhiều trạng thái, từng tạo ra nhiều khoảnh
khắc in dấu trong tâm não người đọc, nhưng tự do nhất, đẹp nhất là chị được bay
một mình trong những giấc mơ - giấc mơ của người tỉnh táo và tinh tế, được quán
tưởng sâu trong tâm không ở các trạng thái thiền. Phải chăng, đó là cái đẹp của
nhân bản cũng như sự bình an và phúc lạc nội tâm của con người.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét