Bên cạnh những dòng nhạc được nhiều người ưa thích như nhạc
nhẹ, nhạc tiền chiến, pop…v.v... thì nhạc cổ điển cũng chiếm vị trí đặc biệt
trong lòng những công chúng yêu âm nhạc. Trong số vô vàn bản nhạc nổi tiếng của
100 tác giả được cho là các nhà soạn nhạc vĩ đại nhất, người ta chọn lọc được
40 bản khá phổ biến.
Em rất thích nghe nhạc cổ điển không lời và sưu tầm được một
số bản nhạc, hy vọng trên đây cũng có các bác có cùng sở thích đóng góp cho bộ
sưu tập thêm phong phú. Đầu tiên là bản:
Fur Elise
Ludwig van Beethoven (17 tháng 12 năm 1770 - 26 tháng 3 năm
1827) là một nhà soạn nhạc cổ điển người Đức. Phần lớn thời gian ông sống ở
Wien, Áo. Ông là một hình tượng âm nhạc quan trọng trong giai đoạn giao thời từ
thời kỳ âm nhạc cổ điển sang thời kỳ âm nhạc lãng mạn. Ông có thể được coi là
người dọn đường (Wegbereiter) cho thời kỳ âm nhạc lãng mạn. Beethoven được khắp
nơi công nhận là một trong những nhà soạn nhạc vĩ đại và ảnh hưởng tới rất nhiều
những nhà soạn nhạc, nhạc sỹ, và khán giả về sau.
Trong số những tác phẩm lớn của ông phải kể đến các bản giao
hưởng như Eroica (giao hưởng Anh hùng ca), Giao hưởng Định mệnh, số 9, The
Pastoral (Giao hưởng đồng quê), các tác phẩm cho dương cầm như Für Elise và các
sonata Thống thiết (Pathétique) và Ánh trăng (Moonlight)...
Trong những tác phẩm đó thì bản Für Elise hay còn được dịch
sang tiếng Anh là "For Elise" và người Việt Nam vẫn hiểu nó dưới cái
tên "Thư tình gửi Elise" là bản nhạc được biết đến nhiều nhất và được
ưa thích nhất của các học sinh Piano.
Qua tìm hiểu bản nhạc, có một số ý kiến được đưa ra về cái
tên Elise bí ẩn, nhưng đến tận bây giờ vẫn chưa có ý kiến chắc chắn nào về tên
bản nhạc. Ngoài ra còn có một số ý kiến được biết rằng trong thời gian đó ông
đang phải lòng 1 cô gái tên Therese Malfatti von Rohrenbach zu Dezza, nhưng mối
tình đã không có kết quả và bản nhạc Für Elise được hiểu nôm na là Für Therese
và sau này được nhiều người hiểu như một bức thư tình ông viết gửi người mình
yêu
Tác phẩm này được viết khi căn bệnh về thính giác của ông khá
trầm trọng. Cảm xúc trong âm nhạc mà ông viết ra dường như đã hiển hiện trong đầu
giờ chỉ viêc diễn tả bằng những nốt nhạc mà thôi. Quả là một thiên tài vĩ đại,
thứ nhạc mà ông viết ra nó mới thực sự là âm nhạc.
Moonlight sonata
Bản sonata viết cho đàn dương cầm số 14 op. 27 No. 2 ở cung
Đô thăng thứ của Ludwig van Beethoven cũng được gọi là Bản Sonata Ánh trăng (tiếng
anh: Moonlight sonate, tiếng Đức: Mondscheinsonate). Beethoven đã đặt tên cho
nó là Sonata quasi una Fantasia.
Ludwig van Beethoven viết bản sonate này dành cho cô học sinh
dương cầm 17 tuổi của ông Gräfin Giulietta Guicciardi (1784 -1856) vào năm 1801
và sau khi ông chết vài năm thì bản sonate được nhà phê bình âm nhạc Ludwig
Rellstab đặt cho cái tên phổ biến như bây giờ, ông đã so sánh bài hát với ánh
trăng trên hồ Lucerne.
Suốt cuộc đời của Beethoven, bản sonate ánh trăng là 1 bản nhạc
viết cho đàn dương cầm nổi tiếng nhất của ông, giá trị của nó thể hiện bởi sự tự
do trong sáng tác và những cảm xúc kì diệu đầy lãng mạn.
Romance de a'amour
Bản Romance này là một bản nhạc (hay một làn điệu) dân ca Tây
Ban Nha không biết do ai sáng tác và từ bao giờ. Narciso Yepes là người đã có
công chuyển soạn và chơi bản nhạc này cho nó trở nên nổi tiếng. Số là ông soạn
và chơi bản này cho bộ phim “Les Jeux Interdits” (Trò Cấm - ND) cũng đặc biệt nổi
tiếng của một đạo diễn người Pháp. “Les Jeux Interdits” được trình chiếu rộng
rãi từ năm 1952. Từ đó trở đi, bản tình ca này đã trở thành một bản tình ca bất
hủ cho những người học chơi âm nhạc cổ điển với cây guitar.
Hành khúc Thổ Nhĩ Kỳ (Turkish March)
Năm 1778, nhà soạn nhạc thiên tài Mozart viết lên bản giao hưởng
"Turkish march" để ca ngợi tinh thần, lòng dũng cảm của những chiến
binh Thổ Nhĩ Kỳ.
Giao hưởng số 40 (Mozart)
Giao hưởng số 40 cung Sol thứ (KV. 550) là tác phẩm của
Wolfgang Amadeus Mozart được sáng tác năm 1788.
Ánh sáng rực rỡ của thời kỳ Cổ điển, việc sáng tác thách thức
các nhạc sĩ thể hiện hiệu quả tối đa, chính là những tác phẩm giao hưởng. Một
trong những viên ngọc ấy là bản symphony của Mozart, tác phẩm số 40 cung Sol thứ,
K.550. Symphony này được viết vào mùa hè năm 1788, lúc Mozart ba mươi hai tuổi,
chỉ trong vòng sáu tuần lễ, ông đã viết xong ba bản symphony. Và bản Symphony số
40 này đã là một trong những 3 tác phẩm viết về thể loại này nổi tiếng nhất,
hoàn hảo nhất của ông
Ông bố trí nhạc cụ cho tác phẩm Symphony số 40 này với khối
đàn dây tiêu biểu bao gồm violin, viola và cello, cộng thêm kép đôi contrabass
(nghĩa là Đại Hồ cầm có nét nhạc giống với Hồ cầm, nhưng thấp hơn một quãng
tám). Khối kèn gỗ sử dụng hai flute, hai kèn oboe và hai kèn bassoon.
Khối kèn đồng chỉ có hai french horn, và bộ gõ gồm hai bộ
timpani. Không có trumpet hoặc trombone. (Mozart sử dụng kèn trombone trong các
opera, nhưng không bao giờ dùng trong symphony). Cũng không có clarinet trong tổng
phổ nguyên bản, về sau Mozart mới thêm vào.
Những symphony vào thời Mozart thông thường bao gồm những ba
hoặc bốn chuyển hành. Chuyển hành thứ nhất, thường được ghi allegro, được trình
tấu ở tốc độ nhanh, mãnh liệt và kịch tính. Chuyển hành này luôn luôn xuất hiện
trong bản sonate, đôi khi có một đoạn intro ngắn.
Chuyển hành thứ nhì thường là một chuyển hành chậm, và có thể
là đoạn diễn cảm trong thể loại sonata, thể loại rondo, hoặc thể loại chủ đề và
biến tấu.
Chuyển hành thứ ba tiêu biểu là một minuet và trio, chơi
trong tính cách duyên dáng theo nhịp ba. Đôi khi, chuyển hành này bị bỏ đi, để
vào chuyển hành tiếp theo.
Chuyển hành kết thúc thông thường luôn có mặt trong thể loại
sonate, nhưng cũng có thể được viết theo thể loại rondo hoặc thể loại chủ đề và
biến tấu. Nó thường được chơi rất mãnh liệt, đôi khi có tính cách hài hước, và
nhất là bằng một tốc độ nhanh.
Bài Serenade của Schubert, được biểu diễn bởi violin và
piano.
Dạ khúc (Serenade) là một thể loại ca khúc để hát vào buổi tối,
đặc biệt cho giọng nữ. Ở phương Tây thể loại ca khúc này gọi là
"Serenade" và nó rất được nhiều nhạc sĩ ưa chuộng, sáng tác... cho
nên Dạ khúc không chỉ riêng một tác phẩm riêng biệt của một nhạc sĩ nào cả. Nhiều
nhạc sĩ đã sáng tác trên chủ đề này, nhưng có lẽ được biết đến và ưa chuộng nhiều
nhất cho mãi đến ngày hôm nay vẫn là Serenade của nhạc sĩ thiên tài người Áo
Franz Schubert.
Bài Dạ Khúc bất hủ mà Franz Schubert sáng tác là để tặng sinh
nhật cho một thiếu nữ mà ông thầm yêu trộm nhớ. Ở châu Âu ngay từ thời trung cổ
các chàng trai thường có lối tỏ tình bằng cách mượn âm nhạc, ban đêm đến đứng
dưới cửa lầu "người đẹp" tự thể hiện bằng tiếng đàn và giọng hát của
chính mình. Những bài nhạc lãng mạn này gọi là "serenade". Serenade
thời Trung cổ và Phục hưng được biểu diễn không theo một hình thức đặc biệt
nào, ngoại trừ nó được một người hát tự đệm bằng nhạc cụ có thể mang theo được
(guitar, mandolin...).
Để làm cho nàng bất ngờ, Schubert nhờ một bạn thân là ca sỹ,
trình bày ngay dưới cửa sổ nhà nàng. Tối đó, người ta bí mật khiêng cây đàn
piano vào trong vườn, tất cả đã sẵn sàng cho buổi biểu diễn lãng mạn và độc
đáo. Thế nhưng, Schubert lại quên không đến. Trớ trêu thay, cô gái lại đem lòng
yêu chính chàng ca sĩ, chứ không dành trái tim cho Schubert.
Những lời nỉ non, thổn thức của ca từ quyện với một giai điệu
lãng mạn, quyến rũ, bản Dạ khúc Schubert là một thông điệp tình yêu chuyển tải
bẳng âm nhạc tuyệt vời, một bài lied hoàn hảo cho kẻ tỏ tình trong đêm.
Nhưng hơn thế, nhạc phẩm "Dạ khúc" của Schubert là
một bức tranh toàn bích, sâu lắng... mang dáng dấp hơi thở không chỉ của thời đại
ông mà của muôn mọi thời đại. Nhạc sỹ thiên tài đã nói lên tiếng lòng mình
trong thời khắc đêm về, ngoài niềm khắc khoải thường tình về tình yêu đôi lứa,
còn như thân phận con người nhỏ nhoi đầy bất trắc trước mênh mông vũ trụ. Bài
nhạc có giai điệu rất đẹp, trữ tình, lai láng nhưng không trầm mặc, buồn nhưng
vẫn phảng phất đâu đó niềm hy vọng và hoài bão hướng thiện (tác dụng bởi việc
chuyển cung từ thứ sang trưởng ở đoạn kết). Schubert như nói lên tiếng lòng của
muôn người, muôn thế hệ ...
The Blue Danube - Johann Strauss
Thời gian đó, ở thành Vienne, người ta nhảy waltz, một dòng
xoáy âm nhạc thực sự làm cho 50.000 người phải xoay tròn như gió lốc trong các
gian phòng lớn sáng rực. Kinh thành Vienne bị mê hoặc bởi dòng nhạc waltz của
gia đình Strauss.
Johann Strauss, người con trai đầu, niềm vinh quang của cả
gia đình là một nhà soạn nhạc kiệt xuất. Ông đã phát triển và làm cho nhạc
Waltz phong phú lên rất nhiều. Chính nhờ ông mà người ta được thưởng thức bản ”The Blue Danube“ (Sông Đanuyp xanh) nổi tiếng nhất thành Vienne.
Một trăm năm sau khi ông qua đời (3/6/1899), thành phố Vienne
quê hương của ông đã trọng thể tôn vinh nhạc sĩ bậc thầy mà điệu Waltz ”The
Blue Danube” của ông đã trở thành bản quốc thiều không chính thức của nước Áo.
(Sông Danube - đoạn chảy qua thủ đô Budapest - Hungary)
Polonaise - Tình yêu và nỗi nhớ nhung xứ sở!
Đó là một cảm giác mênh mang và trống trải trong tâm hồn khi
nhớ về Tổ quốc tươi đẹp đã vĩnh viễn mất đi mà không bao giờ có thể quay về nữa.
Yêu thương, nhớ và nỗi buồn cứ như thế thấm vào tận sâu trong trái tim. Có thể
cảm thấy mùi hương của tuyết lạnh xứ Ba Lan, cho đến tận khi tan ra chào màu
xanh của mùa xuân tới.
Em cũng thích bản Polonaise nữa nhưng lâu quá không được nghe
lại, nếu bác có bản này bác up lên giúp bác nhé. Cảm ơn bác!
Tặng bác Alias:
Polonaise - Tình yêu và nỗi nhớ nhung xứ sở!
Đó là một cảm giác mênh mang và trống trải trong tâm hồn khi
nhớ về Tổ quốc tươi đẹp đã vĩnh viễn mất đi mà không bao giờ có thể quay về nữa.
Yêu thương, nhớ và nỗi buồn cứ như thế thấm vào tận sâu trong trái tim. Có thể
cảm thấy mùi hương của tuyết lạnh xứ Ba Lan, cho đến tận khi tan ra chào màu
xanh của mùa xuân tới.
Tác phẩm: Polonaise Op.13 in A minor
Tác giả: Michał Kleofas Ogiński
Đã rất lâu rồi, ở đất nước Ba Lan xa xôi có một nhà soạn nhạc
tài năng, yêu nước và đam mê hoạt động cách mạng. Đó là Michał Kleofas Ogiński
(1765-1833). Cậu bé Ogiński sinh ra trong một gia đình quý tộc ở gần Warsaw, thủ
đô của Ba Lan.
Lớn lên, Ogiński tham gia hoạt động chính trị, tham gia vào
nghị viện để tiếp nối truyền thống gia đình. Mặc dù được học nhạc lý, được dạy
chơi piano và violin từ nhỏ nhưng âm nhạc với Ogiński không phải là sự nghiệp
suốt đời
Tuy không có một sự nghiệp âm nhạc đồ sộ, nhưng Ogiński đã
góp nhiều công sức vào sự phát triển của nền âm nhạc Ba Lan thế kỷ 19. Các bản
polonaise của ông tạo ảnh hưởng lớn đến những tác phẩm trong thời kỳ đầu sáng
tác của Chopin.
Ogiński đã sáng tác rất nhiều polonaise cho cây đàn piano,
chơi solo, hai tay, ba tay hay thậm chí bốn tay, những tác phẩm đã nổi tiếng
trên khắp các thủ đô Châu Âu như Lwow, Warsaw, Berlin, Vienna, Dresden, Prague,
Paris, hay London sương mù. Năm 1823, Ogiński viết bản Polonaise nổi tiếng nhất
của ông – Polonaise số 13 cung La thứ. Pożegnanie Ojczyzny - Tạm biệt quê
hương.
Polonaise là tên gọi của một vũ khúc cổ của người Ba Lan xuất
phát từ thế kỉ 16. Những nhạc sĩ tên tuổi như Bach, Handel, Beethoven đều đã
sáng tác các tác phẩm kinh điển thể loại polonaise. Những bản polonaise đầu
tiên được chơi ở nhịp 3/4, với tốc độ vừa phải và sáng tác cho nhạc cụ.
Cuốn hút và chinh phục người nghe, điệu nhảy đã nhanh chóng
được phổ biến rộng rãi ở châu Âu vào thế kỷ 18. Polonaise vang lên trong sáng
tác của nhiều nhạc sĩ nổi tiếng thời kỳ bấy giờ như Couperin, Handel, J.S.Bach,
W.F.Bach… và muộn hơn trong âm nhạc của L.v.Beethoven, F.Schubert, M.I.Glinca,
P.I.Tchaikovsky…
Đó là một cảm giác mênh mang và trống trải trong tâm hồn khi
nhớ về Tổ quốc tươi đẹp đã vĩnh viễn mất đi mà không bao giờ có thể quay về nữa.
Yêu thương, nhớ và nỗi buồn cứ như thế thấm vào tận sâu trong trái tim. Có thể
cảm thấy mùi hương của tuyết lạnh xứ Ba Lan, cho đến tận khi tan ra chào màu
xanh của mùa xuân tới.
Đã rất lâu rồi, ở đất nước Ba Lan xa xôi có một nhà soạn nhạc
tài năng, yêu nước và đam mê hoạt động cách mạng. Đó là Michał Kleofas Ogiński
(1765-1833). Cậu bé Ogiński sinh ra trong một gia đình quý tộc ở gần Warsaw, thủ
đô của Ba Lan.
Lớn lên, Ogiński tham gia hoạt động chính trị, tham gia vào
nghị viện để tiếp nối truyền thống gia đình. Mặc dù được học nhạc lý, được dạy
chơi piano và violin từ nhỏ nhưng âm nhạc với Ogiński không phải là sự nghiệp
suốt đời
Tuy không có một sự nghiệp âm nhạc đồ sộ, nhưng Ogiński đã
góp nhiều công sức vào sự phát triển của nền âm nhạc Ba Lan thế kỷ 19. Các bản
polonaise của ông tạo ảnh hưởng lớn đến những tác phẩm trong thời kỳ đầu sáng
tác của Chopin.
Ogiński đã sáng tác rất nhiều polonaise cho cây đàn piano,
chơi solo, hai tay, ba tay hay thậm chí bốn tay, những tác phẩm đã nổi tiếng
trên khắp các thủ đô Châu Âu như Lwow, Warsaw, Berlin, Vienna, Dresden, Prague,
Paris, hay London sương mù. Năm 1823, Ogiński viết bản Polonaise nổi tiếng nhất
của ông – Polonaise số 13 cung La thứ. Pożegnanie Ojczyzny - Tạm biệt quê
hương.
Polonaise là tên gọi của một vũ khúc cổ của người Ba Lan xuất
phát từ thế kỉ 16. Những nhạc sĩ tên tuổi như Bach, Handel, Beethoven đều đã
sáng tác các tác phẩm kinh điển thể loại polonaise. Những bản polonaise đầu
tiên được chơi ở nhịp 3/4, với tốc độ vừa phải và sáng tác cho nhạc cụ.
Cuốn hút và chinh phục người nghe, điệu nhảy đã nhanh chóng
được phổ biến rộng rãi ở châu Âu vào thế kỷ 18. Polonaise vang lên trong sáng
tác của nhiều nhạc sĩ nổi tiếng thời kỳ bấy giờ như Couperin, Handel, J.S.Bach,
W.F.Bach… và muộn hơn trong âm nhạc của L.v.Beethoven, F.Schubert, M.I.Glinca,
P.I.Tchaikovsky…
Những năm cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19 khi Ogiński sinh ra
và lớn lên, vương quốc Ba Lan luôn ở trong tình trạng bị những thế lực ngoại
bang Nga, Phổ, Áo tranh giành, xâu xé và người Ba Lan mất Tổ quốc, mất tự do
ngay trên đất nước mình. Ngay từ khi còn rất trẻ, Ogiński đã mong muốn dành phần
lớn cuộc đời mình để tham gia tham gia các phong trào Cách mạng cũng như đấu
tranh chính trị nhằm khôi phục lại chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc.
Sa hoàng đã hứa hẹn rất nhiều với Ogiński, nhưng rốt cục sau
Đại hội Vienna (Áo) năm 1815, Ogiński đã nhận ra Sa hoàng phản bội lại lòng tin
của ông và người dân Ba Lan không thể giành lại được Tổ quốc của mình.
Đó là một cảm giác mênh mang và trống trải trong tâm hồn khi
nhớ về Tổ quốc tươi đẹp đã vĩnh viễn mất đi mà không bao giờ có thể quay về nữa.
Yêu thương, nhớ và nỗi buồn cứ như thế thấm vào tận sâu trong trái tim ông. Có
thể cảm thấy mùi hương của tuyết lạnh xứ Ba Lan, cho đến tận khi tan ra chào
màu xanh của mùa xuân tới.
Tất cả vẻ đẹp dịu dàng mà đau nhói đó cứ vương vấn mãi trong
những nốt nhạc, trong kí ức của nhà soạn nhạc. Người nghệ sĩ tâm hồn vốn lang bạt,
nhưng tận sâu thẳm trong tim, nỗi buồn lớn nhất có lẽ là không có nơi để trở về.
Nỗi nhớ thương trong Polonaise khiến người nghe như cảm nhận
được cả tuyết lạnh của xứ sở Ba Lan
Tác phẩm mở đầu bằng một điệu la thứ buồn với tiếng đàn
violin da diết gặm nhấm tâm hồn của một trái tim yêu nước thiết tha, và khi nỗi
đau lên đến đỉnh điểm thì nó được vỡ oà ở điệp khúc với một loạt tiết tấu mạnh
mẽ.
Polonaise do dàn nhạc biểu diễn thì thường được bắt đầu với một
giai điệu dịu dàng, do dàn dây thể hiện kết hợp với kèn gỗ, điểm xuyết những âm
thanh trong trẻo của kẻng ba góc (triangle). Ở đoạn giữa của tác phẩm xuất hiện
âm hình đặc trưng của polonaise làm sinh động cho bản nhạc.
Polonaise đã nhanh chóng lan tràn sang khắp các quốc gia Châu
Âu bằng các bản copy tổng phổ, các bản thu âm và rất nhiều chuyển soạn. Cho đến
nay, đã có hơn 20 tác phẩm chuyển soạn cho piano, cho dàn nhạc hay hòa nhạc
thính phòng, cho viola, sáo flute solo, guitar solo, flute và cây đàn piano, 2
violin và bộ đàn mandolin, cello và piano, violin và piano... và rất nhiều tác
phẩm thanh nhạc khác.
Người ta không thể tìm thấy bản viết tay của nhà soạn nhạc. Bản
in đầu tiên xuất hiện vào năm 1931 (một năm trước khi Ogiński mất) cùng với một
cảnh trong vở diễn Cuộc nổi dậy tháng 11 chống lại nước Nga sa hoàng cùng năm
đó. Bản nhạc không khó chơi, đòi hỏi mức độ kỹ thuật trung bình nhưng lại rất
khó để thể hiện đúng cảm xúc, khơi gợi được nhịp điệu và hơi thở của điệu nhảy
polonaise
Ogiński luôn coi bản thân mình là trước hết là một nhà cách mạng,
sau đó mới là một nhà soạn nhạc. Đấu tranh vì đất nước Ba Lan xinh đẹp là cuộc
đời của ông. Âm nhạc là hơi thở và niềm vui của ông, Polonaise cung La thứ đã
trở thành tác phẩm nổi tiếng và được yêu mến trên khắp những miền đất Slavơ cho
đến tận ngày nay.
Bản nhạc: IN A PERSIAN MARKET (Phiên chợ Ba Tư)
Tác giả: Albert William Ketèlbey
“In a Persian market”, được sáng tác năm 1920, là một trong số
những tác phẩm nổi tiếng nhất của Ketèlbey. Theo nhà phê bình Anh Ralph Hill, một
người rất sành về âm nhạc Ba Tư, đây là tác phẩm về Ba Tư hay nhất được viết ra
bên ngoài vùng đất này với một mối quan tâm lớn đến màu sắc phối khí.
Màu sắc phối khí phong phú là một đặc trưng lớn trong nhiều
sáng tác của Ketèlbey. Có họa sĩ vẽ cover cho tác phẩm của ông đã hóm hỉnh mô tả
chính nhà soạn nhạc như một phù thủy đang pha chế một hỗn hợp âm điệu trong một
cái vạc lớn.
Ketèlbey đã pha màu và vẽ ra loạt 9 bức tranh liên hoàn miêu
tả cảnh tượng một phiên chợ Ba Tư cổ xưa trong “In a Persian market”:
Cảnh 1: Những người đánh lạc đà đang tới chợ
Cảnh 2: Những kẻ hành khất đang cầu xin bố thí
Cảnh 3: Sự xuất hiện của nàng công chúa xinh đẹp
Cảnh 4: Những người làm trò tung hứng trong chợ
Cảnh 5: Những người làm trò dụ rắn trong chợ
Cảnh 7: Những kẻ hành khất lại lên tiếng cầu xin
Cảnh 8: Những người đánh lạc đà tiếp tục lên đường
Cảnh 9: Chợ trở nên vắng vẻ, hoang vu
Lắng nghe bản nhạc “In a Persian market”, chắc chắn bạn không
thể không mỉm cười khi nhận ra mình đang lạc vào một thế giới cổ tích diệu kỳ.
Như thể bạn đang có mặt tại phiên chợ cổ xưa và tận mắt chứng
kiến những cảnh tượng vô cùng sống động - những cảnh tượng mà có lẽ trước đây bạn
đã từng hình dung khi nghe những câu chuyện cuốn hút mê hồn của nàng
Scheherazade trong “Ngàn lẻ một đêm”.
(sưu tầm)
Romance de a'amour
Bản Romance này là một bản nhạc (hay một làn điệu) dân ca Tây
Ba Nha không biết do ai sáng tác và từ bao giờ. Narciso Yepes là người đã có
công chuyển soạn và chơi bản nhạc này cho nó trở nên nổi tiếng. Số là ông soạn
và chơi bản này cho bộ phim “Les Jeux Interdits” (Trò Cấm - ND) cũng đặc biệt nổi
tiếng của một đạo diễn người Pháp. “Les Jeux Interdits” được trình chiếu rộng
rãi từ năm 1952. Từ đó trở đi, bản tình ca này đã trở thành một bản tình ca bất
hủ cho những người học chơi âm nhạc cổ điển với cây guitar.
Nhạc thính phòng rất kén khán thính giả.
Mình rất thích bài nhạc này vì hồi nhỏ cũng mày mò học gãy
classic nhưng chỉ mần được nửa bài thôi!.
Đây là bản hòa tấu:
Edvard Grieg, nhà soạn nhạc dân tộc Na Uy
TIỂU SỬ
Được sinh vào 15 tháng 7 năm 1843 ở Bergen, Na Uy. Grieg được
nuôi lớn trong một gia đình âm nhạc. Mẹ ông, Gesine chính là người thầy piano đầu
tiên của ông, bà bắt đầu dạy ông vào năm 6 tuổi. Vào mùa hè năm 1858, Grieg gặp
nghệ sĩ violin nổi tiếng người Na Uy tên Ole Bull. Bull chú ý tài năng của cậu
bé 15 tuổi và thuyết phục gia đình đưa cậu bé đến viện âm nhạc Leipzig để phát
triển tài năng.
Grieg được vào viện âm nhạc, và ông học chuyên về piano,
trong thời gian đó ông cũng được thưởng thức vô số buổi diễn ở Leipzig. Ông
không thích kỷ luật của nhạc viện, tuy nhiên ông vẫn đạt điểm cao ở mọi môn trừ
organ ra.
Grieg nổi danh là một nhà soạn nhạc dân tộc chủ nghĩa, ông lấy
cảm hứng từ dân ca Na Uy. Những tác phẩm đầu tay gồm một giao hưởng (sau này
ông bỏ nó đi) và một piano sonata. Ông còn viết 3 sonata cho violin và piano và
một sonata cho cello. Ông viết nhiều tiều phẩm cho piano dựa trên giai điệu và
vũ điệu Na Uy đến nổi nhiều người gọi ông là Chopin của miền Bắc.
Bản concerto cho piano là tác phẩm nổi tiếng nhất của ông. Một
trong những người chơi thành công nhất là Percy Greinger, ông vừa là nghệ sĩ
piano vừa là nhà soạn nhạc, và ông cũng là một người bạn của Grieg. Greinger
thường chơi bản piano concerto này trong suốt sự nghiệp biểu diễn của mình. Một
phần của tác phẩm được soạn lại để làm biểu tượng cho một chương trình hài trên
TV vào năm 1971 Morecambe and Wise Show, được biễu diễn bởi Andre Previn.
Những tác phẩm Lyric pieces cho piano cũng rất nổi tiếng, như
là nhạc nền cho vở kịch Peer Gynt của Henrik Ibsen. Vào năm 1874 trong một lá
thư gửi cho bạn mình là Frants Beyer, Grieg bày tỏ nổi buồn với bản nhạc nổi tiếng
trong Peer Gynt của ông, In the Hall of the Mountain King. "I have also
written something for the scene in the hall of the mountain King - something
that I literally can't bear listening to because it absolutely reeks of
cow-dung, exaggerated Norwegian nationalism, and trollish self-satisfaction!
But I have a hunch that the irony will be discernible.”
Tổ khúc Holberg (Holberg Suite) nổi tiếng của Grieg đầu tiên
được viết cho piano, sau này được soạn lại cho dàn dây (string orchestra) bởi
chính tác giả.
Grieg viết nhiều bài hát, lời được ông lấy từ những bài thơ của
Heinrich Heine, Johann Wolfgang von Goethe và nhiều người khác.
Edvard Greig qua đời vào mùa thu năm 1907 sau một thời gian ốm
kéo dài. Đám tang của ông có hàng nghìn người hâm mộ tham dự. Mộ của Grieg và vợ
ông được đặt tại một ngọn núi ở gần ngôi nhà của ông ở Troldhaugen.
Sưu tầm
Bác đã search youtube của Wilddaisy con, chơi khá tốt, đặc biệt
là bản "A comme amour.mov".
Hãy thưởng thức tài nghệ của con gái thành viên
Lavender nhé.
LẴNG QUẢ THÔNG VÀ KHÚC HÁT CỦA NÀNG SOLVEIG
Nếu bạn đã từng đọc thiên truyện nổi tiếng “Lẵng quả thông” của
nhà văn Nga Konstantin Paustovsky, hẳn bạn không thể quên được nhân vật nhà soạn
nhạc Edvard Grieg và bản nhạc tuyệt vời mà ông viết tặng Đanhi, cô con gái một
người gác rừng, nhân dịp cô tròn 18 tuổi.
“Bản nhạc đã không còn ca hát. Nó đang kêu gọi. Nó kêu gọi
con người hãy đi theo nó đến một xứ sở, nơi không đau khổ nào có thể làm nguội
lạnh tình yêu, nơi không có ai giành giật hạnh phúc kẻ khác, nơi mặt trời sáng
chói như vòng triều thiên trên đầu một nàng tiên trong cổ tích.”
(Trích “Lẵng quả thông”)
Có thể bạn đã thấy ghen tị với cô gái Đanhi may mắn ấy. Nhưng
đó chỉ là một nhân vật hư cấu của Paustovsky trong khi chính bạn cũng có thể hưởng
niềm hạnh phúc giống như Đanhi khi bạn được nghe âm nhạc của nhà soạn nhạc người
Na Uy Edvard Grieg (1843 – 1907).
Hồi nhỏ bạn đã từng nghe “Khúc hát của nàng Solveig” nhưng
không để ý đến tác giả của bản nhạc ư? Thế thì bạn cũng giống như Đanhi vì được
làm quen với Grieg mà không hề hay biết: “Vậy ra đó chính là bác ấy. Chính cái
ông già đã giúp cô bé Đanhi mang lẵng quả thông về đến tận nhà. Đó là Edvard
Grieg, người làm ra phép lạ và nhạc sĩ vĩ đại.”
Solveig nguyên là một vai nữ chính trong vở kịch thơ Peer
Gynt của nhà viết kịch nổi tiếng người Na Uy Henrik Ibsen. “Khúc hát của nàng
Solveig” được vang lên trước đông đảo công chúng lần đầu tiên vào ngày
24/2/1876. Đó cũng chính là ngày công chúng Christiania (nay là Oslo), Na Uy
háo hức đi xem buổi công diễn lần đầu vở kịch mà trước đó 9 năm đã bán rất chạy
dưới dạng bản in ở Copenhagen, Đan Mạch.
Cảm giác khi đọc một vở kịch trên văn bản và khi xem vở kịch
đó được diễn trên sân khấu thật khác biệt. Với Peer Gynt, sự khác biệt này lại
càng rõ rệt vì phần nhạc nền viết cho vở kịch là do Edvard Grieg đảm nhiệm.
Bộ nhạc nền cho Peer Gynt gồm 23 tiết mục (cả khí nhạc và
thanh nhạc)với tổng thời lượng xấp xỉ 90 phút. Tất nhiên phần lời của những tiết
mục thanh nhạc là do Ibsen viết. Đó là những tiết mục âm nhạc tuyệt vời, đóng
góp một phần không nhỏ vào thành công cho buổi diễn. Và từ sân khấu kịch nói Na
Uy, Nhạc nền cho Peer Gynt đã có một đời sống riêng trên sân khấu hòa nhạc thế
giới dưới hình thức tổ khúc (suite).
Tổ khúc là một bộ các tác phẩm khí nhạc được sắp xếp theo thứ
tự nhằm để biểu diễn riêng một mạch. Đến thế kỉ 19, tổ khúc có thể là một bộ
tuyển chọn cho dàn nhạc từ một tác phẩm lớn như ballet, opera hay nhạc nền cho
kịch nói như trường hợp Peer Gynt.
Hai Tổ khúc “Peer Gynt” (số 1 Opus 46 và số 2 Opus 55), được
Grieg rút ra từ phần nhạc nền cho Peer Gynt, đã trở nên nổi tiếng với vai trò
là những tác phẩm hòa nhạc độc lập. Mỗi Tổ khúc “Peer Gynt” gồm có 4 khúc nhạc
với tên gọi cụ thể. Khúc nhạc thứ tư của Tổ khúc Peer Gynt số 2 chính là bản nhạc
“Khúc hát của nàng Solveig”.
“Khúc hát của nàng Solveig” trong phần nhạc nền Peer Gynt là
bài hát cho giọng nữ do Grieg phổ lời thơ Ibsen (tương tự như tiết mục cuối
cùng là “Bài hát ru của Solveig”). Đó là bài ca về lòng thủy chung, về niềm hi
vọng đoàn tụ bất chấp sự nghiệt ngã của thời gian và khoảng cách. Nhưng trong Tổ
khúc “Peer Gynt” số 2, giai điệu “Khúc hát của nàng Solveig” do violin đảm nhiệm
thay cho giọng hát dù đôi khi phiên bản thanh nhạc cũng được sử dụng.
“Khúc hát của nàng Solveig” có lẽ là bản nhạc nổi tiếng nhất
trong cả hai Tổ khúc "Peer Gynt". Nhưng bạn đừng dừng lại ở đó. Hãy
tìm nghe trọn vẹn cả hai tổ khúc này và những kiệt tác khác của Edvard Grieg
như Piano Concerto giọng La thứ, các Violin Sonata, Tổ khúc “Holberg”, tiểu phẩm
cho dàn nhạc “Mùa xuân cuối cùng”...
Lúc ấy bạn sẽ hiểu vì sao âm nhạc của Edvard Grieg không chỉ
được nhân dân Na Uy mà cả thế giới ngưỡng mộ. Bạn sẽ đồng tình với nhận xét của
nhà soạn nhạc Nga Tchaikovsky: “Âm nhạc của Grieg giàu chất thương cảm đắm đuối,
mang trong mình vẻ đẹp của thiên nhiên Na Uy, khi thì ảm đạm, khiêm nhường, khi
thì hùng vĩ, tráng lệ, có một sức quyến rũ không tả xiết, luôn tìm thấy trong mỗi
chúng ta một lời đáp đồng tình nồng nhiệt”.
Ngọc Anh (nhaccodien.info)
Mời các bạn thưởng thức Solveig Song qua giọng hát của ca sĩ
trẻ Andre Rieu:
Piano Concerto No 21 in C, K. 467(W.A.Mozart)
"Canon in D Major" được viết vào khoảng năm 1680,
ban đầu soạn riêng cho violin và bass, nhưng hiện nay thì nó đã được chơi ở nhiều
thể loại khác nhau, nào là guitar điện, rồi thể hiện chỉ qua thanh nhạc bằng
phong cách accappella, cho đến trình diễn bằng các nhạc cụ dân gian Trung Quốc…v.v…
Dù chơi với nhạc cụ gì, phong cách nào, thì mỗi lần nghe “Canon”, chắc chắn bạn
sẽ đều cảm thấy dễ chịu và thoải mái vô cùng.
Các bác có thể gặp Canon in D ở rất nhiều phim và các bài hát
hiện đại ngày nay. Từ My sassy girl đến Công chúa bong bóng, Hòn đá cô đơn...
và cả Canon in D rock nữa.
Bonus thêm bản Canon in D chơi bằng Guitar điện...
... và violin điện:
Fledermaus Op. 56 của Strauss, được thể hiện qua ngón đàn với
kỹ thuật siêu việt của Lang Lang: tiếng piano mang âm hưởng cả một dàn nhạc
giao hưởng.
So sánh với thần đồng Evgeny Kissin chơi Fledermaus: "sạch"
hơn Lang Lang nhưng không quyến rũ bằng:
Nghệ sĩ violin Ben Lee đã chơi bản "Flight of the
Bumblebee" của nhà soạn nhạc Nikolai Rimsky-Korsakov trong vòng 58,515
giây, anh được coi là người chơi violin nhanh nhất thế giới.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét