Bộ ba Trang Thế Hy - Nguyên Ngọc
Mấy năm gần đây, hai nhà văn già Trang Thế Hy - Nguyên Ngọc
thường hò hẹn mỗi năm có một ngày ngồi với nhau để uống ly rượu hội ngộ. Năm
nay, một ngày hè, con đường đất vào nhà ông Trang Thế Hy hoa mua tím như dày
hơn. Cuộc gặp gỡ giữa hai nhà văn già chỉ xoay quanh chuyện - tình - yêu - văn
- chương - chữ - nghĩa. Câu chuyện của họ trở nên hào hứng khi cả hai đều “ham”
một người, người đó là cô gái trẻ: Nguyễn Ngọc Tư
Người tình của văn chương
Họ quen nhau đã vài mươi năm, còn biết nhau thì lâu hơn nữa. Ở
hai đầu đất nước, người này đọc của người kia một vài truyện ngắn, truyện vừa,
một vài bài thơ. Dường như rất khác nhau trong cuộc sống nhưng họ lại có nhiều
điểm tương đồng. Cả hai đều sống sâu đậm với kỷ niệm, có trí nhớ tuyệt vời,
cùng thuộc làu những bài thơ, những đoạn văn bằng tiếng Pháp từ thời tiểu học ở
trường Tây. Nguyên Ngọc lui cui dịch, cổ xúy cho Nghệ thuật viết tiểu thuyết của
Milan Kundera. Trang Thế Hy tìm đọc từ nguyên bản tiếng Pháp. Ông sửa một câu của
M.Kundera: “Trí nhớ là một vũ khí của người yếu chống lại cường quyền” thành
“Trí nhớ là một vũ khí của người yếu chống lại cái ác”. Khi tôi hỏi về việc
này, Nguyên Ngọc nói, đó chính là sự thâm thúy và nhân hậu phương Đông mà chỉ
Trang Thế Hy mới có. Cả hai cùng được tinh luyện về nhân cách và sáng tạo tại
các chiến trường ác liệt nhất trong những năm tháng chiến tranh, chống Pháp rồi
chống Mỹ. Trang Thế Hy hoạt động trong lòng địch, chịu đựng bom đạn ở vùng tam
giác sắt Củ Chi. Nguyên Ngọc - người lính chiến thực thụ tại khu 5 và Tây
Nguyên. Họ có cùng một tình yêu văn chương và trân trọng những tài năng trẻ. Chữ
nghĩa đối với họ là điều thiêng liêng. Kỹ lưỡng từng chữ một. Có thể cách thể
hiện tình yêu đó khác nhau.
Trong nhiều lần nói về nghề viết văn và tâm thế của nhà văn,
Trang Thế Hy tự gọi mình là “người tình thủy chung nhưng hờ hững của văn
chương”. Ông giải thích thêm rằng ông không đủ đam mê để đắm say theo đuổi người
tình ấy. Còn “hờ hững” - theo ông - “hàm chứa sự vương vấn, bịn rịn, lòng vẫn
biết không thể sống trọn vẹn với nhau nhưng không đành lòng dứt bỏ. Một tình
yêu không mãnh liệt nhưng đến chết vẫn còn yêu”. Và biết đâu, khi bước qua thế
giới khác, tình yêu đó vẫn vậy. Tôi trộm nghĩ, với ông, hờ hững là cách giữ cho
tình yêu văn chương vĩnh cửu mà thôi. “Còn Nguyên Ngọc đối với văn chương?” - tôi hỏi. Ông cười thật sảng khoái: “Là người tình thủy chung một cách sấn sổ.
Đôi lúc bị đẩy ra nhưng cứ liều mạng nhảy vào, thành tâm, da diết và hồn
nhiên”. Cứ thế, ông đang viết về những nếm trải của đời mình trong những khúc
quanh lịch sử. Cùng lúc, ông dịch và hiệu đính những cuốn sách quý giá khác mà
mình yêu thích: Nhẫn thạch của Atiq Rahimi, giải Goncourt 2008, đang chuẩn bị
in nối bản lần hai và Nhiệt đới buồn – Claude Lévi-Strauss. Sự sấn sổ của
Nguyên Ngọc là vậy đó. Ông đi nhiều hơn người trẻ, viết nhiều hơn người trẻ, cả
những bức xúc xã hội mà kẻ sĩ không thể làm thinh. Thời gian đối với ông không
ngừng lại. Ông bảo đó chính là cách thể dục đầu óc, làm chậm bớt sự già cỗi của
tâm hồn và trí tuệ. Nhà văn Trung Trung Đỉnh một lần nhận xét: “Đố ai tìm được
sự già nua và sự cũ kỹ trong văn chương cũng như cách sống của Nguyên Ngọc”.
Còn với Trang Thế Hy, ông hay mượn lời của nhà văn Nga Erenburg: “Học làm người
già là một khoa học đầy khó khăn” để nói về cách ứng xử của mình từ ngày “đi chỗ
khác chơi”. Ông vẫn đọc rất nhiều, vẫn dõi theo những người trẻ.
Có một câu hỏi chung hơi cũ dành cho hai người: “Khi ngồi trước
trang giấy trắng, ông nghĩ gì?”. Vẫn thế, theo cách rất Trang Thế Hy: “Cái gì
mình không yêu mến hay chưa kịp yêu mến thì đừng giả bộ yêu mến”. Mọi sự giả bộ
đối với Trang Thế Hy đều lố bịch. Còn Nguyên Ngọc, bao giờ cũng vậy, “quyết liệt
yêu, quyết liệt giữ lấy sự chân thành và giữ lấy tự do cho chính mình”.
Tôi bỗng nhớ lời của cựu tổng thống Pháp F. Mitterrand: Lang
bang phóng túng là bản chất của sự sáng tạo.
Nhà văn Trang Thế Hy đón mọi người trong căn chái bề ngang chừng
ba mét, chiều dài sáu mét vừa xây xong. Mùi sơn hãy còn. Đặt tay lên tường, sơn
dính trắng. Chỗ này khi trước là khoảng sân nhỏ, có cây xoài, dưới gốc lủng lẳng
những giò lan rừng… Có những giò lan trổ bông nhưng cũng có nhiều giò lan lưa
thưa lá. Cái chái nhà nhỏ lắm, xây theo kiểu nhà tiền chế, mái vòm lợp tôn chỉ
vừa đủ để bộ bàn nước bằng ximăng cẩn sành sứ của nhóm bạn Nguyễn Duy, Nguyễn
Trọng Chức chở từ Sài Gòn xuống tặng ông cách đây ít lâu. Tự trào về cái chái
nhà mới, Trang Thế Hy nói dõng dạc: “Há chẳng phải đời sống của ta được nâng
cao ngang tầm với sự phát triển kinh tế đất nước đó sao”. Nụ cười của ông khi
đó thật hóm hỉnh.
Ông mang bức chân dung do Nguyễn Trung vẽ, ông bảo vừa làm
xong cái khung và từ nay, có chỗ cho tấm tranh này. Ông nói với mọi người rằng
Nguyễn Trung không vẽ chân dung ông mà vẽ “nỗi buồn mang gương mặt Trang Thế
Hy”. Một nhận xét xác đáng và rất Trang Thế Hy. Ông thường luận giải về nỗi buồn.
Tôi nghe ông nói rất nhiều lần: viết văn trước hết là để tu thân, là đương đầu
với nỗi buồn, để giảm đau, vượt lên nỗi đau và tồn tại.
Giống như Trang Thế Hy, Nguyên Ngọc cũng được họa sĩ Đinh
Quang Tĩnh vẽ và post lên mạng một tấm chân dung. Hỏi về bức họa này, Nguyên Ngọc
nói: “Hồi tôi làm báo Văn Nghệ, Đinh Quang Tĩnh có vẽ nhiều chân dung tôi. Có một
số bức khá. Không hiểu vì sao anh ấy lại đưa ra bức mới này, bức kém nhất - không phải xấu hay đẹp trong bút pháp - mà vì hoàn toàn không có chút chất
Nguyên Ngọc nào cả. Hôm trưng bày, anh Văn Như Cương ngồi cạnh tôi cũng bảo thế.
Thôi cũng chẳng nên nhắc đến cuộc ấy làm gì”. “Thế chất Nguyên Ngọc là chất gì
vậy, thưa ông?” - Tôi hỏi. “Chất tinh túy và sang trọng của sự thô mộc một cách
tự do” - ông nói.
Dông dài chuyện Đông - Tây - kim - cổ, những câu thơ tình tuyệt
hảo của R. Tagore về tình yêu trong cuộc hò hẹn lần này của hai ông nhà văn già
rồi cũng nhường lại cho câu chuyện văn chương của những người trẻ. Ông Trang Thế
Hy kể, trước đây, ông và nhà văn Sơn Nam thường gặp nhau mỗi năm một lần vào những
ngày đầu năm. Câu chào bằng tiếng Pháp thường được hiểu là: Có gì mới? Có một
năm, ông Sơn Nam tự dưng trả lời ông dông dài: “Năm nay trong Nam có chuyện
nông dân biểu tình, ngoài Bắc có Nguyễn Huy Thiệp viết truyện ngắn hay”. Chột dạ,
ông sửa lại câu của Sơn Nam: “…Trong Nam trúng mùa, ngoài Bắc có Nguyễn Huy Thiệp
viết truyện ngắn hay”. Thời đó, ông Nguyên Ngọc là người dành tất cả những gì tốt
đẹp nhất cho văn chương của lớp Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài… Cả hai ông đọc
gần như không sót và nhớ kỹ giọng điệu từng truyện của mỗi người. “Còn với Nguyễn
Ngọc Tư?” - tôi hỏi. Được biết hai ông đọc khá kỹ từ tản văn, truyện ngắn đến
Cánh đồng bất tận, Gió lẻ của cô. Nguyên Ngọc là người mail truyện Gió lẻ cho mọi
người khi báo Sài Gòn Tiếp Thị chưa khởi đăng. Ông nói: “Gần đây, một số tạp
bút của Nguyễn Ngọc Tư có hơi chững lại, không còn giữ được nhiều sự thâm trầm
và sắc sảo như trước. Nhưng có lẽ cũng không sao, người ta viết lên xuống là
thường. Tôi vẫn tin Nguyễn Ngọc Tư. Cô ấy rất có bản lĩnh. Một trong những nét
bản lĩnh đó là cô luôn thấy văn chương của mình có vấn đề, luôn thấy cần thay đổi,
đồng thời vẫn là mình.
Gần đây, trong một bài viết, Tư đã nói rằng cô sợ mình “nhạt”
đi, một người viết biết được như thế là rất giỏi. Chắc Tư còn tự thay đổi, sẽ
khác đi, mà vẫn là Tư. Chỗ hay thứ hai của Tư (có lẽ gần giống Trang Thế Hy) là
cô ấy vừa coi văn chương là chuyện rất quan trọng, thậm chí có lẽ Tư là nhà văn
có chất chuyên nghiệp nhất hiện nay ở ta. Cô biết văn chương là chuyện trọng đại.
Nhưng đồng thời cô cũng biết, nói cho cùng ra, đó cũng không phải là chuyện
quan trọng nhất ở đời. Vừa là nghiệp, vừa là một trò chơi, vừa là cuộc đời, vừa
là giấc mộng. Có đó, mà cũng không có gì cả. Cũng đừng quan trọng hóa nó. Cô ấy
cũng có “cái chung thủy hờ hững” của Trang Thế Hy – người hiền của văn chương
Nam bộ. Nếu thêm một đặc điểm nữa của Tư: Tư là một nhà văn rất xã hội, nhưng
xã hội một cách rất văn học, rất nghệ sĩ. Không văn học “minh họa” hay “ám chỉ”
như kiểu đang tầm thường, nhạt phèo bây giờ. Chính vì vậy, qua những bức xúc thời
sự, Tư có cái tài biến nó thành cái nhân loại. Cánh đồng bất tận là một ví dụ đặc
sắc”.
Họ có cùng một tình yêu văn chương và trân trọng những tài năng trẻ. Chữ nghĩa đối với họ là điều thiêng liêng. Kỹ lưỡng từng chữ một.
Không khác với ý kiến của Nguyên Ngọc nói về Nguyễn Ngọc Tư,
Trang Thế Hy hay kể những câu chuyện, những quan sát trực diện của mình về Tư.
Ông bảo: “Con nhỏ đó tinh tế lắm. Nó dám nói rằng vì có một ông già trên 80 tuổi
hò hẹn với nó nên nó phải ba chân bốn cẳng chạy nhanh tới gặp vì nếu trễ hẹn
thì đâm ra thất thố”. Có một hôm, Tư đến thăm và ngủ lại nhà, đêm khuya, sợ Tư
mệt, ông hỏi “Nhỏ buồn ngủ chưa?” - Tư trả lời gọn hơ: “Chú chưa ngủ sao con
dám buồn ngủ được”. Đến hừng sáng, Tư tự quảy túi, len lén đi mà không chào từ
biệt vì sợ ảnh hưởng đến giấc ngủ của ông. Ông hay dùng từ “viết thấy ghê” để
chỉ những tạp bút sắc sảo và những truyện ngắn, truyện vừa có tầm khái quát cao
của Nguyễn Ngọc Tư. Từ Cánh đồng bất tận đến Gió lẻ, Trang Thế Hy đã xem Tư như
là người đồng thời, người chia sẻ được nỗi đau thân phận con người.
Trong câu chuyện bàn luận giữa hai nhà văn già và cô gái trẻ,
tôi xen vào hỏi một câu: “Vậy Nguyễn Ngọc Tư “ham” hai nhà văn già này hay ngược
lại?”. Đôi mắt sâu, tinh anh trên khuôn mặt nhăn nheo của Trang Thế Hy đang cười.
Ông bảo: “Dường như cả ba người chúng tôi: Trang Thế Hy - Nguyên Ngọc - Nguyễn
Ngọc Tư - đang “ham” nhau!”.
Tôi chưa gặp Tư để xác tín điều này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét